Nostradamus | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 10 Apr 2025 00:14:36 +0000en-UShourly1Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (2)https://chanhkien.org/2012/02/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky-2.htmlhttps://chanhkien.org/2012/02/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky-2.html#respondWed, 08 Feb 2012 07:31:37 +0000https://chanhkien.org/?p=16087Trong bài thơ này, Nostradamus đã miêu tả một cuộc chiến tranh, có vẻ như là chiến tranh giành độc lập của Mỹ từ tay người Anh.

The post Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1)

Ngày 11/9/2001, nước Mỹ bị tập kích khủng bố

Các Thế Kỷ VI, Khổ 97

Nguyên văn tiếng Pháp:

Cinq & quarante degrez ciel bruslera,
Feu approcher de la grand cité neuue,
Instant grand flamme esparse sautera,
Quand on voudra des Normans faire preuue.

Tiếng Anh:

At forty-five degrees the sky will burn,
Fire to approach the great new city:
In an instant a great scattered flame will leap up,
When one will want to demand proof of the Normans.

Tiếng Việt:

Tại bốn mươi lăm độ, bầu trời sẽ bốc cháy,
Lửa sẽ đến gần thành phố mới vĩ đại:
Trong khoảnh khắc, một ngọn lửa lớn sẽ bốc tung tóe,
Khi người ta sẽ muốn đòi bằng chứng của người Norman.

Bài thơ này miêu tả một thành phố lớn nổi tiếng sẽ bị tập kích bằng máy bay, đó chính là sự kiện tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại New York bị không tặc khủng bố cách đây không lâu.

Nostradamus thường dùng “tân đại lục” để đại biểu nước Mỹ, bởi vậy “thành phố mới” (new city) ở đây chính là chỉ thành phố New York. Thành phố New York nằm ở tọa độ giữa 40-45 độ Bắc, do đó bài thơ này đúng là nói về New York.

Chỉ rõ danh tự nước Mỹ – người thắng lợi cuối cùng

Các Thế Kỷ IV, Khổ 95

Nguyên văn tiếng Pháp:

Le regne à deux laissé bien peu tiendront,
Trois ans sept mois passez feront la guerre :
Les deux vestales contre rebelleront,
Victor puis nay en Armonique terre.

Tiếng Anh:

The realm left to two they will hold it very briefly,
Three years and seven months passed by they will make war:
The two Vestals will rebel in opposition,
Victor the younger in the land of Brittany.

Tiếng Việt:

Vương quốc bị tách làm hai, họ sẽ giữ nó rất ngắn,
Ba năm và bảy tháng trôi qua, họ sẽ gây chiến tranh:
Hai trinh nữ sẽ nổi loạn trong thế đối lập,
Kẻ thắng lợi trẻ hơn ở mảnh đất Brittany.

Trong bài thơ này, Nostradamus đã miêu tả một cuộc chiến tranh, có vẻ như là chiến tranh giành độc lập của Mỹ từ tay người Anh. Trong bản dịch tiếng Anh, chữ “Brittany” là một tỉnh ở Tây Bắc nước Pháp, nhưng phát âm rất giống “Britain”, nghĩa là nước Anh, tức “Vương quốc bị tách làm hai” vì thuộc địa nổi dậy đòi độc lập. Trong cuộc chiến này, nước Mỹ, tức “người trẻ hơn” giành thắng lợi. Tuy nhiên điều kỳ diệu nhất nằm ở câu thơ thứ tư của bản gốc tiếng Pháp, đã chỉ rõ danh tự nước Mỹ. Nguyên văn chữ “Armonique”, chỉ khác biệt 2 ký tự với chữ “Amérique”, nghĩa là nước Mỹ (America) trong tiếng Pháp. Danh tự của tân đại lục đã hiện ra ngay ở thời đại của Nostradamus!

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/3/25/14429.html

The post Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/02/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky-2.html/feed0
Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (8): Người con của Công Chúa và tái sinh của thế kỷhttps://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-8-nguoi-con-cua-cong-chua-va-tai-sinh-cua-the-ky.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-8-nguoi-con-cua-cong-chua-va-tai-sinh-cua-the-ky.html#respondSun, 29 Jan 2012 06:37:42 +0000https://chanhkien.org/?p=15931Ưu Đàm Bà La hoa, ba nghìn năm mới nở một lần, chính là báo điềm lành. Ngày mà Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế Chính Pháp độ nhân.

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (8): Người con của Công Chúa và tái sinh của thế kỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[Chanhkien.org]

(8) Người con của Công Chúa và tái sinh của thế kỷ

Theo kinh Phật ghi lại thì:

“Ưu Đàm Bà La hoa, ba nghìn năm mới nở một lần, chính là báo điềm lành. Ngày mà Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, là lúc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế Chính Pháp độ nhân”.

Sau đây là một đoạn tư liệu từ các kênh truyền thông:

Chùa Chính Giác tọa lạc tại Gyeongju (Khánh Châu), Hàn Quốc, một trong 10 cố đô cổ kính nhất trên thế giới; trong chùa có một hòa thượng 38 tuổi tu hành đã được 16 năm, gọi là Kim Hải Nhật hòa thượng. Năm 2006, Kim Hải Nhật trả lời phỏng vấn báo giới như sau: “Chùa Chính Giác của chúng tôi có lịch sử khoảng 1.000 năm rồi. Bởi vì chùa này là nơi Hoàng đế đời thứ 56 thời Tân La mạt đại, Kính Thuận Vương, hướng về Phật Dược Sư ở núi Nam Sơn mà cầu nguyện an định và phồn vinh cho quốc gia.”

Tháng 5 năm 2005, một vị tín đồ thường tới chùa bái lạy, phát hiện thấy bên trái tượng Phật Di Lặc bằng gỗ trong tự nội có một bó hoa trắng khá bất thường. Kim Hải Nhật hòa thượng cho rằng, đây chính là “Ưu Đàm Bà La hoa” mà kinh Phật ghi lại. Ông nói: “Vị tín đồ này tới bao giờ cũng quét dọn, khi quét dọn phát hiện thấy [hoa này], lúc đầu không biết là Ưu Đàm Bà La hoa, dùng khăn chùi cũng không đi, quan sát tường tận thì thấy giống hoa, nên mới nói với tôi. Tôi xem thử thì thấy đúng là có lá, có thân, có rễ của cây”.

Clip hoa Ưu Đàm nở trên tượng Phật trong chùa Chính Giác ở Gyeongju, Hàn Quốc tháng 5 năm 2005:

Theo giới thiệu của Kim Hải Nhật hòa thượng, «Kim Cương Kinh» ghi lại rằng “Ưu Đàm Bà La hoa” ba nghìn năm mới nở một lần. Khi Ưu Đàm Bà La hoa khai nở, có ý là Chuyển Luân Thánh Vương đã tới nhân gian truyền Pháp độ nhân. Theo ký lục của Phật gia, năm 2005 chính là năm 3032.

Hiện tượng hoa Ưu Đàm Bà La khai nở tại chùa Chính Giác, Hàn Quốc không phải là lần đầu. Tháng 7 năm 1997, trong phòng phương trượng một ngôi chùa tại quận Quảng Châu, người ta phát hiện thấy trên ngực tượng Phật Như Lai bằng đồng vàng xuất hiện 24 đóa hoa Ưu Đàm Bà La, có mấy trăm người tới xem. Trung tuần tháng 2 năm 2005, trên tượng Phật trong thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc, người ta phát hiện thấy 10 đóa hoa Ưu Đàm Bà La khai nở. Pháp Trường hòa thượng của thiền viện này nói: “Tôi phát hiện thấy có thứ gì đó màu trắng. Đạo Nguyệt hòa thượng tu hành cùng tôi ngày hôm sau xem kỹ lại, cho rằng là Ưu Đàm Bà La hoa”.

Hoa trên tượng Phật: Hoa Ưu Đàm được trông thấy nở trên tượng Phật trong thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc vào tháng 2 năm 2005. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

Kim Hải Nhật hòa thượng tin rằng, khi hiện tượng thần kỳ này xuất hiện, những gì ghi lại trong kinh Phật đúng là đang phát sinh tại nhân gian.

Sau đó, Ưu Đàm Bà Ba hoa liên tục được phát hiện thấy tại nhiều tỉnh ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, Mỹ, v.v. Những hiện tượng này đã gợi ý cho người đời rằng: Chuyển Luân Thánh Vương đã tới nhân gian Chính Pháp độ nhân.

Trong cuốn sách «Các Thế Kỷ» (Les Centuries), Nostradamus viết như sau:

(1) Các Thế Kỷ I, Khổ 16

Lưỡi liềm xuất hiện ở vị trí cao nhất của ngôi sao,
Gắn liền với cái ao ở chòm sao Nhân Mã.
Bệnh dịch, nạn đói, và cái chết trong tay quân đội,
Ở ngay gần sự tái sinh của thế kỷ.

(2) Các Thế Kỷ IV, Khổ 99

Người con trai cả can đảm của Công Chúa,
Ngài sẽ đưa những người Celt trở lại rất xa,
Như Ngài sẽ phóng ra thật nhiều tia sét
Ít và xa, rồi sâu trong những người Hesperia.

(3) Các Thế Kỷ II, Khổ 29

Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài,
Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp,
Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết,
Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài.

Ở đây chúng ta phá giải 3 bài thơ tiên tri ở trên như sau:

Bài thơ (1) tiên tri về “sự tái sinh của thế kỷ” bắt đầu sau khi “Lưỡi liềm lớn xuất hiện ở vị trí cao nhất của ngôi sao”. “Lưỡi liềm” (scythe) ở đây biểu thị cờ đỏ “búa liềm” của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), còn “vị trí cao nhất của ngôi sao” là chỉ khi ĐCSTQ đoạt chính quyền, cờ “năm sao” của ĐCSTQ lên vị trí cao nhất. Như vậy Chính Pháp vũ trụ sẽ bắt đầu vào thời ĐCSTQ đang nắm quyền.

Bài thơ (2) tiên tri về “Người con trai cả can đảm của Công Chúa” là một vị Thần có thể “phóng ra thật nhiều tia sét” và có thể đưa mọi người “trở lại rất xa”. Trong lịch sử không hề có vị Công Chúa nào như vậy. Thực ra, “Công Chúa” (King’s daughter) ở đây là chỉ địa danh, tức Công Chủ Lĩnh (ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, còn gọi là Công Chúa Lĩnh). Như vậy vị Thần này sẽ xuất sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc.

Bài thơ (3) tiên tri về vị Thánh nhân sẽ xuất hiện tại phương Đông rồi đi sang phương Tây. Vị Thánh nhân này sẽ có năng lực như Thần Hermes, “Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”. Vị Thánh nhân này chính là “Chúa Cứu Thế” (Messiah) mà tôn giáo Tây phương nói tới.

Tháng 5 năm 1992, một môn khí công, gọi là Pháp Luân Công truyền ra tại Trung Quốc. Chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi, môn tập đã thu hút cả trăm triệu người tiến vào tu luyện. Người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí, đã truyền xuất một phương thức tu luyện đặc biệt, đó là không thoát ly thế tục mà vẫn có thể tu luyện lên cao tầng. Đại Pháp cao thâm này lấy đặc tính “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ làm nguyên tắc chỉ đạo, từ căn bản mà loại bỏ bệnh tật, tịnh hóa thân tâm, cấp cho con người một con đường phản bổn quy chân. Ông Lý Hồng Chí chính là sinh ra tại Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, như vậy bài thơ (2) là nói về người sáng lập Pháp Luân Công.

Tháng 3 năm 1995, người sáng lập Pháp Luân Công nhận lời mời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp để sang Pháp truyền công giảng Pháp, bắt đầu hồng truyền Pháp Luân Đại Pháp tại hải ngoại. “Người phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp” trong bài thơ (3) chính là miêu tả sự kiện này. Sau đó Pháp Luân Công bắt đầu phổ biến tại hải ngoại, tới nay đã hơn chục năm, Pháp Luân Công đã hồng truyền tại 114 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, được chào đón nồng nhiệt bởi dân chúng các nước.

Trong một bài thơ nổi tiếng (Các Thế Kỷ X, Khổ 72), Nostradamus viết: “Vào năm 1999, tháng 7, Đại vương Khủng bố từ trên trời xuống…” Đây chính là tiên tri ngày 20/7/1999, ĐCSTQ bắt đầu trấn áp quần thể dân chúng Pháp Luân Công. Kể từ tháng 7 năm 1999, các học viên Pháp Luân Công đã trải qua một lịch trình gian khổ để làm sáng tỏ sự thật. Tới nay, các học viên Pháp Luân Công tựa như hoa mai cười ngạo sương tuyết, như hoa nở khắp nơi trên thế giới.

Trong “Cuốn sách thất lạc” (Nostradamus Vatinicia Code), Nostradamus có một bức họa: Một cánh tay cầm thanh kiếm sắc nhắm vào “bánh xe” xoay chuyển trên không trung. Điều này có ngụ ý gì?

Thanh kiếm trong tay Mars đâm vào “bánh xe” đang xoay chuyển.

Trong «Các Thế Kỷ», Nostradamus đã hai lần đề cập đến “Artemis”. “Artemis” là nữ thần Mặt trăng trong thần thoại Hy Lạp. Trong một bức họa, Nostradamus vẽ “khuôn mặt tươi cười” bên trong Mặt trăng để đại biểu nữ thần Artemis. Bức họa này có ngụ ý rằng: Nữ thần Mặt trăng Artemis sẽ đem “bánh xe” (Pháp Luân) xuống thế gian.

Nữ thần Mặt trăng Artemis mang theo “bánh xe” tới nhân gian, trong khi các thiên thể, tinh hệ được trùng tổ, canh tân.

Trong lịch sử, khi các Giác Giả hạ thế truyền Đạo cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí Pháp nạn. Lịch sử đã tới ngày hôm nay, chẳng phải sự việc tương tự cũng đang phát sinh hay sao?

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/20/69459.html

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (8): Người con của Công Chúa và tái sinh của thế kỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-8-nguoi-con-cua-cong-chua-va-tai-sinh-cua-the-ky.html/feed0
Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nàohttps://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-17-chung-ta-lua-chon-nhu-the-nao.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-17-chung-ta-lua-chon-nhu-the-nao.html#respondSat, 07 Jan 2012 21:24:02 +0000https://chanhkien.org/?p=15754Chuyện tín ngưỡng tôn giáo bị bức hại đã là vấn đề tồn tại trong một thời gian dài.

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[Chanhkien.org]

(17) Chúng ta lựa chọn như thế nào

1. Cuộc khiêu chiến cự đại khiến người ta lo lắng

Chuyện tín ngưỡng tôn giáo bị bức hại đã là vấn đề tồn tại trong một thời gian dài. Trong lịch sử nhân loại, rất nhiều chính giáo khi phổ truyền tại thế gian đều gặp phải đối xử bất công. Ví dụ: Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp tại Ấn Độ đã khiến Bà La Môn giáo tức giận (khi ấy Bà Là Môn giáo đã đi vào mạt pháp và xuất hiện tình huống giết người, hiến tế). Đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni chịu bức hại từ Bà La Môn giáo; họ bị bắt một lượng lớn, bị buộc từ bỏ tín ngưỡng. Rất nhiều người bị cung tên bắn chết, có người bị lửa thiêu chết…

Sự xuất hiện của Chúa Jesus cũng làm rúng động Do Thái giáo thời bấy giờ. Các tư tế và trưởng lão Do Thái giáo cho rằng người tin Chúa Jesus ngày càng nhiều, và lo rằng sau này sẽ không còn ai cung dưỡng họ nữa. Bởi vậy họ ngụy tạo “lý do”, bày ra “tội danh”, cuối cùng đóng đinh Chúa Jesus trên thập tự giá.

Tại La Mã cổ đại, các đồ đệ Cơ Đốc chịu bức hại cực kỳ nghiêm trọng, trải qua bức hại của nhiều đời Hoàng Đế La Mã, trở thành một ví dụ điển hình về bức hại tôn giáo, đồng thời lưu lại cho người đời sau một bài học sâu sắc. Cuộc bức hại trực tiếp dẫn tới ôn dịch bùng phát, khiến hơn 1/3, thậm chí 1 nửa người La Mã chết vì ôn dịch, hàng triệu người tử vong, một con số rất lớn thời bấy giờ. Đế quốc La Mã hùng mạnh bởi vậy sụp đổ và tan rã.

Bức hại tôn giáo vì sao dẫn khởi ôn dịch phát sinh? Đây là nan đề mà khoa học hiện đại không cách nào giải thích, tuy nhiên đối với người có tín ngưỡng, điều này không phải là không giải thích được.

Lịch sử đã tới ngày hôm nay, và cuộc bức hại lại một lần nữa phát sinh. Cuộc bức hại này diện tích lớn hơn, liên quan tới nhiều người hơn, thủ đoạn bức hại cũng càng thâm hiểm và giảo hoạt hơn. Do đó, nó khiến toàn nhân loại rơi vào nguy cơ trầm trọng hơn nữa. Đây chính là điều bài viết này phải chỉ ra, điều khiến người ta lo lắng — nhân loại đang đối diện một cuộc khiêu chiến cự đại!

Tháng 7 năm 1999, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Tuyên truyền bịa đặt rợp trời dậy đất thông qua truyền thông hiện đại đã lan khắp mọi ngõ ngách trên thế giới; chỉ tính riêng tại Trung Quốc, đã có hàng trăm triệu người chịu độc hại từ lừa dối, trên phạm vi thế giới số người bị đầu độc còn lớn hơn nữa. Trong lời tiên tri nổi tiếng về “tháng 7 năm 1999″ (Các Thế Kỷ X, Khổ 72), Nostradamus viết (“Mars” ở đây là chỉ Marx):

Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

Khi ấy, người ta quan sát thấy trong Thái Dương hệ, trật tự sắp xếp các hành tinh có hình cây thập tự. Đối với con người ngày nay, thì gần như không ai biết rốt cuộc là sự việc gì. Mười hai năm đã trôi qua, con người dường như đã quên mất rồi, có người cho rằng chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp thiên văn mà thôi. Tuy nhiên, đứng từ góc độ chiêm tinh học mà xét, hàm nghĩa chân chính của nó lại là tử vong! Vào thời Châu Âu cổ đại, thập tự giá là một loại dụng cụ tra tấn. Ngày xưa người ta đem tội nhân trói vào thập tự giá, đóng đinh hoặc thiêu chết, coi như hình phạt tử hình. Do đó hàm nghĩa thực sự của nó chính là “tử vong”. Xét từ lý niệm chiêm tinh học, sự xuất hiện cây thập tự giá lớn trong Thái Dương hệ đại biểu sự tử vong vĩ đại! Đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa, sự thật chắc chắn — nhân loại đang đối diện một tai họa lớn chưa từng có!!

Trong quá trình nghiên cứu virus cảm cúm, các nhà khoa học đã phát hiện ra một vấn đề. Họ phát hiện rằng loại virus cảm cúm biến dị này thật là đáng sợ, và thậm chí không dám đối diện với kết quả nghiên cứu của chính mình.

Con người ngày nay không hề cảm giác được, ý thức được sự tồn tại của một loại nguy cơ lớn tiềm ẩn. Nhưng sự sản sinh loại nguy cơ này lại là do ác ma Mars làm bại hoại con người thế gian gây nên.

2. Ác ma Mars trong lời tiên tri

>> Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (10): Mars rốt cuộc là gì?

Vào thời niên thiếu, Marx là một giáo đồ Cơ Đốc; nhưng sau khi vào đại học, ông ta gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì, và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ. Giáo hội Sa-tăng lấy một ngôi sao năm cánh đặt ngược làm ký hiệu. Người Trung Quốc ngày nay không nghĩ đến đó, rằng vì sao ĐCSTQ sùng bái ngôi sao năm cánh như vậy, giống như tôn thờ thần linh vậy. Đó không phải là tượng trưng cho chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước, bởi vì “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” tuyên bố: “Phải thủ tiêu dân tộc, không đề xướng chủ nghĩa yêu nước”. Sa-tăng giáo sùng bái ngôi sao năm cánh, và lấy ngôi sao năm cánh làm biểu tượng.

Ảnh: Giáo hội Sa-tăng (Satanist Church).

Marx không phải là người vô thần. Giáo hội Sa-tăng tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Do đó rất nhiều tác phẩm thơ ca của Marx đều phản đối Thần, sùng bái Sa-tăng. Thơ ca là một hình thức văn nghệ đặc thù, có thể biểu đạt thế giới nội tâm tác giả một cách chân thật nhất. Marx trong một số tác phẩm như “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), kịch bản “Oulanem”, v.v. đều sung mãn khát vọng hủy diệt nhân loại, thậm chí kịch bản “Oulanem” còn công khai thừa nhận: “Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!”.

Cả đời Marx viết được hơn 100 cuốn sách, thế nhưng chỉ có 13 quyển được xuất bản. Tuyệt đại đa số đều được thu gom và cất giữ tại viện nghiên cứu Marx ở Moscow, chứ không công bố ra ngoài. Điều mà chúng ta biết chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi; một bộ phận nhỏ, mà đã khiến người Trung Quốc trợn mắt kinh ngạc.

Ảnh: Cờ của Sa-tăng giáo (ký hiệu ngôi sao năm cánh đảo ngược).

