nhận thức về thơ | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Nhận thức chung về thơ (2): Ngắt câu (Cú đậu)https://chanhkien.org/2022/07/nhan-thuc-chung-ve-tho-2-ngat-cau-cu-doc.htmlTue, 12 Jul 2022 23:51:47 +0000https://chanhkien.org/?p=28794Tác giả: Văn Tư Cách [ChanhKien.org] Thời xưa có một gia đình, một ngày nọ trời mưa, họ có một vị khách đến chơi. Người chủ nhà không muốn cho khách ở lại, liền viết một mảnh giấy đưa cho người khách: “Hạ vũ thiên lưu khách, thiên lưu ngã bất lưu.” (nghĩa là: Trời […]

The post Nhận thức chung về thơ (2): Ngắt câu (Cú đậu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Văn Tư Cách

[ChanhKien.org]

Thời xưa có một gia đình, một ngày nọ trời mưa, họ có một vị khách đến chơi. Người chủ nhà không muốn cho khách ở lại, liền viết một mảnh giấy đưa cho người khách: “Hạ vũ thiên lưu khách, thiên lưu ngã bất lưu.” (nghĩa là: Trời mưa giữ khách ở lại, nhưng trời giữ chứ tại hạ không giữ). Sau khi người khách đọc lời nhắn, liền yên tâm ở lại nhà của chủ nhà, không có mảy may ý nghĩ cần phải đi. Chủ nhà thấy rất kỳ lạ, liền không nhẫn được hỏi người khách: “Ông không thấy tin nhắn tôi đưa sao?” “Đọc rồi, đọc rồi mà”. “Vậy tại sao ông còn chưa đi?” “Đó không phải tấm lòng tốt của ông đó sao?” “ Ông,…?” người khách lại cầm mẩu tin lên, đọc sang sảng “Hạ vũ thiên, lưu khách thiên, lưu ngã bất? lưu!” (nghĩa là: Ngày trời mưa, ngày giữ khách, giữ tôi không? giữ lại!) sau đó nói, “Tôi còn chưa hỏi ông mà ông đã trả lời trước cho tôi rồi.”.

Thời Trung Quốc thời cổ đại không có ký hiệu dấu ngắt câu, cứ viết nối tiếp không có khoảng cách, vì vậy điều đầu tiên cần làm khi đọc một đoạn văn chính là “ngắt câu” (tức lài tìm xem từ đâu đến đâu là một câu). Nhà thơ Hàn Dũ trong tác phẩm “Sư thuyết” nói: “Thầy dạy học vỡ lòng cho trẻ nhỏ, là phải dạy đọc sách và cách ngắt câu”. Trong đó “cú đậu”(句讀: chữ “đậu” 讀 ở đây đọc cùng âm đậu 逗 có nghĩa là dừng ngắt) chính là “ngắt câu” và “ngừng ngắt trong câu” (bao gồm “dấu phẩy” và khoảng ngừng ngắn giữa câu mà không sử dụng ký hiệu gì). Ngắt câu mà đọc sai sẽ sinh ra hiểu lầm. Mỗi cách “đọc” khác nhau của câu “Hạ vũ thiên lưu khách, thiên lưu ngã bất lưu.” làm cho ý nghĩa cũng hoàn toàn tương phản. Một số tài liệu cổ đã bị người đời sau giải thích hoàn toàn khác đi, tạo thành không ít hỗn loạn, nguyên nhân chính là người đời sau có sự bất đồng về ngắt câu.

Cách tạo câu trong thơ ca đã được cố định (ở đây chúng ta chỉ xem xét các bài thơ 5 chữ, 7 chữ và các bài từ có lời từ cố định), do đó chúng ta chỉ nói về cách “đọc”. Từ ngữ của tiếng Hán rất đặc biệt, một âm là 1 từ, từ ghép có hai âm tiết cũng là do từ đơn âm tiết tổ hợp thành, vì vậy cách “đọc” thơ đều là do “đọc 1 từ” và “đọc 2 từ” tổ hợp mà thành: cho dù là thể thơ có số lượng chữ trong câu thơ cố định hay thể thơ có số chữ trong mỗi câu thơ không đều nhau thì đều có thể phân nhỏ về các loại hình thức tổ hợp “đọc 1 chữ” và “đọc 2 chữ”; hơn nữa nói chung thì trọng âm khi “đọc 2 chữ” rơi vào từ thứ nhất, như thế đã cố định “nhịp điệu” và “tiết tấu” của một bài thơ hoặc một bài từ.

