Tầm Sư truyền kỳ | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnTue, 02 Jul 2024 04:12:29 +0000en-UShourly1Ký ức trân quý vĩnh hằnghttps://chanhkien.org/2013/06/ky-uc-tran-quy-vinh-hang.htmlhttps://chanhkien.org/2013/06/ky-uc-tran-quy-vinh-hang.html#respondFri, 07 Jun 2013 17:02:56 +0000http://chanhkien.org/?p=21899Vào thập niên 1990, phong trào khí công đã thịnh hành tại Trung Quốc trong gần 20 năm và có trên 2.400 trường dạy khí công rải rác trên khắp các vùng miền với hơn 100 triệu người theo học.

The post Ký ức trân quý vĩnh hằng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp ở Quảng Châu, Trung Quốc

[Chanhkien.org] Vào thập niên 1990, phong trào khí công đã thịnh hành tại Trung Quốc trong gần 20 năm và có trên 2.400 trường dạy khí công rải rác trên khắp các vùng miền với hơn 100 triệu người theo học. Bấy giờ đã xuất hiện rất nhiều kẻ giả danh khí công sư để mở lớp dạy khí công với mục đích lừa gạt người khác. Thật khó để người ta có thể phân biệt được thật giả. Vào năm 1993, khi con trai chúng tôi lên 8 tuổi thì chồng tôi đã qua đời trong một vụ tai nạn khi đang tu nghiệp tại nước ngoài. Vì tình cảm giữa chúng tôi rất mặn nồng nên tôi vô cùng đau khổ và gần như suy sụp hoàn toàn trước mất mát ấy, những bệnh tật mà tôi vốn đã mang trên thân nay lại trở nên trầm trọng hơn. Nhằm giúp tôi lấy lại tinh thần, gia đình và bạn bè đã giới thiệu tôi đến học vài môn khí công. Tôi đã từng tham dự một hội chợ triển lãm khí công toàn quốc tổ chức tại Trung tâm Thể dục Thể thao Thiên Hà, tỉnh Quảng Châu, và chứng kiến các khí công sư chữa bệnh cho các bệnh nhân. Hầu hết họ đều trông rất xấu, da dẻ tối sầm. Tôi không có ấn tượng tốt với họ và thấy rất khó chịu khi chứng kiến họ lăn lộn trên mặt đất để chữa bệnh cho bệnh nhân. Rốt cuộc tôi quyết định không học khí công nữa.

Tham dự khóa giảng Pháp lần thứ 3 của Sư phụ Lý tại Quảng Châu

Tháng 4-1993, Pháp Luân Công đã được truyền đến Quảng Châu, thành phố nơi tôi sinh sống. Sư phụ Lý từ bi vĩ đại đã đến giảng Đại Pháp tại vùng đất phương Nam tươi đẹp này, nơi nổi tiếng về truyền thuyết “năm con cừu giúp vua nhà Chu gặt lúa”. Một người bạn của chồng tôi đã tham dự một trong những khóa giảng Pháp Luân Công đầu tiên tại Quảng Châu vào tháng 10-1993. Đến tháng 1-1994, khi khóa giảng Pháp sắp bắt đầu lần thứ 3, có một cặp vợ chồng đã đắc Pháp và đến nhà gặp tôi. Họ giới thiệu về Pháp Luân Công và miêu tả rằng nó là môn khí công giúp đề cao tâm tính. Họ còn kể về Sư phụ, là một người siêu phàm, đang tổ chức một khóa giảng Pháp và khuyên tôi nên đến đó học. Thật kỳ lạ, có lẽ do cơ duyên chín muồi, tôi nhanh chóng đồng ý. Ngay đêm hôm đó, họ đã dẫn tôi đi mua vé tham dự.

Gặp Sư phụ lần đầu tiên

Đêm đó tôi vội vã đến Hội trường Liên đoàn Lao động Quảng Châu. Đó là ngày giảng Pháp thứ hai của Sư phụ. Trước khi buổi học bắt đầu, các nhân viên bán sách Pháp Luân Công Trung Quốc, ảnh Pháp tượng của Sư phụ, và huy hiệu Pháp Luân. Tôi đã mua một cuốn Pháp Luân Công Trung Quốc và tình cờ nhìn thấy nhiều học viên đang xếp hàng chờ xin chữ ký của Sư phụ. Tôi cũng đã đứng vào hàng với tâm trạng náo nức. Khi thấy sắp tới giờ vào học, tôi sốt ruột và nhảy lên đầu hàng và nói: “Sư phụ Lý, hãy cho con xin chữ ký”. Lúc đó Sư phụ đang bận bịu với việc ký tên, khi nghe tôi nói thế, Ngài ngước nhìn tôi rồi đáp: “Vẫn còn rất nhiều người chờ xin chữ ký và lớp học sẽ bắt đầu trong chốc lát, hôm nay tôi không thể cho cô chữ ký được”. Tôi đã được nhìn thấy Sư phụ ở khoảng cách gần và rất ngạc nhiên khi thấy Ngài trông rất thân quen và gần gũi. Khuôn mặt Ngài không chỉ hiền hòa và đầy khí chất, mà còn rất hồng hào và láng mịn không có lỗ chân lông; thậm chí còn đẹp hơn cả da em bé! Mãi đến sau này khi tham dự “Giảng Pháp tại hội giao lưu quốc tế tại Bắc Kinh” thì tôi mới biết Sư phụ đến đây để cứu độ chúng sinh và Ngài có nguyên lai và cấu trúc khác với chúng ta. Sư phụ nói mình 43 tuổi nhưng trông Ngài trẻ trung như khoảng 20 tuổi. Vào giờ nghỉ giải lao, bạn của tôi đã nhờ các nhân viên trong ban tổ chức xin chữ ký của Sư phụ vào cuốn sách của tôi. Lúc đó tôi cảm thấy hài lòng lắm. Sau này học Pháp tôi mới ngộ ra rằng bất kỳ cuốn sách nào do Sư phụ viết ra thì đằng sau mỗi chữ đều có hình tượng Pháp thân với thần thông giống như Ngài. Trong thời gian đầu bước ra truyền Pháp, nhằm cứu độ được nhiều người nhất có thể, Sư phụ đã tận tâm trao chữ ký và chữa trị mọi bệnh tật để thỏa mãn truy cầu của các học viên. Công ơn của Sư phụ thật bao la, vĩ đại biết bao! Đến tận bây giờ mỗi khi nghĩ lại tôi đều rơi nước mắt.

Vì chúng tôi được xếp chỗ ngồi ở trên lầu nên không thể nhìn thấy Sư phụ rõ ràng được, nhưng từng lời giảng của Ngài lại có sức xuyên thấu và làm chấn động nguyên thần tôi như tiếng sấm rền vang. Một cảm giác chợt đến khiến tôi nhận ra rằng bài giảng của Sư phụ không chỉ nói về chữa bệnh khỏe người như những khí công sư bình thường khác. Mà Ngài đang giảng về tu luyện thân thể người từ tầng thấp nhất lên cao nhất, cũng như các nguyên lý thâm sâu của Pháp về những chiều không gian khác, mọi sinh mệnh và cấu trúc của vũ trụ. Bằng trí tuệ vô hạn của mình, Sư phụ đã giảng thuyết một cách trôi chảy và thanh thoát mà không cần đọc nội dung in sẵn, ngoài ra Ngài luôn giảng ở một trình độ sao cho mọi học viên đều có thể hiểu được. Sư phụ cũng rất quan tâm đến suy nghĩ của các học viên và thường tạm ngưng bài giảng để giải thích bất kỳ vướng mắc nào mà chúng tôi có trong đầu.

Sư phụ tịnh hóa cơ thể cho tôi

Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra khiến tôi ngủ thiếp đi sau khi ngồi nghe giảng được một lúc. Người bạn ngồi cạnh tôi đã cố gắng bằng mọi cách nhưng vẫn không sao đánh thức tôi dậy được. Tôi cứ như thế trong 2 ngày liên tục. Do bị chứng loạn thần kinh chức năng nên khi ở nhà tôi không thể ngủ ngon giấc được, thế nhưng tôi lại ngủ ngon lành ở trên lớp. Sau đó Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân rằng: “Có một số vị cá biệt thì ngủ, tôi giảng xong thì vị ấy cũng tỉnh giấc. Tại sao vậy? Bởi vì trong sọ não vị ấy có bệnh, cần phải điều chỉnh. Hễ điều chỉnh bộ não, thì họ không thể chịu được; do đó cần cho họ vào trạng thái mê man bất tỉnh, để họ không hay biết. Nhưng bộ phận thính giác một số người không có vấn đề gì; họ ngủ rất say, nhưng một chữ cũng không bỏ sót, [họ] nghe được hết; người này sau đó tinh thần phấn khởi lên, không ngủ hai ngày cũng không thấy mệt mỏi” (Chuyển Pháp Luân, Bài giảng thứ hai). Đó là do tại thời điểm ấy Sư phụ đang điều chỉnh cơ thể tôi.

Cho đến buổi học thứ tư thì tôi cảm thấy tràn trề năng lượng và không còn thấy đau nhức gì nữa. Mọi thống khổ và bệnh tật đã biến mất. Tôi nói với một người bạn: “Sư phụ dạy: Trong quá trình tu luyện, người ta phải chịu đựng khó nạn để tiêu nghiệp. Ngày mai mình sẽ đạp xe tới đây, cậu không cần đưa đón mình nữa đâu”. Do mắc bệnh lạc nội mạc tử cung và khối u buồng trứng, nên tôi luôn phải được đưa đón và đã không đạp xe trong một thời gian dài. Giờ đây thì tôi đã hoàn toàn khỏi bệnh rồi, và tôi thậm chí có thể đạp xe vào ban đêm mà không hề lo sợ. Nhà tôi ở khá xa so với nơi diễn ra khóa học, việc tôi đạp xe 50 phút đi học đã làm cả gia đình tôi thốt lên sửng sốt: “Môn khí công gì mà lợi hại quá vậy? Một người đột nhiên khỏe mạnh ngay lập tức!”

Sư phụ khai mở thiên mục cho học viên

Trong các buổi học sau, Sư phụ giảng rằng Ngài sẽ giúp chúng tôi khai mở thiên mục khi Ngài bắt đầu nói về nó. Chúng tôi được hướng dẫn duỗi thẳng bàn tay ra để cảm giác thấy Pháp Luân quay trong lòng bày tay. Một số người kể rằng họ đã nhìn thấy Pháp Luân, số khác lại nói họ không thể nhìn thấy. Lúc đó tôi cũng không nhìn thấy nhưng lại cảm giác được một cái gì đó nóng bừng trong lòng bàn tay. Tuy vậy sau đó tôi đã thấy được một cột ánh sáng màu trắng trong suốt khổng lồ từ trên đầu Sư phụ chiếu lên trần nhà. Ban đầu tôi cho rằng đấy là đèn pha của hội trường cho nên tôi đã tiến lại gần để nhìn cho rõ. Không hề có bóng đèn nào tại vị trí đó trên trần nhà. Khi trao đổi với các học viên khác, họ đều bảo rằng thiên mục của tôi đã mở ra và điều tôi nhìn thấy chính là công trụ của Sư phụ. Nhiều đệ tử khác cũng nhìn thấy cột trụ công của Sư phụ nhưng cái họ nhìn thấy có màu vàng kim trong suốt.

Ngày cuối cùng sau khi kết thúc loạt bài giảng, Sư phụ nói Ngài sẽ giúp các học viên tịnh hóa thân thể. Ngài bảo mọi người đứng dậy và dậm chân xuống đất. Chân trái trước, chân phải sau, thay phiên dậm chân như thế. Tôi nhìn thấy rất nhiều khí đen và khí bệnh được Sư phụ trục xuất khỏi cơ thể chúng tôi khi dậm chân như thế, cùng với các linh thể bất hảo gắn trên thân mỗi người. Tôi còn thấy nhiều Pháp thân của Sư phụ xung quanh mỗi học viên và bận rộn tịnh hóa thân thể, đặt đủ loại cơ chế tu luyện và nhiều thứ khác vào cơ thể mỗi người. Giống hệt như ‘an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan’.

Sư phụ đã ban cho các đệ tử rất nhiều thứ

Trong buổi học thứ ba, Sư phụ làm các đại thủ ấn trên sân khấu sau khi kết thúc bài giảng. Mọi người đều thấy nó thật mỹ diệu, lôi cuốn và rất muốn học. Sư phụ giải thích rằng các thủ ấn đó là để giảng Pháp cho tầng tầng lớp lớp chúng sinh ở các vũ trụ khác nhau và nhắc nhở mọi người không nên chấp trước vào nó.

Chỉ trong vòng vài ngày tham gia khóa học của Sư phụ, tôi như được tái sinh và thay đổi hoàn toàn. Trước hết, thân thể tôi được tịnh hóa, trở nên nhẹ nhàng hơn và không còn bệnh tật. Tinh thần của tôi trở nên minh mẫn hơn, mọi ưu tư và phiền muộn đã được gỡ bỏ, thay vào vào đó là niềm vui ngập tràn. Mặc dù tôi vẫn chưa hiểu được nhiều nội dung trong bài giảng, nhưng tôi thấy rằng Sư phụ thật vĩ đại vì cùng một nguyên lý mà Ngài có thể giảng xuất ra rất nhiều nội hàm thâm sâu khác nhau. Con người sinh ra từ đâu và sẽ về đâu sau khi chết? Ý nghĩa chân chính của cuộc sống này là gì? Tại sao con người phải chịu khổ nạn? Tất cả những câu hỏi tôi đã mòn mỏi mong chờ mà chưa thể giải đáp, nay lại được Sư phụ giảng rõ trong Pháp. Chủ nguyên thần của con người đến từ tầng rất cao trong vũ trụ; mục đích khi ta đến thế giới này không phải để làm người mà là để tu luyện và quay về chốn nguyên lai của mình. Tôi có cảm giác như thể mình nổ tung ra và được đánh thức khỏi cơn mê. Nỗi đau mất chồng đã biến mất và mọi lo lắng trong cuộc sống đã không còn nữa. Ánh sáng và hơi ấm tràn ngập trong tâm tôi và dâng lên một niềm vui khó tả. Do đó tôi đã nguyện thầm rằng mình phải tu luyện thật tinh tấn, vâng lời Sư phụ để đột phá khỏi cõi mê, thoát khỏi vòng sinh tử và quay về ngôi nhà thật sự của mình nơi thiên giới.

Sau này tôi nghe một vài học viên lâu năm kể rằng trước khi tổ chức một lớp học Pháp Luân Công, Sư phụ đều xuất ra nhiều hình thức của Công và đại Pháp Luân đầy khắp khán phòng. Ngài cũng xuất ra các Pháp Luân nhỏ hơn để thanh lý và điều chỉnh thân thể cho học viên. Pháp thân của Sư phụ cũng làm rất nhiều thứ cho học viên. Khi được triệu hồi về thì Công đã bị ô nhiễm và phải được tẩy tịnh. Sư phụ đã từng nói rằng Ngài thấy rất mệt mỗi khi Công quay về cơ thể Ngài. Khi nghe thế, tôi buồn lắm. Ngoài ra, khi Sư phụ đi khắp nơi trong nước để tổ chức các khóa học, Ngài sống rất thanh đạm, phải ăn mỳ gói và thức ăn nhanh trường kỳ. Trong quá khứ, các vị Sư phụ luôn được đồ đệ dâng cúng những thứ hảo hạng. Thế nhưng Sư phụ từ bi vĩ đại của chúng ta lại chưa bao giờ lấy một xu từ các học viên, mà Ngài chỉ mong muốn thấy được thiện tâm của con người. Trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sĩ”, Sư phụ giảng: “Điều tôi quan tâm nhất không phải chỉ một mình chư vị, mà là tất cả mọi sinh mệnh. Tôi đã ban cho tất cả sinh mệnh gần như tất cả mọi thứ tôi có” …”Tôi chỉ muốn nói rằng chư vị nên trân quý những gì Sư phụ đã làm! Chư vị phải tu luyện thật tốt. Đừng bỏ lỡ cơ hội này.” (tạm dịch). Tất cả các đệ tử dù có làm gì đi nữa cũng không bao giờ có thể đền đáp được ơn cứu độ của Sư phụ!

Tham gia khóa giảng lần thứ 4 của Sư phụ tại Quảng Châu

Từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 7 năm 1994, Sư phụ mở khóa học lần thứ 4 tại Quảng Châu. Thời gian này cũng là lúc đứa con trai 8 tuổi của tôi đang nghỉ hè nên tôi đã mua vé và dẫn con trai đi cùng. Nhờ đến từ rất sớm nên tôi mua được vé cho hàng ghế ở gần bục giảng. Con trai tôi ngồi ở hàng ghế đầu, tôi ở hàng thứ hai, và chúng tôi có thể nhìn thấy Sư phụ rất rõ ràng. Một lúc sau thì ban tổ chức, Hiệp hội Khí công Tỉnh, đã bắt chúng tôi phải nhường ghế cho một quan chức cấp cao của tỉnh, do đó chúng tôi lấy một cái ghế nhỏ và ngồi ở lối đi giữa các hàng ghế để nghe giảng.

Những điều Sư phụ giảng là Pháp ở cao tầng

Lần này nội dung bài giảng có một số điểm khác biệt so với lần trước. Trong khóa giảng thứ ba, Sư phụ đã giảng về Pháp dưới hình thức khí công và kể nhiều câu chuyện Phật gia, nhưng lần này lại khác. Ngài bắt đầu đưa con người lên cao tầng và cứu độ họ thông qua việc giảng Pháp một cách có hệ thống. Sư phụ giảng (không nguyên văn): “Trong một vài lớp học trước, các học viên ở Quảng Châu đã gặp chút khó khăn khi tiếp thu những điều tôi giảng, cho nên tôi đã điều chỉnh tâm thức của họ, và giờ thì mọi người đều có thể hiểu được bài giảng của tôi“. Lúc đầu, có nhiều học viên không nhận ra Sư phụ đang giảng về Đại Pháp của vũ trụ, về Phật Pháp chân chính. Nhiều người tham gia học với truy cầu chữa bệnh, khai mở thiên mục, hoặc nghe ngóng lý luận, v.v. Sau đó mọi người đã hiểu được Pháp này rốt cuộc là gì, biết phải tu luyện ra sao và đề cao tâm tính như thế nào.

Lớp học diễn ra vào mùa hè và giảng đường rất đông đúc và oi bức. Một số học viên vừa nghe giảng vừa phe phẩy quạt. Sư phụ giảng rằng chúng ta nên đến học với tâm cầu Đạo, chú ý lắng nghe từng chi tiết nhỏ, và bảo các học viên đừng quạt nữa, miễn là tâm thái của chúng ta tĩnh lặng thì chúng ta sẽ không thấy nóng và thay vào đó là một làn gió mát. Chúng tôi còn được dạy không được làm ồn khi đứng lên khỏi ghế ngồi và không được tới lớp trễ để tránh gây ảnh hưởng đến các học viên khác đang nghe giảng. Những lời dạy từ bi ấy của Sư phụ vẫn còn cất lên trong tâm trí tôi tới tận hôm nay.

Bệnh tim của mẹ tôi đã được Sư phụ chữa trị từ xa

Trong buổi học này, Sư phụ tịnh hóa thân thể cho mọi người thêm một lần nữa, Ngài bảo mọi người hãy nghĩ về căn bệnh của mình và ngay khi Sư phụ ra hiệu lệnh thì hãy giậm chân xuống đất để rũ bỏ nó đi. Khi Sư phụ ra hiệu lệnh, mọi người đồng loạt giậm chân phát ra một tiếng động thật lớn. Khi đó có ai đó nói với Sư phụ rằng họ chưa chuẩn bị xong, vì vậy Sư phụ bảo mọi người làm lại lần thứ hai, tiếng ầm ầm phát ra khi cả hội trường đồng loạt giậm chân. Sau đó Sư phụ giảng tiếp (không nguyên văn): “Các học viên lâu năm hãy chú ý, hôm nay các vị có một lợi thế hơn những người khác, đó là thân thể của chư vị đã được tịnh hóa rồi, chư vị có thể nghĩ đến một người thân thích của mình. Hôm nay tôi sẽ chữa bệnh cho họ“. Tôi nghĩ ngay đến căn bệnh tim trầm trọng của mẹ mình. Sư phụ hỏi: “Mọi người đã sẵn sàng chưa?” Các học viên trả lời: “Rồi ạ“. Chỉ trong chớp mắt, Sư phụ nói: “Xong rồi“. Sau đó khi về nhà, tôi đã thuật lại cho mẹ nghe chuyện này. Mẹ tôi cũng kể rằng điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra với trái tim của bà, giống như một tia sáng chiếu đến mang theo hơi ấm mạnh mẽ. Khi kiểm tra tại bệnh viện, người ta phát hiện ra bệnh tim của mẹ tôi đã được chữa lành. Nhờ vậy mà mẹ tôi đã quyết định tu luyện Đại Pháp cùng với tôi, và sau này bà đã hồng Pháp ở các nơi khác trong địa phương và trở thành một phụ đạo viên Pháp Luân Đại Pháp.