Hai chữ “Sa-tăng” này, đối với người Trung Quốc, là không hề bỡ ngỡ. “Sa-tăng” (Tát Đán) chính là ma quỷ hoặc ác ma, trong văn hóa truyền thống Trung Quốc mang ý xấu, chỉ các sinh linh làm hại nhân loại. Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thần, và bởi vì họ tin Thượng Đế đã sáng tạo ra nhân loại, nên các thành viên Sa-tăng giáo cũng sung mãn cừu hận đối với nhân loại. Các tác phẩm thơ ca của Marx đã biểu đạt vô cùng minh xác điều này (như “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” trong “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” hay “Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên, Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.” trong “Oulanem”, v.v.) Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta”.

Ảnh: Bakunin, Marx và Proudhon đều để chung một kiểu tóc và kiểu râu—đặc trưng điển hình thành viên giáo hội Sa-tăng của Joanna Southcott vào thế kỷ 19.

Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo, đây là sự thật không còn nghi ngờ gì nữa. Từ sinh hoạt, công tác, tính cách, gia đình, bạn bè đến thư từ cá nhân của Marx đều chứng tỏ sự thật kinh ngạc ấy.

Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, nói: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.

Sau khi gặp Marx, Engels đã miêu tả cảm tưởng về Marx như sau: “Ai là người theo đuổi mục tiêu dã man? Một con người đen tối đến từ Trier (nơi Marx sinh ra), một con quái vật đích thực. Ông ta không đi, cũng không chạy; ông ta dùng gót chân, nhảy lên một cách điên cuồng, tưởng như muốn chộp lấy cả bầu trời và vứt xuống đất. Ông ta duỗi hai tay ra không trung, với nắm đấm tà ác; sự cuồng nộ của ông ta rất bất bình thường, giống như hàng vạn ma quỷ đang chiếm hữu ông ta từ râu tóc”.

Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth kể lại: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”.

3. Khởi nguyên của đảng cộng sản

Do phong tỏa thông tin và sự khác biệt ngôn ngữ, tuyệt đại đa số người Trung Quốc đều cho rằng Marx là người sáng lập chủ nghĩa cộng sản. Kỳ thực Marx không phải người khởi xướng chủ nghĩa cộng sản, mà khởi nguyên thực sự của đảng cộng sản bắt nguồn từ một tổ chức bí mật ở Châu Âu — hội Illuminati (Quang Chiếu bang). Để giúp con người thế gian triệt để nhận rõ bộ mặt chân thực của ma giáo cộng sản, chúng ta nhất định phải đem khởi nguyên thực sự của nó ra phơi bày. Đối với hầu hết người Trung Quốc, có thể nói đây là một bí mật cực lớn bị che đậy trong một thời gian rất dài — khởi nguyên của đảng cộng sản và nguồn gốc ký hiệu của nó.

Ngày 1 tháng 5 năm 1776, giáo sư luật Adam Weishaupt (1748-1830) thuộc trường đại học Ingolstadt ở Bavaria, miền Nam nước Đức thành lập một tổ chức cực kỳ bí mật mang tính khuynh đảo chính trị — hội Illuminati (Order of Illuminati). Weishaupt là một nhân vật thuộc phái Machiavelli — không từ thủ đoạn nào để đạt được mục đích, do vậy “không từ thủ đoạn” là một đặc điểm cơ bản của hội Illuminati. Lừa dối và dọa nạt cũng trở thành thủ đoạn cơ bản để đạt mục đích.

Ảnh: Adam Weishaupt, người sáng lập hội Illuminati.

Hội kín Illuminati, từ khi thành lập đã là tà ác; từ tôn chỉ lập hội của nó, chúng ta có thể rút ra kết luận này. Cương lĩnh lập hội của Illuminati là: xóa bỏ tài sản tư hữu và quyền thừa kế (tức “cộng sản”); xóa bỏ hôn nhân gia đình và luân lý đạo đức (tức “cộng thê”); xóa bỏ tất cả tín ngưỡng tôn giáo, dùng một “tân tôn giáo” thay thế (tôn giáo mới này dựa trên vô thần luận và chủ nghĩa duy vật); xóa bỏ quốc gia, dùng chủ nghĩa quốc tế thay thế chủ nghĩa yêu nước; cuối cùng xóa bỏ hết thảy trật tự xã hội bằng cách mạng thế giới, và thay thế bằng một trật tự thế giới mới (New World Order) do hội Illuminati khống chế, hoàn toàn độc tài, không có nhân quyền và đạo đức, hơn nữa còn thiết lập một hệ thống mật vụ không đâu không có.

Vì sao nói hội Illuminati là tà ác? Bởi vì nó ngay từ đầu đã phản đối đạo đức truyền thống của nhân loại, phá hoại luân lý và hôn nhân gia đình, lại còn tuyên bố là kẻ thù của tất cả tôn giáo chính thống. Ngay từ khi thành lập, nó đã được định trước là một ma giáo họa loạn thế gian con người.

Ảnh: Biểu tượng hội Fabian (Fabian Society).

Hội Fabian (Fabian Society) thành lập năm 1884 là một tổ chức phân chi của hội Illuminati, từng trợ giúp Lenin, gọi Lenin là “người Fabian vĩ đại nhất”. Biểu tượng của hội này là một con sói đen khoác da một con cừu trắng. Hình tượng sói khoác da cừu này đã phản ánh đặc điểm lừa dối của chủ nghĩa cộng sản hiện đại mà hội Illuminati sáng lập. Bang chủ Weishaupt của Illuminati nói với những người thân tín rằng phải tận sức dùng nghệ thuật lừa dối, nghệ thuật ngụy trang bản thân, nghệ thuật trinh sát người khác và nghệ thuật theo dõi tư tưởng người khác. Ông ta còn dạy thủ hạ cụ thể phải lừa dối như thế nào. Để đánh lừa bên ngoài, hội Illuminati khoác lên hình ảnh của một tổ chức từ thiện, tuyên bố mục đích là khiến nhân loại trở thành một “đại gia đình hạnh phúc và phồn vinh” (“da cừu”), nhờ đó thu hút rất nhiều phần tử trí thức, quan viên chính phủ và nhân viên thần chức trong tôn giáo, v.v., khiến họ ngộ nhận đây là một tổ chức đơn thuần mang tính từ thiện của Cơ Đốc giáo. Sau này đảng cộng sản vận dụng lừa dối và ngụy trang còn khéo léo hơn nữa.

Để che đậy và không để người ta nghi ngờ, hội Illuminati thâm nhập và khống chế hội Tam Điểm (Freemasonry), đồng thời phát triển trong đó. Bởi vậy hội Illuminati là một tổ chức bí mật ký sinh vào hội Tam Điểm thần bí. Hội Illuminati và hội Tam Điểm hỗ trợ nhau độc lập; hội Illuminati không phải là hội Tam Điểm, mà chỉ lấy nó làm công cụ che đậy và phát triển trong đó. Vào lúc đại cách mạng Pháp bắt đầu, nước Pháp có tổng cộng 282 hội quán Tam Điểm (lodge), trong đó 266 hội quán bị hội Illuminati  khống chế. Hội Tam Điểm Đức cũng bị hội Illuminati lật đổ triệt để. Sau đó hội Illuminati còn phát triển thâm nhập vào rất nhiều quốc gia như Áo, Pháp, Hà Lan, Anh quốc, Bỉ, Ý, Thụy Sĩ, Hungary, Nga, thậm chí cả Mỹ, v.v. Tới tận ngày nay nó vẫn tồn tại theo một loại hình thức nào đó, nhưng vượt khỏi phạm vi thảo luận của bài viết này.

Hội viên Illuminati được phân nghiêm ngặt thành các đẳng cấp (xem sơ đồ dưới đây), đại khái phân thành ba loại lớn: sơ cấp (Nursery), trung cấp (Freemasonry – Tam Điểm), cao cấp (Mysteries). Mỗi loại lại phân thành các đẳng cấp khác nhau. Hai loại lớn ở bên ngoài (sơ cấp và trung cấp) tương tự “da cừu”, trong đó hội viên chỉ được biết rằng hội “vì một đại gia đình hạnh phúc của toàn nhân loại”. Chỉ có tiến nhập vào cấp bậc “thần bí” (Mysteries), hội viên mới dần dần được nói cho mục đích thật sự. Điều này cho thấy hội Illuminati vô cùng thận trọng, bởi vì nó biết rằng bản thân nó là tà ác. Thực sự tiến vào được loại cao cấp chỉ là thiểu số, còn đối với các nhân viên bên ngoài chiếm đại đa số mà không biết mục đích thật sự, Weishaupt nói, một mặt họ có thể hư trương thanh thế, mặt khác có thể làm bia đỡ đạn. “Thống nhất chiến tuyến” của đảng cộng sản cũng tương tự như thế.

Ảnh: Tháng 7 năm 1782, sau khi người lãnh đạo hội Tam Điểm các nước triệu tập đại hội bí mật tại ngoại ô Frankfurt, Đức, ý đồ kết cấu tổ chức đẳng cấp cơ bản của hội Illuminati đã được đưa ra.

Ảnh hưởng và thâm nhập của hội Illuminati đối với thế giới là tương đối rộng rãi, nhưng cực kỳ kín đáo. Đại cách mạng Pháp thế kỷ 18, cuộc vận động chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ 19, phong trào cộng sản thế kỷ 20, Công xã Paris, Bolshevik của Lenin, chủ nghĩa xã hội Fabian, và các cuộc vận động mang tính cách mạng lật đổ khác đều do hội Illuminati thao túng sau hậu trường.

“Tuyên ngôn của đảng cộng sản” không phải nguyên tác của Marx, mà lấy văn kiện cơ sở của Đồng minh những người cộng sản để chỉnh lý thành; tư tưởng và quan điểm chủ yếu của nó đều đã có sẵn, đều là của hội Illuminati (“Đồng minh những người cộng sản” là một tổ chức phân chi của hội Illuminati). “Hội Tam Điểm Đại Đông phương”, “Câu lạc bộ Jacobin”, “Hội bình đẳng” của Babeuf, “Đồng minh những người lưu vong”, “Đồng minh những người chính nghĩa”, “Đồng minh những người cộng sản” đều có chung một manh mối. Manh mối này đủ để chứng minh rằng: hội Illuminati đã sáng lập chủ nghĩa cộng sản hiện đại (đảng cộng sản).

Trong thời kỳ đại cách mạng Pháp, Mirabeau (1749-1791) khi ấy là một hội viên Illuminati ở Pháp, được Weishaupt giao trọng trách đưa hội Illuminati thâm nhập nước Pháp và phát triển tại Pháp. Sau đó, hội Illuminati thông qua “Hội Tam Điểm Đại Đông phương” bị khống chế để thành lập “Câu lạc bộ Jacobin”. Còn Robespierre (1758-1794) cũng là một hội viên Illuminati, được Weishaupt bổ nhiệm làm lãnh tụ Jacobin. Đây là người gây ra thời thống trị khủng bố (Reign of Terror) của phái Jacobin trong cách mạng Pháp.

Người ta chỉ biết rằng Babeuf đã lập ra một tổ chức bí mật gọi là “Hội bình đẳng” để tìm kiếm “chủ nghĩa xã hội không tưởng”. Nhưng tình huống chân thực là: Babeuf là một người được Mirabeau phát triển để gia nhập hội Illuminati, sau đó vâng mệnh hội Illuminati để tổ chức “Hội bình đẳng”. Trong thẩm phán trước khi lên đoạn đầu đài, Babeuf đã công khai thừa nhận mình chẳng qua chỉ là thuộc hạ của một tổ chức đứng đằng sau (hội Illuminati). Tư tưởng chủ nghĩa cộng sản mà Babeuf tuyên truyền đều đến từ hội Illuminati, mục đích là sau này đặt định cơ sở lý luận cho “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”.

“Câu lạc bộ Jacobin”, “Hội bình đẳng” của Babeuf,  “Đồng minh những người lưu vong”, “Đồng minh những người chính nghĩa”, “Đồng minh những người cộng sản” thực ra đều là các tổ chức phân chi của hội Illuminati. “Đồng minh những người lưu vong” là do Jacobin biến đổi thành, sau đó các phần tử cấp tiến trong đó tổ chức nên “Đồng minh những người chính nghĩa”, còn “Đồng minh những người chính nghĩa” sau này lại đổi tên thành “Đồng minh những người cộng sản”.

Mirabeau, Robespierre, Babeuf, Bonner Rorty đều là những nhân vật mang tính đại biểu. Marx gọi Mirabeau là “sư tử dũng mãnh của cách mạng”, gọi Babeuf là một người đặt nền móng cho “chính đảng chân chính của chủ nghĩa cộng sản”. Còn Lenin đem tượng lãnh tụ Jacobin Robespierre thờ cúng ngay trong điện Kremlin. Hội Illuminati vì sao chọn Marx làm người chắp bút? Hay là nhắm trúng tư tưởng Sa-tăng giáo của Marx: thù hận đối với Thần và nhân loại? Đây chính là điều hội Illuminati cần. Bởi vì sự xuất hiện của họ là để hủy diệt nhân loại.

4. Nguồn gốc ký hiệu của đảng cộng sản

Trong quá trình thành lập chính quyền, ĐCSTQ mang theo một đặc trưng tương đối điển hình: màu đỏ Xô Viết, hồng quân, hồng kỳ, sao năm cánh đỏ, búa liềm (biểu tượng của đảng). Những đặc trưng này (ký hiệu, phù hiệu, xưng hô) dường như không thể tìm ra xuất xứ và nguồn gốc từ văn hóa truyền thống 5.000 năm của Trung Quốc. ĐCSTQ đã thừa nhận mình là tôn giáo ngoại lai. Kể từ khi thành lập, nó đã đi theo lý luận và thực tiễn của Liên Xô, dựa vào sự nâng đỡ của Liên Xô để lớn lên. Do vậy các ký hiệu, tên gọi này đều đến từ Liên Xô.

Ảnh: Đảng huy của Liên Xô cũ.

Ảnh: Biểu tượng của Sa-tăng giáo.

Ảnh: Biểu tượng của Sa-tăng giáo.

Ảnh: Sao năm cánh ngược, ký hiệu Sa-tăng trên cờ đoàn của ĐCSTQ.

Huy hiệu đảng của Liên Xô cũ là do một ngôi sao năm cánh màu đỏ và búa liềm hợp thành (xem hình bên trên). Ngôi sao năm cánh màu đỏ đối với người Trung Quốc không còn xa lạ gì, ĐCSTQ từng tuyên truyền là nó rất “thần thánh”. Búa liềm là đảng huy của đảng cộng sản. Như đã nói ở trước, đảng cộng sản bắt nguồn từ hội Illuminati, với Marx giữ chức chắp bút, khởi thảo “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” dựa trên văn kiện cơ sở của hội Illuminati. Còn Liên Xô thực hiện lý luận này, thành lập một tổ chức như vậy, hoặc có thể nói là lập ra một chính quyền như vậy. Còn “sao năm cánh đỏ” và “búa liềm” lại có một nguồn gốc thực sự khác với điều người ta nghĩ.

Đảng cộng sản tuyên truyền rằng: “Cờ đảng búa liềm của đảng cộng sản đại biểu công nhân và nông dân, cái búa đại biểu công nhân, còn cái liềm đại biểu nông dân”. Thế nhưng hàm nghĩa thực sự của chúng lại không phải như vậy. Như trước đã nói, hội Illuminati thâm nhập và khống chế hội Tam Điểm, dùng hội Tam Điểm để che chở, do vậy búa liềm trong cờ đảng thực sự đến từ hội Tam Điểm. Trong nghi thức của hội Tam Điểm, “đại sư thợ đá” (Master Mason) tay cầm một chiếc búa, bởi vì búa là công cụ lao động của thợ đá. Kỳ thực, từ “đồng chí” xưng hô giữa những người cộng sản là đến từ hội Tam Điểm, giữa các hội viên cấp 2 của hội Tam Điểm gọi nhau là “đồng chí” (comrade).

Marx xúi giục công nhân bạo động đoạt chính quyền, Lenin nói thành lập chính đảng của “giai cấp công nhân”, đều là dựa vào công nhân, căn bản không đề cập đến nông dân. Nông dân là Mao Trạch Đông đề cập đến “nông thôn bao vây thành thị”, còn đảng huy là đã có từ thời Liên Xô rồi, do đó liềm căn bản không đại biểu cho nông dân. Như vậy liềm đại biểu điều gì? Liềm cũng bắt nguồn từ hội Tam Điểm, đại biểu sự hủy diệt. Trong văn hóa đại chúng của Tây phương, Thần Chết mang theo một lưỡi hái; liềm thực sự đại biểu hủy diệt, đại biểu cái chết.

Ảnh: Thần Chết tay cầm lưỡi hái.

Đảng huy của Liên Xô và ký hiệu Sa-tăng là rất giống nhau. Từ mấy bức hình chúng ta có thể so sánh, ngoài ra còn phát hiện một điểm: “sao năm cánh đỏ” là của giáo hội Sa-tăng, còn “búa liềm” là của hội Illuminati (Tam Điểm). Đây chính là sự kết hợp giữa ma giáo Sa-tăng và hắc bang Illuminati.

Nếu như nói Liên Xô cũ là một tổ chức phân chi của hội Illuminati, thì như vậy ĐCSTQ chính là kế thừa của phân chi này. Đảng kỳ, đảng huy, quốc kỳ, quốc huy và các loại huy chương của ĐCSTQ đều do các biểu tượng của Liên Xô diễn hóa thành. Chỉ là “sao năm cánh” và “búa liềm” được tách nhau ra. Ký hiệu “sao năm cánh ngược” của Sa-tăng xuất hiện trên đoàn kỳ của ĐCSTQ, trở thành biểu tượng của đoàn. Còn “búa liềm” được sử dụng đơn lẻ, trở thành biểu tượng của đảng.

Ngoài ra, ngày mùng 1 tháng 5 hàng năm được gọi là ngày “Quốc tế Lao động”, tuy nhiên chỉ ở quốc gia cộng sản mới thực hành ngày lễ này (ngày Lao Động ở Mỹ là ngày thứ Hai đầu tiên vào tháng 9 hàng năm). Đảng cộng sản giải thích rằng, ngày 1/5 (May Day) bắt nguồn từ cuộc bãi công lớn của công nhân tại Chicago, Mỹ vào ngày 1 tháng 5 năm 1886. Tháng 7 năm 1889, “quốc tế thứ hai” để kỷ niệm ngày này đã tuyên bố ngày 1/5 hàng năm là ngày Quốc tế Lao Động thế giới. Tuy nhiên lý do thực sự là hội Illuminati thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1776, ngày “1/5” thực ra là đảng cộng sản chúc mừng ngày thành lập hội Illuminati. Thế nhưng không thể công khai nói ra lý do này, do đó cộng sản quốc tế mới mượn cớ nêu trên, tức là dùng một lý do khác để che đậy lý do thật sự.

Thực ra, nguyên tắc tổ chức và nghi thức vào đảng của đảng cộng sản cũng đến từ hội Illuminati. Hội Illuminati có kết cấu tổ chức và quân sự hóa hình kim tự tháp, và kể từ khi nhập hội, phải phát thề độc: đem sinh tử giao cấp cho tổ chức, phục tùng thượng cấp vô điều kiện, trung thành với tổ chức;… bảo mật nghiêm ngặt, nếu tiết lộ sẽ chịu trừng phạt nghiêm trọng; định kỳ báo cáo tư tưởng với cấp trên, v.v. Đảng viên cộng sản khi vào đảng cũng phải phát thề độc, thề đem mạng sống giao cấp cho chủ nghĩa cộng sản; trung thành vô hạn với đảng; phục tùng thượng cấp, giữ kín cơ mật của đảng, vĩnh viễn không phản bội đảng. Nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản có rất nhiều là lấy từ hội quy của Illuminati.

Nhưng chỉ có một điểm đặc thù: ĐCSTQ tăng cường nghi thức vào đoàn và vào đội, hơn nữa còn bắt trẻ em phát thề độc gia nhập đoàn thanh niên và đội thiếu niên. Ký hiệu của đội thiếu niên là một bó đuốc và một ngôi sao năm cánh hợp thành (bó đuốc ẩn dụ mồi lửa, tức thế hệ sau). Điều này đại biểu ĐCSTQ khiến trẻ em hiến thân cho ma giáo cộng sản “bất cứ lúc nào”.

Ảnh: Thiếu niên bị bắt buộc đeo khăn quàng đỏ.

Ảnh: Nghi thức tuyên thệ vào đảng của ĐCSTQ.

Sau khi tuyên thệ vào đoàn, thanh niên coi như đã tuyên thệ gia nhập ma giáo Sa-tăng; sau khi phát thệ trước đảng kỳ, người ta chính là đã thề đem sinh mệnh giao cấp cho ma quỷ.

5. Tâm nguyện của nhà tiên tri

Nostradamus vì sao viết cuốn sách tiên tri “Các Thế Kỷ” (Les Centuries), đồng thời lưu lại “Cuốn sách thất lạc” (The Lost Book of Nostradamus) [*] với 80 bức họa? Điều này ẩn chứa tâm tình gì của nhà tiên tri? Trong đó có lo lắng và kỳ vọng gì về tương lai?

