“Tây Du Ký”: Tam thừa giải Pháp | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnMon, 07 Apr 2025 01:25:15 +0000en-UShourly1“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (8)https://chanhkien.org/2025/04/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-8.htmlWed, 02 Apr 2025 01:45:50 +0000https://chanhkien.org/?p=36970Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Ba mươi sáu) Khi bốn thầy trò Đường Tăng đến phủ Kim Bình, họ nghỉ lại trong chùa Từ Vân. Sau khi dùng bữa chay, chuẩn bị lên đường, họ được chư tăng khuyên nên ở lại đón Tết Nguyên Tiêu. Đường Tăng nói: “Đệ tử trên đường chỉ biết […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (8) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Ba mươi sáu)

Khi bốn thầy trò Đường Tăng đến phủ Kim Bình, họ nghỉ lại trong chùa Từ Vân. Sau khi dùng bữa chay, chuẩn bị lên đường, họ được chư tăng khuyên nên ở lại đón Tết Nguyên Tiêu. Đường Tăng nói: “Đệ tử trên đường chỉ biết có núi, có sông, sợ nhất là gặp yêu ma, chẳng còn để ý đến thời gian, cũng không biết lúc nào là Tết Nguyên Tiêu nữa”. Đây chính là trạng thái tâm lý chính thường của người tu luyện. Nhưng Đường Tăng không cưỡng lại được lời mời của mọi người, đồng ý lưu lại thêm vài ngày. Đến đêm rằm tháng Giêng Tết Nguyên Tiêu, bốn thầy trò Đường Tăng cùng chư tăng vào thành thưởng nguyệt, xem kim đăng. Không ngờ giữa không trung xuất hiện ba yêu tinh giả dạng Phật, Đường Tăng không phân biệt thật giả, chỉ bái lạy một cái đã bị yêu tinh bắt đi, khiến dân chúng kinh hãi, chạy tán loạn bốn phía. Tôn Ngộ Không theo sát không rời, tìm tới động Huyền Anh, núi Thanh Long, hóa ra đây là nơi chốn của loài tê giác thành tinh. Chỗ chúng ở có ba tên đại vương: đại vương tên Tịch Hàn Đại Vương, nhị vương tên Tịch Thử Đại Vương, tam vương hiệu Tịch Trần Đại Vương. Ngoài ra, chúng còn cướp cả dầu đèn cúng tế từ Kim Bình Phủ đem về động. Lúc sau, Tôn Ngộ Không một mình đấu không lại, bèn gọi Trư Bát Giới và Sa Tăng trợ chiến, nhưng cả hai cũng bị yêu quái bắt đi. Tôn Ngộ Không bất lực, đành lên Thiên Cung để hỏi rõ xuất xứ, thỉnh thiên binh trợ chiến. Cuối cùng, Ngọc Đế giáng chỉ, để Tôn Ngộ Không cùng với Tứ Mộc Cầm Tinh hạ thế thu phục ba tên yêu quái. Cuối cùng ba yêu quái bị chế phục và bị trừng phạt theo chính pháp, quy chính lại. Quan lại và dân chúng phủ Kim Bình không ai là không đốt hương quỳ bái, vì không những được miễn thuế dầu mà còn trừ khử được một mối họa cho dân. Vì vậy, họ đã xây dựng chùa và đền thờ sống để tưởng nhớ bốn thầy trò Đường Tăng, đồng thời lập miếu thờ bốn vị thần tinh tú. Mọi người đều vô cùng hoan hỷ. Sau khi mọi việc đã được thu xếp ổn thỏa, thầy trò Đường Tăng mới lặng lẽ, không gây động tĩnh mở cửa núi, rồi tìm đường để tiếp tục hành trình.

Kỳ thực, ma nạn lần này mà họ gặp phải đều bắt nguồn từ tâm an dật, phóng túng tham vui của Đường Tăng tạo thành. Ngay cả danh xưng của ba đại vương yêu tinh cũng thể hiện điều này: Người tu luyện nếu sợ nóng sợ lạnh, ham ăn ham ngủ, tự mãn cá nhân, chấp trước vào những suy nghĩ trần tục, sống qua loa, nhược tồn nhược vong, không tinh tấn thì ắt sẽ chiêu mời phiền phức, tà ma xâm nhập. Con đường tu luyện nếu không tiến lên thì ắt sẽ thụt lùi. Chỉ có tinh tấn, giữ vững một niệm tu luyện, mới có thể giữ tâm thanh tịnh, thoát khỏi bụi trần, đắc chính quả bay về thiên giới. Mặt khác, việc thầy trò Đường Tăng bắt giữ và tiêu diệt yêu quái, giúp dân trừ hại, cũng chính là đang chứng thực Pháp và cứu độ chúng sinh.

(Ba mươi bảy)

Bốn thầy trò Đường Tăng đến chùa Bố Kim, núi Bách Cước. Di tích vườn Cấp Cô Viên nơi năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, nằm ngay ở sân sau của chùa. Khi Đường Tăng đến đây, ông không khỏi cảm khái. Bỗng nhiên, ông nghe thấy tiếng khóc của một cô gái. Hỏi vị lão tăng đi cùng, mới biết rằng cô gái bị nhốt trong một căn phòng trống chính là công chúa của quốc vương nước Thiên Trúc. Một năm trước, cô bị một cơn gió lớn cuốn đến nơi này và được vị lão tăng che chở bảo vệ. Thì ra công chúa chính là tiên nữ Tố Nga ở cung trăng. Vì lỡ tay đánh con thỏ ngọc chuyên giã thuốc một cái, nên bị nó ôm hận trong lòng. Tố Nga vì tưởng nhớ nơi phàm trần mà hạ giới, đầu thai thành công chúa nước Thiên Trúc. Nhân cơ hội này, thỏ ngọc cũng giáng trần, dùng phép thuật bắt cóc công chúa ra khỏi hoàng cung, rồi tự hóa thành hình dáng của công chúa để đóng giả công chúa. Vừa hay trong mệnh của Đường Tăng có an bài ma nạn này. Yêu quái kia biết trước ngày này, tháng này, năm này tại nơi này Đường Tăng sẽ đến, liền lợi dụng thân phận công chúa để dựng lầu hoa lộng lẫy, giả vờ chọn phò mã. Mục đích thực sự của nó là hấp thụ nguyên dương chân khí của Đường Tăng để tu luyện thành Thái Ất Thượng Tiên. Cuối cùng, trong buổi lễ thành hôn, yêu quái bị hỏa nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không nhìn thấu. Ngộ Không lập tức dùng gậy Như Ý đánh nó hiện nguyên hình. Sau đó, Thái Âm Tinh Quân đã xuất hiện và thu phục thỏ ngọc, đưa nó trở về cung trăng, kết thúc mối ân oán này. Công chúa thật được quốc vương, mẫu hậu và thầy trò Đường Tăng hộ tống từ chùa Bố Kim trở về hoàng cung. Để ghi nhớ sự kiện này, nhà vua đã đổi tên núi Bách Cước thành núi Bảo Hoa, Cấp Cô Bố Kim Tự.

Nước Thiên Trúc nằm rất gần Linh Sơn, điều đó có nghĩa là thành công cũng đã ở ngay trước mắt. Yêu quái Ngọc Thố này không còn hung ác như những yêu ma quỷ quái trước đây, nhưng về ý đồ muốn ăn thịt Đường Tăng và hút tinh khí nguyên dương thì vẫn giống hệt. Vì thế mới nói trên con đường tu luyện không có chuyện nhỏ nhặt. Dù chỉ là một sự việc nhỏ nhặt bất kỳ đều có thể dẫn đến kiếp nạn không cần thiết. Do đó, tu luyện vừa phải buông bỏ hết thảy chấp trước, còn phải đạt đến trạng thái vô lậu. Đường Tăng tham quan Cấp Cô Viên, nơi Phật Tổ giảng Pháp, đồng thời phát hiện công chúa thật bị “giam giữ” trong một gian phòng trống, điều này đã ngầm thể hiện rằng hành trình Tây Thiên thỉnh kinh và con đường tu luyện cầu Chân của Đường Tăng đã đạt đến một dấu mốc quan trọng. Chân (真 – có nghĩa là thật) công chúa bị giam tức là cầu chân (chữ 囚: giam đồng âm với 求: cầu). Mà công chúa giả ném tú cầu kén rể, một mặt thể hiện nỗi nhớ ơn sinh thành của Đường Tăng đối với cha mẹ; mặt khác cũng là yêu cầu về mặt hình thức và nội dung để tạo sự liên kết giữa phần đầu và phần cuối của toàn bộ tác phẩm. Cũng có khả năng cần trải qua một quan ải tình cảm, bởi lẽ trong hồi này, chính vì chuyện đó mà Đường Tăng đã gặp phải yêu ma. Nhưng có một điểm đáng chú ý: Ngọc Thố giã thuốc trên cung trăng, công chúa thật thì không ở Thiên Trúc quốc để làm công chúa. Xét theo luân thường đạo lý của con người, đây đều là biểu hiện của việc không giữ bổn phận, không làm tròn trách nhiệm. Mỗi người phải đảm nhiệm đúng vai trò của mình, đi theo con đường của mình, vô vi nhi vô bất vi (ý tứ là không làm gì mà không gì không làm, cũng có nghĩa là không cần can thiệp vào việc gì, đạo tự làm tốt mọi việc), đó mới là chính lý và bổn phận. Cái gọi là tà hay ma cũng chính là hình thức biến dị và tha hóa do lòng người không còn như xưa tạo thành. Do đó mới nói, vì sao vũ trụ cần Chính Pháp, là vì hết thảy đều đã bất chính, vì thế cần quy chính lại mới hoàn toàn, nếu không thì không còn lựa chọn nào khác. Còn có một điểm, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến biến cố công chúa thật, công chúa giả bắt nguồn từ việc quốc vương yêu hoa, thưởng hoa, đây cũng chính là sự quấy nhiễu do tâm ham thích nhàn hạ của người tu luyện gây ra. Vẫn là câu nói ấy: Người tu luyện cần làm được chuyên nhất, bất sát bất dưỡng, giữ mình thanh tịnh mới là điều đúng đắn.

(Ba mươi tám)

Bốn thầy trò Đường Tăng lại đi đến địa phận huyện Địa Linh, phủ Đồng Đài. Trong thành có một lão viên ngoại lâu nay thường xuyên thiết trai đãi tăng, trước cửa nhà ông còn dựng tấm biển khắc dòng chữ “Vạn tăng bất trở” (Vạn vị tăng sĩ đều không bị cản trở). Khi bốn thầy trò Đường Tăng bước vào nhà, lão viên ngoại liền tỏ vẻ vui mừng, tươi cười nói: “Đệ tử tiện danh là Khấu Hồng, tự Đại Khoan, năm nay đã hư độ 64 tuổi (chú thích: một cách nói khiêm tốn, có ý sống uổng phí 64 năm) rồi. Từ năm 40 tuổi, ta đã phát nguyện thiết trai cúng dường một vạn tăng sĩ để viên mãn. Hiện nay, ta đã thiết đãi được 9996 người, chỉ thiếu bốn vị nữa là trọn vẹn. Hôm nay thật may mắn trời ban bốn vị đại sư tới đây, đúng đủ con số vạn tăng. Xin các vị để lại pháp danh, nán lại đây khoảng một tháng, đợi ta hoàn thành tâm nguyện viên mãn, sau đó ta sẽ chuẩn bị kiệu ngựa tiễn các thầy lên đường. Từ đây đến Linh Sơn chỉ có 800 dặm, cũng không còn xa nữa”. Trong nhà viên ngoại còn có một phu nhân và hai người con trai là tú tài, một người tên Khấu Lương, người kia tên Khấu Đống. Sau khi lão viên ngoại mời các vị tăng sĩ, đạo sĩ, thân thích, bạn bè và hàng xóm đến chứng kiến lễ viên mãn, hơn nửa tháng sau, bốn thầy trò Đường Tăng mới có thể từ biệt ra đi sau nhiều lần kiên quyết từ chối lời giữ lại của viên ngoại. Thế nhưng, trời có mưa gió bất ngờ, người có họa phúc khó lường. Khi bốn thầy trò chỉ vừa rời đi không xa, do trời đổ mưa như trút nước, họ phải ghé vào Hoa Quang hành viện để trú mưa và nghỉ chân. Cùng lúc đó, nhà Khấu viên ngoại bất ngờ gặp kiếp nạn cướp của giết người, một toán cướp không chỉ cướp sạch tài sản mà Khấu Hồng viên ngoại còn bị một tên cướp đá mạnh vào hạ bộ, ngã nhào xuống đất, tắt thở tại chỗ. Sau khi cướp bóc thành công, toán cướp đi tiếp thì tình cờ gặp được bốn thầy trò Đường Tăng, bọn chúng bèn nảy sinh ý đồ xấu, khi định ra tay cướp lần nữa thì bị Tôn Ngộ Không thi triển phép định thân chế phục. Tất cả tang vật đều được thu hồi, nhưng đám cướp lại để xổng mất. Khi bốn thầy trò Đường Tăng quay lại huyện Địa Linh để trao trả tài sản cho chủ cũ, không ngờ rằng vợ của viên ngoại Khấu Hồng lại tố cáo họ lên nha môn quan phủ. Vị quan thứ sử nha môn lập tức ra lệnh bắt giữ bốn thầy trò Đường Tăng. Lần này đúng là nhân chứng vật chứng đầy đủ, khó lòng biện bạch, bốn thầy trò họ lại một lần nữa bị oan uổng và phải vào đại lao. Lúc đó, Tôn Ngộ Không thầm nghĩ: “Sư phụ đáng phải chịu kiếp nạn ngồi tù một đêm. Lão Tôn không vùng vẫy, không dùng phép thuật chính là vì điều này. Nhưng bây giờ đã gần cuối canh tư, tai ương cũng sắp mãn, ta phải lo liệu để sáng mai còn ra khỏi ngục”. Ngay lập tức, Đại Thánh hóa thành một con châu chấu, bay đến nhà bà vợ Khấu viên ngoại, rồi đến phủ đường của viên thứ sử, sau đó lại hiện linh cảnh báo trong nha môn phủ, bay đi bay lại bận rộn vô cùng. Sáng hôm sau, tất cả những người liên quan đều hoảng hốt tỉnh dậy, người thì vội rút đơn kiện, người thì mở cửa nhà lao. Tôn Ngộ Không còn có lòng xuống âm phủ để cứu Khấu viên ngoại, Địa Tạng Bồ Tát từ bi mở lòng, ban cho viên ngoại thêm một kỷ dương thọ, tức 12 năm nữa. Nhờ đó, câu chuyện lần này kết thúc tốt đẹp, viên mãn.

Hồi thứ 97 có một bài thơ rằng:

Lấy ân báo ân nhân gian hiếm,
Còn lấy ân tình hóa thành thù.
Xuống nước cứu người phải gặp họa,
Tam tư hành sự lại vô ưu.

Đây chính là tình huống mà một người tu luyện, khi làm việc thiện hay việc tốt, cũng có thể bị hiểu lầm. Đây thực sự là gặp phải một lần khảo nghiệm. Đồng thời, nó cũng là cơ hội để xem xét tâm tính của người tu luyện, xem họ đối diện với những sự việc tương tự ra sao. Vẫn một câu nói, dù là chuyện tốt hay chuyện xấu, trong mắt người tu luyện đều nên coi đó là chuyện tốt. Bởi vì đối với người tu luyện thì việc đề cao tâm tính và thăng hoa tầng thứ cảnh giới mới là điều quan trọng nhất. Một điều đáng chú ý trong hồi này là tên của Khấu Hồng viên ngoại, số mệnh theo quẻ toán, cũng như việc ông được ban thêm một kỷ dương thọ, từ đó đạt được viên mãn trọn vẹn. Điều này phải chăng cũng ám chỉ khi thế giới mạt kiếp, đó là tên gọi của người mà Phật Di Lặc sẽ giáng sinh vào thời mạt kiếp, cũng như sự an bài tổng thể về thời gian Chính Pháp và quá trình Pháp Chính Nhân Gian chăng? Bởi vì sự thành công của Đường Tăng khi thỉnh kinh trong Tây Du Ký có mối liên hệ trực tiếp với sự viên mãn của giai đoạn Chính Pháp cuối cùng trong lịch sử nhân loại. Chính vì vậy, tác giả mới dám khẳng định rằng: Trong lịch sử văn học tiểu thuyết, bất kỳ tác phẩm kinh điển nào có tầm ảnh hưởng to lớn, tác giả của nó đều đang viết về chính mình, hoặc về tiền kiếp hay hình bóng của chính mình, không có ngoại lệ.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56632

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (8) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (7)https://chanhkien.org/2025/03/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-7.htmlFri, 28 Mar 2025 23:30:13 +0000https://chanhkien.org/?p=36928Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Ba mươi mốt) Thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi đến Sư Đà Lĩnh. Thái Bạch Kim Tinh hóa thành một ông lão, cảnh báo Tôn Ngộ Không rằng nơi đây có những yêu ma cực kỳ hung dữ, nhất định phải cẩn thận. Hóa ra, tại Sư Đà Lĩnh, […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Ba mươi mốt)

Thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi đến Sư Đà Lĩnh. Thái Bạch Kim Tinh hóa thành một ông lão, cảnh báo Tôn Ngộ Không rằng nơi đây có những yêu ma cực kỳ hung dữ, nhất định phải cẩn thận. Hóa ra, tại Sư Đà Lĩnh, trong Sư Đà Động và Sư Đà Quốc, có ba con yêu ma hoành hành. Đó là lão đại Thanh Mao Sư Tử quái, lão nhị Hoàng Nha Bạch Tượng và lão tam Đại Bàng Điểu. Thanh Sư vốn là thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát, Bạch Tượng là thú cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát, còn Đại Bàng Điểu là anh em ruột với Phật Mẫu Khổng Tước Đại Minh Vương Bồ Tát. Chúng đã ở bên Phật và Bồ Tát từ lâu, tự nhiên có chút linh khí, nhưng vì tâm niệm bất chính, bản tính thú vật không đổi, không quên nơi trần gian nên tự mình hạ phàm giới, gây họa một phương. Cũng có thể nói rằng, do vận hạn của Đường Tăng chưa hết, tâm ma sinh ra chấp trước mà dẫn đến kiếp nạn này. Khi Tôn Ngộ Không bị bảo bối âm dương nhị khí của ba yêu ma thu vào trong bình, anh ta trong cấp bách đã nghĩ ra cách dùng ba sợi lông cứu mạng mà Quan Âm Bồ Tát ban cho, xuyên thủng bảo bình để thoát ra ngoài, làm rò rỉ hai khí âm dương bên trong bình. Điều này cho thấy Tôn Ngộ Không đã không còn bị ước thúc bởi tam giới, ngũ hành và âm dương nữa. Lúc này, cảnh giới tu luyện của Đường Tăng cũng đạt đến trạng thái khai ngộ hoặc bán khai ngộ. Tuy nhiên, Đường Tăng lại mang danh “sư phụ” nên tất nhiên phải thuyết giảng kinh pháp cho đồ đệ hoặc chúng sinh, làm công việc tế thế cứu người. Chính điều đó đã khiến ông vô tình âm thầm phát triển sinh ra một loại tâm ma mạnh mẽ nhưng khó nhận ra, đó là thích làm thầy người khác, tự mãn kiêu ngạo, thậm chí dần dần rơi vào ma đạo khi coi việc được người khác sùng bái là mục đích. Vị trí của Sư Đà Lĩnh phản ánh điều này. Thanh Sư quái chính là hóa thân của hình tượng “sư phụ” hư danh, giả tạo, đồng thời đi kèm với hai ma đầu khác tượng trưng cho hùng tâm và tráng chí. Hùng tâm chính là voi trắng, tráng chí là Đại Bàng Điểu. Khi ba thế lực hợp lại, ngay cả Tôn Hành Giả cũng không đấu lại. Cuối cùng, vẫn phải là dĩ Pháp vi Sư, tìm đến Phật Như Lai để xử lý chuyện này. Như Lai chính là xưng hiệu của chân lý như ý, do đó nói Phật Như Lai là chân Pháp, là chính Pháp. Tất cả những thứ bất chính và nhân tố bất chính đều phải được quy chính. Vì vậy, trong hồi thứ bảy mươi bảy của bộ sách, Phật Như Lai đích thân ra tay hàng phục yêu ma. Điều này cho thấy rằng, càng đến giai đoạn cuối cùng của tu luyện, càng cần cẩn trọng hành sự, vì mức độ của ma nạn ngày càng lớn. Tu luyện tâm tính không chú ý một chút thôi cũng có thể bị hủy trong một sớm. Kỳ thực những người tu luyện đều là một chỉnh thể. Là một chỉnh thể thì phải phá bỏ mọi gián cách và phối hợp với nhau để cùng nhau đề cao, đồng thời phải coi trọng “nghĩa” khí trong hành xử. Nhưng Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới trước đó lại không hòa thuận, đố kỵ lẫn nhau, từ đó mới tạo cơ hội cho tà ma thừa cơ xâm nhập. Ma nạn trở nên nghiêm trọng hơn cũng do nguyên nhân ở chính bản thân họ tạo thành. Bốn thầy trò Đường Tăng bị tiểu yêu bắt bỏ vào vạc lớn để hấp hơi, sau đó Đường Tăng còn bị nhốt vào tủ sắt, suýt chút nữa mất mạng. Những cảnh tượng này để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, đồng thời cũng là một bài học giáo huấn và kinh nghiệm quý giá khó có được. Chỉ khi Phật Như Lai và hai vị Bồ Tát xuất hiện, mới khiến tâm ma của bốn thầy trò được cắt đứt. Một lần nữa, điều này chứng minh rằng việc học Pháp là vô cùng quan trọng, vì Đại Pháp có thể phá trừ mọi chấp trước.

(Ba mươi hai)

Khi bốn thầy trò Đường Tăng đến Tỳ Kheo Quốc, họ phát hiện một hiện tượng kỳ lạ: trước cửa mỗi nhà đều đặt một cái lồng ngỗng, bên trong nhốt một bé trai. Đường Tăng hỏi han nhiều lần mới biết được rằng đương kim quốc vương muốn dùng 1.111 trái tim và gan của trẻ nhỏ sắc làm thuốc dẫn, để cầu được công “nghìn năm bất lão”. Lại nói ba năm trước, một lão già có dáng vẻ Đạo sỹ dâng tặng cho nhà vua một thiếu nữ 16 tuổi. Nhà vua mê đắm sắc đẹp, khiến tinh thần mệt mỏi, thân thể suy kiệt. Lúc này, lão già trở thành quốc trượng, đã dâng lên kế sách độc ác: ăn tim gan trẻ con để bồi bổ thân thể, quả thực là hại người không ít, nhưng âm mưu hiểm độc thực sự vẫn còn phía sau. Sau khi Đường Tăng bái kiến quốc vương, đóng dấu ngọc tỷ và đổi lấy giấy thông quan văn điệp, quốc trượng cũng bước vào, cùng Đường Tăng bàn luận về Đạo Pháp, ai cũng giữ vững ý kiến của mình. Đợi đến khi Đường Tăng rời đi, quốc trượng chợt thấy những đứa trẻ trong lồng biến mất khi có cơn gió thổi qua, liền nảy ra ý tưởng mới: đề nghị quốc vương moi tim gan của Đường Tăng, “đủ đảm bảo vạn năm trường thọ”. Tôn Đại Thánh bèn biến thành hình dáng của Đường Tăng, đến hoàng cung, móc ra rất nhiều trái tim trước mặt mọi người, rồi nói: “Đây lại đều là những hồng tâm, bạch tâm, hoàng tâm, tâm tham lam, tâm lợi danh, tâm đố kỵ, tâm toan tính, tâm hiếu thắng, tâm cao vọng, tâm khinh mạn, tâm sát hại, tâm độc ác, tâm sợ hãi, tâm cẩn trọng, tâm tà vọng, tâm vô minh, cùng vô số tâm bất thiện khác. Nhưng tuyệt nhiên không có một trái tim đen nào cả!” Mà quốc vương muốn có trái tim đen, Tôn Ngộ Không liền đáp: “Bệ hạ thật chẳng có mắt nhìn! Chúng tôi là những người tu hành, trong lòng chỉ có một lòng thiện tâm. Chỉ có quốc trượng của ngài mới là kẻ có trái tim đen, thích hợp làm thuốc dẫn. Nếu không tin, để ta móc ra cho ngài xem thử!” Nói rồi, Tôn Ngộ Không lập tức vạch trần chân tướng của yêu đạo, hai bên lao vào giao đấu. Yêu đạo không địch lại Tôn Ngộ Không, liền biến ra một đạo ánh sáng lạnh, mang theo thiếu nữ mà hắn từng dâng lên nhà vua, bay về động phủ Thanh Hoa của hắn. Khi Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đuổi đến động phủ, cả hai hợp sức định tiêu diệt yêu đạo. Nhưng đúng lúc đó, Nam Cực Lão Nhân Thọ Tinh kịp thời xuất hiện, cứu yêu đạo một mạng. Hóa ra, nó chính là thú cưỡi của Lão Thọ Tinh, một con bạch lộc vì không quên chốn phàm trần mà hạ giới. Lão Thọ Tinh sau đó đã ban cho nhà vua ba quả táo trường thọ. Nhà vua vừa nuốt vào đã cảm thấy thân thể phục hồi như xưa. Từ đó, mọi người đều cảm thấy vui vẻ, lại tiêu trừ được một ma chướng trên con đường đi Tây Thiên thỉnh kinh.

Phân tích cho thấy, Tỳ Kheo Quốc cũng chính là một vương quốc mà Phật giáo thịnh hành, nhà vua nơi đó tất nhiên cũng nên là người học Phật, tu Phật. Thế nhưng, do bị bạch lộc hóa thành yêu đạo mê hoặc, ông đã thay đổi con đường tu hành, sử dụng phương pháp gọi là “nam nữ song tu”. Vì tầng thứ thấp kém, sắc tâm chưa trừ bỏ, nên khi sử dụng liền phát sinh vấn đề. Nhà vua vừa muốn trường sinh bất lão, lại vừa muốn ăn tim gan của 1.111 đứa trẻ để luyện nguyên anh. Nhưng vì con người mang quá nhiều tâm chấp trước phức tạp, nên công pháp luyện ra đã hoàn toàn rối loạn. Kết quả là thân thể xuất hiện triệu chứng suy kiệt, bệnh tật bủa vây. Đồng thời ở đây cũng liên quan đến vấn đề “bất nhị pháp môn”. Tâm trí của quốc vương đã xuất hiện trạng thái hỗn loạn. Phương pháp giải quyết thực sự chính là vai trò của Đường Tăng, với tư cách là “sư phụ”, sẵn sàng dùng một khuôn mặt lấm lem bùn đất để hóa thành một Ngộ Không giả nhưng lại là đồ đệ thật, từ đó thật tâm học Pháp, tu luyện, quy chính từng tư từng niệm của bản thân, giúp tịnh hóa tốt hơn tâm tính và linh hồn của mình. Lại nói, rất nhiều những tâm chấp trước mà Tôn Ngộ Không đã móc ra, tất cả đều là những tâm mà anh ta đã từng bước tu luyện mới có thể đạt được, hoàn toàn không phải là công phu chỉ trong một ngày. Đặc biệt, anh ta không có cái tâm đen lợi dục, tức là tâm đen chuyên mưu hại người khác, cũng chứng tỏ bản chất thuần khiết, thiện lương tiên thiên vốn có của anh ta, cùng với huệ căn thâm hậu. Điều đó cũng có nghĩa là, người tu luyện khi bắt đầu tu luyện, điều đầu tiên phải tiêu trừ chính là hắc tâm này, đồng hóa hoàn toàn với Pháp, từ đó đạt đến sự thành thục và viên mãn.