Sư phụ đã tăng cường năng lực cho con trai tôi

Sau khi tham dự khóa học ba hoặc bốn ngày, Sư phụ khuyên các học viên nên viết lại các trải nghiệm của mình và bình luận về các buổi học. Tôi có nhiều cảm xúc sâu sắc đối với lớp học nên đã soạn ra một bài viết thật dài để miêu tả về những trải nghiệm của mình. Khi Sư phụ nghỉ giải lao giữa buổi học, tôi đã dắt đứa con trai 8 tuổi của mình đến bên hông bục giảng, gặp Sư phụ đang ngồi rất điềm đạm, tôi tiến đến và khẽ nói: “Thưa Sư phụ Lý, con đã viết về những trải nghiệm của mình, xin Sư phụ xem qua“. Con trai tôi nhanh nhảu nộp bài viết đến tay Sư phụ. Sau khi xoa đầu con tôi vài lần, Ngài nói: “Tiểu tử khá lắm“. Phải một thời gian sau tôi mới biết được lúc đó Sư phụ đã gia trì các năng lực của con trai tôi. Trước đây nó tiếp thu bài học rất chậm và thường xuyên đau ốm. Thế mà sau sự kiện đó, nó trở nên cực kỳ khỏe mạnh và thông minh, chẳng những luôn đứng đầu lớp mà còn được thầy cô đề xuất nên ứng tuyển vào trường chuyên lớp chọn. Ngoài ra, khi chia sẻ thể ngộ trong lúc học Pháp hàng ngày, con trai tôi thường có hiểu Pháp rất sâu không thua gì người lớn; thậm chí tuy còn nhỏ tuổi nhưng nó giữ gìn tâm tính rất tốt, luôn khoan dung và điềm tĩnh khi chịu thiệt thòi. Thời gian sau, khi tôi bị bức hại vì tu luyện Pháp Luân Công và bị bắt giam, nó đã sống tự lập và tiếp tục đi học mà không một lời oán trách hay hối tiếc, và đã ứng tuyển vào một trường Đại học có tiếng tăm. Cuối cùng, con trai tôi đã trở thành nghiên cứu sinh có điểm đầu vào cao nhất của Học viện Lĩnh Nam, thuộc Đại học Tôn Trung Sơn.

Con xin cảm tạ Sư phụ!

Khi dạy các bài công pháp trong lớp học, Sư phụ đã rời bục giảng xuống chỉnh sửa từng động tác của tôi. Lúc đó tâm tôi thật sự xúc động muốn khóc, giống như là Sư phụ rốt cuộc đã tìm thấy tôi, một đệ tử có tiền duyên, giữa vô vàn chúng sinh khác. Ngay trong đêm đó tôi đã mơ thấy thân thể Sư phụ là một ngọn núi cao hùng vĩ, trên đó có tôi là một hài nhi nghịch ngợm đã đu từ sợi tóc của Sư phụ xuống tam giới. Ngay lúc đó, rất nhiều Phật Đạo Thần trong suốt quá trình lịch sử đã từ các tầng cao xuống cứu độ chúng sinh đang tụ họp ở tầng cao nhất của tam giới, ngày qua ngày họp bàn và tranh luận về việc cứu độ chúng sinh. Có vẻ như họ đang tranh cãi về vấn đề lãnh thổ, tuyên bố rằng vùng này hoặc vùng kia trên Trái Đất là nơi mà chủng tộc của họ đang ở, và nói rằng những người sống ở đó là chúng sinh của họ. Họ cũng có vẻ muốn ngăn không cho Sư phụ đi xuống tam giới, nói rằng họ có đủ khả năng cứu độ chúng sinh trong tam giới rồi, không cần đến một vị Thần ở cao tầng như Sư phụ đâu. Làm sao họ biết được rằng Sư phụ sắp làm một điều to lớn hơn thế nữa, đó là chính lại Pháp của toàn vũ trụ. Tôi rất lúng túng vì lúc đó tôi còn là học viên mới và chưa hiểu được ý nghĩa của giấc mơ này, và tôi cũng không để tâm đến nó cho lắm. Mãi đến sau này khi hiểu biết của tôi về Pháp đã sâu sắc hơn thì tôi mới hiểu ra mối quan hệ tiền duyên giữa Sư phụ và đệ tử là như thế nào, và tại sao họ lại có thể đắc được và tu luyện Đại Pháp trong thời kỳ đặc biệt này! Tất cả chúng ta đã từng thệ nguyện ở thiên giới rằng sẽ trợ Sư Chính Pháp. Thật huy hoàng khi trở thành đệ tử Đại Pháp thời Chính Pháp, và trách nhiệm cũng nặng nề biết bao!

Được gặp Sư phụ và đắc Pháp là điều hạnh phúc nhất cuộc đời tôi. Cho dù khó khăn gian khổ đến đâu tôi cũng không bao giờ từ bỏ tu luyện và bước đi vững chắc. Môi trường tu luyện ở Trung Quốc đại lục hiện nay đang rất căng thẳng, rất khó để làm “ba việc”, nhưng nếu luôn nghĩ đến Sư phụ thì con đường phía trước sẽ không còn xa nữa; trong những năm qua tôi không hề thấy cô độc, ngược lại còn thấy trong tâm tôi tràn ngập ánh sáng và trí tuệ. Không lời nào có thể diễn tả được lòng biết ơn vô hạn của tôi đối với ơn cứu độ của Sư phụ. Tôi nhớ có một bài hát tên “Tạ ân sư” bày tỏ cảm xúc chân thành của đệ tử Đại Pháp. Lời ca như sau: “Pháp Luân Đại Pháp tỏa sáng trong tim con, ấm áp và đầy ắp thệ nguyện, dạy cho con về Chân-Thiện-Nhẫn, để làm người tốt. Thưa Sư phụ, xin tạ ơn Ngài đã đưa con về nhà. Thưa Sư phụ, con xin theo Ngài trở về chốn nguyên lai của mình.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/112902
http://pureinsight.org/node/6352

The post Ký ức trân quý vĩnh hằng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/06/ky-uc-tran-quy-vinh-hang.html/feed0
Thần thoại tại nhân gian: Vương Bá đợi đắc Pháphttps://chanhkien.org/2012/05/than-thoai-tai-nhan-gian-vuong-ba-doi-dac-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2012/05/than-thoai-tai-nhan-gian-vuong-ba-doi-dac-phap.html#respondSun, 27 May 2012 17:39:08 +0000https://chanhkien.org/?p=16595Câu chuyện kể về cụ Vương Bá, sống tại một thành thị nhỏ phát triển, năm nay 84 tuổi; cụ tu luyện theo Pháp Luân Đại Pháp đã 6 năm.

The post Thần thoại tại nhân gian: Vương Bá đợi đắc Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org] Câu chuyện kể về cụ Vương Bá, sống tại một thành thị nhỏ phát triển, năm nay 84 tuổi; cụ tu luyện theo Pháp Luân Đại Pháp đã 6 năm; dưới đây là chuyện về trải nghiệm của cụ khi đắc Pháp.

Hồi cụ Vương Bá khoảng 17 tuổi, có một sư phụ tìm đến và truyền dạy những điều tu luyện. Sư phụ của cụ là bên Đạo gia, vậy nên trong lúc dạy Đạo lý, ông cũng dạy rất nhiều thứ như xem số mệnh, bát quái, phong thuỷ. Sư phụ căn dặn cụ rằng: Những thứ này rốt ráo chỉ để mưu sinh, kiếm miếng cơm cho vào miệng mà thôi, tuyệt đối không được phép dùng để thu lợi; ngoài ra nhất định phải dùng nó để tạo lòng tin, khuyên răn mọi người theo đạo lý tích đức hành thiện.

Năm 1949, sư phụ của cụ Vương Bá phải rời đi, ngay trước khi đi ông dặn lại lần nữa: “Phật Tổ chân chính sẽ đến cõi người truyền Pháp lớn (Đại Pháp), con nhất định phải đợi đến ngày ấy, nghìn vạn không được trật; đó là cơ hội duy nhất mà con người được cứu; đến lúc ấy tất cả mọi thứ ta đã dạy con đều phải vứt bỏ hết.” Từ đó trở đi cụ Vương Bá ở lại nơi ấy, vì người mà giảng giải tứ trụ, bói quẻ . Vì cụ bói rất trúng, cho nên xa gần đều nghe danh; do vậy có rất nhiều thiện nam tín nữ biết tới. Mỗi lần cụ Vương Bá bói hậu vận cho ai đó, cụ cũng dạy người ấy phải tích đức hành thiện.

Cách mạng Văn hoá xảy ra, cụ Vương Bá bị coi là phần tử phản động, bị bắt bỏ tù, rồi phải chịu đủ điều cơ cực. Cụ luôn nhớ đến lời dặn của sư phụ, hiểu rằng bản thân không được chết, mà phải đợi cho đến thời Phật Tổ truyền Pháp để đắc Pháp tu luyện. Do vậy cụ bèn vận dụng công năng lên thân thể của mình làm cho nó trông như toàn thân bị phù thũng, dường như không còn thấy được hơi thở nào nữa. Phe tạo phản thấy “bệnh” của cụ sắp chết đến nơi, sợ rằng nếu cụ mà chết trong nhà tù thì họ khó tránh trách nhiệm, nên họ quẳng xác cụ ra bên ngoài. Thoát rồi cụ Vương Bá dùng công năng để hồi phục thân thể như cũ. Vào những năm khủng bố ấy, cụ Vương Bá thường âm thầm rơi lệ, không biết liệu mình có thể đợi đến ngày Phật Tổ truyền Pháp hay không.

Sau cải cách kinh tế, địa phương đó phát triển trở lại. Cụ Vương Bá lại tiếp tục bói mệnh cho người để mưu sinh qua ngày. Lúc bấy giờ có nhiều người giàu có đến; số người biết đến cụ Vương Bá ngày càng nhiều; nhiều quan chức đến, nhiều thiện nam tín nữ cũng trả cụ thêm nhiều tiền. Nhưng cụ Vương Bá nói không nhận, khước từ tiền ấy, và kiên nhẫn nhắc nhở rằng mọi người phải tích đức hành thiện, phải tích đức hành thiện.

Năm 1995, Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền đến nơi cụ Vương Bá ở. Xem xong cuốn “Chuyển Pháp Luân”, cụ vô cùng cảm động, dàn giụa nước mắt cụ nói: “Ta đã đợi Ngài cả một đời rồi đây! Đâu ngờ rằng đến 78 tuổi hôm nay ta được xem cuốn “Chuyển Pháp Luân”, đây đúng là Phật Pháp chân thực rồi!” Từ đó trở đi, cụ Vương Bá không bói số mệnh nữa, mà chuyên tâm tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Rất nhiều thiện nam tín nữ tìm đến cụ, cụ đều nói với họ: “Một đời tôi chờ đợi, và cuối cùng được Đại Pháp chân chính; tôi không bói số mệnh nữa đâu; đây là Đại Pháp chân chính duy nhất có thể cứu độ chúng ta, giúp chúng ta thoát khỏi bể khổ. Tôi đã bói toán cho các vị chỉ là để kết thiện duyên mà thôi, bây giờ có học Pháp Luân Đại Pháp hay không là tuỳ tự theo bản thân các vị quyết định; tôi chỉ nói cho mọi người cái đạo lý này mà thôi.” Thông qua sự hồng Pháp (quảng bá Pháp) của cụ Vương Bá, mà tại địa phương [nơi cụ sinh sống] đã có đến trên một nghìn người đắc Pháp tu luyện; có rất nhiều người trong năm nay đã đứng ra chứng thực Đại Pháp và nói điều chân thực.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/book/html/xunshi/xs049.htm

The post Thần thoại tại nhân gian: Vương Bá đợi đắc Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/05/than-thoai-tai-nhan-gian-vuong-ba-doi-dac-phap.html/feed0
Hồi tưởng những năm đầu truyền Pháp Luân Đại Pháp (Video)https://chanhkien.org/2012/05/hoi-tuong-nhung-nam-dau-truyen-phap-luan-dai-phap-video.htmlhttps://chanhkien.org/2012/05/hoi-tuong-nhung-nam-dau-truyen-phap-luan-dai-phap-video.html#respondTue, 15 May 2012 15:31:18 +0000http://chanhkien.org/?p=18868Hết Đông sang Xuân, thời gian dần trôi, chớp mắt đã 20 năm. Hai thập niên trước, ở phía Bắc Xuân Thành, Trường Xuân, Trung Quốc, một môn khí công tên là Pháp Luân Công được truyền ra.

The post Hồi tưởng những năm đầu truyền Pháp Luân Đại Pháp (Video) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Hết Đông sang Xuân, thời gian thoi đưa, chớp mắt đã 20 năm. Hai thập niên trước, ở phía Bắc Xuân Thành, Trường Xuân, Trung Quốc, một môn khí công tên là Pháp Luân Công được truyền ra. Thuận theo thời gian, người ta nhận ra rằng Pháp Luân Công không chỉ là một công pháp chữa bệnh khỏe người, mà là một Đại Pháp tu luyện thượng thừa của Phật gia, các học viên đều gọi là “Pháp Luân Đại Pháp”. Công hiệu thần kỳ và lực lượng chính nghĩa đã giúp Pháp Luân Đại Pháp không chỉ hồng truyền khắp Nam-Bắc Trung Quốc trong 20 năm qua, mà còn vượt đại dương, truyền tới hải ngoại.

Một ngày tháng 5 năm 1992, tại công viên Thắng Lợi ở Trường Xuân, khi người ta tụ tập lại một nơi để nghe câu chuyện về khí công, thì một vị thanh niên lạ lẫm đã tới gia nhập buổi nói chuyện của nhóm quần chúng yêu thích khí công.

Ông Lý, học viên tại Trường Xuân, nói: “Sư phụ giảng một chút công lý, công pháp và bản chất, tiếp đó làm mấy động tác, mà mọi người đều chưa từng thấy qua, từ trước đến giờ chưa thấy loại công pháp công lý nào như vậy. Nhiều người chuẩn bị theo Sư phụ học, trong đó mấy vị có năng lực thu xếp giúp Sư phụ tổ chức buổi tọa đàm đầu tiên”.

Vị thanh niên này chính là ông Lý Hồng Chí, rất nhiều người còn chưa biết, vì đây mới là lô học viên đầu tiên được ông giảng Pháp truyền công. Tại lớp học tập ở Trường Xuân, các học viên đã nhận thức được công lực cao siêu của ông Lý Hồng Chí và sự thần kỳ của Pháp Luân Công.

“Sư phụ hỏi tôi có thể làm theo ông hay không, tôi nói có. Thế rồi trong khoảng 3 giây, Sư phụ nói chị ngồi dậy đi, quả nhiên tôi ngồi dậy được; Sư phụ lại nói chị nằm xuống đi, khi ấy tôi nghĩ tôi không phải người có thể đang nằm mà có thể ngồi dậy được, vậy mà tôi đã ngồi dậy được”.

Sau khi tổ chức thành công hai lớp học tập tại Trường Xuân, tháng 6 năm 1992, ông Lý Hồng Chí đến Bắc Kinh để đề xuất lên Hội Nghiên cứu Khoa học Khí công Trung Quốc yêu cầu truyền Pháp Luân Công trên toàn quốc. Các nhân sĩ uy tín trong giới khí công bị thuyết phục bởi công pháp, công năng siêu thường của ông Lý Hồng Chí nên đã nhất trí thông qua các bài kiểm tra và đánh giá lý luận. Họ lập tức thành lập Hội Nghiên cứu Pháp Luân Công là phân hội trực thuộc Hội Nghiên cứu Khoa học Khí công Trung Quốc, từ đó phát triển khắp toàn quốc. Năm bài công pháp mềm mại, đẹp mắt của Pháp Luân Công nhanh chóng phổ biến khắp đất nước, và một số người đã luyện các môn khác lập tức bị thu hút bởi các động tác giản đơn, nhưng cao thâm phi thường này.

Ông Thiệu Hiểu Đông kể lại: “Nhìn thấy bài trang pháp Pháp Luân Công của họ, thấy họ đứng thế trạm trang, khi ấy tôi rất kinh ngạc, bởi vì bốn thế ôm bánh xe, đầu tiên là đầu tiền bão luân, tiếp theo là phúc tiền bão luân, còn có đầu đỉnh bão luân và lưỡng trắc bão luân, trong bốn thế đứng này thì có ba thế là ôm ở vị trí cao, loại trạm trang vị trí cao này trong quá khứ luyện đến tầng rất cao mới có thể tập”.

Lúc này Pháp Luân Công đã trở thành công pháp nổi bật nhất trong giới khí công. Các tỉnh, thành phố, khu tự trị khắp Trung Quốc đều sôi nổi tìm hỏi công pháp, công lý Pháp Luân Công, cũng như tìm tài liệu và mua sách. Chỉ trong bốn năm kể từ khi truyền ra, nhờ hiệu quả nổi bật về chữa bệnh khỏe người và đề cao tính chính diện của con người, Pháp Luân Công đã mau chóng phổ biến toàn Trung Quốc mà không có bất cứ quảng cáo nào, số người luyện tập tăng vọt.

Tiết mục về sức khỏe của Đài truyền hình Cát Lâm đã phỏng vấn một cán bộ về hưu: “Bác thấy lợi ích lớn nhất khi tập Pháp Luân Công là gì ạ?” Trả lời: “[Lợi ích] lớn nhất chính là thân thể tôi, từ trong ra ngoài đều phát sinh biến hóa về căn bản. Trước khi luyện công, lục phủ ngũ tạng tôi đều có bệnh, tới mức suy tim, tưởng như đã ở ngay cạnh tử thần rồi”.

Các ví dụ về đau ốm khổ sở trường kỳ, mà sau khi luyện công không lâu đều biến mất, trong các học viên Pháp Luân Đại Pháp có thể nói là không đâu không có. Pháp lý sâu sắc của Pháp Luân Đại Pháp cũng khiến những người tu luyện có nhận thức mới về cuộc sống. Trong những năm 90, bất chấp mưa gió hay tuyết rơi, trời nóng hay trời lạnh, các học viên Pháp Luân Công đều vẫn kiên trì ra ngoài luyện công. Cảnh luyện công tập thể nơi công cộng của họ đã trở thành một cảnh quan đặc thù vào mỗi sáng sớm ở rất nhiều địa phương.

Sau khi kết thúc lớp học tập ở Quảng Châu không lâu, ông Lý Hồng Chí nhận lời mời ra nước ngoài truyền công giảng Pháp. Ngày 13 tháng 3 năm 1995, đáp ứng lời mời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp, ông Lý Hồng Chí đã tổ chức lớp học tập và giảng Pháp đầu tiên tại nước ngoài. Sau đó, ông Lý Hồng Chí cũng mở lớp học tập và giảng Pháp tại Thụy Điển. Trong khi truyền công giảng Pháp, điều ông Lý Hồng Chí chú trọng chính là sự thăng hoa chân chính trong nội tâm của học viên, cũng là tu luyện tâm tính. Lực lượng chính nghĩa ấy đã phá vỡ mọi trở ngại về văn hóa và ngôn ngữ, làm xúc động các học viên da trắng có mặt tại đó.

Theo một học viên Pháp Luân Công người Thụy Điển thì: “Tôi cảm nhận được lực lượng từ bi ấy, cực kỳ cực kỳ ấm áp. Trong đầu tôi không hề có bất cứ ý niệm xấu nào cả, loại cảm thụ ấy rất khó dùng lời để biểu đạt, nhưng trong tâm tôi cảm thấy rất ấm áp, dễ chịu, nhẹ nhõm. Tôi cảm thấy tất cả chính là như vậy đấy”.

Trong bốn năm truyền Pháp, dấu chân của ông Lý Hồng Chí đã in khắp Trung Quốc và nhiều quốc gia Âu-Mỹ; sự mẫu mực trong lời nói và việc làm của ông Lý đã cảm động các học viên bên cạnh ông, lưu lại những ký ức không thể nào quên. Ông Chung Quế Xuân, người từng là một chỉ huy trong hệ thống công an ở Bắc Kinh, là một trong những đệ tử sớm nhất theo các lớp học tập của ông Lý Hồng Chí.

Ông Chung Quế Xuân nhớ lại: “Khi Sư phụ truyền Pháp tại Bắc Kinh hoặc truyền Pháp ở nơi khác, ngoại trừ cả ngày ở trên xe lửa với tư liệu Đại Pháp ra, thì Sư phụ chỉ mang một va li đựng mì gói. Sư phụ từ xưa tới nay không bao giờ ăn trước khi lên lớp. Như vậy vào buổi tối sau khi kết thúc lớp học, chúng tôi mới nhìn thấy Sư phụ trở về ký túc xá, về đến nơi mới nấu một gói mì tôm, thế là xong. Đây là điều chúng tôi tận mắt nhìn thấy, thường xuyên như vậy”.

Ông Chung Quế Xuân: “Sư phụ chính là để tiết kiệm chi phí mà! Bởi vì mở lớp khi ấy Sư phụ là thu phí thấp nhất, trong tất cả các khí công sư trên toàn quốc”.

Các học viên thời kỳ đầu khi hồi tưởng lại tình cảnh tham gia lớp học tập năm xưa đều xúc động, bởi vì ông Lý Hồng Chí có những điều mà họ vĩnh viễn không học hết được. Tháng 10 năm 1996, ông Lý Hồng Chí sang Bắc Mỹ, kết thúc hơn bốn năm truyền Pháp dạy công tại các nơi trên thế giới. Từ đó về sau, Pháp Luân Công đều bằng phương thức người truyền người, tâm truyền tâm mà truyền biến khắp thế giới.

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/12283

The post Hồi tưởng những năm đầu truyền Pháp Luân Đại Pháp (Video) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/05/hoi-tuong-nhung-nam-dau-truyen-phap-luan-dai-phap-video.html/feed0
Từ hải ngoại mộng thấy cao tăng núi Nga Mi chỉ điểm tu Đại Pháphttps://chanhkien.org/2012/05/tu-hai-ngoai-mong-thay-cao-tang-nui-nga-mi-chi-diem-tu-dai-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2012/05/tu-hai-ngoai-mong-thay-cao-tang-nui-nga-mi-chi-diem-tu-dai-phap.html#respondWed, 09 May 2012 12:46:20 +0000https://chanhkien.org/?p=16357Đây là trải nghiệm có thật của một học viên Pháp Luân Đại Pháp khi đắc Pháp.