Trong “Cuốn sách thất lạc” có 7 bức họa đặc biệt ở gần cuối, và gần như mỗi bức họa đều có một “bánh xe” được vẽ phía trên. “Bánh xe” này rốt cuộc là chỉ điều gì? Trong một bức họa, ông vẽ một con thuyền Pháp, và phía trên con thuyền là một “bánh xe”; còn Nostradamus đang cầm một cuốn sách và đọc dưới chân con thuyền. Cuốn sách, thuyền Pháp, “bánh xe”, giữa chúng có mối liên hệ gì? Trong các bức họa khác, ông còn vẽ một “cung thủ” nhắm vào người phụ nữ đang giơ tay như luyện công, lại còn có “đại dâm phụ” và “con thú”, rốt cuộc là chỉ ai? Nostradamus vì sao phải nhọc tâm như vậy, lưu lại các bức họa này?

Ảnh: Nữ thần Mặt trăng Artemis mang theo “bánh xe” tới nhân gian, trong khi các thiên thể, tinh hệ được trùng tổ, canh tân.

Ảnh: Con thú đầu đỏ xấu xí trong Khải Huyền ghen tỵ trước sự tỏa sáng của Mặt trời Pháp Luân Đại Pháp.

Ảnh: Nostradamus đang đọc “Chuyển Pháp Luân” dưới thuyền Pháp, trên thuyền là “bánh xe” xoay chuyển.

Ảnh: Thanh kiếm trong tay Mars đâm vào “bánh xe” đang xoay chuyển.

Ảnh: Cung thủ giương cung đe dọa người phụ nữ vô tội.

Ảnh: Đại dâm phụ trong Khải Huyền trên đầu đội vương miện, trong tay là sách sự sống của ma quỷ.

Ảnh: Cuốn “thiên thư” đã mất hết chữ và “bánh xe” cũng biến mất trên không trung.

Hàng nghìn năm qua, con người đã kinh qua luân hồi dài đằng đẵng, trải qua đủ loại khổ nạn và cay đắng, chỉ để tìm đường trở về, đợi tới khi Đại Pháp hồng truyền để được cứu độ. Bởi vì sự kiện Chuyển Luân Thánh Vương giáng thế là mối quan tâm lớn nhất trong nền văn minh nhân loại lần này, là mục đích cuối cùng của con người. Do đó cũng như rất nhiều nhà tiên tri khác, Nostradamus đã dùng phương thức đặc sắc của riêng mình để giảng giải và bộc bạch một cách khéo léo. Trong một bức họa, nữ thần Mặt trăng Artemis đang mang “bánh xe” từ trên trời xuống, gợi mở cho người đời rằng: Chuyển Luân Thánh Vương sẽ mang theo “bánh xe” (Pháp Luân) tới truyền Pháp độ nhân. Trong tảng đá của bộ lạc Hopi cũng khắc hình một người cao lớn mang theo chữ “Vạn” (卍) bên trong bánh xe hình tròn, cũng đã hé mở bí mật lớn nhất của văn minh nhân loại lần này.

Ảnh: Vẽ lại hình vẽ khắc trên tảng đá của người Hopi.

Bài viết tới đây, hết thảy đều đã quá rõ ràng. Thực ra, người viết có thể viết được bài này cũng tuyệt không phải là ngẫu nhiên.

Trong một bài thơ tiên tri, Nostradamus viết: “Họ sẽ tới để cứu những quý nhân Đan Mạch, Hướng về thần điện Artemis để cung phụng gia tài”. Sau đây là nguyên nhân chân chính khiến ông viết cuốn sách “Các Thế Kỷ” (tâm nguyện của nhà tiên tri):

Con người không tin sự tồn tại của ma giáo Sa-tăng,
Thế nhưng đại ôn dịch vẫn tới đúng như kỳ hạn.
Năm 2012 tuyệt không phải là ngày tận thế,
Mặc dù khoảng cách đến đại ôn dịch đã không còn xa.

Trước khi đại ôn dịch giáng xuống thế gian,
Sẽ có mấy trận dịch bệnh nhỏ phát sinh cảnh cáo.
Hàng triệu người sẽ biến mất trong dân chúng,
Nhưng ma giáo Trung Cộng vẫn che đậy tình hình.

Trong nỗi sợ hãi khiến người ta nghẹt thở,
Con người sẽ dần dần tỉnh giác và kiếm tìm.
Nhận rõ tồn tại chân thật của ma giáo Sa-tăng,
Từ đó họ đổ xô đi tìm phương thức tự cứu.

Trong hệ Ngân Hà đang vận chuyển này,
Các nhà khoa học sẽ quan sát được “khói lửa vũ trụ”.
Họ sẽ kinh ngạc tột độ khi phát hiện rằng:
Chính Pháp là có thật, quả nhiên là chân thật!

Mars sẽ trở thành thứ bị toàn nhân loại phỉ nhổ,
Đệ tử Đại Pháp sẽ được thế nhân chăm chú nhìn vào.
Bởi vì họ là hy vọng đắc cứu của các dân tộc,
Là hy vọng đắc cứu duy nhất của chúng sinh!!

——D•M

*    *    *

Chú giải:

[*] «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus (The Lost Book of Nostradamus) được phát hiện năm 1994 bởi hai nhà báo người Ý là Enza Massa và Roberto Pinotti tại Thư viện Quốc gia ở Rome, bao gồm 80 bức tranh màu nước, trên bìa ghi năm 1629 với tựa đề “Nostradamus Vatinicia Code”. Bản gốc này chưa từng được Nostradamus công bố, chỉ được truyền lại cho con trai ông và sau đó được dâng tặng Giáo hoàng Urban VIII. Các bức họa trong cuốn sách bao gồm những vật thể mang tính tượng trưng, Giáo hoàng, thiên thần, chữ viết, động vật, dải băng, chiếc kèn, thánh giá, cây nến, v.v. dùng để biểu đạt một ý nghĩa tiên tri nào đó.

Tham khảo tư liệu:

1. Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan, Living Sacrifice Book Co (December 1986).

2. David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004).

3. Gerald B. Winrod, Adam Weishaupt: A Human Devil (California, 1969)

4. Abbe Barreul, Code of the Illuminati, part III of Memoirs Illustrating the History of Jacobinism (New York, 1799)

5. John Robison, Proof of a Conspiracy Against all the Religions and Governments of Europe (New York, 1798)

6. Mark Dice, The Illuminati: Facts & Fictions (The Resistance, San Diego, CA, 2009)

7. Nesta H. Webster, Secret Societies and Subversive Movements (General Books, Memphis, Tennessee, Reprint 2010)

8. Nesta H. Webster, World Revolution: The Plot against Civilization (Boston, 1921).

9. Nesta H. Webster, French Revolution,London (1920)

10. Judth Miller, Occult Theocracy (1933)

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/11/15/78645.html

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-17-chung-ta-lua-chon-nhu-the-nao.html/feed0
Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (10): Mars rốt cuộc là gì?https://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-10-mars-rot-cuoc-la-gi.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-10-mars-rot-cuoc-la-gi.html#respondSun, 01 Jan 2012 09:24:29 +0000https://chanhkien.org/?p=15718Lúc sinh tiền, Nostradamus đã nhiều lần đề cập đến "Mars", và trong những lời tiên tri của mình, ông cũng nhiều lần sử dụng chữ "Mars". Như vậy "Mars" rốt cuộc là gì?

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (10): Mars rốt cuộc là gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[Chanhkien.org]

(10) Mars rốt cuộc là gì?

Lúc sinh tiền, Nostradamus đã nhiều lần đề cập đến “Mars”, và trong những lời tiên tri của mình, ông cũng nhiều lần sử dụng chữ “Mars”. Như vậy “Mars” rốt cuộc là gì? Trong lời tiên tri nổi tiếng về “tháng 7 năm 1999” (Các Thế Kỷ X, Khổ 72), Nostradamus viết:

Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

Bài thơ này đã được cao nhân phá giải là chỉ cuộc đàn áp Pháp Luân Công tại Trung Quốc bắt đầu ngày 20/7/1999, trong đó “Mars” ở đây là chỉ Marx. Marx là người khởi xướng chủ nghĩa cộng sản, do đó “Mars” cũng ẩn dụ chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản.

Trong Các Thế Kỷ I, Khổ 14, Nostradamus cũng viết:

Mars đe dọa chúng ta với vũ lực của chiến tranh
Và sẽ khiến máu chảy bảy mươi lần.
Tăng lữ sẽ vừa được tán tụng vừa bị xỉ vả,
Bởi những kẻ không muốn học hỏi gì từ họ.

Khi viết đến phần này, trong tâm tôi rất cảm khái. Ba tháng trước, trong một lần lên mạng, tôi đọc được mấy bài nói về Marx và Sa-tăng giáo, nên mới đem bài viết lưu lại. Sau đây là hai bài rất có giá trị và ý nghĩa để người ta liễu giải Marx và khởi nguyên chủ nghĩa cộng sản, do vậy rất có tính thuyết phục khi giải thích chương này.

Bài thứ nhất là “Bình sinh không để người ta biết của Marx”, tác giả: Long Duyên. Bài này căn cứ phần miêu tả về sinh hoạt và công tác của Marx trong cuốn sách “Marx và Sa-tăng” (Marx and Satan) của Von Richard Wurmbrand rồi chỉnh lý mà thành. Trong bài trần thuật khá hệ thống về sinh hoạt và bản chất tín đồ Sa-tăng giáo không để người ta biết của Marx.

Bài thứ hai là “Con đường thành ma của Karl Marx”, tác giả: Finder. Bản thành văn tham khảo các bài “Marx và Sa-tăng” (Marx and Satan), “Sự sùng bái Marx bắt nguồn từ Sa-tăng giáo” (The Cult of Marx – its origin in Satanism), v.v. Trong đó trích dẫn các tác phẩm của Marx, Engels có thể được tham chiếu tại trang www.marxists.org. Các trích dẫn kèm theo đối chiếu tiếng Anh và ghi rõ xuất xứ cùng đường dẫn.

Người viết xin giới thiệu với quý độc giả hai bài viết này để thuyết minh Mars rốt cuộc là gì?

*  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *

“Bình sinh không để người ta biết của Marx”

Người Trung Quốc chúng ta từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, tuy nhiên bản thân chúng ta lại không hề chân chính hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Moscow có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn giấu giếm điều gì đây?

Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình sinh không để nhiều người biết của Marx.

Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật sư người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo. Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích của Marx rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào ông ta.

Tuy nhiên trong thời gian học đại học, tính cách Marx biến đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta trở nên bất an và đau khổ.

Với sự giàu có của gia đình, trong thời gian Marx học đại học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx và Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn Marx, người vừa cao vừa xinh xắn, là đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai). Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh), và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ.

Theo tôn giáo Tây phương giảng, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã (fallen angel, hay Lucifer), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù hận và tật đố với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thượng Đế, đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thượng Đế đã sáng tạo ra loài người).

Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự định học tập thơ ca và hí kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù hận của Marx đối với Thần và nhân loại. Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt vọng của bản thân, Marx viết: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” (Nothing but revenge is left to me!), “Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao, Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp, Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…” (I shall build my throne high overhead, Cold, tremendous shall its summit be. For its bulwark– superstitious dread, For its Marshall–blackest agony.) Trong bài thơ này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), Marx viết: “Rồi ta sẽ quăng đôi găng tay sắt lên, Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới, Dưới người lùn khổng lồ khóc thút thít, Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta. Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải hoàn, Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo Hóa.” (Then the gauntlet do I fling, Scornful in the World’s wide open face. Down the giant She-Dwarf, whimpering, Plunges, cannot crush my happiness. Like unto a God I dare, Through that ruined realm in triumph roam. Every word is Deed and Fire, And my bosom like the Maker’s own.) Tác giả bài thơ này đã có được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể thấy được từ đó.

Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, viết: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.

Có một điểm cần phải chỉ rõ ở đây, đó là thành viên giáo hội Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần, mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một danh xưng nghi thức tôn giáo của Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for Satan [2]”), Marx không phủ nhận sự sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].

Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth nói: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”. Theo phân tích, nghi thức cầu khấn của Marx không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo), mà rất có thể là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không phải là một người vô thần.

Tháng 3 năm 1854, người con trai Edgar của Marx đã xưng hô như sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My dear devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo chính là gọi người mình thương yêu như vậy, liệu có thể là trùng hợp chăng? Không chỉ có vậy, người con rể yêu quý Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một người bạn thân khác của Marx, cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê ly”.

Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư bản trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Lúc may mắn thắng được, tháng 6 năm 1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon Phillips rằng ông ta thắng được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].

Marx được trợ giúp một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó già (old dog) đó chết, thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau: “Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy vọng ông ta vạ đến nơi rồi”. Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi là “con chó già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không phải con chó già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có thể được nhiều hơn”.

Marx và Engels đều là phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân đạo.

Giờ lại xem thái độ của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels: “Hai giờ trước, tôi đã nhận được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống, điều mà tôi cần không phải là một người đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi nhất định phải lên đường đến Trier để tiếp thu di sản (ghi chú của người viết: Trier là nơi Marx sinh ra).” Điều mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ tang.

Marx không bao giờ thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh được sáu người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người con gái và một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor từng nói khi Engels sắp chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu nghiêm trọng [1].

Marx đối với người thân của chính mình còn tuyệt tình như vậy, đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai cũng biết Marx là người Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù hận người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc, người Do Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi người Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy diệt trong cơn bão táp cách mạng thế giới.

Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác, Marx tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…

Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô một phong thư gốc của Marx tìm thấy trong kho lưu trữ mật. Trong thư đã chứng thực Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng là gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp một tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên quan đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].

Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa trang này.

Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta mới nói dối mình là người vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng sản, dùng vô thần luận, duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo cộng sản, để mong đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.

Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản”. Không ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ điều này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.

Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ lớn phi thường. May có “Cửu bình cộng sản đảng” khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.

Tham khảo tư liệu:

[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng), Living Sacrifice Book Co (December 1986).

[2] David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa cộng sản.

[3] Rolv Heuer trong cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.

*  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *

“Con đường thành ma của Karl Marx” (trích bộ phận quan trọng)

(Trích đoạn)

Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:

Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa và tra tấn của định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra đi không trở lại!
Ta không còn lại gì ngoài thù hận!

Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên.

Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen như chết và câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.

Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có thể được tra cứu tại:

http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse11.htm

(Trích đoạn)

Vào thời học sinh, Marx đã viết một kịch bản, có lẽ là đáp án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”. Để hiểu được đầu đề này thì phải biết sự việc như sau:

Sa-tăng giáo có một loại nghi thức tế lễ gọi là “tụ hội đen tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của Sa-tăng giáo tiến hành tụng niệm vào lúc nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược và đặt lên giá cắm nến, trong khi thầy tế mặc ngược áo trường bào, nhìn vào cuốn sách cầu nguyện và tụng niệm, nhưng thứ tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao gồm thánh danh của Thần, Chúa Jesus, và Đức Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một cây thập tự giá được treo ngược hoặc bị giẫm ở dưới chân; một vật thâu trộm thánh khí của giáo đường được khắc tên của Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong “tụ hội đen tối” này, một bộ Thánh Kinh sẽ bị thiêu hủy. Tất cả những người có mặt sẽ phát thệ phạm vào bảy tội lớn trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, đồng thời thề vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục cuồng hoan.

“Oulanem” chính là đem Thánh danh “Emmanuel” ra viết bậy bạ. “Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus trong Thánh Kinh, theo tiếng Hebrew thì có nghĩa là “Thần đồng tại với chúng ta”. Phép thuật hắc ám cho rằng loại đảo ngược này là hữu hiệu.

Tác phẩm “Oulanem” của Marx có thể tra cứu trên mạng Marxist:

http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse21.htm

Dù sao đây cũng chỉ là màn kịch đầu tiên (Act I), nội dung đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại sao vậy?

(Trích đoạn)

Để lý giải kịch bản “Oulanem”, chúng ta nhất định phải dựa vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx. Trong bài thơ “Người diễn tấu” (The Fiddler), Marx viết:

Sao vậy! Ta lao xuống, lao xuống mà không trượt
Thanh kiếm đen máu của ta đâm vào tâm hồn ngươi.
Thượng Đế khéo léo kia không muốn hay là quản,
Nó nhảy vào não từ đám sương đen của địa ngục.

Tới khi trái tim mê mẩn, tới khi cảm xúc dâng trào:
Ta đã bán mình cho ma quỷ Sa-tăng.
Ngài viết các ký hiệu, bấm thời gian cho ta,
Ta chơi khúc quân hành Thần Chết nhanh và rảnh.

Đoạn này càng thể hiện rõ hơn nữa, Marx đã thừa nhận mình có khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ sung thêm: Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta” [1])

Bản tiếng Anh tác phẩm “Người diễn tấu” (The Fiddler) của Marx có thể được tham chiếu tại:

http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/marx/1837-wil.htm

Những câu này mang theo một hàm nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực hiện thuật phù thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ thăng cấp trả tiền và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau đó, khi người này chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.

Dưới đây là trích dẫn kịch bản “Oulanem” của Marx:

Họ cũng là Oulanem, cũng là Oulanem!
Có cái chết vang trong cái tên đó, vang lên
Cho tới khi người ti tiện mang nó kết thúc.
Nhưng đợi xem, ta đang có nó! Rõ như không khí,
Chắc như xương ta, nó thăng lên từ linh hồn ta.

Nhưng ngươi, trong cánh tay trẻ khỏe của ta,
Và chúng xoắn lên điên cuồng ở trước ngực.
Trong bóng đêm, vực không đáy mở ra và nuốt trọn chúng ta,
Nếu ngươi chìm xuống, hãy cười, ta sẽ theo ngươi,
Và thì thầm với ngươi: “Đi xuống! Đi xuống với ta! Đồng chí!”

Trong Thánh Kinh mà Marx học ở đại học nói ma quỷ bị một vị thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải Huyền, 20:3). Vực không đáy này là dành cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx muốn đưa toàn nhân loại vào trong địa ngục này.

Trong kịch bản này, ai đang đại biểu cho lời thoại của Marx? Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng ta có lý do để nghĩ rằng: Ông ta muốn ném toàn nhân loại vào ngục không đáy, còn bản thân ông ta đang cười những người bị thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ nghi lễ thăng cấp của giáo hội Sa-tăng ra, trên thế giới không có bất cứ một loại lý niệm nào như vậy.

Trong kịch bản “Oulanem”, khi Oulanem chết, Marx mô tả:

Tất cả đã mất! Thời giờ đã mãn, và thời gian
Dừng lại. Vũ trụ tầm thường này sụp đổ.
Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên,
Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.

Marx thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Ông ta thích trích dẫn câu nói đó.

Hết thảy những thứ này là chỉ điều gì? Công nhân, nông dân, trí thức, thương nhân? Người tin chủ nghĩa cộng sản? Hay là toàn nhân loại? (Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có ma quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])

(Trích đoạn)

Thành viên Sa-tăng giáo không phải là người duy vật, họ tin rằng có sự sống sau khi chết. … cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma quỷ, “vĩnh hằng” đồng nghĩa với “khổ hình”. Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng Chúa Jesus: “Hỡi Con Đức Chúa Trời, chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng? Ngài đến đây để hình phạt chúng tôi trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29). Marx cũng có cùng một loại bất an như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:

Vĩnh hằng! Nó là nỗi đau vĩnh hằng,
Cái chết không thể tưởng tượng, đo lường được!
Một mưu kế tà ác được trù tính để chế nhạo chúng ta,
Không gì ngoài máy đồng hồ, cỗ máy câm lặng rung lên
Trở thành lịch — trò hề của thời gian; trở thành,
Chỉ là thứ gì đó nhờ đó ít nhất có thể xảy ra;
Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!

(Trích đoạn)

Khi Marx viết “Oulanem”, cậu thanh niên trẻ này mới chỉ gần 18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả một đời của ông ta đã thể hiện rất rõ ràng. Marx không hề ảo tưởng vì nhân loại, vì giai cấp vô sản, hoặc vì chủ nghĩa xã hội mà phục vụ. Ông ta muốn hủy diệt cả thế giới, làm rung động cả thế giới, lấy đau đớn, rối loạn làm cơ sở để dựng ngai của ông ta.

Lời kết:

Mars, chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản, là tổ chức hữu hình mà Sa-tăng kiến lập tại thế gian con người. Kể từ khi sinh ra, nó đã lấy phản đối tín ngưỡng chính thống và văn hóa truyền thống làm mục đích, lấy phá hoại luân lý chính thường và đạo đức nhân loại làm căn bản, giết người hại mệnh, họa loạn thế gian. Phàm là người gia nhập tổ chức này, thì chính là thành viên của ma giáo (bị nhận ấn ký), chắc chắn phải uống rượu thịnh nộ của Thượng Đế, trở thành vật hy sinh của ma giáo. Bởi vậy xóa thú ấn, thoái xuất ma giáo cộng sản là điều rất quan trọng để được tân sinh.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Xem thêm:

>> Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nào

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/24/69461.html

The post Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (10): Mars rốt cuộc là gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/giai-ma-cac-the-ky-cua-nostradamus-10-mars-rot-cuoc-la-gi.html/feed0
Video: Tiên tri của Nostradamus về năm 2012https://chanhkien.org/2011/12/video-tien-tri-cua-nostradamus-ve-nam-2012.htmlhttps://chanhkien.org/2011/12/video-tien-tri-cua-nostradamus-ve-nam-2012.html#respondSun, 25 Dec 2011 18:34:12 +0000https://chanhkien.org/?p=15623Tiên tri của Nostradamus về năm 2012

The post Video: Tiên tri của Nostradamus về năm 2012 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9979

The post Video: Tiên tri của Nostradamus về năm 2012 first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/12/video-tien-tri-cua-nostradamus-ve-nam-2012.html/feed0
Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (1)https://chanhkien.org/2011/07/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky.html#respondSat, 30 Jul 2011 11:10:26 +0000https://chanhkien.org/?p=12737Những ứng nghiệm lịch sử từ cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» của Nostradamus có thể nói là rất nhiều.