Để thuận tiện, chúng tôi dùng chữ in đậm để biểu thị chữ khi đọc nhấn mạnh, chữ in thường biểu thị cho từ đọc nhẹ, sử dụng dấu gạch ngang “-” biểu thị khoảng dừng giữa các từ; khi mới học đọc thơ nên đọc lớn những chỗ nhấn mạnh và khoảng dừng thơ, như thế sẽ dễ dàng dần dần bồi dưỡng sự mẫn cảm đối với nhịp điệu và tiết tấu của thơ. Xin mời các bạn đọc tốc độ chậm bài thơ sau đây, cố gắng làm nổi bật sự khác nhau của đọc nhấn mạnh và đọc nhẹ, và cũng kéo dài thỏa đáng khoảng dừng giữa các từ.

登鸛雀樓(王之渙): 白日依山盡, 黃河入海流。 欲窮千裡目, 更上一層樓。

Đăng quán tước lầu

(Vương Chi Hoán)

Bạch nhật y sơn tận,

Hoàng Hà nhập hải lưu.

Dục cùng thiên ký mục,

cánh thượng nhất tầng lầu.

Tạm dịch nghĩa:

Bạch nhật dần khuất sau núi,

Sông Hoàng Hà chảy vào biển.

Mắt muốn nhìn xa ngàn dặm,

Hãy lên thêm một tầng lầu.

Cách đọc: Bạch nhật– y sơn — tận, Hoàng Hà — nhập hải — lưu. Dục cùng — thiên lý — mục, Cánh thượng — nhất tầng —lầu.

Cách đọc mỗi câu thơ trên là: 2-2-1, trong đó 2 biểu thị “đọc 2 chữ”, 1 biểu thị “đọc 1 chữ”. Nhưng 3 chữ cuối cùng trong bài thơ 5 chữ và 7 chữ không phải lúc nào cũng được sắp xếp 2-1, một số có thể có cách sắp xếp là 1-2, ví dụ:

相思 (王維):

紅豆生南國, 春來發幾枝? 願君多採擷, 此物最相思。

Tương tư

(Vương Duy)

Hồng đậu sinh nam quốc,

Xuân lai phát kỉ chi?

Nguyện quân đa thái hiệt,

Thử vật tối tương tư.

Tạm dịch nghĩa:

Đậu đỏ sinh ở nước nam,

Xuân đến nẩy mấy cành?

Chàng muốn thì hái thật nhiều,

Vật ấy rất tương tư.

Cách đọc Hồng đậu — sinhNam Quốc, Xuân lai — phátkỉ chi? Nguyện quân — đathái hiệt, Thử vật — tốitương tư.

Cách đọc 4 câu thơ này đều là 2-1-2.

Một số câu thơ căn cứ theo ý nghĩa của nó chỉ có 1 cách đọc, ví dụ “Hồng đậu sinh nam quốc”, nên đọc là 2-1-2, nếu như đọc theo 2-2-1 thì sẽ thành “Hồng đậu – sinh nam – quốc” thì không đúng, bởi vì “sinh nam” không phải là một từ 2 âm tiết có ý nghĩa. Nhưng có một số câu thơ thì cả 2 cách đọc đều có ý nghĩa, ví dụ như câu “Hoàng Hà nhập hải lưu”. Vì vậy nên đọc cách nào thì cần nhìn hoàn cảnh toàn bộ bài thơ mà quyết định. Cách đọc bài thơ 7 chữ chỉ là thêm một lần đọc 2 chữ vào trước câu 5 chữ là được. Nói chung, cách đọc câu thơ của thơ 5 chữ và 7 chữ không ngoài 4 cách sau đây, sự kết hợp của chúng sẽ cấu thành nhịp điệu và tiết tấu của tất cả các bài thơ 5 chữ và 7 chữ:

Cách đọc thơ 5 chữ: 2-2-1 hoặc 2-1-2 Cách đọc thơ 7 chữ: 2-2-2-1 hoặc 2-2-1-2

Trong quá trình sáng tác thơ, tác giả sẽ (hữu ý hoặc vô ý) sử dụng lặp lại nhiều lần các khái niệm và phương pháp đọc thơ. Nếu sử dụng tốt thì sẽ gia tăng tính cảm thụ âm nhạc cho thơ ca, khiến cho việc đọc được trôi chảy vang vang hơn, được lưu loát tâm bổng hơn. Để củng cố khái niệm và phương pháp đọc câu, chúng tôi đưa ra vài ví dụ dưới đây, nếu độc giả hứng thú có thể căn cứ ví dụ để làm thử các bài tập.

