Nguồn gốc của trà | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 10 Apr 2025 00:14:36 +0000en-UShourly1Nguồn gốc của trà (Phần 11): Trà hưng thịnh ở thời Tùy – Đườnghttps://chanhkien.org/2021/06/nguon-goc-cua-tra-11-tra-hung-thinh-o-thoi-tuy-duong.htmlThu, 03 Jun 2021 10:54:26 +0000https://chanhkien.org/?p=27508Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Thời Tùy – Đường – Ngũ Đại là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là vào thời Đường, lãnh thổ quốc gia được mở rộng chưa từng có, đồng thời văn hóa Trung Hoa cũng đạt đến đỉnh cao, sức ảnh […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 11): Trà hưng thịnh ở thời Tùy – Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Thời Tùy – Đường – Ngũ Đại là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là vào thời Đường, lãnh thổ quốc gia được mở rộng chưa từng có, đồng thời văn hóa Trung Hoa cũng đạt đến đỉnh cao, sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa vươn rộng khắp bốn phương. “Thơ Đường” đã trở thành một viên ngọc sáng chói trong nền văn hóa Trung Hoa. Đến nỗi người đời sau than thở rằng: “Những bài thơ của Lí Bạch và Đỗ Phủ được lưu truyền muôn đời, người đời cảm thấy không có gì mới lạ”. (Mặc dù bề ngoài cảm thấy nên thay đổi, không nên cứ mãi giới hạn vào vận vị của thơ Đường, tuy nhiên điều này bản thân nó cũng cho thấy sức ảnh hưởng vô cùng sâu rộng của thơ Đường).

“Trà” thời đó được coi là một trong những đối tượng để các văn nhân mặc khách biểu đạt tình cảm, nên nó cũng nghiễm nhiên xuất hiện nhiều lần trong thơ Đường; Nếu “trà” được coi là sinh mệnh, thì khi một vị văn nhân hoặc đế vương vì uống trà mà nảy sinh đồng điệu cộng hưởng với sứ mệnh được trao, từ đó sáng tạo ra ý thơ hoặc nảy ra sáng kiến trị quốc, nhờ đó hoàn thành một bộ phận mà Thần cần đặt định trong nền văn hóa Thần truyền. Xét từ góc độ này, “trà” đã đóng vai trò là cầu nối và chất xúc tác.

Hôm nay chúng ta coi “trà” là một sinh mệnh, chúng tôi sẽ liên kết những sự kiện lớn liên quan đến thời kỳ này, để độc giả cảm nhận được cảnh tượng của thời đại thịnh thế và quá trình phát triển của trà:

Để quảng bá cho bản thân, trà cảm thấy quân vương là người được lựa chọn sáng giá nhất, vì thế đã hội ngộ với hai vị hoàng đế thời nhà Tùy (Văn đế và Dạng đế), cách thức kết duyên với trà vừa bình dân vừa độc đáo: chữa bệnh. Bình dân ở chỗ chỉ cần uống là được; độc đáo ở chỗ hiệu quả trị bệnh của nó rất tốt. Khi Hoàng đế bị bệnh sẽ dùng nhiều loại thuốc tốt, nhưng không ngờ hiệu quả của thuốc lại không bằng thứ đồ uống không mấy tiếng tăm là trà!

Vì nó có thể chữa khỏi bệnh của quân vương, nên chắc chắn rằng bên trên nói tốt thì bên dưới nghe theo, giá trị của trà nhờ thế mà tăng gấp bội.

Khi bánh xe lịch sử lăn đến triều đại nhà Đường, để giúp trà trở nên thịnh vượng và phát triển hơn, Đường Thái Tông với con mắt tinh đời, đã quy định ra “Luật trà”, trong đó chủ yếu bao gồm ba quy định về cống trà, thuế trà và nghi thức uống trà.

Trà có khả năng tương tác rất cao, khi đối mặt với các tài tử giai nhân, nó không bao giờ e lệ rụt rè, một lòng muốn đẩy những người này lên tầm cao của thời đại. Mọi người đều nói “Lí Bạch uống một đấu rượu có thể viết trăm bài thơ”, trà bèn muốn tăng thêm sự dị thường của Lí Bạch, mời ông ấy uống trà cũng có thể khiến ông ngâm nga thành một kiệt tác, có lẽ để báo đáp, có lẽ chỉ là thể hiện tấm chân tình của mình, Lí Bạch đã viết nên những vần thơ mỹ lệ về trà. Đỗ Phủ dưới mái nhà tranh ôm nỗi lòng thương xót, lo cho nước cho dân, nhưng cũng rất hoan hỉ bầu bạn với trà, nên đã viết “Trùng quá Hà Thị ngũ thủ” (Năm bài thơ làm khi đến thăm tướng quân họ Hà); Trong bài thơ “Tỳ bà hành” nói nên nỗi lòng thương người và cũng thương thân của Bạch Cư Dị; đồng thời dưới ngòi bút của Lư Đồng và Giảo Nhiên trà đã lập tức tô vẽ trở thành như mang theo phong vị của tiên dược. (nội dung các bài thơ ở phần phụ lục bên dưới)

Trà không phải lúc nào cũng xuất hiện trong ánh hào quang đẹp đẽ, khi nhu cầu khổng lồ (xa hoa) của những nhân vật tiếng tăm đó mâu thuẫn với sinh kế và nguồn lực tài chính của người dân, nó cũng chỉ trở thành “đích ngắm” cho những kẻ dối trá, trở thành con dê thế tội cho nhân tâm và dục vọng. Trà biết rõ rằng hết thảy điều này là do lý tương sinh tương khắc ở thế gian, nên cũng không giải thích nhiều, nó âm thầm chịu đựng sự tâng bốc và giận dữ của con người…

Nó từng than thở: Xưa nay người ta đặt cho nó rất nhiều biệt danh, có hơn chục loại biệt danh, đến nỗi người ta nhiều khi không thể tìm ra thân phận của nó. Khi muốn thực sự xuất đầu lộ diện ở chốn nhân gian, thì nó cần phải có một cái tên chính thức.

Quả nhiên, tấm chân thành đã cảm động đến trời đất, có một người tên là Lục Vũ đúng lúc đó xuất gia, xuất thân từ cửa Phật, mặc dù sau đó do không chịu được lao dịch nên ông đã bỏ trốn và trở thành kép hát, nhưng tâm nguyện theo đuổi Phật Pháp chưa từng phai mờ. Qua sự an bài hữu ý của thiên thượng, ông đã tiếp xúc với trà, ông tự mình thực hành từ cách uống đến cách pha chế, đáng quý hơn là ông có thể hiểu biết đầy đủ về trà, từ đó nó đã trở thành nhân vật chính của quyển sách “Trà Kinh”, cái tên mà ông đặt cho nó ngay lập tức khiến cho mọi người sáng mắt lên, tình cờ mà nó có được cái tên chính thức và được mọi người chấp nhận rộng rãi ở nơi nhân gian này. Từ đó người ta đã tìm hiểu trà một cách thấu đáo từ đầu đến chân, từ trong đến ngoài (tức là mô tả mười khía cạnh liên quan đến trà gồm “nguyên” – nguồn gốc trà, “cụ” – đồ dùng, dụng cụ làm trà, “tạo” – cách chế biến các loại trà, “khí” – dụng cụ pha trà, uống trà, “chử” – cách đun nước pha trà, “ẩm” – cách uống trà, “sự” – các nghi lễ về trà, “xuất” – vùng trồng trà, “lược” – cách cất giữ trà, “đồ” – các bức Trà Kinh viết lên lụa để treo tường). Để báo đáp ông, người ta gọi ông là “Thánh Trà” hay “Thần Trà”.

Cuối cùng, khi trà kết duyên với các tín ngưỡng Phật giáo và Đạo giáo, đạo lý “chính phản đồng xuất” thể hiện càng huyền diệu hơn: được sự hỗ trợ của Thần, trà cũng giúp thúc đẩy người tu hành tinh tấn hơn, từ đó giúp Thần hoàn thành tốt hơn sứ mệnh độ nhân.

Lúc này, trà đã cảm thấy rằng chỉ dựa vào bản thân thì không thể hoàn thành sứ mệnh của mình, vì vậy nó đã chọn cách phối hợp chặt chẽ với nước và dụng cụ pha trà, từ đó diễn dịch ra những yếu tố có tính lan truyền hơn trong văn hóa truyền thống Trung Hoa.

Những đặc điểm tươi mát, tao nhã, trầm lặng, ung dung,… của trà mượn sự trợ giúp của Thần, sự truyền bá của các tín đồ, hơn nữa cơ duyên trời ban đã đến, lại thêm các “quy tắc” (như “Trà luật”) và “y phục” (như “Trà kinh”) cơ bản đã hình thành. Những yếu tố này giúp trà tỏa hương khắp thiên hạ, rất tự nhiên đến với quần chúng dân gian; Ngay cả khi công chúa Văn Thành vào Tây Tạng, trà cũng đến góp vui, kết quả vô tình làm tuổi thọ trung bình của người Tây Tạng tăng lên rất nhiều (từ 46 lên 65 tuổi), từ đó người Tây Tạng đã không thể xa rời trà.

Đường núi xa xôi, những con tuấn mã phi nước đại, những gói trà được ký thác cho ngựa lên đường chạy hướng về biên cương; Gió bắc thổi vù vù, tiếng chuông lạc đà leng keng, một đoàn thương nhân chở trà dọc theo con đường tơ lụa, từ Tân Cương vào Trung Á, tới Châu Âu. Trà cảm thấy rằng nó không thể chỉ đi một hướng về phía Tây, vì vậy nó đã đến Nhật Bản và đến bán đảo Triều Tiên. Trà đi khắp nơi trên thế giới với hương vị đậm đà của Trung Quốc, mục đích chính là hy vọng những người đã từng là con dân của Thần, đã quên đi nguyện ước ban đầu của họ khi đến thế gian, vào thời đại này kết duyên với Đại Pháp, nhờ đó được cứu độ. Lúc này, trà dần dần trở thành sợi dây văn hóa gắn kết mọi người trên khắp thế giới, dù nhiều người không hiểu đạo lý tu luyện và tín ngưỡng, nhưng khi cầm chén trà lên uống, họ sẽ cảm nhận sâu sắc được sức mạnh và địa vị của trà. Khi cơ duyên đến, loại sức mạnh này tự nhiên sẽ kết hợp với các yếu tố khác, giúp người này có cơ hội nghe chân tướng, thậm chí bước vào tu luyện, bước trên con đường phản bổn quy chân.