The post Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

[Chanhkien.org] Những ứng nghiệm lịch sử từ cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» của Nostradamus có thể nói là rất nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đưa ra vài ví dụ để phân tích, bao gồm đại cách mạng Pháp phát sinh, Vua Pháp và Hoàng hậu bị xử tử, sự nổi dậy của Napoleon, Hitler và Đại Thế chiến II, ném bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki cũng như sự suy bại của chủ nghĩa cộng sản, v.v. Dưới đây là một vài ví dụ để độc giả tham khảo.

Đại cách mạng Pháp

Liên quan đến đại cách mạng Pháp và sự kiện Vua Louis XVI bị đưa lên máy chém, «Các Thế Kỷ» miêu tả như sau:

Các Thế Kỷ IX, Khổ 20

Nguyên văn tiếng Pháp:

De nuict viendra par la forest de Reines,
Deux pars voltorte Herne la pierre blanche,
Le moine noir en gris dedans Varennes
Esleu cap. cause tempeste, feu, sang tranche.

Tiếng Anh:

By night will come through the forest of Reines,
Two couples roundabout route Queen the white stone,
The monk king in gray in Varennes:
Elected Capet causes tempest, fire, blood, slice.

Tiếng Việt:

Màn đêm sẽ xuyên qua cánh rừng ở Reines,
Cặp vợ chồng chạy quanh co, Hoàng hậu đá trắng,
Vị Vua tu hành trong bộ áo xám tại Varennes:
Capet được bầu gây ra bão, lửa, máu và lát cắt.

Bài thơ này miêu tả cảnh Vua Louis XVI của Pháp bị đưa lên đoạn đầu đài; nước Pháp lúc ấy đang ở đêm trước của cảnh nước sôi lửa bỏng. Ngày 20 tháng 6 năm 1771, Vua Louis XVI phản đối cách tân cùng Hoàng hậu Mary, một người mặc áo xám, một người mặc áo trắng, đã đào tẩu từ hậu cung và dự định hội hợp với quân đội của họ, nhưng trên đường có người nhận ra họ; họ bị bắt tại Varennes, cuối cùng bị đưa lên đoạn đầu đài. Vua Louis XVI yếu ớt bất tài, được người ta gọi là “nhà Vua tu hành”; ông đã được Quốc hội tuyển chọn. Đại cách mạng Pháp là thời kỳ rất hỗn loạn, do đó “lửa”, “máu” đều là những miêu tả thích đáng, còn “lát cắt” là chỉ máy chém.

Có thể nói gần như mỗi câu thơ tiên tri trong «Các Thế Kỷ» chỉ có thể lý giải được sau khi sự việc phát sinh; và sau khi đã hiểu rõ ngọn nguồn, người ta mới kinh hoàng trước tài miêu tả của Nostradamus. Trong một thời gian dài, người ta càng ngày càng tin vào độ chính xác đến kinh người trong những lời tiên tri của Nostradamus, thế nhưng nguyên nhân khiến ông có năng lực tiên tri vị lai như vậy thì vẫn khiến người ta phân vân. Trong rất nhiều dự ngôn trên thế giới, dự ngôn của Nostradamus không chỉ miêu tả sự biến hóa trong nhiều thế kỷ, mà còn rất sinh động và chi tiết.

Danh tự, thân thế và cuộc đời chìm nổi của Napoleon

Các Thế Kỷ VIII, Khổ 1

Nguyên văn tiếng Pháp

PAv, nay, loron plus feu qu’à sang sera,
Laude nager, fuir grand aux surrez.
Les agassas entrée refusera,
Pampon, Durance les tiendra enserrez.

Tiếng Anh:

Pau, Nay, Loron will be more of fire than blood,
to swim in praise, the great one to flee to the confluence (of rivers).
He will refuse entry to the magpies
Pampon and the Durance will keep them confined.

Tiếng Việt:

Pau, Nay, Loron sẽ có nhiều lửa hơn máu,
Để bơi trong tán tụng, kẻ vĩ đại trốn qua ngã ba sông.
Hắn sẽ từ chối lối vào của những kẻ ba hoa
Pampon và Durance sẽ khiến họ bị giam cầm.

Trong bài thơ trên, Nostradamus đã tiên tri về “Pau, Nay, Loron sẽ có nhiều lửa hơn máu”. “Pau, Nay, Loron” là ba tiểu trấn ở miền Tây nước Pháp, hợp lại thành tên của “Napoleon”. “Sẽ có nhiều lửa hơn máu” ám chỉ ông sẽ mang tới chiến tranh. Ngoài ra sở trường về sử dụng pháo binh của Napoleon chính là đổi mởi trong chiến thuật quân sự thời bấy giờ, nhưng phương thức tác chiến này rất khác với sử dụng binh khí trong thời Nostradamus sống, do đó ông đã dùng “sẽ có nhiều lửa hơn máu” để khái quát.

Các Thế Kỷ IV, Khổ 54

Nguyên văn tiếng Pháp:

Du nom qui oncques ne fut au Roy Gaulois,
Iamais ne fust vn fouldre si craintif,
Tremblant l’Italie l’Espagne & les Anglois,
De femme estrangers grandement attentif.

Tiếng Anh:

Of the name which no Gallic King ever had
Never was there so fearful a thunderbolt,
Italy, Spain and the English trembling,
Very attentive to a woman and foreigners.

Tiếng Việt:

Cái tên mà không vị Vua Pháp nào từng có
Chưa từng có tiếng sét nào sợ hãi đến như vậy,
Ý, Tây Ban Nha và người Anh run sợ,
Rất chú tâm tới một phụ nữ và những người ngoại quốc.

Đây chính là miêu tả Napoleon từ bình dân lên làm Hoàng đế, tên của ông khác với bất cứ vị Vua Pháp nào trong lịch sử. Cái tên “Bonapartere” khiến cả Châu Âu run sợ, thế nhưng vợ và tình phụ của Napoleon thì lại không phải là người Pháp bản địa.

Các Thế Kỷ I, Khổ 32

Nguyên văn tiếng Pháp:

Le grand empire sera tost translaté
En lieu petit, qui bien tost viendra croistre
Lieu bien infime, d’exigué comté.
Ou au milieu viemdra poser son Sceptre.

Tiếng Anh:

The great Empire will soon be exchanged
for a small place, which soon will begin to grow.
A small place of tiny area
in the middle of which he will come to lay down his scepter.

Tiếng Việt:

Đế chế vĩ đại sẽ sớm bị đổi
Thành một nơi nhỏ sẽ sớm bắt đầu phát triển.
Một nơi nhỏ của một khu vực bé nhỏ
Ở giữa nơi mà hắn sẽ tới để đặt cây quyền trượng.

Napoleon là một thiên tài quân sự hiếm thấy. Chiến thuật sáng tạo, dũng khí và nghị lực khiến ông một bước lên mây, từ một sĩ binh lên tướng quân, rồi lại từ tướng quân lên Hoàng đế. Sự hùng mạnh quân sự của Pháp đã một lần khiến toàn cõi Châu Âu run sợ. Thế nhưng thịnh cực thì tất suy; đầu năm 1814, Napoleon đại bại và bị lưu đày đến đảo Elba, đây chính là “Đế chế vĩ đại sẽ sớm bị đổi thành một nơi nhỏ”; thế nhưng sau đó ông chạy trốn khỏi đảo và trở về Paris, chính là “sẽ sớm bắt đầu phát triển”. Cuối cùng, sau khi chiến bại trong trận Waterloo, ngày 22 tháng 6 năm 1815, Napoleon bị bức bách thoái vị, sau đó bị quân đồng minh lưu đày ra đảo St. Helena, “Một nơi nhỏ của một khu vực bé nhỏ”. Napoleon sống nốt quãng đời còn lại ở đây và chết bệnh khi mới chỉ 52 tuổi. Do đó Nostradamus đã đề cập: “Ở giữa nơi mà hắn sẽ tới để đặt cây quyền trượng”.

Danh tự của Hitler

Các Thế Kỷ II, Khổ 24

Nguyên văn tiếng Pháp:

Bestes farouches de faim fleuues tranner,
Plus part du camp encontre Hister sera,
En cage de fer le grand fera trainner,
Qunad Rin enfant Germain obseruera.

Tiếng Anh:

Beasts ferocious from hunger will swim across rivers:
The greater part of the region will be against the Hister,
The great one will cause it to be dragged in an iron cage,
When the German child will observe nothing.

Tiếng Việt:

Những con thú đói hung ác sẽ bơi vượt qua sông:
Phần lớn hơn của cả vùng sẽ chống lại Hister,
Kẻ hùng mạnh sẽ khiến nó bị kéo vào một chiếc lồng sắt,
Khi những người con của nước Đức sẽ không quan sát gì.

“Hister” ở đây chỉ đích thị “Hitler”, và câu cuối cùng đã chỉ rõ tên nước Đức. Nghe nói vào quãng năm 1939, Hitler đã tự mình phát hiện lời tiên tri này là nói về mình, sau đó ông ta đã tuyên truyền rộng rãi để xác lập uy danh cá nhân.

Hiroshima và Nagasaki bị ném bom nguyên tử

Các Thế Kỷ II, Khổ 6

Nguyên văn tiếng Pháp:

Aupres des portes & dedans deux citez
Seront deux fleaux onc n’apperceu vn tel,
Faim dedans peste, de fer hors gens boutez,
Crier secours au grand Dieu immortel.

Tiếng Anh:

Near the gates and within two cities
There will be two scourges the like of which was never seen,
Famine within plague, people put out by steel,
Crying to the great immortal God for relief.

Tiếng Việt:

Gần những cánh cổng và trong hai thành phố
Sẽ có hai tai họa theo cách chưa từng được thấy,
Nạn đói trong bệnh dịch, con người bị loại bỏ bởi thép,
Khóc trước Thượng Đế bất tử để cầu giải thoát.

Năm 1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật, tạo thành tai họa chưa từng được thấy. Trong thời đại “sắt thép” Đại Thế chiến II, con người đã bị bom nguyên tử “loại bỏ”. “Khóc trước Thượng Đế bất tử để cầu giải thoát” là biểu hiện thường tình khi người ta trong tai nạn.

Lời tiên tri về đảng cộng sản

Mặc dù trong hơn 400 năm qua, các nghiên cứu về tiên tri của Nostradamus có rất nhiều, và người ta đều biết dự ngôn của ông là siêu việt thời-không, luôn luôn ứng nghiệm; thế nhưng, hơn 400 năm sau, sau khi sự kiện phát sinh thì người ta mới cảm thán trước tài tiên đoán của nhà tiên tri. Dưới đây là một số bài tiên tri nói về thời đại ngày nay:

Các Thế Kỷ I, Khổ 14

Nguyên văn tiếng Pháp:

Mars nous menasse par sa force bellique,
Septante fois fera le sang espandre,
Auge & ruyne de l’Ecclesiastique,
Et plus ceux qui d’eux rien voudront entendre.

Tiếng Anh:

Mars threatens us with the force of war
and will cause blood to be spilt seventy times.
The clergy will be both exalted and reviled moreover,
by those who wish to learn nothing of them.

Tiếng Việt:

Mars đe dọa chúng ta với vũ lực của chiến tranh
Và sẽ khiến máu chảy bảy mươi lần.
Tăng lữ sẽ vừa được tán tụng vừa bị xỉ vả,
Bởi những kẻ không muốn học hỏi gì từ họ.

Theo nghĩa rộng, bài thơ này có thể là nói về sự suy yếu của tôn giáo thời cận đại. Khoa học không thể chứng thực sự tồn tại của Thần, thế nhưng lại có thể cấp cho người ta lợi ích vật chất. Nó khiến người ta không còn tin vào Thần nữa, khiến giới tôn giáo ngày càng tai tiếng, khiến họ mất uy tín trong mắt công chúng, và khiến tín ngưỡng tôn giáo trở thành hình thức. Còn có một giải thích khác không xung đột với giải thích trên, mà càng chỉ ra cụ thể hơn. Trong «Các Thế Kỷ», “Mars” thường được dùng để chỉ “Marx”, cách dùng từ này cũng tương tự với dùng “Hister” để đại diện “Hitler” như đã nói ở trên. Điều này càng minh xác chỉ ra rằng tư tưởng trung tâm chủ nghĩa “Marx” của đảng cộng sản là phá hoại tôn giáo. Đảng cộng sản được thành lập ở Liên Xô từ năm 1917, đến năm 1987 trải qua cải tổ ở Liên Xô, tổng cộng duy trì được 70 năm. Tới năm 1991, Liên Xô chính thức giải thể. Trong 70 năm này, đảng cộng sản đã phát động rất nhiều đợt trấn áp đẫm máu, “Và sẽ khiến máu chảy bảy mươi lần” ở đây là đại diện cho con số ấy.

Đảng cộng sản chủ trương “thuyết vô thần”; họ giả vờ cho phép một số tôn giáo tồn tại, nhưng thực tế lại trấn áp và bức hại tôn giáo không chùn tay. Ví dụ phía Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chỉ định Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Đạt Ma ở trong nước, thế nhưng người Tây Tạng chỉ nhìn nhận một mình Đại Lai Lạt Ma lưu vong ở hải ngoại. ĐCSTQ nâng đỡ “Giáo hội ái quốc”, nhưng lại bức hại nghiêm trọng những người tín ngưỡng Cơ Đốc giáo chân chính. “Tăng lữ sẽ vừa được tán tụng vừa bị xỉ vả, Bởi những kẻ không muốn học hỏi gì từ họ”, nghĩa là tự do tôn giáo duy trì trên bề mặt chỉ là giả tượng, còn thực tế là bức hại tôn giáo.

Nostradamus tiên tri rất nhiều về nước Pháp và Châu Âu, thế nhưng ông cũng nhiều lần đề cập đến Châu Á và phương Đông. Vào thời đại mà ông sống thì Châu Mỹ còn chưa được phát hiện, thế nhưng ông đã dự kiến về vai trò của Nhật Bản tại Đông phương trong Đại Thế chiến II, cũng như tình huống về xã hội thông tin như ngày nay.

Cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989

Các Thế Kỷ IV, Khổ 49

Nguyên văn tiếng Pháp:

Deuant le peuple sang sera respandu,
Que du haut ciel ne viendra eslongner :
Mais d’vn long-temps ne sera entendu,
L’esprit d’vn seul le viendra tesmoigner.

Tiếng Anh:

Before the people blood will be shed,
Only from the high heavens will it come far:
But for a long time of one nothing will be heard,
The spirit of a lone one will come to bear witness against it.

Tiếng Việt:

Ngay trước mặt nhân dân, máu sẽ chảy,
Chỉ từ trên Thiên Đường nơi cao, nó sẽ đi xa:
Nhưng trong một thời gian dài sẽ không nghe thấy gì,
Tinh thần của một người cô độc sẽ làm bằng chứng về nó.

Bài thơ này khiến người ta liên tưởng đến cảnh tượng ngày 4/6/1989 trên quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, khi sinh viên và dân chúng Trung Quốc bị thảm sát dã man. Mấy chục năm sau, những tiếng hô hào dân chủ của học sinh, sinh viên năm nào đã dần rơi vào quên lãng, thế nhưng hình ảnh Vương Duy Lâm một mình chặn xe tăng, “Tinh thần của một người cô độc sẽ làm bằng chứng về nó”, vẫn được chiếu lại trên TV như một ký ức của nhân dân toàn thế giới tự do.

Tại phương Tây, Nostradamus là nhà tiên tri có sức ảnh hưởng lớn nhất, thế nhưng hiện tại rất nhiều người mặc dù đang bàn luận về dự ngôn của ông nhưng vẫn chưa tìm được đáp án.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2005/2/28/31170.html

The post Những ứng nghiệm trong lịch sử của cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/nhung-ung-nghiem-trong-lich-su-cua-cuon-sach-tien-tri-cac-the-ky.html/feed0
Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamushttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-cac-the-ky-cua-nostradamus.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-cac-the-ky-cua-nostradamus.html#respondThu, 07 Jul 2011 05:51:55 +0000https://chanhkien.org/?p=12536Tác giả: Đồng Tâm [ChanhKien.org] Tán Nặc Tra Đan Mã Tư «Chư Thế Kỷ» Tiên tri tiên giác trước kỳ thư, Đại trí đại huệ nhất dự ngôn. Thiên niên lưu chuyển tại trần thế, Vạn sự ứng nghiệm kinh nhân gian. Pháp quốc cách mệnh như kỳ diễn, Nhất chiến nhị chiến ngao chiến […]

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đồng Tâm

[ChanhKien.org]

Tán Nặc Tra Đan Mã Tư «Chư Thế Kỷ»

Tiên tri tiên giác trước kỳ thư,
Đại trí đại huệ nhất dự ngôn.
Thiên niên lưu chuyển tại trần thế,
Vạn sự ứng nghiệm kinh nhân gian.
Pháp quốc cách mệnh như kỳ diễn,
Nhất chiến nhị chiến ngao chiến hoan.
Mã Nhĩ Tư truyền vô thần luận,
Lục Tứ huyết nhiễm cửu châu oan.
Thế sự luân hồi linh như thị,
Bất thắng mai cử tại nhãn tiền.
Nhất cửu cửu cửu chú đại thác,
Khủng bố Đại vương hàng nhân gian.
Phỉ báng Phật Pháp tội vô xá,
Trọc lãng phiên thiên vũ trụ yên.
Hủy diệt nhân loại hại Chủ Phật,
Nhân gian thê mê mạn độc yên.
Dao ngôn phỉ báng thế nhân mộng,
Phô thiên cái địa tận hoang ngôn.
Trảo bộ tín chúng sính thiết huyết,
Tứ vô kỵ đạn tiễn nhân quyền.
Hồng sắc khủng bố mạn hoàn vũ,
Tà ác khắc độc ám vô thiên.
Chúng sinh tội nghiệp như thử đại,
Chủ Phật cứu chúng nhất thân đam.
Ác nhân bại hoại chúng Thần khí,
Trọng trọng nguy cơ nhân loại gian.
Đại nan lâm đầu lộ hà tại,
Ác đảng y cựu tát hoang ngôn.
Phân phân nhương nhương linh quang hiện,
Thiên tai nhân họa cảnh nhân hoàn.
Hồi đầu tái khán «Chư Thế Kỷ»,
Đại Pháp cứu độ tảo dự ngôn.
Hoán tỉnh trần mộng thần công hiện,
Pháp đồ chân tướng xứ xứ truyền.
Kỳ thư lũ lũ hiển linh nghiệm,
Nhân loại ứng giác Thần Phật liên.
Tân thiên tân địa tân vũ trụ,
Khí tượng vạn thiên tân khôn càn.
Kiên thủ lương tâm chính tà biện,
Trọc thế thanh lưu quá kiếp quan.
Hồng trần hôn hôn vạn sự loạn,
Thối xuất tà đảng vô ưu phiền.

Tạm dịch:

Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus

Giác ngộ tiên tri cuốn kỳ thư,
Đại trí đại huệ bộ dự ngôn.
Ngàn năm lưu chuyển tại trần thế,
Vạn sự ứng nghiệm kinh nhân gian.
Đại cách mạng Pháp y lời đoán,
Hai cuộc thế chiến thật hoang tàn.
Mars thừa cơ truyền vô thần luận,
Thảm sát Lục Tứ cửu châu oan.
Thế sự luân hồi sao linh nghiệm,
Biết bao sự việc tại nhãn tiền.
Năm chín mươi chín thành đại thác,
Đại vương Khủng bố xuống thế gian.
Phỉ báng Phật Pháp tội khó chuộc,
Sóng đục cuồn cuộn vũ trụ mang.
Hủy diệt nhân loại hại Chủ Phật,
Cõi người ảm đạm độc tràn lan.
Phỉ báng lừa dối người trong mộng,
Rợp trời dậy đất nổi hoang ngôn.
Lôi kéo người theo khoe ý chí,
Không còn kiêng nể phạm nhân quyền.
Hồng sắc khủng bố trùm vũ trụ,
Tà ác khắc nghiệt thêm bạo tàn.
Chúng sinh tội nghiệp sao trả hết,
Phật Chủ gánh hết chỉ một thân.
Kẻ ác bại hoại chúng Thần hủy,
Nguy cơ chồng chất nhân loại nan.
Đại nạn sắp đến đường đâu nữa,
Ác đảng tiếp tục rải hoang ngôn.
Ấm ầm tới tấp linh quang hiện,
Thiên tai nhân họa cảnh thế nhân.
Quay đầu xem lại «Các Thế Kỷ»,
Đại Pháp cứu độ sớm dự ngôn.
Thức tỉnh con người thần công hiện,
Chân tướng Đại Pháp xứ xứ truyền.
Kỳ thư bao lần hiển linh nghiệm,
Nhân loại tỉnh giác Thần Phật xem.
Tân thiên tân địa tân vũ trụ,
Cảnh sắc tráng lệ đến thế gian.
Giữ vững lương tâm phân tà chính,
Trời đất sáng trong vượt kiếp nan.
Cõi trần mờ ảo vạn sự loạn,
Thoát xuất tà đảng sạch ưu phiền.