(Ba mươi ba)

Trên đường đi, khi bốn thầy trò Đường Tăng băng qua một khu rừng tùng đen rậm rạp, họ cứu được một cô gái và đưa cô cùng đến chùa Trấn Hải Thiền Lâm để tá túc. Do nhiễm phong hàn, Đường Tăng bị ốm suốt ba ngày không dậy nổi. Ngộ Không đã vạch trần nguyên nhân: “Sư phụ vốn là đồ đệ thứ hai của Phật Như Lai, nguyên vốn là Kim Thiền Trưởng lão. Chỉ vì từng khinh mạn Phật Pháp, nên mới chịu nạn này. Sư phụ từng không chịu nghe Phật Pháp, chỉ chợp mắt một chút thôi, liền gục xuống, chân trái dẫm phải một hạt gạo, hạ xuống trần gian, phải mắc bệnh ba ngày này”. Từ đó có thể thấy rằng, những trạng thái bệnh nghiệp xuất hiện trên thân thể người tu luyện chỉ là một loại giả tượng, nguyên nhân thực sự vẫn phải học Pháp thật tốt, hướng nội tìm. Liên tục trong ba ngày đó, tại ngôi chùa họ tá túc, vào mỗi đêm, chiếc chuông chùa vang lên, sáu vị hòa thượng đã bị yêu tinh ăn thịt. Tôn Ngộ Không bèn cải trang thành một hòa thượng để dụ yêu tinh xuất hiện. Hóa ra, yêu tinh chính là cô gái họ đã cứu trong rừng tùng đen. Nó thông qua sắc dục để dụ dỗ, rồi ăn thịt sáu hòa thượng. Khi bị Ngộ Không vạch trần, trong khi chạy trốn, nó cũng bắt Đường Tăng mang đi, đem về động Không Đáy trên núi Hãm Không. Ngộ Không sau đó đã ba lần giao chiến với nữ yêu tinh, rồi mời Thác Tháp Lý Thiên Vương cùng Na Tra Tam Thái Tử đến trợ chiến. Cuối cùng đã thu phục được nữ yêu chuột tinh chuyên dùng sắc dục để dụ dỗ ăn thịt người.

Tại đây, Đường Tăng bị nữ yêu tinh bắt vào động, cưỡng ép kết hôn. Tuy nhiên, Đường trưởng lão đã khéo léo ứng phó, kiên quyết không phục tùng. Trong sách có lời ca ngợi: “Hảo hòa thượng! Giữa lầu son gác tía chẳng động tâm, giữa gấm vóc lụa là mà như câm điếc. Nếu không có một tấm lòng sắt đá hướng về Phật, thì cũng chỉ là một phàm phu tửu sắc, sao có thể thỉnh được chân kinh?” Vạn ác dâm vi thủ. Có thể nói, trừ bỏ tâm sắc dục cũng là việc phải làm đầu tiên khi bắt đầu tu luyện. Nếu không, ma tình, quỷ sắc sẽ quấn lấy thân, làm tiêu tán nguyên dương, vạn sự hóa thành hư không, một việc làm không thành, hủy hoại trong một sớm. Quả đúng là một cái động Không Đáy trên núi Hãm Không vậy!

Khi thầy trò Đường Tăng tiếp tục lên đường, Quan Âm Bồ Tát điểm hóa cho họ rằng: “Cách đây khoảng năm, sáu dặm là nước Diệt Pháp. Nhà vua nước đó vì ân oán từ tiền kiếp, nên kiếp này vô cớ tạo nghiệp. Hai năm trước, hắn lập lời thề độc, muốn giết một vạn hòa thượng. Hai năm nay đã liên tục sát hại đủ chín nghìn chín trăm chín mươi sáu vị hòa thượng vô danh. Chỉ còn đợi bốn vị hòa thượng có danh nữa để tròn số một vạn, để đạt viên mãn. Các ngươi đến đó, nếu vào trong thành, e rằng đều thành Bồ Tát nộp mạng thôi!” Nghe vậy, bốn thầy trò liền cởi bỏ cà sa, mặc trang phục thế tục, rồi tá túc tại một quán trọ trong thành. Đêm đến lúc đi ngủ, bốn người lại cùng nhau nằm nghỉ trong một chiếc tủ lớn. Không ngờ, vào lúc nửa đêm canh ba, một toán cướp ập vào, cướp sạch cả bốn thầy trò cùng Bạch Long Mã. Nhưng bọn cướp chưa kịp hưởng thụ chiến lợi phẩm thì vừa ra khỏi cổng thành không xa, đã bị một toán quân lính ập đến bắt giữ. Quan binh thu lại chiếc tủ cùng Bạch Long Mã, áp giải tất cả về thành chờ sáng hôm sau vào hoàng cung đợi quốc vương xét xử. Trong thời gian này, Tôn Ngộ Không thi triển thần thông như ý gọi là “đại phân thân phổ hội thần pháp”, chỉ trong một đêm, biến tất cả mọi người trong hoàng cung, từ nhà vua, hoàng hậu, quần thần, cho đến cung nữ thái giám, đều bị cạo trọc đầu, hóa thành tăng ni. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, nhà vua, hoàng hậu cùng bá quan văn võ bàng hoàng nhận ra bản thân đã thành hòa thượng. Họ lập tức ăn năn hối lỗi vì những tội nghiệt trước đây. Vì thế, khi gặp thầy trò Đường Tăng, họ vội vàng cung kính tiếp đón, bái làm lão sư, đổi quốc hiệu từ Diệt Pháp Quốc thành Khâm Pháp Quốc. Cuối cùng, họ cung kính tiễn bốn thầy trò ra khỏi thành.

Thực ra, quốc vương của nước Diệt Pháp chính là Pháp Vương, người nắm giữ quyền sinh sát trong tay. Nhưng nếu ông ta không hành xử theo tiêu chuẩn của Phật Pháp và Thiên lý, mà lại lạm sát vô cớ sinh mệnh, thì nhất định sẽ trở thành tà pháp, đồng thời cũng trở thành ma chướng cản trở con đường thỉnh kinh của Đường Tăng. Vì vậy, Quan Âm Bồ Tát đã kịp thời chỉ dẫn, giúp bốn thầy trò có sự chuẩn bị trước về tâm lý. Còn Tôn Ngộ Không thì khéo léo vận dụng trí huệ, thi triển thần thông, dễ dàng hóa giải được ma chướng này. Trong truyện, Tôn Hành Giả có câu nói rất hay: “Đồ ngốc chớ sợ! Chúng ta từng trải qua bao hiểm cảnh, nào là độc ma, ác quái, hổ huyệt, long đàm, nhưng chưa từng bị tổn hại. Huống hồ nơi đây chỉ là một quốc gia phàm tục, có gì đáng sợ?” Điều đáng chú ý là con số mà quốc vương phát nguyện phải giết sạch một vạn hòa thượng. Theo tình hình lúc bấy giờ, ông ta đã giết đủ 9.996 vị hòa thượng, chỉ còn thiếu bốn người nữa để đủ quân số.

(Ba mươi tư)

Khi bốn thầy trò Đường Tăng đi đến Ẩn Vụ Sơn, họ gặp một yêu quái xưng là Nam Sơn Đại Vương, thực chất là một báo tinh, sống trong hang Triệt Nhạc Liên Hoàn. Khi Trư Bát Giới xông lên giao chiến với yêu tinh, về cơ bản đã có thể chiếm thế thượng phong. Nhưng không ngờ, yêu tinh lại dùng kế “phân biện mai hoa”, chia bọn tiểu yêu thành ba nhóm, nghênh chiến dẫn dụ Tôn Hành Giả, Trư Bát Giới và Sa Tăng ra ba hướng khác nhau để đánh lạc hướng. Nhân cơ hội đó, yêu quái liền xông vào cướp lấy Đường Tăng mang đi. Cuối cùng, Tôn Ngộ Không dùng phép biến hóa cứu thoát Đường Tăng cùng một người tiều phu. Còn Trư Bát Giới thì vung cào chín răng đánh chết yêu quái do báo tinh biến thành.

Thực ra, họ hoàn toàn có thể tránh được kiếp nạn này. Nhưng vì ba huynh đệ họ: bản tâm, bản năng và bản tính lại ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau, hành xử theo cảm tính, dẫn đến tâm ma ba đường cùng lúc bủa vây, từ đó khiến chủ nguyên thần – tức Đường Tăng Huyền Trang – bị hãm nhập. Bàn về tu luyện, kỳ thực chính là hướng nội tìm, như bài thơ trong truyện có viết:

“Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp,
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu”.

(Dịch nghĩa: Phật ở Linh Sơn chẳng cần tìm đâu xa, vì Linh Sơn chính ở ngay trong tâm mỗi người. Ai ai cũng có một tòa tháp Linh Sơn, hãy chuyên tâm tu luyện trong tòa tháp Linh Sơn ấy).

Khi tu xuất một tự ngã chân chính, cũng chính là tu thành Phật thể trong tâm. Trở lại với báo tinh, nó tự xưng Nam Sơn Đại Vương, bị Tôn Ngộ Không chế giễu: “Ngươi là súc sinh lớn mặt, sống được bao nhiêu năm mà dám xưng hai chữ “Nam Sơn”. Lý lão quân là tổ khai tiên tịch địa, mà còn ngồi bên phải Thái Thanh. Phật Như Lai là đấng tôn quý trị thế, mà còn ở dưới Đại Bằng Kim Sí Điểu. Khổng Thánh nhân là bậc tôn sư Nho giáo, cũng chỉ được gọi là ‘Phu Tử’. Còn ngươi chỉ là một con nghiệt súc, mà dám xưng ‘Nam Sơn Đại Vương’ ư? Trăm năm phóng túng trụy lạc! Đừng hòng chạy! Ăn lấy một gậy của ông ngoại nhà ngươi đây!” Câu nói này tiết lộ một điều: Phật Thích Ca Mâu Ni mà Đường Tăng đến bái kiến không phải là vị Phật tầng thứ cao nhất trong vũ trụ. Ngoài ra, người tiều phu mà Tôn Ngộ Không thuận tiện cứu giúp, thực chất nhận ân trên đường báo đáp lại. Nhớ năm xưa, khi còn là Mỹ Hầu Vương, chính một người tiều phu đã chỉ đường cho Ngộ Không, từ đó mới có thể đến Tà Nguyệt Tam Tinh Động, chính thức bái Bồ Đề Tổ Sư làm thầy. Nhân quả báo ứng, chẳng hề sai lệch. Lần này chỉ là cứu giúp một người. Kỳ thực bốn thầy trò cùng với Bạch Long Mã đã trải qua muôn ngàn gian khổ, vượt vạn dặm xa xôi, đi Tây Thiên thỉnh kinh, chẳng phải cũng vì muốn cứu độ chúng sinh khắp thế gian sao. Tinh thần cống hiến vô tư vô ngã này cùng với phẩm chất cao thượng mới có thể hun đúc đản sinh bậc Đại Giác Giả, đỉnh thiên lập địa, duy ngã độc tôn. Khi tiều phu tiễn bốn thầy trò lên đường đã nói cho họ biết con đường đến Tây Phương chỉ còn cách chưa đầy ngàn dặm nữa thôi.

(Ba mươi lăm)

Bốn thầy trò Đường Tăng đến quận Phụng Tiên, nước Thiên Trúc, vừa hay gặp lúc cả thành ba năm liền không mưa, hạn hán khác thường, dân chúng lầm than. Quận hầu dán hoàng bảng tìm hiền sỹ cầu mưa cứu dân. Đường Tăng từ bi, Ngộ Không tâm thiện, có ý cầu mưa để cứu lê dân bách tính. Thế là Tôn Ngộ Không cưỡi cân đẩu vân lên Thiên cung, cầu Ngọc Hoàng Đại Đế ban mưa cứu giúp. Ngọc Hoàng Đại Đế tra xét nguyên do, mới rõ căn nguyên: thì ra quận hầu Thượng Quan bất nhân, xô đổ bàn cúng tế trời đem đồ cúng quăng cho chó ăn, miệng lại thốt lời ô uế, tạo thành tội mạo phạm. Ngọc Đế đi qua thấy được, liền lập ra ba việc trong Phê Hương Điện “Bao giờ gà mổ hết thóc, chó ăn hết bột, đèn cháy đứt khóa sắt thì vùng đất nơi đó mới có mưa”. Tôn Ngộ Không không có cách nào đành bước ra ngoài điện, lúc này bốn vị Thiên Sư bật cười nói: “Ðại Thánh phiền não làm chi? Chuyện này chỉ có thể lấy việc thiện để giải quyết. Nếu có một niệm thiện từ, cảm động trời cao thì núi gạo, núi bột tức thời ngả hết, xiềng vàng cũng sẽ đứt. Ngài hãy về khuyên bảo người quy thiện, phúc sẽ tự nhiên đến”. Thế là Tôn Ngộ Không trở về quận Phụng Tiên, kể lại nguyên do trời không ban mưa. Quận hầu nghe xong, quỳ lạy sám hối, phát nguyện quy y, rồi ra lệnh toàn thành đốt hương niệm Phật, kính Trời kính Phật. “Từ giờ khắc ấy, khắp nơi vang tiếng thiện lành”. Quả nhiên, trời cao lập tức giáng mưa xuống, chỉ trong một thoáng chốc, thóc bột tiêu tan, khóa sắt cũng đứt đoạn, ba việc đều xong. Quận hầu vô cùng cảm kích thầy trò Đường Tăng, lại dựng cho bốn thầy trò một ngôi chùa, Đường Tăng đặt danh xưng là “Cam Lâm Phổ Tế Tự”. Lại xây thêm miếu Lôi Thần, Long Thần,… để tạ ơn Thần linh. Mọi sự xong xuôi, rồi mới nén rơi lệ từ biệt, tỏ lòng biết ơn, rồi rời khỏi thành.

Bởi vậy mới nói: Con người phải giữ vững thiện niệm lương tri, kính Trời kính Phật, thì mới tích thiện gieo phúc, tránh xa tai họa bệnh tật. Còn với những người tu luyện như Đường Tăng và các đệ tử, việc làm ở quận Phụng Tiên chính là một phần của hành trình viên mãn, giảng chân tướng, khuyên thiện, cứu người, phổ độ chúng sinh, thực hiện hồng nguyện của bản thân. Đây cũng là:

“Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri.
Thiện ác nhược vô báo, càn khôn tất hữu tư”.

(Dịch nghĩa: “Lòng người khởi một niệm, trời đất đều hay biết. Nếu thiện ác không báo ứng, càn khôn ắt có thiên lệch”.)

Khi bốn thầy trò họ đến Ngọc Hoa huyện, lão quốc vương có ba hoàng tử, trong ba vị hoàng tử này, hoàng tử thứ nhất dùng thiết bổng ngang mày, hoàng tử thứ hai dùng cào chín răng, hoàng tử thứ ba dùng thiết côn đen sì. Vừa hay, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng mỗi người nhận một hoàng tử làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, và còn đưa binh khí của ba huynh đệ họ cho thợ rèn chế tạo phiên bản nhỏ hơn cho ba hoàng tử sử dụng. Tuy nhiên, vào ban đêm, ba món binh khí phát ra hào quang chói lọi, linh khí tỏa khắp mặt đất, khiến yêu quái Hoàng Sư Tinh phát hiện và cướp đi. Ba huynh đệ lên núi tìm, trên đường, họ gặp hai tiểu yêu “Điêu Toàn Cổ Quái” và “Cổ Quái Điêu Toàn”, mới biết rằng con yêu quái đó đang tổ chức yến tiệc Đinh Ba trong động Hổ Khẩu, núi Báo Đầu để ăn mừng. Thế là ba người họ tương kế tựu kế, khéo léo cải trang, trà trộn vào động, đoạt lại binh khí và giao chiến với Hoàng Sư Tinh. Cuối cùng, yêu quái không địch lại, phải bỏ chạy đến động Cửu Khúc Bàn Hoàn, núi Trúc Tiết, nơi ở của ông nó là Cửu Linh Nguyên Thánh. Dưới trướng ông nó có sáu con sư tử thành tinh, nó vốn là một con sư tử có chín cái đầu, là thú cưỡi của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn. Nó có thể há chín cái miệng, ngay cả nhà lão vương và cả bốn thầy trò Đường Tăng đều bị nó nuốt chửng. Cuối cùng vẫn là Tôn Ngộ Không vận dụng thần thông, nhảy thoát khỏi miệng sư tử, thỉnh mời Thiên Tôn tới thu phục Cửu Linh Nguyên Thánh. Một màn kịch ồn ào mới được hạ màn.

Ngọn nguồn của kiếp nạn này bắt đầu từ việc ba huynh đệ Tôn Ngộ Không nhận ba vị hoàng tử làm đồ đệ. Chỉ một niệm sai lầm trong tâm đã dẫn đến sự tập kích của ma bên ngoài. Khi Tôn Ngộ Không lên Thiên cung thăm Thái Ất Chân Nhân, Quảng Mục Thiên Vương, người canh giữ Đông Thiên Môn, đã nói: “Bởi vì muốn làm sư phụ người ta, nên mới dẫn đến ổ sư tử này”. Cũng tức là nói, người tu luyện nếu gặp sự việc phát sinh mà không dĩ Pháp vi Sư, lại tự cao tự đại, khoe khoang, thích làm thầy người khác, thể hiện thần thông, dùng thủ đoạn, coi sự kỳ dị cổ quái là bản lĩnh, thì tâm ma sẽ bộc lộ, nhất định sẽ gặp phải phiền phức lớn. Đây đều là do tâm tính không thuần tịnh, tâm niệm bất thuần gây ra. Cách giải quyết cuối cùng chính là tĩnh tâm xuống, học Pháp nhiều hơn, học Pháp cho tốt, hướng nội tìm, quy chính từng ý từng niệm của bản thân. Đúng như câu: “Đạo không thể xa rời trong chốc lát, nếu có thể xa rời thì không còn là Đạo. Thần binh đều thành hư không, phí công tu luyện vô ích”. Ba vị hoàng tử cũng đã thành tựu võ nghệ cao cường, đồng thời điều này cũng chứng minh rằng Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng đã giác ngộ thành bậc vương giả.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56631

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (6)https://chanhkien.org/2025/03/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-6.htmlThu, 27 Mar 2025 03:50:50 +0000https://chanhkien.org/?p=36914Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Hai mươi sáu) Ngọn núi Hỏa Diệm Sơn rộng tám trăm dặm chắn ngang lại một lần nữa chặn đường thầy trò Đường Tăng trên hành trình đi Tây Thiên thỉnh kinh. Trên con đường tu luyện tuyệt đối không có gì là ngẫu nhiên, đều là hoàn trả nhân […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Hai mươi sáu)

Ngọn núi Hỏa Diệm Sơn rộng tám trăm dặm chắn ngang lại một lần nữa chặn đường thầy trò Đường Tăng trên hành trình đi Tây Thiên thỉnh kinh. Trên con đường tu luyện tuyệt đối không có gì là ngẫu nhiên, đều là hoàn trả nhân quả do tự mình gieo lên. Thần Thổ Địa nói với Tôn Ngộ Không: “Nơi đây vốn không có ngọn núi này, bởi vì năm trăm năm trước, khi Đại Thánh đại náo Thiên Cung, bị Hiển Thánh bắt giữ và giao cho Lão Quân, rồi nhốt Đại Thánh vào lò Bát Quái, khi luyện xong mở nắp lò, bị ngài đá đổ lò luyện đan, làm rơi mấy viên gạch xuống đây, bên trong còn sót lại lửa, đến nơi này hóa thành Hỏa Diệm Sơn. Ta vốn là đạo nhân trông coi lò luyện đan trong cung Đâu Suất, khi đó bị Lão Quân trách phạt do để thất thủ, đày xuống đây làm thổ địa của Hỏa Diệm Sơn”. Khi Tôn Hành Giả lần đầu đến mượn quạt Ba Tiêu của Thiết Phiến Công Chúa, bị bà ta quạt một cái thổi bay xa hơn năm vạn dặm đến núi Tiểu Tu Di, nơi Linh Cát Bồ Tát ở, và được Bồ Tát ban cho viên “Định Phong Đan”. Đây chính là thông qua tham ngộ Pháp lý, khiến tâm tính nội tại của tự thân được quy chính và kiên định; Sau đó, Tôn Ngộ Không dùng trí huệ và thần thông để lấy được quạt Ba Tiêu lần thứ hai, nhưng không may lại bị Ngưu Ma Vương lừa gạt bằng cách giả dạng Trư Bát Giới để lấy lại quạt. Xảy ra điều này vì giữa các sư huynh đệ họ, giữa bản tâm và bản năng còn thiếu sự phối hợp, chỉnh thể có sơ hở, khiến ma quỷ lợi dụng mà tạo thành. Hỗn thế Đại Lực Ngưu Ma Vương chính là tự tính của nhân tâm. Câu nói “Ngưu vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu vương vốn là do tâm khỉ biến hóa thành). Tính tự đại, ngạo mạn của người thường đều có liên quan đến tính khí cứng đầu này. Đây cũng là điều khó khắc phục nhất của bản thân con người. Cả cuộc đời con người thực chất là một cuộc giao tranh và chiến đấu với chính bản thân mình. Chỉ khi con người chiến thắng quá khứ của bản thân, buông bỏ hết thảy chấp trước, mới có thể thực sự vượt qua chính mình, từ đó phát ra ánh sáng của bản tính chân thật trong tâm. Trong giới tu luyện có câu gọi là: “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”, chính là nói về đạo lý này. Sau khi trải qua sự phối hợp giữa Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới, cùng với sự giúp sức của thiên binh thần tướng và các hộ pháp Thần Phật, cuối cùng, con trâu trắng lớn cố chấp cứng đầu ngông cuồng này đã bị khuất phục hoàn toàn, tiếp đó ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn cũng được dập tắt.

“Dẫn trâu về Phật, hết càn quấy,
Nước lửa giao hòa, tính tự bình”.

Nhờ vậy, bốn thầy trò Đường Tăng đạt đến trạng thái nước lửa giao hòa, bản tính thanh mát. Gọi là:

“Khảm ly ký tế, chân nguyên hợp,
Nước lửa quân bình, Đại Đạo thành”.

Từ chương đầu tiên, khi Thạch Hầu xuất thế, cũng tức là thời điểm “Đại Đạo sinh”, cho đến hồi thứ 61, khi tu luyện tâm tính nhờ có nước lửa giao hòa Đại Đạo thành. Có thể nói rằng con đường công thành viên mãn, pháp tính viên minh quy chính quả của thầy trò Đường Tăng đã ở trong tầm tay, việc thỉnh kinh Tây Thiên nhất định sẽ thành.

(Hai mươi bảy)

Thầy trò Đường Tăng lại đến một kinh đô của đế vương nước Tế Trại. Trong nước có một ngôi chùa gọi là Kim Quang Tự. Ba năm trước, do một trận mưa máu đã rơi xuống, sau đó, viên xá lợi tử Phật Bảo trên bảo tháp vàng của chùa bị Vạn Thánh Long Vương ở đầm Bích Ba cùng con rể là Cửu Đầu Phò Mã đánh cắp. Công chúa Vạn Thánh còn trộm cây cỏ Linh Chi Chín Lá của Vương Mẫu Nương Nương và “đặt dưới đáy đầm, khiến nơi đó rực rỡ ánh kim, tỏa sáng cả ngày lẫn đêm”. Quốc vương nước này do mắt thịt thai phàm không thấy rõ chân tướng sự việc, nên đã trách nhầm và khiến các tăng nhân trong chùa chịu oan uổng. Đã có hai thế hệ tăng chúng chết oan, thế hệ thứ ba vẫn tiếp tục chịu bức hại, dù có miệng cũng không thể biện minh, cũng không có nơi nào để tố cáo. May mắn thay, thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh ngang qua, ngày oan tình được giải sẽ không còn xa nữa. Trong suốt hành trình, bốn thầy trò Đường Tăng trải qua trùng trùng quan nạn, gặp vô số khó khăn, không chỉ chiến thắng và loại trừ tâm ma trong nội tâm mình, mà còn chiến đấu với yêu ma quỷ quái bên ngoài. Đồng thời, bất cứ nơi nào họ đi qua, từ vương quốc, thành trì cho đến hoàn cảnh vùng sông núi đều là một lần quét sạch và quy chính hết thảy. Kỳ thực, đây cũng là một tầng hàm ý kép mà tác phẩm “Tây Du Ký” muốn truyền tải.

Việc Đường Tăng và Tôn Ngộ Không quét tháp vào ban đêm kỳ thực đó là quá trình tẩy rửa bụi bẩn trong tâm. Đường Tăng tự mình quét dọn mười tầng tháp bên dưới, còn ba tầng trên cùng để cho Ngộ Không quét, giúp bản tâm này trở nên thuần tịnh hơn. Đồng thời, cũng bắt được hai yêu quái và hỏi rõ sự tình. Điều này cũng cho thấy quá trình tu luyện phản bổn quy chân, quay về gia viên thiên quốc vốn có của bản thân, cần phải vượt qua từng cửa ải, từng tầng trời, đạt đến tiêu chuẩn của Pháp trong vũ trụ, tức là từng bước từng bước tu luyện lên trên. Việc Long Vương ở đầm Bích Ba đánh cắp xá lợi tử, gây ra tai họa huyết quang trong nhân gian, cũng là biểu hiện cho sự biến dị của sinh mệnh từ bản nguyên, sự bạo ngược sinh ra từ nhân tâm, cũng là thể hiện nguyên nhân và hậu quả của thời mạt Pháp không còn linh nữa. Cửu Đầu Phò Mã vốn là một con cửu đầu trùng, có chín cái đầu với chín cái miệng để nói. Còn bảo tháp hoàng kim vốn là tháp trí huệ, cho thấy thầy trò Đường Tăng nhờ tu luyện mà khai mở tâm trí, đạt đến đại trí đại huệ. Nhưng do tà ma quấy nhiễu, khó tránh khỏi sinh ra loại tâm ma như cửu đầu trùng, khiến trí huệ tràn đầy chướng khí. Vì vậy, trong hồi thứ 63 của truyện, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới với sự kết hợp giữa tâm và trí đã đồng tâm hiệp lực chiến đấu hết mình, cuối cùng tiêu diệt hết Long Vương cùng với những tà ác, trả lại xá lợi tử Phật Bảo về với chủ cũ, giúp nước Tế Trại khôi phục ánh quang như xưa, cũng khiến bản thân Đường Tăng và các đồ đệ một lần nữa tỏa sáng ánh sáng tự tính của chính mình. Từ đó, chùa Kim Quang cũng được đổi tên thành chùa Phục Long. Hơn nữa hành vi trộm cắp Phật Bảo của Long Vương và Cửu Đầu Trùng kỳ thực cũng nhấn mạnh một hiện tượng rất không tốt trong giới tu luyện, đó là trộm lấy những thứ tốt do người khác tu luyện xuất lai, chiếm làm của riêng. Kỳ thực công luyện xuất ra đều có hình tượng của bản thân, người khác căn bản không thể lấy trộm được. Công phu loại trộm khí, thu khí này, sử dụng những thủ đoạn khôn vặt để muốn đi đường tắt là điều tuyệt đối không thể chấp nhận, điều này chỉ có thể dẫn đến kết cục thân bại danh liệt. Đây là một điều đại kỵ trong tu luyện. Đây cũng chính là huyền cơ ẩn chứa trên hành trình thỉnh kinh và tu luyện khi bốn thầy trò Đường Tăng phải đi qua nước Tế Trại. Thật đúng là:

Tà quái trừ sạch, vạn cảnh tịnh,
Bảo tháp sáng ngời, đất trời minh.