Phụ lục: toàn văn (hoặc trích đoạn) các bài thơ liên quan đến trà trong bài viết

Bài thơ “Đáp tộc chất tăng Trung Phu tặng Ngọc Tuyền tiên nhân chưởng trà tịnh tự” (Đáp tặng cháu trai là cao tăng Trung Phu tặng trà Tiên nhân chưởng ở Ngọc Tuyền) của Lí Bạch:

Phiên âm Hán Việt:

Thường văn Ngọc Tuyền sơn, Sơn động đa nhũ quật.
Tiên thử bạch như nha, Đảo huyền thanh khê nguyệt.
Minh sinh thử trung thạch, Ngọc Tuyền lưu bất yết.
Căn kha sái phương luật, Thái phục nhuận cơ cốt.
Tòng lão quyển lục diệp, Chi chi tương tiếp liên.
Bộc thành tiên nhân chưởng, Dĩ phách hồng nhai kiên.
Cử thế vị kiến chi, Kỳ danh định thủy truyền.
Tông anh nãi thiền bá, Đầu tặng hữu giai thiên.
Thanh kính chúc Vô Diệm, Cố tàm Tây Tử nghiên.
Triêu tọa hữu dư hung, Trường ngâm bá chư thiên.

Dịch nghĩa:

Thường nghe nói trên núi Ngọc Tuyền có rất nhiều hang động thạch nhũ.
Trong đó có rất nhiều chuột tiên trắng như quạ (dơi trắng), treo ngược mình trên cây bên dòng suối ngắm trăng.
Cây trà (chè) mọc trên vách đá núi này, suối Ngọc Tuyền nước chảy không ngừng.
Thân rễ cây trà được tưới nước thơm, hái về uống giúp xương chắc khỏe.
Những lá trè già xanh cuộn lại, cành cây đan xen.
Nhìn lá trà phơi nắng giống như cây xương rồng (tiên nhân chưởng), dường như có thể dùng nó vỗ vào vai các tiên nhân Hồng Nhai.
Trên đời chưa thấy loại trà như vậy, ai đặt tên cho nó để giúp nó lưu truyền mãi mãi?
Tông Anh ông là bậc cao tăng, gửi tặng bài thơ hay về trà tặng cho tôi
Thơ của ông như Tây Thi xinh đẹp tỏa sáng trước gương, khiến tôi như Vô Diệm xấu xí phải cảm thấy xấu hổ.
Sáng sớm ngồi trò chuyện vui vẻ hứng khởi, tiếng ngâm thơ vang tận chín tầng trời.

Trích bài thơ “Trọng quá hà thị ngũ thủ” (Năm bài thơ làm khi đến thăm tướng quân họ Hà) của Đỗ Phủ:

Phiên âm Hán Việt:

Lạc nhật bình đài thượng, xuân phong suyết minh thời.
Thạch lan tà điểm bút, đồng diệp tọa đề thi.

Dịch nghĩa:

Bên thềm ngắm hoàng hôn, thưởng trà cùng gió xuân.
Bên lan can đá nâng bút lông, ngồi đề thơ trên lá ngô đồng.

Trích bài thơ “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị:

Phiên âm Hán-Việt:

Đệ tẩu tong quân a di tử, Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hi, Lão đại giá tác thương thân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly, Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền, Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn

(Bản dịch của Trần Trọng Kim):

Nỗi buồn dì chết em đày,
Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân
Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,
Về già lấy một thương nhân bạn bè
Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,
Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè
Một mình nấp bóng chiếc ghe,
Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ

Trích bài thơ “Tẩu bút tạ mạnh gián nghị ký tân trà” (Viết nhanh cảm tạ Mạnh Gián Nghị đã gửi trà mới) của Lư Đồng:

Phiên âm Hán Việt:

Nhất oản hầu vẫn nhuận, Nhị oản phá cô muộn.
Tam oản sưu khô trường, Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.
Tứ oản phát khinh hạn, Bình sinh bất bình sự, Tận hướng mao khổng tán.
Ngũ oản cơ cốt thanh, Lục oản thông tiên linh.
Thất oản ngật bất đắc dã, Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh.

Dịch nghĩa:

Uống chén thứ nhất trơn miệng thông họng, Uống chén thứ hai xua tan sự cô đơn phiền muộn.
Chén thứ ba dốc sạch nỗi lòng, chỉ còn lại năm nghìn quyển sách.
Chén thứ tư mồ hôi ra nhẹ, mọi bất bình trong cuộc sống đều thoát ra ngoài theo lỗ chân lông.
Chén thứ năm thịt xương đều trong sạch, uống chén thứ sáu dường như thông lên cõi tiên.
Chén thứ bảy không nhấp nổi, chỉ thấy gió mát toát ra từ hai bên nách.

Bài thơ “Ẩm trà ca tống Trịnh Dung” (Bài ca uống trà tiễn Trịnh Dung) của Giảo Nhiên:

Phiên âm Hán Việt:

Đan Khâu vũ nhân khinh ngọc thực, Thái trà ẩm chi sinh vũ dực.
Danh tàng tiên phủ thế mạc tri, Cốt hóa vân cung nhân bất thức.
Vân sơn đồng tử điệu kim đương, Sở nhân Trà Kinh hư đắc danh.
Sương thiên bán dạ phương thảo chiết, Lạn mạn tương hoa suyết hựu sinh.
Thường thuyết thử trà khứ ngã tật, Sử nhân hung trung đãng ưu lật.
Nhật thượng hương lư tình vị tất, loạn đạp Hổ Khê vân, cao ca tống quân xuất.

Dịch nghĩa:

Tiên nhân Đan Khâu [1] coi nhẹ cao lương mỹ vị, sau khi uống lá trà hái được thì mọc cánh.
Danh ẩn nơi tiên phủ đời không biết, cốt hóa cung mây người không hay.
Con trẻ ở Vân Sơn giọng vang như chuông, bản đầu tiên cuốn Trà Kinh của Lục Vũ cần phải bổ sung tên còn thiếu. [2]
Nửa đêm sương giá, cỏ cây đều nghiêng ngả, đóa hoa vàng rực rỡ lại vươn lên.
Nghe nói trà này chữa khỏi bệnh cho tôi, khiến lòng người không còn lo lắng.
Mặt trời lên rọi sáng lư hương , tình cảm của chúng ta chưa nói hết, bỗng chốc đã qua Khe Hổ [3], cuối cùng đọc to bài ca về trà để tiễn bạn.

Chú giải:

[1] Đan Khâu: tức Đan Khâu Tử, một vị Thần Tiên trong truyền thuyết.

[2] Hư đắc danh: chỗ trống cần có tên của nó. Cuốn Trà Kinh của Lục Vũ đã được biên soạn nhiều lần mới thành. Khi Lục Vũ cho Giảo Nhiên xem bản đầu tiên của Trà Kinh, Giảo Nhiên cảm thấy rằng kinh sách về trà ban đầu có quá ít tính hiện thực, lời viển vông thì có quá nhiều, nên nghĩ chỗ khiếm khuyết phải cần bổ sung, sau đó đề nghị Lục Vũ đi nhiều nơi khác nhau để điều tra về trà một lần nữa và viết lại nó.

[3] Hổ khê: Khe Hổ. Lấy ý từ điển cố Phật Giáo “Hổ khê tam tiếu” (ba tiếng cười ở khe Hổ), có nghĩa là “Tống khách bất quá khê” (Tiễn khách không qua khe).

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/245117

The post Nguồn gốc của trà (Phần 11): Trà hưng thịnh ở thời Tùy – Đường first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 10): Hai biệt danh của trà – thủy ách và lạc nôhttps://chanhkien.org/2021/04/nguon-goc-cua-tra-10-hai-biet-danh-cua-tra-thuy-ach-va-lac-no.htmlThu, 15 Apr 2021 15:26:33 +0000https://chanhkien.org/?p=27413Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Trong thời lưỡng Tấn Nam Bắc triều, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ phân tranh hỗn loạn, mặc dù có một giai đoạn thống nhất ngắn ngủi của gia tộc Tư Mã trong triều đại Tây Tấn, nhưng do tạo ra chế độ phân đất phong hầu nên […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 10): Hai biệt danh của trà – thủy ách và lạc nô first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Trong thời lưỡng Tấn Nam Bắc triều, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ phân tranh hỗn loạn, mặc dù có một giai đoạn thống nhất ngắn ngủi của gia tộc Tư Mã trong triều đại Tây Tấn, nhưng do tạo ra chế độ phân đất phong hầu nên cuối cùng đã xuất hiện loạn Bát Vương, sức mạnh quốc gia bị suy giảm nghiêm trọng. Ngoại tộc xâm nhập, dẫn đến Ngũ Hồ loạn Hoa [1]. Triều đại Tây Tấn đã bị các bộ tộc ngoại bang tiêu diệt, cuộc “Y Quan Nam Độ” [2] cũng xảy ra vào thời gian này.

Kỳ thực nhìn toàn bộ lịch sử Trung Quốc từ bối cảnh thời không lớn, giai đoạn này cũng chính là thời kỳ đại loạn trước thời Đại trị [3].

“Ngũ Hồ loạn Hoa” đã mang đến những thảm họa to lớn cho bách tính Trung Nguyên, nhưng nó cũng thúc đẩy sự giao lưu giữa các dân tộc và sự phát triển nền văn minh ở các vùng dân tộc thiểu số. Cùng với đó, cuộc đối đầu thời Nam Bắc triều sau khi nhà Đông Tấn sụp đổ cũng đều là bước đệm cho sự thống nhất của nhà Tùy Đường.