Ví dụ 1. Sử dụng phương pháp đổi cách ngắt câu để biến thể thơ tứ tuyệt thành bài thơ “câu dài ngắn” (thơ tạp ngôn có số chữ không đều nhau).

早發白帝城 李白

朝辭白帝彩雲間, 千裡江陵一日還。 兩岸猿聲啼不住, 輕舟已過萬重山。

Tảo phát Bạch Đế thành

(Lý Bạch)

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,

Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú,

Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.

Tạm dịch nghĩa:

Sáng rời thành Bạch Đế trong quảng cảnh bầu trời có mây ngũ sắc,

Vỏn vẹn chỉ trong một ngày đã vượt ngàn dặm thành về đến Giang Lăng,

Hai bờ vang lên tiếng vượn hót không ngưng,

thuyền nhẹ đã vượt qua vạn trùng núi non.

Sửa thành thể câu dài ngắn:

Triêu từ Bạch Đế,

Thái vân gian thiên lý,

Giang Lăng nhất nhật hoàn.

Lưỡng ngạn viên thanh,

Đề bất trú khinh chu,

Dĩ quá vạn trùng san.

Tạm dịch nghĩa:

Sáng rời thành Bạch Đế,

trong quảng cảnh bầu trời có mây ngũ sắc đi nghìn dặm,

Giang Lăng một ngày ta trở về.

Tiếng vượn hai bờ sông, hót không ngưng vời thuyền nhẹ,

đã vượt qua vạn trùng núi non.

Ghi chú: số từ trong câu sau khi chỉnh sửa là cân đối, nhưng nội hàm cơ bản của thơ gốc vẫn được bảo lưu.

Ví dụ 2. Sử dụng phương pháp tương tự để biến thể bài thơ tứ tuyệt sau.

清明 杜牧

清明時節雨紛紛, 路上行人慾斷魂。 借問酒家何處有, 牧童遙指杏花村。

Thanh minh

(Đỗ Mục)

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,

Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn.

Tá vấn tửu gia hà xứ hữu,

Mục đồng diêu chỉ Hạnh Hoa thôn.

Tạm dịch nghĩa:

Thời tiết Thanh minh mưa lất phất,

Người đi trên đường cõi lòng tan nát.

Xin hỏi nơi nào có quán rượu,

Trẻ chăn trâu chỉ thôn Hoa Hạnh ở đằng xa.

Sửa thành thể câu dài ngắn:

Thanh minh thời tiết,

vũ phân phân lộ thượng,

hành nhân dục đoạn hồn.

Tá vấn tửu gia hà xứ hữu mục đồng

diêu chỉ Hạnh Hoa thôn.

Tạm dịch nghĩa:

Thời tiết Thanh Minh, Mưa lất phất trên đường,

Người đi tan nát cõi lòng.

Xin hỏi quán rượu, ở đâu có mục đồng,

chỉ thôn Hoa Hạnh ở đàng xa.

Ghi chú: số lượng chữ trong câu thơ sau khi sửa đổi là cân đối, nhưng nội hàm trong thơ gốc đã bị biến mất: thơ nguyên gốc nói mục đồng giúp người bộ hành tìm quán rượu, còn trong thể câu dài ngắn nói rằng quán rượu giúp người bộ hành tìm mục đồng.

Hai ví dụ sửa thơ trên đây đều ví dụ cho việc bảo lưu câu thơ, thứ tự câu của bài thơ nguyên gốc ban đầu. Nếu như được thay đổi thứ tự giữa câu với câu, từ với từ, thì kết quả sẽ phong phú đa dạng, mà công việc của nhà thơ là từ bức tranh phong phú muôn hình vạn trạng này mà chọn ra 1 bức yêu thích nhất để đưa ra cho độc giả.

Luyện tập: dựa theo phương pháp nêu ở hai ví dụ trên để sửa hai bài thơ Đường dưới đây, đáp án tham khảo sẽ được chúng tôi đăng trong phần cuối của bài viết tiếp theo. Chú ý, cải biến thì câu dài ngắn không nhất định là số chữ cân đối.

涼州詞 王之渙

黃河遠上白雲間, 一片孤城萬仞山。 羌笛何須怨楊柳, 春風不度玉門關。

Lương Châu từ

(Vương Chi Hoán)

Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian,

Nhất phiến cô thành vạn nhận san.