(Hai mươi tám)

Thầy trò Đường Tăng đi qua rừng gai dài tám trăm dặm. Có câu thơ rằng: “Làm người ai chẳng gặp chông gai, Nào thấy Tây phương gai mọc dài!” Có thể thấy, đây cũng là con đường mà người tu luyện nhất định phải qua. Đột nhiên có một ông lão tự xưng là “Thổ Địa” tên Thập Bát Công, dẫn theo quỷ sai thân trần, tạo một trận gió cuốn Đường trưởng lão vào am Mộc Tiên. Lại cùng ba ông già Cô Trực Công, Lăng Không Tử, Phất Vân Tẩu bàn luận huyền lý, ngâm nga thơ đối. Đến canh khuya, lại có một cô gái tự xưng là Hạnh Tiên xuất hiện, vừa cùng làm thơ lại thể hiện ra dáng vẻ yêu kiều, mong muốn cùng Đường Tăng tư tình. Nhưng tâm Đường Tăng như vàng đá, kiên quyết không thuận theo, khiến bốn ông già cùng quỷ sai lúng túng. Nhờ sự tìm kiếm gian khổ và ứng cứu kịp thời của huynh đệ Tôn Ngộ Không, trong ngoài phối hợp, cuối cùng Đường Tăng thoát khỏi vòng tay của ma, lại được thấy ánh Mặt Trời. Hỡi ôi, ma đưa lối quỷ dẫn đường, đây cũng là một loại an bài, nhưng tuyệt đối không phải ngẫu nhiên. Thì ra những người nam nữ trong am Mộc Tiên đều là các loại cây cối ngàn năm gần vách đá tu thành tinh, đang ở đây hại người. Trư Bát Giới vung cào chín răng, cắt đứt tận gốc. Điều này cũng nhắc nhở người tu luyện phải làm được bất sát bất dưỡng. Bởi động vật hay thực vật một khi thành tinh, sẽ gây hại một phương. Cũng chính vì vậy, khi Đường Tăng bàn luận ngộ thiền cơ đã nói rằng: “Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, Chính Pháp khó gặp; Được ba điều này, May mắn lắm thay”. Đây là một danh ngôn chí lý. Ở nơi đây, Đường Tăng đàm đạo về thiền, luận về Đạo, sáng tác thơ ca chính là kết tinh và tổng kết trí huệ trong tu luyện Phật Pháp của ông, tiêu chuẩn và sự thể hiện của quả vị Phật đã chứng đắc. Tuy nhiên, tu luyện không thể chỉ giữ mình thanh cao, tự cho mình là cao quý, hay tâm lý truy cầu an dật. Nếu không, người tu luyện sẽ tự bó buộc bản thân, ngừng tiến về phía trước, thậm chí tiêu trầm ý chí. Có câu rằng: “Tiểu ẩn ẩn nơi núi rừng, Đại ẩn ẩn nơi thành thị”. Thầy trò Đường Tăng trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, lĩnh hội Đại Thừa Phật Pháp, mục đích cuối cùng là tế thế cứu người, phổ độ chúng sinh.

Khi thầy trò Đường Tăng đến Tiểu Lôi Âm Tự ở Tiểu Tây Thiên, ba người Đường Tăng cúi đầu vái lạy, nhưng Tôn Ngộ Không với đôi mắt hỏa nhãn kim tinh đã nhìn rõ ràng, công nhiên không bái. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều bị yêu quái Hoàng Mi tu thành tinh làm Phật giả bắt giữ. Tôn Ngộ Không cũng bị nhốt trong chiếc Kim Nao (chuông vàng). May nhờ có Ứng Kim Long, một trong Nhị Thập Bát Tú, vất vả gian khổ mới cứu được Ngộ Không ra ngoài. Tôn Hành Giả sau đó lần lượt thỉnh mời Nhị Thập Bát Tú, năm vị Long Thần dưới trướng Đãng Ma Thiên Tôn, hai tướng Quy và Xà, cùng với đồ đệ của Đại Thánh Quốc Sư Vương Bồ Tát là Tiểu Trương Thái Tử và bốn vị đại thần tướng tới trợ giúp. Nhưng tất cả đều bị bảo bối “Túi Hậu Thiên” của Hoàng Mi quái bắt gọn, trở thành tù binh. Khi Tôn Ngộ Không kêu trời không thấu, gọi đất không hay, đường cùng bế tắc, thì đúng lúc ấy, Đông Lai Phật Tổ Di Lặc “Tôn quý nhất trong cõi Cực Lạc, Nam Thiên Di Lặc tiếu hòa thượng” đã xuất hiện kịp thời trước mặt Ngộ Không. Thật là Phật ân hạo đãng, Tôn Hành Giả tuyệt cảnh trùng sinh. Thì ra, Hoàng Mi quái vốn là một tiểu đồng lông mày vàng giữ khánh bên cạnh Phật Di Lặc Tổ, nó đã đánh cắp vài món bảo bối, giả Phật thành tinh, xuống hạ giới giả danh Phật Như Lai để lừa gạt chúng sinh. Nhưng cũng bởi vì thầy trò Đường Tăng ma nạn chưa dứt, “nên bách linh mới hạ giới, số kiếp phải chịu nạn”.

Ở đây, hồi thứ sáu mươi sáu này là một chương quan trọng nhất trong cả bộ truyện. Đầu tiên là sự xuất hiện huyền bí của Phật Di Lặc. Mà Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói, đến thời mạt pháp mạt kiếp, Phật Di Lặc sẽ hạ thế Chính Pháp độ nhân. Dù trong sách không viết nhiều, nhưng lại là tín tức được tiết lộ, đối với đại kịch lịch sử của nhân loại mà nói, xác thực có ý nghĩa sâu xa và ảnh hưởng cực lớn không thể đo lường. Điều này cũng tạo tiền đề và tuyên truyền rộng rãi để nhà nhà đều biết đến lần xuất thế cuối cùng của Phật Di Lặc vào ngày mạt hậu của thế giới. Hơn nữa, sự xuất hiện của Tiểu Lôi Âm Tự và Như Lai giả cũng đang ám chỉ một giả tượng chân thực, đó là vạn ma xuất thế can nhiễu Chính Pháp và can nhiễu việc tu luyện chính thường của người tu luyện. Mà sức phá hoại của những tà ma này là nghiêm trọng nhất, chúng khoác áo cà sa, trà trộn vào chùa chiền để gây họa, sẽ khiến rất nhiều người vô tri bị lừa gạt, trở thành nạn nhân. Cuối cùng, Phật Di Lặc đã chỉ dạy Ngộ Không biến thành một quả dưa hấu chín mọng, chờ cho Hoàng Mi quái ăn vào, Tôn Ngộ Không chui vào trong bụng yêu quái và đánh bại nó. Vì để dẫn dụ Hoàng Mi quái đến, Phật Di Lặc còn viết một chữ “禁” (cấm) lên lòng bàn tay Ngộ Không, ngụ ý rằng bản tâm này đã thành thục tâm tính, viên dung tự minh, kết thành một quả Phật vĩ đại. Nếu phân tích giải thích sâu hơn, chữ “禁” (cấm) có nghĩa là “chặn lại”, giống như cấm quả. Điều này lại có liên hệ với Như Lai giả Hoàng Mi quái này, đối lập trên bề mặt. Do vậy ý nghĩa cũng rất minh xác, tức là những người tu luyện chân chính cần phải sáng suốt, dùng huệ nhãn để phân biệt chân giả, tránh bị mê hoặc. Bởi vì một khi đã ăn phải quả cấm, sẽ hối hận không kịp, hậu quả khôn lường.

(Hai mươi chín)

Thầy trò Đường Tăng lại đến Đà La Trang và tá túc tại nhà ông lão họ Lý. Ông lão họ Lý kể cho họ rằng ba năm rưỡi trước, trong vùng xuất hiện một con yêu quái thường xuyên đến quấy nhiễu, khiến dân làng vô cùng sợ hãi. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới ra tay trừ yêu, tiêu diệt con yêu tinh vốn là một con mãng xà vảy đỏ, trừ họa cho người dân. Đây cũng là biểu hiện công quả tu luyện của thầy trò Đường Tăng, tức là đã bắt đầu có năng lực độc lập trừ yêu diệt mà, phổ độ chúng sinh rồi. Mà con mãng xà lớn vảy đỏ này cũng có tác dụng ẩn dụ của nó. Bên ngoài Đà La Trang, trên con đường dẫn đến Tây Thiên, có một đường hẻm dài tám trăm dặm, được gọi là Khê Thị Hồ Đồng, con đường này bùn lầy ngập ngụa, hôi thối nồng nặc, không ai có thể đi qua. Kỳ thực điều này cũng ám chỉ hoàn cảnh hiện thực dơ bẩn mà nhân loại ngu xuẩn đang gặp phải, tư tưởng, tâm linh và cảnh giới của người tu luyện nhất định phải chỉnh thể thăng hoa, giống như hoa sen ở trong bùn nhưng không bị ô nhiễm mới được. Trư Bát Giới thi triển thần thông biến hóa, dùng sức mạnh và năng lực mở ra một con đường sạch sẽ thông đến Tây Thiên, đây chính là tiêu chí và biểu hiện thành thục toàn diện về tâm trí của một người tu luyện. Cũng bởi vậy, “thoát khỏi ô trọc, đạo tâm thanh”, “bình an vô trở bái liên đài”, cũng tức là chỉ ngày đó không còn xa nữa.

Khi thầy trò họ đặt chân đến đô thành của đế vương nước Chu Tử Quốc, đúng lúc nhà vua đang mang trọng bệnh. Ông cho dán bảng chiêu mộ thần y để tìm người chữa bệnh. Tôn Ngộ Không đã giật hoàng bảng còn bị Đường Tăng hoài nghi một phen, bởi vì đây là lần đầu tiên anh ta ra tay chữa bệnh cứu người. Quả nhiên không phụ kỳ vọng, Ngộ Không bắt mạch qua sợi tơ, chẩn đoán chính xác nhà vua mắc chứng “Song điểu thất quần” (Hai chim lạc đàn) do kinh hãi và u sầu, lại chế ba viên Ô Kim Đan, bảo nhà vua uống với Vô Căn Thủy (nước mưa). Quả nhiên, sau khi đi đại tiện, dạ dày được làm sạch, lại nôn ra cục cơm nếp tích tụ lâu ngày trong bụng, cơ thể nhà vua lập tức hồi phục khỏe mạnh, tinh thần cũng trở lại như xưa. Sau đó, nhà vua kể lại rằng ba năm trước, có một con yêu quái đã bắt cóc hoàng hậu Kim Thánh của ông đi, khiến ông quá đau buồn mà sinh bệnh. Thế là Tôn Ngộ Không tự mình xung phong tìm đến hang Kỳ Lân Giải Trĩ, nơi yêu quái trú ngụ, dùng mưu trí và kế sách trộm được được ba chiếc Tử Kim Linh (chuông vàng tím), vốn có thể phun ba thứ khói, lửa và cát, khiến yêu quái mất đi vũ khí lợi hại. Khi yêu quái sắp mất mạng, Quan Âm Bồ Tát xuất hiện tại nơi họ đang giao đấu. Thì ra con yêu quái này vốn là Kim Mao Thú, thú cưỡi của Quan Âm. Năm xưa, khi Chu Tử Quốc vương còn là thái tử, ông từng đi săn và bắn bị thương một đôi khổng tước trống mái. Mà đôi công ấy chính là con của Phật Mẫu Khổng Tước Đại Minh Vương Bồ Tát, nên mới có tai kiếp này. Con Kim Mao Thú này thấy vậy, tự mình hạ giới, “Do vậy nó đến bắt hoàng hậu, giúp vua tiêu nghiệp. Đến giờ là ba năm, oan nghiệt đã mãn, may có ngươi đến trị bệnh cho vua. Ta đến để thu phục yêu quái”. Quan Âm nói với Tôn Ngộ Không xong, sau đó cưỡi Kim Mao Thú quay về Nam Hải Phổ Đà Sơn.

Điều đầu tiên cần chú ý rằng, đây là lần đầu tiên Tôn Ngộ Không hành y thuật, điều này chứng tỏ rằng nhờ tu luyện Phật Pháp nên đã khai mở cho anh ta trí huệ về phương diện này, có thể tùy ý sử dụng. Tuy nhiên, đối với Chu Tử Quốc vương mà nói, chữa bệnh chỉ là trị phần ngọn, quan trọng hơn là trị tâm, chữa tận gốc. Do đó nói, Đại Đạo tu luyện chính là trực chỉ nhân tâm, mà công việc của Thần Phật cũng là chữa lành tâm linh, phổ độ chúng sinh. Về nguyên nhân nhà vua mắc bệnh và để mất hoàng hậu Kim Thánh, thì đây không phải là tai họa vô cớ, đều bởi vì khi ông ta còn trẻ, đã săn bắn sát sinh mà tạo thành. Với người tu luyện, những thói quen xấu và chấp trước này cần phải loại bỏ, để tránh tiếp tục tạo nghiệp mà chịu quả báo. Phân tích ý nghĩa tượng trưng, Chu Tử Quốc là một đế vương, còn bánh chưng (粽子) mà nhà vua ăn vào tượng trưng cho “chính tông”. Ý là khi một người tu luyện công thành viên mãn, họ sẽ trở thành Pháp Vương của thế giới thuộc về mình. Nhưng cũng có những người trong quá trình tu luyện lại chấp trước, sợ mất, sợ được, giống như nhà vua mắc chứng u sầu, nghi hoặc, đồng thời đánh mất cả hoàng hậu lẫn vinh quang, thật đáng tiếc. Kỳ thực trong giới tu luyện có một câu gọi là phó xuất bao nhiêu, đắc được bấy nhiêu. Không cần lo lắng rằng mình đã làm rồi, tu luyện rồi mà không đắc được kết quả. Chỉ cần phó xuất, nỗ lực, tinh tấn, tu luyện cuối cùng sẽ được kết quả xứng đáng. Đó gọi là:

“Có duyên gột sạch ưu nghi bệnh,
Tuyệt niệm vô tư tâm tự minh”.

Cuối cùng, lại nói về việc Quan Âm Bồ Tát lấy lại ba chiếc Tử Kim Linh buộc lên cổ Kim Mao Thú. Đây chính là: “Ai buộc chuông vào cổ con hống? Tháo chuông vẫn phải do người buộc”. Điều này ngụ ý rằng hết thảy khởi đầu và kết thúc của toàn bộ vở đại kịch lịch sử nhân loại, đều nằm trong tay Phật Chủ của vũ trụ. Vẫn là câu nói đó: sự xuất hiện huyền bí của Phật Di Lặc trong hồi thứ 66 của tác phẩm chính là khởi đầu và triển hiện thực sự cho sự quy nhất của vạn Pháp và đại cục cuối cùng.

(Ba mươi)

Thầy trò Đường Tăng lại đến động Bàn Tơ ở núi Bàn Tơ, trong động có bảy yêu tinh nữ. Một số đang thêu thùa may vá, một số đang chơi đá cầu. Khi Đường Tăng vào động xin cơm, những con yêu tinh này đem ra thức ăn có nhân thịt người cho Đường trưởng lão, bị Đường Tăng nhận ra và kiên quyết không ăn. Sau đó, bảy yêu tinh nữ này đến suối Trạc Cấu để tắm rửa, dự định sau khi tắm xong sẽ về động hấp thịt Đường Tăng để ăn. Quả là dùng hết tâm cơ. Tôn Ngộ Không đã nghe ngóng được đầu đuôi sự việc, Trư Bát Giới xung phong đến suối tiêu diệt yêu nữ. Nhưng khi vừa thấy yêu nữ trong nước, Trư Bát Giới liền đắc ý quên hết mọi chuyện, hóa thành cá trê tinh, bơi vào suối mà đùa giỡn với chúng. Đến khi tinh thần mệt mỏi, kiệt sức vì vui chơi, mới nhớ đến việc giết yêu tinh. Chỉ tiếc rằng lúc này lại bị những con yêu tinh đó nhả nghìn vạn tơ nhện trói chặt tay chân, khiến không thể động đậy. Bọn yêu tinh vội vã thoát thân, bỏ chạy về động, để lại bảy con côn trùng liều mạng chống cự, còn chúng thì chạy trốn đến nơi ở của sư huynh. Nhưng bảy con côn trùng đã bị Tôn Ngộ Không biến thành bảy con diều hâu ăn sạch không còn một mống. Sau khi cứu được Đường Tăng, Trư Bát Giới liền dùng một ngọn lửa đốt cháy động yêu tinh hại người, chặt đứt cội nguồn tình ái.

Bảy yêu nữ tinh chính là hóa thân của “thất tình” trong “thất tình lục dục” của con người. Người trong cõi mê của thế gian chính là đang đắm chìm trong biển tình, giống như tơ nhện mà bọn yêu tinh nhả ra, vạn sợi quấn thân, khó mà thoát ra được. Ba yêu nữ đá cầu và hành động của Đường Tăng khi đi xin ăn cho thấy rằng nếu người tu luyện có tâm hữu cầu, thì vô hình trung sẽ bị vô số sợi tình quấn chặt, không thể tự thoát ra. Tôn Ngộ Không là bản tâm, vốn đã có huệ nhãn nhận ra yêu ma, nhưng lại tìm lý do, không lập tức hành động tiêu diệt, khiến cho Trư Bát Giới là bản năng cũng có chút mê muội hồ đồ. Đến khi Bát Giới tỉnh ngộ, muốn ra tay, thì lũ yêu nữ đã kịp lấy lại tinh thần, không chỉ phản kích lại Trư Bát Giới một hồi, mà còn để chúng trốn thoát, lưu lại hậu họa. Đây chính là một bài học sâu sắc, may mà vẫn còn kịp sửa sai nên vẫn chưa muộn, nhưng sau này nhất định không được tái phạm.

Thầy trò Đường Tăng tiếp tục lên đường và đến một đạo quán có tên Hoàng Hoa Quán. Đạo sỹ trong quán thực ra chính là Đa Nhãn quái, một con yêu tinh rết hóa thành. Hắn mời bốn thầy trò vào đại sảnh trò chuyện. Lúc này, trong căn phòng phía sau, bảy yêu nữ nhện nghe thấy âm thanh liền gọi Đạo sỹ vào. Chúng kể về mối thù cũ khi bị Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới truy sát, khiến Bách Nhãn Ma Quân dấy lên lòng thù hận, độc tính phát tác. Ngay lập tức, hắn ra lệnh cho tiểu đồng pha trà táo đỏ và bỏ thuốc độc vào, rồi bưng đến mời bốn thầy trò. Ba người Đường Tăng, Trư Bát Giới và Sa Tăng không hề hay biết, uống xong liền sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự. Chỉ có Tôn Ngộ Không nhìn thấu âm mưu ngụy kế, nên không uống, sau đó giao chiến với Đa Nhãn quái và bảy nữ yêu tinh nhện, cuối cùng tiêu diệt sạch bảy yêu tinh nữ. Sau đó, Tôn Hành Giả được Lê Sơn Lão Mẫu chỉ điểm, mời Tỳ Lam Bà Bồ Tát ở Thiên Hoa Động, núi Tử Vân đến giúp. Bồ Tát dùng một cây kim thần phá giải phép thuật kim quang của Đa Nhãn quái, lại ban ba viên giải độc đan, bảo Tôn Ngộ Không cho ba người uống, giải cứu được tính mạng của ba người. Đồng thời, cũng thu phục con yêu tinh rết hại người không ít này.

Đa Nhãn quái là con yêu tinh rết, kỳ thực chính là hóa thân của lòng thù hận. Yêu hận tình thù, vì yêu không thành, ngược lại sân hận phẫn nộ; Bởi yêu mà sinh hận, bi hài kịch ở nhân gian phần nhiều là như vậy. Loại độc dược này, suốt mấy nghìn năm qua không biết đã hủy hoại bao nhiêu nữ nhân si tình và nam nhân phong lưu. Người tu luyện nhất định phải kịp thời đoạn tuyệt, không lưu lại nghiệt căn “phá mở lưới dục, nhảy ra khỏi nhà lao tình”. Nếu không, tình và dục là chị em song sinh, sẽ can nhiễu một đời, không bao giờ ngưng nghỉ. Như câu thơ:

“Tình dục nguyên nhân vốn giống nhau,
Có tình có dục là tự nhiên.
Sa môn tu luyện đều như vậy,
Đoạn dục vong tình tức là Thiền.
Ý phải vững, lòng phải kiên,
Nhất trần bất nhiễm nguyệt đang thiên.
Tu hành tinh tấn không lầm lạc,
Viên mãn công thành Đại Giác Tiên”.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56630

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (5)https://chanhkien.org/2025/03/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-5.htmlWed, 19 Mar 2025 04:46:59 +0000https://chanhkien.org/?p=36841Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Hai mươi mốt) Yêu quái ở sông Hắc Thủy là một con tiểu đà long, cháu của Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, đứng hàng thứ chín. Cha của nó chính là cựu Long Vương của sông Kinh Hà, từng bị Ngụy Trưng chém đầu và từng cầu cứu trong […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Hai mươi mốt)

Yêu quái ở sông Hắc Thủy là một con tiểu đà long, cháu của Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, đứng hàng thứ chín. Cha của nó chính là cựu Long Vương của sông Kinh Hà, từng bị Ngụy Trưng chém đầu và từng cầu cứu trong mộng nhưng không thành. Cũng vì nguyên do này, Ngao Thuận ban đầu có ý định để tiểu đà long tu chân dưỡng tính ở sông Hắc Thủy, chờ sau này thành danh sẽ có chỗ dùng. Nhưng do bản tính ương bướng không đổi, nó đã chiếm cứ phủ của Thần sông Hắc Thủy, lại còn bắt giữ Đường Tăng và Bát Giới, muốn ăn thịt Đường Tăng. Về sau, Tôn Ngộ Không tìm đến Tây Hải Long Vương, Long Vương phái thái tử đến hàng phục người em họ này, cũng coi như hành động vì đại nghĩa diệt thân, trừ hại cho dân. Nếu phân tích theo ý nghĩa tượng trưng, sông Hắc Thủy và đại dương Tây Hải đều là thể hiện của nguồn gốc sinh mệnh. Nhưng sông Hắc Thủy lại mang ý nghĩa bản chất con người đã bị biến dị từ căn bản, tâm đã bị biến thành hắc tâm. Yêu quái Hắc Hà vì mê mất bản tính, mới làm ra những việc can nhiễu tu luyện. May mắn thay, sinh mệnh của nó được Thái tử Tây Hải, người có cùng chung huyết thống thức tỉnh, nhờ đó mới thoát khỏi kiếp nạn này. Đồng thời, Đường Tăng và Bát Giới cũng nhờ vậy mà được giải thoát lần nữa, tâm tính trở nên thuần tịnh, nội tâm trong sáng, thân thể nhẹ tựa yến bay. Dưới sự trợ giúp của Thần sông Hắc Thủy, họ dễ dàng vượt qua con sông này như đi trên đất bằng, lại vượt thêm một cửa ải khó khăn nữa.

Khi thầy trò Đường Tăng đến bên ngoài thành Xa Trì Quốc, Tôn Ngộ Không nhìn thấy năm trăm hòa thượng đang đi trên một con đường hẹp giữa hai quan ải lớn, không ngừng vận chuyển những chiếc xe đầy đất đá và gỗ. Ngộ Không bèn đánh chết hai yêu đạo đi tuần tra, “Lão Tôn một mình kéo xe qua hai ải, vượt qua chỗ hẹp, rồi đập nát xe”, đồng thời phóng thích cho năm trăm hòa thượng kia. Đoạn mô tả này thực chất là một phép ẩn dụ cho quá trình “hà xa vận chuyển” trong tu luyện, tức là khai thông một mạch để dẫn dắt trăm mạch, khiến cơ thể đạt đến trạng thái không mạch không huyệt, thân thể đạt đến trạng thái tịnh bạch thể. Hồi này cũng ngụ ý rằng thầy trò Đường Tăng đã vượt qua cửa ải này, chuẩn bị bước vào giai đoạn tu luyện xuất thế gian pháp rồi, tức là tu luyện Phật thể. Lại nói về năm trăm hòa thượng, ban đầu vốn có hơn hai nghìn người. Nhưng vì không thể chịu đựng sự hành hạ nên sáu, bảy trăm người đã chết; bảy, tám trăm người khác tự sát, chỉ còn lại năm trăm người may mắn sống sót, được Thần hộ pháp bảo hộ, để họ chờ đợi Tôn Đại Thánh đến cứu giúp thoát khỏi bức hại khổ nạn. Điều này cũng chứng minh rằng, những người tu luyện chân chính, có căn cơ, sẽ luôn được Thần Phật bảo hộ.