Tại thời kỳ này, các tài liệu liên quan về trà đã tăng lên rất nhiều so với trước, nhưng do hạn chế về khuôn khổ bài viết nên không thể liệt kê hết, chỉ phân loại và liệt kê một số tài liệu sau:

Trong thời kỳ phân phong khi một số vị vương nổi loạn, Hán Huệ Đế đã chạy trốn ra ngoài, khi trở lại Lạc Dương, Hoàng Cung đã rót đầy trà vào bát gốm dâng mời ông uống. Điều này cho thấy trà đã trở thành đồ uống hàng ngày của hoàng gia vào thời Tây Tấn. Nó còn phổ biến hơn vào thời Tào Ngụy. (Vào thời Tào Ngụy không có văn bản nào nói về việc hoàng gia uống trà, nhưng ở nước Ngô và nước Thục đều có ghi chép hoặc truyền thuyết, điều này là do yếu tố vùng miền tạo nên).

Khi Tư Mã Duệ thành lập triều đại Đông Tấn, Tạ An đã từng dùng trà để chiêu đãi khách; Huân Văn cũng thường dùng trà để chiêu đãi khách trong các bữa tiệc. Do đó có thể kết luận rằng việc đãi khách bình thường bằng trà thời đó đã trở thành nghi lễ tiếp đãi thông thường. Đến thời kỳ Nam Bắc triều, ví dụ của Vương Túc đã chứng minh rằng việc uống trà đã phổ biến tại thời Nam triều (xem điển cố 2).

1. Hai biệt danh của trà: nguồn gốc của hai từ “thủy ách” và “lạc nô”

Điển cố 1: Vương Mông và “thủy ách”

Vương Mông là người triều đại nhà Tấn, làm đến chức quan Tư Đồ Trường Sửu, cuốn sách “Thế thuyết tân ngữ” viết: Ông đặc biệt thích trà, không chỉ một mình uống trà nhiều lần trong ngày mà khi có khách đến ông cũng nhất định phải mời khách uống cùng. Vào thời đó, hầu hết các sỹ đại phu không quen uống trà. Vì vậy, khi đến nhà Vương Mông, mọi người luôn có chút e ngại, mỗi lần trước khi đi, đều nói đùa rằng “hôm nay có thủy ách” (ý nói sẽ gặp tai ách về nước). (Nguyên văn: “Vương Mông thích uống trà, mọi người đến thì đều phải tuân lệnh mà uống, các sỹ đại phu đều lấy làm lo lắng, bất cứ khi nào muốn đi, tất sẽ nói ‘hôm nay có tai ách về nước'”.)

Điển cố 2: Vương Túc và “lạc nô”

Quyển 3 tập truyện “Lạc Dương Già Lam ký” của Dương Huyễn Chi thời Bắc Ngụy có ghi: “Vương Túc khi mới nhập quốc, không ăn những thứ như thịt cừu, sữa đặc, thường ăn canh cá diếc, uống nước trà. Các sĩ tử ở kinh thành nhìn thấy Túc uống một chén ra một chén (ý nói bài tiết ra), nên gọi tên là Lậu, sau đó vài năm, khi Túc diện kiến Cao Tổ lại ăn rất nhiều thịt cừu và sữa đặc. Cao Tổ thấy lạ hỏi Vương Túc: “Khanh thấy hương vị của Trung Quốc, thịt cừu so với canh cá thế nào, trà so với sữa đặc thế nào?” Túc đáp: “Cừu là loài giỏi nhất trên cạn, còn cá là thủ lĩnh của thủy tộc, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau nên đánh giá món ăn ngon cũng khác nhau. Về hương vị món ăn mà nói, tất nhiên đều có ưu có khuyết, cừu giống như nước lớn Tề Lỗ, cá giống như nước nhỏ Chu Cử, còn trà thì không phải là nô lệ của sữa (lạc nô)”.

Bối cảnh và đại ý: Túc, tức Vương Túc, hiệu là Cung Ý, người ở Lang Tà (nay là Lâm Nghi, Sơn Đông), từng được bổ nhiệm chức quan phụ trách về sách và văn học trong Nam triều. Vì cha ông là Vương Hoán bị nước Tề giết hại, ông từ Kiến Khang (nay là Nam Kinh, Giang Tô) đến nương nhờ nước Ngụy (nay là Đại Đồng, Sơn Tây, là thủ phủ). Ngụy Hiếu Đế lập tức phong cho ông là “Trường sử đại tướng quân”, sau đó Vương Túc giúp Ngụy lập chiến công và được phong là “Trấn Nam tướng quân”. Vào thời Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, ông từng giữ chức Tể tướng, nhiều lần được phong hầu ở huyện Xương Quốc, cuối cùng làm Thứ sử Dương Châu.

Khi Vương Túc ở Nam triều, ông thích uống trà, sau khi đến thời Bắc Ngụy, tuy không thay đổi sở thích ban đầu, nhưng ông cũng biết ăn các món ăn phương Bắc như thịt cừu và sữa. Khi có người hỏi “Uống trà có giống uống sữa không?”, ông nói rằng trà không thể làm nô lệ của sữa, ý là hương vị của trà không thua kém gì sữa.

Tuy nhiên, sau này người ta gọi trà là “lạc nô” (nô lệ của sữa), điều này đã làm đảo ngược hoàn toàn ý ban đầu của Vương Túc.

Có một câu chuyện nhỏ khác liên quan đến Vương Túc: Cấp Sự Trung [5] Lưu Cảo thời nhà Ngụy ngưỡng mộ phong cách uống trà của Vương Túc và hay bắt chước cách uống trà đó. Vương Hiệp người ở Bành Thành lúc đó rất phản đối và chế nhạo Lưu Cảo: “Khanh không thích Bát Trân [6] của giới vương hầu, chỉ thích “thủy ách” của giới thường dân”. Về sau càng ngày càng có nhiều người thích “thủy ách”.

II. Những ghi chép về công dụng kéo dài tuổi thọ của trà

1. Pháp Dao uống trà thay cơm

Trong “Thích Đạo Cai Thuyết Tục Danh Tăng truyện” viết: “Pháp Dao, một nhà sư thời Nam Tống, vốn họ Dương, người Hà Đông, vào thời Vĩnh Gia, khi quá giang tại chùa Vũ Khang Tiểu Sơn tự thì gặp Thẩm Đài Chân Thanh Chân Quân, tuổi đã rất cao, uống trà thay cơm. Vào năm Vĩnh Minh, Hoàng thượng ra lệnh cho quan sử Ngô Hưng long trọng mời ông vào kinh thành, lúc đó ông 79 tuổi”.

2. Thiền Đạo uống trà tô

Cuốn “Trà Kinh Thất Chi Sự” của Lục Vũ, phần “Nghệ thuật truyền” viết: “Thiền Đạo Khai người Đôn Hoàng, không sợ lạnh không sợ nóng, thường uống những viên đá lạnh nhỏ, thuốc mà ông uống có mùi của thông, quế, mật ong, thức uống duy nhất của ông là trà”.

Bối cảnh: Thiền Đạo Khai, họ Mạnh, người triều đại nhà Tấn. Ông thường ẩn dật, tu hành theo phương pháp tịch cốc, sau bảy năm, ông dần dần đạt được khả năng tự làm cho mình ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè, ngày đêm không ngủ, có thể đi hơn 700 dặm một ngày. Sau đó, ông chuyển đến chùa Chiêu Đức ở huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam, lập một thiền phòng để tọa thiền, uống trà để không buồn ngủ. Sau đó ông vào núi La Phù ở Quảng Đông và qua đời khi hơn một trăm tuổi.

Cái gọi là “trà tô” là một loại thức uống được pha từ trà và lá tía tô.

III. Những câu chuyện kỳ lạ liên quan đến trà:

1. Người đàn ông lông lá dẫn đường

“Tục Sưu Thần Ký” viết rằng: “Vào thời Tấn Vũ Đế, Tần Tinh người Tuyên Thành thường lên núi Vũ Xương hái trà. Có lần gặp một người đàn ông lông lá cao hơn một trượng, anh ta dẫn Tần Tinh đến chân núi, chỉ cho một khóm cây trà rồi mới rời đi, một lúc sau, anh ta quay lại, lấy từ trong ngực ra một quả cam đưa cho Tần Tinh. Tần Tinh hoảng sợ, vội vàng mang lá trà về nhà”.

2. Bà lão bán trà cứu tế

“Quảng Lăng Kỳ Lão Truyện” kể rằng: “Vào thời Tấn Nguyên Đế, có một bà lão mỗi sáng tự mình mang một bình trà ra chợ bán. Người trong chợ tranh nhau mua uống. Từ sáng đến tối, nước trà trong bình đó không vơi đi. Bà đã tặng số tiền kiếm được cho trẻ mồ côi, người nghèo và những người ăn xin bên vệ đường. Có người coi bà là kẻ tác oai tác quái, đã báo quan phủ trói bà lại và giam vào ngục. Đến đêm khuya, bà lão tay ôm bình bán trà bay ra khỏi cửa sổ nhà tù”.

