Thôi Bối Đồ | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 16 Oct 2024 04:32:22 +0000en-UShourly1Thôi Bối Đồ dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (2)https://chanhkien.org/2024/03/thoi-boi-do-du-ngon-ve-cai-chet-cua-giang-trach-dan-va-tham-canh-dich-benh-sau-do-2.htmlTue, 19 Mar 2024 03:56:08 +0000https://chanhkien.org/?p=32805Tác giả: Nhậm Tịnh Tư [ChanhKien.org] 3. Giả thuyết về hàm ý thật sự tên gọi “Thôi Bối Đồ” Liên quan đến lai lịch tên gọi của “Thôi Bối Đồ”, có truyền thuyết rằng Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương là người suy toán vận mệnh của Đại Đường, nhưng sau khi Lý Thuần […]

The post Thôi Bối Đồ dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhậm Tịnh Tư

[ChanhKien.org]

3. Giả thuyết về hàm ý thật sự tên gọi “Thôi Bối Đồ”

Liên quan đến lai lịch tên gọi của “Thôi Bối Đồ”, có truyền thuyết rằng Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương là người suy toán vận mệnh của Đại Đường, nhưng sau khi Lý Thuần Phong suy đoán ra được, bất ngờ là không thể thu hồi lại được nữa, liên tục suy tính đến hơn 1000 năm sau, cho đến khi Viên Thiên Cương đẩy vào sau lưng và nói rằng thiên cơ không thể tiết lộ, Lý Thuần Phong mới bỏ. Lời tiên tri này từ đó được đặt tên là “Thôi Bối Đồ” (thôi bối nghĩa là đẩy vào lưng).

Sự việc trong truyền thuyết này có thể tồn tại. Tuy nhiên, sự tích về tên gọi này không nhất định là hàm ý chân thực của Thôi Bối Đồ.

Trên thực tế, cả Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương đều là người tu luyện, trong Thôi Bối Đồ họ đã chọn dùng thời không quan (góc nhìn về thời không) tương đối phổ biến trong giới tu luyện và các dự ngôn, tức là lịch sử của con người trong quá khứ là sự lặp lại.

Tượng thứ 1 của Thôi Bối Đồ nói “Nhật nguyệt tuần hoàn, chu nhi phục thủy” (mặt trời và mặt trăng tuần hoàn, khi đi hết một vòng thì sẽ lặp lại); tượng thứ 61 nói “Nhất âm nhất dương, vô thủy vô chung; chung giả tự chung, thủy giả tự thủy” (một âm một dương, không đầu không cuối, kết thúc tự kết thúc, bắt đầu tự bắt đầu). “Nhật nguyệt” và “âm dương” ở đây đều tượng trưng cho lịch sử, ý nghĩa là lịch sử của con người đi hết một vòng thì sẽ lặp lại, lặp đi lặp lại nhiều lần.

Tượng thứ 1 của Thôi Bối Đồ nói “Ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại, thí ư đường hậu luận nguyên cơ”, là các nhà tiên tri đã ngộ được chân lý rằng lịch sử của con người là tuần hoàn lặp đi lặp lại, họ (sử dụng công năng của người tu luyện) cố gắng mô tả ra quá khứ của lịch sử (lịch sử thời tiền sử), từ đó suy luận ra tương lai của thời kỳ lịch sử sau triều đại nhà Đường – từ “bối” (tức là quá khứ) tính ra tương lai. Đây có thể là ý nghĩa chân thực tên gọi của Thôi Bối Đồ.

Điều này cũng tương đồng về thời không quan thể hiện trong những lời tiên tri lịch sử nổi tiếng khác của Trung Quốc. Ví như:

Khương Tử Nha trong “Càn khôn vạn niên ca” nói “Ngã kim chỉ toán vạn niên chung, Bác Phục tuần hoàn lý vô cùng”: Bác và Phục là hai quẻ trong kinh dịch. Trên Cấn dưới Khôn là quẻ Bác, biểu thị âm thịnh dương suy; trên Khôn dưới Cấn là quẻ Phục, biểu thị âm đạt cực điểm thì quay về dương. “Bác Phục tuần hoàn” để hình dung sự tuần hoàn liên tục của lịch sử;

“Mã tiền khóa” của Gia Cát Lượng nói “Tiền cổ hậu kim, kỳ đạo vô cùng”: lịch sử cổ đại, lại xuất hiện lặp lại vào thời hậu thế, là sự tuần hoàn lặp lại;

“Hoàng nghiệt thiền sư thi” có nói “Nhật nguyệt thôi thiên tự chuyển luân”: “nhật nguyệt” tượng trưng cho lịch sử, hình dung ra lịch sử giống như bánh xe, tuần hoàn lặp đi lặp lại; v.v..

Cũng là nói, trong tương lai được dự đoán bởi những nhà tiên tri này, một số (hay thậm chí là tất cả) họ có thể là nhìn thấy được quá khứ lịch sử.

Trong tiên tri “Kinh Thánh – Khải Huyền” của phương Tây cũng ngầm sử dụng thời không quan này, để miêu tả sự kiện “Đại tai nạn” xảy ra vào thời cuối của hai thời kỳ lịch sử cách nhau “1000 năm”.

Tác giả của “Kinh Thánh – Khải Huyền” đã mô tả về “Đại tai nạn” và “Thánh nhân cứu thế” vào cuối giai đoạn của thời kỳ lịch sử “1000 năm” trước, bao gồm cả Sa Tan bị Thần bắt trói ném xuống hố sâu không đáy, “để nó không còn đi mê hoặc lừa gạt các nước”. (1000 năm ở đây là chỉ 1000 năm trong thời không nơi Thần ở, đối với thời gian của con người mà nói thì vô cùng lâu dài).

Nhưng tác giả của “Kinh Thánh – Khải Huyền” mô tả giai đoạn lịch sử này của “1000 năm” sau, sau khi Sa Tan được thả ra, chỉ là tóm lược lại quá trình lịch sử lặp lại đó, tức là Sa Tan “mê hoặc các quốc gia bốn phương” v.v., sau đó miêu tả lại chi tiết hơn về những chương mới của thời kỳ lịch sử tiếp theo.

Trong chương mới của đoạn lịch sử này, Sa Tan sẽ bị Thần hủy diệt triệt để, “bị ném vào ngọn lửa lưu huỳnh”, “đến vĩnh viễn cũng không được ra”. Các học giả “Thánh kinh” gọi đây là “Trận quyết chiến cuối cùng”.

Cũng có nghĩa là, lịch sử của thời kỳ này không chỉ đơn giản là lặp lại, mà sẽ triển hiện ra những chương mới. Vậy tại sao trong lịch sử thời kỳ này sẽ xuất hiện những chương mới?

4. Biến số của lịch sử

Trên thực tế, rất nhiều lời tiên tri nổi tiếng của Trung Quốc và thế giới đều miêu tả rằng sẽ có một vị “Thánh nhân” xuất thế cứu vãn thế nhân trong “Đại tai nạn”, và mở ra một kỷ nguyên mới.

Ví dụ, trong những lời tiên tri lịch sử nổi tiếng ở Trung Quốc, như: “Thôi Bối Đồ”, “Mã tiền khóa” của Gia Cát Lượng, “Kim lăng tháp bi văn” và “Thiếu bính ca” của Lưu Bá Ôn, “Mai hoa thi” của Thiệu Ung, “Tàng đầu thi” của Lý Thuần Phong, “Cách am di lục” của Nam Sư Cổ v.v., tất cả đều từ các góc độ khác nhau để miêu tả “Thánh nhân cứu thế”.

Trong các lời dự ngôn Thần truyền trong lịch sử, dự ngôn “Ngũ công kinh” của Phật gia đã mô tả đến thời mạt kiếp (kết thúc) của giai đoạn lịch sử này là “37.700 năm”, “thời mạt kiếp sẽ đổi càn khôn”, Thánh nhân “Minh Vương” sẽ “cải hoán càn khôn” (thay đổi trời và đất); dự ngôn của Đào Gia “Thái thượng động uyên thần chú kinh” gọi sự kết thúc của giai đoạn lịch sử này là “Kiếp tận”, Thánh nhân “chân quân” sẽ “canh sinh thiên địa” (người quân tử chân chính sẽ làm mới mới trời đất); “Kinh Thánh – Khải Huyền” cũng đã chỉ ra rằng Sáng Thế Chủ “sẽ canh tân hết thảy”.

Cũng chính là nói, phần kết thúc của đoạn lịch sử này giống như “Trinh Hạ khởi nguyên” được miêu tả trong Thôi Bối Đồ, tức là sau đó, toàn bộ vũ trụ sẽ hoàn toàn đổi mới, lịch sử sẽ mở ra chương mới. Vì vậy, sự kết thúc của đoạn cuối cùng này không đơn giản là quá trình lặp lại lịch sử trước đó.

Không chỉ như vậy, tất cả những lời tiên tri có liên quan này đều mô tả kết quả thảm khốc của “Đại tai nạn” mang lại, cũng đồng thời đặt ra một điềm báo quan trọng để tránh thảm họa này: “Thánh nhân” sẽ cứu thế nhân khỏi nguy nan này, tất cả những người tin tưởng và người tốt cuối cùng sẽ được “Thánh nhân” cứu, từ đó bước vào một kỷ nguyên mới, và chỉ những kẻ không tin và những kẻ ác mới bị đào thải trong “Đại tai nạn”.

Ví như, “Thái thượng động uyên thần chú kinh” mô tả đến “Nam nữ hữu thụ tam động chi nhân, quỷ vương kính phụng, bất cảm phạm chi”, tức là người chấp nhận và tin tưởng Pháp mà Thánh nhân truyền dạy (Pháp “tam động”) dịch bệnh ma quỷ cũng không dám phạm; nhưng “thế nhân bất tín Đại Pháp, thị dĩ đa hữu tội nhân, tội nhân nhập địa ngục”, tức là những người không tin vào Pháp của Thánh nhân (nhà tiên tri gọi Pháp của Thánh nhân đó là “Đại Pháp”) thì sẽ bị đào thải.

Trong “Kim lăng tháp bi văn” của Lưu Bá Ôn cũng có mô tả tương tự: trong đại kiếp nạn, “Năng phùng mộc thỏ phương vị thọ” (có thể gặp thỏ gỗ sẽ thọ mạng), đó là những người chấp nhận và tin tưởng Thánh nhân “thỏ gỗ” mới có thể sống sót qua trận đại nạn này, còn “người gặp mãnh hổ khó tránh khỏi” (Nhân phùng mãnh hổ nan hồi tị).

Trong miêu tả của “Kinh Thánh – Khải Huyền”, những người không tin và người ác bị đào thải trong “Đại tai nạn” là chỉ những người “nhút nhát, không tín, đáng ghét, giết người, dâm loạn, hành tà thuật, sùng bái tôn thờ thần tượng (Sa Tan), và toàn nói dối lừa gạt”; những người được giải cứu là người thiện lương tin tưởng “Đạo của Thần”.

Nói cách khác, trong trận “Đại tai nạn” có tính hủy diệt này, lựa chọn của thế nhân có thể thay đổi được vận mệnh của mình và thậm chí thay đổi được quỹ đạo lịch sử.

Trên thực tế, nếu chúng ta so sánh những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử Trung Quốc với các lời dự ngôn lịch sử Trung Quốc, ta sẽ thấy rằng trước năm 2000, hầu như không có sự khác biệt bất thường nào giữa những sự kiện lịch sử Trung Quốc và các lời tiên tri lịch sử Trung Quốc. Nhưng mà, lịch sử bắt đầu từ năm 2000, một số tai nạn xảy ra đã có sự khác biệt lớn với những tai nạn thảm khốc trong dự ngôn với phát sinh trong thời kỳ “mạt kiếp”. Chẳng hạn như, dịch bệnh “SARS” năm 2003 không gây ra thiệt hại nặng nề “mười người chết ba bốn” cho Trung Quốc như trong lời tiên tri; lũ lụt sóng thần năm 2004 lại xảy ra ở Nam Á chứ không phải phát sinh ở Trung Quốc, xung đột quân sự được dự đoán ở Trung Quốc năm 2018 đã chuyển thành xung đột thương mại, từ đó có thể làm thay đổi nhân tố dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba hoặc thậm chí là sự kiện đó đã được miễn trừ; ngay cả dịch bệnh “viêm phổi ĐCSTQ” hiện nay, cũng không dẫn đến tình trạng bi thảm như trong mô tả “Ngũ công kinh” rằng “mạt đáo tử sửu niên (từ 2020 đến 2021), Bách trung vô nhất bán” (tức trong những năm tý sửu 2020-2021, 100 người thì không còn đến một nửa).

Cũng là nói, những thảm họa quy mô lớn sẽ xảy ra ở giai đoạn “mạt kiếp” trong dự ngôn lịch sử đã phát sinh biến số, đạt đến suy yếu hoặc bị loại bỏ.

Đồng thời, ngoài sự khác biệt về kết quả thì có một điểm tương đồng là: đúng là có “Đại Pháp” đang được truyền ở Trung Quốc. Hơn nữa, người chấp nhận và tin tưởng rất nhiều, phổ biến trên khắp cả Trung Quốc, hiện giờ đã được truyền rộng ra thế giới.

Dựa trên sự báo trước bởi tất cả các lời tiên tri trong lịch sử, sự thay đổi của những đại tai nạn thảm khốc này, đều là vì “Thánh nhân” đang trong thời kỳ mạt Pháp này mà truyền Pháp, những người tín Pháp ngày càng nhiều, dẫn đến một số sự kiện tai nạn trong lời tiên tri bị giảm đi hoặc tránh được. Hơn nữa, đây là nguyên nhân duy nhất có thể khiến cho biến số của “Đại tai nạn” trong lời tiên tri trở thành sự thật lịch sử.

Trên thực tế, nhìn vào các lời tiên tri trong lịch sử của Trung Quốc và nước ngoài, trung tâm sân khấu của phần cuối và cao trào của vở kịch lớn này không đâu khác, chính là Trung Quốc — Đây có thể là lý do tại sao những lời tiên tri nổi tiếng của tất cả các dân tộc quốc gia trong lịch sử nhân loại cuối cùng đều nhất loạt chỉ về một nơi là: phương Đông.

5. Kết luận

Từ những lời tiên tri trên thế giới, lịch sử con người dường như đã đi đến thời khắc quan trọng nhất — Kết cục của vở kịch lớn này sắp được hé lộ. Tuy nhiên, trong sự sắp xếp an bài của lịch sử quá khứ, kết cục của vở kịch lịch sử này vô cùng bi thảm và mang đến hối tiếc khắc cốt ghi tâm: Vì người đời bị “Sa Tan” trong “Kinh Thánh – Khải Huyền” hoặc “mãnh hổ” trong “Kim lăng tháp bi văn” mê hoặc mà trở nên không tin và còn làm điều ác, dẫn đến phải bị đào thải trong ”Đại tai nạn”, quá trình hủy diệt đạt tới mười không còn một.

Tuy nhiên, đồng thời với sắp xếp đại tai nạn và đại đào thải trong an bài của lịch sử, thì cũng đã an bài cách để tránh tai nạn và đào thải. Trong thời khắc kết thúc cuối cùng của vở kịch này, tất cả mọi sinh mệnh đều được trao cơ hội lựa chọn và quyết định vận mệnh tương lai của mình một cách công bằng: Cách duy nhất để một sinh mệnh muốn thay đổi kết cục bi thảm của quá khứ an bài, sống sót sau thảm họa và bước vào một kỷ nguyên mới trong lịch sử, chính là lựa chọn tin tưởng và thiện lương.

Đối với một số độc giả, có thể khó tin đối với hiện tượng được dự đoán và một số sự việc sẽ xảy trong phần mô tả. Nhưng bất luận như thế nào, trong hình thế “Đại dịch” đang diễn ra trước mắt chúng ta, vào thời khắc nguy hiểm đến tính mạng này, người Trung Quốc có câu nói có thể có ích cho mọi người:

“Ninh khả tín kì hữu, bất khả tín kì vô”

(Thà tin là có, còn hơn tin không có).

Bình tĩnh và suy nghĩ, trước sự lựa chọn rõ ràng giữa thiện và ác, giữa sự sống và cái chết, có lý do gì mà mạo phạm thiên ý, và đưa ra lựa chọn cùng với trân quý sinh mệnh đây?

Mong rằng các bạn độc giả có thể nắm chắc vận mệnh của chính mình vào thời khắc then chốt này của lịch sử, đưa ra lựa chọn phù hợp với thiên ý, thiện với người và thiện với chính bản thân mình — Sự lựa chọn của bạn có thể giúp bạn và thậm chí là mọi người thoát khỏi kết cục vô cùng đáng tiếc, bi thảm cùng cực này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280381

The post Thôi Bối Đồ dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Thôi Bối Đồ] dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (1)https://chanhkien.org/2023/10/thoi-boi-do-du-ngon-ve-cai-chet-cua-giang-trach-dan-va-tham-canh-dich-benh-sau-do-1.htmlWed, 04 Oct 2023 03:57:21 +0000https://chanhkien.org/?p=31452Tác giả: Nhậm Tịnh Tư [ChanhKien.org] Trong số những dự ngôn lịch sử Trung Quốc thì Thôi Bối Đồ do Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong viết vào thời sơ Đường là một trong số những cuốn sách dự ngôn được các thế hệ sau này rất kính trọng và yêu thích. Tượng thứ […]

The post [Thôi Bối Đồ] dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhậm Tịnh Tư

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Freepik

Trong số những dự ngôn lịch sử Trung Quốc thì Thôi Bối Đồ do Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong viết vào thời sơ Đường là một trong số những cuốn sách dự ngôn được các thế hệ sau này rất kính trọng và yêu thích. Tượng thứ 50 của Thôi Bối Đồ miêu tả cái chết của Giang Trạch Dân và thảm tượng xã hội sau đó mà bệnh dịch mang lại; đồng thời, tượng này cũng dự báo trước rằng Trung Quốc sắp xảy ra thay đổi lớn về cục diện xã hội.

1. Tiên đoán về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm tượng ôn dịch trong Thôi Bối Đồ

Tượng thứ 50

Sấm viết (谶曰):

Thủy hỏa tướng chiến

Thì cùng tắc biến

Trinh hạ khởi nguyên

Thú quý nhân tiện

Tụng viết (颂曰):

Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên

Bạch mễ doanh thương bất trị tiền

Sài lang kết đội nhai trung tẩu

Bát tần phong vân thủy kiến thiên

Đầu tiên hãy giải thích về lời sấm của tượng thứ 50 trong Thối Bối Đồ.

Hỏa trong “thủy hỏa tướng chiến” tỉ dụ là ma đỏ, chỉ Trung Cộng, “thủy” tỉ dụ là năng lượng chính nghĩa, câu này có ẩn dụ là cuộc giao chiến giữa chính và tà. “Thì cùng tắc biến” ý nghĩa là sự việc khi đi đến đỉnh điểm thì sẽ thay đổi, câu này chỉ rằng cường quyền bạo chính của Trung Cộng đã đến cùng tận, vật cực tất phản, xã hội Trung Quốc sắp xảy ra thay đổi lớn.

Nguyên nghĩa của câu “Trinh hạ khởi nguyên” là tuần hoàn lặp đi lặp lại của Thiên Đạo Nhân Sự. Ở đây dự báo rằng chu kỳ tuần hoàn lớn của Thiên Đạo Nhân Sự sắp kết thúc (Trinh hạ), thiên vũ và nhân gian đều sẽ phát sinh thay đổi lớn đào thải cái cũ và canh tân cái mới (khởi nguyên).

“Thú quý nhân tiện” có hai hàm nghĩa: nghĩa thứ nhất, “quý” chỉ nhiều, “tiện” chỉ ít, nghĩa là trong quá trình đào thải cái cũ sẽ kèm theo tai nạn hủy diệt khủng khiếp, khiến lượng lớn người chết, thiên vũ và nhân gian sẽ trở thành thảm tượng thú vật nhiều hơn người; nghĩa thứ hai, “thú” là chỉ “hổ đầu nhân” (người đứng đầu) được nhắc đến trong lời tụng của tượng thứ 50 trong Thôi Bối Đồ cũng như tập đoàn lợi ích của nó, “nhân” là chỉ bách tính (người dân), chỉ rằng dự ngôn thời đại mà “hổ đầu nhân” cũng như tập đoàn lợi ích của nó thâu tóm của cải và quyền lực của xã hội (thú quý), còn bách tính bị hạ xuống thành kẻ tiện dân (nhân tiện).

Sau đây sẽ giải thích lời tụng của tượng thứ 50 trong Thôi Bối Đồ.

“Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên”, trong văn học cổ ngộ (遇) có nghĩa là hứng chịu (xui xẻo). Chỉ về một vương giả tuổi hổ (hổ đầu nhân) sẽ gặp vận xui trong năm hổ. Trong số tất cả các lãnh đạo từ xưa đến nay của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Giang Trạch Dân là người duy nhất tuổi hổ. Câu này ám chỉ rằng Giang Trạch Dân sẽ chết năm Nhâm Dần 2022.

“Bạch mễ doanh thương bất trị tiền”, miêu tả sau khi Giang Trạch Dân chết, tương lai sẽ xuất hiện hiện tượng xã hội đặc thù, mà hiện tượng này trùng hợp với mô tả về thảm kịch xã hội của “đại dịch” trong các dự ngôn khác.

Thực tế, trong những dự ngôn nổi tiếng của các nhà tiên tri trên thế giới, hầu như tất cả đều đề cập đến một kiếp nạn to lớn chưa từng có trong lịch sử nhân loại — chính là “đại tai nạn” hay “đại nạn” trong truyền thuyết: trong suốt nhiều năm diễn ra đại tai nạn, thế giới xảy ra rất nhiều họa hoạn tai hại, tạo ra mức độ hủy diệt thảm khốc không gì sánh được đối với mệnh nhân loại. Mà các chủng loại thảm họa được các nhà tiên tri miêu tả nhiều nhất bao gồm có chiến tranh và dịch bệnh, trong đó loại thảm họa khủng khiếp nhất trong quá trình hủy diệt loài người là “đại dịch”.

Trong dự ngôn “Ngũ công kinh” của Phật gia được lưu truyền rộng rãi trong dân gian đã miêu tả chi tiết rõ nét về một trận “đại nạn” diễn ra từ năm Canh Tý đến năm Giáp Thìn (từ năm 2020 đến năm 2024) như sau:

“Đán khán thần niên trung thu nguyệt, gia gia hộ hộ hữu thư trùng; tử sửu chi niên giang biên khởi, tử giả vạn vạn khiếm quan tài. Hồng phấn mỹ nhân lưu huyết tử, bảo châu kim ngân hóa thành hôi; tuy hữu điền viên vô nhân thu, cao lâu đại hạ hóa thành phần; yêu kim y tử nhân hà tại, tổng bị hao bồng bạn khô lâu…”

Căn cứ vào miêu tả này của Ngũ công kinh, đợt “Đại ôn dịch” bắt nguồn từ “giang biên” (gần bờ sông) của năm “tử niên” (năm con chuột), liên tục bị đi bị lại mấy năm, trong đó đến lúc đỉnh điểm sẽ xuất hiện thảm cảnh “tử giả vạn vạn khiếm quan tài” (người chết đến nỗi thiếu quan tài), mà đến đạt đỉnh điểm vào “trung thu nguyệt” (tết trung thu) của “thần niên“ (tức năm thìn), dương lịch vào tháng tám chín, xuất hiện cảnh “gia gia hộ hộ hữu thư trùng” (hộ gia đình nào cũng có giòi bọ) và “hồng phấn mỹ nhân lưu huyết tử” (mặt phấn hồng nhan chảy máu chết)…”tổng bị hao bồng bạn khô lâu”. (Bởi vì “thiên cơ bất khả lộ”, nên các lời tiên tri thường dùng phương pháp không rõ ràng để miêu tả về tương lai. Ví dụ, ở đây sử dụng kết cấu đảo ngữ, bởi vậy trước khi sự việc xảy ra rất khó xác định trình tự thời gian của nó).

Kết hợp với dịch viêm phổi Trung Cộng – xảy ra với quy mô rộng lớn, khởi phát năm Canh Tý (2020) ở Vũ Hán nằm bên bờ sông Trường Giang, thì sự việc hoàn toàn trùng khớp với mô tả trong Ngũ công kinh, vì vậy “đại dịch” được miêu tả trong Ngũ công kinh là ứng với dịch “COVID-19”.

Ngũ công kinh còn miêu tả thời kỳ đỉnh điểm đại dịch như sau: “Thế thượng Dần Mão Thìn Tỵ niên, thiên sai ma vương tại tiền, lập bất đãi tử thời tương duyên, tảo thời đắc bệnh mộ thời vong”. Tức là nói, virus COVID-19 vào thời kỳ đỉnh điểm dường như là đã biến chủng nhiều lần, thậm chí đã có thể biến thành một chủng virus mới vô cùng mạnh, khiến người bị nhiễm “tảo thời đắc bệnh mộ thời vong” (sáng mắc bệnh chiều chết), “biến đại tử nhân bất kham ngôn” (khắp nơi người chết không gì tả được).

Về biểu hiện các triệu chứng vào thời kỳ đỉnh điểm, Ngũ công kinh mô tả như sau: “Nhãn trung xuất huyết, thân trung xuất nồng, đỗ trung sinh thư” (tạm dịch: trong mắt chảy máu, thân thể sinh mùi, trong bụng sinh giòi), còn “Hồng phấn mỹ nhân lưu huyết tử”, “gia gia hộ hộ hữu thư trùng”; cuốn dự ngôn của Đạo gia “Thái thượng động uyên thần chú” miêu tả như sau: “Thân sinh ác sang trùng lại chi bệnh, nùng huyết xú lạn” (tạm dịch: thân thể sinh ra lở loét ác tính, mưng mủ và máu bốc mùi hôi thối). Có vẻ như lúc đó xuất hiện một chủng loại “giòi bọ” vi trùng độc ăn máu thịt người, sức phá hủy không gì sánh bằng.

Dựa theo dự ngôn, đợt “đại dịch” này sẽ kéo dài âm ỉ liên tục đến năm Giáp Thìn 2024. Do vậy, bất cứ đỉnh điểm bệnh dịch “viêm phổi Trung Cộng” nào được xác nhận hiện e rằng chỉ là đỉnh điểm cục bộ, chỉ là một ngòi nổ dẫn đến đỉnh điểm thực sự trong tương lai. Nói cách khác, cho dù có một ngày nào đó bệnh “viêm phổi Trung Cộng” đi xuống đến mức thấp nhất (đáy), thì e rằng mọi người vẫn không thể buông lỏng cảnh giác với mức độ và sự phát triển của bệnh dịch.

Khi “đại dịch” lên đến đỉnh điểm trong thời gian trầm lắng âm ỉ đó, chỉ trong thời gian ngắn nó sẽ gây ra sự hủy diệt sinh mệnh con người vô cùng ác liệt, dẫn đến dân số nhanh chóng giảm mạnh (có khả năng chỉ là các khu vực cục bộ), cuối cùng sẽ tạo thành hai loại thảm cảnh xã hội phân thành hai bi kịch đau thương:

Bi kịch thứ nhất là hiện tượng “Cốc mễ vô nhân cật” (thóc gạo không người ăn) được miêu tả trong Ngũ công kinh. Ngũ công kinh mô tả rằng “Mễ thục ngũ cốc vô nhân cật, ty miên y đoạn vô nhân xuyên” (Lúa chín ngũ cốc không ai ăn, gấm vóc lụa là không ai mặc); dự ngôn trong “Bi ký Thiểm Tây Thái Bái Sơn” của Lưu Bá Ôn miêu tả “có cơm không người ăn”, “có quần áo không người mặc”. Những điều này tương tự như miêu tả trong tượng thứ 50 của Thôi Bối Đồ: “Bạch mễ doanh thương bất trị tiền”.

Bi kịch thứ hai là hiện tượng “Hổ lang tận thương nhân” (sài lang tận sức làm hại người) được mô tả trong Ngũ công kinh. Trong Ngũ công kinh mô tả đến “Hoàng ban mãnh hổ như gia khuyển, trú dạ tuân môn chuyển, giảo nhân giảo trư dương, thiên hạ tận tổn thương” (hổ đốm mà nghĩ chó nhà, ngày đêm tuần tra mọi nhà, cắn người cắn lợn dê, thiên hạ tổn hại vô tận), “Hoàng cẩu đội đội như gia khuyển, dạ dạ tuân môn chuyển, ngưu dương thực tận hóa vi trần, nhiên hậu tiện thương nhân” (từng đội chó vàng như chó nhà, mỗi đêm đều tuần tra đi lại trước cửa, bắt hết dê bò làm thức ăn, sau đó nhân tiện hại người).

“Sài lang kết đội nhai trung tẩu” trong Thôi Bối Đồ cũng giống như câu văn ở trên, cũng là miêu tả thảm kịch thứ hai của xã hội; đồng thời câu này cũng còn một ý nghĩa nữa, cũng mô tả sự hỗn loạn mà “hổ đầu nhân” thời đại đó đem đến cho xã hội. Câu này cũng giống như miêu tả trong lời sấm “thú quý nhân tiện”.

Thực ra, từ những lời tiên tri có liên quan có thể thấy “đại nạn” kéo dài nhiều năm (đặc biệt là “đại dịch”) đã gây nên sự hủy diệt vô cùng thảm khốc đối với nhân loại: ví như, trong “Thái thượng động uyên thần chú kinh” miêu tả “Dịch quỷ sát nhân, thập phân sát cửu” (bệnh dịch quỷ quái giết người, mười phần chết chín), “Bi ký Thiểm Tây Thái Bái Sơn” của Lưu Bá Ôn cũng miêu tả “Bần giả nhất vạn lưu nhất thiên, phú giả nhất vạn lưu nhị tam” (người nghèo một vạn giữ một nghìn, người giàu một vạn giữ hai ba), đó có nghĩa là cuối cùng mười phần còn lại không đến một, nên mới xuất hiện thảm kịch mô tả như đoạn văn trước đó.

Tuy nhiên, giống như phần phân tích ở đoạn sau, tất cả những kết cục thảm khốc này chỉ là an bài lịch sử của quá khứ, nhưng sự lựa chọn của con người hôm nay lại có thể cải biến vận mệnh của mình thậm chí là thay đổi quỹ đạo lịch sử.

“Bát tẫn phong vân thủy kiến thiên” (Gạt hết gió mây thấy bầu trời) dự báo rằng Trung Quốc sớm sẽ phát sinh một sự thay đổi trọng đại trong xã hội, Trung Cộng diệt vong (Bát tẫn phong vân), đến giai đoạn cuối cùng dịch bệnh mới thực sự dần dần bị đẩy lùi (thủy kiến thiên).

Dự ngôn trong Thôi Bối Đồ về thời gian xảy ra sự thay đổi lớn của xã hội Trung Quốc khớp với dự ngôn trong “Kim lăng tháp bi văn” của Lưu Bá Ôn, trong “Kim lăng tháp bi văn” dự báo kịch bản rằng Hồ Cẩm Đào vì bất đồng ý kiến mà bị sỉ nhục tại Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 20, sau đó là ĐCSTQ tiến đến diệt vong.

“Hổ đầu nhân” và “Đại ôn dịch” trong Thôi Bối Đồ đều được miêu tả trong một tượng đồng nhất, thời gian trước sau này chỉ là sự trùng hợp thôi sao?

2. Dự ngôn lịch sử chỉ ra nguyên nhân khởi phát của “đại dịch”

Tượng 50 của Thôi Bối Đồ đồng thời nói đến “hổ đầu nhân” và “đại dịch”, nhìn bề ngoài thì thấy đó là sự trùng hợp về thứ tự thời gian phát sinh trước sau, thực tế không chỉ như vậy, bởi vì mục đích các bậc hiền triết trong lịch sử để lại những lời tiên tri là để răn đe, cảnh báo các thế hệ sau.

Trên thực tế, xét từ sự liên quan của những dự ngôn trong lịch sử, dường như “hổ đầu nhân” và “đại dịch” có mối quan hệ nhân quả.

Dựa theo mô tả “Kim lăng tháp bi văn” của Lưu Bá Ôn, trong đại tai nạn, “Nhân phùng mãnh hổ nan hồi ti”: ”phùng” nghĩa là vừa lòng, ẩn dụ là chấp nhận và tin tưởng, hoặc bị mê hoặc khác; “mãnh hổ” chỉ người tuổi hổ và tập đoàn lợi ích mà nó đại diện, “mãnh” cung có nghĩa là thế lực hung hãn;””nan huýnh tị” tỉ dụ là khó tránh kiếp nạn. Những ai bị “mãnh hổ” mê hoặc sẽ bị trôi theo dòng chảy, sẽ bị đào thải trong thảm họa này, cũng là nói “mãnh hổ” đem đến sự hủy diệt chết chóc cho người dân.

Trên thực tế, “Kim lăng tháp bi văn” ẩn ý chỉ rằng ngòi nổ trực tiếp khiến đại tai nạn phát sinh là cuộc bức hại quy mô lớn đối với những người tu luyện Pháp Luân Công do Giang Trạch Dân (tuổi hổ) tự mình thao túng ĐCSTQ tiến hành; đặc biệt là việc dùng tuyên truyền dối trá phô thiên cái địa khiến cho người dân thế giới bị lừa gạt, từ đó mà bị đoạt mất tính mạng trong đại nạn.

“Tử sửu chi niên giang biên khởi” của Ngũ công kinh, có vẻ giống với “Kim lăng tháp bi văn”: câu này không chỉ miêu tả thời gian và địa điểm khởi phát “đại dịch”, hơn nữa còn tiết lộ họ của kẻ chịu trách nhiệm gây ra thảm họa kinh hoàng này chính là do “Giang” (giang biên khởi).

Lý Thuần Phong, một trong những tác giả của Thôi Bối Đồ cũng đã viết dự ngôn trong “Tàng đầu thi”, ẩn ý rằng hành vi của người kế nhiệm tên “Dân” của Đặng Tiểu Bình chính là nguyên nhân trực tiếp của thảm họa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280381

The post [Thôi Bối Đồ] dự ngôn về cái chết của Giang Trạch Dân và thảm cảnh dịch bệnh sau đó (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinhhttps://chanhkien.org/2021/03/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh.htmlSun, 07 Mar 2021 13:25:36 +0000https://chanhkien.org/?p=27189Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org]   Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (1): Tượng thứ 40  Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (2): Tượng thứ 41, 42  Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện […]

The post Loạt bài: Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org]

 

Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (1): Tượng thứ 40 

Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (2): Tượng thứ 41, 42 

Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (3): Tượng thứ 43, 44

The post Loạt bài: Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Năm 2016-2017 trong «Thôi Bối Đồ»https://chanhkien.org/2021/03/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do.htmlSun, 07 Mar 2021 13:18:43 +0000https://chanhkien.org/?p=27187Tác giả: Tuyết Liên [ChanhKien.org]   Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (1): Giới thiệu Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (2): Hé lộ về Tập Cận Bình Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (3): Tấm gương của lịch sử Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thế Năm 2016-2017 trong “Thôi […]

The post Loạt bài: Năm 2016-2017 trong «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tuyết Liên

[ChanhKien.org]

 

Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (1): Giới thiệu

Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (2): Hé lộ về Tập Cận Bình

Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (3): Tấm gương của lịch sử

Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thế

Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (5): Sai lầm năm 1999

The post Loạt bài: Năm 2016-2017 trong «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ»https://chanhkien.org/2021/03/mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do.htmlSun, 07 Mar 2021 13:04:10 +0000https://chanhkien.org/?p=27179Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Loạt bài: Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai chăng? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

 

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (I): Triều Đường

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (II): Triều Đường

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (III): Bắc Tống

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (IV): Triều Nguyên

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (V): Triều Minh

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VI): Triều Thanh

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VII): Dân Quốc

Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VIII): Chiến tranh Giáp Ngọ

The post Loạt bài: Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (5): Sai lầm năm 1999https://chanhkien.org/2016/09/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-5-sai-lam-nam-1999.htmlMon, 19 Sep 2016 17:12:45 +0000http://chanhkien.org/?p=24886Tác giả: Lưu Hương Liên [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4 VIII. “Thôi Bối Đồ” triển hiện tội ác lớn nhất nơi nhân loại: Sai lầm lớn năm 1999 Tội ác lớn nhất trong thời đại ngày nay, đã được nói đến một cách cụ thể trong đại dự ngôn “Thôi Bối Đồ” – “Sai lầm […]

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (5): Sai lầm năm 1999 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Hương Liên

[ChanhKien.org]

Tiếp theo phần 4

VIII. “Thôi Bối Đồ” triển hiện tội ác lớn nhất nơi nhân loại: Sai lầm lớn năm 1999

Tội ác lớn nhất trong thời đại ngày nay, đã được nói đến một cách cụ thể trong đại dự ngôn “Thôi Bối Đồ” – “Sai lầm lớn năm 1999”.

1.Sai lầm to lớn của năm 1999 trong “Thôi Bối Đồ”

Quẻ tượng 41 trong Thôi Bối Đồ

Sấm viết:

Thiên địa hối manh

Thảo mộc phồn thực

Âm dương phản bối

Thượng thổ hạ nhật

Tạm dịch:

Trời đất tối tăm mờ mịt

Cây cỏ đầy rẫy (hoang vu tiêu điều cây cỏ mọc hoang đầy rẫy),

Âm dương quay lưng đối nhau

Mặt trời ở dưới Mặt đất.

Tụng viết:

Mạo nhân tu đái huyết vô đầu

Thủ lộng Càn Khôn hà nhật hưu

Cửu thập cửu niên thành đại thác

Xưng vương chích hợp tại Tần Châu

Tạm dịch:

Người (đội) mũ phải mang (món nợ) máu không đầu

Bàn tay bỡn cợt Trời Đất ngày nào thôi

Năm chín mươi chín thành sai lầm lớn

Xưng vương chỉ hợp tại Tần Châu.

“Mạo nhi tu đái huyết vô đầu”: người (đội) mũ phải mang (món nợ) máu không đầu.

“Mạo nhi” (帽儿), chữ phồn thể của chữ “nhi” (儿) là “兒”, chữ đầu “臼” đã bị cái mũ “亠”chụp lại, hình dáng đã thành chữ “lục” (六).

“Huyết vô đầu” (血无头): “Huyết” (血) không lộ đầu, thì là chữ “Tứ” (四) (số 4), hình dáng tương tự.

Vậy nên câu này ám chỉ “đại thảm sát mùng 04 tháng 06″ năm 1989, đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã nổ súng đàn áp cuộc vận động yêu nước đòi quyền dân chủ các các sinh viên trên cả nước. Một lời hai ý nghĩa. Vừa là đố chữ Lục Tứ (六四), lại chỉ ra vụ án giết người không có đầu.

“thủ lộng Càn Khôn hà nhật hưu”: Bàn tay bỡn cợt trời đất ngày nào thôi.

Triều đại đỏ ĐCSTQ một tay che cả bầu trời, thao túng ngôn luận điên đảo trắng đen, vu cáo “sự kiện Lục Tứ” là bạo loạn, bỡn cợt lừa gạt dân chúng.

“thập cửu niên thành đại thác”: năm chín mươi chín thành sai lầm lớn.

Năm 1999 đã trở thành sai lầm lớn – chính là đàn áp Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân một mình tự quyết, thao túng bộ máy chính quyền mở ra cuộc đàn áp đẫm máu đối với Pháp Luân Công. Vào những lúc điên cuồng nhất đã tiêu tốn 1/4 tài lực quốc gia, giới truyền thông cả nước đưa tin vu khống bịa đặt, công – kiểm – pháp (công an, kiểm sát, tư pháp), quân đội vũ trang, đặc vụ tham gia đàn áp. Hàng trăm triệu người bị liên lụy, hàng triệu người bị tống giam vào ngục, số người bị bức hại đến chết khó mà thống kê hết được.

“xưng vương chích hợp tại Tần Châu”: xưng Vương chỉ hợp ở Tần Châu

Ý chỉ Giang Trạch Dân – người cầm đầu phát động cuộc đàn áp ngu xuẩn tàn bạo giống hệt như Tần Nhị Thế. “Tần Châu”: lấy khu vực Tần Nhị Thế thống trị ám chỉ cuộc bức hại này không được lòng người, giống như Tần Nhị Thế, cuối cùng bản thân sẽ kết thúc trong thất bại triệt để, hàng ngày phải sống trong nỗi sợ hãi thấp thỏm không yên.

“thiên địa hối manh”: Trời đất tối tăm mờ mịt

Triều chính tối đen, trời đất không có ánh sáng, mây mù che phủ. Giang Trạch Dân tham nhũng trị quốc, trong khoảng thời gian nắm quyền dốt nát hoang dâm vô đạo, trời giận người oán.

“thảo mộc phồn thực”: hoang vu tiêu điều cây cỏ mọc hoang đầy rẫy

Cỏ cây (草)  cũng xuất hiện nhiều lần trong mấy tượng phía sau của “Thôi Bối Đồ”, như: “Thanh thanh thảo tự điền gian xuất” (tạm dịch: cỏ cây sinh ra xanh ngát một khoảng ruộng) trong quẻ tượng 48, hay “Lão hổ đối thảo hổ thị đam đam” (tạm dịch: con hổ nhìn chằm chằm về phía cỏ cây) trong quẻ tượng 50 có lời bình chú của Kim Thánh Thán.

“Cỏ cây” (草) ở những chỗ này, ý chỉ người dân tu luyện Pháp Luân Công. Chữ “Mộc” (木): ví với ông Lý Hồng Chí – người sáng lập Pháp Luân Công, chữ Lý “李” có Mộc (木). Câu này chỉ trong hoàn cảnh “trời đất tối tăm”, Pháp Luân Công đã phát triển và được phổ biến một cách nhanh chóng.

“Âm dương phản bối”: Âm dương đảo chiều

Đây là thuật ngữ của Đạo gia, ví với Càn Khôn đảo lộn. Đạo gia cho rằng: thiên tượng biến hóa, thế gian con người cũng sẽ theo đó mà biến đổi theo. Vậy nên ở đây cũng chỉ thế gian con người đảo lộn, lòng người bị mê mờ.

“Thượng thổ hạ nhật”: mặt trời ở dưới mặt đất

Ví với Càn Khôn đảo chiều, giống với “âm dương đảo lộn” phía trên. Một lời hai ngụ ý, mặt trời ở dưới mặt đất – mặt đất che phủ mặt trời, ví với ánh sáng bị chôn trong đất, ý chỉ Pháp Luân Công bị vu khống bôi nhọ, “Chân – Thiện – Nhẫn” bị phỉ báng.

Quẻ tượng là “Ly”, đại biểu cho hỏa (lửa). Quẻ Ly là tượng trưng cho mặt trời chói chang trên không trung, lửa đỏ, đỏ như lửa. Đối ứng với quẻ tượng này, lửa – lửa đỏ, ví với màu đỏ (chính quyền cộng sản đỏ). Trên dưới quẻ Ly đều là Ly trong Bát Quái. Nhị hỏa (hai lần lửa) ví với hai lần vận động chính trị, tương ứng với phần trong thơ tụng, chỉ hai cuộc vận động đàn áp “phong trào sinh viên đòi quyền dân chủ 4/6” và  “đàn áp Pháp Luân Công”. Triều đại đỏ ĐCSTQ đàn áp dân chúng, trên dưới cả nước đều khiếp sợ dưới khủng bố đỏ.

Tên hề trong đồ hình hiển nhiên là chỉ Giang Trạch Dân (mọi người gọi là Giang hề), dẫm đạp lên bánh xe tròn, chỉ tên hề họ Giang đàn áp Pháp Luân Công (có biểu tượng là Pháp Luân hình tròn).