The post Từ hải ngoại mộng thấy cao tăng núi Nga Mi chỉ điểm tu Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sư Vân

[Chanhkien.org] Đây là trải nghiệm có thật của một học viên Pháp Luân Đại Pháp khi đắc Pháp. Xét thấy trước mắt chính phủ Trung Quốc vẫn đang đàn áp Pháp Luân Công, bức hại tàn khốc học viên Pháp Luân Công, chúng tôi đã ẩn tên thật của học viên này, mà chỉ dùng “cô” để miêu tả.

Cô nguyên là một cán bộ công tác trong ngành giáo dục ở Trung Quốc, sau này di cư sang Singapore. Trước Tết năm 1995, một đêm cô nằm mộng, thấy một vị cao tăng tóc bạc trắng nói với cô: “Ta là sư phụ của con, hiện tại đang tu luyện trên núi Nga Mi ở Tứ Xuyên”. Cô tin chắc giấc mộng này là thật, nên lập tức từ Singapore lên đường khởi hành về quê cũ, sau đó cấp tốc tới Tứ Xuyên, lên núi Nga Mi tìm sư phụ.

Cô mang theo một tâm thành kính mà thánh khiết, không sợ gian hiểm, lặn lội đường xa, cuối cùng đến được thánh địa Phật giáo — núi Nga Mi. Không quản đường xá khó khăn, cô từ chùa Báo Quốc dưới chân núi leo thẳng lên đỉnh Kim Đính. Dưới đỉnh Kim Đính, qua hết chùa này đến chùa khác, gặp hết hòa thượng này đến hòa thượng khác, gặp ai cô cũng đều hỏi thăm. Đúng là “Công phu không phụ người có tâm”. Sau đó, qua lời một tiểu sa di, cô mới biết vị sư phụ mà cô nằm mộng chính là Thông Dũng pháp sư. Tiểu sa di dẫn cô vào tự miếu, gặp đúng lúc pháp sư đang ngồi đả tọa ở thiền đường. Đợi ông xuất định, cô mới hợp thập và quỳ lạy hành lễ trước pháp sư. Khi giải thích nguyên do, đầu tiên cô kể lại tình cảnh trong giấc mộng, sau đó cầu pháp sư thu cô làm đệ tử. Khi ấy cô quá đỗi vui mừng, xúc động nội tâm biểu đạt cả trong lời nói, đầy ắp hy vọng pháp sư sẽ gật đầu đồng ý. Thế nhưng điều cô không ngờ đã tới, pháp sư không hề biểu cảm trước lời nói và khẩn cầu của cô. Còn hờ hững hơn, ông không nói là được, mà cũng không nói là không được. Chỉ thấy pháp sư ngồi ngay ngắn trên Phật đường, nhắm mắt trầm tư, không nói không rằng. Lúc ấy tâm cô cảm thấy ủy khuất, vô cùng khó chịu, nghĩ tới mình từ hải ngoại xa xôi tới đây, phát nguyện tầm sư cầu pháp, trên đường trải trăm cay nghìn đắng, mà nay trở thành mộng ảo. Thế nhưng cô không hề lùi bước, kiên quyết chắp tay quỳ xuống, quỳ ở đó hơn 4 tiếng đồng hồ. Hôm sau, pháp sư vẫn y như cũ, không mảy may thay đổi. Để biểu đạt tâm nguyện bái sư kiền thành, cô không hề nản lòng nhụt chí, mà hàng ngày vẫn khấu đầu lạy pháp sư. Thời gian thấm thoát trôi qua, cô đã ở trên núi Nga Mi được hơn 3 tháng.

Mãi tới ngày 25 tháng 5, Thông Dũng pháp sư mới quay mặt về cô cười nói một câu: “Đi thôi, hôm nay ta dẫn thí chủ tới Thành Đô”. Vậy là cô đi cùng pháp sư tới Thành Đô, vào Văn Thù viện. Tới ngày 26, cô lại cùng pháp sư tới chùa Bảo Quang. Rồi sáng ngày 27, họ ra khỏi Văn Thù viện; pháp sư bảo cô cùng đi tới học viện Trung Y để kiểm tra thân thể. Vừa vào đến cửa viện, họ đã thấy một vị bác sĩ trẻ tuổi tay cầm một tạp chí, bốn chữ “Cửa sổ văn nghệ” như tỏa sáng trước mắt. Điều khiến người ta chú ý hơn là một vị thanh niên kia đang ngồi tọa trên đài sen, đôi mắt nhắm lại. Lúc ấy pháp sư dừng chân rất lâu, hướng về vị thanh niên tọa trên đài sen chắp tay làm lễ. Cô thấy thật kỳ quái: “Sư phụ, ngài nhiều tuổi như vậy, vì sao lại hành lễ trước vị thanh niên này?” Pháp sư không đáp, chỉ cười: “Hôm nay ta trú tại nơi này, con lập tức về Văn Thù viện thay ta trông giữ phòng thất, nhất định đừng để họ sắp xếp lại người ở”. Sau khi nghe pháp sư dặn dò, cô lập tức trở về Văn Thù viện, nhưng trong lòng vẫn không hiểu được an bài của pháp sư.

Khi cô đang trong phòng thất trầm tư, thì một bản nhạc mỹ diệu du dương khởi lên. Cô hưng phấn không thôi, và để tìm kiếm âm thanh, cô quyết định đi bộ ra phía sau Văn Thù viện. Nguyên là các học viên tại trạm phụ đạo Pháp Luân Đại Pháp ở Văn Thù viện đang luyện công tại đó. Ảnh treo ở trạm phụ đạo chính là người thanh niên mà pháp sư đã hợp thập hành lễ vào buổi sáng ở bệnh viện — Sư phụ Lý Hồng Chí. Những phụ đạo viên ở trạm phụ đạo nhiệt tình tiếp đãi cô, giới thiệu uy đức của Sư phụ Lý Hồng Chí và công lý công pháp Pháp Luân Công cho cô. Họ còn nói vào ngày 28 tháng 5, tổng trạm phụ đạo Thành Đô sẽ khai mở hội giao lưu tâm đắc tại Đại học Khoa học Kỹ thuật Thành Đô, và hoan nghênh cô tới tham gia. Ngày 28 tháng 5, cô đã tới tham gia hội giao lưu tâm đắc này; sau đó, cô trực tiếp tới viện Trung Y gặp vị cao tăng đang trị bệnh. Ngày hôm ấy, trong các bác sĩ khám bệnh cho cao tăng cũng có người đeo huy hiệu Pháp Luân. Vừa trông thấy cao tăng, cô đã vội kể lại tình huống ở hội giao lưu tâm đắc trong trường đại học. Cao tăng lặng lẽ không nói, chỉ mỉm cười và gật đầu. Đợi tới khi về Văn Thù viện rồi, pháp sư mới nói với cô: “Duyên đã tiếp rồi, con đã minh bạch rồi. Sau khi theo ta về thiền viện, con sẽ tới bái kiến Lý Hồng Chí Sư phụ, đi theo tu luyện Pháp Luân Đại Pháp”. Kể từ đó, cô đã bước đi trên con đường tu luyện Pháp Luân Phật Pháp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/book/html/xunshi/xs003.htm

The post Từ hải ngoại mộng thấy cao tăng núi Nga Mi chỉ điểm tu Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/05/tu-hai-ngoai-mong-thay-cao-tang-nui-nga-mi-chi-diem-tu-dai-phap.html/feed0
Đạo sĩ đi nghìn dặm chỉ để nhận vật báuhttps://chanhkien.org/2012/03/dao-si-di-nghin-dam-chi-de-nhan-vat-bau.htmlhttps://chanhkien.org/2012/03/dao-si-di-nghin-dam-chi-de-nhan-vat-bau.html#respondSun, 04 Mar 2012 13:22:31 +0000https://chanhkien.org/?p=16362Tại một thành phố ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc có một vị nữ đệ tử Đại Pháp tên là Ngọc Liên.

The post Đạo sĩ đi nghìn dặm chỉ để nhận vật báu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[Chanhkien.org] Tại một thành phố ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc có một vị nữ đệ tử Đại Pháp tên là Ngọc Liên. Tháng Giêng năm 2005, vào buổi tối một ngày nọ, Ngọc Liên nhìn thấy trong mộng một vị tu Đạo, trông rất đáng thương đang nhìn cô, xin cô báu vật, lại cầu cô cứu giúp.

Hôm sau khi đi làm về, Ngọc Liên nhớ lại cảnh tượng trong mộng, chân thực như ngay trước mắt vậy. Cô nghĩ, nếu lời này là thật, thì giữa biển người mênh mông này, biết tìm vị đạo sĩ kia ở đâu. Đang lúc khó nghĩ, thì ông chủ nhà sát vách nói với Ngọc Liên: “Ngày mai ở Nhạc miếu sẽ có một lễ mừng lớn, và cho chúng ta vé vào đây này. Cô tới xem một chút cho vui đi”. Cô bèn đáp ứng.

Ngày hôm sau, Ngọc Liên theo đám người tới nơi. Vì đang có tâm tư, nên cô nói với người đi cùng: “Nơi này tôi đã qua mấy lần rồi, các bạn cứ ở đây xem vui vẻ nhé. Tôi đi đây”. Khi đang trên đường, Ngọc Liên nhìn thấy trước mặt có một vị đạo sĩ râu trắng, trông giống hệt vị đạo nhân mà cô nằm mộng hôm nọ.

Cùng lúc ấy, đạo sĩ cũng nhìn thấy cô, bốn mắt nhìn nhau, giống như quen biết từ lâu. Vừa nhìn thấy cô, đạo sĩ đã hỏi: “Tôi có thể đang tìm đúng chị đây. Tên chị có phải mang một chữ ‘Ngọc’ không?” Ngọc Liên đáp: “Tôi tên là Ngọc Liên, tôi cũng đang đi tìm ông đây”. Đạo sĩ không kìm được, hỏi cô luôn: “Cô có báu vật gì cho tôi à? Cô đang tập cái gì thế?” Ngọc Liên bình thản đáp: “Tôi tập Pháp Luân Công, tu Đại Pháp ‘Chân-Thiện-Nhẫn’ của vũ trụ”.

Sau khi chuyện trò, cô mới biết người này họ Đàm (tên hiệu), người Cam Túc, tu Đạo đã nhiều năm trên một ngọn núi cao. Bởi vì nơi ấy rất biệt lập, nên tin tức gì cũng không biết, hoàn toàn không biết “Pháp Luân Công” là gì. Mấy hôm trước khi tới Hà Nam, đạo sĩ có một giấc mộng, thấy một cụ già râu tóc bạc phơ nói với ông: “Hai hôm sau, con tới Hà Nam nhận vật báu nhé. Người mang báu vật tên mang một chữ ‘Ngọc’.” Người ấy lại cho ông xem hình ảnh rõ ràng của Ngọc Liên.

Đúng là trong cõi mê mờ vốn đã có sẵn an bài. Đạo sĩ nói với Ngọc Liên: “Ngày mai tôi phải đi rồi, không biết cô có đem báu vật cho tôi hay không?” Khi ấy trên người Ngọc Liên chỉ có mấy quyển sách nhỏ chân tướng. Cô bèn đưa nó cho vị đạo sĩ, lại nói với ông: “Xin ông cứ yên tâm, sớm mai tôi nhất định sẽ đưa đủ cho ông, quyết không làm lỡ hành trình của ông đâu”.

Hôm sau, Ngọc Liên thuê một chiếc xe và tới đưa vị đạo sĩ đủ bộ sách quý, kèm theo đĩa VCD và các loại tài liệu chân tướng có thể kiếm được. Cô còn nói với ông đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp phải làm tốt ba việc.

Lúc chia tay, đạo sĩ thành khẩn nói với Ngọc Liên: “Cô nhất định không được bỏ rơi tôi nhé”. Ngọc Liên từ tốn nói với ông: “Chúng ta nghiêm túc làm tốt ba việc mà Sư phụ giao phó, cùng nhau tinh tấn trên con đường tu luyện Chính Pháp. Ông nhất định sẽ không bị rớt lại đâu”.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/book/html/xunshi/xs012.htm

The post Đạo sĩ đi nghìn dặm chỉ để nhận vật báu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/03/dao-si-di-nghin-dam-chi-de-nhan-vat-bau.html/feed0
Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vươnghttps://chanhkien.org/2011/12/co-tang-van-ly-tim-dai-dao-may-gap-di-lac-chuyen-luan-vuong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/12/co-tang-van-ly-tim-dai-dao-may-gap-di-lac-chuyen-luan-vuong.html#respondSun, 25 Dec 2011 18:34:39 +0000https://chanhkien.org/?p=15629Để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn thứ khổ; để tu luyện hoàn nghiệp, bà đã lưu lại truyền kỳ, nhiều phen thập tử nhất sinh, tựa như tái hiện Phật Milarepa thuở xưa.

The post Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Tĩnh Văn

[Chanhkien.org] Để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn thứ khổ; để tu luyện hoàn nghiệp, bà đã lưu lại truyền kỳ, nhiều phen thập tử nhất sinh, tựa như tái hiện Phật Milarepa thuở xưa. Hoa Ưu Đàm Bà La ghi lại trong kinh Phật đã khai nở, chính là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân; câu chuyện của Thích Chứng Thông thật đáng để chúng ta suy ngẫm.

Câu chuyện này bắt đầu từ một tai nạn xe hơi tại Cao Hùng, Đài Loan vào tháng 6 năm 2002.

Hôm ấy trên phố người đi lại đông đúc, một chiếc xe gắn máy màu tím đang chạy trên đường, thì đột nhiên một chiếc xe hơi màu xám từ bên trái cấp tốc quẹo phải, trong chớp mắt đã đụng vào chiếc xe gắn máy, cả chiếc xe hơi đè lên người lái xe gắn máy. Khi ấy hai tiểu thư trên xe sợ quá: đây chẳng phải cán chết người hay sao? Hai người lập tức xuống xe, chỉ thấy một nữ tăng nhân tầm 40, 50 tuổi đang gắng sức ngọ nguậy để đứng dậy.

Hai cô gái sợ quá, một cô hỏi: “Thưa bà, bà không sao chứ?” Không thấy đối phương đáp lại. Chỉ thấy tăng nhân hai mắt nhắm chặt, mỗi cử động đều khiến toàn thân run rẩy. Một lúc lâu sau, bà mới mở mắt ra, gắng sức dùng tay ra hiệu một cách điềm tĩnh, có ý bảo đẩy giùm xe gắn máy lại. Sau đó, một cách rất khó khăn, bà lấy ra hai tờ truyền đơn từ ba lô đưa cho hai cô gái, đồng thời ra hiệu cho họ đi. Hai vị cô nương rất mừng vì tự mình đã chứng kiến kỳ tích, gặp được một ni cô câm mà hảo tâm. Đợi hai cô đi rồi, người ta mới thấy nữ tăng nhân cật lực bò lên xe gắn máy, chầm chậm lái đi.

Vị nữ tăng nhân này chính là pháp sư Thích Chứng Thông, năm nay gần 70 tuổi. Những ai hiểu được bà đều không khỏi cảm thán trước truyền kỳ về trải nghiệm thập tử nhất sinh của bà; để truy tìm chân lý Phật Pháp, bà đã chịu muôn vàn thứ khổ; có người đem trải nghiệm của bà ví như tái hiện cố sự Phật Milarepa năm xưa.

Vâng mệnh cha kết hôn, sinh con vẫn không giảm nguyện vong xuất gia

Thích Chứng Thông sinh ra tại một thôn làng nhỏ nghèo khó tại xã Lý Cảng, huyện Bình Đông, thuộc miền Nam Đài Loan. Bà từ nhỏ đã không thích chốn náo nhiệt, sau khi tan học thường đến một ngôi chùa ở gần đó, lặng lẽ ngồi tọa dưới gốc cây. Các nhà sư trong chùa hỏi bà có muốn xuất gia không, bà thành thực gật đầu. Năm hơn bốn tuổi, một hộ trong thôn làm đám cưới con, người cả thôn đều đi uống rượu cưới, bà hỏi nhỏ phụ thân: “Vì sao phải kết hôn vậy cha? Con lớn lên sẽ không như người này đâu”.

Vì bà bẩm sinh tính vừa lanh lợi vừa giản dị, nên từ năm 15 tuổi đã bắt đầu có người đến xin kết thông gia không ngớt, nhưng đều bị bà cự tuyệt. Tuy nhiên năm 21 tuổi, anh trai thầy giáo bà và phụ thân bà đi xa buôn bán cùng nhau, khi trở về đã định chuyện cưới xin, do vậy bà xuất giá.

Nháy mắt đã hai chục năm trôi qua, bà kinh doanh một công ty gia đình xuất khẩu thương mại. Bất chấp sự nghiệp phát đạt, được chồng quan tâm, hai trai một gái hiếu thuận, tất cả dường như không đem lại hạnh phúc thật sự cho bà. Bà thường khóc một mình, nước mắt đẫm hai má. Sau khi sắp xếp xử lý công việc bận rộn, bà đều ngồi xếp bằng trên ghế dựa, cung kính lấy ra kinh thư cất trong ngăn kéo rồi nghiêm túc đọc. Cảm thấy đời người ngắn ngủi, vạn sự vô thường, nguyện vọng xuất gia của bà càng ngày càng mạnh mẽ.

Nhất tâm hướng Phật đợi cơ duyên, cuối cùng cạo đầu đi tu

Hồi ấy Thích Chứng Thông mỗi ngày đều đả tọa vào sáng sớm, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng. Thực ra bà từ bé đã khai mở thiên mục, có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ dị, chỉ là bà cho rằng ai ai cũng đều nhìn thấy như thế nên không đi nói với ai. Thời thơ ấu bà nhìn thấy vạn sự vạn vật đều đang sống, mỗi lần qua cầu, bà đều nói với cây cầu: “Xin lỗi, phiền cho ta qua nhé”. Nhìn thấy hoa cỏ cây cối, bà đều chào và hỏi thăm.

Có một lần vào buổi sớm một hôm nọ, bà ngồi đả tọa tại công ty và nhìn thấy đủ loại cá xếp thành hàng ngũ đang bơi qua, miệng đều ngoảnh về phía bà như đang kể lại điều gì. Bà thấy rất kỳ quái, mới hỏi một đồng nghiệp thích câu cá trong công ty: “Hôm qua anh đi đâu?” Người kia nghe xong đáp ngay: “Á! Chị biết rồi à! Không phải tôi làm đâu, tôi chỉ là chạy xe chở họ đi bắt cá thôi; họ dùng điện, đem bắt tất cả cá lên”. Bà nghe xong hai hàng nước mắt chảy dài.

Vừa mới học lái xe, một lần bà đột nhiên nhìn thấy xe huấn luyện viên biến thành rộng rãi phi thường, xuất hiện một cảnh tượng Phật quốc thù thắng trang nghiêm. Nguyên là trên xe huấn luyện viên mới treo một tấm bùa hình Phật khoảng hai tấc. Còn có một lần, bà từ phòng làm việc công ty đi tới nhà xưởng, đột nhiên nghe thấy “bang” một tiếng, chỉ thấy trên không trung nở ra một đóa hoa sen rất lớn. Bà thực sự cảm thấy tồn tại chân thật của thế giới Phật quốc, kinh Phật nói chẳng sai.

Sống giữa dòng thế tục thấm đẫm danh lợi tình, bà cảm thấy như bị giày vò ngày qua ngày. Khi ấy bà đã thụ “Bồ Tát giới tại gia”, đây đã là giới luật tối cao của cư sĩ không xuất gia, sau nữa là phải tu xuất gia.

Khi ở bên các con, bà thường kể chuyện Phật giáo cho chúng nghe, lại nói với chúng rằng một ngày nào đó mẹ của chúng sẽ ly khai thế tục, xuất gia tu hành. Bà nhất tâm hướng Phật, đến năm hơn 40 tuổi, cơ duyên cuối cùng đã chín muồi, người nhà của bà không nhẫn tâm lại để bà tiếp tục chịu giày vò nữa, đều đồng ý để bà xuất gia. Sau 40 năm chờ đợi đằng đẵng trong khổ sở, bà đã hoàn thành nhân duyên thế tục; bà cạo đầu trở thành một vị ni cô, pháp hiệu Thích Chứng Thông.

Làm trụ trì xây tinh xá, hành hương sang Tây Tạng suýt mất mạng

Đài Loan bảo lưu truyền thống văn hóa kính Thần của Trung Hoa, bởi vậy người ta đều tôn kính phi thường với người xuất gia, và các cư sĩ cũng cực lực cung dưỡng tăng nhân. Xuất gia không lâu, Thích Chứng Thông đã trở thành trụ trì của ngôi chùa. Sau đó dưới sự khẩn cầu của cư sĩ, bà xây dựng một miếu thờ (tinh xá) trên núi hoang.

“Khai phá núi rất khổ cực, làm cỏ san đất, tất cả đều tự mình làm. Một ngày tôi một mình làm đến nửa đêm, đột nhiên một con rắn độc, loại bách bộ xà bò tới, dừng trước mặt tôi. Tôi bảo nó quy y theo Phật, để nó đi thật xa, không được hại người, cũng không bị người làm hại. Nó nghe xong thuận theo gác thang mà bò đi”. Cũng như vậy, để khiến thật nhiều người hữu duyên tiếp xúc Phật Pháp, pháp sư Thích Chứng Thông trước sau đã xây ba tinh xá tại ba chỗ trên ngọn núi hoang.