IV. Thơ trà xuất hiện lần đầu

Một nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: trước thời Đường ở Trung Quốc chưa có chữ “trà”, ký tự của nó viết là “荼”, vì vậy để khảo sát mối quan hệ giữa thơ và văn hóa trà, trước tiên chúng ta nên khảo sát và phân biệt chữ “đồ” (荼) trong các bài thơ thời kỳ đầu của Trung Quốc. Chữ “đồ” (荼) có thể được nhìn thấy trong tập thơ đầu tiên của Trung Quốc tên là “Kinh Thi”, nhưng gần một nghìn năm qua, đã có nhiều cuộc tranh luận không dứt về chữ “荼” trong “Kinh Thi” có phải chỉ trà hay không, tranh luận không dứt, đến nay mà vẫn chưa có ý kiến thống nhất. Việc này đành tạm gác sang một bên không bình luận. Sau “Kinh Thi”, trong “Nhạc phủ dân ca” và “Cổ thi” đời Hán không còn dấu vết của chữ “đồ” (荼), hiện tại có thể khẳng định là những bài thơ sớm nhất đề cập đến trà, theo cuốn “Trà Kinh” của Lục Vũ, có bốn bài thơ, tất cả đều là những tác phẩm sau thời nhà Hán, trước thời nhà Đường:

1. Bài “Đăng Thành Đô Lầu Thi” của Trương Tải: “Tá vấn Dương Tử xá, tưởng kiến Trường Khanh lư. Trình Trác lũy thiên kim, kiêu xỉ nghĩ ngũ hầu. Môn hữu liên kỵ khách, thúy đái yêu ngô câu. Đỉnh thực thi tùy thời tiếu, bách hòa diệu thả thù. Phi lâm thái thu quất, lâm giang câu xuân ngư. Hắc tử quá long hải, quả soạn du giải. Phương đồ quan lục thanh, dật vị bá cửu âu. Nhân sinh cẩu an lạc, tư thổ liêu khả ngu.” (Đại ý: Xin hỏi Dương Hùng [7] năm đó sống ở đâu? Nhà cũ trước đây của Tư Mã Tương Như ra sao? Ngày xưa, hai gia đình quyền quý là Trình Trịnh và Trác Vương Tôn kiêu ngạo xa hoa, có thể so sánh với gia đình của các vương hầu. Trước cửa nhà họ lúc nào cũng ngựa xe như nước, khách khứa tấp nập, với những dải băng xanh phất phơ trên eo lưng các cô gái, những thanh bảo kiếm bên hông các chàng trai. Trong nhà đầy những món sơn hào hải vị, hương vị độc đáo. Thực sự là những gia đình quyền quý, giàu có vô cùng! Nhìn ra ngoài tòa nhà, núi sông trù phú, mênh mông bát ngát. Vào mùa thu, mọi người vào rừng hái cam; Vào mùa xuân, mọi người đi câu cá bên sông. Quả mọng ngọt ngào, thịt cá mỡ màng. Trà thơm của Tứ Xuyên có thể coi là đệ nhất trong các loại đồ uống, hương vị của nó nổi tiếng khắp thiên hạ. Nếu cuộc sống là chỉ để tìm kiếm sự bình yên an lạc, thì Thành Đô vẫn là nơi để mọi người có thể tận hưởng.)

2. Bài “Xuất ca” của Tôn Sở: “Thù du xuất phương thụ điên, Lý ngư xuất Lạc thủy tuyền. Bạch diêm xuất Hà đông, Mỹ thi xuất Lỗ uyên. Khương quế đồ trà suyễn xuất Ba Thục, Tiêu quất mộc lan xuất cao sơn. Liễu Tô xuất câu cừ, Tinh bái xuất trung điền” (đại ý: Thù du sinh ra trên ngọn cây, cá chép sinh ra ở Lạc Thủy. Muối trắng đến từ Hà Đông, nước tương đến từ Lỗ Uyên. Gừng, quế, trà đến từ Ba Thục, hạt tiêu, cam, mộc lan đến từ núi cao. Cỏ mọc trong mương, lúa trời mọc trên ruộng.)

3. Bài “Kiều nữ thi” của Tả Tư thời Tây Tấn: “Ngô gia hữu kiều nữ, giảo giảo phả bạch tích. Tiểu tự vi hoàn tố, khẩu xỉ tự thanh lịch. Hữu thư tự huệ phương, mi mục xán như họa. Trì vụ tường viên lâm, quả hạ giai sinh trích. Tham hoa phong vũ trung, thốc hốt số bách thích. Tâm vi trà suyễn kịch, xuy hư đối đỉnh.” (Đại ý: Nhà tôi có một kiều nữ da trắng nõn nà. Biệt danh là lụa trắng, ăn nói rất hoạt bát. Chị ấy tên là Huệ Phương, dung mạo đẹp như tranh. Chạy nhảy vui chơi trong vườn, hái quả còn ương. Yêu hoa chẳng kể gió mưa, chạy vào chạy ra hơn trăm lần. Rất vui thích khi pha trà, nên giúp thổi lò để đun nước pha trà.)

4. “Tạp thi” của Vương Vi có bài “Thâu ẩm kim tựu giả” (Đại ý là: uống trà)

5. Ngoài bốn bài thơ này, thời nhà Tấn, tức là vào khoảng cuối thời Tây Tấn và đầu thời Đông Tấn, còn có một bài thơ quan trọng về trà, đó là “Trà phú” của Đỗ Dục.

“Trà phú” viết: “Linh sơn duy nhạc, Kỳ sản sở chung, quyết sinh trà thảo, Di cốc bị cương. Thừa phong nhưỡng chi tư nhuận, Thụ cam lâm chi tiêu giáng. Nguyệt duy sơ thu, Nông công thiểu hưu, Kết ngẫu đồng lữ, Thị thái thị cầu. Thủy tắc Mân phương chi chú, Ấp bỉ thanh lưu; Khí trạch đào giản, Xuất tự đông ngung; Chước chi dĩ bào, Thủ thức công lưu. Duy tư sơ thành, Mạt thành hoa phù, hoán như tích tuyết, diệp nhược xuân phu”. (Dịch nghĩa: Linh sơn chỉ có núi cao, tập trung nhiều sản vật kỳ lạ, ở đó mọc lên cây trà, khắp thung lũng và triền núi. Đất đai màu mỡ, được mưa trên trời tưới đẫm. Chỉ có tháng đầu thu, việc nhà nông nhàn rỗi, cùng nhau lên đường, nào là hái nào là tìm. Nước đổ vào vùng núi Mân Sơn, múc nước từ dòng nước trong xanh; chọn chiếc bình gốm, làm ở phía đông; rót vào bầu nậm, học phong cách của Công Lưu. Chỉ cái này mới thành, mạt trà chìm xuống tinh hoa nổi lên, rực rỡ như tuyết, như nét vẽ mùa xuân)

Qua những ví dụ ở trên, có thể thấy rằng nền tảng của văn hóa trà đã được hình thành từ thời kỳ Lưỡng Tấn và Nam Bắc triều. Nếu coi trà là một sinh mệnh thì trà lúc này đã bước vào thời kỳ thanh xuân, một sinh khí bừng bừng nổi lên trong lịch sử văn minh 5000 năm của Trung Quốc.

Chú thích:

[1] Ngũ Hồ loạn Hoa: Thời kỳ Trung Quốc bị các tộc người Hồ phương bắc xâm chiếm.

[2] Y Quan Nam Độ: Cuộc di cư quy mô lớn đầu tiên về phía nam của chính quyền Trung Nguyên thời nhà Tấn.

[3] Đại trị: Thời kỳ lập lại an ninh và trật tự, đất nước yên ổn kinh tế phồn vinh.

[4] Đẩu: đồ đựng rượu thời cổ.

[5] Cấp Sự Trung: Là một chức quan thời cổ với nhiệm vụ làm cận thần cố vấn cho vua trong những trường hợp đặc biệt.

[6] Bát Trân: là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm và cầu kỳ chỉ dành cho giới quý tộc cung đình, chủ yếu là các bậc vua chúa trước đây.

[7] Dương Hùng: Dương Hùng, tên tự là Tử Vân, người Thành Đô, Thục Quận, là nhà văn, nhà triết học cuối đời Tây Hán, đầu đời Tần. Ông được Tam tự kinh xếp vào nhóm Ngũ tử.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/245116

The post Nguồn gốc của trà (Phần 10): Hai biệt danh của trà – thủy ách và lạc nô first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 9): Thưởng trà thời Tần – Hánhttps://chanhkien.org/2021/03/nguon-goc-cua-tra-phan-9-thuong-tra-thoi-tan-han.htmlWed, 31 Mar 2021 16:22:24 +0000https://chanhkien.org/?p=27359Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trà hiện nay vẫn bảo thủ cho rằng văn hóa trà đã được đặt định vào các triều đại Tần và Hán. Bắt đầu từ thời kỳ này đã có nhiều tài liệu lịch sử ghi chép về trà và tục uống trà. […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 9): Thưởng trà thời Tần – Hán first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trà hiện nay vẫn bảo thủ cho rằng văn hóa trà đã được đặt định vào các triều đại Tần và Hán. Bắt đầu từ thời kỳ này đã có nhiều tài liệu lịch sử ghi chép về trà và tục uống trà.

Thực ra, nếu xét từ bối cảnh thời không rộng lớn thì khi nước Tần thống nhất 6 nước, Tần Vương Doanh Chính tự xưng là “Thủy Hoàng đế”, đã bãi bỏ chế độ phân đất phong hầu trước đây để đặt ra quận huyện, thống nhất tiền tệ và đơn vị đo lường, từ đó mà hình thành chế độ nhà nước trung ương tập quyền, mô hình này đã ảnh hưởng đến Trung Quốc trong hơn 2000 năm. Xét từ ý nghĩa này, thời Tần không chỉ thiết lập nên đất nước Trung Quốc về mặt địa lý, mà còn thiết lập nên đất nước Trung Quốc về mặt chế độ chính trị. Còn việc nhà Hán (Hán Vũ Đế) mở rộng bờ cõi khai phá đất đai, áp dụng chính sách “bài xích các phái, độc tôn Nho thuật” đã thiết lập đất nước Trung Quốc về ý nghĩa văn hóa và văn minh. Lúc này “Trà” càng được mọi người biết đến một cách rộng rãi hơn:

Theo ghi chép trong “Nhật tri lục” của Cố Viêm Vũ thời nhà Thanh: “Từ sau khi người Tần chiếm nước Thục, mới có tục uống trà”.

Theo tư liệu khảo cổ: khi Trung Quốc khai quật lăng mộ của nhà Tây Hán tại Mã Vương Đôi, Trường Sa, người ta đã khai quật được rất nhiều di vật văn hóa như văn tự, sách lụa, những vật phẩm này có lịch sử cách nay hơn 2.100 năm. Bức tranh lụa vẽ một cung nữ dâng trà trong lăng mộ là tả thực về cảnh hoàng đế và quý tộc thời nhà Hán thưởng trà. Trong sổ ghi chép đồ tùy táng còn có các văn tự trên thẻ tre và thẻ gỗ liên quan đến trà. Đây là vật tùy táng sớm nhất về trà được tìm thấy cho đến nay.