Khương địch hà tu oán “dương liễu”

Xuân phong bất độ “Ngọc Môn Quan”

Tạm dịch nghĩa:

Xa xa sông Hoàng Hà (như) trên vầng mây trắng,

Một thành lẻ loi giữa vạn dặm núi non.

Tiếng sáo của người Khương sao ai oán “dương liễu” (1),

Gió mùa xuân chẳng đến Ngọc Môn Quan.

(Chiết dương liễu là một khúc nhạc nổi tiếng từ thời Hán, khi tiễn biệt nhau thì 2 người bẻ cành liễu tặng nhau để kỷ niệm)

山行 杜牧

遠上寒山石徑斜, 白雲深處有人家。 停車坐愛楓林晚, 霜葉紅於二月花。

Sơn hành

(Đỗ Mục)

Viễn thượng hàn sơn thạch kính tà,

Bạch vân thâm xứ hữu nhân gia.

Đình xa tọa ái vân phong lâm vãn,

Sương diệp hồng vu nhị nguyệt hoa.

Tạm dịch nghĩa:

Xa xa núi lạnh đường đá cheo leo,

Nơi mây trắng thâm sâu có ngôi nhà.

Dừng xe ngồi ngắm rừng phong chiều tà,

Lá gặp sương rơi đỏ hơn cả hoa tháng hai.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/19858

The post Nhận thức chung về thơ (2): Ngắt câu (Cú đậu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhận thức chung về thơ (1): Lời nói đầuhttps://chanhkien.org/2022/07/nhan-thuc-chung-ve-tho-1-loi-noi-dau.htmlFri, 08 Jul 2022 02:55:28 +0000https://chanhkien.org/?p=28778Tác giả: Văn Tư Cách [ChanhKien.org] Tập thơ lâu đời nhất còn tồn tại đến ngày nay ở Trung Quốc là “Kinh Thi” do Khổng Tử biên tập. Kinh thi do ba bộ phận là “Phong”, “Nhã”, “Tụng”, trong đó “Phong” là các bài dân ca của các nước thời kỳ tiên Tần, Nhã và […]

The post Nhận thức chung về thơ (1): Lời nói đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Văn Tư Cách

[ChanhKien.org]

Tập thơ lâu đời nhất còn tồn tại đến ngày nay ở Trung Quốc là “Kinh Thi” do Khổng Tử biên tập. Kinh thi do ba bộ phận là “Phong”, “Nhã”, “Tụng”, trong đó “Phong” là các bài dân ca của các nước thời kỳ tiên Tần, Nhã và Tụng là lời ca của các bài nhạc trong điển lễ của triều đình hoặc trong tế tự ở Thái miếu, đương thời đó đều là các khúc ca được hát chung với nhạc. Có thể là bởi vì khi đó khó khăn trong việc ghi lại nhạc (hoặc là chưa có nhạc phổ) nên bộ phận âm nhạc của các ca khúc này bị mất dần theo chiều dài lịch sử, cuối cùng chỉ còn lưu lại phần lời ca.

Vì để tìm phần phần nhạc đã bị thất lạc trong cặp chị em song sinh lời văn và âm nhạc, lịch sử đã hào phóng lưu lại cho nhân loại 2 phương pháp hoàn toàn khác nhau.

Đầu tiên là sử dụng phương pháp phân tích độc lập để phát triển lý luận âm nhạc: bắt đầu từ “thanh âm” một yếu tố nhỏ nhất của âm nhạc, tức là sự rung động của các tần số khác nhau; tiếp đến các khái niệm “thang âm”, “câu nhạc”, “chương nhạc”, đi kèm với “nhịp điệu” , “cường độ” và “điệu thức” … Nhạc lý của âm nhạc như vậy không có liên hệ với lời văn, nó hoàn toàn là một loại “ngôn ngữ” khác. Nó có thể sản sinh ra những “khúc nhạc cụ” riêng lẻ đơn độc, tại một phạm vi nhất định nó biểu đạt tình cảm mơ hồ đặc trưng của cá nhân; có thể kết hợp với ca từ (lời bài hát) để tạm thời tái hiện sự hài hòa mỹ diệu của chị em sinh đôi thủa ban đầu. “Phương pháp phân tích” chạy theo cá tính hóa và tự do cá nhân.