Khi thầy trò Đường Tăng một lần nữa đến Xa Trì Quốc, họ vào yết kiến quốc vương, làm thủ tục thông văn điệp để được rời thành tiếp tục lên đường. Không ngờ, ba yêu quái Hổ Lực Đại Tiên, Lộc Lực Đại Tiên và Dương Lực Đại Tiên đã giả dạng Đạo sỹ, cố tình ép Tôn Ngộ Không phải tỉ thí với chúng. Trong đó có các cuộc đấu phép gồm cầu mưa, cầu Thần hiện trên mây, đoán vật sau vách, biến thành người sống, thậm chí có cả trò “chặt đầu xuống rồi gắn lại; mổ bụng moi tim vẫn lành lặn; ngâm mình trong chảo dầu mà như tắm rửa”. Chỉ là những tiểu năng tiểu thuật, bàng môn tà đạo. Tôn Đại Thánh ứng đối ung dung, thi triển thần thông như ý, vận dụng công năng, phá giải yêu thuật một cách dễ dàng. Mà việc ba huynh đệ Tôn Ngộ Không đến Tam Thanh Quán, xô đổ tượng, biến hóa trêu chọc ba tên yêu đạo. Ý nghĩa của việc này là để nói rõ rằng, nếu những tượng Thần Phật bị yêu tinh quỷ quái bất chính loạn bái, khiến tà ma phụ thể, thì linh quang không có, gây hại một phương, khiến độc khí lan tràn. Vì vậy, Tôn Ngộ Không mới khuyên bảo quốc vương: “Mong bệ hạ… cũng kính Tăng, cũng kính Đạo, cũng dưỡng dục nhân tài. Ta sẽ bảo hộ giang sơn bệ hạ mãi mãi trường tồn”. Đối với người tu luyện mà nói, bài thơ ở cuối hồi thứ 46 càng thể hiện rõ duyên cớ này:

“Thân người khó được, quả nhiên khó,
Không gặp chân truyền chớ luyện đan.
Uổng công dùng nước phép bùa chú,
Lại không thuốc thọ giữ thân an.
Chưa tỏ viên minh, sao đắc Đạo?
Dụng tâm vô ích, mệnh chẳng toàn.
Nếu sớm hiểu ra mà buông bỏ,
Chi bằng ẩn núi sống bình an”.

(Hai mươi hai)

Khi đến sông Thông Thiên và tới Trần Gia Trang, thầy trò Đường Tăng đã đi được năm vạn bốn ngàn dặm, trải qua bảy, tám năm, đúng nửa chặng đường thỉnh kinh. Nước sông Thông Thiên rộng lớn, “rộng tám trăm dặm, từ xưa rất ít người dám qua lại”. Một con cá vàng thành tinh làm yêu quái đã chiếm đoạt phủ đệ của lão bạch quy, tác oai tác quái tại nơi này. Nó còn lập miếu thờ “Linh Cảm Đại Vương” và bắt ép dân làng mỗi năm phải hiến tế đồng nam đồng nữ để nó ăn thịt. Hai anh em ông lão Trần Trừng và Trần Thanh, chủ nhà nơi thầy trò Đường Tăng tá túc, đúng năm nay phải dâng hai đứa con của mình để làm vật tế. Trong bộ truyện này, Đường Tăng gặp rất nhiều yêu tinh ma quái đa phần đều muốn ăn thịt ông, con cá vàng tinh này cũng không ngoại lệ. Khi nó chuẩn bị ăn thịt đồng nam đồng nữ do Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hóa thành, thì bị Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đánh cho phải quay trở về sông. Nó lại nghĩ ra một kế, bèn làm phép khiến sông Thông Thiên nổi gió lạnh, tuyết rơi dày, đóng thành băng, hòng khiến Đường Tăng nóng lòng qua sông mà đi lên mặt sông rơi vào bẫy. Hai ông lão họ Trần hết lời khuyên giữ ở lại, mượn cớ là thưởng thức cảnh vật tự nhiên yên tĩnh ở nơi đây, ngụ ý để nhắc nhở và điểm hóa thầy trò họ chớ lo lắng hấp tấp, không nên nóng vội. Nhưng Đường Tăng tâm tính cố chấp không nghe lời khuyên, khăng khăng tự mình vượt sông, kết quả mắc bẫy, bị cá vàng tinh bắt nhốt vào chiếc hộp đá, khiến sinh mệnh gần kề cái chết. Ngay khi nước sông Thông Thiên vừa đóng băng để người có thể đi qua, có thể thấy trên mặt băng có không ít người qua lại. Đường Tăng thắc mắc, liền hỏi, lão Trần đáp: “Bờ bên kia là Tây Lương Nữ Quốc. Những người qua lại này đều là thương nhân buôn bán. Hàng hóa ở bờ bên này chỉ đáng giá trăm đồng, nhưng sang bên kia lại có giá vạn đồng; bên kia giá trăm đồng, sang bên này lại đáng giá vạn đồng. Lợi nhuận quá lớn, nên họ bất chấp nguy hiểm mà liều mình vượt sông. Mỗi năm, có gia đình đi thuyền năm sáu người, thậm chí mười mấy người một thuyền mà qua sông. Nay thấy sông đóng băng, họ càng không ngại nguy hiểm mà đi bộ qua”. Đường Tăng thở dài: “Chuyện thế gian, duy có danh và lợi là quan trọng nhất. Họ vì lợi mà quên sống chết, còn ta vâng mệnh thiên tử lấy kinh để tận trung, cũng chỉ vì danh tiếng. Há chẳng khác họ là bao!” Danh và lợi mà con người thế gian chấp trước, là tử quan của người tu luyện, ai cũng phải vượt qua. Giống như trận bão tuyết giá rét mà Đường Tăng gặp phải lần này, cũng phải trải qua một khảo nghiệm nghiêm khắc. Nhưng không thể nóng vội, cần chậm mà chắc. Tâm tính thực sự có thể tĩnh xuống, trầm ổn, như tên của hai ông lão: Trừng Thanh (“澄 – trừng”: có nghĩa là trong, trong vắt; “清 – thanh” có nghĩa trong suốt, tĩnh lặng), tức là trạng thái tâm lý và cảnh giới chân thực mà người tu hành cần đạt đến. Kỳ thực, “Thông Thiên Hà” có nghĩa là con sông có thể thông lên trời, phản bổn quy chân, quay trở về tầng thứ tồn tại tiên thiên của mình. Điều này chứng tỏ công trụ mà thầy trò Đường Tăng tu luyện đã đột phá Tam Giới. Mà cây chùy đồng chín cánh trong tay cá vàng tinh thực chất là một đóa sen chưa nở, ngụ ý rằng họ đã đạt đến cảnh giới “tam hoa tụ đỉnh”, cảnh giới tu luyện có một bước nhảy vọt và đề cao về bản chất. Lần này, vẫn là Tôn Ngộ Không tìm đến Quan Âm Bồ Tát, dùng giỏ cá thu phục cá vàng tinh. Điều đó một lần nữa khẳng định: trên con đường tu luyện, tín Sư tín Pháp là điều vô cùng quan trọng.

(Hai mươi ba)

Sau khi vượt qua sông Thông Thiên, bốn thầy trò Đường Tăng đã đi được một nửa chặng đường sang Tây Thiên thỉnh kinh. Nhưng càng về sau, họ càng không thể lơ là, càng về cuối càng phải tinh tấn. Trước khi đi hóa duyên, Tôn Ngộ Không đã dùng gậy Như Ý vẽ một vòng tròn xung quanh Đường Tăng, Bạch Long Mã và hành lý, tạo thành một kết giới kiên cố như bức tường đồng, không cho yêu quái hay thú dữ xâm phạm. Tôn Ngộ Không còn dặn đi dặn lại Đường Tăng, thế nhưng, vì bị Trư Bát Giới xúi giục, Đường Tăng cuối cùng vẫn bước ra khỏi vòng bảo hộ, vô tình rơi vào bẫy của yêu quái. Ngay cả Sa Tăng cũng bị bắt cùng. Qua đây có thể thấy, thần thông như ý của Tôn Ngộ Không đã tiến bộ vượt bậc, vẽ một cái vòng ở đất, ngay cả trong tình huống anh ta không có ở đó, anh ta hoàn toàn có thể bảo vệ cả đoàn. Nhưng chính vì Trư Bát Giới làm liên lụy Đường Tăng, khiến ông bán tín bán nghi hoặc có sự nghi ngờ, nên đã khiến con đường tu luyện của họ trở nên khó khăn hơn. Hết thảy điều này đều là do tâm niệm bất hảo của bản thân tạo thành. Khi rời khỏi vòng bảo hộ của Tôn Ngộ Không, nhóm người Đường Tăng đến một tòa lầu do yêu quái biến hóa. Trư Bát Giới tiến vào trong lấy ra ba chiếc áo yếm gấm. Lúc này, đầu óc Đường Tăng lại rất thanh tỉnh, niệm rất chính, liền quát: “Không được! Không được! Luật dạy rằng: Dù lấy công khai hay lấy trộm, đều là trộm cắp”. Ông yêu cầu Trư Bát Giới không được tham những thứ nhỏ, phải lập tức trả lại cho người ta. Lúc này, dù biết việc mình làm là không đúng, nhưng tâm cố chấp nổi lên, Trư Bát Giới vẫn cưỡng từ đoạt lý, cãi rằng: “Mặc thử thôi mà, sưởi ấm cái lưng một chút. Chờ sư huynh về, ta sẽ cởi trả rồi đi tiếp”. Chính vì tham lam những thứ vặt mà sinh ra mê muội, nên Sa Tăng cũng loạn tính, cũng thử mặc một chiếc. Hành động này đã dẫn đến tai họa: yêu quái ở động Kim Đâu, Độc Giác Tỷ Đại Vương xuất hiện, bắt cả ba người đem đi.

Không còn cách nào khác, Tôn Ngộ Không đành phải giao đấu với yêu quái một trận nữa. Chỉ là chiếc vòng trắng sáng trong tay yêu tinh rất lợi hại, lần lượt thu lấy gậy Như Ý của Tôn Ngộ Không, sáu món binh khí của Na Tra Tam Thái Tử, một bộ pháp bảo của Hỏa Đức Tinh Quân, thậm chí ngay cả Kim Đan Sa của mười tám La Hán cũng bị thu mất. Nước lửa đều vô dụng, dù có cố gắng đến đâu cũng không thể hàng phục được yêu tinh này. Cuối cùng Tôn Ngộ Không không thể không lên Linh Sơn diện kiến Như Lai. Phật Như Lai liền chỉ ra rằng, yêu quái này thực chất chủ của nó là Thái Thượng Lão Quân. Do đồng tử trông coi lò luyện đan lén ăn trộm Kim Đan, suốt bảy ngày ngủ mê không tỉnh, khiến con thanh ngưu (trâu xanh) nhân cơ hội trốn xuống trần gian, lấy cắp Kim Cang Trác của Lão Quân mà tác oai tác quái. Câu chuyện này cũng nói rõ rằng từng ý từng niệm của người tu luyện đều phải quy chính mới được, đừng vì cái nhỏ mà mất cái lớn. Đây cũng là minh chứng một lần nữa cho thấy trên con đường tu luyện, không có việc gì là nhỏ.

(Hai mươi tư)

Sau khi thầy trò Đường Tăng vượt qua sông Tử Mẫu Hà, vì thấy khát, Đường Tăng và Trư Bát Giới hai người đã uống ngụm nước sông. Không ngờ, ngay sau đó, họ cảm thấy bụng đau dữ dội, rồi bụng to dần lên, hóa ra đã mang thai! Muốn phá bỏ thai này, họ phải uống nước suối ở động Phá Nhi. Tôn Ngộ Không tìm đến động Phá Nhi nhưng nơi đây đã bị đổi tên thành Tụ Tiên Am và đang bị một kẻ tự xưng là Như Ý Chân Tiên cai quản. Nếu không dâng lễ vật cho hắn thì hắn không cho lấy nước. Hóa ra, Như Ý Chân Tiên chính là huynh đệ của Ngưu Ma Vương, đồng thời cũng là thúc thúc của Hồng Hài Nhi. Hắn vẫn ôm hận trong lòng vì chuyện của Hồng Hài Nhi, nên không ưa gì Tôn Ngộ Không, khi Ngộ Không tới múc nước, hắn liền lao vào giao đấu. Tuy nói trái ý nhau, nhưng con yêu quái này cũng không phạm pháp, Tôn Ngộ Không dừng tay lại và tha cho hắn. Sa Tăng mang nước suối về cho Đường Tăng và Trư Bát Giới uống, hai người trở lại bình thường. Ở đây có thể thấy rằng, Như Ý Chân Tiên dù không phải chính Đạo nhưng nếu biết thời thế, không can nhiễu việc sang Tây Thiên thỉnh kinh, thì cũng có thể bảo toàn mạng sống. Ngoài ra, trong tu luyện Phật gia coi trọng thân, khẩu, ý, đặc biệt coi trọng tu khẩu. Điều này không chỉ bao gồm lời nói và hành xử, mà còn bao gồm cả việc dứt bỏ chấp trước vào ăn uống. Câu thơ: “Rửa sạch nghiệp miệng, thân trong sạch, Tiêu hóa phàm thai, thể tự nhiên” có thể nói là lời nhắc nhở đầy ý nghĩa.

Đường Tăng và các đồ đệ đến Tây Lương Nữ Quốc, toàn bộ người dân trong nước đều là phụ nữ. Vị nữ vương nhất quyết muốn kết hôn với ông. Lúc này Đường Tăng nói: “Làm sao ta có thể hủy hoại nguyên dương, làm bại hoại đức hạnh của Phật gia? Đánh mất tinh khí, thân người sa ngã làm hoại giáo”. Thêm vào đó, bốn thầy trò họ trong việc này cũng đồng lòng hợp sức, tương kế tựu kế, giả vờ thuận theo rồi khéo léo vượt qua cửa ải này. Khi cấp giấy thông quan văn điệp, nữ vương ghi cả tên Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh vào văn điệp. Điều này càng chứng minh rằng bốn người họ đã thực sự trở thành một thể thống nhất, cùng chung chí hướng, tâm kiên định không lay chuyển. Bữa tiệc cưới mà nữ vương tổ chức, nhìn bề ngoài là hôn lễ, nhưng thực ra chính là sự an bài của thiên ý để chúc mừng bốn thầy trò đã bước đến một cảnh giới tu luyện mới, thật đáng chúc mừng. Nếu xét riêng lẻ, Đường Tăng gặp phải hôn sự và chức vị đế vương, tức quyền lực tuyệt đối, quả là hai việc trong mơ mà người thường khó cầu. Nếu tâm tính không ổn, không giữ mình vững, học Pháp không sâu, thì rất có thể sẽ sa ngã, uổng phí công sức trước đây, đọa nhập lục đạo luân hồi, không biết đến bao giờ mới có thể giải thoát?

Ngay khi Tôn Ngộ Không dùng trí mưu thoát khỏi sự níu kéo của nữ vương, chỉ bất cẩn một chút, lại gặp phải con ma gió trăng. Nhân lúc bốn thầy trò không hề phòng bị, một nữ yêu tinh bất ngờ xuất hiện, hóa thành cơn gió lốc và cuốn Đường Tăng đi. Nữ yêu tinh này chính là bọ cạp tinh sống tại động Tì Bà, núi Độc Địch. Con yêu quái này vô cùng độc. Cái đuôi của nó có một cái móc, gọi là “Đảo Mã Độc”. Khi Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới giao đấu với nó, cả hai đều bị móc câu này ám toán, móc vào một cái, đau đớn vô cùng. Trước đây khi nghe Phật giảng kinh ở chùa Lôi Âm Tự, nó đã từng chích một cái vào tay Như Lai. Có thể thấy rằng, đây là việc trực tiếp phỉ báng, bôi nhọ và tổn hại Pháp Vương và Phật Pháp, tội ác không thể dung thứ. Sau khi trốn xuống hạ giới, nó lại dùng sắc dục tà dâm để quyến rũ Đường Tăng, hòng khiến ông phá thân, hao tổn nguyên dương, từ đó hủy diệt đại nghiệp tu luyện đi Tây Thiên thỉnh kinh. Nhưng bởi Đường Tăng trong khảo nghiệm này vẫn giữ vững ý chí kiên định, tâm tính thuần chính, thân trong sạch, không nhiễm bụi trần, do vậy lần này Quan Âm Bồ Tát chủ động làm phép biến hóa, chỉ đường cho Tôn Ngộ Không, mách rằng có thể mời Mão Nhật Tinh Quân đến trừ yêu tinh bọ cạp. Điều này một lần nữa chứng minh đạo lý trong tu luyện: chính niệm xuất ra, tà ác tự diệt.

(Hai mươi lăm)

Bốn thầy trò Đường Tăng tiếp tục cuộc hành trình, đi qua một vùng núi bằng phẳng. Lại gặp một nhóm thảo khấu chặn đường cướp bóc, ước chừng hơn ba mươi tên. Tôn Ngộ Không tức giận, trêu đùa bọn chúng một hồi rồi dùng thiết bảng đánh chết gần hết, chỉ có vài tên may mắn trốn thoát. Đường Tăng ghét Ngộ Không lạm sát vô cớ, niệm chân ngôn siết vòng kim cô, và đuổi Tôn Hành Giả đi. Cũng vì việc này khiến nội bộ bốn thầy trò trở nên rạn nứt, trong lòng không vừa ý nhau. Tôn Ngộ Không vì việc này cũng cảm thấy uất ức, ủy khuất, liền cưỡi Cân Đẩu Vân, bay thẳng đến chỗ Quan Âm Bồ Tát để khiếu nại và giãi bày kể khổ. Thực tế, đây cũng là quá trình anh ta học Pháp, tham thiền ngộ Đạo hướng nội tìm. Mà Quan Âm Bồ Tát nghe xong liền giảng Pháp lý cho Ngộ Không: “Đường Tam Tạng phụng chỉ đi Tây Thiên thỉnh kinh, là tăng nhân cả đời giữ tâm thiện lương, quyết không tùy tiện sát hại sinh mệnh. Như ngươi có nhiều phép thần thông, cần gì phải giết hết bọn thảo khấu? Thảo khấu tuy là kẻ xấu, nhưng rốt cuộc cũng mang thân người, không thể giết chết. Khác với yêu quái, quỷ mị, tà ma, nếu diệt trừ chúng thì là công đức của ngươi. Nhưng nếu giết người, lại chính là sự bất nhân của ngươi. Hơn nữa, bọn cướp thấy ngươi lợi hại mà bỏ chạy, cũng đã cứu được sư phụ ngươi rồi. Ta xét về lý lẽ, vẫn là ngươi không thiện vậy”. Là một người tu luyện khi đối mặt với ủy khuất cần phải làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, cần phải có tâm đại nhẫn. Nếu không, thì giống như trong truyện viết rằng: “Tâm còn hung hăng, đan khó luyện. Thần không định, lập Đạo khó thành”.

Sau khi Tôn Ngộ Không bị đuổi đi, Trư Bát Giới và Sa Tăng lại đi hóa trai, lấy nước, để Đường Tăng lại một mình chịu đựng gian khổ, khô cổ khát nước. Lúc này, ông đã “tâm loạn thần mê, trăm bệnh phát tác, hình suy tinh kiệt, đạo tâm lung lay”. Đúng lúc hoảng hốt, một Tôn Ngộ Không giả xuất hiện bên thân, đánh ông bất tỉnh, cướp hành lý rồi đằng vân bay đi. Sự xuất hiện của Chân Giả Hầu Vương chứng tỏ thầy trò họ trên dưới bất hòa, sinh ra nhị tâm (hai lòng) mà dẫn đến; cũng là do chính Tôn Ngộ Không tự tâm sinh ma tạo thành, chẳng thể trách ai khác. Con khỉ giả ấy chính là Lục Nhĩ Mi Hầu. Để phân biệt thật giả, chính tà, hai Hầu Vương chạy khắp nơi, từ chỗ Quan Âm Bồ Tát lên thiên cung yết kiến Ngọc Đế, rồi trở lại chỗ Đường Tăng, lại xuống tận u minh địa ngục phủ, cuối cùng đánh nhau đến trước bảo tọa của Phật Thích Ca tại Lôi Âm Tự. Quả đúng là Phật Pháp vô biên, toàn tri toàn giác. Lục Nhĩ Mi Hầu tượng trưng cho hết thảy vọng tưởng, hư giả của sáu thức. Lục Nhĩ Mi Hầu bị Tôn Ngộ Không một gậy đánh chết, kết thúc nhị tâm. Trong sách còn viết, sau khi giả Hầu Vương cướp đi thông quan văn điệp, hắn trở về Hoa Quả Sơn, xuất hiện thêm một nhóm Đường Tăng và đồ đệ giả, cùng với Bạch Long Mã. Nó cũng lập chí lấy kinh thành công, tôn mình làm tổ, truyền danh muôn đời. Thế nhưng, một lời của Sa Tăng đã đánh trúng yếu điểm. Sa Tăng nói: “Sư huynh nói vậy chưa thỏa đáng. Từ trước đến nay chưa từng có chuyện Tôn Hành Giả đi lấy kinh. Đức Phật Như Lai lập ra Tam Tạng chân kinh, lệnh cho Quan Âm Bồ Tát sang Đông Thổ tìm người thỉnh kinh, để chúng ta phải khổ sở băng suối vượt núi, đi khắp các nước, bảo hộ người thỉnh kinh. Bồ Tát từng nói: Người thỉnh kinh chính là môn đồ của Như Lai, hiệu là Kim Thiền Trưởng lão. Chỉ vì ông ta không chuyên tâm nghe Phật tổ giảng kinh nên bị giáng xuống Linh Sơn, chuyển sinh Đông Thổ, để ông ta phải quay về Tây Phương đắc chính quả, tu luyện lại Đại Đạo. Trên đường đi, ắt sẽ gặp phải ma chướng, cũng là để giải thoát ba huynh đệ chúng ta, làm hộ pháp cho ngài. Nếu sư huynh không bảo hộ Đường Tăng thì thử hỏi Phật tổ nào chịu truyền kinh cho huynh? Chẳng phải chỉ là uổng phí công sức một phen hay sao?” Cái gọi là hai lòng hỗn loạn chính là trạng thái khi người tu hành hai chân bước lên hai chiếc thuyền tạo thành. Vừa nắm giữ phía Thần không buông, lại nắm giữ chấp trước của con người không xả. “Người có hai lòng sinh tai họa, Chân trời góc bể cũng nghi ngờ”. Nếu cứ tiếp tục như vậy, e rằng sẽ thực sự bỏ cuộc giữa chừng, đi được nửa đường lại dừng bước. Vì thế, cần phải tỉnh ngộ sớm, bất chợt bừng tỉnh, thêm vào gõ một chùy nặng, khiến cho tỉnh ngộ, tâm tư quy chính, quét sạch vọng niệm, đồng tâm hợp ý, nhất thể chân tu, mới có thể đạt được chân như.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56629

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (4)https://chanhkien.org/2025/03/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-4.htmlSat, 15 Mar 2025 02:26:53 +0000https://chanhkien.org/?p=36802Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Mười sáu) Thầy trò Đường Tăng ngồi trên chiếc thuyền pháp hồ lô, vượt qua dòng sông Lưu Sa rộng tám trăm dặm, tượng trưng cho dòng nước ác của thế gian. Trên thực tế, họ đã đạt đến cảnh giới siêu phàm thoát tục, thoát thai hoán cốt, tiến […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Mười sáu)

Thầy trò Đường Tăng ngồi trên chiếc thuyền pháp hồ lô, vượt qua dòng sông Lưu Sa rộng tám trăm dặm, tượng trưng cho dòng nước ác của thế gian. Trên thực tế, họ đã đạt đến cảnh giới siêu phàm thoát tục, thoát thai hoán cốt, tiến nhập vào con đường tu luyện xuất thế gian. Điều này được thể hiện cụ thể qua việc họ đã đến Ngũ Trang Quán trên núi Vạn Thọ Sơn. Đến được núi Vạn Thọ Sơn nghĩa là họ đã thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử của lục đạo, đạt được sự trường sinh. Còn Ngũ Trang Quán cũng chính là nhìn vào bên trong chính mình, quan sát ngũ tạng trong cơ thể. Nói về chủ nhân của Ngũ Trang Quán là Trấn Nguyên Tử, hay còn gọi là Chân Nguyên Tử. Trong quán của ông có một cây đại thụ kỳ dị, kết ra loại quả nhân sâm có hình dạng giống như đứa trẻ ba ngày tuổi, “Người hữu duyên chỉ cần ngửi một lần cũng có thể sống đến 360 năm, còn nếu ăn một quả thì sẽ sống thọ đến 47.000 năm. Chỉ là loại quả này lại kỵ ngũ hành”. Có thể nói, ăn được quả nhân sâm chứng tỏ người đó đã tu xuất ra nguyên anh trong cơ thể, cũng tức là thể kim cang bất hoại mà Phật gia giảng. Mà kỵ ngũ hành có nghĩa là nó không thể sang không gian này của chúng ta, nhưng nó xác thực tồn tại thực sự. Đạo gia giảng về tính mệnh song tu, có thể tu xuất ra nguyên anh. Tương tự, trong nhiều phương pháp tu luyện cao cấp của Phật gia, cũng nhấn mạnh cần phải có bản thể, tu xuất ra thể kim cang, tức là thân thể Phật. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng, với vai trò là phó nguyên thần hộ pháp, họ đều hiểu được đạo lý này nên mỗi người đã lén ăn một quả nhân sâm để chứng minh điểm này. Mà Đường Tăng bởi vì vẫn là một người thai phàm mắt thịt, chính là chủ ý thức tu luyện. Có lẽ vì trong tiềm thức, ông giữ nguyên tắc “bất nhị pháp môn” nên không dám tùy tiện ăn quả nhân sâm. Hai đạo đồng cầm trong tay “kim kích tử” (gậy vàng) và “đan bàn” (đĩa đan), trên đĩa đặt quả nhân sâm, chẳng phải chính là thể hiện việc nguyên anh sinh ra từ đan điền trong cơ thể con người hay sao? Còn hai đạo đồng Thanh Phong và Minh Nguyệt cũng chính là sự thể hiện của một tấm lòng sáng tỏ khi đạt đến cảnh giới này. Tuy nhiên, vì cử chỉ không đúng đắn của huynh đệ Tôn Ngộ Không, đã chọc giận hai vị đạo đồng. Trong cơn phẫn nộ, Tôn Ngộ Không đã đánh đổ cây nhân sâm đại thụ, cắt đứt linh căn. Khi Trấn Nguyên Đại Tiên trở về, ông đã dùng roi trừng phạt bốn thầy trò Đường Tăng. Kỳ thực trong chuyện này cũng chứa đựng bài học về chữ nhẫn của người tu luyện. Ngay từ phần mở đầu hồi thứ 26 đã có bài thơ minh chứng điều này:

Sống ở đời phải giữ lòng nhẫn nại,
Tu dưỡng thân cần ghi nhớ cận kề.
Thường nói chữ “nhẫn” là sinh ý,
Nhưng cần ba lần suy nghĩ, tránh giận dữ.
Thượng sỹ không tranh từ cổ chí kim,
Thánh nhân ôm đức nối tiếp thời nay.
Mạnh mẽ lại gặp người mạnh mẽ hơn,
Cuối cùng cũng hóa hư không mà thôi.

Người tu luyện trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần phải làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”. Huống hồ, sai lầm lại xuất phát từ chính bản thân mình.