Trong tác phẩm “Đồng ước” của Hán Vương Bảo (viết vào năm Hoàng Đế thứ ba nhà Hán – năm 59 TCN, là một sự kiện ở giữa thời Tây Hán) ghi lại rằng: Vào thời Tây Hán, Vương Tử Uyên người đất Thục đến Thành Đô để dự thi, ở tạm nhà của Dương Huệ, vợ người bạn quá cố của ông ở thị trấn Song Giang. Dương Huệ tiếp đãi nồng hậu, ra lệnh cho gia đồng “Tiện Liễu” đến hầu rượu Tử Uyên. Tiện Liễu vô cùng bất bình với điều này, chạy đến mộ của người chủ đã khuất, khóc lớn nói: Khi ông chủ mua tôi về, ông chỉ nhờ tôi trông nhà chứ không yêu cầu tiếp rượu cho những người đàn ông khác. Dương Thị và Vương Tử Uyên rất bức xúc trước việc này nên đã thương lượng bán Tiện Liễu cho Vương Tử Uyên làm nô bộc với giá 15.000 đồng, đồng thời viết một bản khế ước. Trong bản khế ước quy định những công việc mà Tiện Liễu phải làm hàng ngày, hai trong số đó là “mua trà ở Vũ Dương”, “pha trà và dâng trà”. Nói cách khác, không chỉ hàng ngày đến mua trà ở chợ Vũ Dương, mà còn pha trà và lau rửa đồ đựng. Ghi chép này cho thấy ba khía cạnh của trà đã được phổ biến ở một mức độ nhất định: uống trà, bán trà và trồng trà (kể cả hái ngoài tự nhiên). Vì chỉ có thể dư thừa trà mới đem đi bán”.

Bộ từ điển đầu tiên của nước ta do Chu Công biên soạn (viết thành sách vào thời kỳ Tần Hán) có tên là “Nhĩ Nhã”, trong phần “Thích Mộc Đệ Thập Tứ” viết: “槚 (đọc là jiǎ: nghĩa là cây trà nói trong sách cổ), trà đắng”. Quách Phác thời Đông Tấn chú thích: “Cây nhỏ như cây dành dành, lá mọc vào mùa đông, có thể dùng làm nước uống, lá hái sớm gọi là trà, lá hái muộn gọi là đồ, lá chè già, người Thục gọi là trà đắng”.

Trong “Phàm Tương Thiên” của Tư Mã Tương Như – nhà Hán phú (Hán phú: một thể loại văn vần thời nhà Hán để ca tụng công đức của đế vương) nổi tiếng thời Hán đã ghi chép rất nhiều loại thảo dược Trung y: “cây mỏ quạ, cỏ kết cành, rau mùi, hoa khoản đông, bối mẫu, mộc lan, ngải, linh thảo (phục linh), thược dược, quế, lậu lô, phỉ liêm, hoắc khuẩn, cây trà, bạch liễm, bạch chỉ, cây xương bồ, cây mang tiêu, cây hoan tiêu (ớt tiêu), cây thù du. Trong đó ghi lại từ ghép “荈 诧-suyễn xá” tên của trà thời cổ, điều này cho thấy rằng từ hơn 2.100 năm trước ở Trung Quốc trà đã được sử dụng như một loại thảo dược trị bệnh trong Trung y, tạo phúc cho thế nhân.

Trong “Phương ngôn” của Dương Hùng, một bậc thầy khác về Hán phú, cũng nói đến vấn đề này: ” Người Thục ở Tây Nam gọi trà (茶) là hà (葭)”.

Dương Hùng và Tư Mã Tương Như đều là người nước Thục, Vương Tử Uyên mua trà và đồ uống gần Thành Đô, Tư Mã Tương Như đã sống rất lâu ở Thành Đô vốn là nơi sản xuất trà lâu đời, không chừng ông dẫn vợ mình là Trác Văn Quân cùng đi uống trà làm thơ phú thì là thật vui!

Hoa Đà, một y học gia những năm cuối thời Đông Hán và thời Tam Quốc, trong tác phẩm “Thực luận” đã đề xuất: “Trà đắng uống lâu, lợi cho việc suy nghĩ”, đó là ghi chép đầu tiên về tác dụng làm thuốc của trà. Thánh y Trương Trọng Cảnh, người viết cuốn “Thương Hàn Luận”, đã bình luận về trà như thế này: “Trà trị huyết mủ rất hiệu quả”, nếu bị tiêu chảy, chảy mủ, chảy máu thì uống trà có công dụng rất tốt.

“Quảng Nhã” do Trương Ấp của nước Ngụy thời Tam Quốc sưu tầm và biên soạn (các chương mục dựa theo trình tự của “Nhĩ Nhã”, dựa trên tác phẩm của tiền nhân mà mở rộng những chỗ chưa được hoàn thiện trong “Nhĩ Nhã”, vì thế mới có tên là “Quảng Nhã”. Đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu từ vựng và chú giải thời cổ), có một cuốn sách giải thích về trà đắng: Vùng giáp giới giữa Kinh Châu và Ba Châu hái lá chè về làm thành bánh, nếu lá già quá thì trộn với nước cơm làm thành bánh. Khi muốn pha trà để uống, trước tiên phải sao bánh chè trên lửa cho đến khi có màu đỏ đen, sau đó giã thành trà bột, cho vào bình sứ, đổ nước sôi vào, và dùng hành lá, gừng, quả quất và cỏ xạ hương, một loại rau dại hoặc thực vật thủy sinh ăn được làm nguyên liệu phối hợp. Uống trà này có thể giúp giã rượu và giúp người ta không buồn ngủ.

Theo “Tam Quốc Chí · Ngô Chí · Vi Diệu truyền” có ghi chép rằng: “Mỗi lần Tôn Hạo tổ chức yến tiệc, khách mời uống ít nhất bảy lít rượu, dù uống không hết nhưng vẫn phải rót ra, và phải cạn chén. Tửu lượng của Vi Diệu chỉ có hai lít, đầu tiên Tôn Hạo vẫn thết đãi ông ấy rượu, sau ngầm dâng trà cho ông để thay rượu”. Đây cũng là khởi đầu của việc “thay rượu bằng trà”.

Đó là những điều được ghi lại trong chính sử, sau đây là ba câu chuyện được ghi lại từ dã sử và truyền thuyết:

1. Tiên nhân Đan Khâu Tử đời Hán và trà

Trong “Thần Dị Ký” có một câu chuyện về trà (do đạo sĩ Vương Phù viết vào thời nhà Tấn): khi xưa, có một người ở Dư Diêu (nay là huyện Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang), tên là Ngu Hồng, một hôm lên núi hái trà thì gặp một đạo sĩ dắt ba con trâu xanh. Đạo sĩ dẫn Ngu Hồng đến thác nước trên núi và nói với Ngu Hồng: “Ta là Đan Khâu Tử (Chú thích: một vị tiên trong truyền thuyết thời nhà Hán), ta nghe nói ngươi rất giỏi pha trà, ta luôn muốn ngươi gửi cho ta một ít trà để thưởng thức. Trong núi này có cây trà lớn, ta có thể tặng lại cho ngươi. Hy vọng sau này ngươi pha trà, có dư trà trong ấm thì mời ta đến.” Sau lần tình cờ gặp tiên nhân trên núi đó, Ngu Hồng đã lập một bài vị Đan Khâu Tử ở nhà, và thường cúng tế bằng món trà đã hãm kỹ. Sau này, gia nhân thường xuyên vào núi tìm kiếm, cuối cùng cũng tìm được một cây trà lớn, rất cao

2. Triệu Phi Yến phi tần Hán Thành Đế dâng trà

Tần Thuần người Tống, nói rằng ông đã tìm thấy một cuốn tiểu thuyết có tên “Triệu hậu di sự” trong nhà của một thư sinh họ Lý, trong đó ghi lại câu chuyện về Triệu Phi Yến – phi tần của Hán Thành Đế. Nói rằng Triệu Phi Yến đã gặp Thành Đế trong giấc mơ, cung kính dâng trà, hai bên tả hữu nói: Triệu Phi Yến luôn phụng sự Hoàng đế một cách bất cẩn, người như vậy dâng trà không thể uống. Phi Yến đã khóc to trong giấc mơ đến nỗi làm người hầu giật mình tỉnh giấc.

Tuy rằng tiểu thuyết không phải là chính sử, “Triệu hậu di sự” cũng không biết là do ai viết, nhưng người ta viết tiểu thuyết luôn có vài phần giống hiện thực. Khi đó sản lượng trà không nhiều, trà ngon chỉ có thể dâng lên Hoàng đế, chuyện này cũng có thể dùng để tham chiếu.

3. Thừa tướng nước Thục Gia Cát Lượng và trà

Ở vùng Tây Nam Trung Quốc có rất nhiều truyền thuyết về Gia Cát Lượng và trà. Có rất nhiều cây chè lớn trên sáu núi chè lớn ở phía Nam Vân Nam và núi Nam Nọa ở Xi-soang-ba-na, theo truyền thuyết của người dân địa phương chúng đã được Khổng Minh trồng trong quá trình chinh phạt phương Nam vì vậy chúng được gọi là cây Khổng Minh. Theo ghi chép của văn tự Thái, bắt đầu từ hơn 1.700 năm trước, người Thái đã biết trồng và chăm bón cây chè, tương đương với thời gian chinh phạt phương nam của Gia Cát Lượng.

Qua đoạn trích trên có thể thấy rõ rằng “trà” đã đi vào đời sống của tầng lớp sĩ đại phu (gọi chung những người có văn hóa), những người thuộc tầng lớp này có một điểm chung là sức truyền bá mạnh. Tức là, khi mọi thứ đến với tầng lớp này, chúng sẽ nhanh chóng lan rộng ra xã hội. Dù là viên ngọc minh châu hay sản phẩm bình dân, qua sự tô vẽ của các văn nhân, sỹ phu cũng đều trở thành sản phẩm đẳng cấp.

Về điểm này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ở qua các bài thơ Đường sau này: Một số cảnh trong bài thơ ban đầu vốn là bình thường, nhưng một khi qua tay các văn nhân, chúng có thể được mọi người đọc thuộc làu làu, lưu truyền qua hàng nghìn năm. Đó chính là sức quyến rũ của văn hóa. (Những điều này được trình bày chi tiết trong các phần sau.)