Để tìm kiếm chân lý nhân sinh, khi đảm nhiệm chức trụ trì, Thích Chứng Thông còn nhiều lần thăm viếng danh sơn thắng địa để truy tìm dấu vết của Đại Giác Giả. Bà đã từng qua Tây Tạng, Himalaya, Trường Giang, thượng nguồn Hoàng Hà, núi Côn Lôn, Nepal và Ấn Độ.

Hành hương là rất khổ sở. Đường đi đều là nơi hoang dã, hoang mạc hoặc bãi sông, khi ăn cơm chỉ có thể đào một cái hố trên mặt đất để đun nước, sinh hoạt gian khổ phi thường. Khi đến Tây Tạng, do không khí loãng, Thích Chứng Thông bắt đầu xuất hiện phản ứng cao nguyên, cộng thêm gánh nặng chịu thống khổ cho một vị nữ cư sĩ đi cùng, kết quả tâm tạng chịu không nổi, suýt nữa mất mạng.

Tâm không thoái thác, cầm bát vân du, khổ tìm đường trở về

Tuy nhiên sau khi tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và nỗ lực, Thích Chứng Thông vẫn không thu hoạch được gì mấy sau nhiều chuyến hành hương, “trong tâm không có cảm giác chắc chắn, đối với tu luyện lên tầng thứ cao như thế nào vẫn y nguyên không minh bạch. Đặc biệt là nhiều người bám theo tôi, khiến tôi cảm thấy rất hoảng hốt. Ngay cả tôi cũng không biết viên mãn như thế nào, thì làm sao giúp được họ đây?”

Để có trách nhiệm với người ta, Thích Chứng Thông kiên quyết ly khai đạo trường truyền thống, lựa chọn “chân trần cầm bát vân du”, phương thức truy tìm Phật Pháp thuần khiết nhất và cũng là khổ nhất của thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni. Chính như bà viết trong một bài thơ: “Một bát cơm nghìn nhà, Cô tăng vạn lý du, Chỉ để thoát sinh tử, Hóa độ khắp xuân thu”.

Cầm bát vân du là phi thường gian nan. Ly khai tinh xá, một chút nguồn sinh hoạt cũng không có, quần áo, lương thực, nơi ở, thảy đều không có, hỏi sống làm sao đây? Đặc biệt trong xã hội hiện đại không có tôn trọng đối với tăng nhân như thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, để từ nhà người ta xin một chút cơm ăn, phải chịu các loại nhạo báng, nhục mạ, vũ nhục và bất lý giải, “đến đâu cũng thấy mỗi người một vẻ, có một nụ cười thiện tâm đối với tôi là một niềm cổ vũ lớn lao”. Tuy nhiên hết thảy đều không ngăn được niềm tin hướng về chân lý Phật Pháp của Thích Chứng Thông.

Mỗi ngày Thích Chứng Thông đều mang theo một cái ô, hành lý, túi ngủ, v.v. chân trần bước đi, liên tục không ngừng. Hai chân rất nhanh cọ sát đến mọc bóng nước, gan bàn chân tróc da, chảy cả máu, nhưng bà vẫn tiếp tục đi. “Khi bước đi trên đường nhựa rất bỏng, dẫm nhầm hòn đá trên đường, chân đau buốt đến tận tim. Tôi từng ngủ cạnh ngôi mộ, ngủ ngoài trời dưới gốc cây, ma nạn mà thân tâm phải chịu đựng là không cách nào biểu đạt. Tôi chỉ mong tìm được một con đường phản bổn quy chân, tìm được một vị sư phụ chân chính dẫn tôi trở về nhà”.

Thích Chứng Thông vô cùng khiêm tốn nội tâm, bà không nguyện ý nói ra nỗi khổ mà mình phải chịu, rất nhiều người ngoài coi là sự việc kinh thiên động địa, nhưng đối với bà đó chỉ là một hai câu ngắn ngủi mà bà kể lại mà thôi.

Thân tâm bên bờ tuyệt vọng, may gặp được Đại Pháp

Tuy nhiên vân du cũng không thể khiến Thích Chứng Thông đã hơn 50 tuổi tìm thấy chân Pháp chân Đạo, trái lại thân thể với bao bệnh tật thời niên thiếu, lại chịu bao đau khổ dằn vặt khi vân du khắp trong và ngoài nước, kết quả bách bệnh triền thân. “Phàm là những bệnh mà bệnh viện có thể kể tên ra, thì tôi đều có gần hết, đặc biệt là bệnh tim, bệnh dạ dày, bệnh thận, đau nhức kinh lạc, vẹo lệch sống eo, trật khớp cột sống, v.v. có rất nhiều”.

Các bệnh trên thân thể, cộng thêm tâm bệnh tìm không thấy chân lý, trong ngoài đều khốn đốn, khiến Thích Chứng Thông gần như tuyệt vọng, đặc biệt là sau năm 1992. “Trước kia tôi xem kinh thư, thấy đằng sau đều có nội hàm. Tôi có thể nhìn thấy chư Phật Bồ Tát, các chủng cảnh tượng thiên đường; tuy nhiên từ sau năm 1992, chúng đều biến mất. Điều này khiến tôi cảm thấy rất kỳ quái, cũng rất tuyệt vọng. Kinh Phật là dùng để độ nhân, nhưng hiện tại Pháp thân của Phật đã ly khai nhân gian rồi, rốt cuộc đã phát sinh sự việc gì?”

Mãi tới một ngày đầu năm 1998, một vị bác sĩ y thuật cao minh tặng bà một bản «Chuyển Pháp Luân». “Tuy khi ấy tôi còn chưa biết đây là cuốn sách gì, nhưng trước khi mở, hai tay tôi giương cuốn sách lên quá đỉnh đầu, rồi mới mở ra. Vừa nhìn thấy ảnh Sư phụ, nước mắt tôi bỗng chốc tuôn rơi, không biết là vì sao. Tôi hình như đã sáng tỏ thân phận, lai lịch của Sư phụ; tôi biết tôi cuối cùng đã tìm thấy Sư phụ chân chính rồi. Khi ấy nước mắt tôi cũng như những hột trân châu, nhỏ xuống từng giọt”.

“Đoạn thời gian ấy nước mắt tôi tựa hồ không ngừng tuôn rơi. Khi tôi nhìn thấy lần đầu học viên luyện công đả thủ ấn, nước mắt tôi chỉ là không ngừng nhỏ xuống, cảm giác phi thường thân thiết. Lần đầu tiên luyện công, tôi đã nghe thấy huyệt dũng tuyền ở hai chân tách mở ‘păng’ một cái, tôi thực sự thể nghiệm được cảm giác ‘trăm mạch đồng thời vận chuyển’. Toàn bộ cơ thể tôi rất nhanh ở trong trạng thái thoát thai hoán cốt, các loại bệnh đều tiêu mất sạch”.

Thích Chứng Thông kể, khi ấy bà mới minh bạch, Sư phụ Lý Hồng Chí là đang chân chính cứu người. Thảo nào hồi năm 1992 xem kinh thư Phật giáo, phát hiện thấy không có nội hàm nào đằng sau, bởi vì Sư phụ đã bắt đầu truyền Đại Pháp rồi, chúng Thần đều rời đi rồi.

“Sư phụ dùng toàn ngôn ngữ thiển bạch nhất của nhân loại, mà đem đạo lý cao thâm ra giảng xuất lai. Ví như nói, trong Phật giáo có các chủng giải thích đối với Phật, nhưng Sư phụ giảng: Người tu luyện giác ngộ rồi được gọi là ‘Phật’, chỉ một câu mà đã bao hàm nội dung hàng vạn quyển kinh thư. Lại ví như tu luyện rốt cuộc là gì, Sư phụ giảng, tu luyện chính là quá trình không ngừng tống khứ tâm chấp trước của con người; đây đều là đạo lý mà chúng tôi tu Phật mấy chục năm qua vẫn chưa minh bạch, Sư phụ chỉ một câu đã chỉ rõ ra rồi”.

Đại Pháp tựa như chiếc xe tốc hành, khiến con người viên mãn nhanh nhất

“Tháng 8 năm 1998, tôi may mắn được gặp Sư phụ sau Pháp hội Singapore, khi ấy tôi hỏi Sư tôn: ‘Con trước đây đã là đệ tử của Phật, hiện nay vẫn là đệ tử của Phật, xin hỏi con có thích hợp tham gia hoạt động Đại Pháp hay không?’ Sư tôn sau khi khai thị một đoạn Pháp lý, nói có thể tu”.

Từ đó, Thích Chứng Thông đem toàn thân tâm đặt vào tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, lại nghĩ đem lịch trình muôn vàn khổ sở tìm kiếm chân lý của mình cho nhiều người hơn nữa biết. Bà trước tiên tìm những người xuất gia và cư sĩ mà bà biết trước đây, thế nhưng trong số họ không ít người không thể lý giải. Có người nói bà phản bội sư môn, có người phản đối bà mặc y phục người xuất gia để đi hồng truyền Pháp Luân Công, thậm chí có người nửa đêm gọi điện thoại quấy nhiễu bà.

Thích Chứng Thông lúc này mới minh bạch, vì sao lần đầu tiên gặp được Sư phụ, trong tâm bà vang lên câu: “Chư vị đang hô khẩu hiệu, luôn miệng nói phải tu luyện, nhưng thực sự khi đến lúc, chư vị lại không đến đắc chân Pháp”. Tuy nhiên bà cũng không vì vậy mà chán nản, bởi vì có rất nhiều người hữu duyên đang đợi ngoài chùa chiền. Thế là bà đến đâu cũng giới thiệu Pháp Luân Công với người ta, dạy người luyện công học Pháp, giúp thành lập điểm luyện công mới.

Một lần tại lớp dạy Pháp Luân Công cho các giáo viên Đài Loan, bà giới thiệu với các giáo viên ở dưới bục: “Tôi nguyên là tu luyện Phật giáo, nhưng tôi đến muộn rồi; tôi không bắt kịp truyền pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ bắt kịp thời kỳ mạt pháp. Nhưng tôi rất có may mắn, lỡ mất dịp này, nhưng lại gắng sức lên được chiếc xe tốc hành; tuy rằng cất bước chậm, nhưng tôi đã đạt mục đích, Pháp Luân Công tựa như chiếc xe tốc hành ấy, có thể khiến con người viên mãn mau lẹ nhất”.

Về không ít người trước đây từng học qua pháp môn khác mà nay không dám luyện Pháp Luân Công vì sợ sư phụ cũ không vui, Thích Chứng Thông nói: “Cũng giống như chúng ta đi học, từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, nghiên cứu sinh, đến tiến sĩ, thầy giáo trước đây của chúng ta không chỉ vì chúng ta nhận thầy giáo khác mà không cao hứng, chỉ cần chúng ta đề cao lên, thì sư phụ trước đây của chúng ta càng cao hứng”.

Nhẫn chịu trọng thương tông xe, luyện công hồng Pháp giảng chân tướng

Trong khi giúp nhiều người hơn nữa liễu giải Pháp Luân Công, Thích Chứng Thông trước sau bị 5 lần xe hơi đâm rất nghiêm trọng, đúng là thập tử nhất sinh. Sáng sớm một ngày năm 1999, trời còn chưa sáng, bà đã lái xe máy tham gia điểm luyện công buổi sáng sớm và bị một kẻ say rượu đâm trúng. Lúc ấy xương cánh tay trái của bà bị đâm gẫy, mạch máu bị vỡ, toàn bộ cánh tay biến thành tím đen, lại sưng phù lên.

Khi kẻ say rượu tỉnh lại, anh ta hét lên: “Thật xin lỗi, để tôi đưa bà đi bệnh viện nhé, nếu không chị gái tôi mắng chết tôi”. Nhưng Thích Chứng Thông từ từ bò dậy khỏi mặt đất, nói mình không hề gì và để anh ta đi. Bà leo lên xe gắn máy đến điểm luyện công, nhưng không nói với ai về sự việc tông xe, mà nhẫn nhịu đau đớn do gãy xương và luyện công cùng đám đông. Sau khi đồng tu phát hiện ra, họ vô cùng kính phục lực nhẫn nại của bà.

Hơn một tháng sau, trong tình huống không có trị liệu nào, đoạn xương gẫy của bà đã liền lại, so với trị liệu của bệnh viện còn nhanh hơn. Sau đó một người trong giới y học hiểu biết sự việc nói: “Theo phân tích hiện trường, xương sườn của bà khẳng định đã bị đâm gẫy, không tin cứ hỏi bà”. Thích Chứng Thông cười, nói: “Đúng vậy, gẫy rồi, người ta không nhìn thấy, tôi cũng không nói nữa”.

Cũng như vậy, bằng nghị lực siêu thường, Thích Chứng Thông đã vượt qua mấy ma nạn nữa, và trong mắt bà, những tai nạn đụng xe này đều là hoàn trả nghiệp lực còn thiếu trong quá khứ, chịu khổ có thể tiêu nghiệp. Có một lần đụng xe, ngón tay ở tay phải của bà bị đâm quẹo ngược ra đằng sau, nhưng bà nhẫn chịu đau đớn, tự mình bẻ ngón tay quặt trở lại. Tuy nhiên do dây chằng bị kéo đứt, tới hiện tại ngón tay bà có lúc vẫn còn đau.

Trở lại sự kiện Thích Chứng Thông bị xe hơi chèn lên toàn thân như cối xay. Kỳ thực khi ấy bà bị nội thương nghiêm trọng, phần thân trên, tim và phổi đều đau buốt. “Lúc ấy trong tâm tôi chỉ nghĩ tới một sự việc, tôi phải đuổi kịp tàu hỏa và tham gia hội đọc sách, các ý niệm khác đều không có nữa”. Lúc bấy giờ bà đau đến mức không mở mắt ra được, nói không ra lời, người khác lại cho rằng bà bị câm. Hôm ấy bà nhẫn chịu đau đớn để bắt kịp xe lửa, ngồi trên xe lửa ba tiếng đồng hồ, đến miền Trung tham gia học Pháp tập thể cứ cách một ngày. Tối hôm đó xách hành lý lên lầu, đau đến mức ngủ không nổi, cũng không còn sức lực để mà nằm xuống nữa.

Đau đớn dữ dội, mỗi phút mỗi giây đều như vậy, nhưng không để người khác biết. Sáu ngày sau, bà nhẫn chịu đau đớn đi sang Nga là nơi thủ lĩnh Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân viếng thăm, cùng cộng đồng học viên Pháp Luân Công kêu gọi chấm dứt bức hại. Trong bốn ngày bốn đêm, bà liên tục lấy từ bi hồng đại và phát xuất ý niệm cường đại với hy vọng quy chính bầu không khí chính-tà. Sau đó, bà cùng đồng tu tới Iceland và đả tọa phát chính niệm trên một sườn núi nhỏ; mỗi tế bào của Thích Chứng Thông đều vật lộn trong đau đớn, thế nhưng bà vẫn kiên trì giữ vững.

Buổi tối trước khi trở về Đài Loan, Thích Chứng Thông cảm thấy bản thân đang ở trong trạng thái hấp hối. Bà tĩnh tĩnh ngồi dậy đả tọa, vừa nhẫn chịu vừa nghe tiếng các bạn cùng phòng thảo luận, cuối cùng rơi vào giấc ngủ. Hôm sau tỉnh dậy, bà cảm thấy mình đã sống lại rồi. Đối với lần khảo nghiệm sinh-tử này, Thích Chứng Thông vẫn đối đãi bình thản như mọi ngày.

Ưu Đàm Bà La hoa khai, Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế độ nhân

Theo kinh Phật ghi lại: Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên.

Thích Chứng Thông nói: “Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ảnh Sư tôn, bỗng chốc nước mắt tôi tuôn rơi, không hiểu vì sao, trong nội tâm hình như đã sáng tỏ về thân phận và lai lịch của Sư tôn. Mãi tới hai năm sau, khi tôi lần đầu tiên xem băng hình giảng Pháp của Sư tôn tại Bắc Kinh năm 1996, xem đến đoạn giảng Pháp về Phật Di Lặc chuyển thế, mới minh bạch ra: Sư tôn chính là Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế, cũng là Phật Di Lặc tái sinh”. Tới năm 2008, khi Thích Chứng Thông tận mắt nhìn thấy hoa Ưu Đàm Bà La, bà lại càng minh bạch hơn nữa về sự việc này.

Về hoa Ưu Đàm Bà La, quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» viết: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”. Quyển 8 kinh «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn cổ. Đúng Phạn ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là Thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này.” «Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh» cũng nói: “Bấy giờ Chuyển Luân Vương dũng mãnh nói: ‘Kim Luân này đúng là vật báu báo điềm lành của Ta, Ta hiện nay đúng là Chuyển Luân Thánh Vương'”.

Trên thực tế, ngay từ đầu năm 2005, người ta đã phát hiện khoảng chục đóa hoa Ưu Đàm Bà La mọc trên tượng Bồ Tát trong thiền viện Tu Di Sơn ở Hàn Quốc. Sau đó, các nơi trên thế giới liên tục xuất hiện loại hoa mang điềm lành này. Thân hoa Ưu Đàm Bà La mỏng như sợi tơ tằm, sắc hoa trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có bông còn phát xuất hương thơm thoang thoảng. Điều đặc biệt nhất là loài hoa này có thể mọc trên bất kỳ vật dẫn nào, cho dù là tượng đồng, sắt thép, thủy tinh, hay là keo dán, trái cây, thực vật, v.v. Bất kể nóng lạnh thế nào, bất kể nơi chốn nào, đều có thể khai nở.

Hoa Ưu Đàm Bà La được phát hiện mọc trên kính lớp học ở trường tiểu học Dân Hùng Quốc tại Gia Nghĩa, Đài Loan. (Ảnh: Tô Thái An/Đại Kỷ Nguyên)

“Sau này tôi mới minh bạch ra, Phật Tổ nói năm mươi ức năm sau Phật Di Lặc hạ thế, đối ứng với nhân gian chính là ngày hôm nay, bởi vì không gian khác nhau có khái niệm thời gian khác nhau. Trải qua hơn 10 năm tu Đại Pháp, tôi ngày càng kiên tín, Sư tôn là đến phổ độ chúng sinh”. Tại hội trường cuộc thi Piano do Đài truyền hình Tân Đường Nhân tổ chức—ở Đại học Đài Nam, bên ngoài bức tường nhẵn bóng của thính phòng âm nhạc, Thích Chứng Thông đã tận mắt chứng kiến hoa Ưu Đàm Bà La. Điều này khiến bà càng minh bạch rằng Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế truyền Pháp phổ độ chúng sinh, con người có thể không ly khai thế tục mà tu thành Như Lai.

Hồi tưởng lại hơn 10 năm tu luyện trong Đại Pháp, Thích Chứng Thông cảm thán nói: “Tôi có dùng hết ngôn ngữ của nhân loại cũng không cách nào biểu đạt được cảm ân và tôn kính của mình đối với Sư tôn. Càng tu càng thấy Đại Pháp vô biên, không lời biểu đạt, càng tu càng thấy bản thân còn thua xa yêu cầu của Sư tôn. Vào ngày sinh nhật của Sư tôn 13 tháng 5, tôi xin dùng bài thơ dưới đây để biểu đạt lòng cảm kích của tôi: ‘Khi Phật tại thế ta đắc Pháp, Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm, Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận, Được thấy chân Phật thân vàng kim'”.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2009/6/26/60247.html
http://www.epochweekly.com/gb/125/6405.htm

The post Cô tăng vạn lý tìm Đại Đạo, May gặp Di Lặc Chuyển Luân Vương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/12/co-tang-van-ly-tim-dai-dao-may-gap-di-lac-chuyen-luan-vuong.html/feed0
Đệ tử của Kỳ Môn Vương tu Đại Pháphttps://chanhkien.org/2011/09/de-tu-cua-ky-mon-vuong-tu-dai-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2011/09/de-tu-cua-ky-mon-vuong-tu-dai-phap.html#respondThu, 08 Sep 2011 17:00:57 +0000https://chanhkien.org/?p=13025Tác giả: Lỗ Hà [Chanhkien.org] Sư phụ của Điền Thanh (tên mượn) gọi là “Kỳ Môn Tử”, tinh thông Dịch học thuật số “Kỳ môn độn giáp”, dân gian gọi ông là “Kỳ Môn Vương”, chỉ thu bảy vị đệ tử trên toàn quốc. Khi còn trong bộ đội, một lần Điền Thanh theo thủ […]

The post Đệ tử của Kỳ Môn Vương tu Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lỗ Hà

[Chanhkien.org] Sư phụ của Điền Thanh (tên mượn) gọi là “Kỳ Môn Tử”, tinh thông Dịch học thuật số “Kỳ môn độn giáp”, dân gian gọi ông là “Kỳ Môn Vương”, chỉ thu bảy vị đệ tử trên toàn quốc.

Khi còn trong bộ đội, một lần Điền Thanh theo thủ trưởng lên núi Thái Sơn thì gặp một cụ già bị trẹo chân giữa Thiên Môn; ông đã cõng cụ già xuống núi. Cụ già mười phần cảm kích, nói: “Tạ tạ ơn anh. Ta tên là Kỳ Môn Tử, vân du thiên hạ, bốn biển làm nhà. Nay ta đưa anh một bản «Kỳ môn độn giáp», có thể khiến cả đời anh thụ ích.” Dưới sự chỉ đạo của «Kỳ môn độn giáp», mấy năm sau Điền Thanh trở thành chuyên gia Dịch học nổi tiếng khắp miền Bắc Trung Quốc.

Năm 1975, Điền Thanh từ bộ đội chuyển công tác tới thị trấn Hồ Tây Điền. Ông vận dụng tri thức sở học về Dịch lý của mình, vì người mà dự đoán họa phúc cát hung, chẳng sai bao giờ.