Ghi chú của người dịch:

Kỳ thư: cuốn sách thần kỳ. Lục Tứ (4/6): chỉ cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn diễn ra ngày 4/6/1989. Cửu châu: chín châu, chỉ Trung Quốc nói chung; người Trung Quốc cho rằng sau khi Đại Vũ trị thủy thành công đã chia Trung Quốc ra làm chín châu. «Các Thế Kỷ»: cuốn sách tiên tri nổi tiếng của Nostradamus (xem thêm).

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/12/14/70268.html

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-cac-the-ky-cua-nostradamus.html/feed0
Bản thảo tự họa của Nostradamus hiện rõ “Trời diệt Trung Cộng”https://chanhkien.org/2011/04/ban-thao-tu-hoa-cua-nostradamus-hien-ro-troi-diet-trung-cong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/ban-thao-tu-hoa-cua-nostradamus-hien-ro-troi-diet-trung-cong.html#respondWed, 06 Apr 2011 14:50:40 +0000https://chanhkien.org/?p=11356Tác giả: Trương Kiệt Liên [Chanhkien.org] Năm 1994, hai ký giả người Ý là Enza Massa và Roberto Pinotti đã tình cờ tìm thấy một cuốn sách chép tay thần bí nằm trong một chồng sách trong khi đang tiến hành nghiên cứu cổ thư tại Thư viện Quốc gia ở Rome. Trên bìa sách […]

The post Bản thảo tự họa của Nostradamus hiện rõ “Trời diệt Trung Cộng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

[Chanhkien.org] Năm 1994, hai ký giả người Ý là Enza Massa và Roberto Pinotti đã tình cờ tìm thấy một cuốn sách chép tay thần bí nằm trong một chồng sách trong khi đang tiến hành nghiên cứu cổ thư tại Thư viện Quốc gia ở Rome. Trên bìa sách ghi rõ năm 1629, và tên cuốn sách cũng thật đáng kinh ngạc: “Mật mã tiên tri của Nostradamus” (Nostradamus Vatinicia Code). Trong sách là các bức tranh màu nước không bị phai, đề tên tác giả là “Michel de Nostredame” (tiếng Anh là Nostradamus). Nostradamus là một nhà tiên tri trứ danh người Pháp sống vào thế kỷ 16, với tác phẩm tiêu biểu là «Các Thế Kỷ» (Les Propheties), bao gồm các bài thơ tứ tuyệt, tiên tri rất nhiều sự kiện sau khi ông qua đời và được kiểm chứng là vô cùng chính xác.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Việc tìm thấy bản viết tay chưa từng được biết đến này của Nostradamus quả thực là một phát hiện trọng đại. Cuốn sách gồm 80 bức họa do Nostradamus tự mình vẽ, rất thần bí và kỳ dị, tương tự cuốn sách tiên tri nổi tiếng «Thôi Bối Đồ» vào thời nhà Đường, Trung Quốc. Người ta cho rằng những bức vẽ tiên tri này là có quan hệ mật thiết với những sự kiện trọng đại từng được Nostradamus tiên đoán trong «Các Thế Kỷ». Trong hình vẽ là các chữ, phù hiệu, biểu ngữ, cây nến, cây gậy, thậm chí có cả thành lũy đang bốc cháy, v.v. Có người cho rằng đây chính là “phiên bản hội họa” các bài thơ tứ tuyệt lừng danh của Nostradamus, tiên tri các sự kiện cho tới tận thế kỷ 21 ngày nay (xem thêm: Giải mã những bức họa trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus).

Điều khiến người ta kinh ngạc là bản chép tay thần kỳ này đã ẩn náu rất kỹ trong suốt 400 năm qua và “tình cờ” được phát hiện vào năm 1994. Có người đoán rằng Nostradamus năm ấy đã cố ý cất giấu những bức họa tiết lộ thiên cơ này, để rồi đến đúng thời điểm chúng sẽ hiển lộ cho con người thế gian. Hệt như có an bài của Thiên Ý vậy, và cũng rất giống với năm 2002, khi ở huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc, người ta đột nhiên phát hiện được tảng tàng tự thạch, trên đó mang 5 chữ “Trung Quốc cộng sản đảng vong.”

Rất nhiều bức họa là biểu hiện cuộc đọ sức giữa Thiện và Ác, trong đó một số bức rõ ràng là rất gần gũi với những sự kiện đã phát sinh hoặc đang phát sinh ngày hôm nay. Ví dụ có một bức tranh vẽ cảnh binh sĩ chém giết tăng lữ, trong đó binh sĩ mặc trang phục màu xanh lá. Người ta cho rằng bức họa này rất có thể là chỉ sự kiện đàn áp đoàn thể tu luyện Pháp Luân Công của đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Trên thế giới hiện nay chỉ có quân đội ĐCSTQ là sử dụng phổ biến bộ quân phục màu xanh lá cây.

Hình vẽ số 79 về binh sĩ áo xanh chém giết người tu hành.

Điều khiến người ta kinh ngạc hơn nữa chính là bức tranh miêu tả sinh vật mình rồng đầu người đang bị lửa thiêu đốt, nhìn rất giống với “ác long” của phương Đông. Con rồng Tây phương và con rồng Đông phương có sự khác biệt rất lớn, ở đây Nostradamus đặc biệt chọn dùng hình dạng con rồng phương Đông. Thân con rồng màu xanh, cùng màu với trang phục binh sĩ ĐCSTQ, trên mình con rồng lộ ra một cảnh tượng với các kiến trúc tương tự với quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh.

ĐCSTQ biểu hiện tại không gian tầng thấp chính là một con ác long, hiện tại lửa trời đang hỏa thiêu con ác long Đông phương này. Cái đầu xưng Vương và kiến trúc Bắc Kinh trên mình nó chứng tỏ con rồng này đại biểu cho người đương quyền hiện tại ở Trung Quốc, cũng chính là biểu đạt hàm nghĩa “Trời diệt Trung Cộng“.

Hình vẽ số 18 về ác long Đông phương bị lửa thiêu đốt. Trên mình con rồng lộ ra một cảnh tượng với các kiến trúc tương tự với quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh.

Ngoài ra còn có bức tranh “Chuyển Luân” (bánh xe xoay chuyển) của Phật gia tương quan với ý nghĩa luân hồi của kiếp người. Cũng có một bức họa khác dự ngôn về tân kỷ nguyên sắp tới của nhân loại tương lai, trong đó một vị trưởng lão đang giảng Đạo trước đám đông quần chúng ngồi nghe rất cung kính, và nhìn vào trang phục những người đó mặc, thì người ta thấy chính là Hán phục. Có người tu luyện nọ có thể thấy được tương lai từng kể rằng trang phục nhân loại tương lai về cơ bản đều là Hán phục (trang phục cổ đại của người Hán, Trung Quốc); đến thời đó con người đều cảm động trước đại ân cứu độ của vị Giác Giả.

Hình vẽ số 35 về bánh xe xoay chuyển tượng trưng cho luân hồi.

Hình vẽ số 80 (hình vẽ cuối cùng) về vị Giác Giả đang giảng Đạo cho chúng sinh.

Những bức họa kỳ bí được phát hiện của Nostradamus đã trở thành một đề tài nóng bỏng và được giới nghiên cứu làm thành phim tài liệu. Mọi người giờ đây đều hy vọng sẽ khám phá được những bí ẩn thú vị cũng như tìm thấy những thông điệp quý báu mà tác giả gửi gắm trong đó.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung tiên tri của Nostradamus, mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/12/13/49842.html

The post Bản thảo tự họa của Nostradamus hiện rõ “Trời diệt Trung Cộng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/ban-thao-tu-hoa-cua-nostradamus-hien-ro-troi-diet-trung-cong.html/feed0
Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (1): «Các Thế Kỷ» của Nostradamushttps://chanhkien.org/2011/04/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-1-cac-the-ky-cua-nostradamus.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-1-cac-the-ky-cua-nostradamus.html#respondSun, 03 Apr 2011 12:29:39 +0000https://chanhkien.org/?p=11310Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến [Chanhkien.org] 1. Lời mở đầu: “Dự ngôn” hay “lời tiên tri”, như tên của nó, là lời dự đoán về các sự kiện sẽ phát sinh trong tương lai. Các nhà tiên tri diễn tả những sự kiện trọng đại của tương lai, từ sự việc xảy ra […]

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (1): «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

[Chanhkien.org]

1. Lời mở đầu:

“Dự ngôn” hay “lời tiên tri”, như tên của nó, là lời dự đoán về các sự kiện sẽ phát sinh trong tương lai. Các nhà tiên tri diễn tả những sự kiện trọng đại của tương lai, từ sự việc xảy ra bên trong một quốc gia, biến động của xã hội cho tới tương lai của toàn nhân loại. Lời tiên tri là một trong những hiện tượng thú vị và được bàn luận nhiều nhất trong suốt lịch sử loài người. Xuất phát từ sự tò mò, người ta đã thảo luận về nhiều lời tiên tri, hết lần này tới lần khác. Trong suốt các thời kỳ, con người tại nhiều quốc gia đã lưu truyền các lời tiên tri khác nhau. Những dự ngôn này đã tạo nên một trang sử đẹp trong nền văn minh nhân loại.

Nhiều lời tiên tri đã được chứng minh là có độ chuẩn xác cao, hoàn toàn vượt qua sự tưởng tượng và nhận thức của người bình thường. Cuốn sách «Các Thế Kỷ» (Les-Centuries) của Nostradamus, nhà tiên tri người Pháp sống từ hơn 400 năm trước, đã đoán trước được nhiều sự kiện xảy ra sau này, trong chu kỳ văn minh nhân loại lần này, bao gồm sự trỗi dậy của Napoleon, sự xuất hiện của Hitler, hai cuộc đại chiến thế giới, cái chết của Công nương Diana của nước Anh, vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 tại thành phố New York, cuộc đàn áp phong trào dân chủ năm 1989 tại quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh, và cuộc bức hại Pháp Luân Công hiện vẫn đang tiếp diễn tại Trung Quốc. Khó khăn duy nhất để hiểu được các lời tiên tri của Nostradamus nằm ở tính đại diện của thông điệp, bao gồm những mật mã mang tính tượng trưng, khó hiểu và tối nghĩa. Do sự dự đoán về tương lai được chôn vùi trong một thứ ngôn ngữ khó hiểu, người ta thường chỉ có thể xác nhận hàm nghĩa chân thực của lời tiên tri sau khi sự kiện đã xảy ra.

Những lời tiên tri đều có ý nghĩa trọng đại đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Một lời tiên tri ứng nghiệm rõ ràng đã triển hiện sự chân thực trước mắt con người. Ngoài ra, nó cũng khiến người ta minh xác rằng tương lai nhân loại là đi theo một quy luật phát triển nhất định và không thể tùy ý thay đổi. Thái độ và hành vi của con người trước một lời tiên tri đã ứng nghiệm hoặc đang phát sinh, cũng như nỗ lực sau đó của con người để sáng tạo một tương lai tốt đẹp, chính là chủ đề khiến người ta phải cân nhắc.

Chuyên đề này bao gồm những dự ngôn nổi tiếng của Trung Quốc qua các thời kỳ lịch sử, cũng như những dự ngôn quan trọng của các dân tộc khác. Vì sự giới hạn về độ dài, trọng điểm các dự ngôn ở đây sẽ tập trung vào các sự kiện lịch sử trọng đại đã xảy ra hoặc đang phát sinh. Trong đó bao gồm sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp tại Trung Quốc và trên toàn thế giới, cuộc đàn áp của Giang Trạch Dân và đảng cộng sản Trung Quốc đối với Pháp Luân Công, sự thất bại triệt để của cuộc bức hại, cũng như kết cục sụp đổ đối với chế độ của Giang và kỷ nguyên mới mà nhân loại đang hướng tới.

Thực ra, hầu hết các lời tiên tri được sưu tập ở đây đều tuyên bố nhất quán rằng cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 là thời điểm cực kỳ đặc thù trong lịch sử loài người. Chúng dự đoán rằng xã hội nhân loại sẽ phát sinh một sự kiện trọng đại, và chân lý vũ trụ sẽ thực sự được triển hiện tại thế gian. Tuy nhiên, có người vẫn không tin những lời tiên tri này, mà đa số đã trở thành sự thực. Lịch sử quá khứ đã đi đến hồi kết, và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu. Mặc dù những sự kiện này đang trong quá trình phát sinh, nhưng chúng có quan hệ đến vận mệnh tương lai của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cho tới toàn nhân loại.

Quý độc giả thân mến, xin các bạn hãy trân quý cơ duyên khó gặp này! Một trang sử thi vĩ đại đang hé mở ngay trước mắt bạn, ngọn thủy triều vĩ đại đang lên đến đỉnh với sức mạnh không thể cản nổi! Bạn có biết rằng bạn cũng đang ở trong đó hay không?

2. Các bài thơ tiên tri của Nostradamus: Cuốn sách «Các Thế Kỷ»

2.1. Đỉnh điểm những lời tiên tri trong «Các Thế Kỷ» — ngày 20/7/1999 kinh hoàng

Michel de Nostredame (Nostradamus), một người Pháp, sinh ra tại St. Remi, nước Pháp vào ngày 14 tháng 12 năm 1503. Ông là một nhà tiên tri lừng danh. Trong cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» (Les-Centuries), ông dự đoán về nhiều sự kiện lớn và nhân vật lịch sử sẽ xuất hiện trong vài trăm năm sau đó trên phạm vi toàn thế giới. Trong đó bao gồm sự xuất hiện của Napoleon, đại cách mạng Pháp, đại chiến thế giới, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản cũng như vụ khủng bố chấn động thế giới ngày 11/9/2001 tại Mỹ, v.v. Nhiều sự kiện được dự đoán với độ chuẩn xác đến kinh người, thậm chí mô tả chính xác tên của Napoleon và nước Mỹ (xin xem tiểu sử của Nostradamus, lời tiên tri và sự chứng thực các sự kiện lịch sử lớn trong các sấm của ông).

Một trong những bài thơ quan trọng nhất của Nostradamus là về “Đại vương Khủng bố” vào tháng 7 năm 1999 như sau:

Các Thế Kỷ X, Khổ 72

Nguyên văn tiếng Pháp:

L’an mil neuf cens nonante neuf sept mois
Du ciel viendra vn grand Roy d’effrayeur
Resusciter le grand Roy d’Angolmois,
Auant apres Mars regner par bon heur.

Tiếng Anh:

The year 1999, seventh month,
From the sky will come a great King of Terror:
To bring back to life the great King of the Mongols,
Before and after Mars to reign by good luck.

Tiếng Việt:

Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

Bài thơ này là tối quan trọng, bởi vì nó là bài duy nhất minh xác về thời gian. Cũng như nhiều dự ngôn khác, các lời tiên tri của Nostradamus dùng điển cố và nhiều ám thị để khiến người đọc khó nhận ra. Ngoài ra, ông đã cố ý tự mình làm xáo trộn thứ tự thời gian của các bài thơ. Tuy nhiên, bài thơ này tuyên bố minh xác về thời gian. Từ đó có thể thấy rằng từ 400 năm trước, bài thơ này đóng một vai trò quan trọng đối với Nostradamus như thế nào. Một lý do khác khiến bài thơ này quan trọng là bởi vì nó liên quan đến điều gọi là “đại kiếp nạn” vào cuối thế kỷ 20.

Thực ra, Nostradamus đã sử dụng cụm từ “trước và sau” để ra dấu rằng tháng 7 năm 1999 tuyệt đối không phải là ngày kết thúc của thế giới. Bởi vì các lời tiên tri về “ngày tận thế” là rất phổ biến, người ta có thể cho rằng Nostradamus đã tiên đoán sai trong bài thơ này, bởi vì “kiếp nạn” đã không xảy ra. Tuy nhiên thực tế lại một lần nữa chứng minh sự chính xác trong những lời tiên tri của Nostradamus.

Vậy thì cụm từ “Đại vương Khủng bố” ở đây là chỉ điều gì? Chúng ta có thể nhìn lại điều gì đã xảy ra vào tháng 7 năm 1999 trong lịch sử. Theo “Niên giám Thế giới năm 2000” (The World Almanac and Book of Facts 2000), những sự kiện quan trọng đã xảy ra vào tháng 7 năm 1999 bao gồm các thảm họa, xung đột và chết người như được liệt kê dưới đây:

1. Đâm máy bay chết ba người, bao gồm John Kennedy con, vợ và con gái ông.

2. Từ ngày 19 tháng 7 đến ngày 1 tháng 8, miền Đông Hoa Kỳ hứng chịu một nắng nóng và hạn hán lớn, khiến ít nhất 200 người tử vong, bao gồm hơn 80 người ở Illinois. Thiệt hại kinh tế lên tới hơn 1,1 tỷ đô-la.

3. Ngày 29 tháng 7, một người đàn ông tại Atlanta, bang Georgia, Hoa Kỳ, người vừa mất tiền trên thị trường chứng khoán đã giết chết 9 người, làm bị thương 13 người khác rồi sau đó tự sát.

4. Chiến tranh tại Kosovo, Nam Tư tiếp diễn.

5. Xung đột tại Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan khiến nhiều người chết. Ngày 26 tháng 7, quân đội Ấn Độ tuyên bố rằng quân đội PAR đã rút lui khỏi vùng này.

6. Ehud Barak được bổ nhiệm làm Thủ tướng Israel.

7. Hai phe trong cuộc nội chiến tại Sierra Leone đã ký kết các hiệp định hòa bình song phương.

8. Các sinh viên Iran xung đột với cảnh sát.

9. Nhiều quốc gia ký kết một hiệp định hòa bình tại Congo.

10. Giang Trạch Dân bắt đầu đàn áp toàn diện một trăm triệu học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc.

11. Hassan, Vua Ma-rốc, qua đời.

Mặc dù vụ tai nạn của Kennedy chiếm tít đầu trên các trang báo của Mỹ và thu hút rất nhiều sự chú ý của giới truyền thông, nó không liên quan gì với “Đại vương Khủng bố”. Những sự kiện khác, chẳng hạn hiệp định hòa bình và phe Pakistan rút lui khỏi Kashmir cũng được loại trừ. Vị Vua của Ma-rốc đã qua đời ở tuổi 70, và con trai ông kế thừa Ngai vàng sau khi ông tại vị được 38 năm. Nó cũng không liên quan gì đến khủng bố. Chiến tranh gây ra một nỗi ám ảnh lớn về khủng bố lên tâm lý con người, thế nhưng chiến tranh Kosovo đã nổ ra vào tháng 3, chứ không phải tháng 7. Thiên tai ở miền Đông nước Mỹ gây ra những tổn thất to lớn, nhưng dưới sự cứu tế của Chính phủ Liên bang, đã không hề xảy ra vụ “khủng bố” nào. Ehud Barak được bầu làm Thủ tướng trong một khu vực hỗn loạn trên thế giới cũng không phải là một vấn đề mang tính xung đột. Nó được liệt kê bởi vì nó có thể có một tác động trong tương lai. Tuy nhiên, Ehud Barak không hề gây ra thêm hỗn loạn nào cho khu vực. Do đó, ông không phải là “Đại vương Khủng bố”. Chỉ còn lại kẻ thua chứng khoán xả súng bừa bãi tại Atlanta, các sinh viên xung đột với cảnh sát tại Iran, và sự kiện Trung Quốc bắt giữ hàng ngàn học viên Pháp Luân Công.

Cuộc xung đột tại Iran bắt đầu vào ngày 8 tháng 7 đã khiến ít nhất 1 người chết. Các sinh viên ngừng biểu tình trước ngày 17 tháng 7. So với các vụ kháng nghị của sinh viên Trung Quốc, đây chỉ là một cuộc xung đột quy mô nhỏ và không thể được tính là “khủng bố”. Vụ giết chóc tại Atlanta đúng là đã gây ra bầu không khí khủng bố ở một mức độ nào đó, thế nhưng nó có nguyên nhân từ một hoạt động kinh tế bình thường trong xã hội hiện đại. Nó chỉ gióng lên một hồi chuông cảnh báo tới người dân, chứ không thể được xem là một sự kiện khủng bố, càng không thể được gọi là “Đại vương Khủng bố”.

Giờ chỉ còn lại cuộc đàn áp Pháp Luân Công tại Trung Quốc của Giang Trạch Dân. Điều này có liên quan tới rất nhiều người. Năm 1999, Chính phủ Trung Quốc ước tính có khoảng 100 triệu người tập Pháp Luân Công. Cuộc đàn áp bắt đầu vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, và vẫn tiếp tục cho tới ngày nay. “Từ trên trời xuống” chính là nói về thực tế tại Trung Quốc đại lục, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát tràn ngập những lời lăng mạ Pháp Luân Công, cộng thêm với vô số biện pháp tra tấn và tẩy não được cưỡng chế lên các học viên để buộc họ từ bỏ đức tin. Ngay cả các nhà báo nước ngoài điều tra vụ này cũng bị dọa dẫm [1]. Đối với thực tế cuộc đàn áp, chỉ có rất ít bài báo cáo từ các kênh truyền thông phương Tây, nhưng số ít những bài này lại rất xuất sắc. Lấy ví dụ, Tạp chí Phố Wall (Wall Street Journal) đã tường thuật về trường hợp của một công nhân về hưu, bà Trần Tử Tú, 58 tuổi, người bị bức hại đến chết [2]. Agence France Press (AFP) cũng đưa tin về cái chết của kỹ sư Tô Cương [3], người bị đưa vào bệnh viện tâm thần và cưỡng bức tiêm các loại thuốc không rõ tên. AFP cũng báo cáo về cô Trương Học Linh, con gái bà Trần Tử Tú (người không phải là một học viên) đã bị cầm tù phi pháp chỉ vì nói với các phóng viên phương Tây về sự bức hại đối với mẹ cô [4].