Ngoài việc mượn hiệu ứng lan truyền của người nổi tiếng, bản thân khẩu vị và tác dụng chữa bệnh của trà cũng phù hợp với bầu không khí tư tưởng của xã hội Nho giáo thời bấy giờ. Người có học thức thời đó tôn sùng tư tưởng của Nho gia, ủng hộ sự thanh đạm, khi họ vừa thưởng trà vừa trải nghiệm những điều này, họ sẽ cảm thấy một hiệu ứng cộng hưởng. Trong khi thưởng trà, khoảng cách giữa mọi người như được rút ngắn lại; xoa dịu trái tim nông nổi và trầm tĩnh lại để suy nghĩ đến đại kế trị quốc, khi mệt mỏi uống trà có thể làm đầu óc sảng khoái, mắt nhìn sáng tỏ, chỉ ra cái nét giang sơn tự tại như ý, tái hiện cái sự nho nhã, phong lưu…

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245115

The post Nguồn gốc của trà (Phần 9): Thưởng trà thời Tần – Hán first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nguồn gốc của tràhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nguon-goc-cua-tra.htmlSun, 07 Mar 2021 20:51:24 +0000https://chanhkien.org/?p=27239Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org]  Nguồn gốc của trà (Phần 1): Lời mở đầu Nguồn gốc của trà (Phần 2): Trà cứu Thần Nông Nguồn gốc của trà (Phần 3): Trà giúp Hiên Viên Nguồn gốc của trà (Phần 4): Sự phát triển của trà vào thời nhà Hạ Thương Nguồn gốc của trà […]

The post Loạt bài: Nguồn gốc của trà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org] 

Nguồn gốc của trà (Phần 1): Lời mở đầu

Nguồn gốc của trà (Phần 2): Trà cứu Thần Nông

Nguồn gốc của trà (Phần 3): Trà giúp Hiên Viên

Nguồn gốc của trà (Phần 4): Sự phát triển của trà vào thời nhà Hạ Thương

Nguồn gốc của trà (Phần 5): Nguồn gốc của trà ở vùng Tây Nam, Trung Quốc

Nguồn gốc của trà (Phần 6): Trà dâng Chu Vũ

Nguồn gốc của trà (Phần 7): Duyên nợ trần thế của cây Kỷ Tử

Nguồn gốc của trà (Phần 8): Trà là món ăn nổi tiếng thời Xuân Thu

Nguồn gốc của trà (Phần 9): Thưởng trà thời Tần – Hán

Nguồn gốc của trà (Phần 10): Hai biệt danh của trà – thủy ách và lạc nô

Nguồn gốc của trà (Phần 11): Trà hưng thịnh ở thời Tùy – Đường

The post Loạt bài: Nguồn gốc của trà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 8): Trà là món ăn nổi tiếng thời Xuân Thuhttps://chanhkien.org/2020/05/nguon-goc-cua-tra-phan-8-tra-la-mon-an-noi-tieng-thoi-xuan-thu.htmlTue, 19 May 2020 15:26:01 +0000https://chanhkien.org/?p=26312Tác giả: Thạch Phương Hành   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 7 Lịch sử dần dần tiến vào thời kỳ Đông Chu, thời kỳ này được coi là thời kỳ có ý nghĩa văn hóa nhất trong lịch sử văn hóa Trung Hoa. Trải qua mấy thế kỷ đặt nền móng, con người lúc này đã thành […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 8): Trà là món ăn nổi tiếng thời Xuân Thu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 7

Lịch sử dần dần tiến vào thời kỳ Đông Chu, thời kỳ này được coi là thời kỳ có ý nghĩa văn hóa nhất trong lịch sử văn hóa Trung Hoa. Trải qua mấy thế kỷ đặt nền móng, con người lúc này đã thành thục và tiến bộ rõ rệt về văn hóa, lễ nghi và trí tuệ.

Sự chuyển biến hoa lệ từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nhanh chóng của văn minh nông nghiệp, sức mạnh đất nước, sức mạnh nhân dân tăng cường đáng kể. Lúc này đã xuất hiện thêm cuộc tranh đua văn hóa của bách gia chư tử và chư hầu tranh bá.

Cuộc sống của con người thời đó từ những nhu cầu cơ bản “củi, gạo, dầu, muối” đã phát triển đến thời kỳ lấy “tương, giấm, trà” làm gia vị thêm, có thể thấy đời sống vật chất của con người đã phồn thịnh rất nhiều.

Theo nghiên cứu của các nhà sử học:

Thời cổ đại, chữ ‘Trà – 茶’ viết là ‘Đồ -荼’, xuất hiện lần đầu tiên trong Kinh Thi. Tương truyền, Kinh Thi là do Khổng Tử biên tập, trong đó đã sưu tập chỉnh lý các tác phẩm thi ca từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Kinh Thi được phân thành ba loại: ‘Phong’, ‘Nhã’, ‘Tụng’.

‘Phong’ là dân ca, ‘Nhã’ là những bài nhạc trong cung đình, ‘Tụng’ là những bài nhạc dùng khi cúng tế trong cung thất. Chữ ‘Đồ’ xuất hiện ở nhiều chỗ, như trong bài Cốc phong: “Thái đồ tân sư, tự ngã nông phu”, “Tân sư” nghĩa là chặt cây thầu dầu về làm củi đốt; “Đồ liêu ô chỉ, tắc tắc mậu chỉ”, liêu là một loại cây thuốc, có thể giải độc, ở đây đề cập đến “Đồ”; lại như bài Miên ghi lại: “Chu chu nguyễn nguyễn, cẩn đồ như di”, chỗ này chỉ rau cẩn, rau đồ cũng có vị ngọt giống như đường.

Nhưng chữ ‘Đồ’ trong Kinh Thi liệu có phải chỉ trà hay không, đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa có kết luận. Theo ý kiến cá nhân tôi, kỳ thực điều này gây ra do sự đứt quãng về văn hoá. Thực ra hiểu theo cách khác, lý giải chữ ‘Đồ’ theo nghĩa rộng hơn là lá trên cây (có thể ăn được), chứ không đơn thuần chỉ ‘Trà’, thì mọi điều sẽ được giải thích thông suốt. Cần suy xét nhân tố hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, con người thời đó vẫn chưa có nhận thức phổ biến về tính chất, trạng thái và công dụng của trà, cho nên hiểu theo nghĩa rộng là tương đối phù hợp với tình hình thực tế.

Trong Trà Kinh của Lục Vũ đời Đường từng trích dẫn Yến Tử Xuân Thu: “Anh tướng thời Tề Cảnh Công, ăn hạt dẻ thay cơm, nướng vài quả trứng, dùng trà làm rau”. Đây là nói về tướng quốc Yến Anh của Tề Cảnh Công, chỉ ăn gạo lứt, vài ba món ăn mặn, trà và rau xanh mà thôi. ‘Minh – 茗’, tên gọi khác của trà, trong các sách cổ như Đồng Quân Lục có những ghi chép về việc trà, quế, gừng và một số loại hương liệu được dùng để nấu ăn.

Thời đó, lá trà được dùng trong các món hầm, luộc và người thời đó đã chú ý đến việc nêm gia vị cho canh trà. Đây là thời kỳ trà được dùng làm đồ ăn, làm rau, nấu canh. Lá trà sau khi nấu chín được ăn cùng với cơm canh. Mục đích sử dụng trà một mặt là để tăng cường dinh dưỡng, mặt khác là để giải độc tố trong thực phẩm.

Vào thời kỳ này, con người tuy rằng đã có khái niệm giai tầng, song các giai tầng khác nhau có thể hoán đổi lẫn nhau: lập công có thể được thăng lên giai tầng cao; phạm tội, chịu phạt có thể bị giáng xuống giai tầng thấp hơn. Nhưng cho dù thăng lên hay giáng xuống, đối với một người mà nói thì rất nhiều sở thích khó có thể thay đổi.

Những người thích uống trà đều biết rằng một khi đã uống trà thì rất dễ nghiện, dễ hình thành thói quen và trở thành một phần của cuộc sống, vậy thì nếu như giai tầng thay đổi, nhưng nếu sở thích này của họ không thay đổi thì sẽ có thể thúc đẩy sự phổ biến của trà trong các giai tầng khác nhau.

Đặc biệt vào thời kỳ này, những người có chút khả năng đều nuôi rất nhiều “môn khách”, cơ hội giao lưu giữa các trường phái và mối liên hệ giữa các quốc gia qua các việc quốc sự như chiến tranh, tranh bá đều rất nhiều, thói quen “uống trà” cũng theo đó mà dần dần lan rộng.

Sự phát triển hưng thịnh của các trường phái, sự dung hợp của văn hóa đã khiến trà từ chỗ là thứ đồ uống bí ẩn trở thành đồ uống thường ngày, chúng ta có thể tưởng tượng một chút về tình huống này: Khi các học giả của một trường phái nào đó đàm luận với nhau về chủ trương và tinh thần của trường phái họ hoặc ca ngợi lý luận của trường phái họ với đức vua, khi đó đức vua (hoặc chủ nhân) dùng trà làm món ăn thết đãi họ, trà khởi được tác dụng tích cực làm tinh thần hưng phấn, đầu óc tỉnh táo, trơn miệng, cũng có nghĩa là sự lan rộng của các học thuyết vào thời đó ở một mức độ nào đó đã có tác dụng thúc đẩy sự phổ biến của trà.

Bởi vì thời đó trà có công trong việc truyền bá văn hóa và mang lại lợi ích to lớn đối với sức khỏe của con người và sự phát triển của xã hội, cho nên trà đã từ trạng thái bí ẩn lúc đầu du nhập vào xã hội, rồi xuất hiện trên bàn ăn của con người. Trà dần cởi bỏ lớp áo thần bí, trở thành hiện tượng văn hóa trà độc đáo, đồng thời cùng với những phương diện văn hóa truyền thống khác phát triển suốt hàng ngàn năm nay.