Kỳ thực việc Đường Tăng đến Ngũ Trang Quán và ăn quả nhân sâm chính là thể hiện của việc tu luyện đến cảnh giới cao tầng. Mà Tôn Hành Giả quật ngã cây nhân sâm, cắt đứt linh căn, kỳ thực cũng là cắt đứt cội rễ chân thật của bản thân mình. Muốn tu luyện lại từ đầu, cần phải tự kiểm điểm, tự sửa chữa và bù đắp lỗi lầm mới được. Vì vậy, anh ta đã đi khắp mười châu ba đảo để tìm Tam Lão, Cửu Lão, hy vọng có được phương thuốc diệu kỳ giúp cây nhân sâm cải tử hồi sinh. Tuy nhiên, những Tiên nhân này chỉ có khả năng xử lý những việc ở trong thế gian, còn chuyện vượt ngoài thế gian thì chỉ có bậc thượng sư là Quan Âm Bồ Tát mới có thể giải quyết. Đây thực chất lại là quá trình một lần nữa Tôn Ngộ Không hướng nội tìm, sửa đổi và làm lại sau khi học Pháp tốt, dựng lập lại chính tín, kiên định chính niệm. Cuối cùng, khi Đường Tăng hiểu rõ căn nguyên sự việc, ông đã vui vẻ ăn một quả nhân sâm. Đây cũng chính là sự chứng nghiệm sở đắc trong quá trình ngộ Đạo và đắc Đạo của bản thân ông.

(Mười bảy)

Khi thầy trò Đường Tăng đi đến Bạch Hổ Lĩnh, họ gặp phải một yêu tinh nữ, nó là một con cương thi tà ác mang linh khí, gọi là Bạch Cốt Phu nhân. Yêu nữ này ba lần hóa thành người, tìm cách lừa Đường Tăng để ăn thịt ông. Khi ấy Đường Tăng và Trư Bát Giới còn hồ đồ, may nhờ có đôi mắt hỏa nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không mà nhận ra quỷ kế của yêu tinh, trước sau dùng ba gậy mới đánh chết linh hồn của nó, khiến nó lập tức hóa thành một đống xương trắng. “Thi ma ba lần trêu chọc Đường Tam Tạng”, thực chất thi ma này chính là “tam độc” mà Phật giáo thường giảng: tham, sân, si. Thế gian có tam độc này sẽ không bao giờ có được ngày bình yên. Tâm tham dục khiến con người trụy lạc, liều lĩnh làm bậy. Tâm sân hận khiến con người chìm trong ngọn lửa oán hận, dễ dàng dấn thân vào nguy hiểm. Tâm si mê khiến tâm trí của con người vô minh, si tâm vọng tưởng, trở thành nguồn gốc của mọi khổ nạn. Đây cũng chính là điểm yếu chí mạng của Đường Tăng và Trư Bát Giới. Vì vậy, khi nghe theo lời xúi giục của Trư Bát Giới, Đường Tăng đã đuổi Tôn Ngộ Không về nhà cũ là Hoa Quả Sơn, từ đó Đường Tăng đánh mất đi bản tâm kiên định không mê, không còn giữ vững chính niệm, làm cho con đường tu hành càng thêm trắc trở.

Tôn Ngộ Không trở về Hoa Quả Sơn, nhưng trên núi giờ chỉ còn lại hơn một nghìn hai trăm con khỉ nhỏ sống sót. Điều này cũng chứng tỏ rằng, trên con đường tu luyện, anh ta đã trừ bỏ được rất nhiều chấp trước và phiền não. Nhưng sau khi Tôn Ngộ Không rời đi, Đường Tăng liền trở nên lục thần vô chủ, hồn không có chỗ tá túc, lâm vào nạn, cuối cùng đi lạc đến động Ba Nguyệt, Uyển Tử Sơn, nơi yêu quái Hoàng Bào cư ngụ, và không may bị trói chặt vào cột định hồn. Yêu quái Hoàng Bào vốn là nhị thập bát tú Khuê Mộc Lang hạ phàm, hắn đã bắt cóc Công chúa Bách Hoa Tu, tam công chúa của Quốc vương Bảo Tượng Quốc. Công chúa vốn là một ngọc nữ hầu hương trong điện Phi Hương trên thiên giới, nhưng vì có tư tình với Khuê Mộc Lang nên đã xuống hạ giới, cùng hắn kết thành vợ chồng suốt mười ba năm. Đây đúng là câu chuyện anh hùng yêu mỹ nhân, mỹ nhân mến anh hùng. Có thể nói, hồi này thực chất là một câu chuyện làm thế nào để vượt qua quan ải của “danh”. Như trong truyện có viết: “Một người vì danh tiếng, sao có thể bỏ qua? Một người vì sư phụ, tuyệt nhiên chẳng sợ hãi”. Danh tiếng, cũng chính là sự theo đuổi công danh. Ai cũng biết rằng, con người sống trên đời không ngoài danh, lợi, tình. Mà cái danh hão huyền lại thường đứng đầu, và “hoàng bào khoác thân” (chỉ việc đạt được danh vọng) là điều khó tránh khỏi, trong đó có cả thành phần tự tâng bốc bản thân. Đối với người tu luyện, nếu không ở trong Pháp mà tu sửa bản thân, thì rất dễ sinh tâm ma, tùy tâm nhi hóa, làm ra những việc bản thân không lường trước, bị hủy chỉ trong một sớm. Không chứng thực Pháp mà là chứng thực bản thân, dù vô tình hay hữu ý cũng sẽ mắc sai lầm. Đặc biệt, khi tu luyện một thời gian nhất định, bản thân đã có một số biến hóa rõ rệt trên thân thể, thiên mục và thần thông cũng được khai mở, thì càng phải cảnh giác, cẩn trọng trong từng hành động.

Bảo Tượng Quốc chính là danh từ đại biểu cho bảo tướng trang nghiêm. Khi thầy trò Đường Tăng tiến vào Bảo Tượng Quốc, điều đó thể hiện rằng, là người tu luyện, dù xét từ nội tâm hay bề ngoài, họ đều khác biệt so với người thường, phi phàm thoát tục. Điều này cho dù là bản thân hay người khác đều có thể nhìn thấy và cảm nhận được. Tuy nhiên, do thiền tâm và bản niệm của Đường Tăng bị mê lạc, bản tâm Tôn Ngộ Không rời khỏi vị trí, bản tính Sa Tăng bị yêu ma giam cầm, bản năng Trư Bát Giới trở nên buông thả, bản ý Bạch Long Mã thì có lòng nhưng sức không đủ, chỉ còn biết gắng gượng chịu đựng. Đúng như bài thơ đã viết:

“Ý mã tâm viên đều tán loạn,
Kim công mộc mẫu tận suy tàn.
Hoàng bà thương tổn chia ly hết,
Đạo nghĩa phai mờ làm sao thành!”

Đây chính là sự trói buộc của danh vọng, ngược lại bị ma lừa dối tâm. Khi đến Bảo Tượng Quốc, Hoàng Bào Quái thậm chí còn biến một Đường Tăng nghiêm trang thành một con hổ, bị hắn hóa thành yêu ma một hồi. Tâm tính xuất hiện vấn đề thì phải dùng tâm để trị. Khi Trư Bát Giới đến Hoa Quả Sơn cầu xin Tôn Ngộ Không cứu sư phụ, Ngộ Không nói: “Lão Tôn thân trở về Thủy Liêm Động, nhưng lòng vẫn hướng về người thỉnh kinh”, và thốt lên một câu danh ngôn: “Một ngày là thầy, cả đời là cha”. Khi Tôn Ngộ Không thu tâm, xuống biển gột sạch thân mình, trừ bỏ khí yêu tinh, điều đó chứng minh rằng nước là cội nguồn của Pháp, người tu luyện nhất định không được rời xa. Chỉ khi giữ vững từng tư từng niệm của bản thân, mới có thể một lòng hợp thể chiến thắng ma tâm, từ đó đắc được văn điệp thông quan, tiếp tục bước lên con đường chính đạo đi về Tây Thiên.

(Mười tám)

Bốn thầy trò Đường Tăng đi qua từng ngọn núi một, từng kiếp nạn một. Đôi khi, chỉ cần có ai đó nói rằng trong núi có yêu quái, Đường Tăng liền sợ hãi, tâm trí rối loạn, mất hết phương hướng. Những lúc như vậy, Tôn Ngộ Không luôn kịp thời an ủi: “Sư phụ đừng suy nghĩ lung tung, chỉ cần giữ vững định lực và tập trung tinh thần, tự nhiên sẽ không có chuyện gì xảy ra”. “Tâm không chướng ngại, tự khắc không sợ”, đúng vậy, nếu không có nhân tố gây sợ hãi, thì tâm sợ hãi đó tự nhiên cũng không tồn tại. Thế nhưng ngay sau đó, Đường Tăng lại thở dài than rằng: “Bao giờ ta mới có thể được an nhàn?” Sau một thời gian tu luyện, khi đạt đến một cảnh giới nhất định, tâm cầu an dật, tâm cầu thanh tịnh này sẽ nổi lên. Tu luyện Phật Pháp đòi hỏi dũng mãnh tinh tấn. Một khi tâm này khởi lên, tất sẽ dẫn đến sự quấy nhiễu của tà ma. Quả nhiên, khi họ đi đến động Liên Hoa trên núi Bình Đỉnh, liền gặp phải hai tên ma đầu Kim Giác Đại Vương và Ngân Giác Đại Vương. Họ vốn là hai đồng tử trông coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, hai người họ ăn trộm năm món bảo bối của Lão Quân, hạ phàm với ý đồ luyện đan thành tiên. Thế nhưng, khi họ nghe nói: “Đường Tăng chính là Kim Thiền Trưởng lão giáng phàm, là người đã tu luyện qua mười kiếp, chưa từng thất thoát một chút nguyên dương. Ai ăn được thịt của ông ta sẽ được trường sinh bất lão”. Chúng liền tà ngộ, nhất thời sinh lòng độc ác. Người tu Đạo giảng cần phải thanh tĩnh vô vi, mà động của chúng có tên Liên Hoa, đúng với ý nghĩa này. Nhưng vì tâm niệm bất thuần, mục tiêu thấp kém, chỉ mong cầu trường sinh, nên chúng mới có duyên ở nơi gọi là Bình Đỉnh Sơn. Kỳ thực dù con đường tu luyện của Phật gia và Đạo gia có khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng đều giống nhau, đó là khai công khai ngộ, thành Phật thành Đạo, tu thành Giác Giả hoặc Chân Nhân. Do đó nói, tu luyện hai gia Phật và Đạo, đều có thầy dạy riêng, phương pháp và cơ chế riêng, căn bản không thể trộn lẫn mà tu. Một khi pha tạp, nhất định sẽ rối loạn, thậm chí ngay cả ý niệm của bản thân cũng phải chuyên nhất, giữ vững một pháp môn mà tu, đến khi khai công khai ngộ. Do đó nói rằng, thuật luyện đan của Kim Giác và Ngân Giác cần sự trợ giúp của năm món bảo bối, mà con đường tu luyện của Đường Tăng lại là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, tức là: “Ngộ tức sát-na thành chính quả”. Nếu nhìn từ góc độ tu luyện của thầy trò Đường Tăng, thì việc gặp phải hai tên yêu quái này chính là do tâm sợ hãi, tâm cầu an dật của Đường Tăng cùng với tính lười biếng, ham ăn, ham ngủ của Trư Bát Giới mà tạo thành. Nếu một người tu luyện chỉ mãn nguyện với sự an nhàn, cho rằng mình đã tu luyện khá tốt mà sinh tâm tự mãn, không thể vượt ra khỏi chính mình, thì họ sẽ mãi mắc kẹt ở tầng trời này. Đây chính là “Bình Đỉnh Sơn” (một đỉnh bằng phẳng), nghĩa là tu luyện sẽ mãi dừng lại ở đây không lên được. Nếu thế thì con đường thỉnh kinh đến Tây Thiên bao giờ mới hoàn thành được? Tu luyện chính là như vậy, không tiến ắt sẽ lùi, không có con đường trung gian. May mà bản tâm chân thật Tôn Ngộ Không nhìn được rõ ràng, không bị đánh lừa, bị mê hoặc. Chính nhờ sự dũng mãnh tinh tấn trên con đường tu luyện, “thì thì cần phất thức, mạc sứ hữu trần ai” (luôn luôn lau chùi, chớ để bụi bám), mà cuối cùng đã chiến thắng được hai ma chướng trên con đường tu luyện. Nói cho cùng, đây cũng là một kiếp nạn do Quan Âm Bồ Tát sắp đặt, nhằm khảo nghiệm xem thầy trò Đường Tăng có thật tâm hướng về Tây hay không. Tuy nói là sự an bài tinh tế của thượng sư, nhưng là một đệ tử tu luyện, nếu bản thân không có nạn này, thì sư phụ cũng sẽ không áp đặt lên. Gặp việc gì đều phải hướng nội tìm, tất cả đều có nguyên nhân. Từ chính lý mà giảng, sư đồ họ gặp phải cái “động Liên Hoa” này chính là thể hiện của đan điền trong thân thể họ, đến lúc này, trên đan điền đã sinh ra một đài sen, và nguyên anh trước đó đã hình thành, lúc này cũng đang ngồi trên tòa sen ấy rồi.

(Mười chín)

Khi thầy trò Đường Tăng đến chùa Bảo Lâm xin tá túc, các vị tăng quan trong chùa từ chối lời thỉnh cầu của Đường Tăng vì trước đó đã có một số tăng lữ vân du ở lại chùa và làm ra những hành vi xấu. Điều này cho thấy người tu luyện trong các vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống, chẳng hạn như vay tiền, mượn đồ, lưu trú, ăn uống và giao tiếp, … cần phải chú ý đến hình ảnh của bản thân và phải có hành vi chuẩn mực mới là đúng. Sau đó khi tạm trú trong chùa, Đường Tăng nhìn vầng trăng sáng trên không trung và ngâm một bài thơ cổ. Tôn Ngộ Không nhân đó giảng cho ông về đạo lý “ôn dưỡng nhị bát, cửu cửu thành công”. Sa Tăng cũng đọc một bài thơ:

“Nước lửa hòa hợp vốn có duyên,
Toàn nhờ Thổ Mẫu phối hợp nên.
Ba nhà hợp nhất không tranh chấp,
Nước ở Trường Giang, trăng trên trời”.

Trong ngũ hành, sự phối hợp của các hành chủ yếu dựa vào hành Thổ. Từ góc độ làm người xét về ngũ thường Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thì Tín là gốc rễ. Nếu không có Tín, bốn đức tính còn lại cũng không tồn tại. Mà Tín thuộc hành Thổ, có thể nói ý niệm của con người vô cùng quan trọng, từng tư từng niệm đều phải quy chính.

Lại nói về quốc vương nước Ô Kê, ba năm trước, bị một Đạo sỹ Toàn Chân từ núi Chung Nam đẩy xuống giếng Lưu Ly Bát Giác, chết đuối. Tên Đạo sỹ Toàn Chân đó lắc thân biến thành quốc vương giả. Đến khi thời hạn ba năm đã hết, hồn quốc vương hiện về trong mộng của Đường Tăng, thỉnh cầu ông trừ yêu báo oán. Nhờ thái tử điều tra rõ ràng, hỏi cho ra lẽ, khiến chân tướng được phơi bày. Tôn Hành Giả và các huynh đệ đã có thể hợp tình hợp lý, nhanh chóng hàng phục yêu quái. Hóa ra, tên đạo sỹ giả mạo chính là con sư tử lông xanh thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát. Năm đó quốc vương từng xúc phạm Bồ Tát, nên Phật Như Lai giáng chỉ khiến ông chịu nghiệp báo này. Câu chuyện bề mặt có thể kể như vậy, nhưng nếu giải thích ở tầng sâu hơn, ý nghĩa biểu tượng rất rõ ràng và đồng thời cũng mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Đầu tiên, quốc vương gặp phải nạn này, đều là do ác niệm nhất thời của bản thân tạo thành. Mà trong mệnh có thể làm đế vương, đều là nhờ vào ân điển mà Thần Phật ban cho. Hành Giả nói “lập đế hóa” cũng là ý chỉ như vậy. Kỳ thực, nơi quốc vương gặp nạn là giếng Lưu Ly Bát Giác, “Bát Giác” có ý chỉ sự mưu mô tranh đấu của lòng người. Bán tín bán nghi, nghi tâm nặng chính là điều cấm đại kỵ của người tu luyện. Đặc biệt là trong tay quốc vương thật còn cầm bạch ngọc khuê, thể hiện rằng thân thể của ông đã được tịnh hóa giống như bạch ngọc, tức là Phật thể rồi. Lúc này người tu luyện cho dù là từ tâm thái, cảnh giới hay tư tưởng đều đã ở trong trạng thái ổn định rồi. Nếu không phải như vậy thì vị quốc vương thật này, cũng tức là chủ tể của bản thân, Pháp Vương của bản thân cũng sẽ chết rồi, bị quốc vương giả thay thế. Còn nữa, thái tử có thể xem như là nguyên anh tu xuất ra của người tu luyện, cũng tức là Phật thể. Nếu vậy lúc này anh ta vẫn còn ra ngoài săn bắn, ham muốn ăn uống chưa dứt bỏ, thì thử hỏi tâm từ bi tu xuất ra ở đâu rồi? Lại nói, nước Ô Kê – chữ “Ô” mang nghĩa là “đen”, trong khi đó, kim kê (gà vàng) báo sáng, chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng khắp thiên hạ. Điều này chứng minh rằng con đường tu luyện và đi Tây Thiên thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng đã bắt đầu thấy ánh sáng hy vọng. Khi loại bỏ được tên yêu quái đã giả mạo quốc vương, con gà đen sẽ được thay thế bằng con gà vàng. Kịp thời quét sạch những ma chướng trên con đường tu luyện, bản tính chân thật của bản thân sẽ càng thêm thanh tịnh và thuần khiết, trí huệ sáng suốt hơn, thần thông pháp lực cũng ngày càng mạnh mẽ. Cuối cùng, khi Đường Tăng đặt chân lên Tây Ngưu Hạ Châu, đặc biệt là khi đến chùa Bảo Lâm, nhìn thấy những bức tượng Thần Phật và Bồ Tát được tạc rất lớn trong chùa, ông xúc động vô cùng, lòng thành kính tự nhiên trào dâng, liền cúi đầu lạy Phật, “gặp Phật lạy Phật, gặp tháp quét tháp”. Nhưng vấn đề cũng có thể nằm ở đây. Lại nói về ngày nay có bao nhiêu người thực sự chân thành bái Phật và mong cầu đắc chính quả? Anh bái, tôi bái, mọi người đều tới bái, rất dễ tạo ra những vị Phật giả, Bồ Tát giả. Đây đều là ác quả do tâm hữu cầu của con người tạo thành. Một khi người tu luyện cũng tới bái, thì tính nghiêm trọng của vấn đề sẽ khá lớn. Đây cũng là lý do tại sao Thanh Mao Sư lại có thể làm yêu quái. Chữ “sư” trong “sư tử” cũng có nghĩa là “thầy”, nhưng lại không phải con đường chính Đạo. Đồng thời, cũng vì thế mà yêu quái có thể biến ra một Đường Tăng giả, khiến thầy trò không nhận ra nhau, thật giả khó phân biệt, chính pháp và tà pháp lẫn lộn. Bởi vậy, không thể để giả ngã và giả tượng chi phối, mà phải để chân ngã làm chủ. Nói một cách nghiêm khắc, Đường Tăng là sư phụ nhưng cũng là một người tu luyện. Bản thân ông cũng phải chiểu theo tiêu chuẩn của Phật Pháp mới có thể từng bước từng bước mà tu lên, cho đến khi công thành viên mãn. Do đó nói, ai mới là Phật chân chính, sư phụ chân chính, đâu mới là chân Pháp, chính Pháp, điều này đã được nói rõ ràng trong bài thơ mở đầu hồi thứ ba mươi tám:

“Gặp ngài chỉ nói duyên thọ sinh,
Liền thành Như Lai tại hội người.
Một niệm tĩnh quan Phật cõi trần,
Mười phương đều thấy Thần giáng uy.
Muốn biết chân minh chủ hôm nay,
Hãy hỏi người mẹ ruột năm xưa.
Ngoài ra thế gian chưa từng thấy,
Mỗi bước đi nở một đóa hoa”.

“Phật cõi trần” chính là những người tu luyện trong thế gian. Nguồn gốc của bạn không phải là những thứ bạn thấy trên bề mặt, có lẽ chỉ thông qua chân tu mới có thể biết được nguyên lai và bối cảnh của bạn. Tóm lại, thật hay giả quan trọng ở ngộ. Nếu không ngộ, thì sẽ chẳng thể đắc được điều gì.

(Hai mươi)

Phàm là công pháp tính mệnh song tu, đều có thể tu luyện xuất ra nguyên anh. Nhưng nếu không giữ vững tâm tính, một niệm không chính, dù tu luyện trong chính Pháp cũng có thể lệch sang tà pháp. Thánh Anh Đại Vương Hồng Hài Nhi chính là thuộc về loại này. Ngoài ra, nếu chỉ chăm chăm làm việc thiện hữu vi, bị vướng mắc vào tình cảm con người, thì sẽ dễ rơi vào làm các việc không thể tự thoát ra, rơi vào bẫy của kẻ ác. Việc Đường Tăng không phân biệt thật giả, ra tay cứu giúp Hồng Hài Nhi chính là trường hợp như vậy. Nhưng tính chất của chúng lại là tương đồng, kỳ thực chính là lạc sang tà đạo. Bài thơ trong hồi thứ 40 đã nói rất rõ:

“Đạo đức cao thâm ma chướng cao,
Thiền cơ vốn tĩnh tĩnh sinh yêu.
Tâm ngay chính trực hành trung đạo,
Mộc mẫu si mê miệng ngoài miệng.
Ý mã không lời lòng ái dục,
Hoàng bà không nói tự âu sầu.
Khách tà đắc chí không hoan hỷ,
Rốt cuộc vẫn từ chính trừ tà”.

Chính bởi vì Đường Tăng dụng tâm không đúng, nên bản năng Trư Bát Giới cũng dễ thiếu sáng suốt mà phạm sai lầm, cũng bị Hồng Hài Nhi bắt đi. Hồng Hài Nhi cư ngụ tại Hào Sơn, trong động Thủy Vân dưới khe Khô Tùng. Vì nơi ở có hỏa khí vượng, lại tu luyện ra “Tam muội chân hỏa”, người phàm không thể đến gần, lại còn có ý đồ ăn thịt Đường Tăng để được trường sinh tự tại. Đây chính là kết quả của tâm tính bất chính, không tu luyện theo chính Đạo tạo thành, đồng thời cũng thể hiện phản ánh ngoại hóa của tâm ma trong Đường Tăng, nên mới gặp phải kiếp nạn này. “Tam muội chân hỏa” vốn là đại định tam muội, nhưng cách tu luyện ngày xưa thường chỉ tu luyện phó nguyên thần, phó ý thức của con người. Nếu chỉ ngồi thiền định công như vậy, có thể chân ngã thực sự vẫn chưa tu luyện, cũng tức là nói bản thân dễ bị mê hoặc bởi giả tượng mà làm điều xấu. Mỗi khi Hồng Hài Nhi xuất chiến, đều đẩy ra năm cỗ xe để biểu thị sự vận hành của ngũ hành. Điều này cho thấy cậu ta quá mức tin tưởng vào phương pháp tu luyện của bản thân mà không thể tự thoát ra, cuối cùng vẫn không vượt khỏi tu luyện thế gian Pháp. Sáu kiện tướng là: Vân Lý Vụ, Vụ Lý Vân (hai tên này có nghĩa là không lý trí), Cấp Như Hỏa (nghĩa là vội vàng hấp tấp), Khoái Như Phong (nghĩa là tính tình bột phát), Hưng Hồng Hiên, Hiên Hồng Hưng (nghĩa là tính nóng nảy) chính là sự thể hiện và tổng kết ngoại tại của loại tính cách này. Hơn nữa, Hồng Hài Nhi còn biến thành hình tượng của Quan Âm Bồ Tát để lừa Trư Bát Giới. Đây có thể nói là tội đại nghịch thiên, là sự báng bổ trực tiếp đối với Phật Pháp. Còn đóa sen mà Bồ Tát biến hóa ra cho cậu ta chỉ là một ảo tưởng, một cái bẫy hư huyễn. Nhưng với lòng đại từ đại bi, Bồ Tát đã thu phục Hồng Hài Nhi và đặt Kim Cô trên đầu, thể hiện thời thời quản thúc cậu ta. Như Lai đã ban cho Quan Âm Bồ Tát ba chiếc vòng: “Kim, Khẩn và Cấm”. Khẩn Cô Nhi được đội lên đầu Tôn Ngộ Không biểu thị thời thời quản chặt tâm; Cấm Cô được giao cho Hùng Sơn Quân – vị Thần giữ núi, để quản thúc tham vọng và ý chí hoang dã. Kỳ thực, ba chiếc vòng này có ý nghĩa vô cùng sâu xa trong việc hàng phục và loại bỏ tâm ma trong bản thân, đặc biệt là điều mà người tu luyện cần chú ý. Điều đáng lưu tâm là, Tôn Ngộ Không và cả Sa Tăng với bản tâm chân thật chưa từng bị mê hoặc, luôn giữ ý thức thanh tỉnh, thề quyết chiến với Hồng Hài Nhi đến cùng, suýt nữa còn mất mạng. May thay, Tôn Ngộ Không biết hướng nội tìm, tìm đến Quan Âm Bồ Tát, tức là quá trình tìm chân Pháp và học Pháp. Nhờ giữ vững tâm niệm thuần chính, một đường chính tín, mới có thể triệt để khắc phục tâm ma này, thực là không dễ dàng, thầy trò họ đã đi một chặng đường dài, không hề có ý thoái lui, dốc lòng dốc sức, con đường phía trước rộng mở. Nhưng con đường tu luyện họ đã đi qua, vẫn còn cách điểm đến mục tiêu cuối cùng là Linh Sơn rất xa.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56628

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (3)https://chanhkien.org/2025/03/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-3.htmlSun, 09 Mar 2025 03:03:16 +0000https://chanhkien.org/?p=36744Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Mười một) Có một câu thành ngữ gọi là “tâm viên ý mã” (tâm con vượn, ý con ngựa), chính là nói tâm tư không chuyên nhất, do dự, lưỡng lự, nên mới có câu “tâm viên nhảy nhót, ý mã tung hoành”. Vì Tôn Ngộ Không có bản lĩnh […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Mười một)

Có một câu thành ngữ gọi là “tâm viên ý mã” (tâm con vượn, ý con ngựa), chính là nói tâm tư không chuyên nhất, do dự, lưỡng lự, nên mới có câu “tâm viên nhảy nhót, ý mã tung hoành”. Vì Tôn Ngộ Không có bản lĩnh dời non lấp biển, nên Bạch Long Mã cũng sẽ ở trong “dòng nước nơi đây có ngàn vạn hang động thông nhau, nên sóng nước cuồn cuộn, sâu thẳm”. Trong hồi thứ mười lăm, khi tâm viên đã được quy chính, vậy thì ý mã khẳng định cũng phải được thu cương. Là biểu tượng cho bản nguyên sinh mệnh của Bạch Long Mã, dòng suối Ưng Sầu nơi anh ta cư ngụ cũng trở nên trong vắt, nhìn thấy đáy. “Dòng suối này xưa nay không tà, chỉ là sâu thẳm và rộng lớn, ánh nước trong veo tới đáy, chim ác chẳng dám qua, vì khi soi thấy hình bóng mình dưới nước, chúng liền tưởng là chim cùng bầy, rồi lao mình xuống nước, nên gọi là dốc suối Ưng Sầu”. Trong bản tính của tâm viên vốn có khuyết điểm kiêu ngạo tự đại, dẫn đến khi thu phục Bạch Long Mã đã mất rất nhiều công sức, nếu không, như Quan Âm Bồ Tát đã nói: “Con khỉ tà kia, chỉ biết cậy vào sức mạnh bản thân, đâu chịu khen ngợi người khác? Con đường phía trước sau này, vẫn còn có người quy thuận. Nếu có người hỏi, trước hết hãy nhắc đến chuyện đi thỉnh kinh, như vậy cũng chẳng cần nhọc tâm, tự nhiên sẽ quy phục”. Có thể nói, lòng khiêm tốn và sự chu đáo trong lễ nghi là những phẩm chất và tu dưỡng mà người tu luyện cần phải có. Sau khi thu phục Bạch Long Mã, có thể nói cái tâm đã được thuần phục này, có thể ổn định, một lòng một dạ bảo hộ Đường Tam Tạng sang Tây Thiên thỉnh kinh.