Trời quang mây tạnh, thôn dân đang bận phơi lúa mạch, Điền Thanh đột nhiên nói với mọi người: “Một cơn cuồng phong bão tố sắp đến đây, mong mọi người mau chóng thu dọn sân phơi lúa mạch.”

Mặt trời chiếu rọi, không một gợn mây, mọi người cười mà không hiểu cho ông. Trong chớp mắt, bầu trời phía Tây Bắc mây đen cuồn cuộn, một trận cuồng phong bão tố cuốn sạch khắp mặt đất. Mọi người há hốc miệng nhìn Điền Thanh, từ đó họ gọi ông là “Điền Bán Tiên”.

Mùa Hè năm 1998, Điền Thanh đến một huyện lỵ thăm bà con và tận mắt chứng kiến cảnh tượng hoành tráng khi các học viên Pháp Luân Công luyện công tập thể trên quảng trường. Ông thấy toàn quảng trường được bao phủ bởi ánh sáng màu đỏ, toàn là màu đỏ; trên không có vô số Thần Phật đang quan sát, Pháp Luân lượn vòng khắp bầu trời trong ánh ngũ sắc rực rỡ; các thiên nữ đang rải hoa khắp mặt đất. Lúc này Điền Thanh phảng phất nhìn thấy thế giới thiên quốc, toàn thân thoải mái không gì sánh được, bao nhiêu đau nhức từ căn bệnh mãn tính bỗng chốc biến mất. Dưới sự hướng dẫn của một vị đệ tử Đại Pháp, ông đã bắt đầu tập Pháp Luân Công.

Ban đêm, Điền Thanh cũng như mọi ngày, thắp ba nén hương, quỳ trên mặt đất nói: “Sư phụ, đệ tử cầu ngài chỉ điểm!” Trong nháy mắt, một cụ già râu tóc bạc một nửa từ ngoài cửa lướt vào, nói trong cao hứng: “Điền Thanh à, con thật là may mắn, cuối cùng đã đắc được Đại Pháp rồi; ta thành tâm chúc mừng con! Chính Pháp sắp kết thúc, thời gian tu luyện không còn dài nữa, con mau mau nắm chắc nhé! ‘Duyên kỳ môn’ giữa hai thầy trò ta đến đây là hết; dưới sự bảo hộ của Pháp Luân Thánh Vương, con phải tinh tấn thực tu, thẳng tới viên mãn.” Điền Thanh nước mắt lưng tròng hướng về Kỳ Môn Tử để khấu đầu, nhưng đã không thấy Kỳ Môn Tử đâu nữa rồi.

Từ đó Điền Thanh trở thành một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/9/7/77165.html

The post Đệ tử của Kỳ Môn Vương tu Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/09/de-tu-cua-ky-mon-vuong-tu-dai-phap.html/feed0
Chuyện thần thoại dành cho con người tương laihttps://chanhkien.org/2010/06/chuyen-than-thoai-danh-cho-con-nguoi-tuong-lai.htmlhttps://chanhkien.org/2010/06/chuyen-than-thoai-danh-cho-con-nguoi-tuong-lai.html#respondMon, 21 Jun 2010 06:10:21 +0000http://chanhkien.org/?p=6321Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp tại hải ngoại [Chanhkien.org] Một đệ tử Đại Pháp nếu bằng cách nghe biết những chuyện tu luyện của người khác để củng cố vững chắc tín niệm tu luyện Đại Pháp, nhưng lại không từ lý tính để nhận thức chân chính Đại Pháp, mà mong có […]

The post Chuyện thần thoại dành cho con người tương lai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp tại hải ngoại

[Chanhkien.org] Một đệ tử Đại Pháp nếu bằng cách nghe biết những chuyện tu luyện của người khác để củng cố vững chắc tín niệm tu luyện Đại Pháp, nhưng lại không từ lý tính để nhận thức chân chính Đại Pháp, mà mong có được tín niệm “bất động như kim cương kiên cố không thể phá” thì ấy vẫn là có lậu. Dưới đây tôi xin kể câu chuyện chân thực cuộc đời mình trước khi tu Đại Pháp. Hy vọng nó có thể giúp cho bộ phận những học viên nào vẫn chưa có được tín niệm bất động như kim cương. Chúng ta hãy cùng trân trọng sự kiện hy hữu hàng vạn năm mới có này, đó là tu luyện Đại Pháp trong quá trình Pháp Chính Càn Khôn.

Khi tôi 14 tuổi, có một vị sư phụ tìm và dạy tôi pháp môn tu luyện của Ngài. Khi ấy tôi mới là cô bé học sinh trung học, còn vị sư phụ đã sống trên 500 năm. Ông thường giảng Pháp cho tôi. Một vấn đề được giảng có khi đến hàng tháng, nhưng tôi vẫn không hiểu rõ cho được. Tôi được khai mở thiên mục ngay từ đầu trong pháp môn tu này, vì thế tôi có thể thấy trong các miếu, các chùa có những phụ thể là cáo, chồn, quỷ, rắn,… Trong các tượng Phật hầu như không có Phật. Những cảnh tượng ấy làm tôi sợ quá, nên tôi thường xin sư phụ đóng thiên mục của tôi lại.

Khi Đại Cách mạng Văn hoá xảy đến, mọi người đều đến Bắc Kinh, còn tôi, khi ấy quãng 26, 27 tuổi, một mình thân gái tìm đến núi Nga Mi [thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc]. Lên lưng chừng núi tôi tới một ngôi chùa và gặp vị phương trượng trên 70 tuổi ở đó để xin tá túc qua đêm. Lão phương trượng bảo tôi: “Này cư sĩ, cô đi lạc hướng rồi. Cô cần đi hướng Bắc kia.” Tôi vội giải thích: “Cháu không lạc hướng đâu. Phương Bắc là của người thế tục. Còn đây là nơi cháu cần đến.” Lão phương trượng nghe thế rất lấy làm cao hứng, và chúng tôi trở thành những người bạn tâm đầu ý hợp.

Lưu lại được hai ngày, tôi hỏi lão phương trượng cách gọi lũ khỉ đến, vì tôi biết rằng lũ khỉ tại núi Nga Mi này đều có thông linh. Lão phương trượng nói: Hãy xoay mặt vào thung lũng mà gọi: “Tam Nhi, mau về ăn thôi.” Tôi bèn chọn chỗ có tiếng vang và gọi lớn vào thung lũng: “Tam Nhi, mau về ăn đi.” Một chốc sau hàng mấy trăm con khỉ đến, chúng nào hót nào nhảy trước mặt tôi rất là cao hứng. Con khỉ già nhất đến ôm và hôn hít tôi liên tục làm nước miếng dính đầy cả mặt. Sau đó nó nhổ miếng đan của mình ra khỏi miệng và đưa cho tôi. Tôi không dám nuốt lấy vì cảm thấy dơ quá. Lão phương trượng bảo: “Này cư sĩ, tâm của cô vẫn còn chướng ngại. Đan này phải mất mấy trăm năm mới tu được đó.”

Rồi lũ khỉ lập cầu khỉ bắc qua thung lũng (con đằng sau nắm chân con đằng trước cứ lần lượt như thế). Khỉ già nắm lấy tôi và chúng tôi qua bên kia thung lũng, ở đó cũng có một nhóm những con khỉ khác. Lão phương trượng nói: “Trong lịch sử xưa nay, mới chỉ có một người họ Hồ được đón tiếp trang trọng như thế, cô là người thứ hai. Cô còn có 2 điều hơn: thứ nhất là cái Đan do khỉ già đưa tặng, thứ hai là việc lũ khỉ đã vượt ranh giới này để đưa tiễn cô sang tận bờ thung lũng bên kia. Thông thường lũ khỉ không được phép vượt qua ranh giới ấy.”

Tại núi Nga Mi có rất nhiều người tu Đạo, nhưng không ai có thể thấy họ được, vì họ đều có công năng che giấu chỗ ở của mình đối với bên ngoài như được kể trong những chuyện thần thoại. Từ lưng chừng núi trở xuống là những vị đã tu hai, ba trăm năm. Có vị lâu nhất là dưới năm trăm năm. Nhóm này đông nhất và công trụ của họ cao nhất là đến lưng chừng núi.

Trong giới tu luyện thì sư phụ lựa chọn đệ tử, chứ không phải đệ tử chọn sư phụ. Người ta thường nhọc công vô ích cũng không thể tìm được sư phụ. Phần nửa trên núi số người tu luyện ít dần, đồng thời tuổi của họ cũng cao dần lên. Họ đều tu trên 2.000 năm và công trụ của họ đều vượt khỏi hệ Ngân Hà. Có một số đã vượt trên cảnh giới Như Lai, nhưng họ vẫn đang tu luyện vì chưa đến viên mãn. Trong đó có một sư phụ trong quá khứ của tôi. Sau này tôi được biết rằng khi sư phụ vĩ đại của chúng ta – Lý Hồng Chí – lên núi Nga Mi, tất cả người tu luyện đều ra đón chào Ngài, và công trụ của họ nhảy múa trên không trung như pháo hoa vậy.

Tại núi Thanh Thành có một Đạo nhân, tu đã đến 4.000 năm. Ông muốn tôi trở thành đệ tử của mình, nhưng tôi từ chối, nói rằng tôi đã có sư phụ rồi, và tôi mong muốn tìm một Pháp môn để thành Phật trong đời này. Ông nói với tôi: Ta ở đây đã chứng kiến Thích Ca, Giê-su, và Lão Tử đầu thai xuống thế giới này để truyền Pháp độ nhân. Tôn sư Lý Hồng Chí [sau này] có nói trong khi giảng Pháp rằng: Trên đường từ Tứ Xuyên về phía bắc đến Tây An, có nhiều người tu Đạo trong núi ra hỏi Tôn sư tại sao những đệ tử Đại Pháp lại tu mau lẹ như vậy. Tôn sư hỏi họ: “Các đệ tử của ta, tối đa tu hai năm, tối thiểu tu hai tháng; so sánh họ với các vị là sao?” Họ nói rằng: Chúng tôi không có mấy người theo kịp được. Sau đó Tôn sư đồng ý cho họ nghe Tôn sư giảng Pháp. Trong những người tu ấy, cũng có cả Đạo nhân tu 4.000 năm ấy.

Hết Đại Cách mạng Văn hoá, tôi cùng với một vị tu luyện khác đến khu vực Khang Tạng, với hy vọng rằng trong Mật Giáo tôi có thể tìm được Pháp môn tu thành Phật trong đời này. Những người trong giới tu luyện đều biết rằng Mật Giáo Tây Tạng hiện nay đã là tôn giáo chính trị từ lâu và mất căn bản tu luyện, và Mật Giáo chân chính là ở Khang Tạng chứ không phải ở Tây Tạng. Tới nơi, chúng tôi gặp một người cầu chính Pháp, vừa đi vừa lễ lạy suốt từ Trường Xuân đến Khang Tạng. Chúng tôi cùng nhau tìm tới một toà tự viện lớn, tại đó có một vị Đại Lạt Ma đang giảng Pháp. Tới nơi, vị Lạt Ma yêu cầu riêng mình tôi ngồi bên ông để nghe ông giảng, đây là một nghi thức tiếp đón rất hiếm và rất trang trọng trong Mật Giáo. Ông hỏi tại sao chúng tôi đến Khang Tạng cầu Pháp, và chúng tôi nói rằng tại Trung Nguyên [Trung Quốc] không còn chính Pháp, và trong các tự viện là những phụ thể cáo chồn quỷ rắn trú ngụ. Vì thế chúng tôi đến cầu tìm chính Pháp tại đây. Vị Đại Lạt Ma tĩnh lặng một lúc rồi nói: “Không phải vậy. Tại Trung Nguyên sẽ sớm có Đại Pháp vạn năm khó gặp. Nó sẽ xuất phát từ Trường Xuân. Các vị hãy quay về và chờ đợi.” Nghe vậy, tôi vội xuống núi và thoả thuận với bạn đồng hành rằng hễ ai tìm được Pháp ấy trước sẽ báo cho người kia. Nhưng vị đến từ Trường Xuân lại không tin và ở lại Khang Tạng.

Đầu thập niên 80, xuất hiện rất nhiều trẻ em có công năng. Có người đọc được bằng tai, có người nhìn bằng tay hoặc bằng gáy. Tôi tin rằng quý vị hãy còn ấn tượng từ những tình thế lúc bấy giờ. Chúng tôi những người tu luyện đều biết được tính chân thực của những điều ấy, và rằng những công năng ấy không được phép biểu diễn. Vì vậy tôi đã tìm đến rất nhiều em như vậy và giải thích với cha mẹ chúng tại sao không nên đưa công năng của con mình ra biểu diễn. Kết quả là tất cả những em đó đều được bảo hộ và sau này tham gia tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Còn những em bị gia đình đưa ra biểu diễn cuối cùng sau này đều bị hư hỏng trong xã hội người thường và cũng gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Bởi vì những công năng này không được phép hiển thị tuỳ ý ngoài xã hội người thường. Còn đối với việc gọi là chỉ trích công năng thì đó chẳng qua chỉ là những con rối mà chư Thần bày ra để khống chế tác hại của những hiện tượng như trên để khỏi ảnh hưởng đến xã hội người thường. Người ta càng không tin vào Thần thì lại có càng ít các công năng đặc dị mà chư Thần cho phép chứng kiến. Nếu Thần cho phép thấy được, thì đó chỉ là một chút ví dụ kỳ diệu để người ta có thể thay đổi quan điểm mà thôi. Thế mà nhân loại vẫn còn rất tự hào về những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của mình.

Tại sao lại có những chuyện thần thoại na ná như nhau tại hầu như tất cả các nước? Ngày xưa đâu đã có các phương tiện truyền thông. Chính là vì nhân loại không còn tin vào Thần nữa, mà những câu chuyện thật về Thần lại trở thành chuyện “thần thoại”. Hồi ấy những em được tôi bảo hộ nói với tôi rằng: “Chủ của vũ trụ sẽ xuống cứu địa cầu.”

Mãi đến đầu thập kỷ 90 tôi vẫn chưa tìm được Pháp lớn (Đại Pháp), và tôi rất lấy làm thất vọng. Một hôm tôi quỳ trước một tượng Phật và thệ nguyện rằng: “Tôi nhất định tìm cho được Pháp môn chân chính tu luyện tính mệnh song tu, thành Phật trọng đời này để phổ độ chúng sinh.” Trong lúc ngồi luyện công đêm ấy, chủ nguyên thần của tôi bay lên đến hết không gian này đến không gian khác, đến không gian nào tôi cũng hỏi: “Pháp môn chân chính tính mệnh song tu, thành Phật trong đời này có không?” Mỗi mỗi không gian đều có rất nhiều người tu luyện, nhưng họ chưa từng nghe về Pháp môn chân chính và tốt như thế. Họ nói với tôi: “Có tìm được Pháp môn chân chính và tốt như thế, thì nhất định truyền lại cho chúng tôi, độ chúng tôi nhé.”

Sau đó công lực của tôi không cho phép tôi lên cao hơn. Một trong những sư phụ quá khứ đưa cho tôi một con hạc tiên và nó giúp tôi lên cao hơn. Đến mỗi không gian, tôi lại tìm và hỏi về chính Pháp ấy, cho đến khi không thể lên cao hơn nữa. Tất cả những người tu luyện tại các không gian đều thật tâm mong tôi sẽ tìm được Pháp chân chính và tốt như thế để truyền Pháp cứu độ họ.

Tôi cảm thấy rất buồn bực và thất vọng. Đột nhiên, từ trên trời cao bay xuống một đoá hoa sen đưa tôi lên. Đoá sen đưa tôi đến một điện Phật huy hoàng tráng lệ, ở đó có một vị Đại Phật đang giảng Pháp. Có tầng tầng lớp lớp chư Phật đang nghe Pháp của Ngài. Các vị Phật ngồi gần vị Đại Phật thì có thân thể to lớn hơn, còn các vị Phật ngồi xa vị Đại Phật thì có thân thể nhỏ hơn. Ngồi tại tầng ngoài cùng là các vị Phật Như Lai, và có thân thể nhỏ nhất. Có rất nhiều Phật Như Lai, trong đó có cả Lão Tử và Khổng Tử. Tôi ngạc nhiên khi thấy cả Giê-su cũng trong số ấy.

Tuy nhiên, lúc tôi đến là lúc Pháp hội giải tán. Tôi cảm thấy rất buồn vì thấy cơ duyên của mình với Pháp này còn mỏng quá. Đoá sen đưa tôi tiến đến trước mặt vị Đại Phật, và thân thể tôi cũng lớn dần nhờ sự gia trì từ Phật lực của vị Đại Phật. Vị Đại Phật thực hiện đại thủ ấn về phía tôi. Lập tức xuất hiện muôn đạo kim quang, và từ muôn đạo kim quang bay ra những kinh thư lấp loáng sắc vàng. Tôi mừng quá đưa hai tay đón lấy, hai cuốn kinh thư đầu tiên là Chuyển Pháp LuânTrung Quốc Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh). Tư tưởng tôi chợt máy động: “Tại xã hội người thường con biết tìm Ngài ở đâu?” Vị Đại Phật liền biến thành hình Sư phụ Lý Hồng Chí trong cuốn “Chuyển Pháp Luân với bộ âu phục. Còn tôi được đưa về thân người ở nhân gian.

Tôi nóng lòng chờ đợi Pháp tại nhân gian và thời gian ấy quả là bứt rứt. Đến năm 1995, tôi bắt gặp người bạn đã cùng đi đến Khang Tạng. Thấy cô ấy sắc mặt hồng hào hẳn, tôi nói: “A, bạn chắc được chính Pháp rồi, cho tôi xem với.” Tôi giục cô ấy đưa về nhà, và khó có thể tả được tâm trạng phấn khởi của tôi lúc ấy. Vừa vào nhà tôi đã thấy cuốn “Trung Quốc Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh)” trên bàn. Đúng là cuốn sách mà tôi tìm kiếm bấy lâu! Tôi giữ chặt nó trong tay, nhưng bạn tôi không cho tôi mang cuốn sách đó về vì cô ấy chỉ có mỗi một cuốn. Tôi nói: “Thế thì cho tôi biết bạn có cuốn sách này ở đâu để tôi đi kiếm.” Cô ấy cho tôi địa chỉ cửa hàng sách và tôi vội đến đó ngay, nhưng nhà hàng đang đóng cửa. Tôi hỏi chủ hiệu cuốn sách mang tên “Trung Quốc Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh)”, nhưng ông ấy nói rằng đã bán hết rồi: “Đợi đợt sau vậy”. Tôi không tin, và tự mình lục tìm trong giá sách. Tôi không tìm thấy, nhưng cũng không muốn bỏ cuộc. Cuối cùng tôi mở một ngăn kéo trong tủ sách và thấy hai cuốn “Trung Quốc Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh)” lấp lánh kim quang. Tôi mua chúng luôn.

Về đến nhà là tôi đọc ngay, và lập tức sáng tỏ. Những sư phụ tôi từng học đã dạy tôi nhiều điều, trong đó có cả vòng đại và tiểu chu thiên, huyền quan thiết vị, thiên mục, túc mệnh thông,… Có khi phải mất cả năm trời để giải thích một điều mà tôi vướng mắc, mà tôi vẫn không hiểu được thấu đáo. Vậy mà chỉ vài câu chữ trong cuốn “Trung Quốc Pháp Luân Công (bản hiệu chỉnh)” đã làm sáng tỏ cả. Vì sao người xem kinh thư Đại Pháp nói rằng học cao khó hiểu? Cớ gì họ lại nghĩ rằng khẩu khí Tôn sư phóng đại quá? Đó là vì Tôn sư nói rõ những điều bí mật trong những bí mật của giới tu luyện mà người khác rất quý tiếc và không ai thực sự đề cập đến. Một người làm sao có thể đơn giản ngay lập tức chấp nhận trong đầu những điều sâu sắc ấy? Ngay cả một vị Thần cũng không thể. Vì thế có một số người cho rằng Tôn sư nói phóng đại.

Sau này có học viện hoạ lại câu chuyện của tôi thành tranh và đưa Tôn sư xem. Tôn sư nói: “Cái này sẽ là chuyện thần thoại cho con người tương lai.”

Tại Khang Tạng, tôi truyền Pháp cho những em mà trước đây tôi bảo hộ để chúng không biểu diễn công năng, và cho những người tu luyện trong núi. Tất cả đều quay lại trần thế để tu Đại Pháp. Có khi sư đệ đắc được Pháp trước, sau đó truyền sang sư huynh. Rồi sư huynh lại truyền lại cho sư phụ, và tất cả cùng đắc Pháp. Rất nhiều hoà thượng đã được Bồ Tát Quán Âm điểm hoá vào đêm trước khi học viên chúng tôi lên núi Nga Mi để hồng truyền Đại Pháp. Họ xuống núi và quỳ bên đường để đón cuốn “Chuyển Pháp Luân.” Tôn sư nói: “Thần đều biết ta đang truyền Đại Pháp. Chỉ có người là không biết.”

Tôi lập một danh sách những đệ tử chuyển sinh hạ giới của Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau đó, tôi tìm đến và truyền Pháp cho họ. Nhưng một số đã quá mê mờ trong [xã hội] người thường và không thể đắc Pháp được nữa. Không phải ai cũng có khả năng đắc Đại Pháp. Nhiều người đã tu cả mấy nghìn năm mà vẫn chưa đạt viên mãn, họ muốn đắc được Pháp này, nhưng không thể. Đắc được Pháp này là điều quý giá vạn năm khó gặp, vậy mà người thường chẳng biết trân trọng Đại Pháp vĩ đại của vũ trụ.

Chư Thần đều biết rằng bức hại Đại Pháp là tội không thể tha thứ.