Một số người Hoa có quốc tịch nước ngoài cũng bị giam giữ tại Trung Quốc chỉ vì họ tập Pháp Luân Công [5] [6]. Dưới áp lực của cộng đồng quốc tế, họ đã được phóng thích. Cùng lúc ấy, các học viên Pháp Luân Công bị bức hại trong các trại lao động tại Trung Quốc đại lục đã trình bày trước Liên Hợp Quốc về trải nghiệm của họ. Người ta đã hiểu thêm về các nỗ lực của kẻ đàn áp nhằm hủy diệt nhóm người tu luyện yên hòa và bất bạo động này, bao gồm rất nhiều thủ đoạn tra tấn cả về thể xác lẫn tinh thần. Khi xem xét thực tế về các gia đình, bạn bè và hàng xóm của các học viên chịu ảnh hưởng bởi cuộc đàn áp, người ta thấy số người bị bức hại tại Trung Quốc phải lên tới hàng chục triệu. Ngoài ra, các bài bình luận báo chí ở Trung Quốc hoàn toàn là một chiều. Chính quyền đe dọa các phóng viên muốn tường thuật trung lập. Nếu bạn thấy rằng một chút thông tin ít ỏi được tiết lộ từ cuộc đàn áp ở trên thật là khủng khiếp, thì mức độ thực tế những gì xảy ra tại Trung Quốc phải là kinh hoàng như thế nào. Vì vậy, không phóng đại chút nào khi nói rằng “Đại vương Khủng bố” là chỉ Giang Trạch Dân.

Tại sao vấn đề này lại quan trọng như vậy? Có gì khác biệt giữa sự kiện này với các cuộc đàn áp và khủng bố khác đã xảy ra trong lịch sử? Cuộc đàn áp Pháp Luân Công này là nổi bật về số người bị ảnh hưởng và mức độ tàn ác so với những cuộc đàn áp khác trong lịch sử. Cơ quan Phát triển Giáo dục Quốc tế (IED) đã theo dõi vấn đề khủng bố và nhân quyền trong nhiều năm. Tổ chức này tuyên bố trong bản phúc trình nhân quyền tháng 8 năm 2001 như sau:

“… sự vi phạm nhân quyền gây ra bởi khủng bố do nhà nước bảo trợ dưới hình thức chính phủ bức hại chính người dân của mình là nghiêm trọng hơn rất nhiều so với các hính thức khủng bố khác. Khi một đất nước tiến hành khủng bố với nhà nước bảo trợ, các tổ chức và cộng đồng quốc tế sẽ biết được rất nhiều, rất nhiều trường hợp, và sẽ tràn ngập những người xin tỵ nạn. Đây là tình cảnh được gây ra bởi sự tấn công bằng bạo lực của chế độ Trung Quốc đối với các học viên Pháp Luân Công.”

“… Chúng tôi đã phát hiện trong quá trình điều tra rằng, những trường hợp bị giết hại đã xảy ra ngay trong tay các chính quyền địa phương ở Trung Quốc; sự tan vỡ của các gia đình do một thành viên bị giết hại bởi chế độ; những người suy sụp về cả thể chất lẫn tinh thần không phải là vì tập Pháp Luân Công, mà là bởi sự trừng phạt vô cùng tàn bạo, sự giam giữ trong các bệnh viện tâm thần cũng như sự ngược đãi mà họ phải chịu đựng, sự lao động nặng nhọc trong các trại lao động, cùng các hình thức ngược đãi khác. Tờ International Herald Tribune đã đưa tin vào ngày 6 tháng 8 năm 2001 rằng chính quyền (Trung Quốc) đã thừa nhận rằng họ đã cho phép việc sử dụng bạo lực để ‘tiêu diệt’ Pháp Luân Công. Chế độ này đã dàn dựng cái gọi là “vụ tự thiêu” trên quảng trường Thiên An Môn vào ngày 23 tháng 1 năm 2001 để làm bằng chứng cho cáo buộc Pháp Luân Công là một ‘tà giáo’. Tuy nhiên, chúng tôi đã có được một bản sao đoạn phim về sự kiện này, và rút ra một kết luận rằng chính phủ này đã chỉ đạo vụ việc. Chúng tôi đã sao thêm các bản video clip này để phân phát chúng…” [7]

Trên thực tế, nhà sáng lập Pháp Luân Công, Ông Lý Hồng Chí đã giải thích về vấn đề này [8]. Lời giải thích của Ông đối với chữ “Mars” trong hai câu cuối bài thơ nói trên của Nostradamus là hoàn toàn vượt ra khỏi điều mà người ta vẫn nghĩ là đề cập tới “sao Hỏa”.

“Sự việc đang phát sinh hiện nay tại Trung Quốc vốn đã được an bài trong lịch sử; có nhiều người trong lịch sử đã có lời tiên tri [về nó]. Bởi vì họ đều chọn cách nói không trực tiếp chính diện—ấy là để hợp với cách nói ẩn ý ở thế gian, đồng thời khuyên răn con người thế gian—do đó người thường chỉ có thể hiểu ra được sau khi [sự kiện] lịch sử đã trôi qua.

Chẳng hạn về những việc phát sinh ở Trung quốc hiện nay, thì mấy trăm năm trước một người Pháp là Nostradamus đã giảng như thế này trong “Các Thế Kỷ”, một cuốn sách tiên tri của ông:

Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

Tôi giảng rằng tháng Bảy, 1999, để nhà vua kia phục sinh, thì Khủng Bố sẽ từ trời xuống chính có nghĩa là những kẻ có dụng ý ở Trung ương [đảng] Trung Quốc đã lợi dụng quyền lực trong tay mà bắt đầu một cuộc đàn áp tà ác toàn diện đối với Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp: bắt người, đánh người, bắt đi trại lao động cải tạo, bắt bỏ tù, huỷ sách, dùng quân đội, cảnh sát, đặc vụ, các [công cụ] ngoại giao, và [dùng] cả đài phát thanh, truyền hình, báo chí, viện đến các thủ đoạn vu khống phô thiên cái địa để bức hại; [giống như] cái thế trời sụp, mức độ tà ác kia đã che đậy toàn thế giới; thế lực cũ đã dùng quan niệm vốn đã bại hoại của chúng để an bài những việc này nhằm đạt mục đích là để làm cái gọi là kiểm nghiệm mang tính phá hoại [này đối với] Đại Pháp. Từ góc độ của các chư Thần mà xét thì quá trình Sư phụ ở nơi cõi người đang Chính Pháp chính là quá trình phục sinh từ cõi chết.

Về câu “đến thời trước sau Mars sẽ thống trị thiên hạ”, là nói khi trước [và] sau năm 1999 thì [Karl] Marx sẽ thống trị thế giới. Thực ra hiện nay không chỉ xã hội của đảng cộng sản là làm theo [Karl] Marx, mà những thứ như phúc lợi xã hội của các quốc gia phát triển trên thế giới cũng là những điều của chủ nghĩa cộng sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa; trên biểu hiện là xã hội tự do, [nhưng] thực chất rất giống như toàn thế giới đang thực hành chủ nghĩa cộng sản; những người từ các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đi sang các quốc gia phát triển bên Tây phương cũng đều có đồng cảm: cảm thấy ở đấy giống hệt như chủ nghĩa cộng sản, chỉ có điều không [truyền] giảng về cách mạng vũ trang.

Câu cuối “nói là để có được cuộc sống hạnh phúc cho mọi người”, cũng là nói về điều thuyết giảng giải phóng toàn nhân loại của đảng cộng sản, và việc thu thuế cao của xã hội Tây phương để làm những điều như phúc lợi xã hội.

Vì sự việc này còn đang [trong quá trình] kết thúc, nên [tôi] chỉ giải nghĩa trong mấy câu như vậy. Thực ra tại rất nhiều quốc gia đều lưu truyền các lời tiên tri nói về thời gian này. Mấy câu trên đây, chỉ để tham khảo.”

(“Tham khảo lời tiên tri”, Tinh Tấn Yếu Chỉ II)

Nếu quả đúng như vậy, thì vấn đề Pháp Luân Công chính là sự kiện mà Nostradamus đã đề cập. Một khi mật mã đã được phá giải, thì hàm nghĩa những dòng còn lại trong bài thơ của ông sẽ trở nên rõ ràng.

Nostradamus đã đề cập đến “ba kẻ chống Chúa”, được hiểu là các thế lực cực đoan bạo ngược chống lại tinh thần Cơ Đốc giáo [9]. Người ta đã công nhận rộng rãi rằng kẻ chống Chúa đầu tiên là Napoleon và kẻ chống Chúa thứ hai là Hitler. Kẻ chống Chúa thứ ba sẽ xuất hiện vào cuối thế kỷ 20. Trong nhiều nghiên cứu về các lời tiên tri của Nostradamus, “Đại vương Khủng bố” (Các Thế Kỷ X, Khổ 72) được người ta tin là kẻ chống Chúa thứ ba. Bài thơ sau cũng có liên hệ với kẻ chống Chúa thứ ba này:

Các Thế Kỷ I, Khổ 50

Nguyên văn tiếng Pháp:

De l’aquatique triplicité naistra,
D’vn qui fera le Ieudy pour sa feste.
Son bruit, los, regne, sa puissance croistra,
Par terre & mer,aux Oriens tempeste.

Tiếng Anh:

From the three water signs will be born a man
who will celebrate Thursday as his holiday.
His renown, praise, rule and power will grow
on land and sea, bringing trouble to the East.

Tiếng Việt:

Từ ba dấu hiệu của Thủy sẽ sinh ra một ng­ười,
Kỷ niệm thứ Năm như­ là ngày lễ hội của ông ta.
Danh tiếng, sự tán tụng, và quyền lực của ng­ười này sẽ lớn mạnh
Trên đất và biển, đem đến tai hoạ cho ph­ương Đông.

Nếu “Đại vương Khủng bố” là để chỉ Giang Trạch Dân (cựu Chủ tịch Trung Quốc), người đã đàn áp tàn bạo Pháp Luân Công, thì chúng ta đã có chìa khóa để giải mã lời tiên tri này. Giang Trạch Dân sinh ra tại Giang Tô (“Giang” có nghĩa là sông), phất lên tại Thượng Hải (“Hải” có nghĩa là biển), sống tại Trung Nam Hải (cũng có nghĩa là “biển”) tại Bắc Kinh. Điều này đã giải thích về ba dấu hiệu của “Thủy” (nước). Những danh hiệu của Giang Trạch Dân bao gồm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư đảng cộng sản, và Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Đây là những chức vụ cao nhất tại Trung Quốc. Điều này đã giải thích cho câu: “Danh tiếng, sự tán tụng, và quyền lực của ng­ười này sẽ lớn mạnh trên đất và biển.” Cuộc đàn áp Pháp Luân Công của Giang đã “đem đến tai hoạ cho ph­ương Đông.” Ông ta cưỡng chế chủ nghĩa vô thần lên nhân dân Trung Quốc và phản đối tất cả các tôn giáo, bao gồm cả Cơ Đốc giáo. Cái gọi là “tự do tôn giáo” chỉ là lớp vỏ ngoài hòa bình với điều kiện phải nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của “thuyết vô thần”. Tất cả những thực tế này đều nhất quán với sấm của Nostradamus. Câu cuối cùng “đem đến tai hoạ cho ph­ương Đông” có thể biểu thị rằng vũ đài chính cho sự phá hoại của Giang sẽ là Trung Quốc.

Rất khó để người ta hiểu được “thứ Năm” trong bài thơ này. Nếu liên hệ nó với cuộc đàn áp Pháp Luân Công, chúng ta sẽ khám phá ra rằng cảnh sát bắt đầu bắt giữ các học viên Pháp Luân Công vào buổi tối ngày 20 tháng 7, nhưng những tuyên truyền phỉ báng chính thức trên TV bắt đầu vào ngày 22 tháng 7 năm 1999. Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã chiếu các tin tức về Pháp Luân Công vào lúc 3 giờ chiều, và tuyên bố một cách vô căn cứ rằng Pháp Luân Công là ‘tổ chức bất hợp pháp’. Và rồi, những “tin tức” bịa đặt công kích Pháp Luân Công bắt đầu xuất hiện trên rất nhiều kênh truyền thông ở nước ngoài. Ngày 22 tháng 7 năm 1999 chính là thứ Năm.

Giờ hãy xem thêm một bài thơ nữa:

Các Thế Kỷ VIII, Khổ 77

Nguyên văn tiếng Pháp:

L’antechrist trois bien tost annichilez,
Vingt & sept ans sang durera sa guerre,
Les heretiques morts, captifs exilez,
Son corps humain eau rougie gresler terre.

Tiếng Anh:

The antichrist very soon annihilates the three,
twenty-seven years his war will last.
The unbelievers are dead, captive, exiled;
with blood, human bodies, water and red hail covering the earth.

Tiếng Việt:

Kẻ chống Chúa sẽ rất nhanh tiêu hủy ba thứ,
Cuộc chiến mà hắn gây ra sẽ kéo dài 27 năm,
Những người không tin sẽ bị giết hại, bắt giữ và lưu đày;
Máu, thi thể, lũ lụt và màu đỏ bao phủ mặt đất.

“Kẻ chống Chúa sẽ rất nhanh tiêu hủy ba thứ” ở đây đề cập tới cuộc đàn áp “Chân, Thiện và Nhẫn’. Chân-Thiện-Nhẫn là Pháp của vũ trụ, là quy luật mà những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đi theo. Hiện tại ở Trung Quốc không ai dám đề cập đến ba chữ này. Hắn (kẻ chống Chúa) dựa vào tẩy não để ép buộc người tu luyện Đại Pháp tin vào những lời giả dối. Vô số học viên kiên định đã bị “giết hại, bắt giữ và lưu đày (lưu lạc)”. “Máu, thi thể, lũ lụt” ám chỉ cuộc đàn áp Pháp Luân Công, đồng thời cũng chỉ về thiên tai nhân họa (con người thời xưa cho rằng chúng đến từ sự phẫn nộ của Thần) mà nhân dân phải chịu đựng vì cuộc đàn áp này. “Màu đỏ” ám chỉ chế độ cộng sản cực quyền. Thời gian “27 năm” đã được thay đổi.

Về ngày “thứ Năm”, cũng có một đoạn khác trong «Các Thế Kỷ» của Nostradamus như sau:

Các Thế Kỷ X, Khổ 71

Nguyên văn tiếng Pháp:

La terre & l’air geleront si grand eau,
Lors qu’on viendra pour ieudy venerer :
Ce qui sera iamais ne feut si beau,
Des quatre parts le viendront honorer,

Tiếng Anh:

The earth and air will freeze a very great sea,
When they will come to venerate Thursday:
That which will be never was it so fair,
From the four parts they will come to honor it.

Tiếng Việt:

Mặt đất và không khí sẽ bị đóng băng trong biển lớn,
Khi chúng tới để tỏ lòng tôn kính với ngày thứ Năm:
Chúng sẽ không bao giờ trong sáng trở lại,
Từ bốn phía, chúng sẽ tới để vinh danh nó.

Bài thơ này trực tiếp liên hệ với bài thơ ở “Các Thế Kỷ I, khổ 50”. Ở một góc độ nào đó, nó cũng cường điệu tính trọng yếu của sự kiện này. “Khi chúng tới để tỏ lòng tôn kính với ngày thứ Năm.” Ma vương sẽ đến vào ngày này, đối với chúng sinh mà nói thì quả là đáng sợ. Tuy nhiên, đây là an bài trong lịch sử. Sau thời gian này, những lời dối trá sẽ lan truyền khắp thế giới. Những người tin vào lời vu miệt Đại Pháp sẽ bị nguy hiểm. Đây chính là: “Chúng sẽ không bao giờ trong sáng trở lại, Từ bốn phía, chúng sẽ tới để vinh danh nó.”

Khi mà sự thật được truyền rộng khắp thế giới, nhiều người ở nhiều nơi khác nhau bên ngoài Trung Quốc sẽ phân biệt được đúng-sai. Trên thực tế, sau tháng 7 năm 1999, các quốc gia phương Tây đã không thụ nhận ảnh hưởng tiêu cực. Ngược lại, sự yêu mến và ủng hộ của họ đối với Pháp Luân Công lại gia tăng. Tuy nhiên, Giang Trạch Dân và tập đoàn chính trị lưu manh của ông ta đã sử dụng các công cụ tuyên truyền do nhà nước thao túng để truyền bá những lời dối trá và phong tỏa sự thật tại Trung Quốc. Điều này khiến nhiều người mặc dù sống tại Trung Quốc nhưng vẫn bị chìm trong lừa dối.

2.2. Sự tương đồng đáng kinh ngạc với lời tiên tri của Nostradamus – Dự ngôn trong «Cuốn sách Trí tuệ»

Tượng nhân sư (Sphinx) nổi tiếng tại Ai Cập cũng ghi lại một dự ngôn đáng kinh ngạc.

Người ta đã tìm thấy một cái hang bên dưới chân của tượng nhân sư Sphinx. Bên trong là một cuộn giấy cói với bản viết tay từ năm 800 TCN. Tác giả tên là Denis. Ngạc nhiên thay, bản viết tay này, gọi là «Cuốn sách Trí tuệ» (Book of Amenti), không chỉ ghi lại những nội dung thần bí về tượng nhân sư, mà còn tiên tri về sự xuất hiện của một Ma vương:

“Ta không biết là khi nào. Một Ma vương sẽ xuất hiện ở thế giới con người. Hắn sở hữu quyền lực lớn mạnh. Hắn giết người, xâm chiếm và cướp bóc nhằm thỏa mãn dục vọng của hắn.

Các con của ta, các con phải không được nghe theo hắn. Mỗi câu của hắn sẽ dẫn các con tới vực sâu vô tận của tội ác và tai họa.”

Điều này khiến chúng ta nhớ lại “Đại vương Khủng bố” được nhắc đến trong «Các Thế Kỷ» của Nostradamus. Trong bản chép tay của Denis, cũng có những mô tả tương tự về “Đại vương Khủng bố” như sau:

“Hắn (Đại vương Khủng bố) hạ xuống với lửa và ánh sáng. Ánh sáng không thể nhận diện lóe lên ở chân trời.

Cũng có những tia sáng mạnh mẽ khác, đưa con người vào trong chiếc áo choàng của Thần Chết.

Hỡi các vị Thần tối cao của con, con xin các Ngài cứu những đứa con của chúng ta.”

Tất cả những lời mô tả đáng sợ trên đã khuấy động rất nhiều đồn đoán và tưởng tượng. Không ai có thể đưa ra một lời giải thích rõ ràng và chắc chắn. Chúng ta vừa đề cập đến “Đại vương Khủng bố” trong lời sấm của Nostradamus. Và rồi cũng không quá khó để lý giải những mô tả trên. “Một Ma vương sẽ xuất hiện ở thế giới con người. Hắn sở hữu quyền lực lớn mạnh” là chỉ cựu lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, Giang Trạch Dân, người đã thu thập quyền lực lớn mạnh nhờ lợi dụng tình trạng rối ren và bại hoại của đất nước. Tất cả quốc gia, quân đội và công cụ tuyên truyền đều nằm dưới sự khống chế của ông ta. Bằng cách lợi dụng bạo lực và lừa dối, ông ta đã buộc người dân tin rằng là đúng đắn khi phục tùng ông ta.

“Hắn giết người, xâm chiếm và cướp bóc nhằm thỏa mãn dục vọng của hắn”, là chỉ Ma vương phát động cuộc đàn áp đối với các học viên Pháp Luân Công, những người chiểu theo “Chân, Thiện, Nhẫn”, chỉ để thỏa mãn dục vọng ích kỷ. Ông ta lợi dụng công cụ tuyên truyền dưới sự khống chế của mình để vu khống, và ép buộc mọi công dân phải biểu đạt thái độ về Pháp Luân Công dưới áp lực chính trị. Nhiều học viên Pháp Luân Công đã bị tước bỏ các quyền cơ bản của con người, nhà của họ bị lục soát, còn họ thì bị bắt giữ, giam giữ, hay thậm chí bức hại đến chết. Toàn đất nước chìm trong khủng bố. Những ai không tập Pháp Luân Công thì bị lừa gạt bởi những lời dối trá và chuyển sang phản đối chân lý vũ trụ. Cũng có một số người làm ngơ trước cuộc bức hại này bởi vì họ không hiểu được tầm quan trọng của nó. Các nhà tiên tri trong lịch sử đã thấy rõ điểm này. Do vậy họ đã lưu lại rất nhiều dự ngôn để khuyên nhủ người đời sau: “Các con của ta, các con phải không được nghe theo hắn. Mỗi câu của hắn sẽ dẫn các con tới vực sâu vô tận của tội ác và tai họa.”