Ngoài ra, trong hồi thứ mười lăm, lần đầu tiên xuất hiện bóng dáng của các Thần hộ pháp do Quan Âm Bồ Tát phái đến để âm thầm bảo hộ. Họ là Lục Đinh Lục Giáp, Ngũ Phương Yết Đế, Tứ Trị Công Tào và mười tám vị Hộ Giá Già Lam. Là một người tu luyện chân chính, kỳ thực ngay từ đầu đã có Pháp thân của Sư phụ hoặc các Thần hộ pháp thời thời khắc khắc trông nom, bảo hộ. Bởi vì tu luyện là việc vô cùng nghiêm túc, thành hay bại hoàn toàn phụ thuộc vào một niệm của bản thân có quy chính hay không. Đương nhiên, cũng có can nhiễu của tà ma, thậm chí còn muốn đến để lấy mạng. Do đó mới nói, nếu muốn tu luyện mà không có sự bảo hộ toàn diện của Sư phụ hay thượng sư, thì căn bản là không thể; Sư phụ sẽ bảo hộ bạn cho đến khi bạn tu luyện đến mức có thể tự bảo vệ chính mình.

(Mười hai)

Khi hai sư đồ Đường Tăng đi đến Quan Âm Thiền Viện, do tâm hiển thị của Tôn Ngộ Không lại nổi lên, nên mới đem áo cà sa gấm ra khoe khoang với Kim Trì Trưởng lão. Khiến vị hòa thượng đã sống 270 tuổi ấy nổi lòng tham, nước mắt rưng rưng, rồi cùng hai đồ đệ là Quảng Mưu và Quảng Trí bàn bạc, lập mưu hại chết thầy trò Đường Tăng. Nhưng cuối cùng “khiến lão hòa thượng nhiều tuổi mất mạng, Quan Âm Thiền Viện hóa thành tro bụi!” Ở đây, tên nhân vật có ngụ ý của nó: Kim Trì Trưởng lão đồng âm với “căng trì” (矜持) tượng trưng cho tâm kiêu ngạo. Chính tâm hư vinh và tâm đố kỵ đã khiến ông ta bừng bừng lửa đố kỵ, hại người hại mình, không thấy tường chắn thì không dừng lại, cuối cùng đâm đầu vào tường mà chết. Hai đồ đệ của ông ta là Quảng Mưu và Quảng Trí, có thể nói là mưu cao trí lớn, nhưng khi bị nhân tâm tà niệm dẫn dắt, vào thời khắc quyết định đúng sai, vì tư lợi cá nhân thường sẽ ra tay độc ác, làm ra chuyện giết người cướp của. Người tu luyện chấp trước vào tài vật, nhất là đối với bảo vật của Phật gia lại càng nên xả bỏ tâm tham vọng tưởng này. Mà Tôn Ngộ Không mượn lồng chắn lửa của Quảng Mục Thiên Vương, có vay có trả, đã tạo nên một bài học rất đáng giá cho người tu luyện. Nhưng cũng chính nguyên do từ anh ta nên áo cà sa mới bị mất. Nghĩ lại năm đó, khi còn ở Tam Tinh Động bái Bồ Đề Tổ Sư học Đạo, cũng chính vì tâm hiển thị mà anh ta đã biến thành một cây đại thụ trước mặt mọi người, cuối cùng bị Tổ Sư trục xuất. Người tu hành cần phải có trí nhớ, nếu không thì một đống tâm chấp trước biết đến bao giờ mới cắt đứt được? Cần biết rằng tu luyện có thời gian hạn chế, thời gian không đợi người đâu!

Một cơn sóng chưa yên, một cơn khác lại nổi, con yêu tinh gấu đen lại nhân lúc trời tối đánh cắp áo cà sa của Phật. Con yêu quái này còn cùng với một Đạo sỹ và một tú tài áo trắng bàn bạc mở hội “Phật Y” để ăn mừng. Không ngờ Tôn Ngộ Không đến kịp, trước sau đánh chết cả Đạo sỹ lẫn tú tài áo trắng, cũng chính là một con sói xám và một con rắn hoa trắng thành tinh hóa thành. Trong vũ trụ có một quy luật, chính là không cho phép động vật tu luyện, bởi vì một khi chúng tu luyện thành tinh, tất yếu sẽ ra ngoài hại người, làm điều xấu, can nhiễu Chính Pháp. Còn Hùng Sơn Quân Hắc Đại Vương kia là một con gấu đen đã tu thành hình người. Nó thường lui tới chùa để bàn luận kinh thư với Kim Trì Trưởng lão và còn truyền thụ cho ông ta một số thuật dưỡng thần điều khí, vì thế hai bên xem nhau như bằng hữu. Tâm ma của yêu tinh gấu đen chính là hùng tâm, tâm muốn làm các việc mà người ta thường nói. Cái gọi là “hùng tâm tráng chí” của con người, xét cho cùng cũng chỉ là một vài tiểu chí ở thế gian mà thôi. Tuy loại tâm này có thể tế thế, nhưng không thể cứu người, và cuối cùng vẫn là gây ra tai họa vô cùng. Lại nhìn về phía Kim Trì Trưởng lão, một khi đã tu hành Phật môn thì có vấn đề liên quan đến bất nhị pháp môn, vậy mà ông ta lại tự ý dẫn bàng môn ngoại đạo vào, chẳng khác nào pha trộn luyện tà pháp, cuối cùng rước họa vào thân. Hơn nữa, họ đều tham luyến áo cà sa của Phật, cũng là chấp trước đại kỵ của người tu luyện xuất gia. Người tu hành đã từ bỏ hết thảy chấp trước trong người thường, tại sao vẫn còn chấp trước vào đồ vật, vật phẩm trong tu Phật tu Đạo? Trái ngược với điều này, trong hồi thứ 98 của Tây Du Ký, khi A Nan và Ca Diếp dẫn Đường Tăng vào xem kinh thư, họ nhiều lần ngỏ ý với Đường Tăng muốn nhận tặng vật. “Đường Tam Tạng không có gì để tặng, bèn sai Sa Tăng lấy ra chiếc bát vàng, hai tay dâng lên”. Đây không chỉ là việc làm gương cho các tăng ni hòa thượng về việc cúng dường của tín đồ đời sau, kỳ thực còn có ngụ ý sâu sắc, chính là khi tu luyện đến bước cuối cùng, phải tu bỏ nốt nhân tâm chấp trước để đạt đến vô lậu. Cuối cùng, Quan Âm Bồ Tát thu phục yêu tinh gấu đen, làm một vị Thần bảo hộ núi, “Bồ Tát cũng mang theo gấu đen, thẳng đường quay về đại hải”. Biển cả chính là giọt nước mắt từ bi của Phật hóa thành. Bồ Tát từ nơi từ bi tới, rồi cũng trở về chốn từ bi. Đợi Tôn Đại Thánh nổi lửa thiêu rụi Hắc Phong Động, mới kết thúc một quan nạn.

(Mười ba)

Khi hai thầy trò Đường Tăng đi tới Cao Lão Trang, tại động Vân Trạm, Tôn Ngộ Không đã thu phục Trư Ngộ Năng. Trư Ngộ Năng vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái, chỉ vì say rượu trêu ghẹo Hằng Nga mà bị đày xuống hạ giới. Như chính anh ta từng tự giới thiệu: “Từ nhỏ tính tình vụng về, ham chơi lười biếng, chẳng muốn làm gì”. Sau khi xuống trần, lại tình cờ nên duyên, trở thành con rể nhà họ Cao. Dù sao anh ta căn cơ không tầm thường, có duyên phận lớn, nên được Quan Âm Bồ Tát chọn làm đồ đệ thứ hai của Đường Tam Tạng, ban cho pháp danh Ngộ Năng. Kỳ thực anh ta chính là bản năng chân thực của con người, là thể hiện và cách nghĩ chân thực không sai của trí huệ và trí lực. Lại vì anh ta vốn đã đoạn trừ ngũ huân, nên Đường Tăng đặt thêm cho anh ta một biệt danh khác là Trư Bát Giới. Có thể thấy giới luật trong tu luyện cũng là điều vô cùng quan trọng. Nếu phá giới, thì muôn kiếp khó tu, chẳng khác nào tự hủy diệt chính mình. Trong hồi thứ 19, có một bài thơ thuyết minh rất chuẩn xác lợi ích mà Đường Tăng nhận được khi thu nhận hai đồ đệ:

Kim cứng dễ dàng khắc mộc,
Tâm viên hàng phục mộc long quy phục.
Kim theo mộc thuận một lòng,
Mộc mến kim nhân cùng phát huy.
Một chủ một khách chẳng phân biệt,
Tam giao tam hợp huyền cơ vô cùng.
Tâm tính cùng vui, trinh nguyên tụ,
Tây phương chứng quả rành rành chẳng sai.

Khi đã thu phục được hai đồ đệ, tính tình Đường Tăng cũng trở nên hòa hợp, ổn định hơn trên con đường tu luyện. Chính nhờ sự đề cao trí huệ và thăng hoa cảnh giới này mà tâm trí ông mới được khai mở. Khi nghe Ô Sào Thiền Sư tụng đọc “Đa Tâm Kinh”, chỉ nghe một lần mà ông đã có thể ghi nhớ ngay. Kỳ thực việc đi qua núi Phù Đồ gặp Ô Sào Thiền Sư cũng có ngụ ý trong đó. “Phù Đồ” nghĩa là giác ngộ, còn “Ô Sào” (tổ quạ) có thể hiểu là hành trình tu luyện trong đêm tối của thế gian, cần phải tự chứng ngộ đạo lý. Thiền sư chính là ngọn đèn soi đường trong màn đêm của tâm linh khi tu luyện. Chỉ có một ngọn đèn trong tâm mới có thể chiếu sáng con đường dẫn đến cảnh giới Phật Như Lai ở Tây Thiên. Mà thiền sư hóa thành kim quang, bay thẳng lên tổ quạ: “Chỉ thấy hoa sen nở vạn đóa, ngàn tầng mây lành che chở”. Tôn Hành Giả lúc đó “múa thiết bảng đập loạn xạ, dù có sức mạnh dời non lấp biển cũng chẳng thể chạm vào một sợi dây trên tổ quạ. Điều này chứng tỏ rằng những người đã chân tu đắc Đạo thì không ai có thể động đến được.

Còn có Trư Bát Giới dù đã có vợ nhưng vẫn xuất gia theo Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh. Lại bởi vì những hành vi không đúng đắn trên thiên giới, nên khó tránh khỏi việc nội tâm tích tụ những thói quen xấu về ái dục và sắc tâm, thỉnh thoảng vẫn biểu hiện ra trên con đường tu luyện sau này. Chỉ khi giữ vững chính niệm, tuân thủ giới luật, mới có thể dần dần khắc phục những thói quen cố hữu đó. Ngoài ra, anh ta từng nói đến “hận khổ tu hành”, điều này có thể chấp nhận được trong giai đoạn mới nhập môn tu luyện. Nhưng tu luyện chính là phản bổn quy chân, cơ điểm này nhất định cần xếp đặt cho chính, nếu không thì dù bận rộn cả đời cũng khó thành chính quả.

(Mười bốn)

Khi ba thầy trò Đường Tăng đi đến núi Hoàng Phong Lĩnh, họ gặp phải Hoàng Phong Quái, một yêu quái giỏi thổi Tam Muội Thần Phong, khiến họ không thể tiến về phía trước và còn làm Tôn Ngộ Không bị bệnh mù mắt. May nhờ Lý Trường Canh dùng “Tam Hoa Cửu Tử Cao” chữa khỏi phong nhãn cho Ngộ Không, lại mời được Linh Cát Bồ Tát, dùng Phi Long Trượng và Định Tâm Đan để hàng phục tên yêu quái gió này, đồng thời cứu Đường Tăng khỏi cột Định Phong. Toàn bộ việc này là nhờ công lao lần đầu tiên hòa hợp tính cách của hai người Tôn Ngộ Không và Trư Ngộ Năng, sự hòa hợp giữa tâm linh và bản năng. Giống như tình huynh đệ, khi tính cách hòa hợp, tâm khí điều hòa, ý chí kiên định thì có thể hàng phục yêu quái gió. Mà Hoàng Phong Quái thực chất là một con chồn lông vàng. Nó vốn là một con chuột đắc Đạo dưới chân núi Linh Sơn, nhưng vì ăn trộm dầu mà thành tinh, tạo ra kiếp nạn này. Quả đúng là “vô phong bất khởi lãng” (không có gió thì sóng chẳng nổi lên). Gió có thể làm hỏa bùng cháy, mà tấn công vào tim, hỏa lại khắc mộc, tổn hại đến gan, gọi là bất nhân. Vì thế, cần phải diệt hỏa để dưỡng lòng nhân, trước tiên phải giữ chặt yêu quái gió. Chuột thuộc Tý (子), tượng trưng cho sự phá vỡ hỗn độn, mở ra một kỷ nguyên mới. Hành trình thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng cũng giống như vượt được bước đầu trong hàng vạn bước chân.

Khi thầy trò Đường Tăng đến Lưu Sa Hà: “Tám trăm dặm Lưu Sa, ba nghìn dòng nhược thủy sâu”. Sự phối hợp giữa Tôn Ngộ Không và Trư Ngộ Năng đã trở nên ngày càng thành thục. Tuy nhiên, vì tâm tính giảo hoạt của Sa Ngộ Tĩnh, nên Trư Bát Giới ba lần giao đấu mà vẫn không thể hàng phục. Sau cùng, phải nhờ Quan Âm Bồ Tát sai Huệ Ngạn Mộc Tra đi tới, mới thu phục được Sa Hòa Thượng, trở thành đệ tử thứ ba của Đường Tăng. Tên của Sa Ngộ Tĩnh đương nhiên cũng mang ý nghĩa ngộ được tính tĩnh của bản tính. Ngộ Tĩnh tượng trưng cho kim trong ngũ hành, mà tâm tính cũng chính là thể hiện chân thực của sự kết hợp giữa Ngộ Không và Ngộ Tĩnh. Do đó nói tu tâm tính mới là đạo căn bản của tu luyện. Sa Hòa Thượng nguyên vốn là Quyển Liêm Đại Tướng trên thiên đình. Vì tâm tính không thanh tịnh, bất cẩn lỡ tay làm vỡ ly lưu ly, may nhờ Xích Cước Đại Tiên nói giúp, mới thành toàn cho tình thủ túc này, mới có cơ hội xuống phàm gian bảo hộ Đường Tăng, quy y cửa Phật, đắc chính quả và trở về thiên đình. Từ đây, trong hồi thứ 22, bốn thầy trò cùng Bạch Long Mã chính thức quy tụ đầy đủ, họ toàn tâm toàn ý, dũng mãnh tinh tấn, cùng tiến bước trên hành trình đi Tây Thiên thỉnh kinh. Có bài thơ làm chứng:

Ngũ hành phối hợp với thiên chân,
Nhận rõ chủ nhân cũ từ trước.
Luyện mình vững gốc công dụng diệu,
Biện rõ tà chính hiểu nguyên nhân.
Kim quy bản tính về đồng loại,
Mộc khứ cầu tình lại quay lại.
Hai thổ toàn công thành tịch mịch,
Điều hòa thủy hỏa sạch bụi trần.

Mà Lưu Sa Hà “Tám trăm dặm Lưu Sa, ba nghìn dòng nhược thủy sâu”, chính là ngụ ý cho cảnh ngộ đời người. Khi họ vượt qua tám trăm dặm Lưu Sa Hà, cũng từ đây đã siêu thoát phiền não nhân tâm, giúp bản tính được thăng hoa: “Liễu ngộ chân như, thoát khỏi khóa trần, Tự mình nhảy ra biển tính lưu sa, Không còn chướng ngại, nhẹ bước một đường đi về phía Tây”. Còn chiếc thuyền Pháp được kết thành hình Cửu Cung tạo bởi chín chiếc đầu lâu buộc dây, rồi đặt lên đó một bầu hồ lô của Bồ Tát, chính là sự ám chỉ rõ ràng rằng chư Thần, chư Phật trên trời đã phái thuyền Đại Pháp xuống để phổ độ chúng sinh. Hình tượng chín chiếc đầu lâu ám chỉ chín lần đại hủy diệt của vũ trụ này, còn Cửu Cung có thể giải thích là một đại khung vũ trụ mới sẽ được trùng tổ. Đây cũng chính là thiên cơ bí mật ẩn chứa trong Pháp thuyền làm từ bầu hồ lô, mới gọi là “bầu hồ lô đại bí mật” là nền tảng của thuyền Đại Pháp. Khi chưa đến thời khắc cuối cùng, chư Thần, chư Phật sẽ không tiết lộ. Chỉ những người tu luyện chân chính, có đại trí huệ mới có thể đến được bờ bỉ ngạn viên mãn. Vì thế, Bồ Tát mới phái sứ giả của mình là Mộc Tra hành giả, còn gọi là Huệ Ngạn. Còn Tôn Ngộ Không, trên đường đi mỗi khi gặp khó khăn quan nạn không thể tự mình giải quyết, đều tìm đến Quan Âm Bồ Tát hoặc các vị Phật Đạo Thần có thể giải quyết vấn đề. Kỳ thực đó chính là biểu hiện của việc anh ta vận dụng pháp bảo là học Pháp tốt, hướng nội tìm và vận dụng trí huệ một cách linh hoạt, cũng chính là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề trên con đường tu luyện.

(Mười lăm)

Khi bốn thầy trò Đường Tăng tiếp tục hành trình về Tây Phương, thử thách đầu tiên họ gặp phải chính là khảo nghiệm từ bốn vị Bồ Tát: Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và Lê Sơn Lão Mẫu. Có thể nói, đây là một khảo nghiệm toàn diện. Bởi vì con người sống trên thế gian, chẳng qua cũng chỉ bởi danh, lợi, tình, hoặc tiền tài và sắc dục. Mà cầu phú quý, sắc đẹp và thành gia lập nghiệp đã trở thành ba quan nạn tất phải vượt qua trên con đường tu luyện. Tôn Ngộ Không “sớm nhận ra đây chính là sự điểm hóa của Phật Tiên, anh ta lại không dám tiết lộ thiên cơ”, cho thấy tâm tính của anh ta đã tương đối ổn định, minh tâm kiến tính, khi gặp bất kể việc gì cũng đều làm được bất động tâm, mới là bản sắc nên có của người tu luyện. Cả Đường Tăng và Sa Hòa Thượng khi vượt quan, cũng đứng vững trước khảo nghiệm, chỉ có Trư Bát Giới lại động tâm, tâm vẫn chưa buông xuống được, suýt chút nữa phạm phải giới luật. Anh ta từng nói: “Thường nói rằng: ‘Hòa thượng là quỷ đói sắc dục’, ai mà không như thế?” Chính vì con người đều có tâm này, do đó khi mới bắt đầu, quan này yêu cầu người tu luyện ai ai cũng phải vượt qua, không có ngoại lệ, đây cũng là chỗ khác biệt thực sự giữa người tu luyện và người thường.

Lại nói về Pháp khí trong tay từng người họ. Cây cửu hoàn tích trượng mà Đường Tăng cầm là Pháp khí do đích thân Phật Thích Ca Mâu Ni trao cho. Tuy nhiên, tích trượng làm từ thiếc, ở nhân gian mà xét thì là một kim loại có nhiệt độ nóng chảy rất thấp, dễ bị tan chảy. Điều này hàm ý rằng chỉ khi tu luyện đạt được ý chí kim cang, vững như bàn thạch, kiên trì đi đến mục tiêu cuối cùng mới có thể công thành viên mãn. Đồng thời, có ý chỉ “Vậy nên lấy vàng và thiếc để ví với đức sáng” (trích Văn Tâm Điêu Long). Về phần Tôn Ngộ Không, cây gậy Như Ý chính là Định Hải Thần Châm của Thiên Hà. Còn cào chín răng của Trư Bát Giới được làm từ thần băng thiết. Cả hai huynh đệ bọn họ đều sử dụng Pháp khí bằng sắt, thể hiện ý chí kiên định như sắt thép của hai người. Trong khi đó, bảo trượng hàng yêu của Sa Tăng tuy chỉ là một cây gậy gỗ, nhưng cũng không tầm thường, mà là gỗ được lấy từ Mặt Trăng, bên trong thân gậy có phong ấn một thanh kim loại. Điều này thuyết minh rằng kim tính trong người Sa Tăng là vững chắc không đổi, một lòng không dao động. Bốn Pháp khí của họ có thể nói là sự thể hiện ra bên ngoài của tư tưởng, chủ trương và trí huệ thần thông riêng của mỗi người. Gậy Như Ý là vật thuộc về thuần dương, đánh khắp thiên hạ không địch thủ. Cây cửu hoàn tích trượng và cào chín răng đều ứng với số “chín”, là con số quý lớn thuộc về dương. Chỉ có bảo trượng của Sa Tăng được chế tác từ gỗ lấy trên Mặt Trăng, thuộc về âm, thể hiện bản tính tĩnh lặng, chí chân chí tính. Thêm vào đó, có Bạch Long Mã, giúp cân bằng âm dương ngũ hành, nhất thể quy chính quy chân, mới có thể siêu phàm thoát tục, siêu phàm nhập Thánh.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56627

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (2)https://chanhkien.org/2025/02/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-2.htmlThu, 27 Feb 2025 04:19:16 +0000https://chanhkien.org/?p=36637Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] (Sáu) Tôn Ngộ Không lĩnh nhận chiếu chỉ chiêu an, được truyền lên Thiên giới, Ngọc Hoàng Đại Đế phong cho chức “Bật Mã Ôn”, trông coi nuôi dưỡng ngàn con thiên mã. Từ đó, Ngộ Không cũng được tính là có tên trong sổ Tiên, ở trong hàng ngũ […]

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

(Sáu)

Tôn Ngộ Không lĩnh nhận chiếu chỉ chiêu an, được truyền lên Thiên giới, Ngọc Hoàng Đại Đế phong cho chức “Bật Mã Ôn”, trông coi nuôi dưỡng ngàn con thiên mã. Từ đó, Ngộ Không cũng được tính là có tên trong sổ Tiên, ở trong hàng ngũ quan lại. Từ một yêu tiên nơi hạ giới nhảy vọt trở thành nhân vật trên trời. Nhưng khi Tôn Ngô Không biết “Bật Mã Ôn” chỉ là một chức quan tép riu nhỏ bé thì liền nổi giận, đánh ra Nam Thiên Môn, trở về Hoa Quả Sơn. Từ đó, treo cờ tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh”. Kỳ thực, Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi sinh tử, ngộ được bản tính chân thật của tâm không, đạt đến trạng thái vô sinh vô diệt, có thể cùng trường tồn với đất trời, thọ ngang nhật nguyệt. Thường có câu rằng: “Tâm làm nguyên thủ, gan làm tướng quân”, lại thêm tâm đó cao hơn trời. Có thể nói Tôn Ngộ Không tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh” cũng không sai chút nào. Mà những kẻ kết giao huynh đệ với Tôn Ngộ Không cũng tự phong cho mình là Đại Thánh: Ngưu Ma Vương tự xưng “Bình Thiên Đại Thánh”, Giao Ma Vương tự xưng “Phúc Hải Đại Thánh”, Bằng Ma Vương tự xưng “Hỗn Thiên Đại Thánh”, Sư Đà Vương tự xưng “Di Sơn Đại Thánh”, Di Hầu Vương tự xưng “Thông Phong Đại Thánh”, Nhung Ma Vương tự xưng “Khu Thần Đại Thánh”. Tất cả đều là biểu hiện của tâm ma bên ngoài mà thành.