Hai là sử dụng “phương pháp tổng hợp” để kết hợp hài hòa lời hát và âm nhạc thành một thể. Phương pháp này căn cứ trên nội hàm âm nhạc vốn có của chữ viết của Trung Quốc: tiếng Trung có “4 thanh” (dựa theo cách đọc thì có 5 thanh), cơ bản là đối ứng với “thang âm ngũ thanh” của âm nhạc cổ đại. “Ngắt câu” và trọng âm chữ đầu của từ 2 âm tiết hoặc đơn âm tiết trong tiếng Trung tạo nên khái niệm về “nhịp điệu” và “cường độ”; các câu trong mỗi “lời ca” và phân đoạn là đối ứng với “câu nhạc” và “chương nhạc”. Về mặt hình thức, biện pháp này không được đa dạng hóa như phương pháp phân tích độc lập ở trên, nhưng nó dung hợp lời hát và âm nhạc thành một thể: dựa theo cách này để viết “lời ca” thì nó tự đã mang “âm nhạc” rồi, dùng cách này thì không cần lo về việc sẽ bị mất “nhạc phổ”. Theo phương pháp tổng hợp là tuân theo các nguyên tắc chung, không chạy theo tự do cá nhân.

Phát triển lý luận âm nhạc theo “phương pháp phân tích”, thì giữa Trung Quốc và Tây phương không khác biệt nhiều, chỉ là giai điệu của Trung Quốc mỹ miều hơn còn cảm giác lập thể của phương Tây thì mạnh hơn; theo “phương pháp tổng hợp” để phát triển thì lời ca và âm nhạc thành một thể, biểu hiện chủ yếu trong sự phát triển của “niêm luật” thơ ca (là quy tắc về sự gieo vần bằng trắc theo luật thơ cổ đời nhà Đường) ở thời sơ Đường cho đến thời thịnh Đường và trong thể loại “Từ” của thời nhà Tống; do từ đơn của ngôn ngữ phương Tây không đọc theo 4 thanh, tuy nhiên “niêm luật thơ” trong thơ của phương Tây cũng có quy tắc và khuôn mẫu rất nghiêm khắc, nhưng cảm thụ âm nhạc vẫn kém niêm luật thơ của Trung Quốc một bậc.

Đọc lời của bài hát và nghe một bài hát là một sự khác biệt lớn; tương tự, cảm thụ khi đọc một bài thơ không theo đúng niêm luật và đọc một bài thơ phù hợp với giai điệu sẽ khác nhau. Mặc dù chúng ta có thể sống mà không cần biết hát, nhưng khi chúng ta cần phải hát, đặc biệt là khi cần lên sân khấu biểu diễn, thì chúng ta cần phải học để biết hát như thế nào; chúng ta cũng vẫn sống mà không viết thơ, nhưng khi chúng ta cần viết thơ, đặc biệt là khi cần công khai phát biểu, chúng ta cũng cần phải cố gắng viết sao cho giống như một bài thơ. Khi chúng ta viết thơ chứ không phải viết các thể loại văn khác, thực tế đó cũng đã thừa nhận rằng thơ có chỗ khác với các thể loại văn khác, và đặc điểm của thơ là yêu cầu chặt chẽ về nhịp điệu niêm luật, khi chúng ta bỏ qua các yêu cầu này, thì bài thơ viết ra cũng mất đi các đặc điểm cơ bản của thơ.

Thuận theo số lượng người làm thơ ngày càng có nhiều lên thì trong đó có nhiều người tự bản thân có mong muốn hiểu biết những tri thức cơ bản về phương pháp và kỹ xảo làm thơ để đề cao trình độ làm thơ của mình. Để đáp ứng những yêu cầu này của độc giả, chuyên mục đặc biệt này sẽ thông qua một số bài viết ngắn để giới thiệu đến những độc giả có hứng thú với việc làm thơ một số điểm cơ bản nhất, những thường thức của phương diện niêm luật giai điệu thơ ca thực tế hay sử dụng. Trước mắt chúng tôi sẽ chỉ giới thiệu với các bạn những bài thơ tương đối đơn giản 5 chữ, 7 chữ và các bài từ thể tiểu lệnh (bài từ ngắn).

Đối với những người lâu nay làm thơ không theo quy luật, thì rất khó để hoàn toàn tuân theo niêm luật thơ ca ngay tức khắc được. Nếu như áp dụng biện pháp “dụng cụ tinh thần”: sau khi hiểu nguyên tắc cơ bản của nó hãy cố gắng nỗ lực đi đúng hướng, đi từng bước một, đừng sợ chậm, chỉ cần kiên định từng chút mà làm, thì nhất định không bao lâu sẽ đạt được tiến bộ rõ ràng trong sáng tác thơ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/19852

The post Nhận thức chung về thơ (1): Lời nói đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>