 

(Còn nữa)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245114

The post Nguồn gốc của trà (Phần 8): Trà là món ăn nổi tiếng thời Xuân Thu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 7): Duyên nợ trần thế của cây Kỷ Tửhttps://chanhkien.org/2019/07/nguon-goc-cua-tra-phan-7-duyen-no-tran-the-cua-cay-ky-tu.htmlMon, 15 Jul 2019 10:20:30 +0000http://chanhkien.org/?p=25578Tác giả: Thạch Phương Hành   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 6 Nói đến cây Kỷ Tử, người Hoa trên toàn thế giới đều rất quen thuộc, đều biết rằng nó là loài cây mọc thành bụi, chịu được lạnh, dễ sinh trưởng; quả, lá và rễ của nó đều có thể dùng làm thuốc. Trong […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 7): Duyên nợ trần thế của cây Kỷ Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 6

Nói đến cây Kỷ Tử, người Hoa trên toàn thế giới đều rất quen thuộc, đều biết rằng nó là loài cây mọc thành bụi, chịu được lạnh, dễ sinh trưởng; quả, lá và rễ của nó đều có thể dùng làm thuốc. Trong cuốn sách y học thời cổ đại Tân Bản Thảo Bị Yếu có ghi: lá non của cây Kỷ Tử được gọi là ‘Thiên Tinh Thảo’, hoa gọi là ‘Trường Sinh Thảo’, quả gọi là ‘Sơn Địa Quả’, rễ gọi là ‘Địa Cốt Bì’, đều có công dụng bồi bổ sức khỏe. Trong đó, quả có thể làm thức ăn, lá có thể pha trà, đều là những vị thuốc bổ hàng đầu. Hơn nữa, từ phương diện khảo cổ mà nói thì cây Kỷ Tử đã từng xuất hiện nhiều lần trong những quẻ bói viết bằng chữ Giáp cốt vào thời nhà Thương. Có thể thấy rằng tổ tiên của chúng ta vào thời kỳ đầu của nền văn minh đã biết về cây Kỷ Tử rồi.

Trong những cuốn sách y học như Thần Nông Bản Thảo Kinh, Bản Thảo Cương Mục, Tân Bản Thảo Bị Yếu v.v. đều ghi chép rõ về dược tính của nó.

Kỳ thực trong Kinh Thi, tác phẩm văn học đầu tiên của lịch sử Trung Hoa cũng có ghi chép về cây Kỷ Tử: Trong Tiểu Nhã – Trượng Đỗ viết: “Lên dốc núi phía bắc, hái Kỷ Tử, việc quân bộn bề, lo lắng cho phụ mẫu của ta”.

Tể tướng Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối đời nhà Đường, do trợ giúp Đường Thái Tông Lý Thế Dân cai quản thiên hạ, cuối cùng vì quá vất vả mà thân thể gầy yếu, hay chóng mặt hoa mắt, nhờ uống “Kỷ Tử Ngân Nhĩ Canh” mà phục hồi sức khỏe.

Trên mạng Internet còn có đăng một truyền thuyết như sau vào đời nhà Đường:

Ở Nhuận Châu có chùa Khai Nguyên, trong chùa có một cái giếng, cạnh giếng mọc rất nhiều cây Kỷ Tử, cao khoảng 1-2 trượng (1,7-3,4m), rễ cây chằng chịt, to khỏe, người trong chùa uống nước giếng này sắc mặt ai ai cũng hồng hào, thậm chí người 80 tuổi mà tóc không bạc, răng không rụng. Nhà thơ đời Đường Lưu Vũ Tích một lần đến thăm quan chùa Khai Nguyên, sau khi nghe lão hòa thượng kể về tác dụng thần kỳ của nước giếng Kỷ Tử, liền làm một bài thơ có tựa đề “Giếng Kỷ Tử”: “Cây thuốc ở phòng của hòa thượng dựa vào giếng lạnh, giếng có nước trong, thuốc có linh. Lá xanh biếc rủ xuống giếng đá, quả đỏ tươi soi xuống bình đồng. Cành cây vốn là cây gậy chống của tiên nhân, rễ cây có thể kết thành hình chú chó. Công dụng sản phẩm vị cam lộ, được biết uống một thìa có thể kéo dài tuổi thọ”.

“Tiên nhân trượng” trong bài thơ thực ra chỉ thân cây Kỷ Tử, dân gian truyền rằng thân cây Kỷ Tử là cây gậy chống của Thần Tiên. Trong Đạo Thư nói: “Kỷ Tử ngàn năm, rễ của nó có hình dạng như chú chó, người cầu Đạo gọi là gậy Tây Vương Mẫu”, Bạch Cư Dị có câu thơ: “Không biết có phải rễ của cây linh dược biến thành chó không, mà ban đêm lại nghe tiếng chó sủa”.

Đời nhà Tống còn xuất hiện cháo Kỷ Tử, trong Thái Bình Thánh Huệ PhươngThánh Tế Tổng Lục đều có ghi chép.

Thời cổ đại, thái hậu nước Liêu thường dùng hoa sen vàng và Kỷ Tử ngâm nước uống, nhờ đó giữ được nhan sắc trẻ trung, xinh đẹp ngay cả khi đã ở tuổi trung niên.

Thời cận đại cũng có những câu chuyện về ăn Kỷ Tử mà trường thọ. Trong Trung Ngoại Thư có ghi chép: Vào năm thứ 50 Dân Quốc đã từng đưa tin về kỳ tích một ông lão tên là Lý Thanh Vân ở tỉnh Tứ Xuyên thọ 250 tuổi (qua đời vào năm thứ 19 Dân Quốc). Có một đoạn tự thuật của Lý Thanh Vân như sau: … Năm đó tôi 50 tuổi, một lần lên núi hái thuốc gặp một vị lão nhân, dường như là người không ăn đồ ăn chín trên trần gian. Ông đi như bay trên những mỏm đá trong rừng; tôi co chân chạy thục mạng mà vẫn không đuổi kịp ông ấy. Một lúc sau tôi lại gặp ông, liền quỳ xuống xin ông chỉ giáo, vị lão nhân đó lấy mấy quả dại đưa cho tôi nói: “Chẳng qua chỉ là ta thường ăn mấy thứ này mà thôi”. Tôi cầm lên xem, thì ra đó là quả Kỷ Tử. Từ đó mỗi ngày tôi ăn ba xâu, lâu dần thân thể nhẹ nhàng, bước chân khỏe mạnh, đi trăm dặm đường cũng không mệt mỏi, mà sức lực cũng hơn người thường.

Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không nói chi tiết về công dụng của cây Kỷ Tử, chúng tôi chỉ bàn một chút về “duyên nợ trần thế ban đầu” của cây Kỷ Tử.

Nói về Bàn Cổ sau khi khai thiên tịch địa, trải qua lịch sử rất lâu dài, các nhân tố trên địa cầu mới dần dần ổn định, vạn vật bắt đầu xuất hiện.

Kỷ Tử vốn là cây Thần trên thiên giới, hội tụ tinh hoa của trời đất, nàng (bởi vì bản thân cây Kỷ Tử rất có linh khí, toàn thân đều rất quý, cho nên người viết nhân cách hóa gọi là “nàng”) sống vui vẻ, mộc mạc trong khu vườn tiên của mình. Chỉ vì Đấng Tạo Hóa thấy rằng “con người” đáng được trân trọng, cho nên mong muốn cây Kỷ Tử có thể giúp con người cải thiện sức khỏe để chống chọi lại những nhân tố xấu bên ngoài, cuối cùng tìm ra con đường thực sự quay trở về, do vậy đã đem cây Kỷ Tử trồng xuống nhân gian. Sáng Thế Chủ bảo nàng phải chờ đợi con người phát hiện ra nàng, hiểu được nàng, thì lúc đó nàng mới hoàn thành trách nhiệm và sứ mệnh của mình.

Khi mới đến nhân gian, cây Kỷ Tử tràn ngập niềm vui, cảm giác tươi mới, được nuôi dưỡng dưới ánh nắng và những cơn mưa, nàng bắt đầu đội đất nhô lên, uyển chuyển vươn mình trong gió mát, ở những vùng thổ nhưỡng khác nhau nở rộ thành từng chuỗi hoa nhỏ mang vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc. Cành cây trông có vẻ mềm yếu nhưng thân cây lại có gai, khiến các loài khác đều hiểu rõ sự uy nghiêm của nàng!

Vào thời điểm đó, thế giới rất vắng vẻ, khắp nơi đầy các loài chim thú, mãi không thấy bóng dáng “con người”. Năm tháng trôi đi, nàng lặng lẽ chờ đợi đến một ngày “con người” hiểu được giá trị sự tồn tại của nàng. Khi già đi, nàng truyền lại sự ủy thác của Đấng Tạo hóa cho đời sau, chấm dứt duyên trần và nguyện vọng xa xưa trong kiếp luân hồi này….

Cứ như thế, các nàng chờ đợi từ đời này qua đời khác, cuối cùng đến một ngày tổ tiên của chúng ta có người tình cờ đi ngang qua, các nàng làm cho quả mọc sai trĩu, lá xanh hơn, cành cây càng trở nên thướt tha, uyển chuyển hơn trong gió mát. Cơ duyên “xuất thế” của các nàng đã đến. Dự ngôn và sự ủy thác của tổ tiên cuối cùng đã được thực hiện.

Dưới sự an bài có trật tự của Đấng Tạo Hóa, tổ tiên của chúng ta vì khát nước hoặc đói bụng hoặc gai trên thân nàng vô tình mắc vào cánh tay người nào đó khiến họ chú ý, thế là họ tiện tay hái quả hoặc lá đưa vào miệng, phát hiện có vị ngọt hơi đắng, rất ngon. Chỉ có điều trên thân nàng có nhiều gai, mỗi lần hái không được nhiều quả và lá nên phải hái nhiều lần, kết quả phát hiện ra lâu dần thân thể trở nên nhẹ nhàng, khỏe mạnh, mắt tinh, tai thính.

Các nàng thở phào nhẹ nhõm, cuối cùng cũng có thể báo cáo với Đấng Tạo Hóa và tổ tiên rằng mình rốt cuộc đã được con người biết đến, đã có thể dâng hiến tất cả cho con người!

Cây Kỷ Tử mộc mạc, không kiêu sa, có thể thích ứng với mọi điều kiện sống, mọi người ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội đều có thể dùng được, người giàu thì bỏ tiền mua, người nghèo thì hái ngoài đồng.

Con người thật trân quý biết bao! Để giúp con người có thân thể khỏe mạnh, Đấng Tạo Hóa đã an bài rất nhiều loài thực vật có dược tính thần kỳ xuống trần. Vì vậy, chúng ta phải luôn biết cảm ân Đấng Tạo Hóa, tận dụng thật tốt những loài thực vật thần kỳ này.