Hồi thứ bảy có một bài thơ: “Viên hầu đạo thể phối nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm. Đại Thánh Tề Thiên phi giả luận, Quan phong Bật Mã thị tri âm. Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phọc lao thằng mạc ngoại tầm. Vạn tướng quy chân tùng nhất lý, Như Lai đồng khế trụ song lâm” (Tạm dịch: Khỉ đây đạo thể hợp tâm người, Tuy khỉ nhưng lòng nghĩ sâu xa. Đại Thánh dẹp trời đâu chuyện giả, Quan phong “Bật Mã” há vui sao? Tâm viên ý mã hai loài ấy, Trói chặt ngay vào chớ buông lơi. Muôn nẻo về nguồn theo một lý, Rừng sâu tu luyện học Như Lai). Xét về thiên mệnh của Tôn Ngộ Không mà nói, phong cho anh ta làm Bật Mã Ôn thực sự rất thích hợp. Chỉ có nhân tâm là khó hàng phục nhất, tâm viên ý mã mới dẫn đến “khi Thiên phạm thượng đòi địa vị, lừa Thánh trộm đan loạn thiên luân” mà bị trời phạt báo ứng. Về sau, Ngọc Hoàng Đại Đế lại phong anh ta làm “Tề Thiên Đại Thánh”, hơn nữa còn xây cho một phủ đệ mang tên Tề Thiên Đại Thánh Phủ, trong phủ đặt hai ti: một gọi là “An Tĩnh Ti”, một gọi là “Ninh Tĩnh Ti”. Chỉ cần anh ta tâm an, tính tĩnh, thì có thể toại nguyện, hiểu thấu thiên mệnh, mãi mãi ở Thiên giới. Nhưng cảnh đẹp chẳng được lâu dài, sự đời khó theo ý muốn. Tôn Ngộ Không kiêm quản trông coi Vườn Đào, lấy việc công làm việc tư để trộm đào, trộm thức ăn, trộm rượu, còn lẻn vào lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân ăn trộm tiên đan sau đó rời khỏi Thiên Cung, cuối cùng bị Nhị Lang Thần bắt giữ, áp giải lên đài trảm yêu. “Dao chém rìu bổ, lửa thiêu sét đánh, nhưng thân thể không hề mảy may thương tổn”. Rồi Ngộ Không lại bị nhốt vào lò Bát Quái của Lão Quân, luyện suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày, luyện thành một đôi mắt hỏa nhãn kim tinh, sau đó đá tung lò Bát Quái, một đường đại náo Thiên Cung, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai hàng phục, đè dưới Ngũ Hành Sơn, khát uống nước rỉ đồng, đói ăn viên sắt. Lần bị núi đè này kéo dài suốt năm trăm năm. Tuy nói Tôn Ngộ Không phạm vào tội cuồng vọng nghịch thiên, nhưng anh ta đã đạt đến cảnh giới “Hỗn Nguyên Thể hợp với tiên thiên”, lại tinh thông pháp thuật tránh “Tam Tai hại mệnh”, nhân tâm này đã là thể kim cương thuần dương, tính không linh quang thấu tận hư không. Vì thế, vào lửa không thể bị cháy, vào nước không thể bị nhấn chìm. “Ác nghiệp tràn đầy thân chịu khổ, Thiện căn chưa dứt, khí còn đây”. Vậy nên, số mệnh Tôn Ngộ Không chưa thể kết thúc. Sau này còn có một sứ mệnh lớn hơn và những ma nạn lớn hơn đang chờ đợi. Chỉ khi anh ta gặp được thánh tăng Huyền Trang, vị cao tăng nhà Đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, mới có thể thoát khỏi sự trấn áp của Ngũ Hành Sơn và kết thúc năm trăm năm kiếp nạn.

Nếu nhìn từ góc độ sâu hơn về hành trình của Tôn Ngộ Không, từ lúc sinh ra, theo Bồ Đề Tổ Sư học Đạo, rồi lên trời, xuống đất, xuống biển, một đường đánh giết, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai trấn áp dưới Ngũ Hành Sơn, hình tượng này có nhiều cách giải thích theo nhiều góc độ: thiện và ác, tĩnh và động, nội và ngoại, hồng quan và vi quan, trừu tượng và cụ thể. Đầu tiên, về thiện và ác của anh ta, đúng như trong sách đã mô tả: khi tâm an, tính tĩnh, có thể ngộ Đạo, tham thiền tu luyện; Phật tính nhất xuất, chấn động thế giới mười phương, đoạn trừ ma chướng, quy về bản nguyên, phản bổn quy chân, không đánh mất bản tính tiên thiên. Nhưng do bị ô nhiễm bởi thói quen, môi trường, quan niệm hậu thiên cùng với việc kết giao với những kẻ trong ma đạo thú vật, dẫn đến tâm ma trỗi dậy, làm tiêu tan tinh thần, kiêu căng nóng nảy, lừa dối trời đất, đại nghịch bất đạo. Khi nội tâm bình lặng, thiên hạ cũng được thanh bình, an nhiên, hài hòa. Còn nếu như tham cầu ngoại vật, chỉ khiến tâm tình bất an, để lợi ích che mờ trí tuệ, ngoan cố cứng đầu, làm loạn tâm Pháp, quên hết thiên lý, rồi làm ra những hành vi bất chính. Đào sâu hơn, việc Tôn Ngộ Không xuống Đông Hải lấy Kim Cô Bổng, vào U Minh Giới xóa sổ sinh tử, rồi lên trời đại náo Thiên Cung, chính là quá trình thoát thai hoán cốt của tâm anh ta, một quá trình tôi luyện sống còn, đoạn tuyệt với phàm trần để siêu phàm nhập Thánh. Một âm một dương tạo thành Đạo, tuy rằng anh ta đã tu luyện thành Đạo trong Tam giới ngũ hành, đắc được tiên thể, có thể biến hóa thần thông, nhưng sự thăng hoa tâm tính và đề cao cảnh giới đều phải đồng thời đột phá lên theo mới được. Do đó nói lý của con người đối với Tôn Ngộ Không mà nói đã trở thành phản lý, chỉ có cắt bỏ đi mới là đúng đắn. Mà Phật Tổ Như Lai dùng năm ngón tay hóa thành Ngũ Hành Sơn để trấn áp anh ta, chính là sự thể hiện của loại công phu “Tam Muội Đại Định” (trạng thái thiền định sâu sắc). Khi đó, tâm linh của Tôn Ngộ Không được tịnh hóa hoàn toàn. Chỉ khi cái tâm này hướng Thần, kính Đạo, lễ Phật, nhất niệm quy chính, hoàn toàn không động tâm thì Đường Tăng Huyền Trang mới có thể đủ tín tâm, ý chí kiên cường và tín niệm không lay chuyển mà vượt qua ngàn dặm núi non hiểm trở, đối mặt với yêu ma quỷ quái, vượt qua chín chín tám mươi mốt quan nạn, đi Tây Thiên thỉnh kinh, viên mãn công thành, ngũ thánh thành chân.

(Bảy)

Từ đầu truyện đến đây, bản lĩnh thần thông bảy mươi hai phép biến hóa lên trời, xuống đất, xuống biển của Tôn Ngộ Không, nói thẳng ra chính là phương thức biểu đạt tư tưởng như ý của bản tính tiên thiên của anh ta, không bị trói buộc bởi âm dương bát quái, tam giới ngũ hành. Mà việc anh ta bị Phật Tổ Như Lai dùng năm ngón tay hóa thành Ngũ Hành Sơn chính là thể hiện của trạng thái nhập định sâu. Điều này nói nên rằng cái tâm của anh ta, nhân vật chính này đã bắt đầu bước vào trạng thái ổn định, đã chuẩn bị đầy đủ cho tu luyện sau này và hoàn thành sứ mệnh trọng đại. An bài bước tiếp theo chính là Phật Thích Ca Mâu Ni muốn truyền Phật Pháp sang Đông Thổ, nhưng: “Đáng tiếc thay, chúng sinh nơi đó ngu muội, phỉ báng lời chân thật, không hiểu yếu chỉ của Pháp môn ta”. Vậy nên, “cần phải tìm một người thiện tín ở Đông Thổ, để người đó trải qua nghìn vạn dặm núi sông gian khổ, đến nơi ta cầu chân kinh, vĩnh truyền Đông Thổ, hóa độ chúng sinh”. Đây cũng chính là nguồn gốc của kiếp nạn đầu tiên mà Kim Thiền Tử, vị đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni phải chịu khi bị đày xuống nhân gian. Khi Kim Thiền Trưởng Lão được xác lập là người đi lấy kinh Đường Tăng, khiến toàn bộ thân tâm của ông trở thành đại diện cho sự hợp nhất của thể sinh mệnh chính, đồng thời phó nguyên thần của ông cũng dần được xác định, chính là Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng, Sa Ngộ Tĩnh và Bạch Long Mã. Trong hồi thứ tám, có bài thơ rằng: “Nhân tâm sinh nhất niệm, Thiên địa tận giai tri. Thiện ác nhược vô báo, Càn khôn tất hữu tư”. Điều này cho thấy rõ Tôn Ngộ Không, làm chủ tâm và làm chủ thần chí, đã hạ định quyết tâm đi trên con đường Phật pháp đại Đạo, tu thành chính quả. Ngộ Không là ngộ ra bản tính. Ngộ Năng là ngộ ra bản năng. Ngộ Tĩnh là ngộ ra bản tính. Sinh mệnh con người nằm ở tam bảo tinh – khí – thần, khi tính tĩnh, thân tâm sẽ cân bằng và hòa hợp. Quá trình ba người hòa hợp cũng chính là hành trình Đường Tam Tạng tự thân không ngừng học Pháp, ngộ Đạo, tu luyện, ma luyện và vượt quan, đề cao tâm tính. Còn Bạch Long Mã là cước lực đại diện cho khảo nghiệm ý chí kiên trì và phẩm chất của người tu luyện. Đường Huyền Trang là chủ nguyên thần, chủ ý thức, cũng chính là ý niệm. Sa Hòa Thượng, từng nuốt chín người đi lấy kinh tại Lưu Sa Hà, những hộp sọ của họ treo lủng lẳng dưới cổ anh ta, chờ đợi người đi lấy kinh. Ở đây cũng ngụ ý quá trình vũ trụ đại khung của chúng ta đã chín lần hủy diệt và trùng tổ. Mà bốn thầy trò họ quy y nhập sa môn cũng ngụ ý một đại sự sẽ phát sinh trong tương lai. Chữ “沙” (Sa) có thể chiết tự thành “三” (ba) và “少” (ít), mà tám trăm dặm Lưu Sa Hà, nhược thủy tam thiên chính là ẩn dụ tượng trưng cho thế giới nhân loại, đặc biệt là cõi Nam Thiệm Bộ Châu nơi chúng ta đang sống. “Tham dâm vui thú gây tai họa, giết chóc tranh giành, lời lẽ hiểm ác, chìm đắm trong biển tội nghiệp”. Con người đạo đức băng hoại, cam tâm sa đọa, nhìn một cái là biết. Do đó, chúng sinh nơi đó cần nhanh chóng khiến đạo đức thăng hoa, để tránh bị đào thải trong vận mệnh bi thương. Vì thế, Chủ Phật từ bi sẽ giáng thế trong thời kỳ mạt pháp, mạt kiếp để Chính Pháp độ nhân. Trước đây, mười phương thế giới cũng vì thiếu hụt “三” (ba) và “少” (ít) mà khiến sinh mệnh vũ trụ mất đi sự ước thúc của tâm Pháp. Do đó mới cần quảng truyền Đại Pháp, tam tự chân ngôn thâm sâu huyền diệu – Chân, Thiện, Nhẫn.

(Tám)

Long Vương sông Kinh Hà vì đố kỵ với khả năng bói toán chuẩn xác của Viên Thủ Thành, nên đã cố tình cắt giảm lượng mưa, phạm phải luật Trời, theo lý đáng bị xử tử. Tuy nhiên, Viên Thủ Thành đại phát từ bi, chỉ điểm Long Vương đến tìm Đường Thái Tông Lý Thế Dân cầu giúp đỡ, để tránh bị quan ở nhân gian là Ngụy Trưng chém đầu. Đường Vương trong giấc mộng đã đồng ý, nhưng đạo nhân gian và âm gian khác biệt, mạng của Long Vương vốn đã định sẵn một đao này. Cuối cùng, trời xui đất khiến, Long Vương sông Kinh Hà vẫn bị Ngụy Trưng chém đầu thị chúng tại Quả Long Đà. Do đó, Quỷ Vương sông Kinh Hà xuống Âm Ti, đến điện Diêm Vương kiện cáo Đường Vương đã hứa cứu nhưng lại để hắn bị giết hại. Điều này dẫn đến việc Đường Vương vào năm Trinh Quán thứ mười ba, hồn lìa xác, xuống cõi U Minh địa phủ một chuyến. Tại đây, ông tận mắt chứng kiến những vong hồn và cảnh tượng địa ngục thê lương, liền phát nguyện: “Sau khi trở lại dương gian, trong hai mươi năm sẽ lập đàn thủy lục pháp hội, siêu độ vong hồn và oan hồn”. Quả nhiên Đường Vương giữ đúng lời hứa, lập tức kính Trời lễ Phật, làm điều nhân đức, khiến thiên hạ thái bình thịnh thế. Theo ý chỉ của Quan Thế Âm Bồ Tát, Đường Vương lại phái Trần Huyền Trang đi Tây Thiên nơi Phật Như Lai cầu kinh Phật, để quảng truyền Đại Thừa Phật Pháp, phổ độ chúng sinh có thiện duyên.

Ở đây, tôi có những phân tích quan trọng dưới đây, trước tiên, sự kiện này xảy ra bắt nguồn bởi lòng đố kỵ của Long Vương sông Kinh Hà. Có thể thấy rằng, nếu không loại bỏ tâm đố kỵ, đối với một người mà nói thì đó là hại người hại mình, độc tính của nó vô cùng mạnh mẽ, gây hại sâu xa. Là một người tu luyện, điều quan trọng đầu tiên là phải loại bỏ tâm đố kỵ này. Ngoài ra, Thôi phán quan lại thêm cho Đường Vương hai mươi năm dương thọ, có thể nói là một lần minh chứng và bảo đảm cho việc dùng sinh mệnh được kéo dài sau này tận tâm tận lực vì Phật Pháp. Cho dù là người cứu độ hay chúng sinh được cứu độ, hễ những ai tiến vào trong Tam giới và Trái Đất, hết thảy sinh mệnh đều là vì Pháp mà đến. Có thể nói, sự quý giá của thời gian là vô cùng trọng yếu, đời người có được mấy lần hai mươi năm? Hơn nữa, thực chất Đường Vương chính là đại diện cho vị chủ thực sự của Phật Pháp. Đây chính là một lần kiến chứng cho việc Chủ Phật trong thời kỳ cuối cùng sẽ truyền rộng Đại Pháp tại Đông Thổ Trung Nguyên và quay trở lại với chính mình. Mà Đường Tăng chính là kết quả của sự nỗ lực này. Cuối cùng, hãy nói về Đường Huyền Trang. Ông chính là đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử, pháp hiệu Tiên Âm. Vì không nghe Pháp mà bị đày xuống trần gian, sau đó được Quan Âm Bồ Tát đưa đến đầu thai vào gia đình Trần Quang Nhụy. Vừa mới giáng thế đã mồ côi cha trong bụng mẹ, không còn cách nào nên bị mẹ là Ân thị thả trôi sông, may mắn được hòa thượng Pháp Minh của chùa Kim Sơn cứu giúp, đặt tên là Giang Lưu, nuôi nấng trưởng thành, báo thù rửa sạch mối huyết hận cho cha mẹ. Đây chính là khái lược bốn kiếp nạn đầu tiên trong tổng số chín chín tám mươi mốt kiếp nạn được đề cập trong tác phẩm. Hồi thứ mười hai có một bài thơ mô tả thân thế tao ngộ của Đường Huyền Trang, trong đó có câu: “Xuất thân mệnh phạm lạc giang tinh, thuận thủy tùy ba trục lãng ương” (Tạm dịch: Ra đời gặp nạn trôi sông, Sóng to gió cả thuận dòng trôi xuôi). Từ đó có thể thấy do “Lạc giang tinh” mà dẫn đến Pháp nạn. Đây tuy chỉ là một phần mở đầu, nhưng cũng là ám chỉ sự kéo dài và mượn cớ cho Pháp nạn ở phạm vi lớn hơn. Đường Tam Tạng, với tư cách là một hành giả đại đức, gánh vác sứ mệnh lịch sử và sự giao phó của Đường Vương – đi Tây Thiên thỉnh kinh mang Phật Pháp chân kinh về. Đối với sự hồng truyền Đại Pháp cuối cùng của nhân loại lần này, ông đã kiến lập nên công lao vĩ đại không thể xóa nhòa. Có thể nói rằng, toàn bộ lịch sử nhân loại sớm đã được Thần Phật an bài xong xuôi. Chủ Phật hạ thế Chính Pháp độ nhân, hàng vạn Thần Phật theo cùng hạ thế để chứng thực Pháp, tu luyện và cứu người, cũng đều được an bài tỉ mỉ hết từ những niên đại xa xưa. Đọc Tây Du Ký có thể cảm nhận sâu sắc được điều này. Bề ngoài có vẻ như ngẫu nhiên, nhưng thực chất bên trong lại là điều tất nhiên. Tất cả đều đang hướng về giai đoạn cao trào cuối cùng của vở kịch lớn của nhân loại, tức là lời tiên tri trong “Các Thế Kỷ” của Nostradamus từ năm trăm năm trước về sự kiện “Tháng bảy năm 1999, đại vương khủng bố từ trên trời giáng xuống”.

(Chín)

Trong hồi thứ mười ba, trước khi Đường Tam Tạng chính thức lên đường, tại chùa Pháp Vân, ông đã có một cuộc đối thoại với các tăng nhân như sau. Tam Tạng đáp: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt. Đệ tử từng phát hồng thệ đại nguyện trước Phật tại chùa Hóa Sinh, không phải do con không tận tâm này. Lần này lên đường, nhất định phải đến Tây Thiên, bái Phật cầu kinh, để khiến Pháp Luân hồi chuyển, mong cho cơ nghiệp Thánh chủ vĩnh cố”. Đây có thể xem là “thư nhãn” của bộ tiểu thuyết này, tức là điểm mấu chốt của toàn bộ tác phẩm. Nó trực tiếp tiết lộ và là ấn chứng rõ ràng ý đồ sáng tác của tác giả cũng như tầng ý nghĩa sâu xa hơn của câu chuyện. Đồng thời, từ đây cũng có thể thấy rằng hành trình thỉnh kinh, phương thức tu luyện này – cũng là hồng nguyện mà bản thân người đó phát ra. Mà quá trình thỉnh kinh, cũng là thực tiễn và kiến chứng đoái hiện lại lời hứa mà bản thân đã phát ra. Ngoài ra, Đường Huyền Trang cũng lập lời thề: “Trên đường đi, gặp chùa thì dâng hương, gặp Phật thì bái Phật, gặp tháp thì quét tháp”. Đây cũng là đức tin mà một người vừa mới bước trên con đường tu luyện tất phải có. Tín Sư tín Pháp, nội tâm của bản thân cần thời thời khắc khắc quét sạch, không ngừng hướng nội tìm, chỉ có như vậy mới có thể làm được dũng mãnh tinh tấn. Thời điểm mà Đường Tăng xuất hành là ngày 12 tháng 09 năm Trinh Quán thứ 13. Số “13” ở đây có thể xem là một con số luân hồi giáp tử, mang ý nghĩa bắt đầu một sự khởi đầu mới. Trong các chương hồi sau, con số này cũng xuất hiện với ý nghĩa tương tự.

Ban đầu, Đường Tam Tạng lên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh với hai tùy tùng và một con ngựa trắng. Ngay sau khi rời Trường An, họ gặp phải khổ nạn đầu tiên. Tại núi Song Xoa, bị một con hổ tinh bắt đi, hai tùy tùng bị hổ tinh, gấu tinh và ngưu tinh ăn thịt. Con ngựa trắng sau đó cũng bị Bạch Long Mã nuốt vào bụng. Phân tích từ góc độ tượng trưng, tu luyện là việc của bản thân cá nhân, không ai có thể thay thế được. Những người tùy tùng và con bạch mã này chính là thể hiện cho nhân tâm hướng ngoại cầu, tính yếu đuối của nhân tâm và sự thiếu kiên định trong ý chí sẽ hủy hoại ý chí của người tu luyện chỉ trong phút chốc. Vì vậy, việc bị yêu tà và Bạch Long Mã ăn thịt thực chất là một điều đáng mừng. Tu luyện chỉ có thể dựa vào chính mình, dựa vào chính niệm của bản thân và sự giác ngộ của bản tính, tín Sư tín Pháp mới là đảm bảo căn bản nhất để có thể vĩnh viễn bước đi trên con đường của Thần. Kiếp nạn đầu tiên của Đường Tăng xảy ra tại núi Song Xoa, nhìn từ góc độ tượng trưng, đây có thể nói là bắt đầu phân biệt giữa người và Thần khi mới tu luyện. Hổ tinh chính là Dần Tướng Quân, tượng trưng cho con người vẫn tồn tại tâm tranh đấu và tâm tham lam; gấu tinh là Hùng Sơn Quân, biểu hiện cho sự pha trộn giữa hùng tâm, dã tâm và tâm nhút nhát; còn ngưu tinh là Đặc Xử Sĩ, có thể xem là đại diện cho tính tự đại, cố chấp và sự khôn khéo trong cách đối nhân xử thế. Ba loại yêu ma này chính là thể hiện trực tiếp của nhân tâm, và đây cũng là những chấp trước mà người tu luyện cần phải loại bỏ ngay từ đầu. Cũng tức là có thể buông bỏ chấp trước thì chính là Thần, nếu không sẽ rất dễ quay trở lại trạng thái của người thường.

(Mười)

Khi Đường Tăng đi đến biên giới giữa Đại Đường và Thát Đát, ông đã cứu được Tôn Đại Thánh đang bị đè dưới Ngũ Hành Sơn suốt năm trăm năm mãn hạn, thu nhận anh ta làm đồ đệ. Mà khi Tôn Ngộ Không thoát ra khỏi Ngũ Hành Sơn, đất trời rung chuyển, núi non sụp đổ, cho thấy đan trong cơ thể anh ta đã chấn động mệnh môn, đạt đến trạng thái khai ngộ hoặc bán khai ngộ. Từ công năng biến hóa đã thăng hoa lên thần thông, tâm trí định lại và quy chính, từ đó bước lên con đường chân tu đại Đạo. Đây cũng chính là biểu tượng của việc thu nhận Ngộ Không tại Lưỡng Giới Sơn, một sự phân định giữa người và Thần. Mà Thát Đát, vùng đất giáp ranh với Đại Đường, cũng mang ý nghĩa của “thông tiêu đạt đán” (thâu đêm suốt sáng). Trong Âm Phù Kinh, Hoàng đế từng nói: “Tam phản trú dạ, dụng sư vạn bội” (Ba lần phản tỉnh ngày đêm, hiệu quả gấp vạn lần nghe thầy giảng), điều này thể hiện rằng Đường Tăng là chủ thể, chủ nguyên thần, còn Tôn Ngộ Không cũng là nhân vật trung tâm, phó nguyên thần, đồng thời sản sinh tiêu chí trình độ cùng tinh tấn. Chính bởi tâm chính của Tôn Ngộ Không, nên khi gặp sáu tên cướp Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bản Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) (Chú thích của người dịch: đoạn này phù hợp với quan điểm của Phật giáo về lục dục: Mắt muốn nhìn cái đẹp, tai muốn nghe điều hay, mũi muốn ngửi mùi thơm, lưỡi muốn nếm vị ngon, thân xác muốn hưởng thụ cảm giác sung sướng, ý nghĩ muốn chuyện vui thích), liền dùng một gậy đánh chết sáu tâm ma này. Kỳ thực đây cũng là “thân, khẩu, ý” mà Phật gia yêu cầu. Đồng thời phải làm được thị nhi bất kiến (nhìn mà như không thấy), thính nhi bất văn (nghe mà như chưa nghe),… thì mới có thể khiến lục căn của bản thân thanh tịnh, lục tặc không còn tung tích.

Đại Đạo chí giản chí dị, trực chỉ nhân tâm. Tu luyện chính là tu tâm, con người cần trừ bỏ hết thảy các tâm chấp trước mới có thể thành công viên mãn, đạt được kim thân chính quả. Ngay từ đầu, truyện đã nhấn mạnh miêu tả nhân vật trung tâm đại diện cho tâm Tôn Ngộ Không. Ý nghĩa là chỉ khi Đường Tăng ngộ được “bản tâm không” này thì mới có thể khiến tu luyện và thỉnh kinh gặt hái được thành công. Có thể thấy dụng tâm sâu xa của tác giả, hàm ý vô cùng thâm sâu. Vì vậy, khi quy y cửa Phật và chính thức bước lên con đường đại Đạo tu luyện, một người cần có tâm tính ổn định và đôi mắt trí huệ siêu phàm để có thể nhận thức được sự xâm nhập của ma từ sáu thức bên ngoài mà tiêu diệt thanh trừ chúng. Sau đó, đối với một Đường Tăng vẫn chưa thoát khỏi mắt thịt thai phàm mà nói, tư tưởng và cái lý của con người vẫn thi thoảng bộc phát, ảnh hưởng đến hành trình thỉnh kinh. Điều này đã bộc lộ rõ khi ông trách phạt Tôn Ngộ Không. Vì chuyện này mà Tôn Ngộ Không, vốn là “tâm viên ý mã”, cũng vì lòng bất bình trong tâm mà tức giận rời khỏi sự dạy bảo và ước thúc của sư phụ Đường Tăng. Sau khi rời khỏi Đường Tăng, anh ta lập tức tìm đến Đông Hải để ôn lại chuyện cũ với lão Long Vương. Nước ở biển lớn có thể xem là biểu tượng của nguồn gốc sinh mệnh. Chuyến đi này của Tôn Ngộ Không cho thấy thực ra anh ta xác thực vì việc này mà hướng nội tìm, con đường là đúng, chỉ là vẫn chưa đủ chín muồi. Mà những lời dạy bảo của lão Long Vương cũng chính là minh chứng cho sự khai ngộ và mở khóa trong tâm của anh ta. Quan Âm Bồ Tát, với tư cách là thượng sư, vì để giúp cho thầy trò họ có thể đồng tâm hiệp lực, bước đi thật tốt trên con đường tu luyện đầy gian nan, đã ban cho Đường Tăng chú khẩn cô và đặt vòng kim cô lên đầu hành giả Tôn Ngộ Không. Điều này cũng tạo nên đặc điểm bên ngoài của anh ta với tư cách là một người hành giả. Ý nghĩa là, khi làm điều xấu, làm điều không tốt, không nghe lời sư phụ dạy bảo hoặc không đạt tiêu chuẩn của người tu luyện, sẽ khiến anh ta bị đau đầu. Đây cũng là điều mà một người tu luyện thường xuyên gặp phải.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56626

The post “Tây du ký”: Tam thừa giải Pháp (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Tây Du Ký”: Tam thừa giải Pháp (1)https://chanhkien.org/2025/02/tay-du-ky-tam-thua-giai-phap-1.htmlSun, 23 Feb 2025 03:30:35 +0000https://chanhkien.org/?p=36607Tác giả: Lăng Ngộ [ChanhKien.org] Lời dẫn: Không quá lời khi nói rằng cuốn tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng “Tây du ký” là một bộ “Bách khoa toàn thư” liên quan đến tu luyện. Mà quá trình đọc tác phẩm này cũng chính là một quá trình vượt quan, trải qua gian hiểm của […]

The post “Tây Du Ký”: Tam thừa giải Pháp (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lăng Ngộ

[ChanhKien.org]

Lời dẫn: Không quá lời khi nói rằng cuốn tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng “Tây du ký” là một bộ “Bách khoa toàn thư” liên quan đến tu luyện. Mà quá trình đọc tác phẩm này cũng chính là một quá trình vượt quan, trải qua gian hiểm của tâm linh, cũng là quá trình giác ngộ Đạo Pháp và chứng ngộ bản nguyên. Vì đây là cách giải thích theo Tam thừa (Tam thừa giải Pháp), nên tôi sẽ cố gắng lấy đại cục của Chính Pháp ngày nay làm tham chiếu, lại kết hợp với nghiên cứu tỉ mỉ để chắt lọc ra những tinh hoa của tác phẩm và phẩm chất giác ngộ quả vị Phật. Tuy nhiên, do thời gian viết gấp rút, khó tránh khỏi những thiếu sót và sơ suất. Mong mọi người rộng lượng bỏ qua và góp ý chỉnh sửa.