Câu chuyện này chỉ là một phần nhỏ trong những kinh nghiệm tu luyện của tôi, và tôi cũng chỉ là một học viên Đại Pháp bình thường.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/book/html/xunshi/xs001.htm

The post Chuyện thần thoại dành cho con người tương lai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/06/chuyen-than-thoai-danh-cho-con-nguoi-tuong-lai.html/feed0
Câu chuyện của một học viên Pháp Luân Đại Pháphttps://chanhkien.org/2010/06/cau-chuyen-cua-mot-hoc-vien-phap-luan-dai-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2010/06/cau-chuyen-cua-mot-hoc-vien-phap-luan-dai-phap.html#respondSun, 13 Jun 2010 16:36:41 +0000http://chanhkien.org/?p=6192[Chanhkien.org] Tôi xin kể về những trải nghiệm trong suốt cuộc tìm kiếm lâu dài của tôi và một số thiển ngộ của tôi trong quá trình tu luyện. Trong quá khứ, tôi đã đi vào núi nhiều lần và cố gắng tu luyện đơn độc để hoàn thiện bản thân. Để tìm một sư […]

The post Câu chuyện của một học viên Pháp Luân Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Tôi xin kể về những trải nghiệm trong suốt cuộc tìm kiếm lâu dài của tôi và một số thiển ngộ của tôi trong quá trình tu luyện.

Trong quá khứ, tôi đã đi vào núi nhiều lần và cố gắng tu luyện đơn độc để hoàn thiện bản thân. Để tìm một sư phụ đã giác ngộ, tôi đã đi khắp nơi ở Trung Quốc, từ vùng núi phía Bắc đến vùng biển phía Nam, và ghé thăm các ngôi chùa cổ. Tôi cũng đã xuất gia và trở thành một nhà sư, thậm chí là sư trụ trì trong một ngôi chùa. Bên cạnh tất cả những điều đó, tôi cũng đã kinh nghiệm với nhiều loại khí công. Sau đó, cuối cùng, tôi gặp được chính Pháp cực kỳ quý báu, Pháp Luân Công. Quá trình tìm kiếm lâu dài, đau khổ đã cho tôi biết quý trọng một cách thực sự và sâu sắc rằng Đại Đạo này thật không dễ tìm. Vì vậy tôi sẽ tiếp tục con đường tu luyện của mình cho đến viên mãn.

Trong thời thơ ấu, tôi thường xuyên trải nghiệm những hiện tượng kì lạ và bất thường khi nguyên thần tôi rời khỏi thân thể. Nhìn lên bầu trời, tôi thường tự hỏi với tâm trí còn non nớt của tôi rằng: “Bầu trời lớn đến thế nào? Nó vô biên?” Hơn nữa, tôi nghĩ về sự trống trải hư vô khủng khiếp khi một người phải chết sau một cuộc đời chỉ có mấy chục năm.

Sau đó, trong cuộc sống gian truân và bề bộn của mình, tôi luôn nhớ đến một số khoảnh khắc trong thời thơ ấu. Chỉ những thời điểm đó là khoảng thời gian khiến tôi hạnh phúc. Khi tôi 10 tuổi, mẹ tôi và sau đó là những người thân thích của tôi qua đời, từng người từng người một. Từ thời điểm đó, tôi cảm thấy như thể là tôi bị rơi xuống mặt biển đang nổi sóng dữ dội.

Khi học tiểu học, sau khi nghe câu chuyện về Lỗ Ban (một nghệ nhân và nhà phát minh ở Trung Quốc cổ đại; một bán Thần trong niềm tin dân gian), tôi ý thức được khái niệm tu luyện. Đó chỉ là một ý tưởng mơ hồ; mọi người không nói gì về tu luyện trong thời gian đó. Đó chỉ là điều đến từ nơi nào đó sâu thẳm trong tôi. Thỉnh thoảng, vào lúc nửa đêm, tôi đi vào trạng thái định. Vì vậy tôi trải nghiệm sự mở rộng của không gian và nhìn thấy những người thân quá cố của tôi trở về thăm tôi.

Sau đó, khi tôi lớn lên, tu luyện đã trở thành đề tài ngày càng phổ biến trong các cuộc hội thoại. Tôi biết hơn một chút về nó nhưng không có một vị thầy tốt để theo học. Qua năm tháng, tôi đã chịu đựng nhiều khổ nạn trong cuộc sống, điều mà tôi sẽ không kể rõ chi tiết ở đây. Nhưng tôi sẽ mô tả ngắn gọn một số trải nghiệm của tôi có liên quan đến tu luyện. Lần đầu tiên khi tôi đến núi Đại Hưng An Lĩnh ở phía bắc Trung Quốc, tôi đã tự mình tu luyện ở đó mà không có vị thầy nào. Bằng cách nào đó, tôi đã đạt được tầng thứ tu luyện tương đối cao “Nãi bạch thể” và đắc được một số năng lượng, hay là Công. Chỉ sau khi tôi trở thành một học viên Đại Pháp, tôi mới nhận ra rằng có nhiều học viên Pháp Luân Đại Pháp có thể đạt đến tầng thứ đó chỉ trong một vài ngày. Khi tôi ở đó, một Giác Giả đến quan sát tôi nhưng không dám làm sư phụ của tôi. Có lẽ ông ấy biết rằng tôi được rằng tôi có tiền duyên trở thành một đệ tử Đại Pháp.

Khi tôi xuống núi, toàn bộ Trung Quốc bị tràn ngập với đủ loại khí công. Tôi bắt đầu trôi dạt như một khinh khí cầu từ loại khí công này đến loại khí công khác, nhưng không môn nào trong số chúng thỏa mãn được tôi. Vì vậy tôi nghĩ rằng có lẽ tôi cần tập trung vào một môn trong số chúng để đạt được điều gì đó chính đáng từ nó. Do đó, tôi chú tâm học một trường khí công ở Bắc Kinh. Nhưng không lâu sau, tôi nhận ra rằng họ cũng chạy theo danh tiếng và lợi lộc. Nó giống như tôi đã rơi vào động quỷ. Khi những điều tồi tệ đến với tôi, tôi bị tê liệt và không thể cử động được nữa. May mắn thay, khi điều đó xảy ra, tôi suy nghĩ với chính niệm và sau đó tôi có thể thoát khỏi. Nhưng có lúc, tôi cảm thấy như thể tôi đang rơi vào và sau đó thoát ra từ một động quỷ, nhưng lại rơi vào một động quỷ khác ngay sau đó, và cuộc sống của tôi liên tục gặp nguy hiểm. Những trải nghiệm này là một phần lý do tại sao bây giờ tôi trân quý Pháp Luân Đại Pháp hơn cả cuộc sống của tôi.

Sau khi tìm kiếm một vị thầy giỏi khắp Bắc Kinh một cách vô vọng, tôi đến miền Nam và gặp một Đạo sĩ ở Lão Sơn. Ông ấy bắt đầu tu luyện bằng cách nuốt Đan (thuốc luyện đan) từ sư phụ của ông ấy. Ông ấy thuộc về trường phái mà sư phụ chỉ truyền lại cho một người đồ đệ duy nhất (pháp môn đơn truyền). Ông ấy đã đạt được trình độ đắc Đạo nhất định, nhưng ông không truyền kiến thức của ông ấy với người ngoài. Điều duy nhất ông ấy dạy tôi là một vài kỹ thuật hời hợt để nâng cao sức khỏe. Rồi tôi đi về phía Nam đến tỉnh Giang Tây. Tôi leo lên lên hết núi này đến núi khác, đi bộ hàng trăm dặm. Tôi gần như đã ngã xuống vách núi nhiều lần. Một ngày vào buổi trưa, tôi đã tới đích. Tôi hy vọng gặp được một vị lão tăng, khoảng hai hay ba trăm tuổi. Mặc dù vị lão tăng thường không gặp người lạ, nhưng ông ấy đã đồng ý gặp tôi. Vì ông ấy không tu luyện bản thể nên trông ông ấy rất già. Da ông ấy nhăn không thể tả nổi, tay của ông có một vết thương lớn được băng lại bằng băng dính, đồng tử trong mắt ông đã giãn ra, nhưng ông vẫn còn sống. Giữa mùa hè nóng nực, vị lão tăng này vẫn mặc một áo khoác mùa đông cũ kỹ và bẩn thỉu. Nếu ông ấy muốn thức dậy và đi lại, ông ấy phải vịn vào một vật gì đó. Trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi, ông ấy thì thầm với tôi bằng một thổ ngữ cổ về làm cách nào để đạt được trí huệ. Rồi ông ấy hỏi: “Con còn câu hỏi nào nữa không?” và tôi đã trả lời là “Không”. Sau đó một lúc, vị lão tăng ra hiệu cho tôi đi khỏi và cho tôi một cuốn sách cổ nói về việc làm thế nào để thoát khỏi cái chết. Lúc đó tôi đã tu luyện đến trên trung tầng của ‘thế gian Pháp’ nên tôi đã không đọc sách của ông ấy.

Sau đó tôi trải qua một khoảng thời gian chán nản và đau khổ. Tôi đã trải qua quá nhiều năm vô ích để tìm kiếm một vị sư phụ đã giác ngộ, người có thể giúp tôi giải quyết các khúc mắc đã cản trở tôi thăng tiến trong tu luyện. Nói cách khác, tôi không còn phù hợp với xã hội nữa. Từ đó, tôi không còn nghĩ về mọi thứ như cách mà hầu hết mọi người trên thế giới nghĩ, dường như không có nơi nào dành cho tôi trong xã hội con người. Tôi rất đau khổ khi bị cô lập ở giữa; tôi tự hỏi đến khi nào thì sự chịu đựng của tôi mới kết thúc .

Tiếp tục cuôc tìm kiếm của mình, tôi gặp một người thuộc Song Chỉ Thiền Phái ở tỉnh Sơn Đông. Người đàn ông này thành thạo một loại võ thuật và có thể nâng cơ thể ông trên hai ngón tay với đầu chúc xuống và hai chân thẳng đứng lên. Ông ấy cũng có thể làm vỡ gạch bằng cách phun nước ra từ miệng. Nhưng ông ấy chỉ có thể dạy tôi ngoại công chứ không có tu nội, vì vậy khóa giảng của ông ấy không thu hút tôi. Trên các núi ở Giang Tây, tôi đã học một vài kỹ thuật của các môn ngoại công. Chúng có hiệu quả theo cách của chúng, nhưng không thể chỉ dẫn cho tôi tu luyện ở cao tầng. Vì vậy sau một thời gian tôi đã từ bỏ chúng.

Lúc đó, tôi đã chịu tất cả những đau khổ, vượt qua rất nhiều sương gió. Không còn lựa chọn nào khác, tôi trốn tránh đến một vùng núi để tu luyện đơn độc một lần nữa. Thời gian đó tôi đến núi Trường Bạch. Lúc đó Pháp Luân Đại Pháp đã bắt đầu truyền rộng ra trong xã hội Trung Quốc, nhưng tôi đã không biết điều đó. Sau đó, sau khi tôi trở thành một người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, Sư phụ Lý nói với tôi rằng một vị Thần đã lên núi để gặp tôi nhưng ông ấy không thể nhận tôi làm đệ tử. Đó là khoảng thời gian cô độc và kì diệu của tôi khi ở vùng núi đó.

Sau đó, tôi từ bỏ tất cả bụi trần và trở thành một nhà sư ở tỉnh An Huy. Ban đầu, ngôi chùa này có một long mạch tự nhiên. Nhưng để kiếm tiền, vị sư trụ trì trước đây đã đồng ý xây một khách sạn ở đó để thu hút du khách. Long mạch đã bị phá hủy vì việc xây dựng, rồi tà linh ập đến và chiếm toàn bộ ngôi chùa. Vì tôi có ý định trong sáng là trở thành một nhà sư, không muốn tiền bạc hay bất cứ thứ gì, tà linh trong chùa không thể làm hại được tôi.

Một ngày trong chùa, tôi đột nhiên nghe có tiếng nói ‘Pháp Luân Công’. Nó chạm vào một cái gì đó sâu thẳm trong tôi nhưng đến đó là hết. Tôi chưa từng thấy ai tập Pháp Luân Công cũng chưa từng nghe điều gì về các quyển sách. Nửa năm nữa trôi qua và tôi chuyển tới một ngôi chùa khác. Ở đó, một phụ nữ đã tham dự khóa giảng Pháp chín ngày của Sư Phụ ở Hợp Phì đã đưa cho tôi bản sao sách Pháp Luân Công. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau trước đây. Cô ấy nói rằng cô ấy đột nhiên có một sự thôi thúc không thể hiểu nổi để đến riêng ngôi chùa này nên đã bắt xe lửa trong nhiều ngày để đến đó. Theo cách tình cờ này, cuối cùng tôi đã tiếp xúc với Đại Pháp. Ngay thời điểm mở sách ra, tôi biết rằng tôi đã được trao cho một kho tàng vô giá. Sau khi đọc xong, suy nghĩ đầu tiên của tôi là ‘Đức Phật Di Lặc’ (vị Phật tương lai) đã đến thế giới này! Tôi đã tìm thấy Ngài’. Điều này giống như một câu nói của người Trung Quốc: ‘Bạn có thể đi một đôi giày sắt để tìm kiếm nhưng không tìm thấy; khi thời điểm đến, bạn nhất định tìm thấy nó’. Có vẻ như cuối cùng tôi đã dễ dàng tìm thấy điều tôi đã tìm kiếm bấy lâu nhưng không thành, nhưng, khi nhìn lại, tôi nhận ra thật sự không dễ dàng gì.

Tôi chỉ miêu tả sơ lược con đường tôi đã tìm kiếm Đại Pháp. Tôi không có ý nói đến nhiều khổ nạn mà tôi đã trải qua trong đời. Ngay khi tôi còn nhỏ, tôi đã phải đối mặt với hết tai họa này đến tai họa khác. Với nhiều người, bất cứ thảm họa nào trong số chúng cũng có đủ lý do để giết họ. Nhưng những bất hạnh đó đã tôi luyện tôi trở thành như hôm nay, và đặt một nền tảng vững chắc cho tôi đắc Đại Pháp. Chúng cũng giúp tôi trở nên kiên định và tinh tấn hơn trong tu luyện. Nhiều người không nhận ra chúng ta may mắn như thế nào khi chỉ có một chút ít can nhiễu từ các tà linh trong tu luyện Đại Pháp của chúng ta. Nhũng linh thể tà ác này đã gây ra nhiều trở ngại trong nhiều cách tu luyện khác nhau. Sư phụ Lý đã thanh lý hết tất cả chúng và luôn luôn bảo hộ chúng ta trong suốt quá trình tu luyện. Điều duy nhất Ngài yêu cầu chúng ta là từ bỏ các chấp trước. Đây là điều không thể tưởng tượng trong quá khứ.

Sau khi trở thành một học viên Đại Pháp, tôi đã trở về với cuộc sống thường ngày để tu luyện. Tôi đến Mỹ vì một mối duyên tiền định. Khi gặp tôi ở Mỹ, Sư phụ Lý nói với tôi: ‘Hãy buông bỏ tất cả quan niệm hậu thiên mà anh có. Nếu không, chúng sẽ trở thành chướng ngại cho tu luyện của anh’. Tôi luôn giữ lời Sư phụ trong tâm và nhất tâm tu luyện Đại Pháp. Sư phụ đã nói trong sách của Ngài: ‘Tôi nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người’. Nếu một người không phải là một phần của Đại Pháp, anh ta sẽ không hiểu ý nghĩa thực sự của những lời này. Tôi muốn buông bỏ tất cả những định kiến con người để có thể trở thành một phần của Đại Pháp. Chỉ khi tôi thay đổi cách nghĩ người thường và tìm thấy bản ngã thực sự của mình, tôi mới có thể thực sự kiểm soát được bản thân.

Tôi là một phần của Đại Pháp, mặc dù tôi chỉ là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ vô biên. Tôi biết rằng quá trình tu luyện đồng thời cũng là quá trình Đại Pháp tạo ra tôi. Ở tầng thứ cá nhân, đó là tại sao tôi chọn tu luyện bản thân một cách tinh tấn. Với Đại Pháp, đó là cách Đại Pháp chọn và phương pháp Đại Pháp dùng để tạo ra tôi. Đại Pháp cho tôi cuộc sống, trí huệ và mọi thứ tôi có. Tôi không thể xem Đại Pháp từ quan điểm người thường, điều duy nhất tôi có thể làm là đồng hóa với Đại Pháp và hòa tan vào trong Pháp.

Gần đây, nhiều trường học khí công đã xuất hiện; hầu hết chúng chạy theo tiền bạc và danh tiếng, và sẽ không thể đứng vững trước thử thách của thời gian. Trong trường hợp Pháp Luân Công, thậm chí sau hơn một năm rưỡi dài [tính đến thời điểm viết bài này] của cuộc đàn áp tàn bạo và bị cố gắng loại trừ ở Trung Quốc, phần lớn các học viên Pháp Luân Đại Pháp vẫn kiên định tiếp tục việc tu luyện của họ. Các học viên ở Trung Quốc đang dùng máu thịt của mình để thỉnh nguyện một cách hòa bình cho Đại Pháp. Thậm chí trong khi bị đánh đập tàn bạo, họ không những không đánh trả lại mà thay vào đó vẫn kiên nhẫn giảng rõ sự thật về Pháp Luân Công, nói với mọi người trên thế giới rằng ‘Pháp Luân Công là tốt’. Nếu đây không phải là một chính Pháp về tu luyện, không ai có thể chịu đựng được cuộc đàn áp tàn bạo đến như vậy. Ngày càng nhiều người bắt đầu hiểu ra và tập luyện Pháp Luân Công bên ngoài Trung Quốc. Đó là vì bất cứ ai còn lương tâm thì có thể liên hệ đến các nguyên lý của Pháp Luân Đại Pháp ‘Chân-Thiện-Nhẫn’.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/295

The post Câu chuyện của một học viên Pháp Luân Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/06/cau-chuyen-cua-mot-hoc-vien-phap-luan-dai-phap.html/feed0
Chuyện cổ tích hiện đại: Cô gái với đôi cánh đang vẫyhttps://chanhkien.org/2009/12/truyen-co-tich-hien-dai-co-gai-voi-doi-canh-dang-vay.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/truyen-co-tich-hien-dai-co-gai-voi-doi-canh-dang-vay.html#respondTue, 15 Dec 2009 20:10:05 +0000https://chanhkien.org/?p=4331Tác giả: Vương Hạo Thiên [Chanhkien.org] Một học kỳ mới bắt đầu, và rất nhiều sinh viên Trung Quốc nhập học ở trường cao đẳng nghệ thuật. Có một ngày khi chúng tôi đi tới một công viên gần ký túc xá sinh viên để tập công và phát tài liệu giảng chân tượng. Một […]

The post Chuyện cổ tích hiện đại: Cô gái với đôi cánh đang vẫy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Một học kỳ mới bắt đầu, và rất nhiều sinh viên Trung Quốc nhập học ở trường cao đẳng nghệ thuật. Có một ngày khi chúng tôi đi tới một công viên gần ký túc xá sinh viên để tập công và phát tài liệu giảng chân tượng. Một cô gái người Trung Quốc khoảng 17-18 tuổi đang ngồi trên ghế dài ở công viên. Cô trang điểm rất đậm và khuôn mặt cô giống như một bức tranh sơn dầu. Một mái tóc dài nhuộm vàng hoe và được buộc lên, trông cô như một võ sĩ đạo Nhật Bản. Cô gái mặc quần jean thời trang với một vài vết rách cố ý.

Lúc tôi nhìn cô gái, tôi tự hỏi mình sẽ nói chuyện với cô gái này như thế nào đây. Tôi một chút lưỡng lự ngập ngừng vì sự lạnh lùng và thái độ kiêu căng của cô. Nhưng, Sư Phụ giảng cho chúng ta rằng phải từ bi với tất cả chúng sinh, và chúng ta không thể chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài. Tôi điềm tĩnh lại và có một cảm giác mơ hồ là có thể tôi đã gặp cô gái này trong quá khứ. Tôi phát chính niệm diệt trừ những niệm xấu của bản thân cũng như làm trong sạch không gian của cô gái.

Tôi mỉm cười và bước lại phía cô gái. Cô gái đang hút thuốc, cô bỏ điếu thuốc xuống khi nhìn thấy tôi đi ngang qua. Tôi nói với cô về sự quan trọng của việc thoái đảng Trung Cộng. Cô gái đọc các tài liệu giảng chân tượng mà tôi đưa cho cô trong khi cô nghe tôi nói. Sau đó, cô nói, “Em là một sinh viên nghệ thuật và không quan tâm đến điều này hay đến Đảng, nhưng em đã từng là thành viên của Đội Thiếu niên Tiền phong khi còn nhỏ. Liệu em có cần thoái không?” Tôi trả lời, “Hiển nhiên cần, nếu em thoái em sẽ không còn bất cứ điều gì để lo lắng và có thể làm tốt hơn trong công việc nghệ thuật.” Cô gái mỉm cười: “Được, vậy hãy thoái đội cho em.” Trong mẫu thoái, cô sử dụng biệt danh là “Thiên thần.”

Khi tôi gặp lại cô lần thứ hai, cô trang điểm nhẹ nhàng hơn, và những bức tranh sơn dầu đã trở thành một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp. Cô vui mừng và mời tôi vào phòng. Trong phòng ở trên tường có một bức tranh  ngay bên cạnh cửa – một thiên thần đang ngồi trên mặt trăng với những ngôi sao trên nền trời màu xanh. Thiên thần với bàn tay đặt dưới cằm, đang suy tư, đôi cánh cụp xuống. Bên cạnh bức tranh là một dòng chữ: “Tôi là một thiên thần đến thế gian này với một đôi cánh gãy.”