Căn nguyên của cái tên xấu xí “Giang hề” là: Năm 1996, Giang viếng thăm Philippines, trong đêm liên hoan của tổng thống, không được mời mà tự đứng dậy cao giọng hát ca khúc “Love me tender”. Ngày 30 tháng 03 năm 1999, Giang Trạch Dân viếng thăm nước Áo, cùng với tổng thống đi tham quan nơi ở cũ của Mozart, Giang chủ động chạy đến trước cây dương cầm của Mozart và đánh ca khúc “Hồng hồ thủy lãng đả lãng”. Năm 2002, Giang viếng thăm Iceland, trong buổi tiệc chiêu đãi do chính phủ tổ chức đột nhiên đứng dậy cao giọng hát một bài, chủ khách có mặt đều kinh ngạc không thôi, toàn bộ cảnh tượng đều được đăng lên trang nhật báo lớn nhất của Iceland.

Những chuyện hề của Giang Trạch Dân như: không mời tự hát ngay trước mặt nguyên thủ nước ngoài, đột nhiên lôi lôi kéo kéo phu nhân của nguyên thủ nước khác khiêu vũ… vốn không phải là chuyện hiếm thấy gì, bởi cái thói thích khoe khoang làm dáng nên có biệt danh là “Giang hề”.

Và trong Các Thế Kỷ, cuốn sách tiên tri nổi tiếng của Pháp càng chỉ rõ ra thời gian cụ thể phát sinh tội ác này: tháng 7 năm 1999, đó chính là thời khắc tập trung của hết thảy những lời dự ngôn lớn nhỏ trong và ngoài nước xưa nay.

2.Tháng 07 năm 1999 trong Các Thế Kỷ

“Tháng 07 năm 1999, Đại vương Khủng bố từ trên trời xuống” (Các Thế Kỷ X, Khổ 72)

Nguyên văn tiếng Pháp:

L’an mil neuf cens nonante neuf sept mois

Du ciel viendra vn grand Roy d’effrayeur

Resusciter le grand Roy d’Angolmois,

Auant apres Mars regner par bon heur.

Tiếng Anh:

The year 1999, seventh month,

From the sky will come a great King of Terror:

To bring back to life the great King of Angolmois,

Before and after Mars to reign by good luck.

Tiếng Việt:

Vào năm 1999, tháng 7,

Để Đại vương Angoulmois phục sinh,

Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,

Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,

Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

3.Tội ác chưa từng có trong lịch sử xưa nay

Những phần trước đó đã nói rõ tội ác lớn nhất trong lịch sử nhân loại là những cuộc bức hại đối với Chính giáo, Chính tín, ví như diệt Phật, diệt Đạo, bức hại Cơ Đốc giáo, v.v… “Năm 99 thành năm sai lầm lớn” được nói đến trong “Thôi Bối Đồ” chính là chỉ ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công năm 1999, điều phạm phải chính là tội ác diệt Phật.

Pháp Luân Công, là môn tu luyện Phật gia lấy hình thức khí công truyền ra ngoài xã hội. Cũng chính là giống như thời kỳ Mạt Pháp của Do Thái giáo, Đức Giê-su xuất thế truyền tân Pháp (ghi chép trong Tân Ước của Thánh Kinh). Sau khi các loại tôn giáo đều đã đi vào thời kỳ Mạt Pháp, năm 1992, Pháp Luân Phật Pháp đã dùng hình thức khí công truyền ra ngoài xã hội, phương diện trừ bệnh khỏe người đã cho thấy những hiệu quả thần kỳ của Pháp môn này. Lấy Pháp lý “Chân – Thiện -Nhẫn” làm chỉ đạo, mọi người lấy Thiện đối đãi với mọi người mọi lúc mọi nơi, danh tiếng tốt đẹp khiến cho Pháp Luân Công đã được phổ biến mau chóng ở Trung Quốc. Những câu chuyện người tốt việc tốt nhiều không sao kể xiết, kéo theo sự đề cao tiêu chuẩn đạo đức của xã hội trên diện rộng, các kênh truyền thông đã nhiều lần đưa tin khen ngợi.

Nhìn lại hàng loạt các thời đại hưng thịnh huy hoàng thời xưa được nói ở phần trước, đều có một căn nguyên nhất trí: Thiên tử thuận theo đạo trời, nếu như không phải phù hợp với Đạo gia, thì chính là thuận theo Phật gia, đặc biệt là bởi vì Phật Pháp hưng thịnh nơi cõi người, mà mang đến phúc phận.

Nếu như làm theo chính sách mà Đặng Tiểu Bình định ra: “Không dày vò một cách mù quáng”, “không làm các cuộc vận động”, “không chụp mũ”, “không vung gậy đánh người”, người lãnh đạo lúc đó sẽ không đàn áp, Chính Pháp hưng thịnh nơi cõi người, Trung Hoa ắt mở ra một thời đại huy hoàng, công đức thịnh thế sẽ thuộc về thiên tử. Nhưng chính ngay trước cửa ngõ của thời đại hưng thịnh, Giang Trạch Dân thân là “thiên tử” – người đứng đầu Trung Quốc lại nhất quyết làm theo ý mình, lấy đàn áp Pháp Luân Công để thị uy, lấy bức hại Pháp Luân Công để tuyển chọn ra tay chân của mình. Đây hoàn toàn là không biết bài học giáo huấn “tam Vũ nhất Tông diệt Phật” trong lịch sử, càng không biết rõ bi kịch bức hại Cơ Đốc giáo mà đi đến diệt vong của đế quốc La Mã ngày xưa. Hơn nữa điều ông ta cuồng vọng muốn tiêu diệt lại là Phật Pháp thuần chính, những thủ đoạn đàn áp, những chiêu trò hiểm ác trong việc phỉ báng bôi nhọ Phật Pháp quả thật là xưa nay chưa từng có.

Vụ tự thiêu giả ở quảng trường Thiên An Môn do đài truyền hình trung ương CCTV dàn dựng.

Tội ác to lớn như thế này là vượt xa cả bất cứ một lần diệt Phật nào trong lịch sử, đây là tội ác lớn nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại xưa nay.

Những lời phỉ báng bôi nhọ Pháp Luân Công thậm chí còn xuyên suốt ra cả hải ngoại. Ở Trung Quốc thì nhồi sọ, tẩy não người dân hết lần này đến lần khác, thậm chí những lời vu khống đó còn được đưa vào cả trong sách giáo khoa của môn giáo dục đạo đức trong các cấp tiểu học, trung học, phát tán độc tố cho học sinh ngay trên lớp học. Thù hận, căm thù đối với Chính Tín “Chân – Thiện – Nhẫn” đã khắc sâu vào trong tâm của hàng mấy trăm triệu người.

ĐCSTQ bức hại người tu luyện, lần diệt Phật này đã bao trùm khắp cả Trung Quốc. Lấy chính sách quốc gia bịa đặt ra những án tù oan, bắt bỏ tù hàng mấy triệu người, hàng mấy trăm nghìn người bị xét xử phi pháp. Các loại tra tấn, đánh đập tàn nhẫn đến chết, đánh đập tàn nhẫn đến tàn phế, thậm chí mổ sống cướp nội tạng để kiếm lời – bị các tổ chức xã hội quốc tế gọi là “tội ác chưa từng có trên hành tinh này”.

4. Cảnh báo của thiên tượng hung hiểm năm 2016 

a.Lý giải theo chiêm tinh học Đông phương: Huỳnh Hoặc thủ Tâm 

Huỳnh Hoặc thủ Tâm – thiên tượng hung hiểm nhất này, trước đây đều cho rằng đây chỉ là nhắm vào một cá nhân “thiên tử” mà thôi. Nhưng thật ra, đây là thiên tượng nhắm vào từng người, “thiên tử” là người đại biểu của muôn vàn dân chúng, Huỳnh Hoặc thủ Tâm là chỉ thiên kiếp hung hiểm đột xuất ứng với việc làm của thiên tử, cũng là biến hóa cát hung, phán xét họa phúc đối với từng người.

Ba tầng hàm nghĩa của Trời phạt 

Chúng ta lý giải một cách đơn giản khái quát ba tầng hàm nghĩa của Trời phạt trong văn hóa phương Đông:

①  Trời phạt đối với tội ác diệt Phật của “thiên tử” (người nắm quyền). Bởi vì thiên tử hiện thời không câu kết hùa theo tội ác bức hại Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân, hơn nữa còn đang bắt giữ những vây cánh của ông Giang trong cuộc bức hại này. Vì vậy, Trời phạt này trực tiếp chỉ thẳng vào người khởi xướng tội ác diệt Phật, chính là Giang Trạch Dân – người lãnh đạo trước đó. Thực ra Trời phạt giáng xuống Giang Trạch Dân đã bắt đầu rồi.

Sau khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, dưới tình huống “đế vị” ổn định, ngăn chặn những quốc sách hại người của Giang Trạch Dân mọi lúc mọi nơi, đã: hủy bỏ chế độ cưỡng bức lao động, liên tục lấy lại quyền lực, phán xét những tham quan giữ chức vị cao trong phe cánh của ông Giang; những người tích cực dẫn đầu trong việc bức hại Pháp Luân Công. Đây là biến hóa của thiên tượng, trên theo ý Trời, dưới thuận lòng dân.

Những điều này đã thể hiện đầy đủ hành động ngăn chặn chính sách diệt Phật của Giang Trạch Dân. Vì vậy, thiên tượng Huỳnh Hoặc thủ Tâm, Trời phạt đối với tội ác diệt Phật to lớn mà Giang Trạch Dân phạm phải. Tập Cận Bình không hùa theo, vậy nên sẽ không gặp chuyện. Luật Trời và sự trừng phạt của Trời đều là công bằng cả.

② Trời phạt đối với ĐCSTQ, bởi vì tội ác diệt Phật là được thúc đẩy, kéo dài dưới thể chế này, liên tục kéo dài. Vậy nên, Tập Cận Bình tiếp nhận cục diện rối rắm này của ĐCSTQ, nếu như không thể tự thoát khỏi ĐCSTQ, không thể “thuận thiên thôi mệnh” giống như trong báo hiệu của “Thôi Bối Đồ”, thì dưới thiên tượng này, thiên tử chính là dễ dàng bị dùi vào kẽ hở. Tập Cận Bình từng mấy lần bị ám sát, tuy có kinh sợ nhưng không nguy hiểm. Chỉ có hành xử thuận theo thiên tượng mới có thể chuyển nguy thành an.

③ Thiên tượng không phải là chỉ một mình cá nhân “thiên tử”, mà đó là thiên tượng của từng người; thiên tử chỉ là người đại biểu của muôn dân trăm họ, thiên tượng hung hiểm này, có liên quan với từng người, cũng là điểm then chốt trong vận mệnh của mỗi một người.

Mỗi người trong cuộc bức hại do Giang Trạch Dân phát động cũng đều biểu hiện thái độ; mỗi một người, gần như đều đã từng tuyên thệ “dâng hiến sinh mệnh của mình cho ĐCSTQ”, đều đã từng thúc đẩy sự lớn mạnh của ĐCSTQ. Vậy nên, có thể thoát ly khỏi ĐCSTQ giống như “Quan Trung thiên tử, thuận thiên thôi mệnh” mà “Thôi Bối Đồ” triển hiện hay không? Trời người hợp nhất, thiện tượng này đều đang đo lường từng người một, cũng đang định ra họa phúc cho từng người.

Trên có thiên tượng cảnh tỉnh, dưới có kỳ thạch nghiệm chứng 

Sáu chữ “Trung Quốc Cộng sản đảng vong” in trên vé vào cửa công viên quốc gia tại Quý Châu. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

Tháng 06 năm 2002, thôn Chưởng Bố huyện Bình Đường tỉnh Quý Châu đã phát hiện “Tàng Tự Thạch” to lớn, trên mặt của tảng đá đó hiện rõ 6 chữ lớn: “Trung Quốc cộng sản đảng vong”.

Theo khảo sát của các chuyên gia địa chất cấp quốc gia chứng thực được rằng: Tảng đá này có 2,7 tỷ năm lịch sử, nứt ra từ 500 năm trước đó, nét chữ trên đó là thiên nhiên hình thành, không có dấu vết chạm trổ hay điêu khắc nào của con người. Hơn mấy trăm tờ báo, đài truyền hình, các trang mạng trong và ngoài nước đều đã đăng tải thông tin này. Các kênh truyền thông trong nước bao gồm đài truyền hình trung ương (CCTV) cũng nhiều lần đưa tin, nhưng đều chọn lọc từ ngữ một cách thống nhất, ẩn giấu đi một chữ “vong” phía sau. “Tàng Tự Thạch” đã được in trên tấm vé vào cửa công viên quốc gia tại Quý Châu.

Tảng đá lớn hiện rõ “Trung Quốc cộng sản đảng vong”, tuyệt đối không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà chỉ có thể là thiên ý. Thiên ý này, cùng với thiên tượng trời phạt đối với ĐCSTQ năm 2016 có sự đồng nhất đến kinh người.

ĐCSTQ tội ác thấu trời, cuối cùng sẽ bị Trời thanh toán 

Trời phạt, chính là thanh toán hết thảy, chứ không phải chỉ là tội ác diệt Phật của ĐCSTQ hiện nay mà thôi! Quay đầu nhìn lại những cuộc vận động chính trị trong suốt hơn 60 năm trở lại đây của ĐCSTQ, từ những cái gọi là: đàn áp nhóm người phản cách mạng, cải cách ruộng đất, tam phản, ngũ phản, quét sạch phản động, chống cánh hữu, Đại Nhảy Vọt, Nạn Đói Lớn, chống tư tưởng bảo thủ, phá tứ cựu, Đại Cách mạng Văn hóa, giết hại sinh viên mùng 04 tháng 06, cho đến bức hại Pháp Luân Công. Từ bá tánh bình dân cho đến chủ tịch nước, người Trung Quốc có hơn một nửa đã từng bị ĐCSTQ bức hại.

Theo con số thống kê không đầy đủ, có hơn 80 triệu người Trung Quốc đã chết một cách bất thường trong khoảng thời gian ĐCSTQ nắm quyền. Đây là số người chết trong thời bình, vượt quá tổng số người chết của cả hai lần Chiến tranh Thế giới cộng lại. Xã hội Trung Quốc hiện nay: đạo đức suy đồi, sắc tình tràn lan, coi trọng vật chất, công nhân thất nghiệp, nông dân mất đất, quan thương cấu kết, cảnh sát – lưu manh là một…

ĐCSTQ tội lỗi to lớn như vậy, sớm muộn cũng sẽ phải hoàn trả, lời cảnh tỉnh của Tàng Tự Thạch, báo động của thiên tượng Huỳnh Hoặc thủ Tâm năm 2016, đã triển hiện thiên ý trời diệt Trung Cộng. Vậy những ai vẫn còn muốn tận trung, đứng cùng hàng ngũ với ĐCSTQ nữa đây? Những ai đứng về phía ĐCSTQ, thì người đó cuối cùng sẽ là thành viên bị Trời phạt, thanh toán cùng một lượt với ĐCSTQ!

Đây chính là nguyên nhân vì sao hiện nay xuất hiện làn sóng “thoái đảng bảo bình an”.

b.Lý giải theo chiêm tinh học phương Tây 

“Trăm sông đổ về một biển, châu liền bích hợp” 

Hai hệ thống của chiêm tinh học phương Đông và chiêm tinh học phương Tây không giống nhau. Tuy cùng một loại quỹ đạo vận hành của thiên thể, nhưng biểu hiện về mặt ý nghĩa trong chiêm tinh học Đông phương và Tây phương là khác nhau, sự kiện nhân gian đối ứng trong lịch sử cũng khác nhau.

Nhưng hiện nay, lịch sử Đông phương và Tây phương đều đã đi đến thời khắc “trăm sông đổ về một biển”, các loại tiên tri lớn nhỏ xưa nay đều hội tụ đến điểm chung “Thánh nhân xuất thế, bị phỉ báng gặp kiếp nạn, cuối cùng bĩ cực thái lai”. Như vậy trên biểu hiện trong chiêm tinh học, Đông và Tây phương sắp “châu liền bích hợp”.

Quỹ đạo sao Hỏa năm 2016, trên biểu hiện của thiên tượng phương Tây là “đi thuận chiều tiến nhập vào chòm sao Bọ Cạp, đi ngược chiều tiến nhập vào chòm sao Thiên Xứng (chòm sao cân tiểu ly)”. Nguồn gốc chòm sao Bọ Cạp trong Thần thoại Hy Lạp, là một con bò cạp lớn kịch độc trên mặt đất, có thể đầu độc chúng Thần, nó tượng trưng cho quỷ Sa-tăng. Vậy nên, triển hiện của thiên tượng phương Tây này là đem Sa-tăng đặt lên trên bàn cân chính nghĩa, xét xử đối với quỷ Sa-tăng.

Sa-tăng, là tên ác quỷ trong văn hóa phương Tây. Chương mở đầu trong “bản tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Karl Marx nói “một bóng ma đang ám ảnh châu Âu”. Hiện nay các nước phương Tây coi đảng cộng sản là chủ nghĩa phát- xít màu đỏ, đánh đồng với chủ nghĩa phát-xít màu đen của Hitler, coi Đông Âu và Liên Xô thoát khỏi chế độ cộng sản độc tài là sự giải thoát của nhân loại.

Hiện nay, đảng cộng sản lớn mạnh nhất còn sót lại chính là ĐCSTQ. Ở xã hội quốc tế, rất nhiều người coi ĐCSTQ là Sa-tăng, đặc biệt là sau cuộc thảm sát “mùng 04 tháng 06”, ĐCSTQ đàn áp sinh viên đòi quyền dân chủ ở Bắc Kinh. Vì vậy, Sa-tăng Bọ Cạp mà thiên tượng phương Tây triển hiện năm 2016 tượng trưng cho ĐCSTQ.

Thật ra, tiên tri trong sách Khải Huyền của Kinh Thánh, Sa-tăng cũng là ví với ĐCSTQ.

Có lẽ có đọc giả sẽ hỏi: thiên tượng Thái Bạch kinh thiên (sao Thái Bạch hiển hiện ngay giữa ban ngày), ở Đông phương và Tây phương chẳng phải là nhất trí sao?

Là nhất trí, nhưng thiên tượng “Thái Bạch kinh thiên” là không có quy luật, chỉ là triển hiện cho một khu vực, chứ không triển hiện nối liền cả Đông và Tây phương. Sự vận hành trong bầu trời sao của hành tinh, cả phương Đông và phương Tây đều có thể nhìn thấy được. Tuy vậy, ý nghĩa của Đông phương và Tây phương đối với thiện tượng đó thông thường là không giống nhau.

Tuy nhiên, thiên tượng vận hành của sao Hỏa năm 2016, về ý nghĩa lại không hẹn mà trùng hợp một cách hiếm thấy.

Đem đám hắc thủ của Sa-tăng đặt lên bàn cân thẩm phán của vũ trụ 

Hai chiếc càng của con bò cạp độc, tượng trưng cho đám hắc thủ (bàn tay gây tội ác) của Sa-tăng, những người gây tội ác của ĐCSTQ. Chòm sao Thiên Xứng là cái cân tiểu ly của nữ thần chính nghĩa, nó đang nhận định linh hồn của mỗi một người mà đưa ra phán xét.

Vì vậy, giải thích theo chiêm tinh học phương Tây thì chính là: đem hai chiếc càng của con bọ cạp độc đặt lên trên bàn cân của vũ trụ, đem đám tay chân tà ác của Sa-tăng lên bàn cân tiểu ly trong Đại Thẩm Phán, đây là đoạn mở đầu của Đại Phán Xét trong thời khắc cuối cùng được giảng trong sách Khải Huyền của Kinh Thánh.

Đại Phán Xét mà thiên tượng triển hiện này là thẩm phán tội ác lớn nhất nơi thế gian con người – Sa-tăng ĐCSTQ bức hại Phật Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, giết hại những người tín ngưỡng vào Chân–Thiện–Nhẫn. Căn nguyên của tội ác này là Giang Trạch Dân – người đứng đầu ĐCSTQ lúc bấy giờ phát động cuộc bức hại này vào tháng 07 năm 1999. Tội ác tày trời này, đồng đảng tay chân của ông ta cũng là người người có phần. Hiện nay Trời phạt đến gần, thì bắt đầu từ bàn tay gây tội ác của Sa-tăng bọ cạp độc này, từng người từng người một bị đưa ra xét xử.

Chúng ta hãy nhìn xem mở màn của thiên tượng xét xử Sa-tăng ngày hôm nay:

Tháng 09 năm 2013, lấy tội danh tham nhũng xét xử Bạc Hy Lai tù chung thân. Bạc Hy Lai là người kế thừa của Giang Trạch Dân, khi làm “người đứng đầu” ở Đại Liên, Liêu Ninh, Trùng Khánh, đã lấy việc bức hại Pháp Luân Công để tận trung với Giang Trạch Dân; chuẩn bị tiếp nhận vị trí của Chu Vĩnh Khang, lên kế hoạch đảo chính soán ngôi sau khi thiết lập âm mưu ám sát Tập Cận Bình; nhưng vì tranh chấp nội bộ với Vương Lập Quân, âm mưu bị bại lộ rồi ngã ngựa.

Ngày 15 tháng 03 năm 2014, bắt giữ Từ Tài Hậu – Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương. Từ Tài Hậu là một trong những tay chân cốt cán quan trọng trong quân đội của Giang Trạch Dân, tích cực hùa theo Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công, chưa đợi đến xét xử đã bệnh chết trong tù.

Ngày 29 tháng 07 năm 2014, lập án điều tra Chu Vĩnh Khang – một trong lãnh đạo cao cấp quốc gia, nguyên cựu Thường ủy Cục Chính trị. Chu là tay chân cốt cán trong chiến dịch bức hại Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân. Tháng 06 năm 2015, lấy tội danh tham nhũng phán Chu Vĩnh Khang tù chung thân.

Tháng 08 năm 2015, lấy tội tham nhũng phán Cốc Tuấn Sơn tội tử hình treo. Cốc Tuấn Sơn là cựu Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, cốt cán của thế lực phe cánh họ Giang trong quân đội, tích cực hùa theo Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công.

Từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2015, lấy tội danh tham nhũng xét xử Lý Xuân Thành 13 năm tù, Quách Vĩnh Tường 20 năm tù, Lý Sùng Hy 12 năm tù. Lý Xuân Thành từng đảm nhiệm Bí thư Thành ủy Thành Đô, phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên; Quách Vĩnh Tường từng đảm nhiệm chức Phó tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên, phó chủ tịch Ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân (tương đương hội đồng nhân dân) tỉnh Tứ Xuyên; Lý Sùng Hy từng đảm nhiệm chức phó Bí thư tỉnh Tứ Xuyên, Chủ tịch Hội nghị Chính trị hiệp thương nhân dân tỉnh Tứ Xuyên. Họ đều là thân tín của Chu Vĩnh Khang, bàn tay gây tội ác tích cực bức hại Pháp Luân Công.

Những phán xét này, là những điển hình mở đầu thiên tượng Thẩm Phán quỷ Sa-tăng năm 2016.
Những đồng đảng tay chân của Giang Trạch Dân, hùa theo tội ác bức hại Pháp Luân Công đều lần lượt ngã ngựa.

Dưới đây là những người thuộc các bộ phận đã hoặc sắp bị đưa lên bục thẩm phán:

Tháng 01 năm 2016, lấy tội danh tham nhũng phán Lý Đông Sinh 15 năm tù. Lý Đông Sinh bởi chế tác “vụ tự thiêu giả ở quảng trường Thiên An Môn” năm 2001 để vu khống hãm hại Pháp Luân Công mà một bước lên mây, nhiều năm đảm nhiệm phó giám đốc của đài truyền hình trung ương (CCTV), Phó Cục trưởng tổng cục truyền hình điện ảnh, phó Bộ trưởng bộ tuyên truyền trung ương, phó bộ trưởng Bộ công an, cuối cùng đã làm chủ nhiệm văn phòng 610 chuyên môn bức hại các học viên Pháp Luân Công.

Dương Cang, nguyên phó Bí thư khu tự trị Tân Cương, ngày 20 tháng 01 năm 2016 bị phán 12 năm tù bởi tội tham nhũng;

Ký Văn Lâm, phó tỉnh trưởng tỉnh Hải Nam, tháng 03 năm 2016 bị tuyên án 12 năm tù bởi tội tham nhũng;

Lệnh Kế Hoạch, Phó Chủ tịch Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc, Bộ trưởng bộ mặt trận thống nhất trung ương, phụ trách đả kích Pháp Luân Công ở hải ngoại. Tháng 12 năm 2014 bị bắt, tháng 07 năm 2016 bị phán tù chung thân bởi tội tham nhũng;

Quách Bá Hùng, nguyên Phó chủ tịch quân ủy trung ương, tay chân cốt cán trong quân đội của Giang Trạch Dân, tháng 07 năm 2016 bị tuyên xử tù chung thân bởi tội tham nhũng;

Kim Đạo Danh, phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Sơn Tây, Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật, Phó Chủ nhiệm Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc tỉnh Sơn Tây, bị bắt vào tháng 02 năm 2014;

Thân Duy Thần, nguyên Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, Bí thư Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật của ĐCSTQ, bị bắt vào tháng 04 năm 2014;

Mao Tiểu Binh, nguyên Bí thư Thành ủy Tây Ninh, Thường ủy Tỉnh ủy Thanh Hải, bị bắt tháng 04 năm 2014;

Tô Vinh, lần lượt nhậm chức phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Cát Lâm, Trưởng ban phụ trách xử lý vấn đề liên quan đến Pháp Luân Công, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Giang Tây, Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc, bị bắt tháng 06 năm 2014;

Đỗ Thiện Học, nguyên Phó Tỉnh trưởng tỉnh Sơn Tây, bị bắt tháng 06 năm 2014;

Vạn Khánh Lương, từng đảm nhiệm Bí thư thành ủy Yết Dương, Bí thư thành ủy Quảng Châu, Phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đông, bị bắt tháng 06 năm 2014;

Đàm Lực, nguyên Phó tỉnh trưởng tỉnh Hải Nam, bị bắt tháng 06 năm 2014;

Võ Trường Thuận, nguyên Phó Bí thư ban Chính trị Pháp luật tỉnh Thiên Tân, Cục trưởng Cục Công an thành phố Thiên Tân, Bí thư đảng ủy, Phó Chủ tịch thành ủy thành phố Thiên Tân, bị bắt tháng 07 năm 2014;

Trần Thiết Tân, nguyên Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị tỉnh Liêu Ninh, bị bắt tháng 07 năm 2014;

Bạch Ân Bồi, lần lượt đảm nhiệm Bí thư tỉnh ủy của hai tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, bị bắt tháng 08 năm 2014;

Tần Ngọc Hải, nguyên Phó Bí thư Ban Chính trị Pháp luật tỉnh Vân Nam, Sở trưởng Sở Công an tỉnh Vân Nam, bị bắt tháng 09 năm 2014;

Lương Tân, từng nhậm chức Phó Tỉnh trưởng tỉnh Sơn Tây; Thưởng ủy tỉnh ủy tỉnh Hà Bắc, bị bắt tháng 11 năm 2014;

Tùy Phụng Phú, nguyên Phó Chủ nhiệm Hội thường ủy Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Hắc Long Giang, bị bắt tháng 11 năm 2014;

Chu Minh Quốc, lần lượn nhậm chức Bí thư Ban Chính trị pháp luật ba tỉnh Nam Hải, Trùng Khánh, Quảng Đông, bị bắt tháng 11 năm 2014;

Vương Mẫn, từng nhậm chức Bí thư Thành ủy Tế Nam, Thường ủy tỉnh ủy Sơn Đông, bị bắt tháng 12 năm 2014;

Dương Vệ Trạch, nguyên Bí thư Thành ủy Nam Kinh, Thưởng ủy tỉnh ủy Giang Tô, bị bắt tháng 01 năm 2015;

Mã Kiện, cựu Thứ trưởng Bộ An ninh quốc gia, bị bắt tháng 01 năm 2015;

Lục Vũ Thành, nguyên Bí thư tỉnh ủy Lan Châu, Phó Chủ nhiệm Đại hội Đại biểu Nhân dân tỉnh Cam Túc, bị bắt tháng 01 năm 2015;

Tư Hâm Lương, từng nhậm chức Thường ủy tỉnh Chiết Giang, Phó Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị tỉnh Chiết Giang, bị bắt tháng 02 năm 2015;

Cảnh Xuân Hoa, từng nhậm chức Bí thư Thành ủy Hoành Thủy, Thường ủy tỉnh ủy tỉnh Hà Bắc, Bí thư tỉnh Hà Bắc, bị bắt tháng 03 năm 2015;

Thù Hòa, từng nhậm chức Phó Tỉnh trưởng tỉnh Giang Tô, Bí thư thành ủy Côn Minh, phó Bí thư tỉnh Vân Nam, bị bắt tháng 03 năm 2015;

Từ Cang, Phó Tỉnh trưởng tỉnh Phúc Kiến, bị bắt tháng 03 năm 2015;

Hề Hiểu Minh, nguyên Phó Viện trưởng tòa án tối cao, bị bắt tháng 07 năm 2015;

Chu Bản Thuận, từng nhậm chức Chánh văn phòng Ủy ban Chính trị và pháp luật trung ương, Giám đốc Công an tỉnh Hồ Bắc, Bí thư tỉnh ủy Hà Bắc, bị bắt tháng 07 năm 2015;

Cốc Xuân Lập, nguyên Phó Tỉnh trưởng tỉnh Cát Lâm, bị bắt tháng 08 năm 2015;

Tô Thụ Lâm, nguyên Tỉnh trưởng tỉnh Phúc Kiến, bị bắt tháng 10 năm 2015;

Bạch Tuyết Sơn, nguyên Phó Chủ tịch khu tự trị Ninh Hạ, bị bắt tháng 11 năm 2015;

Lữ Thiếc Văn, Phó Bí thư thành ủy Bắc Kinh, bị bắt tháng 11 năm 2015;

Cái Như Ngân, nguyên Phó Tỉnh trưởng tỉnh Hắc Long Giang, Phó Chủ nhiệm hội Thường ủy Đại biểu Nhân dân tỉnh, bị bắt tháng 12 năm 2015;

Lưu Chí Canh, nguyên Bí thư thành ủy Đông Hoan, Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đông, bị bắt tháng 02 năm 2016;

Vương Mân, lần lượt nhậm chức Phó Tỉnh trưởng tỉnh Giang Tô, Bí thư tỉnh ủy hai tỉnh Cát Lâm, Liêu Ninh, bị bắt tháng 03 năm 2016;

Tô Hoằng Chương, nguyên Bí thư Ban Chính trị Pháp luật tỉnh Liêu Ninh, bị bắt tháng 04 năm 2016;

Trương Việt, nguyên Chủ nhiệm văn phòng 610 của Bộ công an, Bí thư Ban Chính trị pháp luật tỉnh Hà Bắc, Giám đốc công an tỉnh, bị bắt tháng 04 năm 2016;

…..

Những người này đều là thông qua việc tích cực bức hại Pháp Luân Công mà bày tỏ lòng trung thành với Giang Trạch Dân, từ đó quan lộ thênh thang rộng mở. Giang Trạch Dân mua chuộc họ, để mặc cho họ tham nhũng. Những nanh vuốt này của phe cánh họ Giang lần lượt ngã ngựa, trên bề mặt là phạm tội tham nhũng, nhưng thực chất là màn mở đầu của ác báo cho tội lỗi diệt Phật to lớn này.

Đó là chưa kể vô số những cá nhân khác cũng nhận lãnh hậu quả tương tự. Các ví dụ điển hình rõ ràng nhất, là những người ở tầng giữa, tầng dưới, tầng cơ sở, người thì bị bắt, kẻ thì tự sát.

Huỳnh Hoặc thủ Tâm, trời đang soi xét lòng người. Trong khi Phật Pháp thuần chính đang được hồng truyền ở thế gian, trong khi những người vô tội tín ngưỡng vào “Chân–Thiện–Nhẫn” bị bức hại đến chết, trong trường bức hại vô nhân tính đối với tín ngưỡng Phật Pháp, đối với những người dân vô tội, đối mặt với tà ác thương thiên hại lý, liệu bạn có lựa chọn hùa theo? Hay là im lặng dung túng? Hay là lên tiếng phản đối? Đối chiếu với Huỳnh Hoặc thủ Tâm năm 2016 và triển hiện của thiên tượng phương Tây, bàn cân của vũ trụ đang đo lường từng người một.

Làn sóng khởi kiện Giang Trạch Dân, trên hợp thiên tượng, dưới thuận lòng dân 

Thiên tượng xét xử Sa-tăng năm 2016, những bàn tay gây tội ác của Giang Trạch Dân lần lượt bị bắt đưa ra xét xử, trên hợp thiên tượng, dưới thuận lòng dân. Xét xử tay chân gây tội ác của Sa-tăng, suy cho cùng cũng chỉ là việc dọn đường cho xét xử đối với quỷ Sa-tăng. Vì vậy, Giang Trạch Dân nhất định có thể gắng gượng đến cuối cùng, đợi đến thời khắc bị đưa ra xét xử, thiên tượng sẽ triển hiện rõ ràng!

Ngày nay đã xuất hiện “làn sóng khởi kiện Giang Trạch Dân”, chính là việc thuận theo ý Trời, thuận theo sự dẫn động của thiên tượng, cũng là cấp cho quân vương (người đứng đầu), chúng thần tử (quan chức), và mỗi một con người thế gian nhận rõ chân tướng, có cơ hội được cứu.

Xét xử đối với đám hắc thủ của Bọ cạp độc hiện nay, đó chỉ là màn mở đầu của trời phạt, chỉ là nhạc mở màn của Đại Thẩm Phán đối được nói đến trong sách Khải Huyền trong Kinh Thánh. Giang Trạch Dân và cái đảng đã chết của ông ta, cần phải đợi đến Đại Thẩm Phán cuối cùng. Đó là sự thanh toán triệt để đối với ĐCSTQ mà Giang Trạch Dân lợi dụng tạo thành tội ác diệt Phật, cả hai (Giang Trạch Dân và ĐCSTQ) sẽ phải đối mặt cuối cùng. Lúc đó không chỉ là nhắm vào các quan chức của ĐCSTQ, mà còn có những người dân bình thường bị nó dối gạt mà tiếp tay hùa theo tội ác, phỉ báng “Chân–Thiện–Nhẫn” đến nay vẫn không hối cải.

Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Phàm là những ai đã phạm phải tội ác này, cho đến ác quỷ Sa-tăng, đều không thoát ra được khỏi tấm lưới của thiên thượng. Thiên tượng này mới chỉ là bắt đầu, mỗi một người đã từng tiếp tay hoặc là hùa theo tội ác diệt Phật này, mỗi một người đã từng thêm dầu vào lửa, đến nay vẫn còn có cơ hội hối cải sửa sai, bù đắp tội lỗi; còn nếu vẫn không thay đổi thì chỉ có thể hại bản thân mình.

Đây là thiên tượng Huỳnh Hoặc thủ Tâm – xét xử quỷ Sa-tăng năm 2016, là lời khuyên chân thành cho mỗi từng người.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/08/04/153982.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”五.html

 

 

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (5): Sai lầm năm 1999 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thếhttps://chanhkien.org/2016/09/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-4-quy-luat-thinh-the.htmlMon, 19 Sep 2016 11:18:53 +0000http://chanhkien.org/?p=24881Tác giả: Lưu Hương Liên [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 3 VII. Công đức vô lượng, quy luật thịnh thế Văn Cảnh chi trị, Quang Vũ trung hưng, Khai Hoàng thịnh thế, Trinh Quán chi trị, Khai Nguyên thịnh thế, Cảnh Thánh trung hưng (nhà Liêu), Hàm Bình chi trị, Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc […]

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Hương Liên

[ChanhKien.org]

Tiếp theo phần 3

VII. Công đức vô lượng, quy luật thịnh thế

Văn Cảnh chi trị, Quang Vũ trung hưng, Khai Hoàng thịnh thế, Trinh Quán chi trị, Khai Nguyên thịnh thế, Cảnh Thánh trung hưng (nhà Liêu), Hàm Bình chi trị, Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc thịnh thế, Nhân Tuyên chi trị, Khang Càn thịnh thế… Những thời thịnh thế huy hoàng này của Trung Hoa thời xưa, khiến người đời nghìn năm ca tụng. Đó không chỉ là hồi ức tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa, rất nhiều sử sách ở nước ngoài cũng đều ca ngợi những triều đại đó, coi đây trung tâm văn minh của thế giới.

Trăm nghìn năm nay, giới học thuật đều đang nghiên cứu nguồn gốc của những “Thịnh thế thiên triều” này, tìm hiểu nghiên cứu nguyên do khiến cho đất nước đi đến hưng thịnh. Những thành quả học thuật đều là những tổng kết tinh hoa của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, những thứ đó đều là những nguyên nhân bề mặt, nhưng lại không phải là căn nguyên ở tầng thâm sâu hơn. Ở đây tuyệt không phải là có ý khinh thường, phủ định đối với những giả thuyết trước đây, chỉ là muốn thảo luận về nguyên do ở tầng sâu hơn.

Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về những căn nguyên đồng nhất của những thiên triều thịnh thế đó, từ đó mà lý giải về thời thịnh thế Trung Hoa – “giấc mộng Trung Hoa” được “Thôi Bối Đồ” nói đến cần thực hiện như thế nào.

1.“Thiên triều thịnh thế” của Trung Quốc thời xưa (phần đầu)

a.Văn Cảnh chi trị thời Tây Hán

Những năm đầu kiến lập nhà Tây Hán, trăm nghề tàn lụi, đất nước tan hoang, dân tình thống khổ. Xe ngựa của hoàng đế còn tìm không được bốn con ngựa có cùng màu sắc, các quan viên thượng triều, có người ngồi xe trâu, nỗi khổ người dân càng không cần phải nói đến.

“Thực Hóa chí” trong Hán thư ghi lại rằng: Đến giai đoạn sau của Cảnh Đế, tiền trong quốc khố của vương triều nhà Hán nhiều đến nỗi chất cao như núi, sợi dây xâu tiền đều mục đứt cả, tiền lẻ nhiều đến mức không cách nào thống kê; kho lương các quận trong nước chất đầy lương thực, lương thực trong kho dự trữ cũng vì tồn trữ lâu ngày, cứ thế mục nát không thể ăn được nữa.

Bấy giờ mọi người cho rằng: là bởi Vô Vi nhi trị (lấy đạo vô vi trị nước) của những năm đầu triều Hán, giảm nhẹ lao dịch, nhẹ nhàng sưu thuế, nghỉ ngơi dưỡng sức, đặc biệt là ảnh hưởng của Hán Văn Đế cần cù tiết kiệm, dùng đạo đức cảm hóa muôn dân…

Những tổng kết này đều rất đúng, nhưng chỉ là nguyên nhân trực tiếp bề mặt, còn có nguyên nhân ở tầng sâu hơn: Dùng Đạo trị quốc, hợp với đạo trời.

Thời bấy giờ, tư tưởng và văn hóa Nho gia còn chưa có trở thành dòng chính của quốc gia, trị quốc vẫn là lấy tư tưởng Vô Vi chi trị của Đạo gia, bấy giờ gọi là “Triết học Hoàng Lão”. Vào thời đại dân phong thuần phác, Hán Văn Đế cơ bản đã làm được: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta ưa tĩnh mà dân tự chính. Ta không làm mà dân tự giàu. Ta không có dục vọng mà dân tự động trở nên chất phác” trong Đạo Đức Kinh.

Bởi vì Đạo gia cũng là chân chính giữa trời đất, bản thân Đạo Đức Kinh cũng giảng về quy luật của đạo Trời, thân tu đạo đức, hợp với đạo Trời, trị quốc hợp với đạo Trời, đương nhiên trời đất ban phúc, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Lấy đức dạy dân, dân phong thành thật chất phác, thiên hạ thái bình.

Hán Văn Đế còn nổi tiếng bởi sự hiếu thảo, được liệt vào một trong Nhị thập tứ hiếu nổi tiếng trong văn hóa Trung Quốc. Chuyện kể rằng, vào một lần mẹ ông Bạc Cơ bị ốm, Văn Đế cứ hễ có thời gian là đều đến thăm mẹ. Ông đã tự mình nếm thử tất cả mọi loại thức ăn và thuốc dâng lên cho Bạc Cơ.

b.“Quang Vũ trung hưng” thời Đông Hán

Quang Vũ Đế Lưu Tú là vị hoàng đế khai quốc nhà Đông Hán, dùng “Nhu Đạo” cai trị thiên hạ, đã áp dụng một loạt các biện pháp, để dân nghỉ ngơi, khôi phục sản xuất, giảm sưu thuế giảm hình phạt, đồng thời tự thân chuyên cần tu dưỡng đạo đức. Từ đó mà khiến nhà Đông Hán mau chóng khôi phục từ trong đau thương và suy tàn của chiến loạn, xã hội trở nên an định, nhân khẩu tăng trưởng, kinh tế đi đến phồn vinh, sử sách gọi là “Quang Vũ trung hưng“.

Tuy sự phục hưng này còn có chỗ thua kém so với “Đại trị thịnh thế”, nhưng cũng là một xã hội phồn vinh ổn định, sức sống tràn trề. Nguyên nhân Lưu Tú trị nước thành công, vẫn là “dĩ Đạo trị quốc“, thân tu đạo đức, hợp với đạo trời.

c.Hiếu Văn Đế trung hưng thời Bắc Ngụy

Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hồng nhà Bắc Ngụy, sau khi lên ngôi năm 24 tuổi đã ra sức thúc đẩy văn hóa dân tộc Hán, thay đổi phong tục, đã khai sáng cục diện “Bắc Ngụy trung hưng”. Tuy không được phồn vinh như các triều đại huy hoàng thịnh thế, nhưng đó lại là thời kỳ hưng thịnh huy hoàng của dân tộc Tiên Ty, cũng là một thời đại thái bình lưu danh sử sách.

Thời đại bình yên thu được quả lớn, căn nguyên gieo trồng nó chính là nằm ở việc “lập lại trật tự”, phục hưng Phật Pháp của ông nội Thái Bạt Hồng – Văn Thành Đế Thác Bạt Tuấn.

Phần trước đó đã từng nói qua, Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào – vị hoàng đế đầu tiên diệt Phật của Trung Quốc thời xưa đã gây nên tội lỗi to lớn, vài năm sau bị hoạn quan giết chết, hai người con trai (thái tử và cung tông) cũng lần lượt chết dưới tay của hoạn quan.

Văn Thành Đế ban đầu lên ngôi, đã bù đắp lại sai lầm của ông nội, phục hưng Phật Pháp. Hang đá Vân Cương – thánh địa Phật giáo nổi tiếng lưu truyền cho đến ngày hôm nay, chính là do ông hạ chiếu xây dựng. Khôi phục Phật Pháp là gây dựng công đức vô cùng to lớn, phúc phận trời ban, mấy năm liên tiếp mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Tuy có trải qua mấy lần mưu phản, nhưng đế vị của ông cũng là ổn định như núi Thái Sơn, không hề bị lung lay.

Đời trước trồng cây, đời sau hóng mát. Công đức to lớn khôi phục Phật giáo của Văn Thành Đế đã khai sáng nên thời đại hưng thịnh của Hiếu Văn Đế – cháu nội của ông. Dưới thời trị vì của Hiếu Văn Đế, chính sách thỏa đáng, dưới trướng nhân tài vô số, mưa thuận gió hòa, được mùa liên tiếp, lại là nhân quả của công đức mà ông nội gieo trồng.

d.“Khai hoàng chi trị” nhà Tùy

“Xưa nay bàn luận về quốc kế giàu sang, thì không triều đại nào có thể sánh được với nhà Tùy”. Mã Đoan Lâm – nhà sử học nổi tiếng giữa triều Tống Nguyên đã nói như vậy trong bộ sách Văn Hiến Thông Khảo của mình.

Sự giàu có của Đại Tùy là vượt xa cả triều Hán và Đại Đường. Tùy Văn Đế khai sáng “Khai Hoàng chi trị”, dân giàu nước mạnh, của cải dồi dào. Tùy Dạng Đế Dương Quảng cực kỳ xa hoa lãng phí, ông ta sử dụng đến mấy triệu dân công mở Đại Vận Hà (sông đào lớn), sau đó ngồi thuyền rồng xuống Dương Châu, những chiếc thuyền lớn lần lượt nối tiếp nhau, quanh co hơn 200 dặm.