(Một)

Có người nói “Tây du ký” là tiểu thuyết thần thoại hay một tiểu thuyết hư cấu, kỳ thực xét từ góc độ văn bản, nghiêm khắc mà nói thì đây là một bộ tiểu thuyết mang hình thức và thể loại liên quan đến quá trình tu luyện. Tức là triển hiện và giải thích sống động về hành trình tu luyện của một người tu luyện. Vì là thể loại tiểu thuyết, lại là một tác phẩm đại chúng, nên nó phù hợp với mọi lứa tuổi, ai ai cũng biết đến. Tác phẩm này hội tụ cả thô tục lẫn tao nhã, thiện và ác, xuyên suốt từ tầng cao đến tầng thấp của vũ trụ.

Chữ “Tây” mang ý nghĩa là phương Tây, nơi Phật ngự, còn chữ “Du” có nghĩa là hành trình. Cuốn sách này tập trung vào việc vẽ nên một bức tranh rực rỡ về toàn bộ quá trình trải qua chín chín tám mươi mốt kiếp nạn. Vì thế, nó còn có tên gọi là “Tây du Thích ách truyện”. Đây cũng chính là con số đại viên mãn công thành – Cửu cửu quy chân. Một âm một dương hợp lại thành Đạo. Trong quá trình tu luyện đặc thù của thế giới nhị nguyên, việc rèn luyện trong không gian và thời gian đặc định mang ý nghĩa đặc thù và hàm chứa những chân lý chân thực không sai lệch. Đây cũng chính là lý do ngay ở chương đầu tiên của tác phẩm có câu thơ rằng: “Dục tri tạo hóa hội nguyên công” (Muốn biết được công đức to lớn của tạo hóa). Chữ “Ký” (記) được tổ hợp từ hai bộ “Ngôn” (言 – lời nói) và “Kỷ” (己 – bản thân), có thể hiểu là “nói rõ về câu chuyện của chính mình”, cũng là tổng kết hành trình từ chân ngã sa đọa thành giả ngã, rồi từ giả ngã phản hồi trở lại, tu xuất chân ngã. Trong tác phẩm “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận thời Đông Hán, chữ “Kỷ” (纪) được giải thích là “tách sợi tơ”, nên nghĩa gốc của “Kỷ” chính là đầu mối của sợi tơ. Chữ “Kỷ” (纪) thông với “Ký” (記), nghĩa là hé lộ manh mối của nguồn cội Phật Pháp. Nếu muốn đi sâu hơn vào việc lý giải, thì phàm là tác phẩm kinh điển bất hủ vĩ đại được lưu truyền đều là những tự truyện liên quan đến chính tác giả. Tôi cho rằng “Tây du ký” cũng không ngoại lệ. Trong u minh, tôi cho rằng tác giả cùng với nhân vật Đường Thái Tông Lý Thế Dân và Khấu Hồng lão viên ngoại trong truyện đều là một thể sinh mệnh huyễn hóa mà thành, tức là tác giả viết về những trải nghiệm tiền kiếp của chính mình và chuẩn bị nền tảng cuối cùng trải thảm cho đại sự mà mình sẽ thực hiện trong đời sau.

Về tam tạng của Phật Pháp, tam tạng mà Phật Thích Ca Mâu Ni nhắc đến trong truyện có sự khác biệt căn bản so với kinh, luật, luận được truyền bá trong thế gian. Tam tạng ở đây bao gồm: Tạng Pháp nói về trời. Tạng luận nói về đất. Tạng kinh để độ quỷ. Tổng cộng có 35 bộ, bao gồm 15.144 quyển. Về sự phân biệt giữa Phật Pháp Đại Thừa và Phật Pháp Tiểu Thừa, Phật Pháp Tiểu Thừa dùng để giải thoát tự thân, chứng đắc quả vị A La Hán, tức là tu hành viên mãn. Trong khi đó, Phật Pháp Đại Thừa lại được thiết lập để phổ độ chúng sinh. Lại bởi vì thời kỳ mạt pháp mạt kiếp, Đại Pháp sẽ được khai đàn ở Đông thổ Trung Nguyên, nên mới có sự tích Đường Thái Tông Lý Thế Dân phái Đường Tăng Huyền Trang sang Tây Thiên thỉnh kinh, rồi hồi truyền Phật Pháp về với chủ nhân của mình. Do vậy, cách giải thích tác phẩm này cũng được phân thành ba tầng cấp khác nhau, là cao, trung, thấp: Thượng thừa giải Pháp, như đã đề cập, chính là câu chuyện trả lại Phật Pháp trở về với chủ nhân thực sự của mình. Trung thừa giải Pháp, tức là phương pháp giải thích trong bài viết, đề cập đến tâm viên ý mã, âm dương ngũ hành. Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đại diện cho một hình tượng sinh mệnh hoàn chỉnh, trải qua quá trình tu luyện tâm tính trên con đường Đại Đạo. Gọi là chỉnh thể đề cao, chỉnh thể thăng hoa, cho đến khi toàn bộ hình tượng bản chất từ hồng quan đến vi quan của sinh mệnh tầng tầng viên mãn quy vị, đồng hóa với Đại Pháp. Hạ thừa giải Pháp: là cách hiểu phổ biến của giới học giả và độc giả người thường – tức là câu chuyện bốn thầy trò Đường Tăng vượt qua 81 kiếp nạn, chiến đấu với yêu ma quỷ quái trên đường đi Tây Thiên lấy kinh.

(Hai)

Bài thơ mở đầu ở hồi thứ nhất đã thực sự chỉ ra mục đích và ý nghĩa của tác phẩm này: “Hỗn độn vị khai thiên địa loạn”, từ câu này có thể thấy rằng, ngay cả trước khi nền văn minh nhân loại lần này xuất hiện, vũ trụ đã lâm vào cảnh mạt kiếp hỗn loạn. “Tự tòng Bàn Cổ phá hồng mông, Khai khởi tòng tư thanh trọc biện” (Từ khi Bàn Cổ khai phá hồng hoang, Khai thiên tịch địa, từ đó mới phân ra thanh trọc). Từ khi Tam Giới, Trái Đất và nhân loại hình thành cho đến nay, thực tế chỉ là sự tái hiện lại cảnh tượng đại loạn trên Thiên thượng đem xuống nhân gian, nhằm tiến hành chuẩn bị đầy đủ và cần thiết cho việc trùng tổ đại khung vũ trụ, cũng như việc Chính Pháp và chứng thực Pháp vào lúc cuối cùng. Phật Pháp, tức Đại Đạo, mang đặc tính “xung phá”. Mà quá trình ra đời của Thạch Hầu và sứ mệnh của anh ta chính là một quá trình tự mình hoàn thiện những thứ vốn có của tiên thiên, cũng như sự vận hành tự nhiên của cơ năng, cơ chế hoàn thiện bản thân. Như câu nói Phật Pháp vô biên, hết thảy đều có sẵn, không cần tìm cầu từ bên ngoài.

Lại nói về nguồn gốc của Thạch Hầu. Nơi Thạch Hầu sinh ra là Hoa Quả Sơn, thuộc nước Ngạo Lai, Đông Thắng Thần Châu. “Núi này chính là tổ mạch của mười châu, long mạch của ba đảo”. Trong đó, “mười châu” có thể hiểu là ẩn dụ cho “thế giới mười phương”, còn “ba đảo” tượng trưng cho “quá khứ, hiện tại, tương lai”, tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ đều có nguồn gốc ngọn ngành như vậy. Mà chữ “Ngạo” trong “Ngạo Lai Quốc” chính là điểm yếu và tử huyệt chí mạng của tâm tính. Sau này, trong tác phẩm, dùng một chữ “Ngưu”, thành ma vương, tiêu diệt tà tính mà xuất hiện. Mà Hoa Quả Sơn vốn chính là: “Trụ trời nơi trăm sông hội tụ, gốc rễ của đại địa vạn kiếp không lay chuyển”. Từ đó nói lên rằng những điều trải qua ở Hoa Quả Sơn là không tầm thường: là nơi ẩn chứa quả vị tiên thiên, hạ phàm tái tạo cội nguồn. Sự ra đời của Thạch Hầu là kết quả của sự giao hòa giữa âm và dương của trời đất, được thai nghén từ sự vận động của vật chất trong vũ trụ, “tự nhiên có linh tính”. “Bái lạy bốn phương, đôi mắt phóng hai luồng kim quang, xông thẳng lên cung điện trời”, làm kinh động Ngọc Hoàng Đại Đế, điều này chứng tỏ Phật tính của Thạch Hầu chưa mất, lai lịch không tầm thường. Thế nhưng, theo thời gian, khi Thạch Hầu “ăn thức ăn, uống nước ở thế gian, kim quang dần dần lịm tắt”, là một thể sinh mệnh tự nhiên, ở trong Tam Giới, trong ngũ hành, dần dần bị tiêm nhiễm bởi thói quen và quan niệm của bản thân trói buộc. Những bản năng thần thông tiên thiên và phía mặt thuần chính sẽ dần dần tiêu mất, thậm chí bị tiêu hủy hoàn toàn. Trong tâm phải có Pháp mới có thể sống ở thế gian, mới có thể đứng ở vị trí bất bại, sinh mệnh đó mới có thể đạt đến sự vĩnh hằng. Cũng chính vì thế mới có sự nghiệp tu luyện bất biến này. Kỳ thực, bộ tiểu thuyết này cũng có thể được coi là một bảo điển về tu luyện tâm tính, một áng văn chương bất hủ trường tồn qua muôn đời. Trong tứ đại danh tác của văn học cổ điển Trung Hoa, “Tây du ký” chiếm địa vị cao nhất, không gì có thể sánh bằng, sánh ngang nhật nguyệt, nội dung rõ ràng dễ hiểu, danh tiếng lưu truyền vạn cổ.

(Ba)

Trên Hoa Quả Sơn có một hang động gọi là Thủy Liêm Động. Kỳ thực là tượng trưng cho Đạo Pháp tạo tựu vạn sự vạn vật. Đó chính là nguồn nước của sự sống, nơi khởi nguồn của sinh mệnh. Tuy nhiên, để kết nối với thế giới bên ngoài, cần phải có một cây cầu bắc qua. Và đây cũng chính là nguyên tố cốt lõi mà Đạo Pháp dựa vào khi phổ độ vô lượng chúng sinh. Bờ bên này và bờ bên kia, nội tâm và bên ngoài, sự cân bằng, giao hòa và tương thông giữa trời đất âm dương, hình tượng cây cầu cầu vồng là điều không thể thiếu.

Ai vượt qua cây cầu này đầu tiên sẽ trở thành vua. Đây cũng chính là khởi điểm để Thạch Hầu lập thế và trở thành Mỹ Hầu Vương. Như câu thơ đã nói: “Lịch đại nhân nhân giai thuộc thử, Xưng Vương xưng Thánh nhậm tung hoành” (Tạm dịch: Từ xưa ai ai cũng như vậy, Xưng Vương xưng Thánh mặc sức tung hoành). Đó gọi là vật tụ theo loài, người phân theo nhóm. Mỹ Hầu Vương cũng có phạm vi địa bàn và thế lực của riêng mình. Tên Thạch Hầu có hai cách giải thích: một là nói “thạch” (石) nghĩa là “thực” (实) – rõ ràng là một con khỉ, tâm viên (viên là âm Hán Việt, chỉ con khỉ) khó giữ, suy nghĩ hỗn loạn, quay cuồng trời đất, nhân tâm vọng niệm trùng trùng. Hai là “Thạch Hầu” cũng có nghĩa là “thời hậu” (时候) – tức là hỏa hầu (火候), ý chỉ chờ đợi. Thạch Hầu ra đời cần phải chờ đợi cơ duyên chín muồi. Tuổi thọ năm trăm năm của Mỹ Hầu Vương là thuộc về thọ mệnh của một thiên nhân. Nhưng sau khi theo Bồ Đề Tổ Sư đắc Đạo thành Tiên, anh ta đã “ra ngoài Tam Giới, không trong ngũ hành” rồi, thoát khỏi lục đạo luân hồi, vượt qua cửa ải sinh tử. Từ đó, danh hiệu Tề Thiên Đại Thánh cũng ra đời.

Trước khi đến Tây Ngưu Hạ Châu để tìm Tiên Đạo, Hầu Vương đi qua Nam Thiệm Bộ Châu. Ở đó suốt tám, chín năm để “học cách ăn nói, học lễ nghi của con người”. Tuy nhiên, anh ta chẳng hề gặp được Đạo của Phật, Tiên, Thánh, hay phương pháp trường sinh bất lão, chỉ thấy: “Thế nhân đều là kẻ vì danh vì lợi, chẳng có ai thật sự vì sinh mệnh của chính mình”. Con người trên Trái Đất chúng ta ở Nam Thiệm Bộ Châu. Hầu Vương chủ về tâm, phương Nam thuộc Hỏa, đây là một vùng đất thị phi, danh lợi đua tranh, là quần thể người phức tạp nhất, là bãi rác nhất của vũ trụ. Vì vậy, những gì Hầu Vương trải qua ở đây cũng gieo xuống cho con người hạt giống cho sự rèn luyện tâm tính trong lửa đỏ, để tu luyện xuất ra cao nhân.

Khi Hầu Vương tìm đến “Linh Đài Phương Thốn Sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh Động”, cũng chính là nơi tu luyện tâm. Tâm nằm ở giữa phương thốn (lòng người), còn “Tà Nguyệt Tam Tinh” hợp lại thành chữ tâm “心” ( “Tà nguyệt” 斜月 có nghĩa là trăng khuyết, kết hợp với “tam tinh” 三 星 nghĩa là ba ngôi sao, vừa hay chính là chữ “tâm” 心 ). Bồ Đề Tổ Sư chính là tổ sư dạy về tâm. Khi Tổ Sư hỏi tên họ là gì, Hầu Vương đáp: “Con không có họ”. Tâm viên (khỉ) vốn vô tính, chẳng như nam nữ ở thế gian, cũng đã đoạn tuyệt rất nhiều phiền não, khi tu luyện cũng sẽ thuận lợi hơn chút. Nhưng tâm viên cũng có thể xem là thứ chung cho cả nam nữ, nên mới không có tính. Khi Tổ Sư lại hỏi, Hầu Vương lại đáp: “Con không cha mẹ”. Thế là Tổ Sư đặt một pháp danh cho anh ta: Tôn Ngộ Không. Chữ “Tôn” (孙): Xuất phát từ chữ “Hầu Tôn” (猢狲 – con khỉ). Nếu bỏ bộ “thú” (犭) thì còn lại chữ “Tôn” (孙), chính là tử hệ. Tử nghĩa là con trai, hệ nghĩa là trẻ con. Hoàn toàn phù hợp với luận về bản chất của trẻ sơ sinh. Ở đây có vài tầng ý nghĩa: thứ nhất, bỏ đi bộ thú trong chữ “狲” (hầu), tức là thể hiện sự tu chính bản tính. Hai là, trẻ con, phù hợp với cách nói về trẻ sơ sinh, là nói tu Đạo cần tu xuất nguyên anh. Đây chính là cách nói về bản tâm, bản tính, bản lai chân thật. “Ngộ” (悟): là một trong mười hai chữ pháp danh của Tổ Sư, phân theo phái mà đặt tên, đến lượt Hầu Vương đã là đệ tử đời thứ mười rồi. Mười hai chữ đó là: “Quảng Đại Trí Tuệ, Chân Như Tính Hải, Duệ Ngộ Viên Giác”. Đến lượt Hầu Vương, pháp danh tương ứng là Ngộ. Điều này cũng trùng khớp với vũ trụ đại khung lần thứ mười tái tổ hợp. Một người tu luyện muốn được độ để tiến nhập vào vũ trụ mới, nhất định phải đặt công phu vào một chữ “Ngộ”. Không ngộ thì sẽ không có gì, cũng sẽ không được tính. “Không” (空): ý là không vô, không có gì. Đạo gia giảng về chữ “Vô”, vạn sự đều không, tứ đại ngũ uẩn đều là không. Từ đây, Tôn Ngộ Không bước lên con đường tu luyện. Nhưng đây mới chỉ là bước đầu của tu luyện. Lúc này, anh ta chỉ có tâm mong cầu tìm ra phương pháp trường sinh bất lão, cầu giải thoát cho tiểu ngã tự thân. Về sau, khi đi theo Đường Tăng tu luyện Phật môn, mới là một bước nhảy vọt về bản chất, vì để đoái hiện hồng nguyện đại ngã phổ độ chúng sinh. Đại Đạo tức là chính Đạo, Đại Pháp tức là Chính Pháp.

(Bốn)

Tôn Ngộ Không ở lại Tam Tinh Động suốt bảy năm, gọi là thất nhật lai phục (bảy ngày chuyển hóa tuần hoàn). Trong thời gian đó, anh ta chỉ làm những công việc như đốn củi, gánh nước, nhóm lửa, quét dọn, nhằm rèn giũa tính tình. Đây cũng là bài học nhập môn mà các bậc xuất gia từ xưa đến nay đều phải trải qua. Sau đó, Bồ Đề Tổ Sư đặc biệt muốn truyền dạy cho anh ta công pháp Đạo gia. Nhưng khi nghe giảng về Đạo của chữ “Thuật”, chữ “Lưu”, chữ “Tĩnh” và chữ “Động”, Tôn Ngộ Không đều không chịu học. Anh ta chỉ muốn tu luyện công pháp trường sinh bất lão, thoát khỏi sinh tử luân hồi. Cuối cùng, Tổ Sư truyền cho anh ta bí quyết vĩnh viễn bảo tồn Thần thể, chính là giữ gìn “tinh”, “khí”, “thần” bên trong cơ thể, không để hao tổn, rò rỉ. Chỉ có như vậy mới có thể trồng kim liên trong lửa. Đây cũng là nền tảng vững chắc cho con đường tu luyện sau này và để đối mặt với những khảo nghiệm khắc nghiệt thực sự. Tiếp đó, Tổ Sư lần lượt dạy anh ta cách tránh “tam tai họa hại”, bảy mươi hai phép địa sát biến hóa, phép “cân đẩu vân” tung hoành mười vạn tám nghìn dặm, còn có “bốn vạn tám ngàn sợi lông trên thân đều có thể biến hóa tùy tâm”. Điều này cũng minh chứng rằng, chỉ cần chính niệm xuất ra, tu luyện Đại Đạo, ngay lập tức có thể giác ngộ, thấy rõ chân tính, phản bổn quy chân. Ngộ thiền, ngộ Đạo chỉ trong một khoảnh khắc “cân đẩu”, dễ dàng như trở bàn tay. Hai mươi năm thoáng chốc trôi qua như tên bay. Do Tôn Ngộ Không có tâm hiển thị quá mạnh, khoe khoang trước mặt mọi người, biểu diễn các thủ pháp biến hóa, Bồ Đề Tổ Sư, vì lo cho sự an toàn của đệ tử, đã trục xuất ra khỏi động phủ, bảo rằng anh ta từ nơi nào đến thì hãy quay về nơi đó. Kỳ thực, khi mới ngộ Đạo cũng chính là ngộ ra bản lai tiên thiên vốn có của mình, đồng thời có thể phản bổn quy chân, trở về tầng thứ tiên thiên vốn có. Lúc này, Bồ Đề Tổ Sư cũng đã biết rõ sau này anh ta nhất định sẽ sinh sự gây đại họa, nên dặn dò không được tiết lộ là đệ tử của ông, bán đứng sư phụ. Kỳ thực là một người tu luyện, đầu tiên cần làm được là kính Sư kính Pháp, không được vong ân phụ nghĩa. Nếu không, bán đứng sư phụ, cũng chính là bán đứng lương tâm lương tri của mình, ngay cả tư cách làm người cũng không xứng. Tôn Ngộ Không theo Bồ Đề Tổ Sư tu hành hơn hai mươi năm, tu thành Thái Ất Tản Tiên, đây mới chỉ là bước đầu của con đường tu luyện nhưng đã khai mở rất nhiều Thần thông và công năng rồi. Còn về phương diện tâm tính, ma luyện và vượt quan thì vẫn còn một chặng đường dài phía trước, viên mãn đắc Phật quả không thể một bước mà thành, cần phải tu luyện chuyên nhất bất nhị pháp môn, cần có chính niệm, dũng mãnh tinh tấn, giữ vững tâm tính và kiên định mới được.

Khi Tôn Ngộ Không trở về Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động, trước mặt là hàng nghìn hàng vạn tiểu hầu nhảy ra chào đón. Anh ta lại khôi phục danh hiệu, địa vị và thân phận của Mỹ Hầu Vương. Kỳ thực, bốn vạn tám ngàn tiểu hầu này chính là bốn vạn tám nghìn phiền não và chấp trước mang theo trên thân. Mà việc đầu tiên anh ta phải gặp khi trở về chính là đánh bại và tiêu diệt Hỗn Thế Ma Vương “ở núi Khảm Nguyên trong Tam Giới, sống trong động Thủy Tạng ngũ hành”. Kỳ thực cũng chính là cần phải trừ bỏ Hỗn Thế Ma Vương của bản thân. Người tu luyện, dù là xuất gia hay tại gia, đều không được phá hoại hình thức của xã hội người thường mà phải sống phù hợp với xã hội người thường ở mức độ tối đa. Tuy nhiên, người tu luyện bước trên con đường của Thần lại có thái độ đối nhân xử thế khác biệt về bản chất so với người thường. Cũng chính là có biểu hiện của tâm hỗn thế hay không, nếu không thì rất dễ lẫn lộn không tự biết với người thường, không thể tự kéo lên được. Tôn Ngộ Không cuối cùng cũng đánh chết Hỗn Thế Ma Vương, một mồi lửa thiêu hủy động Thủy Tạng, cũng chính là sửa đổi tận gốc. Khiến tâm, thần của bản thân làm chủ, thông suốt một thể, trở về bản vị, hợp nhất với nguyên thần. Bát quái hậu thiên từ đó được xác lập, nhưng để đạt đến bát quái tiên thiên vẫn còn một khoảng cách, còn một chặng đường phải đi, và cũng cần đến kết quả của quá trình nỗ lực trong cuốn sách này.

(Năm)

Trên Hoa Quả Sơn, có bốn con khỉ già, trong đó hai con là xích khào mã hầu (khỉ đít đỏ), hai con là thông bối viên hầu (khỉ lưng thẳng). Liệu đây có thể tượng trưng cho bốn loại tâm tính khởi nguồn của con người, tương ứng với “tham, sân, si, mạn” mà Phật môn giảng dạy không? Dù chúng xuất hiện không nhiều và cũng ít lời, nhưng ẩn trong đó vẫn lộ ra tư tâm. Khi Mỹ Hầu Vương khải hoàn trở về quê hương, tiêu diệt Hỗn Thế Ma Vương, thì lúc này, anh ta mang trong mình hai loại tính cách đối lập: vừa có tính khỉ, vừa mang tính ma và Thần tính hòa trộn trong một thể. Điều này là vì anh ta chưa đắc được chính quả. Mà lúc này, khắp núi rừng, vô số động vật cùng bảy mươi hai yêu vương đều kéo đến bái kiến và tôn anh ta làm Vương. Đến đây, Mỹ Hầu Vương xưng bá thiên hạ, điều này đi ngược lại Thiên Đạo, thiên lý, đi sang nhân đạo và thú đạo. Anh ta chấp trước hướng ngoại tìm cầu, mà không hướng nội để thiền tâm ngộ Đạo. Điều này cũng cho thấy, tư tâm tạp niệm của con người hễ khởi lên, thì giống như cân đẩu vân, nhảy nhót không ngừng, không có lấy một ngày yên tĩnh.

Sau khi xuất gia tu hành, Tôn Ngộ Không đã đắc được thân thể bất sinh bất diệt, nước không thể nhấn chìm, lửa không thể thiêu rụi, đã đắc Đạo thành Tiên Thánh. Anh ta đi đến Thủy Tinh Cung của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng, lấy được Thiên Hà Định Để Thần Trân Thiết, gọi là Như Ý Kim Cô Bổng, nặng mười ba nghìn năm trăm cân, có thể tùy ý biến lớn thu nhỏ. Đây chính là Hải Để Thần Châm, một vật thuần dương, cũng là biểu tượng ngoại hóa của nội tâm Tôn Ngộ Không. Sau đó, anh ta còn tìm được Kim quan (mũ vàng), Kim giáp (giáp vàng), Vân lý (hài mây), toàn thân khôi giáp chỉnh tề, thực sự có thể xưng là thiên hạ đệ nhất Mỹ Hầu Vương rồi. Anh ta ngao du bốn bể, du ngoạn khắp núi sông, rồi kết giao với bảy huynh đệ, gồm Ngưu Ma Vương, Giao Ma Vương, Bằng Ma Vương, Sư Ma Vương, Di Hầu Vương, Nhung Ma Vương, cộng với anh ta Mỹ Hầu Vương là bảy người. Thực chất, bảy người huynh đệ này chính là biểu hiện tâm nhập thế của Tôn Ngộ Không.

Tuy nói Tôn Ngộ Không đã thành Tiên đắc Đạo, đã siêu xuất Tam Giới, không trong ngũ hành, nhưng hộ khẩu âm gian của anh ta vẫn còn ở địa ngục. Vì vậy, khi anh ta dương thọ 342 tuổi, hai quỷ Hắc Bạch Vô Thường đến bắt hồn, khi đến U Minh Giới, xông vào Diêm La Điện, náo động Thập Đại Diêm Vương, rồi trong sổ âm phủ, tìm đến quỷ hồn số 1350, và gạch bỏ tên họ của loài khỉ, không còn chịu sự quản lý của Diêm Vương. Mà trọng lượng của Như Ý Kim Cô Bổng vừa đúng gấp mười lần số thứ tự của “hồn”, liệu điều này có thể xem là ba hồn bảy phách, thân Thần hợp nhất? Hành động xuống biển lấy Kim Cô Bổng, xuống âm phủ gạch tên khỏi sổ sinh tử, cả hai đều là phạm tội ngỗ nghịch. Do đó, Ngọc Hoàng Đại Đế ra lệnh phái thiên binh thiên tướng đi truy bắt. Tây Phương Thái Bạch Kim Tinh tiến lên hiến kế: triệu Tôn Ngộ Không lên thiên giới, “Phong cho nó một chức quan nhỏ”, “Nếu chịu nhận mệnh trời, sau này có thể thăng thưởng; nếu không tuân mệnh, sẽ lập tức truy bắt!” Thái Bạch Kim Tinh chính là biểu tượng của ánh sáng, chỉ dẫn con đường lên trời, một ngọn đèn soi sáng trong tâm con người. Chính vì Tôn Ngộ Không nhận chiếu chỉ chiêu an, nên sau này mới dẫn đến việc đại náo thiên cung.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56625

The post “Tây Du Ký”: Tam thừa giải Pháp (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>