Cô gái kể rằng cô vẽ bức tranh này là về chính bản thân mình. Tôi thực sự xúc động bởi sự hằng mong đợi và sự mê lạc của các chúng sinh. Chúng tôi nói chuyện rất lâu. Cô gái là một người đơn giản và bộc trực. Tôi nói với cô gái rằng cô rất thông minh và không bị nhiễm thói xấu của xã hội hiện đại ngày nay. Sau đó, chúng tôi nói chuyện nhiều hơn, tôi đã mời cô xem video các bài giảng Pháp của Sư Phụ. Ngày hôm sau, cô đã không đi đâu cho tới tận lúc xem xong toàn bộ video các bài giảng. Cô mỉm cười và chỉ lên bức tranh trên tường và nói, “Sư Phụ đang nhìn em.”

Trong những ngày tiếp, cô đã rất vui vẻ, “Đêm qua em đã nằm mơ thấy một tiên nữ. Cô đưa cho em một cuốn sách bằng một cử chỉ rất yêu kiều. Giấc mơ thật là đẹp và em vẫn còn nhớ rõ.” Cô gái vừa kể chuyển vừa bắt chước lại điệu bộ. Sau đó cô chỉ tay lên trán chỗ giữa hai mắt, “Bây giờ em có thể nhìn thấy một vài chữ ở chỗ này, và chữ đầu tiên là ‘lòng dũng cảm’.” Tôi hạnh phúc khi nghe thấy điều đó, vì cô cũng mới chỉ bắt đầu tu luyện. Cô đã không gặp bất cứ khó khăn nào khi ngồi ở tư thế hoa sen [kiết già]. Những đệ tử khác cũng rất vui khi thấy điều đó.

Khi nhìn ra xung quanh mình, có rất nhiều chúng sinh vẫn đang chờ đợi. Họ có thể được cứu nếu chúng ta muốn giúp họ. Khi nhìn vào bản thân mình và những chúng sinh đi ngang qua, tôi nhận ra rằng sự khác biệt có thể chỉ là một niệm, một niệm từ bi của người tu luyện có thể quyết định tương lai của một chúng sinh.

Một lần, một thiên thần đến thế gian này với đôi cánh gãy, thiên thần đó đang tu sửa bản thân và trở về nơi nguyên thủy của mình. Từ đó trở đi, cô gái đã thay đổi và không còn dùng những đồ trang điểm nữa, vẻ đẹp và sự chân thực của cô đã được biểu lộ ra thế giới xung quanh. Với đôi cánh đang vẫy, cô đang bay trở về thiên giới tươi đẹp của mình.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/8/19/61129.html
http://pureinsight.org/node/5851

The post Chuyện cổ tích hiện đại: Cô gái với đôi cánh đang vẫy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/truyen-co-tich-hien-dai-co-gai-voi-doi-canh-dang-vay.html/feed0
Câu chuyện của một cô gái lầm lỗi đắc được Pháphttps://chanhkien.org/2009/12/cau-chuyen-cua-mot-co-gai-lam-loi-dac-duoc-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/cau-chuyen-cua-mot-co-gai-lam-loi-dac-duoc-phap.html#respondSat, 12 Dec 2009 20:19:52 +0000https://chanhkien.org/?p=4301Tác giả: Vương Hạo Thiên [Chanhkien.org] Dưới đây là câu chuyện của một học viên mới chỉ vừa tu luyện Đại Pháp được 5 tháng. Tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha mẹ và các thế hệ già đều rất kỳ vọng vào tôi. Họ chọn cho tôi trường học tốt nhất […]

The post Câu chuyện của một cô gái lầm lỗi đắc được Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Dưới đây là câu chuyện của một học viên mới chỉ vừa tu luyện Đại Pháp được 5 tháng.

Tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Cha mẹ và các thế hệ già đều rất kỳ vọng vào tôi. Họ chọn cho tôi trường học tốt nhất và luôn kiên nhẫn dạy bảo tôi. Họ hy vọng rằng tôi sẽ đạt được điều gì đó, nhưng tôi đã làm họ thất vọng.

Khi tôi lớn hơn, vì tôi có đủ tiền để chi tiêu vào những cám dỗ khác nhau ở trường, tôi trở thành một học sinh ngỗ nghịch. Ngoài cá tính kiêu ngạo, lại thêm được tâng bốc bởi đồng bọn, tôi càng trở nên kiêu căng và lạnh lùng. Trong nhóm, bọn chúng gọi tôi là một “con bé ngỗ ngược”. Nếu tôi muốn hành hạ một ai đó, tôi chỉ cần thể hiện bằng sự lạnh lùng trong đôi mắt; những đứa em gái sẽ thay tôi hành động. Do những hành vi xấu của bản thân như cãi lộn, hút thuốc, văng tục, cha mẹ tôi vô cùng giận dữ và họ bị cao huyết áp. Cha tôi đã nghĩ đến việc gửi tôi đến một trung tâm cải tạo vị thành niên, nhưng vì còn có địa vị, danh dự nên ông đã thay đổi quyết định khi đang trên đường đi tới trung tâm cải tạo. Vào lúc ấy, tôi đã chẳng có một suy nghĩ dù là mong manh nào về những nỗi đau của cha mẹ. Bởi vì có một hố sâu ngăn cách giữa cha mẹ và tôi, nên ngồi cùng nhau lúc nào, chúng tôi cũng đều kết thúc bằng sự nguyền rủa và những lời to tiếng. Hạnh phúc gia đình, sự bình yên và hòa thuận hoàn toàn không tồn tại.

Khi tôi bước vào trường trung học, tôi đã nhuộm mái tóc đen dài tuyệt đẹp của mình bằng một màu trắng và cắt tỉa mái tóc thành một mớ hỗn độn. Khi cha tôi nhìn thấy mái tóc của tôi, ông đã đánh tôi tới mức tôi thâm tím toàn thân. Mẹ tôi đã không khuyên giải được tôi bằng bất cứ cách gì. Tôi căm ghét họ và bỏ nhà ra đi. Tôi đi lang thang và không đến trường học. Sau đó tôi yêu một người đàn ông có gia đình. Gia đình anh ta đã kéo đến cửa hàng thiết bị y tế của cha tôi và đập phá cửa hàng hai lần. Cha tôi khuyên tôi rời thị trấn và đi càng xa càng tốt. Tôi đã cảm thấy sai lầm, và vì vậy cố ý thể hiện trước mặt họ để khiến họ giận dữ. Cha mẹ tôi đã không còn cách nào khác và chỉ còn biết khóc trong nỗi tuyệt vọng: “Cha mẹ chắc đã phải làm điều gì sai với con trong kiếp trước. Cha mẹ đã cho con những gì tốt đẹp nhất mà cha mẹ có thể, nhưng con chỉ mang đến cho cha mẹ sự đau khổ và bất hạnh.”

Tất nhiên, những gì tôi đã kể ở trên là phần thời gian trước khi tôi đắc được Pháp. Một lần, tôi nhìn thấy một em gái nhỏ đang cố đặt một cuốn sách nhỏ vào hòm thư ở trong hành lang của một tòa nhà. Em gái nhỏ quá không với tới được hòm thư bên trên. Khi cô bé nhìn thấy tôi, em đã nhờ tôi giúp. Tôi đã giúp em cho cuốn sách nhỏ vào hòm thư. Tôi chẳng mất mấy thời giờ để đặt chúng vào hòm. Bởi vì một thời gian dài trốn tránh cuộc đời, chịu cảnh cô đơn, và chán nản tuyệt vọng, tôi chẳng có chút hứng thú gì với thế giới bên ngoài. Khi tôi đặt xong cuốn sách vào hòm thư, tôi đẩy cửa ra và bước đi. Em gái nhỏ chạy theo sau tôi và nói với tôi bằng một giọng vang vọng, rõ ràng: “Chị à, chị thật tốt.” Tôi xúc động và cảm thấy phổng mũi. “Chị à, đợi em một chút. Em có một đĩa VCD chương trình biểu diễn Nghệ Thuật Thần Vận, và em cũng muốn chị có một đĩa.” Thái độ tha thiết của cô bé làm tôi mỉm cười và tôi đồng ý nhận đĩa.

Tôi xem chương trình biểu diễn ở chỗ bạn tôi và rơi lệ vì một lý do nào đó. Nỗi buồn, sự đau đớn, nỗi cô đơn trong tâm tôi đã được hóa giải bởi màn trình diễn Thần Vận. Tôi không thể cầm được nước mắt. Lần đầu tiên trong đời, tôi thực sự cảm thấy mình là một con người. Tôi không còn cảm giác vô cảm. Tôi thấy mình sống dậy. Tôi muốn trở về nhà và chấm dứt  cuộc sống lang thang trôi giạt.

Buổi sáng ngày hôm sau, tôi tới chỗ nơi em gái nhỏ đã để lại cuốn sách. Tôi lấy một tờ tuần báo Minh Huệ và đọc các bài viết chăm chú. Tôi cảm giác như mình được làm mới; một cảm giác vui sướng không thể diễn tả tràn ngập trong tôi. Tôi thấy như mình đang khóc. Nước mắt tôi dường như quá nhiều lúc ấy. Tôi chẳng có ai bên cạnh để chia sẻ nỗi đau khổ của mình. Tôi không dám trở về nhà.

Có lẽ vì sự hối hận của mình, tôi gặp lại em gái một lần nữa, người đã mang cho tôi một điều kỳ diệu. Tôi tha thiết xin em đưa cho tôi một tờ tuần báo Minh Huệ mỗi khi xuất bản. Tôi cũng nhờ em nói cho tôi về Pháp Luân Công.

Em gái nhỏ nhìn tôi, một cái đầu với mái tóc nhuộm trắng, với đôi mắt sáng và đầy cảm xúc, em nhiệt tình trả lời câu hỏi của tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên, ở lứa tuổi của cô bé, mà đã có một suy nghĩ sắc sảo như vậy. Cô bé trả lời câu hỏi của tôi một cách lưu loát không một chút bối rối. Sau khi nghe câu trả lời, tôi hỏi với sự ngạc nhiên: “Làm thế nào mà em lại trả lời hùng hồn như vậy? Em đã hoàn toàn thuyết phục chị.” Cô bé cười một cách vui sướng, và tôi cũng mỉm cười với cô bé. Quá là lạ lùng khi đứng trước cô bé, bất cứ một sự che đậy nào đều không cần thiết. Thậm chí nếu có một một chút gì giả tạo trong tôi, thì phần chân thực của nó đều được bộc lộ ra một cách tự nhiên bởi sự trong trắng của cô bé. Đứng trước cô bé, tôi có thể cười và thể hiện cảm xúc của mình. Tôi có thể nhìn thấy con người thực sự của mình.

“Chị à, hãy tu luyện Đại Pháp,” cô bé nhìn tôi một cách nghiêm túc. “Pháp Luân Công có chấp nhận chị khi thấy mái tóc trắng của chị không? Hơn nữa, em có biết quá khứ của chị không …” Tôi không nói gì nữa. Em gái đã rất nhanh trí. Khi nhìn thấy những biểu hiện buồn bã của tôi, em cầm tay tôi và kéo tôi vào nhà em. Chúng tôi học Chuyển Pháp Luân cùng nhau hàng ngày khi em đi học về. Chúng tôi học một, hai bài mỗi ngày, và học xong cả cuốn sách trong vòng chưa đầy hai tuần. Tôi cũng học những bài công pháp từ cô bé. Nó là khoảng thời gian trân quý nhất trong cuộc đời tôi. Từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ trải qua một cảm giác vui sướng đến như thế. Đặc biệt khi tôi cất tiếng gọi Sư Phụ từ sâu thẳm tâm tôi, tôi thực sự vô cùng xúc động và không một ngôn từ nào có thể diễn tả được cảm giác của tôi.

Ý nghĩ hút thuốc và uống rượu đã không còn nổi lên lại nữa trong thời gian tôi học Chuyển Pháp Luân. Năm tháng đã trôi qua, những thói quen xấu của tôi dường như đã biến mất như thể chúng đã là từ xa xưa lắm. Tôi như thể được tách bỏ khỏi qua khứ của mình, giống như hai người khác nhau trải qua những trải nghiệm khác nhau. Tôi nhuộm lại mái tóc đen và để kiểu tóc giống như một thiếu nữ trong một gia đình quyền quý, giàu có. Nhưng tôi vẫn không dám trở về nhà. Tôi không biết sẽ phải đối mặt với cha mẹ tôi như thế nào.

Vào một ngày trời mưa và sương mù dày đặc. Tôi đạp xe và bị đâm mạnh bởi một vật gì đó. Nó đau đớn đến nỗi cằm tôi đã đập xuống đất. Chân tôi cảm giác như bị một thứ gì đó chạy qua. Tôi nghĩ về những gì Sư Phụ đã giảng, rằng sẽ chẳng có vấn đề trong những trường hợp như thế. Tốt và xấu xuất từ một niệm. Tôi là một người tu luyện Đại Pháp và sẽ chẳng có điều gì xấu xảy ra với tôi. Tôi được những người đi cùng chuyển vào bệnh viện. Sau khi khám xong, bác sĩ nói với tôi: “Xương mặt và xương chân của cháu bị gãy cả. Cháu cần phải ở trong bệnh viện để điều trị.” Tôi không biết sức mạnh đến từ đâu vào lúc đó, tôi nói: “Không vấn đề gì  cả. Cháu sẽ tốt thôi. Cháu muốn về nhà.” Người bác sĩ nói với giọng chế nhạo: “Thậm chí cháu chẳng nói được rõ ràng, chứ chưa nói gì đến những xương chân bị gãy. Cháu không thể đứng dậy. Làm sao cháu về nhà được đây?” “Nó không bị gãy. Cháu muốn về nhà.” Tôi nói một cách kiên quyết. Tôi nhanh chóng rời khỏi giường, đứng dậy, và đi ra ngoài. Tôi đã quyết định. Tôi cảm thấy toàn bộ cơ thể nóng lên, như thể được bao quanh bởi một thứ gì đó ấm áp. Một luồng nhiệt chạy qua toàn bộ cơ thể tôi và đau đớn biến mất, tôi cảm thấy vô cùng thoải mái. Bác sĩ rất sửng sốt: “Quay lại! Chúng ta cần phải lắp khuôn nhựa cho cháu. Xương của cháu bị gãy, làm sao cháu đứng được?” Tôi trấn tĩnh lại và nói: “Thực sự không có gì phải lo lắng cả. Cháu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Sư Phụ cháu nói rằng không có bất cứ rắc rối nào xảy ra. Cháu có thể đi bộ ngay bây giờ. Có cần cháu phải chứng minh không? Đừng lo lắng gì cả.” Bác sĩ và người lái xe nhìn tôi với sự ngạc nhiên. Tôi ứa nước mắt khi tôi bước đi. Tôi đã không thể ngăn được mình đặt tay lên trước ngực và cảm ơn Sư Phụ vì đã gánh chịu và tiêu trừ một lượng nghiệp lực lớn cho tôi.

Khi tôi tới nhà, tôi ấn chuông. Mẹ tôi đi ra cửa và nhìn tôi với cảm giác ruồng bỏ. Tôi quỳ xuống và nói: “Mẹ, xin hãy tha thứ cho con vì những đau khổ mà con gây ra cho mẹ. Giờ đây con đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Sư Phụ nói với con rằng con phải là một người tốt. Con sẽ không hút thuốc, không uống rượu và không đánh lộn nữa. Con sẽ không làm mẹ cảm thấy đau lòng nữa. Xin hãy tin con.”

Mẹ tôi òa khóc ngay lúc ấy. Chúng tôi bước vào nhà, tôi quỳ xuống trước cha mà cầu xin được tha thứ: “Cha, cha đã phải trả giá quá nhiều vì con. Con đã quá non nớt trẻ con khiến cha và mẹ phải buồn và đau khổ. Con đã bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Sư Phụ giảng cho con về Chân Thiện Nhẫn. Con sẽ là một người tốt và trở thành một người có ích. Con sẽ không để cha phải thất vọng.” Cả ba chúng tôi ôm nhau và khóc. Nhờ tu luyện Đại Pháp, nỗi bất hạnh lớn của gia đình đã được xóa bỏ.

Tôi nhìn khuôn mặt cha mẹ khi họ đã ngủ; tôi nghĩ về những gì tôi đã làm với họ một vài năm trước. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nghĩ về quá khứ. Tôi không còn muốn gợi nhớ đến nó. Tôi nhìn thấy sự nhơ nhớp của bản thân trước đây trong khi tu luyện Đại Pháp. Tôi bước lại giường của cha mẹ và kéo mền đắp cho họ. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nó là việc làm đáng tự hào nhất mà tôi đã làm trong cuộc đời. Khi tôi thức dậy vào buổi sáng, tôi làm một đĩa cháo ngon. Cha mẹ tôi mỉm cười ngạc nhiên và rơi nước mắt. Nhờ tôi trở về nhà, họ trông như hai người hoàn toàn khác hẳn. Đại Pháp đã cải biến tôi và gia đình tôi.

Dưới sức mạnh vô biên của Đại Pháp, một gia đình thiếu thốn hạnh phúc, sự bình yên và hòa thuận đã quay trở lại giống như một dòng sông chảy đều, và cảm giác đó tiến nhập sâu vào trong tâm trí tôi. Cảm ơn Sư Phụ! Cảm ơn Đại Pháp! Pháp Luân Đại Pháp thực sự tốt!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/10/8/61962.html
http://pureinsight.org/node/5837

The post Câu chuyện của một cô gái lầm lỗi đắc được Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/cau-chuyen-cua-mot-co-gai-lam-loi-dac-duoc-phap.html/feed0
Tôi đến với Đại Pháp như thế nàohttps://chanhkien.org/2008/03/toi-den-voi-dai-phap-nhu-the-nao.htmlhttps://chanhkien.org/2008/03/toi-den-voi-dai-phap-nhu-the-nao.html#respondTue, 11 Mar 2008 16:21:00 +0000Tác giả: Một học viên Việt Nam [Chanhkien.org] Vào khoảng tuổi 17, tôi bắt đầu luyện tập Thiền tông. Một cái tâm mạnh mẽ và một bản năng xác định đã giúp tôi rất nhiều trong sự tu luyện. Sức khỏe của tôi đã có nhiều tiến bộ. Tôi bị chứng rối loạn cật và […]

The post Tôi đến với Đại Pháp như thế nào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một học viên Việt Nam

[Chanhkien.org] Vào khoảng tuổi 17, tôi bắt đầu luyện tập Thiền tông. Một cái tâm mạnh mẽ và một bản năng xác định đã giúp tôi rất nhiều trong sự tu luyện. Sức khỏe của tôi đã có nhiều tiến bộ. Tôi bị chứng rối loạn cật và cũng dễ bị đau ốm khi thời tiết thay đổi, việc này thường gây ra nhiều trở ngại về tim và tuần hoàn. Dần dần, tất cả những sự rối loạn này biến mất. Tâm tôi ngày càng trở nên tĩnh và trong sạch. Sức chịu đựng của tôi cũng đã được đề cao. Sự tu luyện này cũng mang lại vài sự hiểu biết và đã khởi đầu sự ngộ thức của tôi. Nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc trong tâm tôi mà đã không thể lý giải được. Lúc đầu, tôi nghe về Pháp Luân Đại Pháp từ một người bạn, một đệ tử Đại Pháp. Anh ta cũng đã là một đồng tu trong nhóm Thiền tông trước khi chuyển sang Pháp Luân Đại Pháp. Nói thật, tôi không thích thú cho lắm. Sự luyện tập Thiền tông của tôi đã đang mang nhiều hứa hẹn. 10 năm cố gắng bền bỉ của tôi đã bắt đầu mang lại kết quả. Tại sao tôi lại phải từ bỏ và chuyển sang cái thật là mơ hồ?

Nhưng rồi, một ngày trong lúc tôi thiền, tôi đã nghe một tiếng nói từ Sư Phụ cao niên của tôi nói, “Hỡi người học trò thân thương, hãy bắt đầu học Pháp Luân Đại Pháp cho chính mình và cho tương lai của mình! Đây chính là thời điểm.” Tôi đã thật sự bị lay động vào lúc đó. Đó phải là cái gì thật sự đặc biệt và tinh tiến mà Sư Phụ tôi đã thúc giục tôi nhìn vào. Nhưng tôi đã không nghe lời khuyên của ông ấy ngay lập tức. Tôi vẫn thấy bình thường với sự luyện tập Thiền tông. Tôi đã nghĩ tôi không cần sự thay đổi nào hết. Tôi đã nghĩ tôi sẽ xem thử nó thế nào.

Tôi nghĩ, “Có lẽ tôi có thể học vài điều từ nó theo cách tôi thường làm, từ việc đọc các bài viết và những cuốn sách khác.” Tôi đã yêu cầu Sư Phụ Lý cho học Pháp của ông ấy nhưng không luyện tập Công của ông. Ông cười với tôi và không nói lời nào.

Một lần nữa, khi tôi thiền tịnh, Sư Phụ của tôi đã xuất hiện, nói rằng ông cũng là một đệ tử của Sư Phụ Lý và tầng thứ của ông ta thấp xa so với Sư Phụ Lý. Lời nhắn nhủ của ông đã đánh thức tôi. Tôi đã biết rằng tôi phải bắt đầu suy nghĩ về điều này một cách nghiêm túc. Kết cục, tôi đã bắt đầu đọc Chuyển Pháp Luân.