Xa hoa lãng phí như vậy mà quốc khố vẫn đủ dùng. Sau 10 năm Tùy Dạng Đế xuống Dương Châu, trong làn sóng những cuộc khởi nghĩa to lớn đã lật đổ nhà Tùy, nhưng số lương thực còn lại trong kho lương nhà Tùy đủ để cho Đại Đường ăn đến mấy chục năm, đến những năm Trinh Quán vẫn chưa ăn hết.

Giàu có đến mức như vậy, nguyên do là ở đâu?

Tùy Văn Đế cũng dùng đạo trị nước, có anh tài phò trợ, nhưng đây cũng chỉ là nguyên nhân bề mặt. Căn nguyên thật sự nằm ở chỗ: Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung của triều đại trước cùng lúc hủy diệt Phật giáo và Đạo giáo, tạo thành tội nghiệp quá to lớn; bảy năm sau Dương Kiên phế bỏ Bắc Chu lập nên nhà Tùy, khôi phục Phật giáo. Có công đức to lớn như vậy, thêm vào đó bản thân Dương Kiên một lòng tin theo Phật Pháp, lại hoằng dương Phật Pháp, vậy nên có được công đức to lớn, hiện thế hiện báo, đăng cơ mười mấy năm, đã khai sáng cục diện “Khai hoàng thịnh thế”.

2.Công đức to lớn trong việc đại hưng Phật Pháp, Đạo Pháp

Khiến lòng người hướng thiện, xã hội an định

Nếu như lòng người không còn chất phác, thói đời sa sút, coi trọng vật chất, chạy theo bạc tiền, tham ô hủ bại, dối gạt lần nhau; quan hệ giữa người với người trở nên căng thẳng; lòng người thấp thỏm không yên. Dưới hoàn cảnh xã hội như vậy, dẫu cho có minh quân hiền thần, cũng không thể gây dựng nên một thời đại hưng thịnh; thể chế luật pháp dẫu có kiện toàn hơn nữa, tỷ lệ phạm tội cũng sẽ tăng cao chứ không thuyên giảm.

Nếu như con người không tin vào Thần Phật, thì sẽ không tin thiện ác hữu báo, phía mặt ác của nhân tính sẽ phình to lên, chỉ quan tâm đến những thứ trước mắt, một mực làm ác, dù có giảng đạo đức trước mặt, cũng sẽ làm chuyện xấu sau lưng. Hơn nữa những kẻ nhân tâm bại hoại sẽ gắng sức len lỏi vào kẽ hở của luật pháp, khiến cho xã hội đại loạn, lòng người hỗn loạn, phạm tội không ngừng.

Phật Pháp hưng thịnh nơi cõi người, khiến cho lòng người hướng thiện, mọi người có thể tự ước thúc bản thân ngay từ trong tâm, biết làm chuyện xấu sẽ có báo ứng, phía mặt ác của nhân tính bị khắc chế hết sức, bớt phóng túng, ít làm chuyện xấu, làm nhiều việc thiện, làm việc biết tiến lùi, người dân có thể chủ động tuân thủ luật pháp. Phần sau chúng ta có thể thấy được, thời kỳ “Trinh Quán chi trị” thời nhà Đường, quan lại trong sạch, tỷ lệ phạm tội rất thấp, thời kỳ thịnh thế của nước Liêu, không ít nơi nhà tù trống không, nguyên nhân căn bản đều nằm ở chỗ Phật Pháp đại hưng.

Mưa thuận gió hòa, sinh thái tự nhiên tốt đẹp

Nếu như không có mưa thuận gió hòa, mà thiên tai liên miên, thì dẫu có văn trị võ công cũng vô dụng. Còn Phật Pháp hưng thịnh, phúc phận mang đến là tổng thể hoàn cảnh sinh thái tự nhiên tốt đẹp, đây là điều đảm bảo chắc chắn.

Quân thần hòa hợp, trời ban nhân tài

Văn trị võ công, không thể tách rời khỏi danh tướng hiền thần. Mà những anh tài này, không phải là sau khi đại hưng Phật Pháp mới giáng sinh, mà từ sớm đã xuất hiện và thành thục cả rồi, chính là xem đế vương có làm đại công đức thúc đẩy Phật Pháp hay không. Nếu làm, thì sẽ thành tựu tướng hiền tài, còn nếu không làm, thì sẽ vua và bề tôi bất hòa, anh tài khó dùng.

3.Thịnh thế Trung Quốc cổ đại (Phần cuối)

a.“Trinh Quán chi trị” thời nhà Đường

Trinh Quán chi trị thời Đường Thái Tông Lý Thế Dân là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc, tuy không được giàu có như thời “Khai Nguyên thịnh thế”, nhưng lại là thời kỳ đạo đức cao nhất, dân phong tốt nhất, là thời kỳ đại trị cực kì hưng thịnh của Trung Quốc thời xưa, thời đại quốc lực (thực lực quốc gia) cường thịnh nhất, khiến cho mỗi một người Trung Quốc đều không khỏi tự hào, hồi tưởng.

“Oán nữ tam thiên phóng xuất cung, tử tù tứ bách lai quy ngục” (Tạm dịch: Cung nữ ba nghìn cho xuất cung, tử tù bốn trăm trở về ngục). Đây là hai bức phác họa Trinh Quán được miêu tả trong bài thơ tự sự “Thất Đức Vũ “ của đại thi hào Bạch Cư Dị. Một cảnh là Đường Thái Tông để cho 3.000 cung nữ xuất cung trở về quê nhà lập gia đình, một mặt khác là trong suốt sáu năm Trinh Quán, cả nước chỉ có 390 tử tù, Thái Tông cho họ nghỉ định kỳ trở về nhà, đoàn tụ với người nhà, lệnh cho họ mùa thu năm sau tự mình trở về chịu xét xử. Kết quả 390 người năm sau đều đến đúng hẹn, Thái Tông cảm động, đã miễn xá cho toàn bộ.

Thời kỳ đạo đức cao thượng nhất, mới là điều mà mọi người mong mỏi nhất. Trinh Quán thịnh Đường chính là đỉnh cao của giá trị tinh thần như vậy. Đường Thái Tông lấy đức trị thiên hạ, quan lại trong sạch, dân phong thuần phác, xã hội công bằng an định, ngoài đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, người dân giàu có, hết thảy người dân đều cảm thấy hạnh phúc yên vui.

Nguyên nhân thịnh thế giàu mạnh, không thể tách rời khỏi minh quân hiền thần, nhưng mà, đó vẫn chỉ là nguyên nhân bề mặt.

Thế thì nguồn gốc thịnh thế của Đại Đường là nằm ở đâu đây? Lý Thế Dân thuận theo đạo trời hợp với lòng người, sau khi đăng cơ đã ban ra thánh chỉ phế bỏ “diệt Phật diệt Đạo” của Lý Uyên, phò trợ Đạo Pháp, Phật Pháp đại hưng, công đức to lớn như vậy, không những là cội nguồn phúc báo hiện thế trong đời này, mà còn là cội nguồn phúc đức của thời đại “Trinh Quán chi trị” mà trời ban cho, soi sáng cho muôn vàn đời sau.

b.“Khai Nguyên thịnh thế” nhà Đường

Khai Nguyên thịnh thế là thời đại càng giàu có hơn cả thời “Trinh Quán chi trị”, cũng chính là giàu có và đông đúc giống như thời kỳ khai hoàng của Tùy Văn Đế, giai đoạn trước nghiệp lớn của Tùy Dạng Đế.

Đời trước trồng cây, đời sau hóng mát. Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông đều là những người trồng cây phúc đức cho con cháu hưởng dùng. Nhưng, người vô đức, không giữ được của cải trong nhà, quân vương vô đức, không giữ được thiên triều thịnh thế. Đường Huyền Tông cũng giống như Tùy Dạng Đế, đời trước không tệ, đời sau thất đức, quốc gia mau chóng suy bại, lâu đài sụp đổ.

Nguyên nhân Đường Huyền Tông bại quốc, những gì mà người hiện đại giảng nói cũng chỉ là bề mặt, không có đụng đến căn nguyên. Căn nguyên này, nằm ở chỗ Đường Huyền Tông tự cậy tài hoa, giải thích kinh Phật, Đạo Đức Kinh, còn cưỡng ép chúng tăng ni học tập Hiếu kinh của Nho gia, đây là sự phá hoại to lớn đối với Phật Pháp, Đạo Pháp, là phá hoại, loạn Pháp ngay từ bên trong, tội lỗi này còn to lớn hơn cả đàn áp diệt Phật từ bên ngoài, phúc phận của Đại Đường đoạn đứt từ đây, Đường Huyền Tông mê muội dâm loạn, thiên tai nhân họa liên tục ập đến.

Trong 9 năm “An Sử chi loạn”, chiến tranh liên miên, hàng triệu sinh linh rơi vào cảnh khốn khổ lầm than. Đại Đường từ đỉnh cao hưng thịnh trong nháy mắt đã rơi xuống vực thẳm suy bại, giàu có phồn hoa như mộng ảo đã tan biến trong chốc lát, thiên tử chạy trốn, người dân chạy nạn, Đại Đường rơi vào cục diện cát cứ phân tranh. Đường Huyền Tông làm loạn Phật Pháp, Đạo Pháp là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến loạn An Sử.

c.“Đại Trung chi trị” nhà Đường

“Đại Trung chi trị” là thời kỳ hưng thịnh trong khoảng thời gian Đường Tuyên Tông Lý Thầm tại vị. Sau khi Đường Tuyên Tông lên ngôi, đã noi gương Thái Tông, chăm lo việc nước, cần kiệm trị quốc, quan tâm người dân, giảm nhẹ sưu thuế. Đã cải thiện những tệ hại trong triều từ thời nhà Đường đến nay, bên trong giải quyết tranh chấp giữa các phe cánh, ức chế quan lại hoàng tộc; về mặt đối ngoại, Đường Tuyên Tông không ngừng đánh bại Thổ Phiên, Hồi Hột, Đảng Hạng, Khê Nhân, thu hồi lại một lượng lớn lãnh thổ bị Thổ Phiên chiếm lĩnh từ sau loạn An Sử; quốc thế Đại Dường đã có những bước khởi sắc, người dân ngày càng giàu có, khiến cho quốc gia vốn đã suy bại trình hiện ra cục diện “trung hưng”.

Sử sách đánh giá Đường Tuyên Tông rất cao, cho rằng ông là đấng minh quân giống như Hán Văn Đế mở ra “Văn Cảnh chi trị” và Đường Thái Tông mở ra “Trinh Quán chi trị”, gọi ông là “Tiểu Thái Tông”, gọi thời kỳ ông trị quốc là “Đại Trung chi trị”.

Phúc phận của “Đại Trung chi trị”, cũng là đến từ trời. Vị đế vương trước Đường Tuyên Tông là Đường Vũ Tông, chính là hoàng đế Đường Vũ Tông, vị hoàng đế nhà Đường đã thực thi diệt Phật được giảng trước đó. Diệt Phật tạo nên tội lỗi to lớn, khiến cho Đường Vũ Tông chết bất đắc kỳ tử ở tuổi tráng niên, quốc gia sụp đổ, quân phiệt cát cứ, còn căn nguyên phúc phận của Đường Tuyên Tông là ở chỗ lập lại trật tự, khôi phục Phật giáo, trời ban phúc phận, thành tựu Đại Trung trung hưng nhà Đường.

d.“Cảnh Tông trung hưng” và thịnh thế nhà Liêu

“Cảnh Tông trung hưng”  là thời kỳ hưng thịnh của đế vương Liêu quốc Liêu Cảnh Tông Gia Luật Hiền. Cảnh Tông là một vị đế vương vô cùng có thành tựu của nước Liêu. Ông đã tiến hành một loạt cải cách đối với nhà Liêu, bắt đầu trọng dụng quan viên người Hán, cải cách lại trị (tác phong và uy tín của quan lại), thúc đẩy nước Liêu từ dân tộc du mục tiến nhập vào chế độ phong kiến. Cảnh Tông chăm lo việc nước, tiếp nhận ý kiến hay, thưởng phạt rõ ràng, dùng người thỏa đáng, về mặt quân sự so với Bắc Tống cũng chiếm thượng phong, khiến nước Liêu sau khi trải qua Mục Tông loạn chính, đã nghênh đón cục diện phục hưng, đặt định cơ sở vững chắc cho thời kỳ toàn thịnh của con trai ông là Liêu Thánh Tông.

Đương nhiên hết thảy thành quả này có quan hệ trực tiếp với hoàng hậu Tiêu Xước của Cảnh Tông, chính là vị Tiêu Thái hậu trong “bình thư diễn nghĩa” (một loại văn học nghệ thuật). Cảnh Tông sức khỏe cứ mãi không được tốt, Tiêu Xước liên tục trợ giúp chuyện triều chính. Sau khi Cảnh Tông qua đời, con trai của Tiêu Xước là Gia Luật Long Tự (Liêu Thánh Tông) lên ngôi, nhưng đại quyền quân sự chính trị quốc gia vẫn nằm trong tay Tiêu Thái hậu.

Tiêu Xước từ nhỏ tín phụng Phật Pháp, đẩy mạnh Phật Pháp đại hưng ở nước Liêu, công đức to lớn này, là cội nguồn phúc phận thịnh thế của nhà Liêu.

e.“Hàm Bình chi trị” thời Bắc Tống

Thời kỳ Chân Tông Bắc Tống, xã hội lại tiến nhập vào một đỉnh cao phồn vinh hưng thịnh.

Sự giàu có của thời Bắc Tống, thật khiến người ta trợn tròn con mắt! Trong thời kỳ Chân Tông nhà Bắc Tống, thu thuế đã đạt đến chóp đỉnh của lịch sử, cao nhất đạt đến 1,58 mân (1 mân tổng bằng 1 lượng bạc trắng), vượt rất xa so với triều đại nhà Đường trước đó, cao gấp 10 lần so với thời kỳ giàu có nhất của triều Minh, gấp 2,4 lần của thời kỳ hưng thịnh nhất giữa những năm Càn Long đời nhà Thanh.

Thời đại giàu có này, đồng dạng là “đời trước trồng cây công đức, đời sau hưởng bóng mát phúc lành”. Đó là sau khi hoàng đế Sài Vinh nhà Hậu Chu của triều đại trước đó diệt Phật, Triệu Khuông Dẫn vị hoàng đế khai quốc của nhà Bắc Tống đã lập lại trật tự, hồng phúc to lớn trong việc phục hưng Phật giáo và người kế nhiệm Tống Thái Tông đại hưng Phật Pháp tạo nên.

Tiếp nhận bài học của “Tam Vũ diệt Phật” (ba hoàng đế Trung Quốc là Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Chu Vũ Đế, Đường Vũ Tông diệt Phật), tận mắt chứng kiến ác báo diệt Phật của Sài Vinh, Triệu Khuông Dẫn ngay từ khi mới đăng cơ đã phế bỏ chính sách diệt Phật của Sài Vinh, không ngừng xây dựng chùa chiền, tượng Phật.

Trong ngôi miếu cổ ở Trấn châu nơi mà năm xưa Sài Vinh đã đích tay chém tượng Phật, năm 971, Triệu Khuông Dẫn hạ chiếu mở rộng chùa Long Hưng, và đúc tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm còn cao lớn hơn cả ban đầu (tổng cộng 42 tay, cao 22 mét), đây chính là nguồn gốc của Đại Phật trong chùa Đại Phật, huyện Chánh Định ngày nay.

Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa kế nhiệm sau đó càng thêm tôn sùng Phật Pháp. Thuận theo Phật Pháp phục hưng, kinh tế triều Tống cũng đi đến phồn vinh hơn bao giờ hết. Đến khi con trai của Tống Thái Tông là Tống Chân Tông lên ngôi, quốc lực đã đạt đến cường thịnh đỉnh cao.

f.“Hồng Vũ chi trị” thời nhà Minh

Những năm đầu triều đại nhà Minh đã mau chóng khôi phục sức sống sau những cuộc chiến loạn cuối triều Nguyên. Giai đoạn sau Hồng Vũ dưới sự trị vì của Tống Thái Tổ Chu Nguyên Chương, ruộng đất thu thuế của quốc gia lên đến hơn 8 triệu hecta, cao hơn 1/3 so với “Khang Càn thịnh thế” triều đại nhà Thanh. Thời đại Hồng Vũ Đại Minh, người dân sung túc, quốc khố dồi dào, quốc lực cường thịnh, sử sách gọi là “Hồng Vũ chi trị“.

Phúc phận thái bình từ trời đến, cũng là công đức to lớn nơi cõi người. Công đức này, bắt nguồn từ việc hồng dương Phật Pháp của Chu Nguyên Chương xuất thân là hòa thượng.

Sau khi trải qua các cuộc khởi nghĩa nông dân vào cuối triều Nguyên, nội bộ tăng đoàn Phật giáo trong thời kỳ đầu nhà Minh đã rất hỗn loạn, rất nhiều người không còn thật tâm tu hành, những hiện tượng loạn bậy bên trong Phật giáo xuất hiện nhiều. Sau khi Chu Nguyên Chương đăng cơ, một mặt đẩy mạnh việc hoằng dương Phật Pháp, một mặt quy chính lại chế độ, làm trong sạch tăng ni, phát chứng từ quốc gia cho hòa thượng, còn gọi là độ điệp (thẻ đi tu). Hơn nữa 3 năm khảo thí một lần, những ai không đọc thuộc lòng kinh Phật thì bị sàng lọc, từ đó mà đã ngăn chặn những hiện tượng rối loạn bên trong Phật giáo, gieo trồng công đức hưng thịnh Phật Pháp.

g.“Vĩnh Lạc thịnh thế” triều Minh

“Vĩnh Lạc thịnh thế” được khai sáng bởi Minh Thành Tổ Chu Đệ. Chu Đệ văn trị võ công, dốc lòng xây dựng đất nước.

Trên phương diện văn trị, giảm nhẹ sưu thế, trùng tu thủy lợi, khơi thông kênh đào, đẩy mạnh nông nghiệp, khiến kinh tế phát triển mạnh mẽ; ra sức đề xướng văn hóa giáo dục, biên soạn “Vĩnh Lạc đại điển“, bao gồm tất cả kinh điển từ trước triều đại nhà Tần trở về sau, giúp cho rất nhiều cổ tịch đã được bảo lưu.

Trên phương diện võ công, Chu Đệ cử binh chinh phạt An Nam, còn năm lần thân chinh Mạc Bắc, đánh bại sự quấy nhiễu phá hoại của quân Mông Nguyên còn sót lại, bảo đảm sự bình yên của các dân tộc vùng biên cương.

Chu Đệ thiết lập hành chính cấp tỉnh ở Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, thiết lập Ha Mi vệ ở Tây Vực (vệ: đồn binh thời Minh có số lính đông hơn sở), thiết lập quan bố chính ở Quý Châu. Đồng thời đẩy mạnh ngoại giao với các nước mạnh, sai Trần Thành đi sứ Tây Vực, cử Trịnh Hòa đi đến các nước phương Tây, khai sáng cục diện thịnh thế, muôn nước đến thăm.

Đương nhiên, trị quốc có Đạo là điều kiện không thể thiếu của thời hoàng kim, ở tầng sâu hơn, chúng ta biết “đời trước trồng cây, đời sau hóng mát”. Chu Đệ là được thừa hưởng phúc phận to lớn của công đức Chu Nguyên Chương trong việc hồng truyền Phật Pháp, hơn nửa bản thân Chu Đệ cũng là một “người trồng cây”, ông ra sức đẩy mạnh, truyền rộng văn hóa Đạo gia, cũng đã kiến lập được công đức to lớn như vậy.

Chu Đệ sai người đi tìm kiếm Chân Nhân Đạo gia Trương Tam Phong trên khắp cả nước, đã tu sửa hàng loạt cung điện Chân Vũ Đại Đế trên núi Võ Đang – nơi mà Trương Tam Phong truyền Đạo thu nhận đồ đệ. Kiến trúc dựa theo lời dạy của Thần trong Chân Vũ kinh để thiết kế, ỷ sơn thuận thủy (dựa vào vách núi, thuận theo dòng nước), bố cục tự nhiên, đã thể hiện phép tắc “Đạo Pháp Tự Nhiên” trong Đạo Đức Kinh. Tượng Thần, Pháp khí, v.v… trong cung quán được chế tạo dựa theo yêu cầu của hoàng gia, đã xây dựng núi Võ Đang giống như tiên cảnh nơi nhân gian, trở thành Thánh địa của Đạo gia. Văn hóa Đạo gia dưới sự ủng hộ hết mình của Chu Đệ, đã được truyền bá rộng rãi khắp nhân gian một cách mau chóng.

Đạo gia cũng là chính Pháp, hồng truyền văn hóa Đạo gia cũng là công đức to lớn tạo phúc đương thời, công đức mãi đến đời sau.

h.“Nhân Tuyên chi trị” triều Minh

“Nhân Tuyên chi trị” là thời đại hoàng kim dưới sự trị vì con trai của Chu Đệ là Minh Nhân Tông và cháu trai Minh Tuyên Tông.

Minh Nhân Tông lên ngôi năm 47 tuổi, không lâu sau thì bệnh mất, nhưng các chính sách nghỉ ngơi dưỡng sức, lợi nước lợi dân của ông được Minh Tuyên Tông kế thừa. Sau khi Tuyên Tông lên ngôi đã mau chóng bình định cuộc nổi loạn của Hán vương Chu Cao Húc, sau đó cứu trợ thiên tai, chăm lo đời sống của nhân dân, pháp kỷ nghiêm minh, trừng trị tham quan, nên rất được lòng dân, khiến cho thiên hạ an định, quốc khố tràn đầy, kinh tế mau chóng đi đến phồn vinh. Đó là thời kỳ quốc lực mạnh nhất, chính trị trong sạch nhất của triều Minh.

Đương nhiên, căn nguyên của điều này, là công đức to lớn được Chu Đệ gây dựng trong việc đẩy mạnh văn hóa Đạo gia, hưng thịnh Đạo Pháp. Đời sau cùng gọi “Nhân Tuyên chi trị” và“Vĩnh Lạc thịnh thế” của Chu Đệ là “Vĩnh Tuyên thịnh thế”.

i.“Khang Càn thịnh thế” triều Thanh

Hiện nay có rất nhiều những bộ phim truyền hình điện ảnh nói về triều đại nhà Thanh, mọi người cũng đều đã rất quen thuộc với “Khang Càn thịnh thế” – triều đại hưng thịnh dưới thời Khang Hy, Càn Long. Ở đây không miêu tả nhiều nữa, chỉ phân tích rõ căn nguyên của thịnh thế này: Thời đại Khang Hy, Phật Pháp đại hưng. Bản thân Khang Hy tuy không phải là tín đồ thành kính, nhưng ông đã ủng hộ và đẩy mạnh việc hoằng dương Phật Pháp.

Năm Khang Hy thứ 6 (năm 1667), cả nước có 6.730 ngôi chùa lớn, 6.490 ngôi chùa nhỏ do hoàng thất các triều đại hạ chỉ xây dựng; ngoài ra còn có 8.458 ngôi chùa lớn, 58.682 ngôi chùa nhỏ tự các cá nhân xây dựng. Có thể thấy vào thời đại Khang Hy, Phật Pháp rất hưng thịnh, chùa miếu còn nhiều hơn rất nhiều so với các thời kỳ Đường, Tống, Nguyên, Minh. Vua Khang Hy ra ngoài dạo chơi, thích nhất là đi tham quan chùa miếu, bởi vậy chùa miếu các nơi trong kinh đô đều đã lưu lại dấu chân của ông.

“Khang Càn thịnh thế” này, giống như là sự lặp lại của lịch sử – Đời trước trồng cây, đời sau hưởng quả. Khang Hy đại đế đã gieo trồng căn nguyên phúc lành của thời kỳ hoàng kim, kéo dài đến thời kỳ Càn Long vẫn còn thừa hưởng phúc phận của thời đại hưng thịnh ấy.

4.Hoàng đế Constantinus – Đế vương có công đức lớn nhất ở phương Tây

Bức tượng hoàng đế Constantinus ở quảng trường của giáo đường York Minster, nước Anh.

Các bậc đế vương có thành tựu nhất trong lịch sử phương Tây, người đầu tiên phải nói đến Constantinus Đại đế. Ông đã rửa oan cho Cơ Đốc giáo bị Đế quốc La Mã bức hại gần 300 năm, công đức to lớn, ảnh hưởng to lớn đối với thế giới như vậy, trong xã hội phương Tây thật sự là xưa nay hiếm thấy.

Những tư liệu lịch sử tuy có những chỗ không trùng khớp, nhưng đều nhất trí chỉ ra rằng: Trong khi hoàng đế La Mã Diocletianus phỉ báng Cơ Đốc giáo là tà giáo, điên cuồng bức hại, tùy tiện giết hại, thì Constantinus lại có thể nhận rõ Cơ Đốc giáo là chân lý chính nghĩa. Trong khi đế quốc La Mã chia rẽ, ông có thể bộc lộ tài năng của mình trong hỗn chiến, tranh đoạt đế vị của 8 vị hoàng đế, không ngừng giành được thắng lợi, thống nhất La Mã, gây dựng lại đại đế quốc kéo dài đến tận ba châu lục lớn là châu Á, châu Âu, châu Phi. Đây là kết quả Constantinus tín ngưỡng Cơ Đốc giáo, và có được khải thị của Thần.

Tuy “sắc lệnh Milan” rửa oan cho Cơ Đốc giáo là do Constantinus Đại đế và Licinius – một hoàng đế khác của đế quốc La Mã cùng ban bố, nhưng Licinius lành trước dữ sau, về sau đã trở mặt đi trên con đường cũ bội giáo, quay lại bức hại Cơ Đốc giáo, cuối cùng đã thất bại dưới tay Hoàng đế Constantinus.

Đế quốc La Mã chia năm xẻ bảy, dưới kiếm của hoàng đế Constantinus đã được thống nhất trở lại, đế quốc to lớn tiến đến thời đại hưng thịnh. Vinh diệu to lớn này, chính là nhờ công đức to lớn trong việc ông đã rửa oan cho Cơ Đốc giáo, phục hưng Cơ Đốc giáo. Có công đức to lớn như vậy, mới có thể đưa đến vinh diệu huy hoàng và phúc phận to lớn của quốc gia. Đây chính là quy luật của những thời đại hưng thịnh.

Xem tiếp Phần 5

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/08/03/153981.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”四.html

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (4): Quy luật thịnh thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (3): Tấm gương của lịch sửhttps://chanhkien.org/2016/09/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-3-tam-guong-cua-lich-su.htmlMon, 19 Sep 2016 11:14:37 +0000http://chanhkien.org/?p=24879Tác giả: Lưu Hương Liên [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 2 VI.Những tội ác lớn nhất trong lịch sử 1.Những tội ác lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc Những tội ác lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc là sự kiện mấy lần diệt Phật với của vị hoàng đế vì chống lại Phật Pháp mà […]

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (3): Tấm gương của lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Hương Liên

[ChanhKien.org]

Tiếp theo phần 2

VI.Những tội ác lớn nhất trong lịch sử

1.Những tội ác lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc

Những tội ác lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc là sự kiện mấy lần diệt Phật với của vị hoàng đế vì chống lại Phật Pháp mà tạo thành bốn lần đại nạn, sử sách gọi là sự kiện “Tam Vũ nhất Tông diệt Phật”. Tình tiết khác nhau, nhưng kết cục lại khiến người ta rùng mình như nhau! Trong đó, một lần diệt Phật còn chưa kịp thực thi, thì ngôi cao kia đã tự đánh mất đế vị.

a.Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào nhà Bắc Ngụy diệt Phật, chết ở tuổi tráng niên, họa đến con cháu

Thời kỳ Nam Bắc triều, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào (tộc người Tiên Ty) đích thân thống lĩnh đội quân tinh nhuệ san bằng bốn nước, thống nhất phương Bắc. Chiến công hiển hách, khiến cho Bắc Ngụy quốc lực lớn mạnh. Lúc đó Phật Pháp đã được lưu truyền rộng rãi, rất nhiều người xuất gia tu hành. Nhưng Thác Bạt Đào không tin Phật Pháp, dưới sự xúi bẩy của trọng thần Thôi Hạo người Hán, đã bắt đầu cuộc vận động diệt Phật.

Năm 438, Thác Bạt Đào hạ chiếu, lệnh cho tăng lữ 50 tuổi trở xuống hoàn tục, giải quyết nguồn cung binh lính.

Năm 444, lại lấy cớ Phật giáo làm “hoạt động mê tín”, hạ chiếu trục xuất tăng nhân.

Năm 446, dưới sự góp ý nhiều lần của Thôi Hạo, ông đã hạ chiếu diệt Phật nghiêm trọng nhất: đập bỏ tượng Phật, đốt bỏ kinh thư, phá bỏ chùa chiền, chôn sống tăng lữ.

Lúc đó, thái tử một lòng tin theo Phật Pháp đã hết lần này đến lần khác dâng sớ khuyên can, trì hoãn việc ban bố chiếu thư, một số tăng nhân trốn thoát được. Không được mấy ngày, Thác Bạt Đào lại bắt đầu đập bỏ tháp Phật, hủy tượng Phật để đúc tiền, đốt kinh thư, giết hại tăng ni… trên dưới cả nước phải sống trong cảnh phập phồng lo sợ.

Thôi Hạo, người cực lực thúc đẩy cuộc vận động diệt Phật, đã rơi vào kết cục thê thảm. Năm 450, lão thần đã qua ba triều đại này và người thân ba nhà của ông ta đã bị diệt tộc, trước khi chết phải chịu cực hình thảm khốc, lăng nhục đủ điều, tiếng kêu khóc thấu trời… Khi đó mọi người đều nói, đây là báo ứng diệt Phật của Thôi Hạo.

Hai năm sau, Thái Vũ Đế tựa như mặt trời ban trưa, lại bị hoạn quan giết chết, tuổi mới 45. Hai người con trai của ông ta (thái tử và cung tông) cũng lần lượt bị chết trong tay của tên hoạn quan.

b.Vũ Đế Vũ Văn Ung nhà Bắc Chu diệt Phật, chết bất ngờ ở tuổi tráng niên, họa đến đời con cháu

Cuối thời Nam Bắc triều, Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung (người Tiên Ty) anh võ thiện chiến, 32 tuổi (năm 575) đã đích thân chinh phạt Bắc Tề, đến 34 tuổi đã thống nhất phương Bắc lần nữa.

Năm 574, Vũ Văn Ung tuyên bố không sợ xuống địa ngục, Phật Đạo đều diệt hết, đốt bỏ kinh thư, đập bỏ tượng Phật, lệnh cho hòa thượng và Đạo sĩ hoàn tục. Sau khi tiêu diệt Bắc Tề, lại cấm Phật giáo, Đạo giáo trong nước Bắc Tề, phá bỏ và biến 40.000 ngôi chùa Đạo viện thành nhà ở, thiêu hủy dấu tích của Phật Pháp, cưỡng ép 3.000.000 tăng ni hoàn tục, khiến cho Phật Pháp ở phương bắc gần như tuyệt tích. Tháng 06 năm sau, Bắc phạt Đột Quyết, Vũ Đế điều động đại quân đến, trong lúc hả lòng hả dạ thì đột nhiên mắc bệnh nặng mà chết, tuổi chỉ mới 35.

Bắc Chu diệt Phật, họa không chỉ dừng lại ở đây! Thái tử Vũ Văn Vân 19 tuổi lên ngôi, tàn bạo hoang dâm, năm sau đã nhường ngôi cho đứa con trai 6 tuổi, bản thân ở trong hậu cung phóng túng hoang dâm, 3 năm sau thì bệnh chết. Sau khi con thơ kế vị, đại quyền rơi vào trong tay ông ngoại là Dương Kiên. Dương Kiên rất mau chóng đã diệt sạch 43 gia tộc con cháu hoàng thất Vũ Văn, ngoài ra tông thất Vũ Văn cơ bản đã bị giết sạch không còn lại một ai. Năm 581, Dương Kiên phế bỏ Bắc Chu, lập nên triều Tùy.

c.Đường Vũ Tông Lý Viêm diệt Phật, tráng niên bệnh chết

Trước khi Đường Vũ Tông Lý Viêm lên ngôi, vốn đã thích Đạo thuật. Sau khi lên ngôi lúc 26 tuổi, ngày càng thiên vị Đạo giáo, dưới sự xúi bẩy của những tín đồ Đạo giáo bên cạnh, bắt đầu chỉnh đốn Phật giáo, về sau đã diễn biến thành nạn diệt Phật. Bởi vì Đường Vũ Tông diệt Phật vào giữa những năm Hội Xương, nên được gọi là “Hội Xương diệt Phật”.

Tháng 04 năm Hội Xương, sau khi chuẩn bị đầy đủ, đã triển khai cuộc vận động diệt Phật toàn diện trong phạm vi cả nước. Tất cả chùa chiền đều bị phá hủy, hết thảy tượng đồng, chuông khánh, vật dụng bằng đồng trong chùa đều giao cho quan viên nung chảy đúc tiền, vật dụng bằng sắt giao cho châu quận địa phương đúc thành nông cụ. Chiếu thư rõ ràng, lệnh phá bỏ hơn 4.600 chùa miếu, hơn 40.000 ngôi miếu nhỏ, lượng lớn kinh Phật đã bị đốt bỏ, bắt ép hơn 260.000 tăng ni hoàn tục, hòa thượng đến từ Ấn Độ và Nhật Bản cũng không may mắn thoát thân.

Đại Đường thịnh thế, cũng là thời kỳ mà Phật Pháp thịnh hành, sau khi Đại Đường suy yếu, Phật Pháp vẫn đi sâu vào lòng người. Vũ Tông diệt Phật đánh mất lòng dân, cục diện xã hội vốn dĩ an định ngày càng suy vong trong tiếng kêu than khắp nơi của người dân.

Không lâu sau Vũ Tông đột nhiên bệnh chết, tuổi chỉ mới 33.

d.Thế Tông Sài Vinh nhà Hậu Chu diệt Phật, tráng niên bệnh chết, họa đến con cháu

Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh “hùng tài đại lược” được khen ngợi là “đệ nhất minh quân” thời Ngũ Đại. Ông đã cải cách toàn diện, mở mang bờ cõi, đánh đâu thắng đó, nhưng lại chết ở tuổi tráng niên khi chỉ mới 39 tuổi, mãi đến hôm nay vẫn khiến cho người ta ngậm ngùi tiếc nuối.

Sài Vinh đoản mệnh, nhìn thì thấy giống như là ngẫu nhiên, nhưng lại không ngẫu nhiên chút nào. Chúng ta hãy xem ghi chép trong chính sử, Sài Vinh ngoài những công tích vĩ đại đó ra, thì còn có gì nữa.

Năm thứ hai Sài Vinh lên ngôi, tháng 05 năm 955, đã hạ chiếu phá hủy chùa chiền. Chùa miếu Phật Pháp trong nước, ngoài những ngôi chùa có bút tích của hoàng đế có thể được giữ lại ra, mỗi huyện chỉ còn có một ngôi chùa, những ngôi chùa còn lại đều bị hủy hết. Cả nước tổng cộng đã phá bỏ 30.360 ngôi chùa, hủy tượng Phật đúc tiền, gần triệu tăng ni bị ép phải hoàn tục.

Vào năm Phật Pháp hưng thịnh đó, rất nhiều người không dám ra tay phá hủy tượng Phật. Sài Vinh ngang nhiên nói: “Phật là Phật, tượng là tượng. Phật ngay cả thịt, mắt cũng đều có thể bố thí, đập tượng Phật đúc tiền, Phật cũng sẽ đồng ý thôi”.

Chùa Đại Bi ở Trấn Châu (huyện Chánh Định, thị trấn Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc ngày nay) có một tượng Quán Âm Bồ Tát bằng đồng lớn rất linh thiêng, những người đi đập tượng Phật đều tự chém đứt cổ tay mà chết, không người nào dám hạ thủ. Sài Vinh đích thân bước lên, dùng cây rìu lớn đập vào ngực của tượng Bồ Tát, đích thân phát động cuộc vận động diệt Phật.

Về sau, Sài Vinh hỏi Vương Phác là người tinh thông thuật số: “Trẫm có thể sống được mấy năm?”

Vương Phác trả lời: “Sau năm 30 thì không biết được”. Sài Vinh hiểu sai rằng còn có thể sống đến năm 30, nên rất vui mừng,

Nhưng mà, lời của Vương Phác lại có ngụ ý khác, Sài Vinh tại vị 5 năm 6 tháng, năm lần sáu vừa khéo lại là số 30.

Năm 959, Sài Vinh muốn thu phục 16 châu ở Yên Nam, thống lĩnh đại quân, tiến đánh U Châu. Khi xa giá đến quan Ngõa Kiều, Sài Vinh đứng ở trên cao nhìn xuống, nghe người dân nói nơi này gọi là “Bệnh Long Đài” (“bệnh long” ý là rồng bệnh), thì lập tức lên ngựa quay trở về. Ngay đêm hôm đó phần ngực ông bị lở loét. Không lâu sau vết loét trên ngực của Sài Vinh lan rộng thối rữa mà chết, mọi người lúc đó đều truyền tai nhau rằng đây là quả báo chém vào ngực của tượng Phật.

Con trai 5 tuổi của Sài Vinh lên ngôi không được một năm, đã bị thống soái Triệu Khuông Dẫn đoạt mất giang sơn, rơi vào cảnh nước mất nhà tan.

Không kể người đời sau thương tiếc Sài Vinh “tuổi trẻ tài cao mất sớm” như thế nào, cũng không thể che đậy “quả báo tội ác” của ông ta. Kết cục này, vốn không phải chuyện mới lạ gì, chỉ là ác báo của ba lần diệt Phật trước đó lặp lại mà thôi.

2.Những tội ác lớn nhất trong lịch sử phương tây

Tội ác lớn nhất trong lịch sử phương tây là bức hại Cơ Đốc giáo. Từ người đứng đầu Do Thái giáo bày mưu giết hại Đức Chúa Giê-su cho đến đế quốc La Mã bức hại các tín đồ Cơ Đốc giáo trong khoảng thời gian gần 300 năm, mỗi một lần bức hại chính giáo, thì luôn kèm theo từng đợt từng đợt ôn dịch trời giáng, lịch sử đã để lại một bài học đau thương giữa sống và chết đối với nhân loại ngày hôm nay.

a.Do Thái giáo bày mưu hại chết Đức Giê-su

Tín ngưỡng đối với Đức Chúa của Do Thái giáo là khởi nguồn của Cơ Đốc giáo. Kinh điển Ngũ Thư Mô-sê (Ngũ Thư là năm quyển sách đầu tiên trong Kinh Thánh Hebrew, bao gồm: Sách Sáng thế, Sách Xuất hành, Sách Lêvi, Sách Dân số và Sách Đệ nhị luật) mà Do Thái giáo tín phụng là nội dung kế thừa quan trọng được Cơ Đốc giáo lấy làm Cựu Ước trong Kinh Thánh. Câu chuyện về Đức Giê-su và những môn đồ truyền giáo của Ngài được các tín đồ Cơ Đốc ghi chép lại, làm phần Tân Ước trong Kinh Thánh. Nhưng, Do Thái giáo không thừa nhận quyển kinh Tân Ước.

Do Thái giáo Mạt Pháp, Đức Giê-su hạ thế truyền tân pháp

Tại sao lại gọi là Cựu Ước, Tân Ước? Ý chính là giao ước mà Thượng Đế xác lập cho con người, trong đó có viết những điều răn mà các tín đồ cần phải tuân thủ. Cựu Ước là Mô-sê ký kết cho người Do Thái thế kỷ thứ 13.

Bởi bất cứ sự vật gì đều sẽ tuân theo quy luật “sinh thành, phát triển lớn mạnh, suy yếu, tiêu vong”, trong Phật giáo gọi là “thành – trụ – hoại- diệt”, đây cũng là phép tắc mà bất kỳ tôn giáo nào trong lịch sử cũng không thể siêu việt được. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni người sáng lập Phật giáo đã từng tiên tri về quá trình phát triển của Phật giáo: “thời kỳ Chính Pháp” (500 năm, Phật giáo thuần chính), “thời kỳ Tướng Pháp” (1000 năm, Phật giáo bị rối không thuần, nhưng là có Pháp, có Phật tướng ở đó, còn có thể tu hành độ nhân), và sau cùng đi vào “thời kỳ Mạt Pháp” (Phật giáo bị làm loạn, không thể độ nhân được nữa). Ba giai đoạn này, thật ra cũng thích hợp với Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, chẳng qua là thời gian dài ngắn khác nhau mà thôi.

Thật ra, Mô-sê cũng đã dự ngôn về “mạt Pháp” trong Do Thái giáo xưa, trong “Sách Đệ Nhị Luật” của Cựu Ước Mô-sê đã nói: “Ta biết rằng sau khi ta chết rồi, các ngươi ắt sẽ bại hoại hoàn toàn, xa rời khỏi lời mà ta căn dặn các ngươi”. Một nghìn năm sau khi Mô-sê qua đời, Do Thái giáo đã đi vào thời mạt Pháp, mọi người đã không thể lý giải hàm nghĩa chân chính của giáo nghĩa nữa, có những đền thờ đã rõ ràng đã trở thành thị trường giao dịch, thậm chí mua bán gia súc (xem trong “Phúc Âm Ma-thêu” của Tân Ước)…….

Vào thời gian Do Thái giáo mạt Pháp, Đức Giê-su xuất thế, truyền giảng giáo nghĩa mới, đã có một lượng lớn người tin theo, điều này đã chọc giận thế lực Do Thái giáo đương thời.

Các thượng tế và kỳ mục là người đứng đầu dân tộc Do Thái, họ muốn hại chết Đức Giê-su, nhưng người Do Thái không có quyền tự chủ. Bởi vì thời bấy giờ toàn bộ địa khu của dân tộc Do Thái dưới sự thống trị của đế quốc La Mã, cần phải nghe theo lệnh của tổng trấn do đế quốc La Mã sai đến. Vì vậy các thượng tế Do Thái giáo bắt giữ Đức Giê-su, giải đến chỗ tổng trấn Phi-la-tô, yêu cầu Phi-la-tô phán Người tội tử hình.

Tổng trấn Phi-la-tô cho rằng Đức Giê-su vô tội, nhiều lần muốn phóng thích. Nhưng Do Thái giáo phẫn nộ và các thượng tế không can tâm, mạnh mẽ yêu cầu đóng đinh Đức Giê-su lên thập tự giá xử tử Người, cả một vùng trở nên náo loạn đòi tổng trấn Phi-la-tô tử hình Đức Giê-su.

“Phúc âm Ma-thêu” của kinh Tân Ước ghi lại rằng: Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”. Toàn dân đáp lại: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”

Lời thề này cuối cùng đã ứng nghiệm, trở thành ác mộng mà người Do Thái không thoát được trong hơn cả nghìn năm.

Tội ác hoàn trả gần hai nghìn năm

Đại chiến ắt bại, Trời không che chở. Đây là sự thật khiến cho người Do Thái đau lòng nhưng lại không thể không đối diện.

Năm 66, người Do Thái tổ chức nổi loạn bị tổng trấn La Mã trấn áp, chỉ riêng tổng trấn Caesarea đã có hơn 20.000 người Do Thái bị giết. Sau đó người Do Thái đã phát động khởi nghĩa.

Năm 70, đại quân La Mã đã đánh bại quân khởi nghĩa, có khoảng 1,1 triệu người Do Thái đã chết trong chiến trận, 70.000 người bị bán làm nô lệ, những người bị đóng lên thập tự giá xử tử nhiều không đếm xuể. Thánh điện Giê-ru-sa-lem đã bị cướp phá không còn lại gì, Chân nến Shabbat và các thánh vật bị đưa đến La Mã. La Mã đã xây dựng Khải hoàn môn Constantinus để kỷ niệm chiến thắng lần này.