Pháp Luân Đại Pháp chỉ là cách xưng hô dùng ngôn ngữ con người. Trên thực tế, “Chân-Thiện-Nhẫn” chính là Pháp vũ trụ đã tạo ra hết thảy sinh mệnh trong vũ trụ này. Rõ ràng đây là những điều sẽ xảy ra cho những ai bức hại Pháp Luân Đại Pháp: “Cũng có những tia sáng mạnh mẽ khác, đưa con người vào trong chiếc áo choàng của Thần Chết”, rõ ràng chính là hàm ý này. “Hỡi các vị Thần tối cao của con, con xin các Ngài cứu những đứa con của chúng ta.”Nhà tiên tri rất lo lắng và vô vọng khi thấy người đời sau bị chìm đắm trong sự thù hận và dối trá, từ đó đi đến bờ vực của sự hủy diệt. Ông đã cầu cứu sự cứu rỗi của các vị Thần. Kể từ tháng 7 năm 1999, toàn thế giới chìm trong lừa dối. Thông qua những nỗ lực giảng chân tướng không biết mệt mỏi của các học viên Pháp Luân Công, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã biết được sự thật về cuộc đàn áp. Các chính phủ, kênh truyền thông và dân chúng ở những quốc gia này đã bày tỏ sự cảm thông và ủng hộ với Pháp Luân Đại Pháp. Đây chính là phúc phận của họ. Tuy nhiên nhiều người Trung Quốc vẫn bị lừa gạt bởi những lời dối trá, “Ma vương” vẫn không ngừng hành ác. Chỉ khi chúng sinh biết được chân tướng, họ mới có cơ hội được cứu độ.

Các nhà tiên tri từ nhiều quốc gia khác nhau đã dự đoán chính xác về những sự kiện đang diễn ra ngày hôm nay. Tinh hoa trong tất cả các dự ngôn này đều nằm tại Pháp Luân Đại Pháp và điều mà họ đang trải qua. Thần và tổ tiên của nhiều dân tộc khác nhau đã lo lắng rằng con cháu họ sẽ đi đến hủy diệt nếu tin vào những lời phỉ báng chống lại chân lý vũ trụ. Họ đã phải kêu gào: “Hỡi các vị Thần tối cao của con, con xin các Ngài cứu những đứa con của chúng ta.” Cho dù trong lịch sử đã xuất hiện bao nhiêu dự ngôn đi chăng nữa thì mục đích của chúng đều giống nhau, đó chính là cảnh tỉnh con người thời nay và khiến họ chú tâm vào những gì đang xảy ra.

Tài liệu tham khảo:

[1] BBC Monitoring: Spanish journalist arrested for reporting on Falun Gong, 06/26/2000.

[2] Practicing Falun Gong Was A Right, Ms. Chen Said, up to Her Last Day, By Ian Johnson Staff Reporter of The Wall Street Journal 4/20/00.

[3] Falun Gong follower dies after incarceration in mental hospital, Agence France-Presse.

[4] A Daughter in China Follows Tortuous Path to Seek Justice, By Ian Johnson Staff Reporter of The Wall Street Journal 10/2/00.

[5] Canadian held in Chinese labour camp Member of banned sect: Daughter in Ottawa fears he may die in custody By Anne Marie Owens, National Post – Canada 12/2/00.

[6] Tortured Canadian’s Press conference disrupted by reporter from PRC-operated People’s Daily, by NATHALIE TREPANIER (Ottawa Sun) 1/21/01.

[7] International Education Development (IED)’s Statement at the U.N. UNITED NATIONS Sub-Commission on the Promotion and Protection of Human Rights, Fifty-third session, Agenda item 6, August, 2001.

[8] «Tham khảo dự ngôn»,Lý Hồng Chí, ngày 28/6/2000, xem toàn văn tại:
http://www.minghui.org/mh/articles/2000/6/29/115.html (tiếng Hán);
http://www.falundafa.org/book/eng/jjyz2_11.htm (tiếng Anh).

[9] 10 bộ dự ngôn của Nostradamus (“Các Thế Kỷ”), mỗi bộ gồm 100 bài thơ tứ tuyệt 7 chữ (Quatrain). Các Thế Kỷ X, Khổ 72 có nghĩa là bài thơ thứ 72 của Quyển 10.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/3/4/14087.html
http://www.pureinsight.org/node/1089

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (1): «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-1-cac-the-ky-cua-nostradamus.html/feed0
“Người phương Đông” được dự ngôn trong «Các Thế Kỷ» của Nostradamushttps://chanhkien.org/2011/04/nguoi-phuong-dong-duoc-du-ngon-trong-cac-the-ky-cua-nostradamus.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/nguoi-phuong-dong-duoc-du-ngon-trong-cac-the-ky-cua-nostradamus.html#respondFri, 01 Apr 2011 10:48:58 +0000https://chanhkien.org/?p=11262Tác giả: Tầm Chân [ChanhKien.org] Nhà tiên tri người Pháp sống vào thế kỷ 16, Nostradamus, đã chỉ ra trong cuốn sách «Các Thế Kỷ» (Les-Centuries) của ông rằng một “người phương Đông” phi thường sẽ xuất hiện trong chính thời kỳ lịch sử ngày nay. Một số bài thơ trong «Các Thế Kỷ» có […]

The post “Người phương Đông” được dự ngôn trong «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tầm Chân

[ChanhKien.org] Nhà tiên tri người Pháp sống vào thế kỷ 16, Nostradamus, đã chỉ ra trong cuốn sách «Các Thế Kỷ» (Les-Centuries) của ông rằng một “người phương Đông” phi thường sẽ xuất hiện trong chính thời kỳ lịch sử ngày nay. Một số bài thơ trong «Các Thế Kỷ» có đề cập tới “người phương Đông” này và sự thay đổi mà Ngài mang lại cho thế giới. Sau đây tôi sẽ thử giải ba bài thơ với hy vọng rằng chúng có thể gợi mở và khiến người ta suy ngẫm về những lời tiên tri này.

Các Thế Kỷ II, Khổ 29

Nguyên văn tiếng Pháp:

L’oriental sortira de son siege,
Passer les monts Apennins, voir la Gaule,
Transpercera du ciel les eaux & neiges
En vn chacun frappera de sa gaule.

Tiếng Anh:

The Easterner will leave his seat,
To pass the Apennine mountains to see Gaul:
He will transpire the sky, the waters and the snow,
And everyone will be struck with his rod.

Tiếng Việt:

Người đến từ phương Đông sẽ rời chỗ của Ngài,
Vượt qua dãy núi Apennine (*) để trông thấy nước Pháp,
Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết,
Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài.

Các Thế Kỷ X, Khổ 75

Nguyên văn tiếng Pháp:

Tant attendu ne reuiendra iamais
Dedans l’Europe, en Asie apparoistra
Vn de la ligue yssu du grand Hermés,
Et sur tous Roys des Orients croistra.

Tiếng Anh:

Long awaited he will never return
In Europe, he will appear in Asia:
One of the league issued from the great Hermes,
And he will grow over all the Kings of the East.

Tiếng Việt:

Đợi từ lâu, Ngài sẽ không bao giờ trở lại
Ở Châu Âu, Ngài sẽ xuất hiện ở Châu Á:
Người của liên minh với Thần Hermes (**) vĩ đại,
Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị Vua của phương Đông.

Hai bài thơ này thực ra rất khớp với nhau. Chúng nói về cùng một người, nhưng ở các thời điểm khác nhau. Chúng tiên tri rằng một người phương Đông sẽ đi sang phương Tây, ở lại đó trong một giai đoạn thời gian, nhưng sẽ trở về trong tương lai. Uy danh của Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị Vua.

Câu cuối cùng của bài đầu tiên (Các Thế Kỷ II, khổ 29) dường như rất khó hiểu. Bản dịch trực tiếp từ tiếng Pháp là: “Và mọi người sẽ bị gõ bởi cây gậy của Ngài”. Nhiều nhà bình luận và dịch giả đã hiểu sai câu này. Để hiểu được nó, người ta phải tham khảo bài thơ thứ hai (Các Thế Kỷ X, khổ 75), bởi vì chúng liên hệ chặt chẽ với nhau. Câu thứ ba bài thứ hai viết: “Người của liên minh với Thần Hermes vĩ đại”. Hermes là một Thiên sứ trong thần thoại Hy Lạp. Ngài có một cây gậy phép trong tay để đánh thức mọi người từ giấc ngủ. Do đó, “cây gậy” ở đây chính là “gậy phép” hay “gậy Thần”, và “gõ” nên được dịch là “đánh thức”.

Một số bài thơ khác trong «Các Thế Kỷ» truyền đạt rằng “người phương Đông” này là vị Thầy của một đức tin thần thánh. Trong Các Thế Kỷ IV, khổ 31, người phương Đông được đề cập đến như là “một Thánh nhân mới”. Bài thơ mô tả Ngài và các đệ tử của Ngài. Một câu trong bài thơ là “tay trước ngực”, nói về tư thế chắp tay trước ngực, hay “hợp thập” của Phật gia.

Vậy rốt cuộc ai là người phương Đông này? Cho tới nay, chưa có nhân vật lịch sử nào khớp với lời tiên tri. Cũng như vậy, hai bài thơ trên mô tả các vấn đề đang xảy ra trong hiện tại và sẽ phát sinh trong tương lai. Người duy nhất trùng hợp với “người phương Đông” này chính là nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp – Sư phụ Lý Hồng Chí. Từ năm 1996, Ông Lý Hồng Chí đã rời quê nhà ở Trung Quốc để định cư tại Hoa Kỳ. Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp thế giới và được phổ biến tại hơn 114 quốc gia và vùng lãnh thổ (tính đến năm 2009).

Câu “bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết” là chỉ sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp trên khắp thế giới, vượt qua biên giới ngăn cách về địa lý. “Cây gậy Thần” thuộc về vị Thầy phương Đông cũng có thể chỉ “Pháp Luân Đại Pháp” hoặc “Pháp Luân”. “Đánh thức mọi người bằng cây gậy Thần của Ngài”: Thông qua hồng truyền Pháp Luân Đại Pháp, Ông Lý Hồng Chí đã đánh thức vô số người trở về với bản tính chân thật của họ. Con người trầm luân trong thế gian nay đã thức tỉnh, trở về với bản tính nguyên thủy, phản bổn quy chân dưới sự chỉ đạo của “Chân-Thiện-Nhẫn”, nguyên lý của Pháp Luân Đại Pháp.

Trong bài thơ thứ hai, “Đợi từ lâu, Ngài sẽ không bao giờ trở lại” là chỉ năm 1999. Trong năm ấy, những người cầm quyền đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã tiến hành trấn áp tàn bạo Pháp Luân Đại Pháp và “truy nã” bất hợp pháp người sáng lập. Toàn Trung Quốc Đại Lục chìm trong khủng bố đỏ; Trung Quốc trở thành nơi tà ác nhất, chà đạp tín ngưỡng của nhân dân. Sự kiện này được giải thích trong “Đợi từ lâu, Ngài sẽ không bao giờ trở lại”.

Ngài sẽ xuất hiện ở Châu Á” là chỉ thời điểm khi mà cuộc đàn áp kết thúc. Nó hàm ý rằng thế lực tà ác cuối cùng sẽ sụp đổ, và “người phương Đông” chắc chắn sẽ trở về. Câu cuối là “Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị Vua của phương Đông”. Nó ngầm chỉ uy vọng và sức ảnh hưởng mà người phương Đông sẽ có trong tương lai, bất chấp sự vu khống và phỉ báng của chính phủ Trung Quốc.

«Các Thế Kỷ», tuyển tập những bài thơ tiên tri nổi tiếng nhất Tây phương, đã dự đoán chính xác rất nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử, nhưng cũng có một số trường hợp không khớp. Lấy hai bài thơ trên làm ví dụ. Ông Lý Hồng Chí không sang định cư tại Pháp, mà là tại Mỹ. Như chúng ta biết, các nhà tiên tri bằng cách nào đó đã thấy được cảnh tượng trong tương lai ở một thời-không khác. Không phải là điều mà họ trông thấy không chính xác, mà chính là “tương lai” đã được an bài lại, nên đã có thay đổi về một số phương diện. Do đó, nước Pháp (“Gaul” trong bài thứ nhất) trên thực tế lại là nước Mỹ, và “Châu Âu” trong bài thứ hai thực ra lại là Châu Mỹ. Ông Lý Hồng Chí đã đề cập điều này tại một trong những bài giảng của mình:

Tôi có thể chọn đi bất cứ đâu, và đúng là tôi đã chọn ở tại Mỹ quốc. Lúc đầu cựu thế lực đã an bài cho tôi sang Pháp, và điều đó thậm chí còn được đề cập trong một số lời tiên tri.” («Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc vào tiết Nguyên Tiêu năm 2003», phần hỏi-đáp, bản dịch chưa chính thức)

Lời tiên tri sau đây thậm chí còn rõ ràng và dễ hiểu hơn nữa. Nó cũng là về “người phương Đông”.

Các Thế Kỷ II, Khổ 27

Nguyên văn tiếng Pháp:

Le diuin verbe sera du ciel frappé
Qui ne pourra proceder plus auant,
Du reserant le secret estoupé
Qu’on marchera par dessus & deuant.

Tiếng Anh:

The divine word will be struck from the sky,
One who cannot proceed any further:
The secret closed up with the revelation,
Such that they will march over and ahead.

Tiếng Việt:

Lời của Thần sẽ bị đánh từ trên bầu trời,
Người không thể tiến bước thêm nữa,
Bí mật được khép lại với sự hé mở,
Họ sẽ tiếp tục bước đi về phía trước.

Ở nhiều lời tiên tri trong «Các Thế Kỷ», Nostradamus đã sử dụng các từ “Tân Thánh nhân” (new sage), “Thánh ngôn” (divine word), “Thánh tâm” (divine spirit) và “Thánh đồ” (divine ones) để biểu thị nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Pháp Luân Đại Pháp, tinh thần “Chân-Thiện-Nhẫn” và đệ tử Đại Pháp. Từ những lời này, chúng ta có thể thấy tâm hồn nhà tiên tri 400 năm trước là thần thánh như thế nào.

Cả bốn câu trong bài thơ tứ tuyệt trên đều mô tả điều giống như cuộc đàn áp bắt đầu vào năm 1999. “Lời của Thần” là Pháp Luân Đại Pháp. “Bị đánh từ trên bầu trời” rất tương tự với “Đại vương Khủng bố từ trên trời xuống” trong một bài thơ khác (Các Thế Kỷ X, khổ 72). Cả hai bài thơ đều đề cập đến cuộc đàn áp Pháp Luân Công tại Trung Quốc do Giang Trạch Dân và ĐCSTQ phát động vào tháng 7 năm 1999.

Người không thể tiến bước thêm nữa” đã mô tả trở ngại to lớn chưa từng có mà “người phương Đông” gặp phải. Trong câu thứ ba, “ mật được khép lại với sự hé mở” chỉ sự phong tỏa thông tin và kiểm soát công luận thông qua tuyên truyền của ĐCSTQ, từ đó hoàn toàn đóng lại “bí mật” cũng như chân tướng về cuộc bức hại, không cho người dân Trung Quốc biết.

Câu cuối cùng biểu đạt rằng người phương Đông và các đệ tử của Ngài (đệ tử Đại Pháp), tuy gặp phải khó khăn và trở ngại to lớn nhưng vẫn không dừng bước. Họ sẽ giảng chân tướng, phản bức hại để “tiếp tục tiến bước”.

*  *  *  *  *

Chú thích của người dịch:

(*) Apennine: Một trong hai dãy núi lớn tại nước Ý (cùng với dãy Alps).

(**) Hermes (tiếng Hy Lạp: Ἑρμῆς): một trong 12 vị Thần trên đỉnh Olympus của thần thoại Hy Lạp, vị Thần đã tạo ra đàn lia (lyre). Thần Hermes là con của Zeus và Maia.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/2/13/31110.html
http://www.pureinsight.org/node/2865

The post “Người phương Đông” được dự ngôn trong «Các Thế Kỷ» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/nguoi-phuong-dong-duoc-du-ngon-trong-cac-the-ky-cua-nostradamus.html/feed0
Giải mã những bức họa trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamushttps://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-nhung-buc-hoa-trong-cuon-sach-that-lac-cua-nostradamus.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-nhung-buc-hoa-trong-cuon-sach-that-lac-cua-nostradamus.html#respondSat, 19 Mar 2011 19:04:47 +0000https://chanhkien.org/?p=11070Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] Giới thiệu Nostradamus lúc sinh tiền đã vẽ một tập các bức họa, minh họa một bộ phận quan trọng những lời tiên tri nổi tiếng của ông; đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông viết tác phẩm «Các Thế Kỷ». Rất may là những bức họa bị thất […]

The post Giải mã những bức họa trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

Giới thiệu

Nostradamus lúc sinh tiền đã vẽ một tập các bức họa, minh họa một bộ phận quan trọng những lời tiên tri nổi tiếng của ông; đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông viết tác phẩm «Các Thế Kỷ». Rất may là những bức họa bị thất lạc này hiện vẫn đang được bảo tồn một cách hoàn hảo – đây chính là «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus (The Lost Book of Nostradamus) [*].

Trong số đó, 7 bức họa ở gần cuối mang những đặc điểm như sau: Có hình mặt trăng tươi cười; hình bọ cạp; mặt trời; hùng sư; thuyền lớn; gậy lớn; cây đại thụ; cánh tay cầm kiếm sắc; con bò; cung thủ; phụ nữ; cân tiểu ly; song ngư; một nữ nhân hình dáng khó coi; con cừu; con hươu; còn có cả cuốn sách mà Nostradamus đang tự mình đọc. Trong 7 bức họa này, trên đầu mỗi bức họa gần như đều xuất hiện một “bánh xe”.

Chú giải

Chú giải của người viết cho «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus:

1. Mặt trăng tươi cười, biểu thị nữ thần Mặt trăng Artemis.

2. Con bọ cạp, biểu thị bọ cạp có độc hoành hành thế gian.

3. Hùng sư, tượng trưng cho người tu luyện Phật Pháp tựa như sư tử mạnh mẽ, dũng mãnh tinh tấn.

4. Thuyền lớn, biểu thị cho “thuyền Pháp”.

5. Nostradamus đang đích thân đọc một cuốn sách có liên hệ với hình “bánh xe” (chỉ Pháp Luân).

6. Ba người phụ nữ, thể hiện ý nghĩa rằng “người truyền người, tâm truyền tâm”.

7. Cánh tay cầm kiếm sắc, ám chỉ thanh kiếm của Mars, hay thanh kiếm của quỷ Sa-tăng (dải băng hình chữ “S” cuốn vào biểu thị sự diệt vong).

8. Cây đại thụ màu xanh, tượng trưng cho nền văn minh.

9. Cây gậy đánh bật gốc cây đại thụ, có ý là “chà đạp nền văn minh”.

10. Con cừu phi nhanh về phía trước, ám chỉ “con chiên” trong «Khải Huyền» của «Thánh Kinh».

11. Con bò, biểu thị cho súc sinh.

12. Cân tiểu ly, ám chỉ sự phán xét nhân tâm.

13. Cây đại thụ màu xanh trên cuốn sách, có thể hiểu là văn minh được ghi chép trong sử sách, tức “lịch sử nền văn minh”.

14. Người phụ nữ xấu xí với mái tóc dài, chính là “đại dâm phụ” được miêu tả trong «Khải Huyền» của «Thánh Kinh».

15. Đôi cá, biểu thị chòm sao Song Ngư, cũng chính là thời kỳ nhân loại ngày nay.

16. Một con huơu, ngầm chỉ thành ngữ “mất bò mới lo làm chuồng”.

17. Hai nữ nhân, biểu thị hai loại vận mệnh khác nhau, đồng thời cũng đại biểu cho hai sự lựa chọn khác nhau.

Thơ kết

Tác giả bài viết xin dâng tặng những vần thơ sau đến Điện thờ thần Artemis:

Hình vẽ số 70 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 70 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Nữ thần Mặt trăng Artemis,
Với “bánh xe” đến từ Trời,
Đạo đức suy đồi, thế giới mười điều ác,
Thiên thể, tinh hệ được trùng tổ canh tân.

Hình vẽ số 66 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 66 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Trên thiên không,
“Bánh xe” xoay chuyển,
Giữa ánh hào quang,
Dũng mãnh tinh tấn.

Hình vẽ số 71 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 71 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 71 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

“Bánh xe” xoay chuyển,
Pháp thuyền độ chúng sinh,
Mấy ai được bước lên?
Mau đọc «Chuyển Pháp Luân».

Hình vẽ số 68 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 68 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Thanh kiếm trong tay Mars,
Hướng vào “bánh xe” xoay chuyển,
Nền văn minh bị chà đạp,
Bọ cạp hoành hành thế gian.

Hình vẽ số 69 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 69 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hỡi nữ phu nhân lương thiện,
Cô nhất định phải lựa chọn,
Giữa tín ngưỡng và sinh mệnh,
Nhân tính đang trong phán xét,
Lương tri được đặt lên cân,
Kẻ bức hại như súc sinh.

Hình vẽ số 67 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 67 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Đại dâm phụ phương Đông,
Con thú màu đỏ.
Văn minh năm nghìn năm,
Bị nó phá hoại.
Con người không tin thần linh,
Bức hại thời đó phát sinh.