Sau khi đọc chỉ vài trang, tôi đã khóc lên. Tôi khóc bởi vì tôi đã tìm thấy những câu trả lời về những thắc mắc trong suốt cuộc đời của tôi và bởi vì tôi đã biết rằng tôi sẽ từ bỏ lớp học Thiền tông và Sư Phụ của tôi. Từng từ trong cuốn sách đó đã ngộ thức tôi. Chỉ hai ngày sau tôi đã bắt đầu đọc Chuyển Pháp Luân, tôi đã quyết định trở thành một đệ tử Đại Pháp.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=5244

The post Tôi đến với Đại Pháp như thế nào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2008/03/toi-den-voi-dai-phap-nhu-the-nao.html/feed0
Tìm kiếm miệt mài: Nguyện vọng tăng nhân Hàn Quốc cuối cùng đã toại nguyệnhttps://chanhkien.org/2008/02/tim-kiem-miet-mai-nguyen-vong-tang-nhan-han-quoc-cuoi-cung-da-toai-nguyen.htmlhttps://chanhkien.org/2008/02/tim-kiem-miet-mai-nguyen-vong-tang-nhan-han-quoc-cuoi-cung-da-toai-nguyen.html#respondWed, 27 Feb 2008 16:54:00 +0000[Chanhkien.org] Vào giữa tháng Năm, đoàn nghệ thuật Thần vận Mỹ quốc kết thúc 81 xuất trình diễn luân lưu thế giới của năm 2007. Ở cuối tháng Tư, đoàn nghệ thuật Thần vận cũng từng trình diễn 3 xuất tại Hàn Quốc, đã cảm động dân tộc Hàn Quốc vốn có nguồn gốc văn […]

The post Tìm kiếm miệt mài: Nguyện vọng tăng nhân Hàn Quốc cuối cùng đã toại nguyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Vào giữa tháng Năm, đoàn nghệ thuật Thần vận Mỹ quốc kết thúc 81 xuất trình diễn luân lưu thế giới của năm 2007. Ở cuối tháng Tư, đoàn nghệ thuật Thần vận cũng từng trình diễn 3 xuất tại Hàn Quốc, đã cảm động dân tộc Hàn Quốc vốn có nguồn gốc văn hóa Trung Hoa nồng hậu. Rất đặc biệt ở chỗ có rất nhiều tăng nhân, tăng ni, tu nữ đến xem diễn xuất, tại sao người tu luyện lại có hứng thú đối với nghệ thuật diễn xuất?

Trong đó có một vị đến xem diễn xuất tên là Ngô Vĩnh Khuê, ông ta là một vị tăng nhân 85 tuổi. Ông nói: “Tôi vốn không có hứng thú đối với bất cứ mọi việc trên đời, từ nhỏ thì đã chưa từng xem diễn xuất gì, xem diễn xuất nghệ thuật gì cũng không cảm thấy hứng thú. Nhưng diễn xuất của Thần vận không giống như vậy. Sự diễn xuất như vậy không thể hoàn toàn đem nó xem là biểu diễn nghệ thuật, nội dung trong ấy rất thâm sâu, bao gồm rất nhiều đạo lý tu luyện, mĩ miều không thể miêu tả bằng ngôn ngữ. ”Ngô vĩnh Khuê nói rằng trong quá trình xem diễn xuất, ông không ngừng rơi lệ, tại sao có những cảm xúc đặc biệt như thế đối với diễn xuất như vậy, thì phải bắt dầu nói từ cuộc đời của Ngô Vĩnh Khuê.

Mộng của bà mẹ mang thai

Trước khi Ngô Vĩnh Khuê chào đời, mẹ của ông đã sinh bốn đứa con gái, vì mãi sinh con gái, đối với gia đình Hàn Quốc trong Nho giáo mà nói đây đương nhiên là một bất hạnh lớn. Thậm chí trong nhà có người lên tiếng đuổi bà ra khỏi nhà cho nên bà thường đến miếu lạy Phật, sau này thì đã mang thai. Trưóc khi sinh Ngô vĩnh Khuê, bà đã nằm mộng, trong mộng thấy Phật từ trên trời xuống cho bà một cuốn sách, lại mộng thấy một đứa bé nhảy qua nhảy lại, nhưng nhảy đến trong nước cũng không bị ngộp, nhảy đến trong lửa cũng không bị phỏng. Bà liền nghĩ nguyên nhân có thể là vì bà ta thường xuyên lạy Phật, sau này đợi đứa bé trưởng thành phải cho nó đến miếu học hỏi.

Mong đợi của tuổi thơ ấu

Tại quê của Ngô Vĩnh Khuê có một người già, là người hầu của Hoàng đế Cao Tông của thời đại Triều Tiên Hàn Quốc. Ngô Vĩnh Khuê bái ông ta làm Sư lúc tám tuổi, theo ông ta học chữ Hán, lúc đó vị thầy này đã ngoài 70 tuổi, ông ta rất quen thuộc với cuốn sách “Cách Am Di Lục”. (“Cách Am Di Lục” là một cuốn sách tiên tri rất nổi tiếng tại Hàn Quốc, nghe nói vào thời trung kỳ Triều Tiên một học giả chuyên về Thiên văn tên là Nam Sư Cổ, hiệu Cách Am, thời thiếu niên gặp một Thần nhân được bí cấp khi lên núi Kim Cương nhưng Nam Sư Cổ thông suốt thiên văn địa lý vẫn chưa lãnh hội ý sâu sắc trong đó, cho nên chỉ là dựa theo sự dặn dò của Thần nhân mà đem ghi chép xuống. Nam Sư Cổ bút hiệu Cách Am cho nên đặt tên cuốn sách là “Cách Am Di Lục”). Ông thầy không những truyền dạy chữ Hán, đồng thời cũng thường xuyên giảng dạy học sinh đạo lý làm người và đạo lý nhân sinh, ông ta từng nói với Ngô Vĩnh Khuê rằng: “Nếu con có thể sống đến trên 70 tuổi, thì có thể thấy được Phật Di Lặc đến trần thế truyền Chính Pháp, lúc đó thế giới này sẽ trở thành tốt. Sẽ xảy ra sự biến hóa giống như khai thiên lập địa vậy. Ta thì không đợi được đến ngày ấy lại không có con cháu rất là đáng tiếc. Nhưng con muốn sống được đến lúc ấy, thì nhất định phải làm được là mọi việc đều nghĩ đến người khác; phải hiếu thảo cha mẹ, khi xảy ra sự biến hóa khai thiên lập địa, chỉ có con có hiếu mới có thể sống sót; còn không được làm việc trái với Pháp; phải kính trọng bất cứ ai, sự thật một người thiết tha nghĩ đến người khác thì cũng là vì bản thân.” Những lời dặn của thầy, Ngô Vĩnh Khuê mãi nhớ trong lòng, vì tuân theo lời của thầy mà ông ta đã cố gắng rất nhiều, luôn thiết nghĩ đến người khác, giúp đỡ người, như giúp ngưòi khiêng đồ đạc…đã trở thành thói quen, sự việc như vậy xảy ra rất nhiều.

Ngô Vĩnh Khuê nói rằng, có một năm vào Tết. Chị của ông đã may một bộ áo mới cho ông, lúc ấy mẹ ông đã qua đời, gia đình cũng không khá giả. Ngô vĩnh Khuê mặc bộ áo mới ấy vào vui vẻ đi tìm bạn nhỏ, nhưng sau khi đến nhà bạn, nhìn thấy bạn đang khóc, bởi vì cha của người bạn ưa cờ bạc, sinh kế trong nhà đều dựa vào bà mẹ may quần áo cho người ta mà duy trì, rất là khó khăn. Trong mùa Tết, tuổi trẻ đều có áo mới mà bạn ông ta không có. Ngô vĩnh Khuê hay được thì trong lòng rất là khó chịu, nên ông đã đem bộ quần áo mới của mình cho người bạn nhỏ ấy, chính mình mặc lại quần áo cũ, đã bị chị của ông ta mắng một trận bởi sự việc này. Lúc ấy, trong đầu óc của Ngô vĩnh Khuê chỉ có một cách nghĩ, thì là nhất định phải đợi đến ngày Chính Pháp khai truyền.

Tìm kiếm mãi mấy mươi năm

Sau này Ngô Vĩnh Khuê từng đến chùa, nhưng tăng nhân trong chùa lại theo đuổi tiền bạc, trong chùa không xong, lại bắt đầu đến hang núi tu luyện, đã từng sống một thời gian với một người tu Đạo. Nhưng lại phát hiện Đạo sĩ này đã tu 30 năm rồi, vẫn còn vì chút việc nhỏ nhặt mà thường xuyên bực tức, nóng giận, nên Ngô Vĩnh Khuê cho rằng ở nơi như vậy tu thêm 100 năm cũng vô ích.

Thời gian thấm thoát trong sự tìm kiếm thì Ngô Vĩnh Khuê đã là người gần 60 tuổi. Ngô Vĩnh Khuê cảm thấy phải đọc kỹ lưỡng tám vạn Đại Tạng kinh một cách có hệ thống nên đã xuất gia đi tu. Sau này thì đã vào Đại học Phật giáo. Khi đi học Đại học Phật giáo, lúc ấy giảng Niết Bàn Kinh (những năm cuối của Phật Thích Ca tức là kinh đã giảng trong thời sắp niết bàn). Những năm cuối của Phật Thích Ca giảng: “Tôi truyền Pháp 48 năm, những gì đã giảng đều là giả nghĩa sĩ, là vì xây nền tảng cho chân nghĩa sĩ xuất hiện trong tương lai. Từ nay bắt đầu giảng những tình huống chân chính.” Nội dung sau đó chính là đã ghi chép trong “Kinh Niết Bàn”, đã giảng là vào thời kỳ mạt Pháp sẽ xuất hiện sự việc Chuyển Luân Thánh Vương (cũng gọi là Pháp Luân Thánh Vương). Ngô Vĩnh Khuê nói, lúc ông nghe đến câu truyện này lập tức tỉnh táo.

Sau này Ngô Vĩnh Khuê đã đến một chùa ở Giang Nguyên Đạo (địa danh Hàn Quốc), học tập kinh sách tại nơi ấy, rồi bị giữ lại tại nơi ấy giảng kinh. Nhưng đọc kinh trong chùa chỉ học những gì ở bề ngoài, Phật kinh phải mất 20 năm mới có thể học xong thì trong vòng một năm đã giảng hết rồi, giảng bài chỉ cần nhanh chóng lật trang là được rồi. Ngô Vĩnh Khuê nói: “Tâm đố kỵ và lòng tham vẫn còn rất nghiêm trọng ở trong chùa, có một tăng nhân còn ép chúng tôi ăn thịt, sau đó tôi rời khỏi nơi ấy đến nhà một người bạn. Người bạn này ở gần tại quê quán của Giang Tăng Sơn (người sáng lập Tăng Sơn Đạo tại Hàn Quốc). Làng này đại khái có 2.000 hộ, người già trong làng đều là đệ tử Giang Tăng Sơn.

Có một lần, Ngô Vĩnh Khuê nhìn thấy một số người già đang chỉ vào một cánh đồng lúa, vỗ tay kêu lên Phật Di Lặc đã đến thế gian, tại sao chúng ta còn không hay biết? Ngô Vĩnh Khuê nghe được câu nói này rất là kinh ngạc, hỏi rằng: “Ý của các vị là như thế nào? Phật Di Lặc ở đâu?” họ đã trả lời, Thời xưa ông Giang đã tiên đoán rằng khi cánh đồng cây tùng trước thôn làng trở thành vườn dâu, sau đó lại trở thành cánh đồng ruộng, thì Di Lặc Phật sẽ đến. Thời ấy ở đó vì mở đuờng sá, thật sự đã đem vườn dâu xưa ấy trở thành cánh đồng ruộng.

Thời ấy là năm 1982, tôi thấy được dự ngôn này thật sự hiện ra, thì nói với bạn tôi rằng: “Hiện giờ tôi đã không cần thiết có nhà cửa, tôi phải đi tìm Di Lặc Phật”. Thì như vậy, Ngô Vĩnh Khuê đã rời khỏi nhà bạn, vân du khắp nơi cả nước Đại Hàn, nhưng lại không tìm được. Sau này đột nhiên Ngô vĩnh Khuê nhớ lại một câu nói của Giang Tăng Sơn: “Đi tìm Di Lặc Phật chỉ tốn công, nếu ngồi mà tu Đức, Di Lặc Phật sẽ đến tìm các vị”, cho nên Ngô vĩnh Khuê bắt đầu định tâm lại, khắc khổ tu hành tại một chùa, giờ phút nào cũng đểu suy nghĩ làm như thế nào mới có thể làm tốt.

Pháp Luân Thánh Vương đã thuật trong kinh sách Phật Giáo

Bắt đầu từ năm 1988, Ngô Vĩnh Khuê tập trung học tập “ Niết Bàn Kinh” vì kinh này giải thích rất khó, nhưng Ngô Vĩnh Khuê có thể lý giải, nên đã giảng kinh này cho học giả và tăng nhân, nhưng người có thể hiểu rõ thì không bao nhiêu. Trong kinh này giảng “Ý trong kinh rằng không đến thời điểm ấy thì nghe không hiểu”. Trong quyển 17 giảng: “Chưa đến lúc thì đừng nên mở sách ra”, có lẽ giảng là ý như vậy. Nội dung trong kinh đều giảng: “Khi Pháp Luân Thánh Vuơng xuất hiện mới là chính Pháp. Trước đó thì không có chính Pháp”. Trong kinh sách nói: “Kinh sách của Phật Pháp Tiểu Thừa đều là vì nghênh đón Chuyển Luân Thánh Vương ra đời mà xuất hiện, ngoại trừ việc này ra thì không có một ý nghĩa khác”. Đây chính là nội dung chủ yếu nhất của “Niết Bàn Kinh”. “Niết Bàn Kinh” nói: “Từ cổ chí kim Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có một vị, Chuyển Luân Thánh Vương không xuất hiện thì không xuất hiện chính Pháp, Chuyển Luân Thánh Vương một khi xuất hiện thì đạo tặc trên thế giới sẽ huớng về Thiện”. “Niết Bàn Kinh” còn nói: “Pháp Luân Thánh Vương đang đào tạo Bồ Tát, Đại Bồ Tát, một ngày nào đó đột nhiên xuất hiện, khiến người đời chấn động kinh hoàng, đến lúc ấy tất cả đều sẽ thay đổi. ” “Bí mật Tạng” trong Phật giáo cũng nói về câu chuyện của Chuyển Luân Thánh Vương.

Cơ duyên đã đến, Ngô Vĩnh Khuê nói sinh mạng của ông chính là vì chờ đợi chính Pháp, trong “Cách Am Di Lục” nói đến chính Pháp truyền ra vào năm 1993, năm 2005 truyền khắp thế giới, đừng nên mất đi cơ duyên tu Đạo này, trong thời gian phát sinh biến hóa khai thiên tịch địa, phải vượt qua được mà sống sót. Sách dự ngôn này còn nói, tương lai có thể không nhất định giống y như sách đã giảng. Phật Chủ (Di Lặc Phật) đến thế gian là Phật Chủ làm Chủ tất cả, đến lúc ấy tuyệt đối không giống như trong sách dự ngôn đã giảng. Tại vì phương pháp tu luyện hiện nay đều không thể tu thành. Vậy thì Ngô Vĩnh Khuê bắt đầu vừa giảng sự lý giải của “Niết Bàn Kinh” cho người khác nghe lẫn đem soạn thành cuốn sách, vừa chờ đợi cơ duyên thuộc về chính mình.

Năm vừa rồi trong một đêm, Tăng ni mà cùng nhau tu hành tên Xa Pháp Liên hỏi Ngô Vĩnh Khuê, đã quyết định hai ngày trước đi Hán Thành (Seoul) chưa? Tại vì nếu Ngô Vĩnh khuê đi Hán Thành thì bà ta phải dậy sớm chuẩn bị cơm nước cho Ngô Vĩnh Khuê, ông nói không,  không cần thiết phải đi Hán Thành, rồi ông về phòng. Ông tiếp tục kể, nhưng sau khi về phòng không biết tại sao lại muốn đi Hán Thành, mãi cảm thấy hình như có điềm tốt đang chờ đợi mình. Không thể yên ổn chờ đợi tại nhà, nhưng đã bảo Tăng ni là không đi, kế hoạch đi đã hai lần thay đổi, mới vừa nói là không đi, bây giờ lại đổi ý mà nói với bà ta thì hình như ái ngại quá! Ngô vĩnh Khuê nghĩ thầm, dứt khoát sáng mai tự mình nấu mì ăn là được rồi.

Đến sáng, Ngô Vĩnh Khuê đến nhà bếp, nhìn thấy lão Tăng ni đã chuẩn bị xong cơm nước thì ngạc nhiên mà hỏi: “Tại sao bà chuẩn bị cơm nước?”Lão tăng ni trả lời, khi bà đang ngủ mê thì đột nhiên có một thanh niên hình dạng như học sinh trung học, một bàn tay bỏ vào trong túi quần, đứng ở ngoài gỏ cửa, mà còn rất lạ là màng cửa tại sao trở thành trong suốt vậy, có thể nhìn thấy rất là rõ rệt cảnh ở bên ngoài, bà vừa muốn đứng dậy đi mở cửa, chàng thanh niên ấy lại không thấy nửa. Xa Pháp Liên đang giấc ngủ mê man nên cũng không nghĩ quá nhiều, nằm xuống tiếp tục ngủ, nhưng sau một hồi, thanh niên ấy lại đến gõ cửa, gõ vài cái cũng như lần trước. Lão tăng ni còn chưa kịp đi mở cửa, anh ta lại không gõ nữa. Lúc này Xa Pháp Liên đã tỉnh dậy và suy nghĩ: “Có phải Ngô Vĩnh Khuê phải đi Hán thành, cần mình chuẩn bị cơm nước cho ông chăng? Thôi thì đi nấu cơm”.

Nguyện vọng đã tròn

Ngồi trên xe lửa đến Hán Thành, Ngô Vĩnh Khuê nhìn thấy một người đàn bà ngồi đối diện, trong tay cầm một cuốn sách màu vàng viền kim tuyến, trong tâm nghĩ thầm thông thường chỉ có kinh sách mới có thể làm thành như vậy, nhưng nhìn cuốn sách này lại không giống những kinh sách từ trước đã thấy, cho nên ông cong lưng xuống xem thử tên cuốn sách là gì. Khi nhìn thấy ba chữ “Chuyển Pháp Luân”, Ngô Vĩnh Khuê giật mình lập tức nghĩ đến sự việc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế mà trong “Niết Bàn Kinh” đã giảng, trên thế giới này ngoại trừ Pháp Luân Thánh Vương, còn ai dám nói là đang Chuyển Pháp Luân?

Rồi nói với người đàn bà ấy: “Đây là một cuốn sách rất là trân quý”,

Bà ấy trả lời rằng: “Lão sư phụ, ông cần xem hả?”

Ngô Vĩnh Khuê nói: “Đúng vậy, nhưng cuốn sách trân quý như vậy, tôi không thể nhận không, nếu như bà có thể để lại số điện thoại cho tôi gửi tiền lại cho bà”.

Ngô Vĩnh Khuê vội vã mở cuốn sách ra, trước tiên đọc được bài văn ngắn “Luận Ngữ” ở phần trước của “Chuyển Pháp Luân”, Ngô Vĩnh Khuê nói rằng: “Sau khi đọc qua, lúc ấy kinh ngạc đến nổi đầu óc trống rỗng, Pháp lý giảng trong sách tinh thâm huyền bí như vậy, cảm giác chính mình dường như đã đuợc nguyên lý vũ trụ”. Vừa đọc xong “Luận Ngữ”, Ngô Vĩnh Khuê liền gọi điên thoại cho lão tăng ni Xa Pháp Liên: “Từ nay bắt đầu không cần phải đọc “Niết Bàn Kinh” nữa, tôi tặng bà một cuốn sách vô cùng trân quý, từ nay trở đi đọc cuốn sách này là được rồi.

Vừa về đến trong chùa, Ngô Vĩnh Khuê liền đem cuốn sách cho Xa Pháp Liên đọc, bà vừa mở cuốn sách trang đầu nhìn thấy hình ảnh của Sư Phụ Lý Hồng Chí nói một cách kinh ngạc : “Chính là vị này sáng nay gọi tôi thức dậy”. Từ đó về sau, lão tăng ni Xa Pháp Liên cũng bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, yêu cầu nghiêm khắc chính mình chiểu theo những gì giảng trong “Chuyển Pháp Luân” mà làm theo. Xa Pháp Liên nói mãi đến gần đây, nhìn thấy được hình tượng của Sư Phụ trong lúc tịnh tọa vẫn giống như hình tượng buổi sáng ngày ấy đã nhìn thấy, rất là trẻ, giống như một học sinh trung học, một bàn tay bỏ vào trong túi quần.

Ngô Vĩnh Khuê thì nói: “Hiện giờ đọc [Hồng Ngâm] của Sư Phụ (một cuốn kinh sách trong Pháp Luân Đại Pháp), nước mắt thì không ngừng rơi, trong đầu óc của tôi hiện giờ nghĩ đến là làm thế nào để Pháp này cho càng nhiều người biết đến, chỉ có duy nhât cách nghĩ này”. Trong lúc xem diễn xuất của đoàn nghệ thuật Thần vận Mỹ Quốc, Ngô Vĩnh Khuê nói rằng, ông càng biết được một cách xác thực ý nghĩa sâu xa sự chờ đợi của cả một đời.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2007/7/16/44820.html

The post Tìm kiếm miệt mài: Nguyện vọng tăng nhân Hàn Quốc cuối cùng đã toại nguyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2008/02/tim-kiem-miet-mai-nguyen-vong-tang-nhan-han-quoc-cuoi-cung-da-toai-nguyen.html/feed0