Năm 132, người Do Thái khởi nghĩa lần nữa, ba năm sau đã bị dập tắt, hơn 500.000 người Do Thái gặp nạn. Đế quốc La Mã lệnh cho hết thảy người Do Thái mãi mãi không được trở về quê hương, những người Do Thái may mắn sống sót từ đây đã bắt đầu cuộc sống lưu vong đến các nơi trên thế giới, nhưng trong vùng đất của các dân tộc khác cũng luôn luôn bị hắt hủi bài xích.

Hai nghìn năm, lịch sử di dời, tản mạn khắp nơi của người Do Thái chính là lịch sử bị hắt hủi bài xích ở các nơi trên thế giới. Đế quốc La Mã mãi luôn chèn ép người Do Thái, sau khi đế quốc này sụp đổ cũng không có thuyên giảm. Năm 1290, nước Anh trục xuất người Do Thái; năm 1306 – năm 1394, nước Pháp nhiều lần xua đuổi người Do Thái; năm 1348, Thụy Sĩ bài xích người Do Thái; năm 1349 – năm 1360, Hung-ga-ri bài xích người Do Thái; năm 1391, Tây Ban Nha bức hại, tàn sát người Do Thái trên quy mô lớn; năm 1421, nước Áo bài xích người Do Thái; năm 1492, toàn bộ 400.000 người Do Thái ở Tây Ban Nha đã bị tịch thu toàn bộ tài sản, trục xuất ra nước ngoài; năm 1497, Bồ Đào Nha học theo Tây Ban Nha bài xích người Do Thái. Năm 1881, nước Nga bài xích, giết hại người Do Thái; năm 1939 đến năm 1945, phát xít Đức đã giết hại hơn 6 triệu người Do Thái.

Giống như phép tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” mà Mô-sê định ra trong kinh Cựu Ước. Con cháu của dân tộc Do Thái, trên tổng thể vốn không có làm chuyện ác gì, nhưng lại phải chịu khổ nạn trong gần 2.000 năm, đây chỉ có thể minh chứng rằng họ đang ứng nghiệm với lời thề độc trong lúc huyên náo của tổ tiên họ khi hại chết Chúa Giê-su, phải hoàn trả tội lỗi của tổ tiên họ.

Lịch sử bị kịch càng có thể lưu lại lời cảnh tỉnh cho nhân loại. Do Thái giáo đã đến thời kỳ mạt Pháp, Thánh giả Giê-su xuất thế truyền chính pháp cứu chuộc cho dân tộc Do Thái, nhưng lại bị chính người đứng đầu của người dân Do Thái hại chết, bức hại Giác Giả truyền Chính Pháp, tội lỗi chính là to lớn như vậy.

Mãi đến năm 1948, bộ phận người Do Thái ở sống tản mác lưu lạc ở các nơi trên thế giới đã trở về vùng đất của tổ tiên để thực hiện lời tiên tri “Israel phục quốc” trong kinh Cựu Ước. Từ đó trở đi, thắng lợi lâu ngày không gặp cuối cùng đã đến, Israel đã thắng trận giống như có kỳ tích vậy, vị Thần mà họ tôn thờ và tín phụng, dường như lần nữa đã bắt đầu quan tâm đến dân tộc đã phải chịu nhiều khổ nạn này –   đó là bởi Cứu Thế Chủ Mê-si-a sắp truyền Chính Pháp ở thế gian con người, vậy nên đã cấp cho dân tộc cổ xưa này một cơ duyên cứu độ bình đẳng.

b.Đế quốc La Mã bức hại tín đồ Cơ Đốc

Sau khi Đức Giê-su bị hại, Do Thái giáo tiếp tục lùng bắt các đệ tử truyền giáo của Đức Giê-su. Không bao lâu, đế quốc La Mã cũng bắt đầu cuộc đàn áp tàn bạo đối với Cơ Đốc giáo.

Kết cục của chính sách tàn bạo của Nê-rô

Năm 54, Nê-rô kế nhiệm hoàng đế La Mã. Nê-rô nổi tiếng hoang dâm bạo ngược, giết người như ngóe, ngoài việc giết oan các quan đại thần ra, còn giết chết người mẹ ruột, anh em và hai người vợ của mình.

Năm 64, Nê-rô vì để mở rộng xây dựng hoàng cung đã phóng hỏa thiêu hủy thành La Mã (bởi thời bấy giờ rất khó tháo bỏ những nhà dân xung quanh hoàng cung), và sau đó giá họa cho các tín đồ Cơ Đốc, miêu tả Cơ Đốc giáo thành tà giáo mê tín phản xã hội, kích động dân chúng La Mã tham gia bức hại. Hàng loạt tín đồ Cơ Đốc giáo bị giết, bị ném vào trường đấu thú và bị mãnh thú xé xác ăn thịt trong tiếng kêu la hò hét của người La Mã… Nê-rô còn lệnh cho người ta trói các tín đồ Cơ Đốc với những bó cỏ khô, và xếp thành hàng trong hoa viên làm thành những ngọn đuốc lửa để dạo chơi ban đêm.

“Lời cầu nguyện cuối của tín đồ Cơ Đốc tử vì Đạo”, bức tranh miêu tả tình cảnh thảm khốc của các tín đồ Cơ Đốc giáo bị Đế chế La Mã bức hại, trên những cây cột trụ xung quanh đấu trường, bên trái là các tín đồ bị lửa thiêu sống, bên phải là tín đồ bị xử tử đóng đinh trên thập tự giá, ở giữa chính là một nhóm tín đồ sắp bị mãnh thú xé xác ăn thịt.

Dưới trường bức hại điên cuồng, cũng đã gieo phải mầm họa cho Nê-rô và dân chúng La Mã. Năm 65, đế quốc La Mã bùng phát dịch bệnh (có học giả sau này cho rằng là bệnh sốt rét nặng). Năm 68, người La Mã khởi nghĩa chống lại chính quyền bạo ngược, thành La Mã nổi loạn, Nê-rô đã tự sát trong lúc trốn chạy, khi đó chỉ mới 31 tuổi.

Những đế vương La Mã lên ngôi sau đó vẫn tiếp tục bức hại Cơ Đốc giáo, họ không tin rằng bức hại chính giáo sẽ mang đến ác báo cho quốc gia, nhân dân cũng như bản thân mình, càng không tin những trận ôn dịch đó là cảnh tỉnh của Thiên thượng. Cơ Đốc giáo mãi luôn bị định là phi pháp, có nơi còn bị trưởng quan địa phương bức hại nặng nề thậm chí bị giết hại, cũng có quan viên mắt nhắm mắt mở. Cuộc bức hại Cơ Đốc giáo lúc chặt chẽ lúc nới lỏng kéo dài gần 300 năm, ôn dịch bao trùm toàn bộ La Mã cũng không khiến trường bức hại thuyên giảm đi chút nào.

“Hiền đế” vô đức, ôn dịch trời giáng 

Tên chính thức của vị hoàng đế La Mã này là Marcus Aurelius Antoninus Augustus, Augustus là cách gọi kính trọng, ý là “Thần thánh, trang nghiêm, vĩ đại”, dựa theo tập quán thời bấy giờ, nên gọi ông là Antoninus. Trận đại ôn dịch trong khoảng thời gian mà ông nắm quyền, chính là được gọi theo tên của ông: ôn dịch Antoninus.

Bởi vì Aurelius đã để lại một bộ tác phẩm “Suy ngẫm” (The Meditations), có một số “tư tưởng triết học”. Vì vậy các nhà sử học sau này đã miêu tả ông là hiền đế La Mã, hoàng đế triết học, hoàng đế nhà tư tưởng, và gọi ông là “Aurelius”, cứ như vậy đã cắt đứt mối quan hệ giữa Aurelius Antonninus và “đại ôn dịch Antoninus” đó.

Năm 161, Marcus Aurelius Antoninus đã trở thành Hoàng đế La Mã.

Cuộc bức hại của Nê-rô đối với Cơ Đốc giáo chỉ là ở trong thành La Mã, còn Aurelius thì lại muốn diệt trừ tận gốc tín đồ Cơ Đốc giáo trên toàn quốc. Ông ta hạ chiếu phán xử gia sản của các tín đồ Cơ Đốc giáo cho người tố cáo, nhằm dụ dỗ người dân cả nước đi tìm kiếm, tố cáo các tín đồ Cơ Đốc giáo. Chính phủ lợi dụng các loại cực hình tra tấn dã man nhằm ép buộc các tín đồ Cơ Đốc giáo từ bỏ tín ngưỡng, nếu không từ bỏ thì sẽ bị chém đầu hoặc ném vào đấu trường để cho mãnh thú xé xác, còn để cho mọi người vây xem tìm niềm vui.

Kỳ thực, hoàng đế Aurelius Antoninus rất tương đồng với hoàng đế Sài Vinh nhà Hậu Chu thời Ngũ Đại Trung Quốc. Hai người đều có chiến công hiển hách, nhưng đều là bức hại chính giáo (Sài Vinh “diệt Phật” trên cả nước), rồi đều là mắc bệnh nặng trong chiến tranh, chết một cách mau chóng, cũng đều được người đời sau gọi là “anh minh chi chủ” (vị vua anh minh), cứ như vậy đã che đậy những tội ác tày trời của ông ta.

Aurelius Antoninus sau khi nắm quyền được 5 năm, năm 166, một trường đại ôn dịch đã giáng xuống, bởi vì xảy ra vào thời kỳ thống trị của Hoàng đế Marcus Aurelius Antoninus, vậy nên sử sách đã gọi đây là “ôn dịch Antoninus”.

Mộ phần hỗn loạn của những người đã chết trong dịch bệnh Antoninus thời La Mã cổ đại.

Trận đại dịch Antoninus quét qua toàn quốc, những ghi chép trong sử sách quả thật là khiến người ta không khỏi kinh tâm động phách, nhìn thấy mà kinh hãi giật mình:

“Những xác chết vì không có người chôn cất mà thối nát, phân hủy ngay trên đường phố. Phần bụng của họ sưng phù lên, từng cơn từng cơn nước mủ không khác gì những dòng nước lũ từ trong miệng nôn ra, cặp mắt đỏ rực, tay thì giơ lên cao. Xác chết chất chồng lên xác chết, la liệt phân hủy ngay trên từng con đường, trên từng góc phố, cửa hiên ngoài sân nhà hoặc trong giáo đường.

Trong những đám sương mù ngoài biển cả, có những con thuyền chỉ vì những tội lỗi của thuyền viên, cũng không tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thượng Đế, đã trở thành những ‘nấm mồ’ lênh đênh trôi giạt trên những cơn sóng lớn ngoài biển cả.

Khắp đồng ruộng mênh mông đều là những cây lúa dựng đứng đã chuyển sang màu trắng, không có người thu hoạch mang về kho, từng đàn từng đàn lớn những con cừu, con dê, trâu bò và heo sắp biến thành động vật hoang dã, những súc vật này đã quên mất có người đã từng thả nuôi chăn dắt chúng. Trong thành Constantinople, số người chết càng không thể tính đếm…, xác chết đành phải chất thành đống ở trên đường phố, toàn bộ thành phố đều bốc mùi hôi thối”.

Tư liệu nghiên cứu thống kê nhân khẩu cho thấy, tỷ lệ tử vong bình quân của trận ôn dịch Antoninus đại khái khoảng là 7-10%, còn trong thành thị và quân đội rất có khả năng là 13-15%.

Khi đó, một vị bậc thầy của hoàng đế Aurelius Antoninus cũng đã nhắc đến trận ôn dịch này trong một lá thư, nói rằng nó (trận ôn dịch) khiến cho một phần ba nhân khẩu ở một số khu vực đã chết bởi dịch bệnh, đồng thời một phần mười binh sĩ trong quân đội cũng bị truyền nhiễm mà chết. Triệu chứng ôn dịch được miêu tả trong sử sách: tiêu chảy dữ dội, nôn mửa, cổ họng sưng to, thân thể rữa nát, sốt cao nóng đến phỏng cả tay, tay chân lở loét hoặc mọc ung nhọt, cảm thấy khát nước không thể chịu đựng, lớp da hóa mủ.

Năm 169, đế vương Verus – người cùng Aurelius Antoninus thống trị La Mã đã chết bởi trận ôn dịch. Năm 180, bản thân Aurelius Antoninus cũng chết bởi ôn dịch.

Đế quốc La Mã hùng mạnh trong trận ôn dịch hoành hành 16 năm đã đi đến suy vong, thời kỳ hoàng kim của đế quốc La Mã với lãnh thổ kéo dài đến cả ba châu lớn là châu Á, châu Âu, châu Phi đã đoạn đứt trong tay của vị “vua hiền đức” này.

Tội ác tày trời trong việc bức hại các tín đồ Cơ Đốc giáo của của “hiền đế” Aurelius Antoninus, không chỉ đã dẫn đến cái chết trời giáng cho bản thân và người thân, đã hại chết đồng liêu, hại những quân lính chấp hành mệnh lệnh bức hại, còn kéo theo hàng nghìn vạn sinh mệnh người dân trên khắp cả nước.

Decius và ôn dịch Cyprian 

Năm 249, Decius lên ngôi, thời bấy giờ đế quốc La Mã rộng lớn đã đứng trước mối nguy hiểm trùng trùng. Vì để xoay chuyển nguy cơ, ông đã phát động một cuộc bức hại chưa từng có đối với các tín đồ Cơ Đốc giáo. Ông ta hạ chiếu, lấy hình thức của luật pháp quy định người người nhất định phải đi bái tế tượng Thần của La Mã và tượng các vị đế vương La Mã để có được một tờ giấy chứng nhận của chính phủ. Những ai không có giấy chứng nhận thì sẽ bị xử tử.

Đây là cuộc bức hại có kế hoạch nhắm vào các tín đồ Cơ Đốc giáo, trên hình thức cũng là bôi nhọ đối với tín ngưỡng của họ. Bởi vì tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo không thừa nhận cũng không thể tế bái những vị Thần khác (chính là giống như “bất nhị pháp môn” trong Phật giáo). Đây cũng giống như lấy hình thức pháp lệnh của chính phủ để hủy diệt giáo quy, giới luật và tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo. Một lượng lớn các tín đồ Cơ Đốc giáo kiên trinh đã vì tín ngưỡng thà chết chứ không chịu khuất phục.

Năm sau, ôn dịch lại kéo đến lần nữa. Trường ôn dịch này được ghi chép bởi một vị giáo chủ Cyprian của Cơ Đốc giáo, vậy nên được gọi là ôn dịch Cyprian.

Decius lên ngôi hai năm đã chết trong chiến trận, và trường ôn dịch này đã hoành hành gần 20 năm, đã cướp đi mạng sống của 25.000.000 người, là một trong những trận ôn dịch có số người chết nhiều nhất trong lịch sử. Vào thời cao điểm nhất, thành La Mã mỗi ngày có đến 5.000 người chết, sức chiến đấu trong quân đội giảm sút to lớn. Năm 270, vị vua Claudius II cũng chết trong trận ôn dịch.

Diocletianus, hai năm điên cuồng 

Đối diện với bức hại, các tín đồ Cơ Đốc giáo vẫn giữ gìn tín ngưỡng của mình, xem cái chết giống như con đường để quay trở về. Họ ở trong khổ nạn vẫn khuyến thiện giảng đạo với người đời, thậm chí trước khi bị hành hình vẫn giống như Đức Giê-su năm xưa, cầu chuyện cho những kẻ đã bức hại mình. 

Trong trận đại ôn dịch, người ta đều xua đuổi người thân mắc bệnh ra khỏi nhà, lo sợ bị nhiễm bệnh, còn các tín đồ Cơ Đốc giáo lại dũng cảm không màng đến an nguy của mình đi ra ngoài phố chăm sóc chữa trị cho những người mắc bệnh, truyền giảng Phúc Âm, cầu nguyện cho họ, cử hành tang lễ cho người chết. Biểu hiện của Thần tính hết sức thiện lương này đã khiến cho người đời nhìn thấy được sự vĩ đại của chính tín, khiến cho những lời vu cáo phỉ báng của chính quyền đối với Cơ Đốc giáo đã hoàn toàn mất đi thị trường.

Cơ Đốc giáo trong thời gian bị bức hại trái lại càng phát triển lớn mạnh hơn, đến khi Diocletianus được lập làm hoàng đế, người vợ và rất nhiều người hầu cận đều là tín đồ Cơ Đốc giáo.

Diocletianus khi còn tại vị, lúc đầu vẫn còn khoan dung đối với các tín đồ Cơ Đốc giáo, về sau dưới sự xúi bẩy của người con rể – phó đế Galerius, đã bắt đầu cuộc bức hại chưa từng có trong lịch sử: Đốt bỏ kinh sách của Cơ Đốc giáo, phá bỏ giáo đường; tịch thu tài sản; thanh trừ hết thảy các tín đồ Cơ Đốc giáo trong quân đội và quan lại; về sau đã trực tiếp vạch rõ ranh giới với tín ngưỡng, những người tín ngưỡng Cơ Đốc bị bắt, bị tra tấn hành hạ, những ai không từ bỏ tín ngưỡng thì bị xử tử.

Sau hai năm điên cuồng, Diocletianus vì sức khỏe ngày càng xấu đi nên đã thoái vị.

Galerius ăn năn hối lỗi 

Hoàng đế La Mã Galerius sau hai năm điên cuồng bức hại các tín đồ Cơ Đốc giáo đã thật lòng sám hối.

Năm 305, lúc đầu khi Galerius từ phó đế lên ngôi trở thành chính đế, liền bắt đầu cuộc bức hại đối với các tín đồ Cơ Đốc giáo trên quy mô lớn. Vào năm thứ 6, ông đã mắc phải một chứng bệnh quái ác. Theo ghi chép của nhà sử học Cơ Đốc giáo: Hành hạ đau đớn tàn khốc của căn bệnh giống như chính trị tàn khốc của ông ta vậy, tinh hoàn của ông ta đã xuất hiện triệu chứng bưng mủ, về sau đã mọc một khối u lớn, dòi bọ từ trong đến ngoài xâu xé da thịt ông. Thân thể ông rữa nát, và cơn đau dữ dội cũng khiến ông không còn ra hình người nữa.

Các bác sĩ bó tay không còn cách nào. Có những bác sĩ trong lúc xem bệnh cho ông quả thật không thể chịu đựng nổi cái mùi hôi thối mà quay mặt sang một bên ói mửa, lần này đã thật sự chọc giận tên bạo chúa, ông ta đều đã giết chết những bác sĩ này. Đến cuối cùng, thân thể của Galerius đã hoàn toàn biến dạng, nhìn vào chỉ là một cái bao lớn sưng phù. Thân trên của ông trở nên khô cứng, chỉ còn da bọc xương, còn thân dưới của ông cảm giác giống bánh pudding, hai chân của ông cũng đã biến dạng.

Sau một năm dày vò đau đớn bởi chứng bệnh, năm 311, cuối cùng ông đã tỉnh ngộ. Ông gọi tên Đức Chúa và thật lòng sám hối. Ông ở trên giường bệnh đã ban bố chiếu thư, hủy bò lệnh cấm đối với các tín đồ Cơ Đốc giáo trong khu trực thuộc miền đông La Mã, chấm dứt hết thảy bức hại đối với tín đồ Cơ Đốc giáo, đồng thời đã quy y Cơ Đốc giáo. Mấy năm sau, Galerius đã bình thản ra đi.

Hai năm sau, năm 313, Constantinus Đại đế và Licinianus một lòng tin theo Cơ Đốc giáo đã cùng nhau ban bố sắc lệnh Mi-lan rửa oan cho Cơ Đốc giáo. Nhưng đây chỉ là công đức và huy hoàng của cá nhân, chứ không cách nào hoàn trả tội ác bức hại Cơ Đốc giáo trong gần 300 năm của đế quốc La Mã. Sau Constantinus Đại đế, đế quốc La Mã hùng mạnh đã tan rã, về sau tuy lại được hoàng đế Theodosius sùng tín Cơ Đốc giáo tạm thời thống nhất, nhưng vẫn không thể đi ngược lại con đường tan rã và diệt vong.

Đến đây, chúng ta đã nhìn thấy tội ác lớn nhất trong lịch sử nhân loại chính là bức hại những chính giáo chính tín Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo, đặc biệt là bức hại Thánh giả truyền chính Pháp thì tội lỗi càng to lớn hơn, quả báo thê thảm đã lưu lại một bài học cảnh tỉnh sâu sắc cho người đời.

Vậy nên, ở một phương diện khác, thuận theo Đạo trời, truyền rộng thúc đẩy chính giáo chính Pháp, chấm dứt bức hại đối với chính giáo chính tín, lập lại trật tự, chính là công đức thiên đại.

Phần sau chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về căn nguyên cơ bản của những triều đại thịnh thế huy hoàng của Trung Quốc cổ đại. Sau khi xem xong, mọi người sẽ có thể hiểu được vì sao trong “Thôi Bối Đồ” nói đến, phải sau khi “thuận thiên thôi mệnh”, mới có thể mở ra thời đại hưng thịnh cho Trung Quốc cũng như toàn nhân loại.

Xem tiếp Phần 4

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/08/02/153980.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”三.html

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (3): Tấm gương của lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (2): Hé lộ về Tập Cận Bìnhhttps://chanhkien.org/2016/09/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-2-he-lo-ve-tap-can-binh.htmlMon, 19 Sep 2016 10:02:48 +0000http://chanhkien.org/?p=24877Tác giả: Lưu Hương Liên [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1 III. Quẻ tượng 53 trong Thôi Bối Đồ: Tập Cận Bình thay đổi triều đại? Sấm viết: Quan trung thiên tử Lễ hiền hạ sĩ Thuận thiên hưu mệnh Bán lão hữu tử Tạm dịch: Vua ở Quan Trung (ở nơi giữa cửa) Lấy lễ […]

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (2): Hé lộ về Tập Cận Bình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Hương Liên

[ChanhKien.org]

Tiếp theo phần 1

III. Quẻ tượng 53 trong Thôi Bối Đồ: Tập Cận Bình thay đổi triều đại?

Sấm viết:

Quan trung thiên tử

Lễ hiền hạ sĩ

Thuận thiên hưu mệnh

Bán lão hữu tử

Tạm dịch:

Vua ở Quan Trung (ở nơi giữa cửa)

Lấy lễ hiền với kẻ sĩ ở dưới

Thuận lòng trời sai khiến mệnh lệnh

Đến gần già mới có con.

Tụng viết:

Nhất cá hiếu tử tự tây lai

Thủ ác càn cương thiên hạ an

Vực trung lưỡng kiến tinh kì mĩ

Tiền nhân bất cập hậu nhân tài

Tạm dịch:

Có một đứa con hiếu nghĩa đến từ phía Tây

Cầm nắm lấy kỷ cương thiên hạ yên lành

Bờ cõi cờ quạt cả hai thấy đẹp đẽ

Người thời trước chẳng theo kịp được sự tài giỏi của người thời sau.

“Quan trung thiên tử”: Chỉ vùng đất Quan Trung xưa của nước Tần sinh ra thiên tử, tương đương với nguyên thủ của Trung Quốc hiện nay. Tập Cận Bình là người huyện Phú Bình, tỉnh Thiểm Tây, chính là người Quan Trung.

“Lễ hiền hạ sĩ” (hạ mình cầu hiền): Bình dị cận nhân – cận, bình, tức chỉ ra tên của Tập Cận Bình, lại nói rõ đặc điểm hạ mình cầu hiền của ông, kết hợp với “song vũ” trong “song vũ tứ túc” (双羽四足) ám chỉ chữ Tập “习” trong quẻ tượng trước đó, tên của Tập Cận Bình đã hoàn toàn xuất hiện trong Thôi Bối Đồ.

“Thuận thiên hưu mệnh”: Hàm nghĩa cực kỳ sâu sắc! Ý tứ của tầng thứ nhất: “hưu” có nghĩa là dừng, ngừng, thuận theo thiên tượng, thuận theo lẽ trời, khiến ai thôi mệnh? Cùng xem tiếp dưới đây.

“Thuận thiên hưu mệnh” còn có một tầng ý nghĩa sâu hơn: Chữ “hưu” (休) trong Thôi Bối Đồ là câu đố chữ hài âm (âm đọc gần giống hoặc giống nhau), ý chỉ chữ “tu” (修). Câu “Bất như thôi bối khứ quy hưu” trong tượng thứ 60 của Thôi Bối Đồ, thực tế là ý “Bất như thôi bối khứ quy tu”, sau khi xem giải thích toàn diện phía sau, mọi người sẽ có thể nhìn được nội hàm của tầng này.

“Bán lão hữu tử” (半老有子): Câu đố chữ, một nửa trên của chữ “lão” (老) cộng với chữ “tử” (子), là chữ “hiếu” (孝). Tập Cận Bình rất hiếu thuận, gia phong rất nghiêm. Nhưng đây chỉ là ý bề mặt, còn có hàm nghĩ sâu hơn nữa.

Một tượng này chính là nói Thiên tử, đứa con của Trời, lấy trời làm cha, hiếu tử phải hiếu thuận với Trời – thuận thiên ý, là ám chỉ Tập Cận Bình cần phải hành xử thuận theo thiên ý, hành động thuận theo thiên tượng.

Thuận theo thiên ý là làm gì? “Thuận thiên hưu mệnh”, kết thúc mệnh của ai đây?

“Nhất cá hiếu tử tự tây lai, thủ ác càn cương thiên hạ an” (có một đứa con hiếu nghĩa đến từ phía Tây, cầm nắm lấy kỷ cương thiên hạ yên lành): Hiếu tử là người Quan Trung, tỉnh Thiểm Tây, trong tay ông nắm giữ “càn khôn thiên đạo”, có thể an định thiên hạ – vẫn là điểm hóa nhắc nhở thiên tử cần phải hiếu thuận với Trời, thuận theo đạo Trời mà hành xử. Tập Cận Bình bẩm sinh tay nắm Càn Cương (phần chính của quẻ Càn), mang theo sứ mệnh mà đến, trong tiềm ý thức mới có giấc mộng thịnh thế của Trung Quốc.

“Vực trung lưỡng kiến tinh kì mĩ, tiền nhân bất cập hậu nhân tài”: Vùng Quan Trung đã xuất hiện hai lần lá cờ thiên tử, một lần đã thành tựu triều đại đỏ ĐCSTQ hôm nay ở Diên An, một lần nữa chính là thiên tử Quan Trung khai sáng triều đại mới, nhưng triều đại đỏ sẽ không bao giờ sánh được với triều đại mới.

Ở đây chính là đã có thể nhìn ra được hàm nghĩa “thuận thiên hưu mệnh” ở phía trên rồi, kết thúc mệnh của ai đây? Mệnh của triều đại đỏ – đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Đây thật là khiến cho những người đứng đầu ĐCSTQ phải giật mình run sợ! Chính là giống như người thống trị qua các triều đại, từ trong Thôi Bối Đồ đã nhìn thấy được sự diệt vong của triều đại này giống như vậy!

Liệu có phải là có sai sót ở chỗ nào hay không?

1. “Quan Trung thiên tử” nếu như không phải là chỉ Tập Cận Bình, vậy thì ai còn có thể “tay nắm Càn Cương” đây? “Lễ hiền hạ sĩ – “bình dị cận nhân”, rõ ràng đã hiển ra hai chữ “Cận”, “Bình”, nếu không phải ông ấy, thì còn có thể là ai đây?

2. “Thuận thiên hưu mệnh” nếu như không phải là thôi mệnh của ĐCSTQ, nhưng mà “lưỡng kiến kinh kỳ”, rõ ràng là đại biểu cho thay đổi triều đại, sao lại có thể nói đây không phải là thay triều đổi đại đây?

Đối diện với dự ngôn đạo Trời triển hiện, tập đoàn lợi ích của triều đại cũ chính là sẽ phản kháng theo bản năng. Nhưng thử hỏi ai có thể ngăn cản bánh xe xoay vần của lịch sử đi về phía trước đây?

Quẻ của tượng này: Đại Tráng, trên là quẻ Chấn, đại biểu cho Lôi; dưới là quẻ Càn, đại biểu cho Thiên (Trời), vậy nên quẻ Đại Tráng lại được gọi là “Lôi Thiên Đại Tráng”. Quẻ Đại Tráng này có nhiều tầng hàm nghĩa, một tầng ý nghĩa, ngụ ý chỉ Trung Hoa lúc này giống như sấm ở trên trời, thanh thế lớn mạnh. Còn dự ngôn sẽ mở ra thịnh thế Trung Hoa.

Liệu “giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình có thực sự trở thành hiện thực?

Điều này có thể thực hiện hay không? Cần phải xem Tập Cận Bình có thể thuận theo thiên ý mà hành xử hay không? Nhưng dù thế nào, thì thịnh thế trong tương lai của Trung Quốc cũng không thể do ĐCSTQ thực hiện.

Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra 13 lần thịnh thế trong lịch sử Trung Quốc, mọi người có thể nhìn ra: Quy luật chung trong việc khai sáng nên một triều đại hưng thịnh. Thiên cơ đó đã vượt xa khỏi nhận thức và hiểu biết xưa nay:

  1. Văn Cảnh chi trị thời Tây Hán (lấy Đạo trị quốc, tôn sùng Đạo gia).
  2. Quang Vũ trung hưng thời Đông Hán (lấy Đạo trị quốc, tôn sùng Đạo gia).
  3. Hiếu Văn Đế trung hưng thời Bắc Ngụy (Thái Vũ Đế diệt Phật, Văn Thành Đế Thác Bạt Tuấn lập lại trật tự, phục hưng Phật Pháp, lập được công đức lớn mang lại hạnh phúc thái bình).
  4. Khai Hoàng chi trị thời nhà Tùy (Vũ Đế triều đại Bắc Chu diệt Phật, Dương Kiên dẹp loạn lập lại trật tự, công đức nhà Tùy chấn hưng Phật Pháp).
  5. Trinh Quán chi trị thời Trinh Quán, triều đại nhà Đường (Lý Uyên hạ chỉ diệt Phật diệt Đạo, Đường Thái Tông Lý Thế Dân lập lại trật tự, gây dựng công đức to lớn trong việc chấn hưng Phật Pháp).
  6. Thịnh Thế Khai Nguyên triều đại nhà Đường (Đường Thái Tông chấn hưng Phật Pháp khai sáng nên thịnh thế thiên triều, Đường Huyền Tông họa loạn Phật Đạo, thời đại hưng thịnh cuối cùng đã trở thành thời đại loạn lạc).
  7. Đại Trung chi trị, triều đại nhà Đường (Đường Vũ Tông diệt Phật, Đường Tuyên Tông kế nhiệm lập lại trật tự, phục hưng Phật Pháp, gây dựng công đức lớn).
  8. Cảnh Tông trung hưng nhà Liêu và Đại Liêu thịnh thế (công đức to lớn của Tiêu thái hậu thúc đẩy Phật Pháp hưng thịnh).
  9. Hàm Bình chi trị thời Bắc Tống (Sài Vinh nhà Hậu Chu diệt Phật, Triệu Khuông Dẫn lập lại trật tự, kết quả của công lao và ân đức của Bắc Tống trong việc đại hưng Phật Pháp).
  10. Hồng Vũ chi trị triều đại nhà Minh (Chu Nguyên Chương chỉnh đốn Phật giáo, công lao và ân đức to lớn trong việc đại hưng Phật Pháp).
  11. Vĩnh Lạc thịnh thế triều đại nhà Minh (công lao to lớn của Vĩnh Lạc đế Chu Đệ trong việc thúc đẩy chấn hưng Đạo Pháp)
  12. Nhân Tuyên chi trị triều đại nhà Minh (Đạo Pháp tiền triều hưng thịnh, công đức tạo phúc muôn dân).
  13. Khang Càn thịnh thế triều đại nhà Thanh (công lao và ân đức to lớn của vua Khang Hy trong việc đại hưng Phật Pháp)

Nếu như Trời không ban phúc, không có mưa thuận gió hòa, mà là thiên tai nhân họa không ngừng, mệt nhọc đối phó, dẫu cho có văn trị võ công cũng không gây dựng được thịnh thế thiên triều. Nhân gian có công đức to lớn, được Trời ban phúc phận, là căn bản của triều đại hưng thịnh, nhân tài đông đúc, văn trị võ công, cũng là Thiên thượng ban phúc, biểu hiện của thiện báo.

Từ những triều đại hưng thịnh được đề cập đến, chúng ta còn có thể thấy được rằng: Những triều đại hưng thịnh đó, trước tiên là triều đại mà nền tảng đạo đức hưng thịnh, Phật Pháp, Đạo Pháp đại hưng, khiến cho trong tâm của mỗi người đều tín Thần hướng thiện, ước thúc bản thân không làm chuyện xấu ngay từ trong tâm, đồng thời tích cực hành thiện. Toàn bộ xã hội đều ở trong trạng thái tốt đẹp như vậy, người người tuân theo pháp luật, thậm chí nhà ngục trống không. Đây là nền tảng đạo đức cơ bản của một triều đại hưng thịnh.

Còn ĐCSTQ hiện nay, đạo đức đã băng hoại đến mức độ nào? Chốn quan trường tham ô hủ bại khắp nơi, cứ như vậy đã đẩy xã hội Trung Quốc mất đi tín ngưỡng, chỉ còn biết chạy theo vật chất, dâm loạn, bất chấp cả luân thường đạo lý. Đạo đức bại hoại, án oan khắp nơi, thiên tai nhân họa không ngừng, Trời giận người oán, một chính quyền như vậy thử hỏi có thể đưa Trung Quốc đi đến hưng thịnh hay không? Tuyệt đối là không thể.

Cũng chính là nói, dẫu cho Trung Hoa xuất hiện triều đại hưng thịnh, thì nhất định phải có cơ chế lãnh đạo hoàn toàn mới, từ bỏ ĐCSTQ, cũng chính là “thuận thiên thôi mệnh” mà Thôi Bối Đồ triển hiện cho người đời.

“Thiên Lôi” trong quẻ tượng Đại Tráng này còn có một tầng ý nghĩa nữa. Theo cách nói trong quá khứ, ĐCSTQ hiện nay là “thiên lôi ở trên đỉnh đầu”. Chính là giống như những triều đại diệt Phật nói đến trong lịch sử Trung Quốc, “thiên lôi ở trên đỉnh đầu” lại “hồi quang phản chiếu”, nhất thời trông rất “cường thế”, nhưng thiên lôi đã sắp giáng xuống rồi.

Vì vậy, quẻ tượng 53 của Thôi Bối Đồ có lời phê của Kim Thánh Thán: “Lôi Thiên Đại Tráng”, điều được triển hiện chính là sấm sét đã vang lên, giáng xuống rồi, nhưng không làm bị thương Thiên tử. Thiên tử kim thiền thoát xác, thuận theo mệnh trời vứt bỏ ĐCSTQ, tay nắm Càn Cương, sẽ dẫn dắt Trung Hoa tiến nhập vào thời đại hưng thịnh. Cũng chính là nói, thiên số của một quẻ tượng này là điều ứng nghiệm trong tương lai.

Vậy thì hiện nay trước sau năm 2016, trong Thôi Bối Đồ có nhắc đến Tập Cận Bình là người nắm quyền của Trung Quốc hay không?

Câu trả lời là có! Nhưng chúng ta cần phải dựa theo Thôi Bối Đồ sau khi được quy chính trật tự, theo thứ tự triển hiện nội dung có liên quan với Tập Cận Bình, mới có thể nhìn được chân tướng rõ ràng. Chúng ta trước tiên hãy bắt đầu phân tích từ một quẻ tượng dự ngôn ĐCSTQ suy vong trước đã.

IV. Quẻ tượng 52 trong Thôi Bối Đồ: Trung Cộng suy vong (1986 – 2017) 

Quẻ tượng 52 trong quyển “Thôi Bối Đồ” có lời bình chú của Kim Thánh Thán, đến nay cơ bản đều đã được phá giải. Tuy nhiên trong các bài phân tích, một câu “Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang”, mãi đều không được giải được, bởi ngày nay, thiên tượng học trong văn hóa truyền thống Trung Quốc trên cơ bản đã thất truyền.

Dưới đây, hãy đọc hiểu hoàn chỉnh của một quẻ tượng này:

Sấm viết:

Tuệ tinh sạ kiến

Bất lợi Đông Bắc

Củ củ hà chi

Chiêm bỉ lạc quốc

Tạm dịch:

Chợt thấy sao Tuệ

Chẳng lợi (ích nơi) Đông Bắc

Lủi thủi một mình làm chi

Nhìn xem nước bên cạnh vui thích

Tụng viết:

Sàm Thương nhất điểm hiện Đông phương

Ngô Sở y nhiên hữu đế vương

Môn ngoại khách lai chung bất cửu

Kiền Khôn tái tạo tại Giác Cang

Tạm dịch:

Một ngôi sao chổi nhỏ bé hiện ra ở phương Đông

Ngô Sở vẫn cứ như cũ có được đế vương

Khách đến ngoài cửa chẳng lâu sau

Kiền Khôn tạo lại (nơi ngôi sao)

Giác (Giốc) Kháng (Cang).

Bình chú của Kim Thánh Thán:

Thử tượng chủ Đông Bắc bị di nhân sở nhiễu, hữu thiên đô Nam phương chi triệu, Giác Kháng Nam cực dã, kì hậu hữu minh quân xuất, khu trục ngoại nhân, tái độ thăng bình

Tạm dịch:

Tượng này chủ nơi Đông Bắc bị người (nước) bên cạnh quấy rối, có triệu chứng dời kinh đô về phương Nam, sao Giác Cang ở cực Nam. Về sau có vua sáng xuất hiện, xua đuổi người ngoài, tái tạo yên bình.

1.Thiên tượng nhân gian

“Tuệ tinh sạ kiến, bất lợi Đông Bắc”: Chợt thấy sao Tuệ, chẳng lợi (ích nơi) Đông Bắc

Tuệ tinh (sao Tuệ), chỉ sao chổi Halley. Bài “Lỗ Văn Công 14 năm (năm 613 TCN)” trong Xuân Thu do Khổng Tử biên soạn cũng đã từng ghi chép qua nó: “Tháng 7 mùa thu, có Bội Tinh (sao Chổi rực sáng) đi vào Bắc Đẩu”. Các nhà thiên văn học hiện đại đã căn cứ theo thời gian và quỹ đạo này phán đoán là sao chổi Halley.

“Chẳng lợi Đông Bắc”: Chỉ Đông Âu và Liên Xô phía Bắc (Trung Quốc) bất lợi vào năm 1986. Sao Chổi Halley đến, bất lợi đối với phe cánh cộng sản màu đỏ ở Đông Âu, Liên Xô.

Tháng 02 năm 1986, sao chổi Halley xuất hiện. Tháng 03, Mikhail Sergeyevich Gorbachev – Tổng Bí thư của đảng cộng sản Liên Xô đã bắt đầu “cải cách tư duy mới” của ông, phe cánh cộng sản quốc tế nổi lên cơn gió dân chủ, tự do. Năm 1989, khối Đông Âu có biến đổi lớn, 8 quốc gia thuộc phe cánh cộng sản màu đỏ đã từ bỏ xã hội chủ nghĩa. Năm 1991, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản Đông Âu đã sụp đổ hoàn toàn. Chín quốc gia ngoan cố với chính quyền đảng cộng sản này đã sụp đổ, xu thế chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã thành tàn cục, chính như một quẻ tượng dự ngôn khác trong “Thôi Bối Đồ”:

“Lỗi lỗi lạc lạc, tàn kỳ nhất cục (nhất lỗi tam thạch, tam tam kiến cửu)”

Tạm dịch:

“Hỗn độn rối ren, một ván (cờ) dang dở ( Nhất lỗi (磊) tam thạch (石), ba ba thấy chín).”

Dưới thiên tượng khai mở của sao Chổi này, phong trào sinh viên năm 1986 ở Trung Quốc Đại Lục, Hồ Diệu Bang rớt đài; phong trào sinh viên năm 1989, Triệu Tử Dương bị giam lỏng.

Mặt Trời phía trên quân vương trong đồ hình, trùng khớp với tên Triệu Tử Dương.

“Củ củ hà chi, chiêm bỉ nhạc quốc”: Lủi thủi một mình làm chi? Nhìn xem nước bên cạnh vui thích.

Một mình đi đâu đây? Đi đến vương quốc tinh thần của mình. Chỉ Triệu Tử Dương rớt đài, lủi thủi đi một mình, hiến thân vì lý tưởng.

Triệu Tử Dương bởi phản đối cuộc đàn áp sinh viên đòi dân chủ năm 1989, bị giam lỏng trước khi diễn ra “đại thảm sát ngày 04 tháng 06” ở Bắc Kinh, mãi đến ngày 17 tháng 01 năm 2005 qua đời, Triệu Tử Dương quyết chí không đổi, không cúi đầu trước chính quyền cộng sản Trung Quốc bạo ngược.

“Sàm Thương nhất điểm hiện Đông phương”: Sao Sàm Thương hiện ra một điểm ở phương đông.

“Sàm Thương”: sao Sàm Thương, cách gọi khác đối với sao Chổi thời xưa, trong thiên tượng tượng trưng cho chiến loạn.

Nhìn từ trên mặt chữ, chính là có thể hiểu được rằng đây là chỉ “nổ súng trong cuộc đại thảm sát ngày 04 tháng 06 năm 1989”, phong trào sinh viên đòi dân chủ bị những người đứng đầu chính quyền cộng sản Trung Quốc nổ súng đàn áp. Nhưng trước đó, mọi người lại nhìn không nhìn ra được, bởi vì những người am hiểu cổ văn, sẽ lý giải “Sàm Thương” là sao Chổi, tương ứng với “Huệ tinh sạ kiến” trong câu sấm.

“Ngô Sở y nhiên hữu đế vương”: Ngô Sở vẫn có đế vương như cũ

Câu này chỉ Giang Trạch Dân sau “sự kiện thảm sát mùng 04 tháng 06” năm 1989 đã dẫm đạp lên máu tươi của những người tiên phong thúc đẩy dân chủ leo lên đến vị trí quyền lực cao nhất. Giang Trạch Dân sinh ở Dương Châu, là vùng đất Ngô Sở thời cổ đại.

“Môn ngoại khách lai chung bất cửu”: Khách ngoài cửa đến chẳng được lâu

“Khách”: Trong “Thôi Bối Đồ” chỉ ngoại tộc, nước khác. Ví như quẻ 7 trong “Thôi Bối Đồ” dự ngôn Thổ Phiên xâm lược triều Đường: “Phá quan khách sạ lai, đẩu lệnh Trung Nguyên khốc” (tạm dịch: phá quan khách chợt đến, Trung Nguyên bỗng khóc vang), “khách” trong quẻ tượng đó chỉ Thổ Phiên.

“Khách ngoài cửa đến” trong quẻ tượng này là chỉ đảng cộng sản “bóng ma của phương tây” —- nước Đức khởi nguồn, Liên Xô cải tiến, Trung Quốc kế thừa, ban đầu chính quyền cộng sản Trung Quốc thành lập được gọi là “Trung Hoa Xô-Viết”, ngụ ý là chỉ chính quyền cộng sản theo kiểu Liên Xô ở Trung Hoa, dựa theo mô hình của Xô-Viết.

“Bóng ma phương tây”: Câu đầu tiên của Các-mác trong “Tuyên ngôn cộng sản” chính là: “Một bóng ma, bóng ma của chủ nghĩa cộng sản, đang bao trùm trên bầu trời của châu Âu”. Câu này chỉ chính quyền màu đỏ đến từ bên ngoài cuối cùng sẽ không được dài lâu.

“Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang”

“Giác Cang”: “Giác”, “Cang” đều là nằm trong bảy chòm sao thuộc Thanh Long ứng với phương đông trong nhị thập bát tú. Đây là điều mọi người đều biết, nhưng mà, các cách giải thích trước đây đều không tìm ra được chân cơ của tầng sâu hơn.

“Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang”: Cách giải thích ngắn gọn dễ hiểu nhất chính là “năm tại Giác Cang”, năm tuổi ở Giác Cang, suy rộng ra một chút, chính là: Tuế tinh (sao Mộc) ở vị trí hai chòm sao Giác Cang, chỉ đoạn thời gian cuối năm 2016 đến cuối năm 2017, giống như trong hình trên.

2.Kỷ niên sao Mộc

Tuế tinh, là cách gọi của Trung Quốc cổ đại đối với sao Mộc, bởi vì sao Mộc vận hành phía trên bầu trời sao, chu kỳ vận hành một vòng gần 12 năm (11,862 năm). Trong đồ hình thiên tượng của Trung Quốc cổ đại, căn cứ theo phạm vi chung quanh bầu trời sao, theo góc độ bình quân chia thành 12 Tinh thứ: Tinh Kỷ (星纪), Huyền Hiêu (玄枵), Cư Tư (娵訾), Giáng Lâu (降娄), Đại Lương (大梁), Thực Thẩm (实沈), Thuần Thủ (鹑首), Thuần Hỏa (鹑火), Thuần Vĩ (鹑尾 ), Thọ Tinh (寿星), Đại Hỏa (大火), Tích Mộc (析木). Mười hai Tinh thứ này không giống với 12 cung hoàng đạo (12 chòm sao) của phương tây.

Trung Quốc cổ đại phân chia bầu trời sao thành 12 Tinh thứ, ranh giới của nó đối ứng với 28 chòm sao (nhị thập bát tú).

Vì sao Mộc mỗi một năm tuổi cần phải đi qua một Tinh thứ, một vòng gần 12 năm, vậy nên gọi sao Mộc là Tuế tinh. Tuế tinh có thể làm một loại ghi chép thời gian trong niên đại sự kiện, đây chính là kỷ niên Tuế tinh.

“Võ Vương phạt Trụ, Tuế tinh ở Thuần Hỏa”, đây là thiên tượng trong Võ Vương phạt Trụ được ghi chép trong Quốc Ngữ: Tuế tinh (sao Mộc) vận hành đến phạm vi Thuần Hỏa trong 12 Tinh thứ, thời đó Võ Vương thảo phạt Thương Trụ Vương.

3.Tuế tinh ở Giác Cang

“Tuế tại Giác Cang”, giải thích dễ dàng dễ hiểu nhất chính là sao Tuế di chuyển trong phạm vi của chòm sao Giác, chòm sao Cang.

Thiên tượng học của Trung Quốc cổ đại, lấy sao Bắc Cực làm trung tâm, phân chia thành 3 viên 28 tú (3 bức tường 28 chòm sao), trong đó 7 chòm sao Thanh Long phía đông là: Giác (角), Cang (亢), Đê (氐). Phòng (房), Tâm (心), Vĩ (尾), Cơ (箕). Giác, Cang là đứng đầu của chòm sao Thanh Long.

Hình vẽ thiên tượng học của Trung Quốc cổ đại bầu trời sao thành ba viên 28 tú (ba bức tường 28 chòm sao).

Chúng ta hãy xem đồ hình thiên tượng này:

Đồ hình giải thích ẩn đố của thiên tượng năm 2016 – năm 2017 trong cuốn sách tiên tri nổi tiếng “Thối Bối Đồ”

Tuế tinh vào khoảng ngày 15 tháng 11 năm 2016 di chuyển vào phạm vi sao chòm sao Giác, và sau đó Tuế tinh di chuyển ở lại chòm sao Giác, rồi sau đó di chuyển ngược và dừng lại bức tường Thái Vy (太微垣), sau đó di chuyển xuôi đi xuyên qua chòm sao Giác (角宿), chòm sao Cang (亢宿), thời gian rời khỏi chòm sao Cang, là khoảng ngày 05 tháng 12 năm 2017, vậy nên sao Tuế trong thời gian ở Giác Cang, chính là khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017, trong phạm vi thời gian này, chính là Càn Khôn tái tạo (trời đất được tạo lại mới).

4.Càn Khôn tái tạo diệt Trung Cộng, huỳnh hoặc thủ tâm xem thiên tượng

“Huỳnh hoặc thủ tâm” là hiện tượng sao Hỏa (huỳnh hoặc) di chuyển đến gần ba ngôi sao Tâm Túc và dừng lại một thời gian.

Quẻ tượng này trong “Thôi Bối Đồ” là nói về khí số của triều đại đỏ. Hai cầu mở đầu “Huệ tinh sạ kiến, bất lợi đông phương”, giảng hoàn cảnh quốc tế bắt đầu từ năm 1986, chính quyển đảng cộng sản Liên Xô phía bắc (Trung Quốc) và Đông Âu hoàn toàn sụp đổ và giải thể, sau đó nói đến phong trào sinh viên mùng 04 tháng 06 năm 1989 ở Trung Quốc, sau đó bị ĐCSTQ trấn áp dã man, nói ĐCSTQ “bóng ma phương tây” này là “khách ngoài cửa sẽ không lâu dài”, và “Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang”, đối ứng với cuối năm 2016 đến năm 2017, cũng là là thời kỳ mà ông Tập Cận Bình nắm quyền.

Đây cũng hoàn toàn ăn khớp với quẻ tượng 53 trong “Thôi Bối Đồ” được giảng trước đó: “Thiên tử Quan Trung thuận thiên thôi mệnh, thay đổi kinh kỳ thiên hạ an định”.

Năm 2016, quỹ đạo của Tuế tinh (sao Mộc) triển hiện, thiên tượng “Càn Khôn tái tạo tại Giác Cang” này vốn không phải là cô lập, mà là chặt chẽ gắn liền với “huỳnh hoặc thủ tâm” – thiên tượng nổi tiếng hung hiểm nhất của Trung Quốc cổ đại này với năm 2016.

Phía sau chúng ta hãy xem thử: ngày 24 tháng 03 đến ngày 30 tháng 08 năm 2016, cảnh tỉnh của thiên tượng huỳnh hoặc thủ tâm.

V.Thiên tượng hung hiểm trong năm 2016: Huỳnh hoặc thủ tâm 

1.Giới thiệu sơ lược về “Huỳnh hoặc thủ tâm”

Huỳnh hoặc thủ tâm là thiên tượng quan trọng nhất, hung hiểm nhất trong thiên tượng học của Trung Quốc cổ đại.

Theo đó, “Huỳnh hoặc thủ tâm” là hiện tượng sao Hỏa di chuyển đến gần ba ngôi sao Tâm Túc và dừng lại một thời gian. “Huỳnh hoặc” là cách gọi của Trung Quốc cổ đại. Sao hỏa lấp lánh (hỏa tinh huỳnh huỳnh), màu sắc ửng đỏ, quỹ đạo biến hóa khó xác định, bởi vậy được gọi là “Huỳnh hoặc”. Huỳnh hoặc là Phạt tinh (ngôi sao xử phạt) trong thiên tượng học, đại biểu binh đao loạn lạc, chết chóc tai ương, v.v…Trong tinh tướng học của Tây phương, sao Hỏa cũng đại biểu cho chiến tranh, chết chóc, Trời phạt.

Trái Đất quay từ Tây sang Đông, vì vậy nhật nguyệt tinh tú nhìn thấy được đều là mọc từ phương Đông, lặn ở phương Tây, đây là di chuyển thuận (xuôi) của các vì sao.

Nhưng nhìn từ trên mặt đất, ngôi sao cũng sẽ có lúc di chuyển ngược. Lấy sao Hỏa làm ví dụ, Trái Đất trên quỹ đạo quay quanh Mặt trời, khi đến gần sao Hỏa, nếu đứng ở trên Trái Đất mà nhìn, tốc độ quay quanh Mặt trời của Trái Đất nhanh hơn sao Hỏa, vì vậy nhìn thấy sao Hỏa lùi lại phía sau trên nền bầu trời sao; giống như khi chúng ta ngồi trên xe tốc hành, nhìn thấy những chiếc xe chạy chậm đi về trước cũng đang “lùi lại phía sau”, đây chính là “di chuyển ngược”.

Tốc độ vận hành của sao Hỏa chậm lại trên diện rộng, dừng lại không chuyển động ở chỗ điểm cong, quá trình này được gọi là “dừng lại theo chiều vận chuyển xuôi”, “dừng lại theo chiều vận chuyển ngược”. “Dừng lại” tiếp cận một chòm sao nào đó, thì gọi là thủ (coi giữ) chòm sao đó. Ví như Huỳnh hoặc thủ tâm, Huỳnh hoặc thủ Phòng, thủ Đê, thủ Vĩ ….. chính là nói về việc sao Hỏa lưu lại ở khu vực các chòm sao khác nhau.

Chòm sao Tâm Túc phạm vi nhỏ nhưng quan trọng nhất. Chòm sao Tâm Túc có ba ngôi sao, sao Tâm Đại ở chính giữa (Tâm Túc 2) là sáng nhất, tượng trưng cho đế vương, quân chủ; sao Tâm Tiền ở phía trước (Tâm Túc 1) tượng trưng cho thái tử; sao Tâm Hậu ở phía bên dưới (Tâm Túc 3) tượng trưng cho con thứ (con vợ lẽ).

“Huỳnh hoặc thủ tâm”, chính là sao Hỏa ở trong phạm vi của chòm sao Tâm Túc. Đây là thiên tượng đại hung không thường phát sinh. Bởi vì sao Hỏa là Phạt tinh tượng trưng cho tử nạn, vì vậy dừng lại coi giữ ở vị trí chòm sao Tâm Túc tượng trưng cho thiên tử, thì sẽ cấu thành kiếp nạn hung hiểm của thiên tử.

Đại Đường Khai Nguyên Chiêm Kinh nói đến thiên tượng này, ngụ ý: “Bề tôi thay đổi triều chính, vua chúa rời khỏi cung điện của mình”; “thiên tử mất đi địa vị”; “đại thần làm phản, mưu đồ cướp ngôi”.

“Thiên Quan Thư” trong Sử ký có viết: “(Sao Hỏa) xâm phạm, coi giữ chòm sao Phòng, sao Tâm; vương giả ắt gặp nạn”.

Chương “Ngũ Tinh Chiêm” của sách lụa trong ngôi mộ cổ thời Hán ở gò Mã Vương thì nói rằng: “(Sao Hỏa) gặp sao Tâm Túc, thì là áo tang, ở phương Bắc hay ở phương Nam, đều là tử vong chết chóc…”.

Có thật sự đáng sợ như vậy không? Vào thời cổ đại xác thực là như vậy, thiên tượng “Huỳnh hoặc thủ tâm”, khiến cho thiên tử khiếp đảm rùng mình, bởi vì gần như không có ai có thể thoát khỏi kiếp nạn.

Con người trong xã hội ngày nay lại cười nhạo người xưa ngu muội, không phải là bởi vì người thời nay thông minh hiểu biết hơn, mà là bởi vì không hiểu được hàm ý của thiên tượng “Huỳnh hoặc thủ tâm”. Lại từng có học giả tuyên bố rằng: Trung Quốc cổ đại 23 lần “Huỳnh hoặc thủ tâm” thì có 17 lần là giả, cho rằng “Huỳnh hoặc thủ tâm” là thiên tượng giả tạo. Cách nói vô cùng sai lầm, đã khiến các học giả nghi ngờ và phủ định điều này. Theo đó sai lại càng sai khi người ta không ngừng lan truyền và biến nó trở thành “bằng chứng lý luận” trong việc phủ định ý nghĩa thiên tượng của “Huỳnh hoặc thủ tâm”.

2.Lời đồn nhảm năm 2001, đánh lừa dư luận quên hung hiểm 

Cách nói “Huỳnh hoặc thủ tâm” vào năm 2001 đã được lưu truyền rộng rãi trên khắp thế giới, đã được viết vào Wikipedia, nghiễm nhiên đã trở thành tri thức khoa học phổ cập.

Tuy nhiên nếu chúng ta xác định vị trí của tấm hình đồ hình “Huỳnh hoặc thủ tâm” năm 2001 đã lưu truyền rộng rãi đó, thì có thể phát hiện đây là một chiêu trò đánh lừa dư luận.

Đồ hình gốc cố ý không ghi rõ “chòm sao Vĩ” (尾宿) và giới hạn, chế tác thành huỳnh hoặc thủ “Tâm” ().

Nguyên tấm hình được vẽ rất chuyên nghiệp, nhưng cũng rất “chuyên nghiệp” trong việc ẩn đi chòm sao Vĩ (尾宿), cũng không vẽ ra hai đường ranh giới hướng thẳng của hai chòm sao, khiến người ta lúc đầu vừa nhìn thấy sao Hỏa (火星) di chuyển ngược lưu thủ (dừng lại coi giữ) trong phạm vi của sao Tâm Túc (心宿). Kết quả xử lý như vậy, khiến cho “Huỳnh hoặc thủ Vĩ” vốn không nổi tiếng gì, đã biến thành “Huỳnh hoặc thủ tâm” danh tiếng vang xa.

Cái chiêu trò chuyên nghiệp này đã mê hoặc đánh lừa thế gian, khiến người ta cảm thấy: Thì ra huỳnh hoặc thủ tâm vốn không đáng sợ như vậy. Giang Trạch Dân người đứng đầu ĐCSTQ lúc bấy giờ chưa chết, vậy nên vội quy kết rằng cách nói của người xưa là ngu muội. Đây vừa khéo là bị “đồ hình thiên tượng Huỳnh hoặc thủ tâm năm 2001” ngụy tạo đánh lừa, nghe nhìn lẫn lộn.

3.Huỳnh Hoặc thủ Đê, gian thần xuất hiện, quân vương tử vong 

Thiên tượng từ ngày 24 tháng 03 đến ngày 30 tháng 08 năm 2016, trên tổng thể đều gọi là “Huỳnh hoặc thủ tâm”. Ngày 24 tháng 03 đến ngày 11 tháng 05 là đi thuận chiều coi giữ chòm sao Tâm Túc, và sau đó bắt đầu đi ngược chiều coi giữ chòm sao Đê – coi giữ chòm sao Đê cũng là một thiên tượng hung hiểm.

“Thiên Văn chí”, Hán Thư nói rằng: “Huỳnh hoặc đi vào trong Đê; Đê là cung của thiên tử; Huỳnh Hoặc đi vào, ngụ ý là có tặc thần (gian thần)”.

Đại Đường Khai Nguyên Chiêm kinh nói rằng: “(Chòm sao) Đê là cung của thiên tử, Phạt tinh đi vào, là điềm không lành, phòng thủ đất nước, quân chủ gặp tử nạn”.

Năm 195 TCN, “Huỳnh hoặc thủ Đê”, Hán Cao Tổ Lưu Bang băng hà. Tặc thần đi vào cung điện thiên tử hiển nhiên là Lã Hậu. Lưu Bang chết, Lã Hậu nắm quyền, để cho con trai ruột của bà là Lưu Doanh lên ngôi. Bảy người con trai khác của Lưu Bang, Lã  Hậu chỉ để lại đứa con nuôi của mình là Lưu Trưởng và Lưu Hằng (Hán Văn Đế sau này) vốn không được thương yêu, những người còn lại đều bị bà hại chết…

“Thiên Văn chí”, Hán Thư viết rằng: “Mùa xuân năm Cao Tổ thứ 12 (năm 195 TCN), Huỳnh Hoặc thủ Tâm, tháng 4 Cao Tổ băng hà” – Đây là ngụy tạo của lịch sử. Bởi vì Tần Thủy Hoàng là Chân Long Thiên tử, Tổ Long được công nhận, ông ấy chết bởi thiên tượng “Huỳnh hoặc thủ Tâm”, vì để “chứng tỏ” địa vị thiên tử chính thống của Lưu Bang, liền đem thiên tượng khi Lưu Bang chết ngụy tạo thành “Huỳnh hoặc thủ Tâm”. Dùng phần mềm thiên văn Stellarium thông dụng ngày nay để kiểm chứng, thiên tượng khi Lưu Bang chết là “Huỳnh hoặc thủ Đê” (sao Hỏa dừng lại trong chòm sao Đê), thiên tượng như đồ hình dưới đây.

Đồ hình thiên tượng năm 195 TCN: Huỳnh hoặc ở lại chòm sao Đê (荧惑守氐宿). Năm đó Lưu Bang chết.

Bởi vì thời xưa cơ bản không thể suy đoán thiên tượng một cách chuẩn xác, vậy nên cứ mãi cho rằng Lưu Bang giống như Chân Long Thiên Tử Tần Thủy Hoàng, chết bởi thiên nạn “Huỳnh hoặc thủ Tâm”, không biết rằng đó là “Huỳnh hoặc thủ Đê”. Khai Nguyên Chiêm kinh triều Đường nói “Huỳnh hoặc thủ Đê là quân vương chết”, không phải gán ghép cho Lưu Bang, mà đây là quẻ tượng độc lập.

“Huỳnh hoặc thủ Đê” có tặc thần, quân vương chết, trong lịch sử còn có không ít ví dụ chân thật để nghiệm chứng, ở đây không đưa thêm nữa. Mức độ hung hiểm của “Huỳnh hoặc thủ Đê” mỗi lần không giống nhau, nhưng đều không sánh được với “Huỳnh hoặc thủ Tâm”. Hơn nữa có nhiều lúc nó là thiên tượng phụ theo “Huỳnh hoặc thủ Tâm”, sẽ tăng thêm hung hiểm của “Huỳnh hoặc thủ Tâm”.

“Huỳnh hoặc thủ Tâm” năm 2016, vị trí hướng thẳng của sao Hỏa đặc biệt gần với sao Tâm Túc, thêm vào đó là nguy hiểm đáng sợ của “Huỳnh hoặc thủ Đê”, khiến cho thiên tượng trong năm nay, nguy hiểm bậc nhất từ xưa đến nay.

Thiên nhân hợp nhất (người và trời hòa làm một), sự kiện lớn nhất như vậy, ắt sẽ đối ứng với hiện tượng thiên thượng lớn nhất. Đó là chuyện gì đây? Chúng ta còn cần phải nhìn lại tội ác lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Xem tiếp Phần 3

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/08/01/153979.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”二.html

 

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (2): Hé lộ về Tập Cận Bình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (1): Giới thiệuhttps://chanhkien.org/2016/08/nam-2016-2017-trong-thoi-boi-do-1-gioi-thieu.htmlWed, 31 Aug 2016 00:33:15 +0000http://chanhkien.org/?p=24855Tác giả: Tuyết Liên [ChanhKien.org] Mục lục: (1) Giới thiệu Thôi Bối Đồ (2) Tiêu chuẩn chính giải Thôi Bối Đồ (3) Tượng 53 trong Thôi Bối Đồ: Tập Cận Bình thay đổi triều đại? (4) Tượng 52 trong Thôi Bối Đồ: Trung Cộng suy vong (năm 1986-2017) (5) Thiên tượng hung hiểm năm 2016: […]

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (1): Giới thiệu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tuyết Liên

[ChanhKien.org]

Mục lục:

(1) Giới thiệu Thôi Bối Đồ

(2) Tiêu chuẩn chính giải Thôi Bối Đồ

(3) Tượng 53 trong Thôi Bối Đồ: Tập Cận Bình thay đổi triều đại?

(4) Tượng 52 trong Thôi Bối Đồ: Trung Cộng suy vong (năm 1986-2017)

(5) Thiên tượng hung hiểm năm 2016: Sao hỏa chiếm vị trí trung tâm

(6) Tội ác lớn nhất trong lịch sử

(7) Công đức vô lượng, phép tắc thịnh thế

(8) Thôi Bối Đồ triển hiện đại tội tại nhân gian: Sai lầm lớn năm 1999

(9) Tập Cận Bình và thánh nhân trong Thôi Bối Đồ

(10) Trung Hoa thịnh thế trong Tượng 59 Thôi Bối Đồ: giấc mơ Trung Quốc?

(11) Thánh nhân, thịnh thế, ấn chứng chung cuộc của Thôi Bối Đồ

(12) Công đức vô lượng, xóa bỏ tội ác thiên đại

 

Ảnh: Tượng trung tâm nhất trong Thôi Bối Đồ: Thánh nhân xuất thế, đối diện với thánh nhân.

Sấm viết:

Nhật nguyệt lệ thiên

Quần âm nhiếp phục

Bách linh lai triêu

Song vũ tứ túc

Tụng viết:

Nhi kim trung quốc hữu thánh nhân

Tuy phi hào kiệt dã chu thành

Tứ di trọng dịch xưng thiên tử

Thủ cực thái lai cửu quốc xuân.

Ngày 07 tháng 11 năm 2015, Tập Cận Bình và Mã Anh Cửu mấy lần hội đàm tại Singapore, trang Weibo của Nhân Dân nhật báo ở Đại Lục đã mượn câu thơ dự ngôn trong cuốn sách tiên tri nổi tiếng thời Trung Quốc cổ đại là Thôi Bối Đồ để chạy dòng tít: “Song vũ tứ túc” – Cuộc hội đàm giữa Tập và Mã, trong đó viết rằng “song vũ” (hai cánh) là chữ “Tập” (習) phồn thể, ngụ ý là Tập Cận Bình; “tứ túc” (bốn chân) chính là chữ “Mã” (馬) phồn thể, chỉ Mã Anh Cửu,… Chỉ trong một thời gian ngắn, bài báo đã lan truyền rộng rãi trên Internet, người Trung Quốc mới kinh ngạc phát hiện một “thiên cơ” ẩn chứa trong Thôi Bối Đồ! Chẳng phải như vậy hay sao?

Sau đây chúng ta sẽ lần lượt giải khai một số Tượng liên quan đến Tập Cận Bình trong Thôi Bối Đồ, mọi người sẽ thấy rõ rằng: cách giải thích ở trên chỉ đúng có một nửa mà thôi…

I. Giới thiệu Thôi Bối Đồ

1. Dự ngôn kinh điển Thôi Bối Đồ, chuẩn xác 100%

Thôi Bối Đồ là cuốn sách tiên tri trứ danh thời Trung Quốc cổ đại, được viết thành sách vào đầu những năm đời Đường, dùng 60 Tượng đồ sấm (những lời ám chỉ, những câu đố dự ngôn) để dự đoán những sự kiện trọng đại diễn ra từ thời Đường tới nay, và cho đến cả tương lai. Chúng ta hãy xem một Tượng trong đó.

a, Dự ngôn được đọc hiểu trước thời hạn

Dự ngôn rất khó được người ta luận giải trước khi sự kiện xảy ra, thường là sau khi sự kiện xảy ra rồi người ta mới có thể nhận ra lời ám chỉ của dự ngôn. Tuy nhiên có một Tượng của Thôi Bối Đồ đã được giải trước khi sự kiện xảy ra.

 

Ảnh: Tượng 39 Thôi Bối Đồ, bản có lời bình giải của Kim Thánh Thán (1608-1661).

Sấm viết:

Điểu vô túc

Sơn hữu nguyệt

Húc sơ thăng

Nhân đô khốc

Tạm dịch:

Chim không chân

Núi có trăng

Nắng mới lên

Người đều khóc

 

Tụng viết:

Thập nhị nguyệt trung khí bất hòa

Nam sơn hữu tước Bắc sơn la

Nhất triêu thính đắc kim kê khiếu

Đại hải trầm trầm Nhật dĩ quá

Tạm dịch:

Giữa mười hai tháng khí bất hòa

Núi Nam có chim tước núi Bắc có võng la

Mai kia nghe tiếng gà vàng gáy

Biển cả thâm trầm Nhật đã qua

Tượng này dự ngôn cực kỳ rõ ràng minh hiển, hiện tại được công nhận là chỉ giặc Nhật xâm lược Trung Hoa và chuốc lấy bại vong.

– “Điểu vô túc, Sơn hữu nguyệt” (Chim không chân, Núi có trăng):

Chim bỏ chân đi, chữ “điểu” (島) bỏ phần chân còn chữ “nguyệt” (月), lại thêm chữ “sơn” (山), chính là chữ “đảo” (島), chỉ đảo quốc Nhật Bản.

– “Húc sơ thăng, Nhân đô khốc” (Nắng mới lên, Người đều khóc):

Nhật Bản xâm lược Trung Hoa bạo ngược, cờ Thái Dương đi tới đâu, người Trung Quốc khóc tới đó.

“Thập nhị nguyệt trung khí bất hòa” (Giữa mười hai tháng khí bất hòa):

Giữa 12 tháng là tháng 06 Hán lịch, đêm ngày 07 tháng 07 năm 1937 (lục nguyệt sơ nhất), xảy ra biến cố cầu Lư Câu, quân Nhật toàn diện xâm lược Trung Quốc.

“Nam sơn hữu tước Bắc sơn la” (Núi Nam có chim tước núi Bắc có võng la):

Trung Quốc rơi vào cảnh thù trong giặc ngoài, bị nước ngoài xâm lược, đồng thời nội bộ chia rẽ kết bè kết phái: mỏm núi phía Nam là ngụy quyền Uông Tinh Vệ (“tinh vệ” là tên một loài chim, nên mới dùng chữ “tước”, tức chim tước); mỏm núi phía Đông Bắc là triều đình ngụy Mãn Châu do Nhật Bản giật dây, người nắm quyền là hoàng đế bù nhìn Phổ Nghi của triều mạt Thanh (Phổ Nghi họ là Ái Tân Giác La, nên ở đây mới gọi là “la”, tức tấm lưới).

“Nhất triêu thính đắc kim kê khiếu, Đại hải trầm trầm Nhật dĩ quá” (Mai kia nghe tiếng gà vàng gáy, Biển cả thâm trầm Nhật đã qua):

Chỉ năm 1945, Nhật Bản đầu hàng. Năm 1945 là năm Kê (gà), Dậu trong ngũ hành thuộc Kim, nên mới gọi là “Kim Kê” (tức gà vàng).

Trong hình vẽ dưới chim (鸟) là núi (山), chính là chữ “đảo” (島); hình vẽ chim trông giống chữ “giới” (介), chim đậu trên đá, đối mặt với mặt trời, ám chỉ Tưởng Giới Thạch dẫn dắt Trung Hoa Dân Quốc kháng Nhật.

Chúng ta thấy rằng Tượng này nội dung rất chặt chẽ, lời ẩn đố mang hàm ý chuẩn xác, rõ ràng xoay quanh cuộc chiến xâm lược của Nhật Bản đối với Hoa. Mặc dù nhất thời chưa thể giải thích được toàn bộ nhưng vẫn có thể nhìn ra được cục diện đại khái.

b. Lời chứng của Kim Thánh Thán

Ba trăm năm trước khi Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, vào những năm đầu triều Thanh, tài tử Kim Thánh Thán đã giải được Tượng này, ông đã bình chú như sau: “Có khả năng Tượng này là dự ngôn Đông Di xâm lược Trung Nguyên, họa ngoại xâm nhất định là đến năm Kê mới có thể bình định” [1].

Lời bình chú mà Kim Thánh Thán lưu lại có ý nghĩa trọng đại. Nó không chỉ đơn thuần là lời giải chính xác, mà còn là bằng chứng về tính chân thật và chứng tỏ khả năng tiên đoán trước lịch sử của bộ sách tiên tri Thôi Bối Đồ. Nếu như không có lời bình chú của Kim Thánh Thán, chắc hẳn sẽ có người quả quyết rằng: “Những lời này được biên tạo sau khi chiến tranh kháng Nhật giành thắng lợi, việc đã rồi mới ví mình như Gia Cát Lượng, lại còn mạo nhận là dự ngôn”.

c. “Lời tiên tri” của Phổ Nghi

Ngoài ra, hoàng đế Phổ Nghi nhà mạt Thanh cũng dựa vào dự ngôn này mà biết trước sự bại vong của Nhật Bản. Theo hồi tưởng của Lý Ngọc Cầm, người vợ thứ tư của Phổ Nghi: “Khi Nhật Bản xâm lược Trung Hoa trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Phổ Nghi thường nhắc tới chuyện người Nhật Bản sẽ sụp đổ vào năm 1945, ông nói đó là do ông nhìn thấy trong Thôi Bối Đồ”.

2. Dự ngôn chuẩn xác, lời giải đáp cho tương lai

Trong quá trình lưu truyền Thôi Bối Đồ, người ta phát hiện ra những lời dự ngôn trong đó không sai lệch chút nào, càng về sau càng phát hiện ra cuốn sách có khả năng tiên đoán quá siêu việt, tới mức người ta đã hình thành nên một nhận thức chung: muốn biết đáp án của tương lai, hãy tìm kiếm trong Thôi Bối Đồ! Đúng như một Tượng trong Thôi Bối Đồ đã viết rằng: “Mang mang thiên số thử trung cầu” (Thiên mệnh mênh mông đều có thể tìm được trong cuốn sách này).

Trong các triều Ngũ Đại –hai triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh– v.v. các vị hoàng đế khai quốc đều vui mừng khi thấy dự ngôn trong Thôi Bối Đồ ứng nghiệm, tuyên bố rõ thiên mệnh nằm ở đây. Tuy nhiên Thôi Bối Đồ cũng đã dự ngôn sự diệt vong của triều Đường và sự hoán đổi các triều đại, khiến người thống trị các triều đại sợ hãi. Bởi vậy qua nhiều triều đại, Thôi Bối Đồ đều bị liệt vào hàng sách cấm.

3. Sách cấm của các triều đại, hàng trăm bản giả

Cháu trai của Nhạc Phi, nhà sử học thời Nam Tống là Nhạc Kha, người đã viết bộ Thỉnh Sử, trong cuốn Nghệ Tổ Cấm Sấm Thư đã ghi lại câu chuyện như sau: Vào lúc Tống Thái Tổ cấm sấm thư, trong dân gian có nhiều bản cất giấu, cấm cũng không được. Tể tướng Triệu Phổ bèn tâu rằng: “Người tàng trữ Thôi Bối Đồ nhiều lắm, đã trừng phạt rất nhiều người rồi”. Thái Tổ đáp: “Khỏi cần cấm nhiều, chỉ cần đảo loạn là được rồi”. Nói xong bèn hạ lệnh thu hồi các bản Thôi Bối Đồ cũ, ngoại trừ các Tượng đã ứng nghiệm ra thì xáo trộn trật tự trước sau của các Tượng, chế tác hàng trăm bản khác nhau lưu truyền dân gian. Bởi vậy mọi người mới không biết đâu là bản thật, họa chăng có giữ Thôi Bối Đồ thì cũng không ứng nghiệm nữa, cũng không cần thu gom nữa.

4. “Nhà nhà đều có”, thật giả lẫn lộn

Việc Thôi Bối Đồ trở thành sách cấm lại càng tăng thêm vẻ thần bí cho các lời dự ngôn của nó, bởi vậy nó ngày càng được lưu truyền rộng rãi một cách bí mật trong dân gian. Tới giữa thời Bắc Tống thì thậm chí nhiều tới mức độ “nhà nhà đều có”[2], như thể ai chưa từng xem Thôi Bối Đồ thì không phải là người đọc sách vậy! Đương nhiên Thôi Bối Đồ thời bấy giờ cũng thật giả lẫn lộn.

Tuy nhiên bản giả cũng không đáng sợ như trong Thỉnh Sử nói, bởi vì lược bỏ đi cái giả thì còn cái thật, đây vốn là kỹ năng cơ bản của giới học giả; rất nhiều người đọc sách có khả năng phân biệt bản giả, cho nên bản giả dần dần bị đào thải theo lịch sử; thời gian sẽ khiến chúng chìm lắng, và bản thật dần dần hiển lộ rõ ra.

5. Bỏ giả giữ thật, nổi bật lên bản có bình chú của Kim Thánh Thán

Phiên bản Thôi Bối Đồ được lưu truyền rộng rãi nhất hiện nay chính là bản có bình chú của tài tử Kim Thánh Thán đầu thời nhà Thanh. Khi liên quân Anh-Pháp tấn công vào Bắc Kinh, bản Thôi Bối Đồ có bình chú của tài tử Kim Thánh Thán bị cướp sang Anh Quốc, sau đó được một thương nhân người Hoa mua về nước, rồi được in ấn phát hành vào thời Dân Quốc.

Vì sao nó có thể được lưu truyền rộng rãi đến như vậy? Hiển nhiên là vì thời gian đã sàng lọc các bản giả, chỉ còn lại bản có bình chú của Kim Thánh Thán là nổi bật ra. Thời cận đại có không ít người đã thử khôi phục lại trật tự sắp xếp đúng của «Thôi Bối Đồ», trả lại diện mạo ban đầu của nó, làm những thử nghiệm hữu ích.

6. Tác giả của Thôi Bối Đồ

Tác giả của Thôi Bối Đồ rốt cuộc là ai? Tới nay vẫn chưa ngã ngũ. Có người nói là do Lý Thuần Phong, quan Thái sử lệnh của Đường Thái Tông sáng tác nên; có người nói do đại gia toán học Chu Dịch triều Đường là Viên Thiên Cương sáng tác; nhiều người hơn nữa nói là do Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong đồng sáng tác…

Thực ra qua tư liệu lịch sử có thể tra cứu được ai là tác giả của Thôi Bối Đồ, trong Thỉnh Sử cũng viết: “Lý Thuần Phong thời Đường sáng tác Thôi Bối Đồ”.

II. Tiêu chuẩn chính giải Thôi Bối Đồ

Trong thời đại Internet, tài liệu lịch sử phong phú như biển cả, nhưng tài liệu lịch sử được người ta quan tâm nhất là gì? Qua thống kê trên Internet, chúng ta có đáp án như sau: Tài liệu lịch sử phương Tây được quan tâm nhiều nhất là đại dự ngôn Các Thế Kỷ của nhà tiên tri vĩ đại người Pháp Nostradamus, còn trong tiếng Trung thì chính là Thôi Bối Đồ. Xem ra điều được người ta quan tâm nhất vẫn là dáng dấp của tương lai.

Do Thôi Bối Đồ được quan tâm nhiều nhất nên các bản phân tích nó cũng rất nhiều. Ở trên mạng, các bài giải thích từng phần riêng biệt của Thôi Bối Đồ cũng lên tới hàng trăm bài, vậy lời lý giải chân chính nằm ở đâu?

Nếu như không có một tiêu chuẩn hợp lý, thì cũng chỉ như chồng nói có lý, vợ nói cũng có lý, lẫn lộn nhau, vậy thì có lý cũng bằng không có lý. Chính giải chân chính triển hiện thiên cơ thì rất khó được hiểu đại trà.

Hiện nay, các phương pháp nghiên cứu Thôi Bối Đồ chủ yếu là sắp xếp lại thứ tự các Tượng, người ta đã đưa ra rất nhiều phương pháp sắp xếp lại thứ tự loạn bát nháo để mong có căn cứ giải thích thiên cơ thực sự của tương lai. Do đó, nếu vẫn lấy thứ tự sắp xếp các Tượng trong bản Thôi Bối Đồ có bình chú của Kim Thánh Thán để phân tích, lý giải tương lai, thì hẳn là chưa nghiên cứu được nguyên bản lịch sử.

Trong phiên bản Thôi Bối Đồ đã được sắp xếp lại thứ tự, có một tiêu chuẩn được người ta khá đồng tình, đó chính là nửa phần trước của Thôi Bối Đồ là không gây tranh luận, đồ, sấm, tụng, quái trong mỗi Tượng – “tứ vị nhất thể” đều cùng xoay quanh một chủ đề, cùng làm nổi bật một chủ đề. Do vậy, việc giải thích Thôi Bối Đồ cũng thuận theo tiêu chuẩn này. Nếu như chỉ giải thích một phần cục bộ trong “đồ, sấm, tụng, quái” mà không liên kết với chỉnh thể thì cũng như chỉ nhìn được một mặt của khối lập phương Rubik sáu mặt, khó có thể gọi là chính giải được. Nếu như cả bài giải thích tán loạn lung tung, Đông Tây lẫn lộn, dẫu có chỗ ăn khớp nhưng không xoay quanh một chủ đề trung tâm thì cũng chỉ là một loại suy đoán chủ quan khiên cưỡng mà thôi.

Dưới đây thuận theo tiêu chuẩn “tứ vị nhất thể” (đồ, sấm, tụng, quái), chúng ta hãy thử giải thích các Tượng liên quan đến Tập Cận Bình trong Thôi Bối Đồ, trước tiên xem Tượng Thôi Bối Đồ mà trong đó Tập Cận Bình đóng vai chính—không giải thì không biết, hễ giải ra thì thấy kinh sợ.

Ghi chú:

[1] Nguyên văn lời bình chú của Kim Thánh Thán trong Tượng 39 Thôi Bối Đồ như sau: “Tượng này nghi có ngoại Di nhiễu loạn Trung Nguyên, ắt đến năm Dậu mới được bình định”.

Thời Trung Quốc cổ đại, khi đề cập đến các dân tộc ở vùng xa xôi bên ngoài Trung Nguyên, thì có thuyết “Đông Di Tây Nhung, Nam Man Bắc Địch”, trong đó Di là cách gọi ngoại tộc ở phương Đông.

[2] “Nhà nhà đều có Thôi Bối Đồ” lấy từ câu nói của Tống Thần Tông thời Bắc Tống. Theo Kê Lặc Biên của Trang Xước thời Bắc Tống ghi lại thì: Vương An Thạch khi cải cách triều chính đã nghênh ngang chỉ trích các đối thủ chính trị, các đại thần trung trực đều bị gạt bỏ. Ông ta cũng công kích quan ngự sử Phạm Thuần Nhân (con trai thứ của Phạm Trọng Yêm), thậm chí đòi xử liên đới cả họ tộc. Không tìm được lý do, ông ta bèn nói Phạm gia tàng trữ cấm thư Thôi Bối Đồ. Tống Thần Tông tới tận nơi xem, chỉ nói: “Sách này ai mà chẳng có, không đủ định tội”.

Xem tiếp Phần 2

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2016/07/31/153966.《推背图》中的2016-17、圣人、“中国梦”(一).html

The post Năm 2016-2017 trong “Thôi Bối Đồ” (1): Giới thiệu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ca khúc: “Thôi Bối Đồ”https://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-thoi-boi-do.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-thoi-boi-do.html#respondSat, 07 Jan 2012 21:24:46 +0000https://chanhkien.org/?p=15749[Chanhkien.org] Diễn xướng: Dương Kiến Sinh Diễn tấu: Đàn tranh/Tu Nhạc Độ dài: 2 phút 40 Lời bài hát: (Bốn câu Tụng trong Tượng 60 «Thôi Bối Đồ» [*]) 茫茫天数此中求 世道兴衰不自由 万万千千说不尽 不如推背去归休 Phiên âm Hán Việt: Mang mang thiên số thử trung cầu, Thế đạo hưng suy bất tự do. Vạn vạn thiên thiên […]

The post Ca khúc: “Thôi Bối Đồ” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

Diễn xướng: Dương Kiến Sinh
Diễn tấu: Đàn tranh/Tu Nhạc
Độ dài: 2 phút 40

Lời bài hát: (Bốn câu Tụng trong Tượng 60 «Thôi Bối Đồ» [*])

茫茫天数此中求
世道兴衰不自由
万万千千说不尽
不如推背去归休

Phiên âm Hán Việt:

Mang mang thiên số thử trung cầu,
Thế đạo hưng suy bất tự do.
Vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận,
Bất như thôi bối khứ quy hưu.

Lời tiếng Anh:

Searching endlessly for an answer in the boundless cosmos,
Not knowing that the world’s fortunes are beyond them.
Everyone has something different to say,
None as true as the Tuibei prophecy.

Tạm dịch:

Tìm kiếm mãi câu trả lời trong vũ trụ bao la,
Đâu biết rằng định số nằm ngoài tầm hiểu biết.
Mỗi người đều có cách nói riêng của mình,
Nhưng không gì chân thật như tiên tri Thôi Bối Đồ.

Ca phổ: [jpg](164kb) | [pdf](148kb) |

Nghe Online: Real (Low)

Download: Real (1.9MB) | MP3 (3MB)

Ghi chú:

[*] «Thôi Bối Đồ»: cuốn sách sấm nổi tiếng của Trung Quốc do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng).

Xem thêm:

>> Dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường
>> «Thôi Bối Đồ»: Vô “ý” giải được ẩn đố cuối cùng

Dịch từ:

http://www2.zhengjian.org/music/gequ/zhongwengequ/nvshengduchang/2003/1002/23841.html

The post Ca khúc: “Thôi Bối Đồ” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-thoi-boi-do.html/feed0
Khán đồ giải quái — Phá giải Tượng 50 «Thôi Bối Đồ»https://chanhkien.org/2011/04/khan-do-giai-quai-thu-giai-tuong-50-thoi-boi-do.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/khan-do-giai-quai-thu-giai-tuong-50-thoi-boi-do.html#respondSat, 16 Apr 2011 08:08:06 +0000https://chanhkien.org/?p=11495Tác giả: Lân Lân [Chanhkien.org] «Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển […]

The post Khán đồ giải quái — Phá giải Tượng 50 «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lân Lân

[Chanhkien.org] «Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc.

Tượng 50: quẻ Phục

Tượng 50 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Thủy Hỏa tương chiến
Thời cùng tắc biến
Trinh hạ khởi Nguyên
Thú quý nhân tiện

Tụng viết:

Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên
Bạch mễ doanh thương bất trị tiền
Sài lang kết đội nhai trung tẩu
Bát tận phong vân thủy kiến thiên

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Nước lửa tương chiến
Tới cùng thì biến
Trinh hạ khởi Nguyên
Thú quý kẻ hèn

Tụng rằng:

Hổ đầu nhân gặp hổ đầu niên
Kho dư gạo trắng chẳng đáng tiền
Sài lang lập đội đi giữa phố
Quét sạch gió mây mới thấy thiên

Trong đồ hình là một con vật có dạng hổ, hiện thân rõ ràng là vì không còn chỗ nào để ẩn nấp, không còn bụi cỏ để che đậy nữa. Như vậy, con hổ này là chỉ người nào? Sự việc gì? Sự tình phát sinh vào thời gian nào? Người viết cho rằng đây chính là điểm then chốt để phá giải quẻ này.

“Hổ đầu nhân gặp hổ đầu niên”: “Hổ đầu nhân” là chỉ một người thuộc Hổ từng là lãnh đạo hay “người đứng đầu” quốc gia. Giang Trạch Dân sinh năm 1926, năm Bính Dần, chính là năm Hổ. “Hổ đầu nhân” chỉ Giang Trạch Dân là rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa.

Vạn vật trên thế gian, sinh sinh diệt diệt; dù việc nhỏ hay việc lớn, đều chia làm hai đầu, hết đầu thì đến ngọn. “Hổ đầu niên” ở đây có hai cách giải: hoặc là chỉ năm 1998 vào cuối thế kỷ 20, tức năm Mậu Dần; hoặc chỉ năm 2010 vào đầu thế kỷ 21, tức năm Canh Dần. Người viết cho rằng câu tụng “hổ đầu niên” này là chỉ năm đằng sau, tức 2010.

Nhìn vào đồ hình, chúng ta thấy đám lông trên đầu con hổ không còn hình chữ “Vương” (王) như thường lệ, chứng tỏ lúc này hổ đã không còn nắm quyền; đúng là hổ xuống đồng bằng, không còn vào rừng làm cướp được nữa, hoàn toàn ở trong trạng thái thê thảm. Thường thì vua chốn rừng núi đều có trợ thủ đắc lực, với đám lâu la tiền hô hậu ủng, cờ quạt phấp phới, trống trận đánh vang, hò hét ầm ĩ. Thế nhưng đồ hình này cho thấy con hổ trước sau không có gì, không còn ma trận trợ uy nữa, đã không còn đám quỷ quái lâu la làm bạn nữa, hoàn toàn là đơn độc lẻ loi, giống như một con chó lạc chủ vậy. Con hổ trong đồ hình cúi đầu tựa như đang ăn cỏ, lại vừa giống như muốn tìm một khe nứt nào đó để chui vào. Vào năm 2010, Giang Trạch Dân đã bị xã hội quốc tế kết tội phản nhân loại, khởi tố về tội diệt chủng, quả thực không còn nơi nào để ẩn náu nữa. Tức là ở đây ý nói “người đầu hổ” sẽ gặp phải đại kiếp vào năm Canh Dần đầu tiên của thế kỷ 21.