Hình vẽ số 72 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Hình vẽ số 72 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Mỗi người đều đang tự lựa chọn,
Hay mất bò mới lo làm chuồng?
Nostradamus giới thiệu cuốn sách này,
Mong mọi người tương lai tươi sáng.

Xin hãy nhớ rằng:
Pháp Luân Đại Pháp hảo!
Chân Thiện Nhẫn hảo!
Chân tướng bảo bình an!

*   *   *   *   *

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Chú thích của người dịch (tham khảo):

[*] «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus (The Lost Book of Nostradamus) được phát hiện vào năm 1994 bởi hai nhà báo người Ý là Enza Massa và Roberto Pinotti tại Thư viện Quốc gia ở Rome, bao gồm 80 bức tranh màu nước, trên bìa ghi năm 1629 với tựa đề “Nostradamus Vatinicia Code”. Bản gốc này chưa từng được Nostradamus công bố, chỉ được truyền lại cho con trai ông và sau đó được dâng tặng Giáo hoàng Urban VIII. Các bức họa trong cuốn sách bao gồm những vật thể mang tính tượng trưng, Giáo hoàng, thiên thần, chữ viết, động vật, dải băng, chiếc kèn, thánh giá, cây nến, v.v. dùng để biểu đạt một ý nghĩa tiên tri nào đó.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

«Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus.

Khi đối chiếu những hình vẽ được tiên tri trong cuốn sách với sự việc đã diễn ra, người ta thấy sự trùng hợp đến đáng kinh ngạc. Ví dụ trong hình vẽ số 46 về một ngọn tháp đang cháy, người ta thấy trùng hợp với vụ khủng bố ngày 11/9/2001 khi máy bay đâm vào hai tòa tháp trung tâm thương mại thế giới tại New York; hình vẽ số 50 về tòa tháp phát nổ, tương tự vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Chernobyl tại Liên Xô năm 1982; hay hình vẽ số 56 về “con rắn chống Chúa” trong «Khải Huyền» của «Thánh Kinh», được nhiều người cho là ứng với cuộc đàn áp Pháp Luân Công tại Trung Quốc bắt đầu vào ngày 20/7/1999.

Hình vẽ số 46 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus về ngọn tháp đang cháy.

Hình vẽ số 50 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus về tòa tháp phát nổ.

Hình vẽ số 56 trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus về “con rắn chống Chúa” trong «Khải Huyền» của «Thánh Kinh».

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/12/1/69467.html

The post Giải mã những bức họa trong «Cuốn sách thất lạc» của Nostradamus first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-nhung-buc-hoa-trong-cuon-sach-that-lac-cua-nostradamus.html/feed0
Tiên tri về sự thống trị tà ác và tai họa của ĐCSTQ – giải mã “Các Thế Kỷ”https://chanhkien.org/2010/11/tien-tri-ve-su-thong-tri-ta-ac-va-tai-hoa-cua-dcstq-giai-ma-cac-the-ky.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/tien-tri-ve-su-thong-tri-ta-ac-va-tai-hoa-cua-dcstq-giai-ma-cac-the-ky.html#respondMon, 29 Nov 2010 15:03:49 +0000https://chanhkien.org/?p=9852Tác giả: Chủ Lực [Chanhkien.org] Các Thế Kỷ I, Khổ 16 Nguyên văn tiếng Pháp: Faux à l’Eƒtang, ioint vers le Sagittaire, En ƒon haut auge & l’exaltation, Peƒte, famine, mort de main militaire. Le ƒiecle approche de renouation. Tiếng Anh: A scythe joined with a pond in Sagittarius at its highest ascendant. Plague, famine, […]

The post Tiên tri về sự thống trị tà ác và tai họa của ĐCSTQ – giải mã “Các Thế Kỷ” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chủ Lực

[Chanhkien.org]

Các Thế Kỷ I, Khổ 16

Nguyên văn tiếng Pháp:

Faux à l’Eƒtang, ioint vers le Sagittaire,
En ƒon haut auge & l’exaltation,
Peƒte, famine, mort de main militaire.
Le ƒiecle approche de renouation.

Tiếng Anh:

A scythe joined with a pond in Sagittarius
at its highest ascendant.
Plague, famine, death from military hands;
the century approaches its renewal.

Tiếng Việt:

Lưỡi liềm lớn xuất hiện ở vị trí cao nhất của ngôi sao,
Gắn liền với xạ thủ Sagittarius.
Bệnh dịch, nạn đói, và cái chết trong tay quân đội,
Ở ngay gần sự tái sinh của thế kỷ.

“Lưỡi liềm lớn” được đề cập ở câu đầu tiên, nhìn từ góc độ biểu tượng, là ký hiệu trên lá cờ của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tà ác, đại diện cho bạo lực và khủng bố. 100 năm trước ngày tận thế của thế giới, nó sẽ cuốn sạch toàn cầu, gây họa loạn cho nhân loại. Với tà thuyết vô thần và bạo lực, nó sẽ thiết lập sự thống trị bạo chính màu đỏ như một làn sóng, đoạt lấy “vị trí cao nhất của ngôi sao”, nô dịch nhân dân. Không những vậy, tự nó còn lấy lý luận và chủ nghĩa tà ác của mình cưỡng chế truyền bá lên nhân dân, chiếm lấy hình thái ý thức tư tưởng và tinh thần tối cao, tiến hành giáo dục tẩy não toàn diện, từ đó hủy hoại vô số sinh mệnh vô tội.

Sagittarius, như được đề cập ở câu thứ hai, là một chòm sao quan trọng trong chiêm tinh học của người Tây phương. Nó đại biểu cho tinh thần cao quý của triết học và tôn giáo. Nhưng trong bài thơ này, nó lại dự đoán rằng một kẻ ti tiện sẽ đắc ý, khiến cả con người và ma quỷ đều điên đảo.

Trong câu thứ ba, tình thế xoay chuyển và xấu đi nhanh chóng. Sự thống trị bạo ngược tà ác của ĐCSTQ chỉ có thể mang lại hậu quả bi thảm, sự hối tiếc và nỗi xót xa vô tận. ĐCSTQ khống chế tất cả bộ máy bạo lực chuyên chính. Bản tính khát máu thúc giục nó thường xuyên tiến hành bức hại điên cuồng để diệt trừ sự bất đồng qua các chiến dịch khủng bố. Lấy ví dụ, trong hơn 50 năm kể từ khi ĐCSTQ tà ác đoạt chính quyền cho tới nay, nó đã tiến hành nhiều cuộc vận động và giết hại hơn 80 triệu người dân Trung Quốc.

Câu cuối cùng tiên đoán rằng toàn bộ vật chất và sinh mệnh thuộc chu kỳ văn minh lần này của địa cầu sẽ trải qua một quá trình tịnh hóa triệt để vào khoảng cuối thế kỷ.

*  *  *  *  *

Chú thích của người dịch:

(*) Các Thế Kỷ: Tên gọi khác của Les Propheties, cuốn sách tiên tri nổi tiếng của Nostradamus (1503-1566), một nhà chiêm tinh học người Pháp. Những lời tiên đoán của ông được thể hiện dưới dạng các bài thơ tứ tuyệt có vần.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://minghui.org/mh/articles/2007/9/7/162254.html
http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2007/9/14/89545.html

The post Tiên tri về sự thống trị tà ác và tai họa của ĐCSTQ – giải mã “Các Thế Kỷ” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/tien-tri-ve-su-thong-tri-ta-ac-va-tai-hoa-cua-dcstq-giai-ma-cac-the-ky.html/feed0
Tiên đoán của Nostradamus về kẻ chống Chúa thứ bahttps://chanhkien.org/2010/06/tien-doan-cua-nostradamus-ve-ke-chong-chua-thu-ba.htmlhttps://chanhkien.org/2010/06/tien-doan-cua-nostradamus-ve-ke-chong-chua-thu-ba.html#respondMon, 21 Jun 2010 06:05:07 +0000http://chanhkien.org/?p=6315[Chanhkien.org] Nostradamus đã tiên đoán rằng sẽ có ba kẻ chống Chúa đến thế giới này. Người ta đã chấp nhận rộng rãi rằng Napoleon là kẻ chống Chúa thứ nhất và Hitler là người thứ hai. Người thứ ba, xuất hiện vào cuối thế kỷ 20, vẫn chưa được công nhận rộng rãi. Trong […]

The post Tiên đoán của Nostradamus về kẻ chống Chúa thứ ba first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Nostradamus đã tiên đoán rằng sẽ có ba kẻ chống Chúa đến thế giới này. Người ta đã chấp nhận rộng rãi rằng Napoleon là kẻ chống Chúa thứ nhất và Hitler là người thứ hai. Người thứ ba, xuất hiện vào cuối thế kỷ 20, vẫn chưa được công nhận rộng rãi.

Trong “Tham khảo lời tiên tri”, Ngài Lý Hồng Chí đã nhắc đến một vị “Đại Vương khủng bố.” Trong nhiều nghiên cứu về Nostradamus, vị Vua của những nỗi kinh hoàng này đ­ược ng­ười ta cho rằng chính là ng­ười chống Chúa thứ ba.

Trong một đoạn ít đ­ược biết đến, Nostradamus cũng đã gợi ý một vài chi tiết:

Các Thế Kỷ I, Khổ 50:

Nguyên văn tiếng Pháp:

De l’aquatique triplicité naistra,
D’vn qui fera le Ieudy pour sa feste.
Son bruit, los, regne, sa puissance croistra,
Par terre & mer,aux Oriens tempeste.

Tiếng Anh:

From the three water signs will be born a man
who will celebrate Thursday as his holiday.
His renown, praise, rule and power will grow
on land and sea, bringing trouble to the East.

Tiếng Việt:

Từ ba dấu hiệu của Thủy sẽ sinh ra một ng­ười đàn ông,
Kỷ niệm thứ Năm như­ là ngày lễ hội của ông ta.
Danh tiếng, sự tán tụng, và quyền lực của ng­ười này sẽ lớn mạnh
Trên đất và biển, đem đến tai hoạ cho ph­ương Đông.

Giang Trạch Dân (cựu Chủ tịch nước của Trung Quốc) sinh ra tại tỉnh Giang Tô. Tên ông ta có chứa hai ký hiệu của Thủy: “Giang” là sông và “Trạch” là hồ theo Hán văn. Nơi sinh của ông ta ra là tỉnh Giang Tô cho ta dấu hiệu Thủy thứ ba. Lần đầu tiên ông ta chiếm đ­ược tiếng tăm trên toàn quốc là ở Th­ượng Hải (“Hải” là biển). Bây giờ ông đang ở tại Trung Nam Hải (biển), Bắc Kinh. Trong nhiệm kỳ của ông ta, Trung Quốc đã gánh chịu ba đợt lũ lớn (1997, 1998, 1999).

Chức vụ của Giang Trạch Dân bao gồm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, và Chủ tịch Quân ủy Trung ương, là ba vị trí cao nhất ở Trung Quốc. Việc đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân đã đem đến thảm họa đen tối cho ngư­ời dân Trung Quốc. Ông ta c­ưỡng bức áp đặt chủ nghĩa vô thần lên tất cả mọi ngư­ời ở Trung Quốc và chống lại tất cả mọi tôn giáo (bao gồm cả Cơ Đốc giáo). Tất cả các sự kiện này trùng hợp với lời mô tả của Nostradamus về kẻ chống Chúa thứ ba.

Câu cuối cùng “Đem đến tai họa cho ph­ương Đông” có thể mô tả sự phá hoại của Giang Trạch Dân chỉ giới hạn trong phạm vi Trung Quốc và Châu Á. Những cố gắng tuyên truyền của ông ta không đem đến kết quả mong đợi ở Tây ph­ương. Nếu chúng ta nhìn xem cách chính quyền và ng­ười dân Tây ph­ương hỗ trợ và bao bọc Pháp Luân Công, rõ ràng là thời điểm kết thúc của Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa thứ ba, đã gần kề.

So với hai ng­ười tr­ước – Napoleon và Hitler – sự phá hoại mà Giang Trạch Dân đem đến cho thế giới sẽ bị kiềm chế và ở trong phạm vi nhỏ hơn.

*  *  *  *  *

Chú thích của người dịch:

(*) Các Thế Kỷ: Tên gọi khác của Les Propheties, cuốn sách tiên tri nổi tiếng của Nostradamus (1503-1566), một nhà chiêm tinh học người Pháp. Những lời tiên đoán của ông được thể hiện dưới dạng các bài thơ tứ tuyệt có vần.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://www.clearwisdom.net/emh/articles/2000/11/24/6044.html
http://www.minghui.cc/gb/0001/Nov/21/Nostradamus_third_prophet_112100_dajia.html

The post Tiên đoán của Nostradamus về kẻ chống Chúa thứ ba first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/06/tien-doan-cua-nostradamus-ve-ke-chong-chua-thu-ba.html/feed0
Lời tiên tri của Nostradamus về Sư Phụ Lý và Pháp Luân Đại Pháphttps://chanhkien.org/2009/10/loi-tien-tri-cua-nostradamus-ve-su-phu-ly-va-phap-luan-dai-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2009/10/loi-tien-tri-cua-nostradamus-ve-su-phu-ly-va-phap-luan-dai-phap.html#respondMon, 19 Oct 2009 20:53:38 +0000https://chanhkien.org/?p=3266—Từ “Nostrasdamus – The New Revelations” (John Hogue, Element Books 1994) [Chanhkien.org] Trong rất nhiều sách về Nostradamus [1], quyển sách này làm tôi đặc biệt chú ý, không phải vì nó có nhiều tấm hình đẹp (chúng khiến cho quyển sách rất dễ đọc), mà là vì giọng văn đơn giản cùng những phân […]

The post Lời tiên tri của Nostradamus về Sư Phụ Lý và Pháp Luân Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
—Từ “Nostrasdamus – The New Revelations”
(John Hogue, Element Books 1994)

[Chanhkien.org] Trong rất nhiều sách về Nostradamus [1], quyển sách này làm tôi đặc biệt chú ý, không phải vì nó có nhiều tấm hình đẹp (chúng khiến cho quyển sách rất dễ đọc), mà là vì giọng văn đơn giản cùng những phân tích và lý giải cặn kẽ của nó.

Những điều sau đây là lấy thẳng từ quyển sách đó mà tôi tin là những huyền ký về Pháp Luân Đại Pháp. Những chữ in nghiêng là trích dẫn trực tiếp từ Nostradamus.

CHƯƠNG 15: MỘT ĐẠO TU MỚI

1. Người đàn ông đến từ phương Đông nhưng sống ở phương Tây

Ngài sẽ xuất hiện ở Á Đông và cư trú tại Âu Châu (có thể chỉ phương Tây nói chung)
Ngài từ phương Đông sẽ rời khỏi chỗ  của Ngài.
Vượt qua dãy Apennines [2] để trông thấy nước Pháp,
Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời
.

2. Cây gậy của thần Hermes [3] vĩ đại

Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, mưa và tuyết,
Và gõ mọi người bằng cây gậy của Ngài
.

3. Người Thầy bị đặt ngoài vòng Pháp luật

Một người sẽ bị buộc tội tiêu hủy các ngôi đền và tôn giáo,
Bị cải biến bởi những điều hoang tưởng.
Ngài sẽ làm hại đá hơn là các sinh mệnh,
Tai sẽ tràn đầy những lời thuyết giảng đẹp đẽ.

4. Nữ thần Diana (Mặt trăng) và Dhyan (thiền định)

Sớm hay muộn các ngươi sẽ chứng kiến những sự thay đổi vĩ đại,
Nỗi kinh hoàng và sự báo thù
tột độ,
Để Mặt trăng được dẫn dắt bởi thiên thần của nó,
Các cõi trời tiến tới sự Cân bằng.
Mặt trăng lúc nửa đêm…
Vị thánh nhân trẻ tuổi một mình với tâm trí đã trông thấy nó.
Các đệ tử của Ngài đem lại điều rằng Ngài trở nên bất diệt…
Cơ thể của Ngài trong ánh sáng.

Phật Tất Đạt Đa (Thích Ca Mâu Ni) tuyên bố rằng ‘Pháp Luân’ – cỗ máy cho sự tiến hóa tâm linh của con người – sẽ được chuyển mỗi 25 thế kỷ một lần bởi một vị Thầy của thế giới để tạo sự nâng cấp nhân loại lên những cảnh giới tâm thức mới. Một lần chuyển mới đến vào cuối thiên niên kỷ này (thế kỷ 20) (Chỉ định tới Pháp Luân Đại Pháp không thể nào rõ ràng hơn được).

5. Nữ thần Diana (Mặt trăng) và Dhyan

Ngài sẽ lấy ngày của Nữ thần Diana,
Làm ngày cho sự nghỉ ngơi bình yên của Ngài.
Ngài sẽ đi xa và rộng với sự thôi thúc để làm nổi giận,

Giải cứu một dân tộc vĩ đại khỏi sự khuất phục.

Đoạn 5 cũng nhắc tới một ‘dân tộc’ có liên hệ với thần Hermes, Mặt trăng, sự thiền định (Dhyan) và sự kiện đi sang phương Tây của một vị Thầy phương Đông. Có lẽ vị Thầy đi, hay là sẽ đi vòng quanh thế giới? Có thể thông điệp gây tranh cãi về “sự thôi thúc để làm nổi giận” các đức tin chính thống sẽ giữ Thầy luôn di chuyển. Nostradamus ám chỉ rằng Ngài chỉ nghỉ ngơi vào ngày của nữ thần Diana, tức là ngày thứ Hai, ngày Mặt trăng.

6. Sự xuất hiện của đức Phật Di Lặc (Maitreya)

Giọng nói êm dịu của người bạn thiêng liêng được nghe nơi mảnh đất thánh.
Ngọn lửa nhân loại chiếu sáng giọng nói thần thánh.
Nó sẽ làm Trái đất bị kéo căng bởi máu của những tu sĩ xuất gia,
Và tiêu hủy những ngôi đền linh thiêng (hay giả dối) của những kẻ ô uế.

Phật Tất Đạt Đa (Thích Ca Mâu Ni) dạy rằng Pháp Luân – lời dạy về chân lý, là giống như một bánh xe vĩ đại mà 2.500 năm sau lần chuyển thứ nhất, sẽ hết xung lực. Vị Thầy vĩ đại kế tiếp của thế giới, người mà mang tên ‘Di Lặc’ (Maitreya) có nghĩa là ‘người bạn’, sẽ xuất hiện vào khoảng năm 2.000 sau công nguyên để phục hồi lại xung lực và sức mạnh cho những ai tìm kiếm chân lý tôn giáo…

Đoạn thơ bốn câu này tiên đoán rằng tôn giáo có tổ chức sẽ bị tiêu hủy bởi chân lý được giảng ra do “người bạn” thông qua “ngọn lửa nhân loại” của một tôn giáo mới.

Bà Blavatsky, một trong những nhà tiên tri thần học hàng đầu trong thế kỷ 19 đã tiên đoán rằng đức Phật Di Lặc sẽ xuất hiện ở Á Đông vào khoảng năm 1950.

(Tác giả John Hogue đã liệt kê 10 ứng cử viên gốc Á được cho là có thể là vị Thầy của thế giới này. Tuy nhiên, phần lớn các ứng cử viên đã qua đời vào thời điểm cuốn sách này được xuất bản (1994). Trong số những người còn sống có ông Swami Maharishi Mehesh Yogi người Ấn Độ (1911- ), người sáng lập Phong trào Thiền định Siêu Việt, và ông Sun Myung Moon (1920 -), người sáng lập Giáo hội Thống nhất ở Hàn Quốc.

Mối liên hệ mật thiết của ông Mehesh với những tôn giáo có tổ chức và sự liên hệ với chính trị của ông Moon đã được tác giả đặt câu hỏi và họ được tin là khó có thể là vị Thầy của thế giới mà Nostradamus đã mô tả.

Không có người Trung Quốc nào được liệt kê trong danh sách. Quyển sách được xuất bản vào năm 1994. Việc biên soạn có thể là một hay hai năm trước đó, nghĩa là vào năm 1992, năm mà Sư Phụ Lý Hồng Chí bắt đầu truyền dạy Pháp Luân Công tại Trung Quốc. Nếu như ông John Hogue viết cuốn sách đó ngày hôm nay, thật khó mà ông không thêm vào tên Sư Phụ Lý Hồng Chí và Pháp Luân Đại Pháp).

Một học viên Pháp Luân Đại Pháp tại Bắc Mỹ.
Tháng 10 năm 2000

*  *  *  *  *

Chú thích của người dịch:

[1] Nostradamus (1503-1566): nhà tiên tri lừng danh người Pháp, tác giả cuốn sách tiên tri Những Thế Kỷ (Les-Centuries).
[2] Apennines : Một trong hai dãy núi lớn tại nước Ý (cùng với dãy Alps).
[3] Hermes (tiếng Hy Lạp: Ἑρμῆς): một trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus của thần thoại Hy Lạp, thần đã tạo ra đàn lia (lyre). Thần Hermes là con của Zeus và Maia.

Ghi chú: Để hiểu được toàn bộ nội dung «Các Thế Kỷ», mời quý độc giả đọc loạt bài “Những vần thơ cứu thế — Tận giải «Các Thế Kỷ» của Nostradamus“.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/845

The post Lời tiên tri của Nostradamus về Sư Phụ Lý và Pháp Luân Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/10/loi-tien-tri-cua-nostradamus-ve-su-phu-ly-va-phap-luan-dai-phap.html/feed0