“Kho dư gạo trắng chẳng đáng tiền”: Ám chỉ xã hội Trung Quốc bề mặt thì phồn vinh, nhưng chỉ là tô son trát phấn, bên trong thối rữa. (1) Dân lấy lương thực làm đầu, “gạo trắng” ở đây có thể hiểu là đại từ chỉ thực phẩm nói chung. Tại Trung Quốc, do ô nhiễm môi trường, lại ỷ lại quá nhiều vào phân bón hóa học, nên tuy sản lượng lương thực tăng lên nhưng chất lượng lại suy giảm, giá trị sản vật không bằng như trước đây. (2) Năm 2010, rất nhiều sự kiện rau quả nhiễm độc đã bùng phát trên toàn Trung Quốc, người ta không dám dùng sữa bột có độc, dầu mỡ nhiễm bẩn, v.v. (3) Chiểu theo các an bài của cựu vũ trụ, từ dịch bệnh SARS cho tới cúm gia cầm, dịch bệnh chân-tay-miệng, v.v. khiến số lượng người bị đào thải khá lớn, thậm chí có nơi đến mức gạo không có người ăn nữa.

“Sài lang lập đội đi giữa phố”: Chính trị trong thời mạt pháp, mạt kiếp cũng giống như lời giảng của Sư Tôn: “Mạt thế thiên vô Đạo, Hành ác hựu hành yêu, Sài lang thế thượng tẩu, Loạn đảng yêu lãnh đầu, Bất thị ác bất báo, Hồng thế tựu lai đáo.” (“Loạn thế”, «Hồng Ngâm II»).

“Quét sạch gió mây mới thấy thiên”: Ấy chính là:

Thánh Vương hạ thế,
Truyền Pháp độ nhân;
Pháp Luân nhất chuyển,
Nhân tâm quy thiện;
Ân oán thế gian,
Đẩy mây thấy thiên.

Trải qua 10 năm mưa gió, Phật Chủ dẫn đường, chúng đệ tử trợ Sư Chính Pháp, đã chứng kiến “Kim cương bách luyện thanh thuần hiện, Chân niệm hóa khai mãn thiên tình” («Cảm khái»).

Lại xem mấy câu sấm: “Thủy Hỏa tương chiến, Thời cùng tắc biến, Trinh hạ khởi Nguyên, Thú quý nhân tiện”. Theo ngữ pháp tiếng Hán, đây là nói về nhân quả, có thể biểu hiện nhân trước dẫn đến quả sau.

“Thủy Hỏa tương chiến, Thời cùng tắc biến”: Chỉ thói đời bần cùng, dân đen sinh vào ngày này phải chịu dày vò giữa Thủy và Hỏa, vì vậy nhân tâm biến đổi, xã hội loạn ly.

Đến “thời cùng”, thì không chỉ tài nguyên đạo đức bần cùng mà tài nguyên thiên nhiên cũng bần cùng. Từ bề mặt mà xét, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sau khi lập chính quyền đã lợi dụng chủ nghĩa vô thần ngoại lai tới từ phương Tây và khoa học thực chứng để phá hủy hai cột trụ lớn gắn liền với sự tồn vong của dân tộc Trung Hoa — hệ thống đạo đức truyền thống và hệ thống sinh thái bền vững dựa trên khoa học cổ đại thịnh vượng của Trung Quốc, khiến tài nguyên đạo đức và tài nguyên thiên nhiên đều cạn kiệt, đoạn đứt người Trung Quốc với nền văn minh Hoa Hạ được cổ nhân truyền thừa, tạo thành đại kiếp cho dân tộc Trung Hoa.

Từ một tầng ý nghĩa sâu hơn mà xét, thì chính là Thần đã sáng tạo cho con người tài nguyên sinh thái phồn vinh làm hoàn cảnh sinh hoạt, để duy trì cuộc sống của nhân loại. Thần cũng cấp cho con người quy phạm đạo đức làm người để tới lúc con người có thể nhận thức được Đại Pháp, đồng hóa với Đại Pháp. Tuy nhiên, Pháp Lý vị tư của cựu vũ trụ đã khiến con người truy cầu không ngừng các loại ham muốn, khiến con người thoát ly khỏi phạm trù đạo đức truyền thống; phá hoại tài nguyên thiên nhiên, khai thác thiên nhiên tới cùng tận. Với đạo đức bại hoại như vậy, Thần thậm chí không còn coi nhân loại hiện nay là con người nữa.

Theo «Bảng sắp xếp quẻ tượng Bát Quái», quẻ Khảm đối ứng với Ngũ Hành là Thủy, đối ứng với Địa chi là Hợi; quẻ Ly đối ứng với Ngũ Hành là Hỏa, đối ứng với Địa chi là Dần. Như vậy “Thủy Hỏa tương chiến” ở đây, có thể giải thích là “Khảm Ly tương khắc”, Lợn Hổ tranh đấu. Mặc dù lợn không thể đọ sức với hổ, nhưng Thủy khắc Hỏa, nên lợn vẫn nắm chắc phần thắng. Vậy thì rốt cuộc “lợn”, hay “heo” ở đây là ám chỉ điều gì?

“Heo” là một danh từ đại diện chỉ ôn dịch: ám chỉ vào năm Hổ (2010), dịch bệnh chân-tay-miệng truyền nhiễm từ gia súc, gia cầm sang người; nào là cúm gia cầm, cúm heo, H5N1, H1N1, v.v. rất nhiều loại dịch bệnh. Người tu luyện đều biết rằng nhân loại sẽ sớm phải đối diện với đại đào thải, nhân gian sẽ lưu hành một trường đại ôn dịch. Bởi vì con người tạo nghiệp quá nhiều nên rất nhiều thiên tai là từ trên Trời giáng xuống, con người đấu được với Trời sao? Chỉ là Trời trừng phạt con người mà thôi, đối diện với bệnh dịch hoành hành, mới thấy con người thật nhỏ bé và đáng thương như thế nào.

“Thú quý nhân tiện”: từ khi ĐCSTQ chấp chính, ma quỷ lộng quyền, lòng người độc địa, không bằng cầm thú, ngang ngược lộng hành, tùy tiện cướp đoạt tài sản của người dân, coi mạng người như cỏ rác. Tại Trung Quốc hiện nay, quan chức chính phủ và cảnh sát là cùng một nhà với thổ phỉ và xã hội đen. Trên đường phố Bắc Kinh, binh lính vác súng trên vai, mang theo chó nghiệp vụ tuần tra, chấp hành nhiệm vụ cai quản nội thành, cùng với xe cảnh sát, xe cứu hỏa, áp tải xe chở tù nhân, tùy tiện cướp bóc đất đai, nhà cửa, tài sản của nhân dân, đánh đập, trấn áp, bức hại chính tín, thậm chí thu hoạch nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công còn sống rồi đem hỏa thiêu xác để phi tang. Việc ĐCSTQ lợi dụng các thành tựu y học trong tra tấn và giết người đã trở nên rất phổ biến, v.v. Điều này cũng ứng với câu tụng: “Sài lang lập đội đi giữa phố”.

“Trinh hạ khởi Nguyên”: Theo «Kinh Dịch», thì “Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh tức là Xuân, Hạ, Thu, Đông; cũng là Đông, Nam, Tây, Bắc; Chấn Nguyên, Ly Hanh, Đoài Lợi, Khảm Trinh, tuần hoàn qua lại, không quá không cùng.” (Ghi chú của người viết: Chấn, Ly, Đoài, Khảm là tên bốn quẻ trong Bát Quái). Do đó “Trinh hạ khởi Nguyên” biểu thị sự thay đổi trong Thiên Đạo và nhân sự, hết Đông thì sang Xuân, tuần hoàn trở lại, xoay chuyển không ngừng.

Trong tổng cộng 60 Tượng của «Thôi Bối Đồ», thì chỉ có một Tượng là quẻ Bác (Tượng 6), và một Tượng là quẻ Phục (Tượng 50). Từ Đại Đường trở đi, thời Trinh Quán của Đường Thái Tông là thịnh thế huy hoàng, Dương khí lên đến cực điểm; tới khi Đường Minh Hoàng trở lại Tây Kinh [sau loạn An Sử] thì triều Đường bắt đầu suy (tham khảo Tượng 6 «Thôi Bối Đồ», quẻ Bác):

Tượng 6: quẻ Bác

Tượng 6 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Phi đô thị đô
Phi Hoàng thị Hoàng
Âm mai ký khứ
Nhật nguyệt phục quang

Tụng viết:

Đại xí nguy nguy thụ lưỡng kinh
Liễn dư kim nhật hựu Đông hành
Càn khôn tái tạo nhân dân lạc
Nhất nhị niên lai kiến thái bình

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Không đô là đô
Không Hoàng là Hoàng
Mây mù đã hết
Nhật nguyệt lại quang

Tụng rằng:

Cờ lớn sừng sững dựng lưỡng kinh
Xe kiệu hôm nay lại Đông hành
Càn khôn tái tạo nhân dân lạc
Một vài năm tới thấy thái bình

Quẻ Bác này chỉ có một hào Dương ở trên với năm hào Âm ở dưới, nội quái là Khôn (☷), ngoại quái là Cấn (☶), đại biểu cho Âm thịnh Dương suy, thời vận bất lợi. Cho tới khi văn minh Hoa Hạ đi tới cực Âm rồi thì Bác cực tất Phục, vật cực tất phản, tức là đến Tượng 50, quẻ Phục như trên. Quẻ Phục này nội quái là Chấn (☳), ngoại quái là Khôn (☷), tức dưới năm hào Âm đã có một hào Dương phục sinh, đã có Dương động rồi là tiến thẳng về phía trên. Đạo ấy phản phục, đi hết rồi quay trở lại, cũng chính là quy luật vận động tự nhiên của Trời Đất vậy. Đến hôm nay thì đã là quá trình vãng phục, tuần hoàn quay trở lại. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là đại biểu Xuân, Hạ, Thu, Đông của nhân loại, và cũng đại biểu cho Xuân, Hạ, Thu, Đông của toàn vũ trụ. Do sự hạn chế trí tuệ trong Pháp Lý vị tư của cựu vũ trụ, đại khung đã lệnh khỏi đặc tính vũ trụ để tiến tới hủy diệt, nhân loại đã đi đến tận cùng của đêm Đông giá rét rồi. Ấy chính là “Thế sự ngẫu nhiên thành Bác Phục, Thiên tâm vu thử kiến Trinh Nguyên” («Thanh Diệp đình quản»).

Trong tu luyện Đại Pháp, chúng ta biết rằng không có sự tình nào ở thế gian là ngẫu nhiên phát sinh: “Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp lần này mà an bài” (“Giải thích ba đoạn cuối bài thơ Hoa Mai”, «Tinh Tấn Yếu Chỉ II»). Chính là:

Thánh Vương hạ thế truyền Đại Pháp,
Chuyển động Pháp Luân chính Càn Khôn;
Pháp Lý vũ trụ nhân gian hiện,
Tẩy tịnh nhân tâm bầu trời quang.

Lịch sử sắp tiến nhập vào kỷ nguyên mới với tân Thiên, tân Địa, tân nhân loại, là mùa Xuân của vũ trụ mới.

Lịch sử nhân loại là có tính quy luật: “…Sự phát triển của nhân loại phải là sinh mệnh cao cấp tại tầng thứ rất cao mới có thể khống chế được, nó đang được tiến hành chiểu theo quy luật phát triển.” («Chuyển Pháp Luân»). «Thôi Bối Đồ» bắt đầu tiên tri từ triều đại nhà Đường cho tới khi Sư phụ truyền Pháp, Chính Pháp, cứu Thần Châu, cứu đại khung thì kết thúc. Hiện nay, các đệ tử Đại Pháp theo Sư phụ Chính Pháp đã đến vĩ thanh cuối cùng, vở kịch lớn 5.000 năm đang đi đến hồi kết; nhân loại, vũ trụ sẽ khởi đầu một trang sử mới của tân thế kỷ, rồi viết tiếp những chương sử mới huy hoàng của tân kỷ nguyên.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/9/24/68707.html

The post Khán đồ giải quái — Phá giải Tượng 50 «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/khan-do-giai-quai-thu-giai-tuong-50-thoi-boi-do.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VIII): Chiến tranh Giáp Ngọhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-viii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-viii.html#respondThu, 14 Apr 2011 14:07:54 +0000https://chanhkien.org/?p=11472Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VIII): Chiến tranh Giáp Ngọ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Tượng 55 Mậu Ngọ

Tượng 55 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Cụ tắc sinh giới
Vô viễn vật giới
Thủy biên hữu nữ
Đối nhật tự bái

Tụng viết:

Ký du thần khí chung vô dụng
Dực dực tiểu tâm hữu thần chúng
Chuyển nguy vi an kiến tiết nghĩa
Vị tất hà sơn tự ngã tống

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Sợ thì sinh giới
Không xa chớ tới
Ven nước có nữ
Hướng nhật tự bái

Tụng rằng:

Muốn thu thần khí thật uổng công
Cẩn thận chú ý bề tôi đông
Chuyển nguy thành an thấy tiết nghĩa
Non sông không hẳn tự mình tống

Tượng 55 chính là miêu tả chiến tranh Giáp Ngọ Trung-Nhật trong lịch sử.

Vào những năm Quang Tự, triều đình nhà Thanh mưu tính xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh, bằng cách mua sắm chiến hạm sản xuất tại Tây phương. Tổng đốc Trực Lệ kiêm Bắc Dương đại thần Lý Hồng Chương phụng chỉ thành lập hải quân Bắc Dương. Năm 1888, hạm đội Bắc Dương chính thức được thành lập, Đinh Nhữ Xương nhậm chức đề đốc. Tháng 5 năm 1894, Nhật Bản xuất quân sang Triều Tiên. Tháng 7, quân Nhật bất ngờ đánh úp thủy quân Bắc Dương tại cửa khẩu Nha Sơn, bên ngoài Phong Đảo, đồng thời tấn công quân phòng thủ Trung Quốc ở gần Nha Sơn. Chính phủ nhà Thanh bị bức bách phải ra chiếu thư tuyên chiến với Nhật vào ngày mùng 1 tháng 8.

“Sợ tắc sinh giới”: ý nói Lý Hồng Chương, Đinh Nhữ Xương, v.v. sợ thực lực hạm đội Bắc Dương không địch nổi hạm đội quân Nhật, do đó áp dụng chiến lược bảo thủ.

“Vô viễn vật giới” – “Không xa chớ tới”: “viễn” là nói hạm đội Bắc Dương đều ở nơi xa, “Không xa chớ tới” là chỉ hạm đội Bắc Dương cuối cùng bị tiêu diệt hoàn toàn.

“Thủy biên hữu nữ” – “Ven nước có nữ”: bộ Thủy (氵) đặt bên cạnh chữ “Nữ” (女) chính là chữ “Nhữ” (汝). “Đối nhật tự bái”: hướng về chữ “Nhật” (日) mà tự bái, chính là chữ “Xương” (昌). Câu này ám chỉ vai chính trong chiến tranh Giáp-Ngọ giữa Trung Quốc và Nhật Bản là Đinh Nhữ Xương.

“Muốn thu thần khí thật uổng công”: “thần khí” chỉ khí thế của hạm đội Bắc Dương. Câu này ý nói triều đình nhà Thanh mưu đồ thành lập một hải quân hùng mạnh để đối phó với quân Nhật nhưng rốt cuộc không thành công, toàn quân bị tiêu diệt, cuối cùng uổng công.

“Cẩn thận chú ý bề tôi đông”: ý nói Lý Hồng Chương, Đinh Nhữ Xương, v.v. đặt ra chiến lược vô cùng cẩn thận và bảo thủ.

“Chuyển nguy thành an thấy tiết nghĩa, Non sông không hẳn tự mình tống”: ý nói Đinh Nhữ Xương tại hải chiến Hoàng Hải, Uy Hải, Vệ Hải ban đầu lâm nguy nhưng không sợ, chuyển nguy thành an, mang theo tiết nghĩa liều mình báo quốc. Đồng thời cũng chỉ rõ hạm đội Bắc Dương bị tiêu diệt có thể chỉ là do sơ xuất trong chế định và chiến lược của Đinh Nhữ Xương mà thôi.

Trong đồ hình là một người đang đỡ cành cây bị nghiêng đổ, ám chỉ Đinh Nhữ Xương nâng đỡ triều đình Mãn Thanh, cũng ngụ ý rằng mặc dù Đinh Nhữ Xương liều mình báo quốc nhưng sự diệt vong của triều Thanh là điều mà sức người không sao cải biến được.

Lịch sử là có quy luật

Dự ngôn tự bản thân nó không có gì là thần bí cả. Khi hiểu rõ quy luật biến đổi của thời tiết, chúng ta có thể dự báo thời tiết; như vậy khi nắm vững quy luật diễn hóa của một phạm vi vũ trụ nhất định, thì có thể tiên tri. «Chu Dịch» thời cổ đại rất hay, thiên văn học thời cổ đại cũng rất phát triển, đều là nghiên cứu quan hệ giữa người và Trời. Văn hóa Trung Quốc cổ đại là “Thiên nhân hợp nhất”, đương nhiên có quan hệ đối ứng giữa người và Trời. Chiêm tinh học ở Tây phương cũng tương tự như vậy, chỉ là không thể hiện tinh tế và sâu sắc như văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên nếu dùng tập quán và phương thức tư duy ngày nay để nghiên cứu những điều này thì rất khó khăn. Kinh lạc trong Trung Y là một ví dụ điển hình. Chúng ta ngày nay không thể tách khỏi phạm trù lý luận vật chất, trong đó có một bộ phận là suy đoán, do đó không thể khiến người ta hoàn toàn tin tưởng, cũng không biết bằng cách nào mà cổ nhân nhận thức được những điều này.

Nói về giải thích «Thôi Bối Đồ», tới đây tác giả xin dừng bút. Ở loạt bài này, chúng ta đã lấy một bộ phận trong «Thôi Bối Đồ» làm ví dụ để phân tích, trong dự ngôn này còn có rất nhiều điều có ý nghĩa nữa, chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu thêm.

(Hết)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/21/19561.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VIII): Chiến tranh Giáp Ngọ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-viii.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VII): Dân Quốchttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vii.html#respondTue, 12 Apr 2011 14:38:57 +0000https://chanhkien.org/?p=11443Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VII): Dân Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Những sự việc sau triều Thanh

Người ta nói rằng bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện trong lịch sử nên sau này đã có người cố tình đả loạn thứ tự các Tượng. Tuy nhiên dựa vào văn tự, Tượng 35 là nói về chiến tranh nha phiến lần thứ 2 và liên quân Anh-Pháp xâm nhập Bắc Kinh, Vua Hàm Phong phải bỏ kinh đô chạy nạn. Tượng 36 miêu tả chính biến Tân Dậu và sau đó Lưỡng cung Thái Hậu buông rèm chấp chính. Tượng 37 là lúc triều Thanh kết thúc.

Tượng 37 Canh Tý

Tượng 37 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Hán Thủy mang mang
Bất thống kế thống
Nam Bắc bất phân
Hòa trung dữ cộng

Tụng viết:

Thủy thanh chung hữu kiệt
Đảo qua phùng bát nguyệt
Hải nội cánh vô Vương
Bán hung hoàn bán cát

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Hán Thủy mênh mông
Không thống rồi thống
Nam Bắc không phân
Đồng tâm hiệp lực

Tụng rằng:

Nước trong rồi hết tận
Trở giáo gặp tháng tám
Bốn bể hết không Vương
Nửa hung lại nửa cát

Ngày 10 tháng 10 năm 1911 (tháng 8 năm Tuyên Thống thứ 3), khởi nghĩa Vũ Xương bùng phát, bắt đầu cách mạng Tân Hợi lật đổ Vương triều thống trị của nhà Thanh. Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Hoàng đế Tuyên Thống của nhà Thanh bị bức bách thoái vị, triều Thanh diệt vong. Từ đó Trung Nguyên rơi vào thời kỳ cát cứ hỗn chiến của quân phiệt.

“Hán Thủy mang mang, Bất thống kế thống”: “Hán Thủy” chỉ Vũ Xương. Câu này ý nói sau khởi nghĩa Vũ Xương, cục diện quân phiệt cát cứ hình thành, lật đổ Tuyên Thống — Hoàng đế cuối cùng của triều Thanh.

“Nam Bắc bất phân, Hòa trung dữ cộng”: ý nói toàn quốc trên dưới đều cùng nhau di tản đầy gian nan.

“Thủy thanh chung hữu kiệt, Đảo qua phùng bát nguyệt”: “Đảo qua” có nghĩa là trở giáo, quay súng bắn quân mình, ý nói khởi nghĩa Vũ Xương là tân quân số 8 của triều Thanh ở Hồ Bắc trở mặt theo quân đảng cách mạng. Câu này ám chỉ khởi nghĩa Vũ Xương diệt triều Thanh phát sinh vào tháng 8 năm Tuyên Thống thứ 3.

“Hải nội cánh vô Vương, Bán hung hoàn bán cát”: “Bán hung hoàn bán cát”, nửa chữ “hung” (凶) và nửa chữ “cát” (吉) hợp lại thành một chữ Viên (袁), ám chỉ Viên Thế Khải. Câu này ý nói sau khi triều Thanh diệt vong, quân phiệt cát cứ, không có vương soái, ở tình huống này Viên Thế Khải nhân cơ hội đoạt quyền soán vị.

Trong đồ hình có một chiếc đầu người hình tròn (viên) nổi trên mặt nước, ám chỉ sau khởi nghĩa Vũ Xương dẫn đến triều Thanh diệt vong thì một thủ lĩnh họ Viên sẽ xuất hiện.

Đến Tượng 39, thì đã là Nhật Bản xâm lược Trung Hoa. Tuy nhiên Tượng 55 lại nói rõ ràng về chiến tranh Giáp Ngọ thời Thanh mạt. Điều này không khỏi khiến người ta suy xét rằng thứ tự đúng của các Tượng đã bị đả loạn. Thực ra dự ngôn không tuân theo trình tự sắp xếp thời gian cũng là điều rất bình thường, dự ngôn nổi tiếng phương Tây «Các Thế Kỷ» của Nostradamus là một ví dụ điển hình. Điều này là trái ngược với đại đa số các dự ngôn của Trung Quốc, vốn đều tuân theo trình tự. «Thôi Bối Đồ» sở dĩ bị đả loạn, khả năng là vì có người cầm quyền sợ dự ngôn lưu truyền rộng rãi nên cố tình làm vậy, khiến người ta khó nhìn ra. Tuy nhiên các dự ngôn như «Mai Hoa Thi», «Thiền Sư Thi», v.v. lại rất trình tự, mặc dù không nói cụ thể như «Thôi Bối Đồ». Mặc dù vậy chúng lại giúp người ta rất nhiều trong việc liễu giải những sự tình có khả năng phát sinh trong tương lai.

Tượng 39 Nhâm Dần

Tượng 39 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Điểu vô túc
Sơn hữu nguyệt
Húc sơ thăng
Nhân đô khốc

Tụng viết:

Thập nhị nguyệt trung khí bất hòa
Nam sơn hữu tước Bắc sơn la
Nhất triều thính đắc Kim Kê khiếu
Đại hải trầm trầm Nhật dĩ quá

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Chim không chân
Núi có trăng
Nắng mới lên
Người đều khóc

Tụng rằng:

Giữa mười hai tháng khí bất hòa
Núi Nam có tước núi Bắc la
Mai kia nghe tiếng gà vàng gáy
Biển cả thâm trầm Nhật đã qua

“Chim không chân, Núi có trăng”: chữ “Điểu” (鸟) bỏ đi một chân có dạng chữ “Nguyệt” (月), đặt lên chữ “Sơn” (山) thành một chữ “Đảo” (岛) (hòn đảo). “Nắng mới lên, Người đều khóc”: ý nói đế quốc trên hòn đảo Nhật Bản trỗi dậy, đi đâu cũng mang theo cờ Thái Dương, khiến hàng vạn người khóc lóc. “Giữa mười hai tháng khí bất hòa”: “Giữa mười hai tháng” ám chỉ khoảng giữa của 12 tháng, tức tháng 6. Câu này ý nói tại tháng 6 Âm lịch sẽ phát sinh sự kiện cầu Lư Câu (ngày 7-7-1937, quân Nhật bất ngờ tấn công vào phía tây nam cầu Lư Câu, Bắc Bình của Trung Quốc, nay là Bắc Kinh, cuộc kháng chiến chống Nhật của người Trung Quốc bắt đầu từ đây). “Núi Nam có tước núi Bắc la”: “la” ở đây là chỉ lưới bắt chim “tước”. Câu này ý nói sau biến cố Lư Câu, quân Nhật ép vào hai bên từ phía Bắc và phía Nam, thế như chẻ tre, giống như lưới bắt chim tước bao trùm lãnh thổ Trung Quốc, sát hại người dân Trung Quốc. “Mai kia nghe tiếng gà vàng gáy, Biển cả thâm trầm Nhật đã qua”: gà vàng (Kim Kê) là chỉ năm Dậu thuộc Kim theo Ngũ Hành. Năm 1945 là năm Dậu, chính là năm “con gà vàng”. Câu này ý nói năm 1945, Nhật Bản chiến bại đầu hàng (“Nhật đã qua”). Chữ “Nhật” ở đây vừa có ý là nước Nhật, vừa có ý là Mặt trời (Thái Dương).

Trong đồ hình là cảnh tượng ánh nắng ban mai, cũng rất tương tự với cờ Thái Dương của quân Nhật trong Đại Thế chiến II, ám chỉ Nhật Bản trỗi dậy. Ngoài ra trong đồ hình còn có một con chim đậu trên ngọn núi, đối ứng với hai câu sấm “Chim không chân, Núi có trăng”, ám chỉ chữ “Đảo”, Nhật Bản là đảo quốc.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/19/19560.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VII): Dân Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vii.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VI): Triều Thanhhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vi.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vi.html#respondMon, 11 Apr 2011 15:43:35 +0000https://chanhkien.org/?p=11419Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VI): Triều Thanh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Ở trước đã đề cập đến Tượng 32 nói về triều Minh diệt vong, dưới đây là Tượng 33 nói về triều Thanh khai quốc.

Tượng 33 Bính Thân

Tượng 33 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Hoàng Hà thủy thanh
Khí thuận tắc trị
Chủ khách bất phân
Địa chi vô Tý

Tụng viết:

Thiên Trường Bạch bộc lai
Hồ nhân khí bất suy
Phiên ly đa triệt khứ
Trĩ tử bán khả ai

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Nước Hoàng Hà trong
Khí thuận là trị
Chủ khách không phân
Địa chi không Tý

Tụng rằng:

Thác nước trời Trường Bạch
Người Hồ khí không suy
Hàng rào bỏ đi nhiều
Trẻ con nửa thương xót

“Hoàng Hà thủy thanh, Khí thuận tắc trị”: Hoàng Hà ý nói Trung Nguyên đại địa. Câu này chỉ Mãn Thanh nhập quan, từ thời Hoàng đế Thuận Trị là bắt đầu thống trị Trung Nguyên, quả thực là Thiên Ý vậy. “Chủ khách bất phân” ý nói sự thống trị của Mãn Thanh chính là ‘đổi khách thành chủ’. “Địa chi vô Tý” là nói khái quát về tình hình các Hoàng đế triều Thanh: 12 Địa chi đại biểu cho 12 vị Hoàng đế triều Thanh. Trong số 12 Địa chi, Tý là đứng đầu, “vô Tý” ý nói vị Hoàng đế đầu tiên của triều Thanh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích, chết trước khi triều Thanh kiến lập quốc hiệu – sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết, con trai ông là Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực lập nên quốc hiệu Đại Thanh, tôn Nỗ Nhĩ Cáp Xích làm Thanh Thái Tổ.

“Thiên trường Bạch bộc lai, Hồ nhân khí bất suy”: câu này chỉ Mãn Thanh đến từ núi Trường Bạch vùng Đông Bắc; từ triều Tống thì Liêu, Kim đã tới; Hồ nhân (dị tộc phương Bắc) kể từ thời Nguyên, Thanh đã hai lần thống trị Trung Nguyên, khí thế bất suy. “Phiên ly đa triệt khứ” là chỉ quốc phòng của triều Thanh dần yếu đi, tới những năm cuối bị ngoại cường xâm lược. “Trĩ tử bán khả ai” ẩn ý sau khi Mãn Thanh nhập quan có 12 vị Hoàng đế, trong đó một nửa (Thuận Trị, Khang Hy, Đồng Trị, Quang Tự, Tuyên Thống) lên ngôi lúc mới chỉ là đứa trẻ con chưa đầy 10 tuổi (“trĩ tử”), đây là một bi kịch thời Thanh mạt.

Trong đồ hình là một chiếc thuyền tới từ hướng Đông Bắc, chở 10 người và tám phương cờ xí, ý nói quân Bát Kỳ của Mãn Thanh từ vùng Đông Bắc nhập quan thống trị Trung Nguyên, sau khi nhập quan lịch sử Đại Thanh có tổng cộng 10 vị Hoàng Đế.

Có phải chuyện bịa đặt?

Giảng tới đây, chúng ta cùng nhau bàn luận về một đề tài trọng yếu. Đó là có nhiều người đọc dự ngôn ở phần trên, cảm thấy nói rất chuẩn xác, đúng là bất khả tư nghị, vậy liệu «Thôi Bối Đồ» có phải là do người đời sau soạn ra hay không?

Các dự ngôn đều tồn tại đặc điểm như thế này, đó là sau khi sự việc xảy ra thì có thể nhìn một cái là thấy ngay. Tuy nhiên khi sự việc chưa phát sinh thì dự ngôn cho người ta một loại cảm giác tự thị nhi phi, thật mà như giả, dường như cố tình không cho người ta cảm thấy minh bạch. Bởi vì dự ngôn thường dùng ẩn ý, đồng âm, đố chữ, thậm chí thuật ngữ Ngũ Hành Bát Quái, đối với con người hiện đại là rất khó hiểu. Từ một góc độ nhất định mà giảng, người Trung Quốc hiện đại đã bị cắt đứt với truyền thống văn hóa chân chính. Văn hóa truyền thống Tây phương thì khác xa với văn hóa bác đại tinh thâm của Trung Quốc, tuy nhiên người Tây phương rất trân quý lịch sử của họ về nhiều phương diện, và rút ra được nhiều trí tuệ từ đó. Rất nhiều người hiện nay cho rằng không đáng để tìm hiểu tư tưởng truyền thống, do vậy công bằng mà nói thì Tây phương cũng không còn có văn hóa truyền thống nữa. Rất nhiều vấn đề khó lý giải trong lịch sử đã có đáp án, nhưng còn xem chúng ta có nguyện ý đột phá tư tưởng cố hữu hay không, tĩnh lại thì sẽ thấy rõ.

Trong số rất nhiều giải thích «Thôi Bối Đồ», có ảnh hưởng lớn nhất chính là phần chú giải của Kim Thánh Thán. Kim Thánh Thán là người sống vào cuối triều Minh đầu triều Thanh, từng tận mắt chứng kiến sự thay đổi triều đại giữa Minh và Thanh. Chẳng phải khi nãy chúng ta đã giải được Tượng 33 về triều Thanh kiến lập hay sao? Đối với Kim Thánh Thán thì đây là lịch sử, do đó ông giải thích rất rõ ràng. Chúng ta hãy xem ông nói gì về Tượng 33: “Tượng này là Mãn Thanh nhập quan. Đổi khách thành chủ gần như là khí số mà thành, sức người khó vãn hồi. Sau thời Liêu, Kim, Hồ nhân hai lần làm chủ Trung Nguyên, Hán tộc cũng không phải hổ thẹn làm gì.”

Từ Tượng 34 trở đi là sự việc sau thời Kim Thánh Thán, do đó ông vào những năm sinh tiền không thấy được nội dung dự ngôn phù hợp với sự tình phát sinh. Vì vậy khi giải Tượng 34 này ông nói: “Chứng minh những việc quá khứ thì dễ, còn việc tương lai thì khó, nhưng đã chứng minh quá khứ rồi thì chẳng lẽ không suy xét đến tương lai hay sao. Ta chỉ mong từ Tượng này về sau, nếu đoán trúng thì là may, đoán không trúng thì là không may, mà ta cũng không có tội vậy. Tượng này nghi là gặp thủy tai hoặc việc binh và thiên tai cộng lại, chính là sự loạn vậy.

Thủy tai? Việc binh? Thiên tai? Tượng 34 rốt cuộc nói về điều gì? Chúng ta cùng nhau xem xét thử xem.

Tượng 34 Đinh Dậu

Tượng 34 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Đầu hữu phát
Y phạ bạch
Thái bình thời
Vương sát vương

Tụng viết:

Thái bình hựu kiến huyết hoa phi
Ngũ sắc chương thành lý ngoại y
Hồng thủy thao thiên miêu bất tú
Trung Nguyên tằng kiến mộng toàn phi

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Đầu có tóc
Áo sợ trắng
Thời thái bình
Vua giết vua

Tụng rằng:

Thái bình lại thấy máu bắn đi
Sớ thành năm màu bọc ngoại y
Hồng thủy cuộn trời mầm không nảy
Trung Nguyên từng thấy mộng toàn phi

Kỳ thực đối với hậu nhân mà nói, Tượng này là giảng mười phần rõ ràng rồi. Văn tự chỉ nhìn qua một cái thì đã thấy lịch sử và dự ngôn thật là trùng khớp, đây chính là nói về Thái Bình Thiên Quốc!

“Đầu có tóc” là chỉ dân chúng Thái Bình Thiên Quốc để tóc dài, nhưng không theo quy định bện tóc của Mãn Thanh, bị coi là “trường mao”. “Áo sợ trắng” ám chỉ tranh chấp nội bộ ở Thiên Kinh (Nam Kinh) của Thái Bình Thiên Quốc, Bắc vương Vi Xương Huy nắm giữ Bạch Kỳ giết Đông vương Dương Tú Thanh và toàn gia ông, tới cả bộ hạ và quân sĩ của ông, tổng cộng 2 vạn người, tạo thành một cảnh khủng bố đẫm máu.

“Sớ thành năm màu bọc ngoại y”: câu này ý nói Thái Bình Thiên Quốc lấy cờ Ngũ Sắc làm dấu hiệu, lại có rất nhiều cương lĩnh nổi tiếng, bao gồm «Nguyên đạo cứu thế huấn», «Nguyên đạo tỉnh thế huấn», «Nguyên đạo giác thế huấn», «Thiên triều điền mẫu chế độ» và «Tư chính tân thiên», v.v. “Hồng thủy cuộn trời mầm không nảy, Trung Nguyên từng thấy mộng toàn phi”: “Trung Nguyên tằng kiến” là chỉ Tăng Quốc Phiên thành lập Tương quân tại Hồ Nam (trong tiếng Hán, chữ “tằng” có nghĩa là “từng” và chữ “Tăng” trong họ Tăng viết giống nhau). Câu này ý nói Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn cuối cùng bại trận dưới tay Tương quân của Tăng Quốc Phiên.

Nói như vậy tuy là rõ ràng, nhưng trước khi sự tình phát sinh thì cũng chỉ đoán mò thôi, “thủy tai, việc binh, thiên tai” gì đây?

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/12/17/19559.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (VI): Triều Thanh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-vi.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (V): Triều Minhhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-v.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-v.html#respondSun, 10 Apr 2011 04:27:07 +0000https://chanhkien.org/?p=11396Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (V): Triều Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Triều Minh: từ Tượng 27 đến Tượng 32

Triều Nguyên chỉ có 2 Tượng 25, 26 với thời gian không đến 100 năm. Tiếp đó là tới triều Minh. Dưới đây chúng ta chỉ phân tích Tượng đầu tiên (khai quốc) và Tượng cuối cùng (diệt vong) của triều Minh.

Tượng 27 Canh Dần

Tượng 27 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Duy thả dữ nguyệt
Hạ dân chi cực
Ứng vận nhi hưng
Kỳ sắc nhật xích

Tụng viết:

Chi chi diệp diệp hiện kim quang
Hoảng hoảng lãng lãng chiếu tứ phương
Giang Đông ngạn thượng quang minh khởi
Đàm không thuyết kệ hữu chân Vương

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Chỉ cùng với trăng
Dân đen cùng cực
Ứng vận mà hưng
Mặt trời sắc đỏ

Tụng rằng:

Cành cành lá lá hiện kim quang
Chói chói sáng sáng rọi bốn phương
Giang Đông bờ thượng quang minh khởi
Nói không thuyết kệ có chân Vương

Trong đồ hình là hai vật hình tròn, đại biểu cho Nhật Nguyệt (Mặt trăng và Mặt trời); chữ “Nhật” (日) và chữ “Nguyệt” (月) hợp lại thành chữ “Minh” (明), trong sấm nói “Duy thả dữ nguyệt” cũng là ý như vậy. Ngoài ra, “chiếu tứ phương” và “quang minh khởi” đều ám chỉ về sự hưng khởi của triều Minh.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương từng là hòa thượng, sấm viết “Hạ dân chi cực” (Dân đen cùng cực), ai nghĩ rằng hòa thượng rồi cuối cùng lại trở thành Hoàng Đế? Cổ nhân tin vào Thiên Ý, ở đây chính là “Ứng vận mà hưng” vậy. “Kỳ sắc nhật xích”, “xích” chính là “chu”, màu đỏ, ám chỉ họ Chu.

Minh hiển nhất chính là câu cuối: “Nói không thuyết kệ có chân Vương” — “Nói không thuyết kệ” là chỉ cửa thiền, kết quả lại xuất ra một Hoàng Đế.

Dự ngôn của Tượng 27 chủ yếu nằm ở văn tự, chỉ nhìn đồ hình không thôi thì rất khó hiểu rõ là nói về điều gì; tuy nhiên Tượng 32 thì lại không như vậy, nhìn qua đồ hình một cái là đã sáng tỏ rồi.

Tượng 32 Ất Mùi

Tượng 32 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Mã khiêu Bắc khuyết
Khuyển ngao Tây phương
Bát cửu số tận
Nhật nguyệt vô quang

Tụng viết:

Dương hoa lạc tận Lý hoa tàn
Ngũ sắc kỳ phân tự Bắc lai
Thái tức Kim Lăng Vương khí tận
Nhất chi Xuân sắc chiếm Trường An

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Ngựa vượt điện Bắc
Chó khóc Tây phương
Tám chín số tận
Nhật nguyệt không sáng

Tụng rằng:

Hoa Dương rụng hết hoa Lý tàn
Năm sắc cờ phân từ Bắc sang
Than vãn Kim Lăng Vương khí tận
Một nhành Xuân sắc chiếm Trường An

Trong đồ hình là một chiếc cửa, trong cửa (“môn”) có ngựa (“mã”), chữ “Mã” (马) nằm trong chữ “Môn” (门) chính là chữ “Sấm” (闯). Sấm vương Lý Tự Thành diệt Minh, “Nhật nguyệt vô quang” là chỉ triều Minh diệt vong (“Nhật nguyệt” (日月) hợp lại thành chữ “Minh” (明)). «Thôi Bối Đồ» có đồ tượng với lượng thông tin rất lớn, cũng có văn tự giải thích rõ ràng. Bốn câu tụng báo hiệu Lý Tự Thành sẽ không ngồi được lâu (“Lý hoa tàn”), dân tộc phương Bắc (Mãn Thanh) cuối cùng lấy được thiên hạ. “Than vãn Kim Lăng Vương khí tận” ám chỉ khí số xưng Đế của người Hán đã cùng tận rồi.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/15/19558.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (V): Triều Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-v.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (IV): Triều Nguyênhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iv.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iv.html#respondMon, 04 Apr 2011 13:14:17 +0000https://chanhkien.org/?p=11330Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (IV): Triều Nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Nam Tống: từ Tượng 21 đến Tượng 24; triều Nguyên: Tượng 25 và 26

Tượng 21 quẻ Tốn

Tượng 21 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Không quyết cung trung
Tuyết thâm tam xích
Hu ta nguyên *
Nam viên Bắc triệt

Tụng viết:

Yêu phân vị tịnh bất khang ninh
Bắc tảo phong yên vọng Đế kinh
Dị tính lập triều chung quốc vị
Bặc thế tam lục hựu Nam hành

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Không ngất trong cung
Tuyết sâu ba thước
Ôi chao nguyên *
Đánh xuôi thổi ngược

Tụng rằng:

Khí yêu chưa tịnh chẳng an khang
Bắc quét khói lửa ngóng Đế kinh
Khác họ lập triều xong quốc vị
Ước đời ba sáu lại về Nam

Tượng này dự ngôn những năm cuối thời Bắc Tống, nước Kim do tộc Nữ Chân kiến lập xâm phạm triều Tống, đến năm Tịnh Khang đầu tiên thì chiếm được phủ Khai Phong; Huy Tông, Khâm Tông bị bắt cóc về phương Bắc. Trong đồ hình là hai người mặc quan phục đứng quay lưng lại, đích thực là chỉ Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông, hai vị Hoàng đế bị bắt làm tù binh đưa về phương Bắc. “Khí yêu chưa Tịnh chẳng an Khang”, là chỉ sự tình phát sinh vào những năm “Tịnh Khang”. Nhà Kim lập Trương Bang Xương lên làm Vua, ấy chính là “Khác họ lập triều xong quốc vị” vậy. “Ước đời ba sáu lại về Nam”, là chỉ Bắc Tống tổng cộng có 9 (=3+6) vị Hoàng đế, sau đó phải dời về Nam. Tiếp đó là Nam Tống, định đô tại Lâm An (nay là Hàng Châu).

Tượng 25 Mậu Tý

Tượng 25 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Bắc đế Nam thần
Nhất ngột tự lập
Ly ly hà thủy
Yến sào bổ *

Tụng viết:

Đỉnh túc tranh hùng sự bản kỳ
Nhất lang nhị thử phát tu du
Bắc quan tỏa thược tuy lao cố
Tử tử tôn tôn ngũ ngũ nghi

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Vua Bắc tôi Nam
Một Ngột tự lập
Xa xa nước sông
Yến sào bổ *

Tụng rằng:

Chân vạc tranh hùng sự vốn kỳ
Một sói hai chuột lìa một khi
Cổng Bắc chìa khóa tuy kiên cố
Con con cháu cháu năm năm nghi

Tượng 25 dự ngôn về Nguyên Thái Tổ khai quốc và toàn bộ khí số triều Nguyên. Trong đồ hình là một chiếc rìu sắt, cán có 10 đoạn, nội hàm là mười phần hàm súc; xin giải thích sơ qua như sau: đầu chiếc rìu là bằng sắt (thiết), cán chiếc rìu là bằng gỗ (mộc), ám chỉ Nguyên Thái Tổ tên gọi là Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn); cán rìu chia làm 10 đoạn, ý là triều Nguyên truyền được 10 vị Hoàng đế. Chỉ một đồ hình đơn giản mà đưa cả đại xu thế của một triều đại ra miêu tả toàn bộ. Tụng rằng: “Con con cháu cháu năm năm nghi”, “năm năm” chính là “mười” (10 đời). Ngoài ra sấm còn viết “Vua Bắc tôi Nam”, ấy là báo hiệu Nam Triều (người Hán) hướng về phương Bắc (người Hồ) mà thần phục. “Ly ly hà thủy” là chỉ Nguyên Thái Tổ xưng Đế tại Ly Hà.

*  *  *  *  *

Ghi chú của người dịch:

Chỗ có ký hiệu “*” là bản gốc bị mất chữ. Chân vạc: chỉ thế tam phân, chia ba. Bắc quan: cổng phía Bắc thành Lâm An, kinh đô Nam Tống, Trung Quốc. Tượng 25 nói về thế tam phân giữa Mông Cổ (sói), Kim và Nam Tống (hai chuột). Khi cổng Bắc thành Lâm An (Bắc quan) bị phá thì Nam Tống diệt vong.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/13/19557.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (IV): Triều Nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iv.html/feed0
Một vài giải thích Tượng 54 «Thôi Bối Đồ»https://chanhkien.org/2011/04/mot-vai-giai-thich-tuong-54-thoi-boi-do.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/mot-vai-giai-thich-tuong-54-thoi-boi-do.html#respondSat, 02 Apr 2011 14:20:37 +0000https://chanhkien.org/?p=11301Tác giả: Tân Tự Minh [Chanhkien.org] Giới thiệu: «Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi […]

The post Một vài giải thích Tượng 54 «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tân Tự Minh

[Chanhkien.org] Giới thiệu:

«Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi Bối Đồ» luôn thuộc loại “sách cấm” đối với những người đương quyền Trung Quốc qua các triều đại.

«Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN theo Tây lịch), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc.

Tượng 54: Biến động của khối cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu

第五十四象 丁巳
Tượng 54 Đinh Tỵ

Tượng 54 «Thôi Bối Đồ».

谶曰
磊磊落落 残棋一局
啄息苟安 虽笑亦哭

颂曰
不分牛鼠与牛羊
去毛存鞟尚称强
寰中自 有真龙出
九曲黄河水不黄

Sấm viết:

Lỗi lỗi lạc lạc
Tàn kỳ nhất cục
Trác tức cầu an
Tuy tiếu diệc khốc

Tụng viết:

Bất phân ngưu thử dữ ngưu dương
Khứ Mao tồn khoát thượng xưng cường
Hoàn trung tự hữu Chân Long xuất
Cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Quang minh lỗi lạc
Một ván cờ tàn
Thở phào cầu an
Tuy cười mà khóc

Tụng rằng:

Không phân trâu chuột hay trâu dương
Bỏ lông giữ da hãy xưng cường
Trong cõi tự có Chân Long xuất
Chín khúc Hoàng Hà nước không vàng

Trong đồ hình là năm đứa trẻ chăn trâu (tiểu mục đồng), tay cầm gậy ngắn (tiểu bổng) đang xua đuổi một con trâu. Trong phiên bản khác là một con ngựa có sừng trâu, cái đầu khá nhỏ, hơi giống con dê, trong đó hàm chứa huyền cơ. Không cần đến năm người cản một con trâu, đây chỉ là lấy hình thức để biểu đạt mà thôi. Kim Thánh Thán (nhà bình giải sống vào cuối triều Minh đầu triều Thanh) năm ấy đã nhìn ra được như sau: “Tượng này có điềm báo là khứ danh đi để tồn tại“. Ngoài ra, người Trung Quốc trong quá khứ dùng câu thành ngữ “thập dương cửu mục”, tức “mười con dê, chín kẻ chăn” để hình dung quan viên số lượng rất nhiều, nhân dân không chịu nổi gánh nặng. Ở đây lại dùng “nhất ngưu ngũ mục”, tức “một con trâu, năm kẻ chăn” để ẩn dụ về hệ thống quan liêu nặng nề hủ bại.

“Lỗi lỗi lạc lạc, Tàn kỳ nhất cục” là chỉ sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu giải thể, đối với toàn bộ phe cộng sản mà nói thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Ở đây miêu tả tâm lý con người rất sâu sắc. “Thở phào cầu an, Tuy cười mà khóc” chính là đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cảm thấy uy hiếp cực đại, tuy nhiên vẫn còn mấy tiểu huynh đệ như Cu Ba, Bắc Hàn, v.v. làm bạn, chỉ không thể “cười” mà thôi. Lúc ấy ĐCSTQ đã làm những điều sau: phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa và ngoại giao, phát triển thể thao, v.v. tất cả đều nhằm duy trì chính quyền của mình, đều là sách lược “cầu an”.

“Bất phân ngưu thử dữ ngưu dương, Khứ Mao tồn khoát thượng xưng cường” – “Không phân trâu chuột hay trâu dương, Bỏ lông giữ da hãy xưng cường”: Đến lúc này ở Trung Quốc không còn ai tin vào chủ nghĩa cộng sản nữa, những người đương quyền chỉ lợi dụng cái vỏ ngoài (“bì mao”) của chủ nghĩa cộng sản mà thôi. Đối với sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản và đại tội mà họ đã phạm với nhân dân thì không chịu thừa nhận. Đến mức thiện ác thị phi như thế nào thì họ cũng không thèm quan tâm nữa.

Ở đây cũng cần phải nói thêm rằng, về phương vị của 12 con Giáp thì chuột là chính Bắc, trâu là chếch về hướng Đông, ngựa là chính Nam, dê là chếch về phía Tây. Câu “Không phân trâu chuột hay trâu dương (dê)” đúng ra phải là “Không phân trâu chuột hay ngựa dê”, nghĩa là khắp Đông Tây Nam Bắc không phân biệt.

“Bỏ lông” (khứ Mao) cũng có nghĩa là việc từ bỏ diễn ra sau khi Mao Trạch Đông chết.

Trong số năm tiểu mục đồng này, có một mục đồng đứng quay lưng lại, nhưng đơn độc ở một bên con trâu; đây chính là Đặng Tiểu Bình thao túng sau hậu trường, không đăng “long vị”, và cũng không muốn nhìn thẳng vào người ta. Bốn mục đồng còn lại đứng quay mặt về phía độc giả chính là bốn vị Chủ tịch từng chấp chính sau khi Mao chết, ấy là Hoa Quốc Phong, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, và Giang Trạch Dân.

“Hoàn trung tự hữu Chân Long xuất, Cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng” – “Trong cõi tự có Chân Long xuất, Chín khúc Hoàng Hà nước không vàng”: chỉ khổ tận cam lai, hết nỗi khổ thì đến hạnh phúc, quá khứ giảng rằng khi nước Hoàng Hà chuyển thành trong là lúc có Thánh nhân xuất hiện. Đây cũng là câu đố chữ, “Hoàng” (黄) chính là chữ “cộng” (共), ấy là để nói, sau khi đảng cộng sản Trung Quốc cầm quyền thì Thánh nhân hạ thế. Ở đây cũng là ám chỉ một chữ “Hồng” (洪).

Không biết có đúng hay không, hy vọng quý đồng tu vui lòng chỉ giáo.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/4/16/65477.html

The post Một vài giải thích Tượng 54 «Thôi Bối Đồ» first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/mot-vai-giai-thich-tuong-54-thoi-boi-do.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (III): Bắc Tốnghttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iii.html#respondWed, 30 Mar 2011 16:34:16 +0000https://chanhkien.org/?p=11204Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (III): Bắc Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Ngũ Đại: từ Tượng 10 đến Tượng 14; Bắc Tống: từ Tượng 15 đến Tượng 20

Trong lịch sử Trung Quốc, thời Ngũ Đại (năm 907-960 SCN) là thời kỳ của sự hoán chuyển liên tục các triều đại. Chỉ trong 53 năm ngắn ngủi mà xuất hiện tới 5 triều đại là Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, lịch sử quen gọi là Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. «Thôi Bối Đồ» từ Tượng 10 đến Tượng 14 chính là dự ngôn giai đoạn thời gian này. Ở đây xin lấy Tượng thứ 14 làm ví dụ, giới thiệu sơ qua.

Tượng 14 Đinh Sửu

Tượng 14 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Thạch lựu mạn phóng hoa
Lý thụ đắc căn nha
Khô mộc phùng Xuân chỉ nhất thuấn
Nhượng tha thiên thủy tự vinh hoa

Tụng viết:

Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ dĩ chung
Thập tam đồng tử ngũ vương công
Anh minh trùng kiến thái bình nhật
Ngũ thập tam tham vận bất thông

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Cây lựu nở đầy hoa
Cây mận mọc mầm ra
Củi khô gặp Xuân chỉ nháy mắt
Nhường lại nước trời tự vinh hoa

Tụng rằng:

Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ đã xong
Mười ba đồng tử năm vương công
Anh minh lại thấy thái bình nhật
Năm mươi ba xem vận bất thông

Thời Ngũ Đại có tổng cộng 13 Hoàng đế, Chu Thế Tông là vị Hoàng đế cuối cùng. Thế Tông họ “Sài” (khô cằn), trong văn ví von là “khô mộc” (củi khô). Nghe nói Thế Tông là bậc quân chủ anh minh, chỉ tiếc là thời gian tại vị không dài, sau chết vì bệnh. Âu Dương Tu sống vào triều Tống trong «Tân Ngũ Đại Sử» đã miêu tả: “Mà Thế Tông chỉ trong 5, 6 năm đã lấy được Tần Lũng, bình định hữu ngạn sông Hoài, thu phục ba quan ải, tiếng tăm uy vũ chấn động thiên hạ; bên trong lại thỉnh mời kẻ sĩ Nho học, mở khoa thi, tu «Thông Lễ», định «Chính Nhạc», nghị «Hình Thống», toàn là những điều lưu lại cho hậu thế. Là người anh minh quả quyết, quả đúng như vậy”. “Củi khô gặp Xuân chỉ nháy mắt, Nhường lại nước trời tự vinh hoa” đã miêu tả rất xuất sắc điều này. Trong đồ hình là một bó củi khô bao quanh một gốc cây tươi, ám chỉ khí số của thời Ngũ Đại đã hết.

Từ Tượng 15 trở đi, thời gian bắt đầu tiến nhập vào triều Tống. Từ lúc Tống Thái Tổ lên ngôi đến khi Nam Tống diệt vong là 300 năm, ở phương Bắc trước sau xuất hiện vài triều đại do dân tộc thiểu số kiến lập, đó là Liêu (tộc Khiết Đan), Tây Hạ, Kim (tộc Nữ Chân), và sau này là triều Nguyên (tộc Mông Cổ). Giữa nhà Tống và các triều đại do dân tộc thiểu số kiến lập ở phương Bắc thường xảy ra chiến sự liên miên. Ở đây chỉ xin lấy Tượng thứ 17 làm ví dụ.

Tượng 17 Canh Thìn

Tượng 17 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Thanh hách hách
Can qua tức
Tảo biên phân
Điện bang ấp

Tụng viết:

Thiên tử thân chinh sạ độ hà
Hoan thanh bách lý khởi âu ca
Vận trù hạnh hữu hoàn toàn nữ
Tấu đắc kỳ công tại nghị hòa

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Âm chói lọi
Can qua hết
Vào vai phụ
Đặt bang ấp

Tụng rằng:

Thiên tử thân chinh mới vượt hà
Hoan hô trăm lý nổi ngợi ca
Trù tính may có hoàn toàn nữ
Tấu được kỳ công tại nghị hòa

Tượng này nói về chiến dịch Thiền Uyên của Tống Chân Tông. Chân Tông là vị Hoàng đế thứ 3 của triều Tống, là bậc quân chủ tương đối anh minh. Vào thời Bắc Tống, tộc Khiết Đan không ngừng xâm phạm triều Tống; năm Cảnh Đức đầu tiên, Khiết Đan ồ ạt xâm nhập, Tống Chân Tông dẫn quân thân chinh. Quân Tống chiến thắng dồn dập, Khiết Đan bị buộc phải nghị hòa.

Trong đồ hình, ở bên kia dòng sông, đứng quay mặt về phía độc giả là một người có dáng dấp quan viên người Hán, chính là Tống Chân Tông, rất có dáng vẻ uy nghi của Thiên tử. Ở bên này dòng sông, đứng quay lưng về phía độc giả là một người Hồ, chỉ người Khiết Đan xâm lược. Bởi vì Tống Chân Tông thân chinh ra tiền tuyến, binh sĩ Tống vô cùng phấn chấn, trên dưới một lòng, nhiều lần phá địch. Bên Khiết Đan thì chột dạ không dám tái chiến, chủ động cầu hòa. Đây chính là người Hồ trong đồ hình đang chắp tay hướng về phía người có dáng dấp quan viên người Hán để tỏ lòng kính trọng.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/11/19556.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (III): Bắc Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-iii.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (II): Triều Đườnghttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-ii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-ii.html#respondSun, 27 Mar 2011 14:47:48 +0000https://chanhkien.org/?p=11141Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (II): Triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Tượng 5 Mậu Thìn

Tượng 5 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Dương hoa phi
Thục đạo nan
Tiệt đoạn trúc tiêu phương kiến nhật
Cánh vô nhất Sử nãi bình an

Tụng viết:

Ngư Dương bề cổ quá Đồng Quan
Thử nhật quân vương hạnh Kiếm Sơn
Mộc dịch nhược phùng sơn hạ quỷ
Định vu thử xứ táng kim hoàn

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Hoa Dương bay
Đường Thục khó
Đứt đoạn trúc tiêu nơi thấy nhật
Càng không một Sử mới bình an

Tụng rằng:

Ngư Dương trống nhỏ qua Đồng Quan
Hôm nay quân vương gặp Kiếm Sơn
Gỗ dễ như gặp quỷ dưới núi
Định nơi chốn ấy chôn kim hoàn

Tượng 5 «Thôi Bối Đồ» miêu tả sự kiện lịch sử loạn An Sử và sự biến Mã Ngôi xảy ra vào giữa triều Đường (thời kỳ 8 năm, từ năm 755 SCN trở về sau).

Tháng 11 năm Thiên Bảo thứ 4 thời Đường Huyền Tông (năm 755 SCN), An Lộc Sơn cùng bộ tướng Sử Tư Minh dấy binh tạo phản tại Ngư Dương. Loạn An Sử bùng phát.

Tháng 6 năm sau, bị mất Đồng Quan, Huyền Tông hốt hoảng bỏ trốn sang Thành Đô, Tứ Xuyên. Đến gò Mã Ngôi (nay là thuộc Hưng Bình, Thiểm Tây), quân sĩ bất ngờ tạo phản, Huyền Tông bị bức phải giết chết quý phi được mình sủng ái là Dương Ngọc Hoàn (tức Dương Quý Phi).

Tháng 7 năm ấy, Hoàng Thái Tử Lý Hanh lên ngôi tại Linh Vũ (nay là tây nam Ngô Trung, Ninh Hạ), lấy hiệu là Túc Tông. Vài năm sau, quân Đường nhiều lần phá quân nổi loạn, lấy lại Trường An và những nơi khác. An Lộc Sơn, Sử Tư Minh lần lượt bị giết. Loạn An Sử xảy ra được 8 năm thì bình định.

Về câu đố trong đồ hình của Tượng 5, trong hình là cái yên ngựa, hay “An” (鞍), đồng âm với chữ “An” (安), chỉ An Lộc Sơn; bộ “sử” thư chỉ Sử Tư Minh; một phu nhân nằm chết dưới đất ám chỉ Dương Quý Phi.

“Hoa Dương bay, Đường Thục khó”: Ý nói về cái chết của Dương Quý Phi và sự kiện Đường Huyền Tông lánh nạn ở Tứ Xuyên.

“Đứt đoạn trúc tiêu nơi thấy nhật, Càng không một Sử mới bình an”: “Đứt đoạn trúc tiêu” chính là chữ “Túc” (肃); “Càng không một Sử” là chữ “Sử”, “an” chỉ An Lộc Sơn. Câu này ý nói sau khi Túc Tông lên ngôi mới có thể bình loạn An Sử.

“Ngư Dương trống nhỏ qua Đồng Quan, Hôm nay quân vương gặp Kiếm Sơn”: Ý nói An Lộc Sơn dấy binh tạo phản tại Ngư Dương, đánh chiếm Đồng Quan. Vào lúc binh mã của ông ta ầm ầm kéo qua Đồng Quan, Đường Huyền Tông phải lánh nạn nơi đất Thục (nay là Tứ Xuyên), trên đường đi qua Kiếm Sơn ở đất Thục.

“Gỗ dễ như gặp quỷ dưới núi, Định nơi chốn ấy chôn kim hoàn”: “Gỗ dễ” (Mộc dịch – “木易”) chính là chữ “Dương” (杨), “quỷ dưới núi” ám chỉ chữ “Ngôi” (嵬) gồm chữ “Quỷ” (鬼) nằm dưới chữ “Sơn” (山), “kim hoàn” ngầm chỉ Dương Ngọc Hoàn. Câu này ý nói Dương Quý Phi thắt cổ tự vẫn tại gò Mã Ngôi.

Tượng 5 «Thôi Bối Đồ» vận dụng thủ pháp câu đố trong đồ hình, kết hợp với đố chữ và đồng âm, chỉ dùng một bức họa và mấy câu thơ ngắn mà đã đưa toàn bộ thời gian, địa điểm, nhân vật và sự kiện lịch sử ra miêu tả một cách chuẩn xác phi thường, khiến người ta thán phục.

Tượng 9 Nhâm Thân

Tượng 9 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Phi bạch phi hắc
Thảo đầu nhân xuất
Tá đắc nhất chi
Mãn thiên phi huyết

Tụng viết:

Vạn nhân đầu thượng khởi anh hùng
Huyết nhiễm hà xuyên nhật sắc hồng
Nhất thụ Lý hoa đô thảm đạm
Khả liên Sào phúc diệc thành không

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Không trắng không đen
Thảo đầu nhân xuất
Mượn được một cành
Đầy trời hơi máu

Tụng rằng:

Trên vạn đầu người khởi anh hùng
Máu nhuộm sông ngòi mặt trời hồng
Một cây hoa Lý cũng ảm đạm
Tội nghiệp lật Sào vẫn thành không

Đây là Tượng cuối cùng nói về triều Đường. “Không trắng không đen” là chỉ màu vàng, hay chữ “Hoàng”. Vào những năm cuối triều đại nhà Đường, Hoàng Sào khởi binh phản Đường.

Chu (màu hồng) Ôn sau này đoạt được thiên hạ, kiến lập nhà Hậu Lương, vương triều nhà Đường (họ Lý) kết thúc, do vậy mới nói “Một cây hoa Lý cũng ảm đạm”.

Kim Thánh Thán sống vào thời Minh mạt đã chú giải cho Tượng này như sau: “Tượng này chỉ Hoàng Sào gây loạn, đến thời Chiêu Tông nhà Đường. Chu Ôn giết vua lên ngôi, cải quốc hiệu thành Lương Ôn, bởi vì cựu đảng Hoàng Sào nên mới viết ‘lật Sào vẫn thành không’.”

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/9/19553.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (II): Triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-ii.html/feed0
Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (I): Triều Đườnghttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-i.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-i.html#respondSun, 27 Mar 2011 14:38:58 +0000https://chanhkien.org/?p=11135Tác giả: Lưu Thiên Hồng [Chanhkien.org] Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch […]

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (I): Triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Thiên Hồng

[Chanhkien.org]

Lời ban biên tập: Có rất nhiều dự ngôn nổi tiếng đã được lưu truyền qua hàng ngàn năm, dự đoán phi thường chuẩn xác, thế nhưng vẫn khiến con người cảm thấy thật thần bí. Dự ngôn đã trở thành đề tài được nghiên cứu trong suốt lịch sử nhân văn, thế nhưng chúng cũng đề xuất một vấn đề khoa học: Liệu có khả năng dự đoán tương lai chăng? Tại chuyên mục này, chúng tôi và quý độc giả cùng nhau dần dần khám phá các dự ngôn này.

Trong số các dự ngôn của Trung Quốc, «Thôi Bối Đồ» có thể nói là “nhà nhà đều biết”. Đây là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán triều đại nhà Đường (năm 627-649 SCN). Cuốn sách tổng cộng có 60 hình vẽ (đồ tượng), mỗi đồ tượng ở bên dưới lại có “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các đại sự phát sinh tại Trung Quốc qua các triều đại.

Tượng 1 Giáp Tý, quẻ Càn (triều Đường)

Tượng 1 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Mang mang Thiên Địa
Bất tri sở chỉ
Nhật nguyệt tuần hoàn
Chu nhi phục thủy

Tụng viết:

Tự tòng Bàn Cổ ngật hi di
Hổ đấu long tranh sự chính kỳ
Ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại
Thí vu Đường hậu luận nguyên cơ

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Trời Đất mênh mang
Không biết chốn dừng
Nhật nguyệt tuần hoàn
Xoay đi chuyển lại

Tụng rằng:

Từ thuở Bàn Cổ đến mãi khi
Long tranh hổ đấu sự thật kỳ
Ngộ được tuần hoàn chân lý tại
Thử từ Đường hậu luận nguyên cơ

Tượng 1 này là lời mở đầu, không hề nói nội dung cụ thể gì. Tuy nhiên chúng ta thấy ở đây biểu đạt vũ trụ quan của tác giả: “Nhật nguyệt tuần hoàn, Xoay đi chuyển lại”, ngoài ra còn “Ngộ được tuần hoàn chân lý tại”. Có lẽ đây là căn cứ mà tác giả dùng để tiến hành dự đoán vị lai, nói thẳng ra là thông qua con đường nào để biết được tương lai. Về phương diện này, chúng ta sẽ đàm luận sau khi tham khảo nguồn gốc của dự ngôn.

Triều Đường: Từ Tượng 2 đến Tượng 9

Tượng 2 đến Tượng 9 «Thôi Bối Đồ» chính là dự ngôn về các sự tình của vương triều nhà Đường (năm 618-907 SCN). Dùng thủ pháp rất ẩn ý để dự đoán các đại sự của triều Đường, bao gồm Võ Tắc Thiên nắm quyền, loạn An Sử, cái chết của Dương Quý Phi, Thổ Phồn xâm nhập Trung Nguyên, loạn Kiến Trung, Hoàng Sào dấy binh cho đến Chu Ôn diệt Đường, v.v. Xét theo độ dài, ở đây chỉ xin giới thiệu Tượng 2, Tượng 5 và Tượng 9.

Tượng 2 Ất Sửu (triều Đường)

Tượng 2 «Thôi Bối Đồ».

Sấm viết:

Lũy lũy thạc quả
Mạc minh kỳ số
Nhất quả nhất nhân
Tức tân tức cố

Tụng viết:

Vạn vật thổ trung sinh
Nhị cửu tiên thành thật
Nhất thống định Trung Nguyên
Âm thịnh Dương tiên kiệt

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Ỉu xìu quả lớn
Không rõ mấy số
Mỗi quả một nhân
Tức mới tức cố

Tụng rằng:

Vạn vật sinh trong đất
Hai chín trước thành thật
Thống nhất định Trung Nguyên
Âm thịnh Dương kiệt trước

Tượng này dự ngôn về khí số triều Đường. “Ỉu xìu quả lớn, Không rõ mấy số”, ở đây rõ ràng là muốn chúng ta đếm số quả. Trên chiếc khay ở đồ hình là 21 quả, ám chỉ triều Đường truyền được 21 Đại Hoàng đế; sấm viết “Mỗi quả một nhân”, cũng đã nói rõ hàm nghĩa của mỗi quả, chính là một “người” (chữ “Nhân” (人) nghĩa là “người” và chữ “Nhân” (仁) nghĩa là “hạt quả” là đồng âm). Triều Đường trong lịch sử xác thực là “Thống nhất định Trung Nguyên”, là triều đại cường thịnh nhất, vô luận là sự phát triển văn hóa hay cai trị quốc gia đều đạt tới đỉnh điểm. Trong lịch sử chỉ duy có Nữ hoàng Võ Tắc Thiên xuất từ triều Đường là ứng với “Âm thịnh Dương kiệt trước”. “Hai chín trước thành thật” tức là 290, ý nói triều Đường từ năm 618 đến năm 907 SCN trải qua 289 năm, truyền được 290 năm.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/7/19541.html

The post Một vài phân tích «Thôi Bối Đồ» (I): Triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/kham-pha-du-ngon-mot-vai-phan-tich-thoi-boi-do-i.html/feed0
Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (5): Dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đườnghttps://chanhkien.org/2011/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-5-du-ngon-thoi-boi-do-trieu-duong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-5-du-ngon-thoi-boi-do-trieu-duong.html#respondSun, 13 Feb 2011 13:42:18 +0000https://chanhkien.org/?p=10618—Phân tích tham khảo dự ngôn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp Tác giả: Chánh Kiến Net [Chanhkien.org] (5) «Thôi Bối Đồ» triều Đường dự ngôn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp vào lúc giao thời giữa vũ trụ cũ và vũ trụ mới «Thôi Bối Đồ» (推背图) là […]

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (5): Dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
—Phân tích tham khảo dự ngôn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp

Tác giả: Chánh Kiến Net

[Chanhkien.org]

(5) «Thôi Bối Đồ» triều Đường dự ngôn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp vào lúc giao thời giữa vũ trụ cũ và vũ trụ mới

«Thôi Bối Đồ» (推背图) là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN theo Tây lịch), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc. Khi đối chiếu những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» với những sự kiện đã xảy ra, thì người ta phát hiện thấy sự chuẩn xác đến đáng kinh ngạc!

Từ Tượng 32 trở về trước, «Thôi Bối Đồ» dự đoán những sự kiện lịch sử chính xác đến 100%. Do «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện lịch sử nên nó thuộc vào hàng “sách cấm” đối với những người đương quyền, vì họ sợ người ta lưu truyền khiến nhân tâm phù động, nguy hại cho chính quyền. Có người đối với những dự ngôn của «Thôi Bối Đồ» từ triều Minh về sau đã cố ý đả loạn thứ tự các tượng, khiến người đời sau khó mà dịch giải. Tuy nhiên Tượng 59, 60 thì được công nhận là hai tượng cuối, cũng bởi vì là hai tượng tối hậu, nên ngụ ý thâm sâu, có quan hệ trọng đại đến mỗi cá nhân trong thời đại ngày nay.

第五十九象 壬戌 兑上艮下 咸
Tượng 59 Nhâm Tuất
Đoài Thượng Cấn Hạ, Hàm

Tượng 59 «Thôi Bối Đồ»

谶曰

无城无府 无尔无我
天下一家 治臻大化

颂曰

一人为大世界福
手执签筒拔去竹
红黄黑白不分明
东南西北尽和睦

Sấm viết:

Vô thành vô phủ
Vô nhĩ vô ngã
Thiên hạ nhất gia
Trị trăn đại hóa

Tụng viết:

Nhất nhân vi đại thế giới phúc
Thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc
Hồng hoàng hắc bạch bất phân minh
Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Không thành không phủ
Không bạn không tôi
Thiên hạ một nhà
Trị tới đại hóa

Tụng rằng:

Một người là lớn cả thế giới được hưởng phúc
Nắm chấp trước tựa ống thẻ nhổ bạt cây trúc
Đỏ vàng đen trắng không phân biệt rõ ràng
Đông Nam Tây Bắc tất cả đều hòa thuận

Giải:

Nhâm Tuất: Nhâm (thuộc về Dương Thủy, hồng đại) ngầm chỉ chữ “Hồng” (洪); Tuất ngầm chỉ chữ “Chí” (志) (gồm chữ Thổ (土) ở trên, chữ Tâm (心) ở dưới), quẻ Trạch Sơn Hàm.

Sấm rằng: “Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã” – “Không thành không phủ, Không bạn không tôi”

Giải: Không giảng hình thức, không phải tôn giáo; dạy người trở nên vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã, người trước ta sau. Câu này chỉ Lý Hồng Chí Tiên sinh hồng truyền Đại Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, chân lý của vũ trụ.

“Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa” – “Thiên hạ một nhà, Trị tới đại hóa”

Giải: Không phân quốc tịch, Đại Pháp độ Đường nhân, cũng giáo hóa toàn nhân loại.

Tụng rằng:

Nhất nhân vi đại thế giới phúc (đức bao trùm khắp thế giới, phúc rải khắp toàn cầu)
Thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc (dạy người loại bỏ chấp trước, đồng hóa với đặc tính vũ trụ)
Hồng hoàng hắc bạch bất phân minh (dạy không phân biệt, không phân nhân chủng)
Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục (thiện giải những ân oán loạn thế gian, thế giới đại đồng)

Giải:

Tượng này rõ ràng là chỉ Đại Pháp hồng truyền. Dự đoán được Đại Pháp không giống như những chính giáo trong quá khứ, không giảng hình thức, khiến con người có thể tu thành “bậc Chính Giác vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã” (trích từ «Pháp Luân Phật Pháp – Tinh Tấn Yếu Chỉ», “Phật tính vô lậu”). Đại Pháp cuối cùng hồng truyền toàn thế giới, có thể giải quyết hết thảy ân oán, mâu thuẫn nơi trần thế, đưa mọi người đến sự hòa thuận vĩnh cửu.

第六十象 癸亥 兑上坤下 萃
Tượng 60 Quý Hợi
Đoài Thượng Khôn Hạ, Tụy

Tượng 60 «Thôi Bối Đồ»

谶曰

一阴一阳 无终无始
终者日终 始者自始

颂曰

茫茫天数此中求
世道兴衰不自由
万万千千说不尽
不如推背去归休

Sấm viết:

Nhất âm nhất dương
Vô chung vô thủy
Chung giả nhật chung
Thủy giả tự thủy

Tụng viết:

Mang mang thiên số thử trung cầu
Thế Đạo hưng suy bất tự do
Vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận
Bất như thôi bối khứ quy hưu

Tạm dịch:

Sấm rằng:

Một âm một dương
Không cuối không đầu
Người cuối ngày cuối
Người đầu từ đầu

Tụng rằng:

Mênh mang số Trời cầu mong chỗ này đây
Thế Đạo thịnh suy không được tự do như ý
Nói thuyết cả nghìn vạn lần cũng không hết
Chẳng bằng đẩy lưng rồi quay trở về nghỉ ngơi

Tượng này cũng là lời kết của toàn dự ngôn, rất nhiều người có thể cảm thấy văn tự bề ngoài rất rõ ràng minh bạch, không còn ý bất minh nữa. Kỳ thực tất cả dự ngôn đều giảng về thời kỳ lịch sử đặc thù phi thường này, như «Chu Dịch» đề xuất Âm Dương đảo chiều, hàm ý vật cực tất phản, mang ý nghĩa đại biến động. Dự ngôn người Maya, dự ngôn thổ dân Hopi ở Bắc Mỹ đều cho rằng hiện tại là thời kỳ thanh lý, tịnh hóa, những người và vật bất hảo đều bị đào thải rớt đi, sau đó lịch sử mới mới có thể bắt đầu. Bởi vì đây là thiên cơ trong thiên cơ, bất cứ dự ngôn nào trong quá khứ cũng đều không dám nói rõ hơn nữa. Nhưng hiện tại đã là lúc không giảng không được nữa rồi, thực ra những dự ngôn kia cũng chính là để đến hôm nay mới được giảng ra.

Hiện tại là lúc mà lịch sử cũ của loài người chấm dứt, lịch sử mới bắt đầu thời kỳ chuyển giao. Bởi vì tiêu chuẩn đạo đức của xã hội nhân loại đã bại hoại, nay đã hoàn toàn xa rời đặc tính “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ. Pháp Luân Đại Pháp đem chân lý vũ trụ giảng cho con người, khiến hàng triệu người tâm được tịnh hóa, đạo đức thăng hoa, chính là chính Pháp chính Đạo cứu độ thế nhân trong lúc giao thời giữa vũ trụ cũ và vũ trụ mới.

“Nhất âm nhất dương” ở đây là Lý tương sinh – tương khắc của cựu vũ trụ, có tốt thì có xấu. Sự hồng truyền của Đại Pháp gặp phải ma nạn chưa từng có trong lịch sử. Dạy con người “Chân-Thiện-Nhẫn” để làm người tốt, nhưng chính Pháp có thể tịnh hóa thân thể con người lại gặp phải phỉ báng và bức hại của kẻ xấu. Ở bề mặt bị bức hại là đệ tử Đại Pháp, trên thực tế bị hại là tất cả mọi người.

“Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy” – “Người cuối ngày cuối, Người đầu từ đầu”, nói thẳng ra, là nên bị đào thải thì nhất định cuối cùng bị đào thải, nên tiến nhập vị lai thì nhất định tiến nhập vị lai. Tuy nhiên ai kết thúc (“chung”), ai khởi đầu (“thủy”) đây? “Mang mang thiên số thử trung cầu, Thế Đạo hưng suy bất tự do” – “Mênh mang số Trời cầu mong chỗ này đây, Thế Đạo thịnh suy không được tự do như ý” chính là câu trả lời. Sự hưng suy của xã hội không phải là do con người quyết định. Từ xã hội cho đến tương lai của mỗi cá nhân thực ra đều là được an bài dựa trên sự phù hợp với quy luật vũ trụ. Như người ta thường nói, trái với quy luật tự nhiên thì nhất định bị trừng phạt. Tuy nhiên người ta không biết “quy luật tự nhiên” kia căn bản là gì, đây chính là nguyên nhân khiến người ta cho rằng vận mệnh trong lịch sử thật vô cùng đáng tiếc. Ngày nay, chân lý vũ trụ “Chân-Thiện-Nhẫn” lần đầu tiên được giảng kể từ khi khai mở trời đất. Như vậy trong dự ngôn giảng cuối cùng bị lịch sử đào thải, chính là những người bại hoại thù hận, vu cáo và bức hại Đại Pháp; nhưng điều đáng thương nhất chính là rất nhiều người bị lừa dối che mắt nên mới dám “trợ Trụ vi ngược” (giúp vua Trụ làm điều bạo ngược) một cách vô tri. Lịch sử an bài những dự ngôn này được giải xuất ngày hôm nay, chính là để cứu vãn những ai bị lừa dối che mắt; đồng thời cũng cảnh cáo những ác nhân kia, hoặc là chấm dứt hành ác, hoặc mất đi cơ hội cuối cùng.

Một trong hai tác giả của «Thôi Bối Đồ» là Lý Thuần Phong từng có một đoạn đối thoại với Đường Thái Tông. Hoàng đế Thái Tông hỏi Lý Thuần Phong chuyện vị lai, Lý Thuần Phong và Thái Tông đã trò chuyện với nhau. Thái Tông là đấng minh quân đệ nhất, thấu hiểu thiên mệnh không thể làm trái, cho nên thậm chí về khí số triều Đường cũng chưa từng hỏi. Lý Thuần Phong cuối cùng nói: “Năm Dậu Tuất, số người chỉ thế, cũng tương hợp với Trời Đất vậy.” Thái Tông đáp rằng: “Trẫm cũng biết vậy”. Đối chiếu với tượng cuối cùng của «Thôi Bối Đồ», “vô thủy vô chung”, thực ra là chỉ rõ hiện tại chính là thời tái tạo càn khôn. Cổ nhân lưu lại những dự ngôn này đến hôm nay, chính là để cảnh báo thế nhân, hãy trân quý bản thân, thiện đãi Đại Pháp, lựa chọn giữa “Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy” để thoát khỏi đại kiếp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/3/12/14265p.html

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (5): Dự ngôn «Thôi Bối Đồ» triều Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-5-du-ngon-thoi-boi-do-trieu-duong.html/feed0
Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (3): Tượng thứ 43, 44https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-3-tuong-thu-43-44.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-3-tuong-thu-43-44.html#respondWed, 26 Jan 2011 15:31:50 +0000https://chanhkien.org/?p=10551Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] Giới thiệu: «Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi […]

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (3): Tượng thứ 43, 44 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org] Giới thiệu:

«Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi Bối Đồ» luôn thuộc loại “sách cấm” đối với những người đương quyền Trung Quốc qua các triều đại.

«Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN theo Tây lịch), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc.

Tượng thứ 43: Bắt đầu Pháp Chính Nhân Gian

Tượng 43 «Thôi Bối Đồ».

第四十三象 丙午
Tượng thứ 43 Bính Ngọ

谶曰
君非君 臣非臣
始艰危 终克定

颂曰
黑兔走入青龙穴
欲尽不尽不可说
惟有外边根树上
三十年中子孙结

Sấm viết:

Quân phi quân
Thần phi thần
Thủy gian nguy
Chung khắc định

Tụng viết:

Hắc thỏ tẩu nhập thanh long huyệt
Dục tận bất tận bất khả thuyết
Duy hữu ngoại biên căn thụ thượng
Tam thập niên trung tử tôn kết

Tạm dịch:

Sấm nói:

Vua không vua
Tôi không tôi
Hết gian nguy
Rồi cũng định

Tụng nói:

Thỏ đen chạy vào huyệt thanh long
Muốn biết vĩnh viễn không thể nói
Chỉ có bên ngoài trên căn thụ
Trong ba thập niên con cháu kết

Trong đồ hình là một già một trẻ đang làm động tác trông giống như luyện công, già mặc trang phục thường dân, trẻ mặc quan phục. Thực ra, đây là phản ánh lúc Pháp Chính Nhân Gian, con người đối diện với chân tướng đại hiển, không phân biệt quan dân, bần tiện, cùng đua nhau gia nhập tu luyện.

Hai câu “Quân phi quân; Thần phi thần” chính là trạng thái xã hội lúc ấy. Sau khi Pháp Chính Nhân Gian bắt đầu, người ta đều minh bạch ý nghĩa của sinh mệnh, kết cấu xã hội lúc ấy phát sinh biến hóa hoàn toàn, con người không còn hứng thú với những mưu cầu danh lợi trong quá khứ nữa. Xã hội do các Giác Giả quản lý, con người chuyên tâm tu luyện.

“Hết gian nguy; Rồi cũng định”, loại hình chuyển đổi này đối với tâm lý nhân loại hình thành nên xung kích cự đại, nhân loại bắt đầu quá trình tiêu nghiệp trên phạm vi rộng, hoàn cảnh sinh tồn rất gian khổ. Nhân tâm lúc đầu có chấn động, nhưng cuối cùng con người tâm phục khẩu phục, hiểu rõ cần phải làm như thế nào, phải nắm chắc tu luyện để thoát ly bể khổ như thế nào.

Bây giờ trở lại xem bốn câu tụng của Tượng 43. “Hắc thỏ tẩu nhập thanh long huyệt; Dục tận bất tận bất khả thuyết”. Câu đầu tiên nhất định là chỉ thời gian. “Hắc thỏ”, chỉ có Quý Mão là phù hợp với “hắc thỏ”, trong số các Thiên Can thì Nhâm, Quý chỉ Thủy, Thủy chủ màu đen, Mão chỉ thỏ. “Hắc thỏ” rõ ràng là chỉ năm Quý Mão. Phiên theo lịch Vạn Niên, năm 2023 chính là năm Quý Mão. “Thỏ đen chạy vào huyệt thanh long”, ở đây Đông phương Giáp Ất Mộc thuộc vào thanh long, lại làm chủ mùa Xuân, sự việc này sẽ phát sinh vào năm 2023, mùa Xuân năm Quý Mão. Tuy rằng thời gian đã rõ ràng, nhưng “Muốn biết vĩnh viễn không thể nói”, tình huống cụ thể lúc ấy vẫn rất khó mà xác định, thời gian có thể sớm có thể muộn, là do Thần Chủ nắm giữ.

Hai câu sau “Duy hữu ngoại biên căn thụ thượng; Tam thập niên trung tử tôn kết”, “căn thụ” chắc chắn chỉ người mang họ Lý, bởi vì chữ” (李) do “Mộc Tử” (木子) ghép thành, “Mộc Tử” hàm nghĩa “căn thụ”. “Trong ba thập niên con cháu kết”, Pháp Luân Đại Pháp truyền xuất vào tháng 5 năm 1992, đến năm 2023 là tròn 30 năm. Trong ba thập niên này, Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền trên toàn thế giới cũng như Đại Lục, chính là “ngoại biên căn thụ thượng” “con cháu kết” rồi, đây là an bài lịch sử.

Tượng thứ 44: Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền khắp thế giới

Tượng 44 «Thôi Bối Đồ».

第四十四象 丁未
Tượng thứ 44 Đinh Mùi

谶曰
日月丽天
群阴慑服
百灵来朝
双羽四足

颂曰
中国而今有圣人
虽非豪杰也周成
四夷重译称天子
否极泰来九国春

Sấm viết:

Nhật nguyệt lệ thiên
Quần âm nhiếp phục
Bách linh lai triều
Song vũ tứ túc

Tụng viết:

Trung Quốc nhi kim hữu Thánh nhân
Tuy phi hào kiệt dã chu thành
Tứ di trùng dịch xưng Thiên Tử
Phủ cực thái lai cửu quốc Xuân

Tạm dịch:

Sấm nói:

Nhật nguyệt tươi đẹp
Quần âm khuất phục
Sơn ca về triều
Đôi cánh sung túc

Tụng nói:

Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân
Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn
Tứ Di nhìn lại xưng Thiên Tử
Khổ tận cam lai nước mãi Xuân

Trong đồ hình vẽ một người ngồi hướng về phương Nam xưng Đế, một người mình đeo cung dài, hướng về bậc tôn giả ngồi phía trước triều bái. Tỏ rõ rằng bốn biển hướng về Thánh nhân mà tâm phục khẩu phục.

Sấm ở đây viết mấy câu có vẻ hơi mơ hồ, nhưng xác thực là cảnh tượng nhất định xuất hiện trong tương lai. Sau Pháp Chính Nhân Gian, thế giới tịnh hóa, vạn vật canh tân.

Tụng nói “Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân, Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn”. “Thánh nhân” là từ trước đây dùng để gọi người có đạo đức và trí tuệ tối cao. Pháp Luân Công tuy liên tục bị nhà cầm quyền Trung Quốc vu khống và phỉ báng nhưng vẫn cứu độ thế nhân, đây là điều bất kỳ thánh nhân truyền Đạo nào trong lịch sử cũng không làm được. Lý Hồng Chí Đại sư không phải bậc anh hùng hào kiệt rong ruổi nơi chiến trường, mà dẫn dắt đệ tử làm việc Chính Pháp, phi thường viên mãn, do vậy gọi là “Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn”. “Tứ Di nhìn lại xưng Thiên Tử; Khổ tận cam lai nước mãi Xuân”, là nói con người thế giới rồi sẽ nhìn nhận lại Lý Hồng Chí Đại sư, thấy rằng quả thực đúng là bậc thần tiên. “Tứ Di” ở đây là chỉ chung các nước bên ngoài Trung Quốc. Pháp Luân Đại Pháp sau khi chịu đựng bức hại nghiêm trọng sẽ phát triển phồn vinh trên toàn thế giới.

Còn lại, các dự ngôn ở Tượng 45, 46, 47, 59, 60,… cũng đều có liên quan tới Đại Pháp, nhưng ở đây không bàn thêm nữa.

(Hết)

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/3382

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (3): Tượng thứ 43, 44 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-3-tuong-thu-43-44.html/feed0
Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (2): Tượng thứ 41, 42https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-2-tuong-thu-41-42.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-2-tuong-thu-41-42.html#respondSun, 23 Jan 2011 09:46:06 +0000https://chanhkien.org/?p=10521Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] Giới thiệu: «Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi […]

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (2): Tượng thứ 41, 42 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org] Giới thiệu:

«Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi Bối Đồ» luôn thuộc loại “sách cấm” đối với những người đương quyền Trung Quốc qua các triều đại.

«Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN theo Tây lịch), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc.

Tượng thứ 41: Trung Cộng phát động trấn áp đối với Pháp Luân Công

Tượng 41 «Thôi Bối Đồ».

第四十一象 甲辰
Tượng thứ 41 Giáp Thân

谶曰
天地晦盲 草木蕃殖
阴阳反背 上土下日

颂曰
帽儿须戴血无头
手弄乾坤何日休
九十九年成大错
称王只合在秦州

Sấm viết:

Thiên địa hối manh
Thảo mộc phồn thực
Âm Dương phản bối
Thượng thổ hạ nhật

Tụng viết:

Mạo Nhi tu đới huyết vô đầu
Thủ lộng càn khôn hà nhật hưu
Cửu thập cửu niên thành đại thác
Xưng vương chích hợp tại Tần Châu

Tạm dịch:

Sấm nói:

Trời đất tối tăm
Cỏ cây tươi tốt
Âm Dương đảo chiều
Mặt trời dưới đất

Tụng nói:

Mạo Nhi đợi đội huyết không đầu
Tay xách càn khôn lúc nào ngưng
Năm chín mươi chín thành đại thác
Xưng vương đơn độc tại Tần Châu

Trong đồ hình là một người đạp chân lên một trái cầu, dáng vẻ ngông cuồng kiêu ngạo. Đây rõ ràng là thể hiện cuộc trấn áp Pháp Luân Công của Trung Cộng (Đảng Cộng sản Trung Quốc).

“Trời đất tối tăm; Cỏ cây tươi tốt; Âm Dương đảo chiều; Mặt trời dưới đất” miêu tả trạng thái xã hội Trung Quốc trước và sau năm 1999. “Âm Dương đảo chiều” là thuật ngữ Đạo gia, chỉ loại trạng thái Âm thịnh Dương suy. Trong sinh hoạt chính trị của quốc gia thì biểu hiện là chính nhân quân tử bị trù dập, kẻ tiểu nhân đắc ý, băng đảng xã hội đen hoành hành, quan và cướp cùng một nhà.

Lại xem bốn câu tụng: “Mạo Nhi tu đới huyết vô đầu” nhất định là chỉ án mạng đẫm máu (huyết án). Chữ “lục” (六) rất giống chữ “nhi” (儿) thêm cái đầu, cũng chính là “Mạo Nhi” (trẻ đội mũ). Chữ “tứ” (四) chính là chữ “huyết” (血) không có đầu, hay “huyết vô đầu”. Câu này chính là chỉ vụ thảm sát đẫm máu trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6 năm 1989, còn gọi là sự kiện “lục tứ”. Trung Cộng cứ khoảng 10 năm thì lại phải gây ra một cuộc hỗn loạn xã hội lớn, hay “Tay xách càn khôn lúc nào ngưng”. Mà huyết án “lục tứ” lại càng đặc thù, gần như là cuộc đại duyệt binh trước khi trấn áp Pháp Luân Công, đẩy tên hung thủ tà ác nhất trấn áp Pháp Luân Công 10 năm sau là Giang Trạch Dân lên đài, năm 99 “Cửu thập cửu niên thành đại thác” quả là đúng như vậy. Nhìn chung toàn bộ «Thôi Bối Đồ» chỉ có mỗi câu này là nêu rõ địa điểm và thời gian, còn tả rõ tính chất là “đại thác” (hoàn toàn sai lầm).

Cũng không phải ngẫu nhiên khi mà nhà tiên tri người Pháp Nostradamus trong “Các Thế Kỷ” có một câu duy nhất minh xác về thời gian: “Tháng 7 năm 1999; Để nhà Vua Angoulmois phục sinh; Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống; Đến thời trước sau Mars sẽ thống trị thiên hạ; Nói là để có được cuộc sống hạnh phúc cho mọi người”. Có thể thấy được sự kiện “đại thác” năm 99 chính là cuộc trấn áp tà ác đối với Pháp Luân Công do Giang phát động vào tháng 7/1999.

Theo các tin tức, khi trấn áp Pháp Luân Công thì cả 6 vị Thường ủy Bộ Chính trị lúc ấy đều không đồng ý, chỉ có duy nhất Giang Trạch Dân cưỡng ép thực thi chính sách “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính, hủy hoại thân thể” đối với các học viên Pháp Luân Công. Đồng thời Giang còn tự mình phân phát các cuốn sách phỉ báng Pháp Luân Công cho các nguyên thủ nước ngoài, tuy nhiên nhờ các học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng nên họ đều minh bach cả. Trấn áp chỉ có thể duy trì tại quốc nội, cũng chính là “Xưng vương đơn độc tại Tần Châu”. “Tần Châu” ở đây là chỉ Trung Quốc.

Tượng thứ 42: Thần Vận phát triển mãnh liệt khiến cấp cao Trung Cộng kinh hồn

Tượng 42 «Thôi Bối Đồ».

第四十二象 乙巳
Tượng thứ 42 Ất Tị

谶曰
美人自西来
朝中日渐安
长弓在地
危而不危

颂曰
西方女子琵琶仙
皎皎衣裳色更鲜
此时浑迹居朝市
闹乱君臣百万般

Sấm viết:

Mỹ nhân tự Tây lai
Triều trung nhật tiệm an
Trường cung tại địa
Nguy nhi bất nguy

Tụng viết:

Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên
Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên
Thử thời hồn tích cư triều thị
Nháo loạn quân thần bách vạn bàn

Tạm dịch:

Sấm nói:

Mỹ nhân đến từ Tây
Trong triều dần dần an
Cung dài dưới đất
Nguy mà không nguy

Tụng nói:

Cô gái Tây phương Tỳ Bà tiên
Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên
Lúc này vết đục nơi triều thị
Nháo loạn vua tôi trăm vạn bàn

Trước tiên nhìn vào đồ hình: Biểu hiện đặc điểm của hiện tượng Thần Vận. Một nữ tử phương Đông mặc trang phục cổ đại, ôm cây đàn Tỳ Bà, đoan trang đứng ở chính giữa bức họa; bên trái là một cây cung đặt trên mặt đất; bên phải là một con thỏ ngọc đang nằm.

Hiển nhiên cô gái ôm đàn Tỳ Bà là biểu tượng của diễn xuất văn nghệ, mà đàn Tỳ Bà lại là nhạc cụ tiêu biểu nhất cho văn hóa truyền thống Trung Hoa, như vậy rốt cuộc họ là đoàn thể nào?

Tụng của Tượng 42 đã cho đáp án: “Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên; Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên”, ở đây chúng ta thấy, cô gái với khuôn mặt phương Đông được gọi là “Tây phương nữ tử”, lại còn là “Tỳ Bà tiên”, rồi khen ngợi họ là “Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên”.

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận Mỹ quốc là tập hợp những nghệ sĩ hải ngoại có cùng niềm yêu thích văn hóa truyền thống Trung Hoa. Đoàn nghệ thuật quả thực thành lập tại Hoa Kỳ, thuộc về “Tây phương nữ tử”, nhưng lại có gương mặt người phương Đông, vì đại đa số họ là người tu luyện Đại Pháp. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, người tu luyện được thiên thượng coi là bán Thần, do vậy gọi họ là “Tỳ Bà tiên” cũng không có gì là quá cả.

Mặt khác, thế giới nội tâm thuần tịnh của người tu luyện sẽ biểu hiện trong nghệ thuật, càng thêm thuần thiện thuần mỹ, càng có thể biểu hiện được nội hàm và ý vị của văn hóa Trung Hoa. Đây là sự thể hiện của nghệ thuật Thần truyền, với hàng trăm cách biểu hiện của “tiên”, xuất thần nhập họa. Rất nhiều người từng xem qua Thần Vận đều nói: “Tôi đã cảm nhận được sự mỹ hảo của thế giới thiên quốc.”

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận Mỹ quốc bền bỉ sáng tác, mỗi năm đều cho khán giả thưởng thức một cấp độ vũ đạo và âm nhạc mới. Màu sắc tươi sáng, khung nền kỹ thuật số sinh động triển hiện phong cảnh tráng lệ, trăm hoa đua nở nơi thiên quốc. Dàn nhạc của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận dung hợp cả nhạc cụ của của Đông và Tây phương, diễn tấu những nhạc khúc xưa nay chưa từng có. Các vũ công đều thanh tú đẹp đẽ, cũng như trong dự ngôn nói “Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên” vậy.

Bên phải “Tỳ Bà tiên” là ngọc thỏ, ngầm chỉ người khai sáng Pháp Luân Công, Ông Lý Hồng Chí. Ai cũng biết Lý Hồng Chí tiên sinh sinh năm thỏ, đồng thời trong nhiều dự ngôn khác được lưu truyền tại phương Đông thường lấy hình tượng thỏ khi đề cập đến vị Thánh nhân cứu thế thời Mạt kiếp. Quan hệ giữa “Tỳ Bà tiên” Thần Vận và ngọc thỏ không nói cũng rõ.

Trong đồ hình, còn có cây cung vốn dĩ có thể dùng để bắn thỏ lại bị vứt trên mặt đất. Thần Vận xuất hiện nhận được toàn sự hoan nghênh và ca ngợi; con đường trấn áp Pháp Luân Công và chèn ép văn hóa truyền thống của Trung Cộng càng ngày càng hẹp; trấn áp khó mà duy trì, cuối cùng bất đắc dĩ phải buông cung xuống đất; ám chỉ trấn áp cuối cùng rồi sẽ thất bại.

Cây cung ngoài ra còn có một hàm nghĩa là “võ” (võ lực), “võ” và “vũ” là đồng âm, võ tướng cổ đại lấy chữ “võ” từ biểu diễn vũ đạo. Cung đặt dưới đất, hiển nhiên là chỉ dùng chữ “vũ”, Thần Vận chính là lấy ca vũ làm chủ, triển hiện vũ cổ điển Trung Quốc chân chính.

Nói xa hơn, người tu luyện Pháp Luân Công trước sau lấy phương thức phổ biến chân lý bằng hòa bình và lý tính, thực là đại Thiện đại Nhẫn, từ bi với thế nhân ở cảnh giới Chân-Thiện-Nhẫn, dù bị bức hại tàn khốc vẫn không hề mang tâm thái cừu hận, không giương cung động “võ”, mà là khởi lên thiên âm du dương, nhảy múa nhẹ nhàng, khơi gợi tâm linh của người trong mê.

Lại xem tiếp hai câu tụng: “Thử thời hồn tích cư triều thị; Nháo loạn quân thần bách vạn bàn”. Thần Vận lưu diễn toàn thế giới, quy mô năm sau lớn hơn năm trước; trong 4 năm qua mỗi năm Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đều toàn tiết mục mới; tại Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Úc, Nam Mỹ luân lưu diễn xuất hơn 600 màn, với khán giả lên tới 1 triệu người. Đông đảo các nhân vật quan trọng, người nổi tiếng, nghệ sĩ, chủ các công ty Tây phương đều nhất trí cho rằng “Thần Vận chân chính đại biểu cho văn hóa truyền thống Trung Quốc”; khán giả Tây phương kinh ngạc phát hiện rằng: “Tuyệt vời. Nghệ thuật múa ba-lê thật tao nhã, những tái hiện mang đậm chất Trung Quốc!”

Các Hoa kiều ở hải ngoại từng xem Thần Vận, các đoàn du khách Trung Quốc ở nước ngoài cũng đều kinh ngạc, vừa vui mừng vừa xúc động, đều nói: “Thần Vận là truyền thừa của văn hóa Trung Hoa!”

Thần Vận trở thành thịnh hội nghệ thuật phổ biến toàn cầu, đồng thời đĩa DVD Thần Vận được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc đại lục, dân chúng đại lục khắp nơi ca ngợi. Thần Vận nhất định sẽ đến diễn tại Trung Quốc đại lục, phổ biến trên toàn Trung Quốc. Dấu chân của Thần Vận rải khắp hoàn cầu, rồi thâm nhập nghìn nhà vạn hộ tại Trung Nguyên; như vậy “Thử thời hồn tích cư triều thị”, rốt cuộc là khiến những người nắm giữ quyền lực ở Trung Nam Hải phải choáng váng, “triều đình” Trung Cộng tà ác phải chịu uy hiếp cực lớn, vì Thần Vận mà “Nháo loạn quân thần bách vạn bàn.” Tóm lại, sự phát triển của Thần Vận khiến Trung Cộng thấy sự tử vong của mình là tất nhiên.

Lại xem bốn câu sấm “Mỹ nhân tự Tây lai; Triều trung nhật tiệm an; Trường cung tại địa; Nguy nhi bất nguy”, đơn giản mà nói, chính là sự phát triển của Thần Vận là bất khả kháng; Thần Vận rồi sẽ vào Trung Quốc đại lục, phổ biến khắp Trung Hoa đại địa; Trung Cộng kiềm chế không nổi, trấn áp rơi vào vũng bùn, dằn vặt mãi rồi “Trong triều dần dần an”, thả “Cung dài dưới đất”; bởi vì người người ngày càng minh bạch chân tướng, trấn áp ngày càng không có thị trường. Người Trung Quốc thức tỉnh nhìn thấy Thần Vận, nhìn thấy gốc rễ văn hóa của mình, lựa chọn xem ai đại biểu cho truyền thừa văn hóa Trung Quốc, âm hồn đến từ phương Tây (Tây lai u linh) bị vứt bỏ. Cái “nguy” của Trung Cộng hiển nhiên là ở ngay trước mắt, nhưng đối với người Trung Quốc mà nói, bởi vì tìm được truyền thừa văn hóa, dân tộc cũng có vị lai, ngược lại không nguy mà còn an. Khi so sánh với cái “nguy” của Trung Cộng, câu “Nguy mà không nguy” là rất chuẩn xác; Thần Vận đến nơi cứu Trung Hoa khỏi nguy nan.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/3382

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (2): Tượng thứ 41, 42 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-2-tuong-thu-41-42.html/feed0
Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (1): Tượng thứ 40https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-1-tuong-thu-40.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-1-tuong-thu-40.html#respondSat, 15 Jan 2011 18:02:17 +0000https://chanhkien.org/?p=10460Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] «Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi Bối Đồ» […]

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (1): Tượng thứ 40 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org]

«Thôi Bối Đồ» có thể nói là bộ sách tiên tri thần kỳ được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc, bởi vì «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Cũng chính vì thế mà «Thôi Bối Đồ» luôn thuộc loại “sách cấm” đối với những người đương quyền Trung Quốc qua các triều đại.

Tượng thứ 40 là kết thúc của quyển 1, xưa nay có rất nhiều người muốn phá giải tượng này, chẳng ngờ Tượng 40 lại tóm lược một sự kiện lớn xảy ra trong chính thời kỳ lịch sử nhân loại ngày nay.

«Thôi Bối Đồ» là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (năm 627-649 SCN theo Tây lịch), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành Quyển 1 (đến Tượng 40) và Quyển 2 (sau Tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn từ triều Đường cho tới nay, tới tận tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh qua các triều đại Trung Quốc.

Thời gian càng ngày càng gấp

Nội dung từ Tượng 2 cho tới Tượng 9 của Thôi Bối Đồ dự đoán các sự việc của triều Đường (năm 618-907 SCN theo Tây lịch). Dùng thủ pháp rất ẩn ý để dự ngôn các sự kiện trong gần 300 năm của triều Đường, bao gồm Võ Tắc Thiên nắm quyền, loạn An Sử, cái chết của Dương Quý Phi, dị tộc xâm nhập Trung Nguyên, loạn Kiến Trung, Hoàng Sào dấy binh cho tới Chu Ôn diệt Đường, v.v.

Tiếp theo từ Tượng 10 cho tới Tượng 14 là thời Ngũ Đại; Tượng 15 tới Tượng 20 nói về Bắc Tống; Tượng 21 đến Tượng 24 nói về Nam Tống, với triều Nguyên chỉ có hai Tượng 25 và 26 trong khoảng thời gian chưa đầy 100 năm. Tiếp đó Tượng 27 là triều Minh khai quốc cho đến Tượng 32 là triều Minh diệt, Tượng 33 đến Tượng 37 nói về triều Thanh. Cho tới Tượng 39 là Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, bước vào thời cận đại.

Có thể thấy trong 60 tượng, 2/3 số tượng đầu ghi lại sự thay đổi các triều đại cho tới cận đại, với mỗi tượng tương ứng cho chu kỳ thời gian khoảng vài thập niên. Tuy nhiên từ cận đại trở đi, trong 20 tượng cuối ghi lại những sự kiện lịch sử trọng đại thì mật độ dự đoán rõ ràng là tăng lên, có khi cùng một sự kiện nhưng miêu tả ở nhiều cấp độ khác nhau.

Loại tình huống này cũng rất giống với một vận động viên Ma-ra-tông chạy cự ly dài, đến lúc anh ta tăng tốc thì cũng là sắp đến đích.

Do «Thôi Bối Đồ» dự đoán quá chính xác những sự kiện lịch sử nên nó thuộc vào hàng “sách cấm” đối với những người đương quyền. Phiên bản lưu hành hiện nay là phiên bản có lời bình giải của tài tử Kim Thánh Thán vào triều Thanh, đối với những lời tiên tri từ triều Thanh về sau đã bị người “có dụng ý xấu” cố ý làm xáo trộn. Ví như Tượng 55 thuyết minh rõ ràng về chiến tranh Giáp Ngọ thời Thanh mạt.

Tính chân thực của «Thôi Bối Đồ» là không còn nghi ngờ gì nữa. Tượng cuối cùng của Quyển 1, Tượng 40 là tượng chuyển tiếp giữa hai quyển nên được đặc biệt chú ý. Dựa trên tổng hợp và bổ sung các phát hiện phá giải «Thôi Bối Đồ» có liên quan trên Chánh Kiến Net, xã hội nhân loại hiện tại chính đang nằm trong 30 năm biến đổi lớn từ Tượng 40 đến Tượng 44. Có thể nói đây là đoạn bứt phá cuối cùng của «Thôi Bối Đồ», ở đây chúng ta cùng nhau chia sẻ với những người hữu duyên, cũng đồng thời vạch rõ sứ mệnh lịch sử trọng đại của «Thôi Bối Đồ».

Tượng thứ 40: Khái quát về sự truyền bá nhân gian của Pháp Luân Đại Pháp

Tượng thứ 40 là kết thúc của quyển 1, xưa nay vốn có nhiều người muốn phá giải tượng này, bởi rằng dựa trên thứ tự lịch sử, Tượng 39 của «Thôi Bối Đồ» là quân Nhật xâm lược Trung Hoa, Tượng 40 tất nhiên nên nói về sự việc thời hiện đại. Chẳng ngờ Tượng thứ 40 khái quát về một sự kiện lớn mà nhân loại hiện đang trải qua, nên sau đây sẽ phân tích cặn kẽ về tượng này, đưa nội dung chủ yếu của «Thôi Bối Đồ» ra phân tích.

Hoặc có thể có cao nhân nào đó biết được tính trọng yếu của sự kiện này nên khi làm xáo trộn «Thôi Bối Đồ» đã cố ý đem bộ phận trọng yếu này ra đặt tại vị trí đặc thù để khiến người ta ngộ được.

Tượng thứ 40 «Thôi Bối Đồ»

第四十象 癸卯
Tượng thứ 40 Quý Mão

谶曰
一二三四 无土有主
小小天罡 垂拱而治

颂曰
一口东来气太骄
脚下无履首无毛
若逢木子冰霜涣
生我者猴死我雕

Sấm viết:

Nhất nhị tam tứ
Vô thổ hữu chủ
Tiểu tiểu Thiên Cang
Thùy củng nhi trị

Tụng viết:

Nhất khẩu đông lai khí thái kiêu
Cước hạ vô lữ thủ vô mao
Nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán
Sinh ngã giả hầu tử ngã điêu

Tạm dịch:

Sấm nói:

Một hai ba bốn
Không đất có chủ
Tiểu tiểu Thiên Cang
Không làm cũng trị

Tụng nói:

Một miệng phía chủ khí thật kiêu
Chân không có móng đầu không mao
Nếu gặp Mộc Tử băng sương hết
Tôi sinh là khỉ chết là điêu

Trước hết nhìn vào gợi ý ở đồ hình. Bức hình vẽ ba hài tử hoặc thiếu niên mặc cổ trang, đứng thành vòng tròn, mỗi người cầm trên tay một vật có dạng bánh xe (luân tử), trông giống bánh xe đang quay (phi luân). Mỗi người cầm bánh xe đều đưa tay về phía trước. Trông như mấy đứa bé đang chơi đùa, cũng giống như mỗi người cầm luân tử đang bận làm điều gì đó.

Xem xét trong số các sự kiện trọng đại đã hoặc đang phát sinh, đại sự kiện có quan hệ với vật hình bánh xe này, thì không gì khác ngoài Pháp Luân Công với Pháp Luân hình bánh xe. Pháp Luân Công lấy Pháp Luân làm ký hiệu, Pháp Luân là xoay chuyển, tương tự bánh xe đang quay. Xem ra Tượng thứ 40 tiên tri về sự kiện có liên quan tới Pháp Luân Công.

«Thôi Bối Đồ» có rất ít bức họa với một vài người cùng làm một việc gì đó, đều là dùng một cá nhân để khái quát sự việc. Bức họa này vẽ ba cá nhân cùng làm một việc, là một câu đố chữ, ba cá nhân ở cùng một chỗ, ba chữ “nhân” (人) hình thành nên một chữ “chúng” (众), có nghĩa là “nhiều, đông”, đó là để nói có rất nhiều người cầm phi luân, dự báo sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp. Pháp Luân Công được truyền ra công chúng năm 1992, đến năm 1998 Ủy ban Thể thao Quốc gia Trung Quốc điều tra số người luyện Pháp Luân Công lên đến 70 triệu người. Hiện tại Pháp Luân Công đã được phổ biến đến 144 quốc gia.

Ngoài ra, ba tiểu hài cầm phi luân được vẽ ở Tượng 40 cũng có liên quan đến vấn đề tu luyện. Trong tu luyện giảng sinh mệnh chân chính của con người là nguyên thần, nguyên thần bất diệt, có thể có phúc phận tu luyện Đại Pháp, thì ở không gian khác hình tượng nguyên thần cũng có thể là hài tử, bởi vì sinh mệnh càng cao quý thì trông càng trẻ. Dùng hình tượng đứa trẻ để miêu tả đệ tử tu luyện Pháp Luân Công, cũng rất hợp lý.

Lại xem bốn câu thơ sấm, cũng gọi là thơ kệ, sấm là ẩn ngữ để dự đoán cát hung. Dự ngôn này là về Pháp Luân Công, thì câu sấm ắt cũng có liên quan đến Pháp Luân Công. Đem câu trên “Nhất nhị tam tứ” với câu dưới “Vô thổ hữu chủ” kết hợp lại thì sẽ tương đối rõ.

Người có đất trong quá khứ được mọi người tôn kính, người có nhiều đất xưng là Vương hoặc là Hậu, người có đất lớn nhất xưng là Hoàng đế, cũng như câu “Thiên hạ dưới gầm trời này đều là đất của Vua”. Còn ở đây người không có đất lại được tôn làm Chủ, thì hiển nhiên là chỉ lãnh tụ tinh thần được mọi người tôn kính. Pháp Luân Công phổ biến nguyên lý “Chân Thiện Nhẫn”, người khai sáng Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh không có một nửa chức quan, vậy mà vẫn có hàng triệu người theo. Hiện nay, hoa Ưu Đàm Bà La 3.000 năm mới nở một lần đang nở rộ, trùng hợp với dự ngôn trong kinh Phật về Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân, “Vô thổ hữu chủ” vậy mà cũng không khó giải thích..

“Nhất nhị tam tứ” có thể chỉ bốn giai đoạn phổ biến của Pháp Luân Công. Từ năm 1992 đến năm 1994 Lý Tiên sinh tự mình truyền Pháp truyền công tại Trung Quốc, từ năm 1994 đến năm 1999 là thời kỳ tự do phổ biến, từ năm 1999 đến khi kết thúc trấn áp là thời kỳ bức hại, cuối cùng sau khi trấn áp kết thúc là thời kỳ quảng truyền. Hiện tại chính là giai đoạn cuối của thời kỳ thứ 3, Pháp Luân Công đứng vững trước trấn áp tàn khốc, bắt đầu dần dần hồng truyền trên phạm vi toàn thế giới.

Đạo gia cho rằng Thiên Cang là chòm sao Bắc Đẩu trong số 36 thần tinh, đến khi Pháp Luân Công tiến nhập vào giai đoạn 4 tức quảng truyền, thì cũng là lúc chân tướng đại hiển. Người tu luyện công thành viên mãn, thần thông đại hiển, một số ít Giác Giả như “Tiểu tiểu Thiên Cang” cùng giúp quản lý nhân gian, không động tay không động chân mà vẫn có thể làm điều người động tay động chân mới có thể làm, trước sự uy nghiêm của Thần, cục diện “Không làm cũng trị” xuất hiện. Nhân loại phổ biến đạo đức cao thượng, không cần đến pháp luật quản con người nữa, lúc này nhân loại cũng đã minh bạch là việc gì rồi, ào ào tiến vào tu luyện, muốn được đắc độ.

Phá giải bốn câu tụng

“Nhất khẩu đông lai khí thái kiêu”
(Một miệng phía chủ khí thật kiêu)

Tháng 7 năm 1999, họ Giang xuất phát từ tâm đố kỵ, tự mãn kiêu căng, vô lý phát động cuộc trấn áp tàn khốc đối với Pháp Luân Công. Tại thời kỳ đầu của cuộc đàn áp, những phê phán đối với Pháp Luân Công là phô thiên cái địa, truyền hình, báo chí, đài phát thanh,… hết thảy phương tiện truyền thông đều cùng vu khống Pháp Luân Công, gần như liên tục 24 giờ một ngày, bầu trời như sụp đổ, dư luận đều đảo hướng theo một chiều.

“Cước hạ vô lữ thủ vô mao”
(Chân không có móng đầu không mao)

Người ra lệnh trấn áp Pháp Luân Công là động vật hạ đẳng đến cỡ nào? Động vật trên cạn có móng (sỉ), loài chim trên trời có lông vũ (mao), cũng không phù hợp với miêu tả trong câu này. Người có công năng đều biết rằng, chủ nguyên thần của Giang là một con cóc, phó nguyên thần là con cá sấu. Cóc nhái, cá sấu có chân có đầu, chính là “Chân không có móng đầu không mao”. Cóc nhái, cá sấu đều thích nước, chính là cư dân của đầm lầy (Giang Trạch Dân). Hợp thành một thể thì vừa nhát gan, lại vừa hung ác vô cùng.

Trong mệnh của Giang đã định trước là có quan hệ với “thủy”, sinh ra tại Giang Tô, phất lên ở Thượng Hải, sau đến Bắc Kinh đảm nhận “tam vị nhất thể” (ba chức Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung ương) ở tại Trung Nam Hải. Đề bạt và phát tài cũng có quan hệ với “thủy”, Giang mạo nhận cha là Giang Thượng Thanh để được Trương Ái Bình đề bạt, “Bình” (萍) cũng có bộ “thủy” (氵); ở Thượng Hải được Uông Đạo Hàm đề bạt, “Uông” (汪) cũng có bộ “thủy”. Ân nhân chính trị của Giang là Bạc Nhất Ba, “Ba” (波) cũng có bộ “thủy”.

“Nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán”
(Nếu gặp Mộc Tử băng sương hết)

“Mộc Tử”, chữ “Mộc” (木) đặt trên chữ “Tử” (子) là chữ “Lý” (李), chính là chỉ người khai sáng Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh và những người tu luyện Đại Pháp đi theo Ông. “Băng sương” là chỉ vận động chính trị chỉnh nhân sở trường của Trung Cộng (Đảng Cộng sản Trung Quốc). Trong lịch sử, Trung Cộng đã phát động các cuộc vận động chính trị toàn quốc để diệt trừ đối thủ, chưa từng sẩy tay. Tuy nhiên lần này gặp phải đoàn thể tu luyện chân chính, gặp phải “Mộc Tử”, những kinh nghiệm quá khứ nay không linh nghiệm nữa. Họ Giang khoác lác rằng “trong ba tháng tiêu diệt Pháp Luân Công”, tới nay 11 năm Pháp Luân Công vẫn sừng sững như xưa, còn Trung Cộng hiện tại sợ nhất là Pháp Luân Công, vận động trấn áp đã thất bại triệt để, chỉ còn duy trì máy móc mà thôi. Tiêu tán, tan rã, kết thúc, chấm dứt, có ý là tiêu tan băng sương vậy.

“Sinh ngã giả hầu tử ngã điêu”
(Tôi sinh là khỉ chết là điêu)

Tháng 5 năm 1992, Pháp Luân Công được truyền ra công chúng, năm ấy chính là năm Thân (con khỉ), chỉ Pháp Luân Công truyền xuất đưa con người tới tương lai tốt đẹp, con đường sinh. Đại bàng (điêu) là loài chim hợp với năm Dậu (con gà), tháng 7 năm 1921 là ngày thành lập đảng của Trung Cộng, năm ấy theo Nông lịch là năm Tân Dậu, tức năm con gà. Thứ âm hồn đến từ phương Tây (Tây lai u linh) này sau khi chiếm đoạt chính quyền đã hủy diệt văn hóa Trung Hoa, đoạn tuyệt nhân dân trong nước với huyết mạch dân tộc, nay lại đang ép nhân dân chống lại Phật Pháp, phạm đại tội, bẫy người dân trong nước vào ngõ cụt, chính là con đường tử.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/3382

The post Những sự việc được tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ» hiện đang phát sinh (1): Tượng thứ 40 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/nhung-su-viec-duoc-tien-doan-trong-thoi-boi-do-hien-dang-phat-sinh-1-tuong-thu-40.html/feed0
Phân tích «Thôi Bối Đồ», Tượng 42: Thần Vận cứu Trung Hoa khỏi nguy nanhttps://chanhkien.org/2011/01/phan-tich-thoi-boi-do-tuong-42-than-van-cuu-trung-hoa-khoi-nguy-nan.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/phan-tich-thoi-boi-do-tuong-42-than-van-cuu-trung-hoa-khoi-nguy-nan.html#respondSat, 08 Jan 2011 15:00:31 +0000https://chanhkien.org/?p=10341Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] Năm 2010, Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đã bước sang năm thứ 4, so với thời kỳ đầu đã mang lại điều mới mẻ cho xã hội quốc tế. Hiện tại, người ta thấy Thần Vận tung hoành bốn biển, thịnh hành khắp toàn cầu; những kẻ sĩ thức […]

The post Phân tích «Thôi Bối Đồ», Tượng 42: Thần Vận cứu Trung Hoa khỏi nguy nan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org]

Năm 2010, Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đã bước sang năm thứ 4, so với thời kỳ đầu đã mang lại điều mới mẻ cho xã hội quốc tế. Hiện tại, người ta thấy Thần Vận tung hoành bốn biển, thịnh hành khắp toàn cầu; những kẻ sĩ thức thời phảng phất thấy rằng dân tộc Trung Hoa đang trong thời kỳ trở về nguồn cội văn hóa, đồng thời còn ảnh hưởng đến cả nền văn hóa thế giới.

Lúc này mở trang web của Thần Vận ra (http://www.shenyunperformingarts.org), xem đoạn giới thiệu trong đó, tôi có cảm xúc sâu sắc, như thể phá mê:

Trung Quốc xưa gọi là Thần Châu, chính là mảnh đất được chư Thần bảo hộ. Văn hóa Trung Quốc được tán dương là “văn hóa Thần truyền”, đó là bởi vì mọi người tin rằng vào thời viễn cổ, trên mảnh đất Trung Nguyên đại địa, người và Thần đồng thời tồn tại. Văn hóa Trung Quốc xuyên suốt là nội hàm kính Trời hiểu mệnh, trọng Đức hành Thiện. Thế nhưng điều khiến người ta đau lòng là truyền thống tốt đẹp ấy trong gần 60 năm qua đã bị chà đạp, những tinh túy trong 5.000 năm đã bị thất lạc, gần như không còn.

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận nay đúng dịp mà sinh, đã kế thừa văn hóa chính truyền chân chính được khai sáng cho nhân loại, tái hiện tinh hoa của văn hóa Thần truyền nơi Đông Thổ. Ca ngợi sự thuần phác của sinh mệnh, ca tụng sự kiên định trong tín ngưỡng, truyền rộng lòng biết ơn và kính ngưỡng đối với Thần. Vũ đạo cổ xưa thanh nhã, thanh tao duyên dáng. Diễn xuất trang nghiêm thần thánh, ung dung huy hoàng… trong chốn hồng trần ồn ã mà cảm động nhân tâm, khiến con người xúc động và đồng cảm.

“Mười năm Cách mạng Văn hóa là vô ích?”

Điều thú vị là sự cảm thán không chỉ đến từ những khán giả tán thưởng, mà còn đến từ những người từng áp chế Thần Vận. Mấy năm nay Trung Cộng chứng kiến sự phát triển của Thần Vận, hoảng sợ trước chiều hướng của Thần Vận, đối mặt với sự phát triển như được Thần trợ lực của Thần Vận; những người bên trong bức tường cao Trung Nam Hải chỉ còn cách than thở: “Trong Cách mạng Văn hóa chúng ta đã triệt để diệt trừ văn hóa truyền thống Trung Quốc, vậy sao giờ lại phục sinh? Mười năm Cách mạng Văn hóa chẳng phải là như không hay sao?” Những người có thể thực sự hiểu được văn hóa truyền thống Trung Quốc từ lâu đã không còn, vậy thì tại sao Đoàn Nghệ thuật Thần Vận lại có thể biết nhiều đến như vậy, đem nguyên gốc văn hóa Trung Hoa ra diễn xuất?

Thần Vận được đề cập trong dự ngôn nổi tiếng «Thôi Bối Đồ» đời nhà Đường

Sự xuất hiện của Thần Vận là nằm ngoài dự liệu của Trung Cộng, đưa người Trung Quốc trở về văn hóa truyền thống thuần chính; tuy nhiên lại đúng với lời tiên đoán trong «Thôi Bối Đồ», lưu truyền đến nay.

«Thôi Bối Đồ» là bộ dự ngôn nổi tiếng do Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cang, hai bậc thầy về thuật số thời Trinh Quán đời nhà Đường dưới triều vua Đường Thái Tông, tiên đoán tình thế hàng trăm năm sau, sự thịnh suy và thay đổi triều đại từ đời Đường cho đến nay.

Trong đó, Tượng thứ 40 khái quát tổng thể sự kiện hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp, Tượng thứ 41 dự đoán cuộc trấn áp của Trung Cộng năm 1999, Tượng thứ 42 nói về Thần Vận, Tượng thứ 43 tiên đoán về sự an bài cứu độ thế nhân của Pháp Luân Đại Pháp, Tượng thứ 44 thể hiện tình huống nhân loại sau Pháp Chính Nhân Gian. Trong số đó phá giải Tượng thứ 42 của «Thôi Bối Đồ» dự đoán về Thần Vận có thể giúp người ta thấy được chân tướng đằng sau Đoàn Nghệ thuật Thần Vận.

Phá giải Tượng 42 «Thôi Bối Đồ» dự ngôn về Thần Vận

第四十二象 乙巳
Tượng 42 Ất Tị

谶曰
美人自西来
朝中日渐安
长弓在地
危而不危

颂曰
西方女子琵琶仙
皎皎衣裳色更鲜
此时浑迹居朝市
闹乱君臣百万般

Sấm viết:

Mỹ nhân tự Tây lai
Triều trung nhật tiệm an
Trường cung tại địa
Nguy nhi bất nguy

Tụng viết:

Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên
Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên
Thử thời hồn tích cư triều thị
Nháo loạn quân thần bách vạn bàn

Tạm dịch:

Sấm nói:

Mỹ nhân đến từ Tây
Trong triều dần dần an
Cung dài dưới đất
Nguy mà không nguy

Tụng nói:

Cô gái Tây phương Tỳ Bà tiên
Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên
Lúc này vết đục nơi triều thị
Nháo loạn vua tôi trăm vạn bàn

«Thôi Bối Đồ» Tượng 42.

Trước tiên nhìn vào đồ hình: Biểu hiện đặc điểm của hiện tượng Thần Vận. Một nữ tử phương Đông mặc trang phục cổ đại, ôm cây đàn Tỳ Bà, đoan trang đứng ở chính giữa bức họa; bên trái là một cây cung đặt trên mặt đất; bên phải là một con thỏ ngọc đang nằm.

Hiển nhiên cô gái ôm đàn Tỳ Bà là biểu tượng của diễn xuất văn nghệ, mà đàn Tỳ Bà lại là nhạc cụ tiêu biểu nhất cho văn hóa truyền thống Trung Hoa, như vậy rốt cuộc họ là đoàn thể nào?

Tụng của Tượng 42 đã cho đáp án: “Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên; Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên”, ở đây chúng ta thấy, cô gái với khuôn mặt phương Đông được gọi là “Tây phương nữ tử”, lại còn là “Tỳ Bà tiên”, rồi khen ngợi họ là “Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên”.

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận Mỹ quốc là tập hợp những nghệ sĩ hải ngoại có cùng niềm yêu thích văn hóa truyền thống Trung Hoa. Đoàn nghệ thuật quả thực thành lập tại Hoa Kỳ, thuộc về “Tây phương nữ tử”, nhưng lại có gương mặt người phương Đông, vì đại đa số họ là người tu luyện Đại Pháp. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, người tu luyện được thiên thượng coi là bán Thần, do vậy gọi họ là “Tỳ Bà tiên” cũng không có gì là quá cả.

Mặt khác, thế giới nội tâm thuần tịnh của người tu luyện sẽ biểu hiện trong nghệ thuật, càng thêm thuần thiện thuần mỹ, càng có thể biểu hiện được nội hàm và ý vị của văn hóa Trung Hoa. Đây là sự thể hiện của nghệ thuật Thần truyền, với hàng trăm cách biểu hiện của “tiên”, xuất thần nhập họa. Rất nhiều người từng xem qua Thần Vận đều nói: “Tôi đã cảm nhận được sự mỹ hảo của thế giới thiên quốc.”

Đoàn Nghệ thuật Thần Vận Mỹ quốc bền bỉ sáng tác, mỗi năm đều cho khán giả thưởng thức một cấp độ vũ đạo và âm nhạc mới. Màu sắc tươi sáng, khung nền kỹ thuật số sinh động triển hiện phong cảnh tráng lệ, trăm hoa đua nở nơi thiên quốc. Dàn nhạc của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận dung hợp cả nhạc cụ của của Đông và Tây phương, diễn tấu những nhạc khúc xưa nay chưa từng có. Các vũ công đều thanh tú đẹp đẽ, cũng như trong dự ngôn nói “Trang phục rực rỡ sắc hơn tiên” vậy.

Bên phải “Tỳ Bà tiên” là ngọc thỏ, ngầm chỉ người khai sáng Pháp Luân Công, Ông Lý Hồng Chí. Ai cũng biết Lý Hồng Chí tiên sinh sinh năm thỏ, đồng thời trong nhiều dự ngôn khác được lưu truyền tại phương Đông thường lấy hình tượng thỏ khi đề cập đến vị Thánh nhân cứu thế thời Mạt kiếp. Quan hệ giữa “Tỳ Bà tiên” Thần Vận và ngọc thỏ không nói cũng rõ.

Trong đồ hình, còn có cây cung vốn dĩ có thể dùng để bắn thỏ lại bị vứt trên mặt đất. Thần Vận xuất hiện nhận được toàn sự hoan nghênh và ca ngợi; con đường trấn áp Pháp Luân Công và chèn ép văn hóa truyền thống của Trung Cộng càng ngày càng hẹp; trấn áp khó mà duy trì, cuối cùng bất đắc dĩ phải buông cung xuống đất; ám chỉ trấn áp cuối cùng rồi sẽ thất bại.

Cây cung ngoài ra còn có một hàm nghĩa là “võ” (võ lực), “võ” và “vũ” là đồng âm, võ tướng cổ đại lấy chữ “võ” từ biểu diễn vũ đạo. Cung đặt dưới đất, hiển nhiên là chỉ dùng chữ “vũ”, Thần Vận chính là lấy ca vũ làm chủ, triển hiện vũ cổ điển Trung Quốc chân chính.

Nói xa hơn, người tu luyện Pháp Luân Công trước sau lấy phương thức phổ biến chân lý bằng hòa bình và lý tính, thực là đại Thiện đại Nhẫn, từ bi với thế nhân ở cảnh giới Chân-Thiện-Nhẫn, dù bị bức hại tàn khốc vẫn không hề mang tâm thái cừu hận, không giương cung động “võ”, mà là khởi lên thiên âm du dương, nhảy múa nhẹ nhàng, khơi gợi tâm linh của người trong mê.

Lại xem tiếp hai câu tụng: “Thử thời hồn tích cư triều thị; Nháo loạn quân thần bách vạn bàn”. Thần Vận lưu diễn toàn thế giới, quy mô năm sau lớn hơn năm trước; trong 4 năm qua mỗi năm Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đều toàn tiết mục mới; tại Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Úc, Nam Mỹ luân lưu diễn xuất hơn 600 màn, với khán giả lên tới 1 triệu người. Đông đảo các nhân vật quan trọng, người nổi tiếng, nghệ sĩ, chủ các công ty Tây phương đều nhất trí cho rằng “Thần Vận chân chính đại biểu cho văn hóa truyền thống Trung Quốc”; khán giả Tây phương kinh ngạc phát hiện rằng: “Tuyệt vời. Nghệ thuật múa ba-lê thật tao nhã, những tái hiện mang đậm chất Trung Quốc!”

Các Hoa kiều ở hải ngoại từng xem Thần Vận, các đoàn du khách Trung Quốc ở nước ngoài cũng đều kinh ngạc, vừa vui mừng vừa xúc động, đều nói: “Thần Vận là truyền thừa của văn hóa Trung Hoa!”

Thần Vận trở thành thịnh hội nghệ thuật phổ biến toàn cầu, đồng thời đĩa DVD Thần Vận được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc đại lục, dân chúng đại lục khắp nơi ca ngợi. Thần Vận nhất định sẽ đến diễn tại Trung Quốc đại lục, phổ biến trên toàn Trung Quốc. Dấu chân của Thần Vận rải khắp hoàn cầu, rồi thâm nhập nghìn nhà vạn hộ tại Trung Nguyên; như vậy “Thử thời hồn tích cư triều thị”, rốt cuộc là khiến những người nắm giữ quyền lực ở Trung Nam Hải phải choáng váng, “triều đình” Trung Cộng tà ác phải chịu uy hiếp cực lớn, vì Thần Vận mà “Nháo loạn quân thần bách vạn bàn.” Tóm lại, sự phát triển của Thần Vận khiến Trung Cộng thấy sự tử vong của mình là tất nhiên.

Lại xem các câu sấm “Mỹ nhân tự Tây lai; Triều trung nhật tiệm an; Trường cung tại địa; Nguy nhi bất nguy”, đơn giản mà nói, chính là sự phát triển của Thần Vận là bất khả kháng; Thần Vận rồi sẽ vào Trung Quốc đại lục, phổ biến khắp Trung Hoa đại địa; Trung Cộng kiềm chế không nổi, trấn áp rơi vào vũng bùn, dằn vặt mãi rồi “Trong triều dần dần an”, thả “Cung dài dưới đất”; bởi vì người người ngày càng minh bạch chân tướng, trấn áp ngày càng không có thị trường. Người Trung Quốc thức tỉnh nhìn thấy Thần Vận, nhìn thấy gốc rễ văn hóa của mình, lựa chọn xem ai đại biểu cho truyền thừa văn hóa Trung Quốc, âm hồn đến từ phương Tây (Tây lai u linh) bị vứt bỏ. Cái “nguy” của Trung Cộng hiển nhiên là ở ngay trước mắt, nhưng đối với người Trung Quốc mà nói, bởi vì tìm được truyền thừa văn hóa, dân tộc cũng có vị lai, ngược lại không nguy mà còn an. Khi so sánh với cái “nguy” của Trung Cộng, câu “Nguy mà không nguy” là rất chuẩn xác; Thần Vận đến nơi cứu Trung Hoa khỏi nguy nan.

«Cửu Bình» phá trừ văn hóa đảng tà ác của Trung Cộng; Thần Vận trả lại truyền thừa văn hóa Trung Hoa

Sau khi «Cửu Bình» ra đời, bản chất tà ác của Trung Cộng đã bị phơi bày triệt để; «Cửu Bình» tựa như chín thanh kiếm sắc, thay Trời trừ ác long; nhưng sau khi phá trừ một bộ văn hóa đảng của Trung Cộng rồi, thì Trung Nguyên đại địa lấy gì để xác lập?

Lịch sử tự có số định trước. «Cửu Bình» phá trừ văn hóa đảng tà ác của Trung Cộng; Thần Vận trả lại cội rễ văn hóa truyền thống Trung Hoa; một phá một thiết lập; người Trung Quốc thức tỉnh rồi thì được cứu độ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/6/13/66729.html

The post Phân tích «Thôi Bối Đồ», Tượng 42: Thần Vận cứu Trung Hoa khỏi nguy nan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/phan-tich-thoi-boi-do-tuong-42-than-van-cuu-trung-hoa-khoi-nguy-nan.html/feed0