Vạn vật đều có linh, chỉ khi thực sự hiểu được sinh mệnh và giá trị của loài khác mới có thể đồng cảm lẫn nhau, mới có thể cùng nhau phát huy ưu thế và sức mạnh tiềm tại, từ đó đạt được lợi ích lớn nhất. Từ góc độ dược lý mà nói, chỉ khi dược tính (của cây Kỷ Tử) được phát huy cao nhất, thì người dùng mới có thể khỏe mạnh hơn. Đây cũng được coi là cách lý giải khác đối với câu nói của người xưa về “Thiên nhân hợp nhất”.

 

Xem tiếp phần 8.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/245113

The post Nguồn gốc của trà (Phần 7): Duyên nợ trần thế của cây Kỷ Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 6): Trà dâng Chu Vũhttps://chanhkien.org/2019/05/nguon-goc-cua-tra-phan-6-tra-dang-chu-vu.htmlTue, 21 May 2019 08:20:14 +0000http://chanhkien.org/?p=25560Tác giả: Thạch Phương Hành Tiếp theo Phần 5 [ChanhKien.org] Trong những ghi chép về trà có thể tra cứu được trong sử sách hiện nay, những ghi chép vào thời kỳ nhà Chu có thể được coi là chính thống và chân thực: Theo “Hoa Dương Quốc Chí – Ba Chí” ghi chép, sau […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 6): Trà dâng Chu Vũ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

Tiếp theo Phần 5

[ChanhKien.org] Trong những ghi chép về trà có thể tra cứu được trong sử sách hiện nay, những ghi chép vào thời kỳ nhà Chu có thể được coi là chính thống và chân thực:

Theo “Hoa Dương Quốc Chí – Ba Chí” ghi chép, sau khi Chu Vũ Vương Cơ dẫn quân nhà Chu và chư hầu chinh phạt Trụ Vương nhà Ân, liền phong một người họ hàng của ông ở lại làm vua nước Ba. Nước này có phạm vi lãnh thổ khá rộng lớn, phía đông đến Ngư Phù (nay là Thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên), phía tây đến Phần Đạo (nay là Tây Nam An Biên, Nghi Tân, Tứ Xuyên), phía bắc giáp Hán Trung (nay là phía nam Tần Lĩnh, Thiểm Tây), phía nam đến Kiềm Bồi (nay là Bồi Lăng, Tứ Xuyên). Ba Vương là chư hầu, lẽ đương nhiên phải cống nạp cho Chu Vũ Vương (Thiên tử). Trong “Ba Chí” có ghi lại một tờ “Cống đơn” như sau: Ngũ cốc lục súc, tơ tằm, đay, gai, cá, muối, đồng, sắt, sơn đỏ, trà, mật, linh quy, tê giác, gà rừng, chim trắng.

Đã là cống phẩm thì chắc chắn là thứ quý hiếm. Vậy mà trà mà Ba Vương dâng lên lại là thứ quý giá trong những thứ quý giá. Ở sau tờ “Cống đơn” này, “Ba Chí” còn ghi chú thêm: “Trong những thực vật quý, cây có cây vải, cải có cải cay, trong vườn có trà thơm”. Trà được dâng lên Chu Vũ Vương không phải là loại trà dại mọc trong núi sâu, mà là loại trà thơm trong vườn có người chuyên chăm bón.

“Hoa Dương Quốc Chí” là một trong những cuốn địa phương chí (cuốn sách ghi chép lịch sử, địa lý, con người ở một khu vực) đầu tiên tại Trung Quốc được bảo tồn cho đến ngày nay. Tác giả cuốn sách là Thường Cừ, người thời Đông Tấn, tự Đạo Tương, ở quận Thục, Giang Nguyên (nay thuộc phía đông nam Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên). Ông là một học giả uyên bác, ông đã thu thập những tư liệu về Tư Mã Thiên, ông căn cứ vào những tư liệu vô cùng phong phú để viết nên bộ sách với quy mô đồ sộ gồm 12 cuốn vào năm 355 trước công nguyên.

Trà cống phẩm này được Chu Vũ Vương dùng để thưởng thức, làm thuốc, và còn dùng làm gì nữa thì hiện nay chúng ta vẫn chưa biết. Nhưng trong cuốn “Chu Lễ”, chúng ta có thể biết trà còn có những công dụng khác. Trong “Chu Lễ – Địa Quan Tư Đồ” viết: “Chưởng đồ. Hạ sĩ nhị nhân, phủ nhất nhân, sử nhất nhân, đồ nhị thập nhân”. (Tạm dịch: Cai quản việc thu gom trà gồm: hạ sĩ 2 người, quan phủ 1 người, quan sử 1 người, binh lính 20 người) “Đồ” là từ cổ để chỉ “Trà”. Cai quản việc thu gom trà cần hơn 24 người để làm gì vậy? Cuốn sách này còn viết: “Chưởng đồ: Chưởng dùng lúc tụ đồ, dùng cung cấp tang sự; chinh dã sơ tài chi vật, mà đối đãi bang sự tình, phàm súc tụ chi vật” (Tạm dịch: Chưởng đồ cai quản việc thu gom trà đúng thời vụ để dùng cho việc tang lễ”. Hóa ra thời đó trà không chỉ dùng để giải khát, mà còn là đồ cúng tế không thể thiếu khi cử hành tang lễ quốc gia, vậy nên nhất thiết phải có người chuyên môn cai quản việc thu gom trà.

Ngoài ra, trong “Thượng Thư – Cố Mệnh” viết: “Vương (chỉ Thành Vương) tam túc, tam tế, tam sá (tức trà)”. Điều này cho thấy vào thời Chu Thành Vương thì trà đã được dùng thay rượu để thờ cúng.

Từ đó có thể thấy rằng, vào thời nhà Chu 3000 năm trước, trà đã có vị trí tương đối cao. Còn trong “Kinh Thi”, không có gì lạ khi chữ “Trà” nhiều lần xuất hiện trong những bài thơ như: “Cốc phong”, “Tang nhu”, “Diều hâu”, “Lương tự”, “Xuất kỳ đông môn” v.v.

Viết đến đây, tôi nhớ đến một câu chuyện khác được lưu truyền từ xa xưa về việc Thần Nông phát hiện ra trà: chuyện kể rằng Thần Nông có chiếc bụng bằng pha lê, từ bên ngoài quan sát có thể thấy thức ăn đang vận chuyển trong ruột. Khi nếm thử trà, ông phát hiện trà chảy khắp nơi trong dạ dày, giống như những binh lính lùng sục, kiểm tra khắp nơi, rửa sạch dạ dày, vì vậy Thần Nông gọi loài cây này là “Tra”, sau chuyển thành chữ “Trà”, từ đó mà “Trà” ra đời.

Câu chuyện này chắc hẳn do người đời sau hư cấu nên. Nguyên nhân rất đơn giản: theo nghiên cứu, tìm hiểu của học giả Cố Viêm Vũ đời nhà Thanh, hình dạng, âm đọc, ý nghĩa của chữ Trà xuất hiện sau thời nhà Đường. Còn Lục Vũ khi viết “Trà Kinh”, cuốn sách viết về trà đầu tiên trên thế giới, do phần đông mọi người đều lưu truyền cách gọi “Trà” nên đã thống nhất viết thành chữ Trà, đây có thể coi là một đóng góp quan trọng của Lục Vũ.

Đương nhiên, có thể thấy rằng từ thời Tiên Tần đến đời nhà Đường, âm đọc, hình dạng và ý nghĩa của chữ Trà chưa được định hình, kỳ thực hình dạng chữ “Trà” sớm đã xuất hiện vào thời nhà Hán. Về sau, trong “Quảng Nhã” của Trương Tập thời Tam Quốc, “Tam Quốc Chí – Vi Diệu Truyền” của Trần Thọ thời Tây Tấn, “Bác Vật Chí” của Trương Hoa thời Tấn cũng đã xuất hiện chữ “Trà”.

Từ những tư liệu trên có thể khẳng định, dù thế nào thì âm đọc và ý nghĩa của chữ “Trà” không thể có từ thời đại Thần Nông, vậy thì “Tra” chuyển thành “Trà” như thế nào được? Vậy nên tôi mới nói rằng câu chuyện Thần Nông gọi loại thực vật này là “Tra” là do người đời sau thêu dệt nên chứ không phải sự thực.

Kỳ thực, từ góc độ tôn kính tổ tiên mà nói, việc dựng nên câu chuyện này có ý không tôn kính. Nhưng người đời sau lại không ý thức được sự “không tôn kính” này, lại còn cho rằng đang tô điểm, thần thoại hóa tổ tiên. Trong mấy nghìn năm lịch sử, những sự việc như vậy xuất hiện nhiều vô kể, sự thật của lịch sử đều đã bị che giấu.

Sự thật lịch sử là để lưu lại kinh nghiệm và tấm gương cho người đời sau. Khi lịch sử bị thay đổi có chủ ý hoặc vô ý, qua thời gian sẽ khiến người ta hiểu lầm, những thứ giả ngày càng nhiều khiến lịch sử ngày càng mất đi vai trò là tấm gương để người đời sau tham chiếu, như vậy sẽ gây ra sự hỗn loạn trong quá trình truyền thừa văn hóa, dẫn dắt người đời sau theo con đường sai lầm.

Do đó, loạt bài này cố gắng khôi phục lại lịch sử chân thực qua những tư liệu về trà. Trong quá trình tìm kiếm tư liệu, phân tích kỹ lưỡng đâu là “câu chuyện”, đâu là những ghi chép chân thực, chúng tôi hi vọng mang đến cho độc giả cái nhìn chân thực từ nhiều phương diện về sự phát triển của trà và văn hóa trà.

Xem tiếp Phần 7

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245111

The post Nguồn gốc của trà (Phần 6): Trà dâng Chu Vũ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 5): Nguồn gốc của trà ở vùng Tây Nam, Trung Quốchttps://chanhkien.org/2019/02/nguon-goc-cua-tra-phan-5-nguon-goc-cua-tra-o-vung-tay-nam-trung-quoc.htmlThu, 14 Feb 2019 02:55:54 +0000http://chanhkien.org/?p=25534Tác giả: Thạch Phương Hành Tiếp theo Phần 4 [ChanhKien.org] Nếu nói về trình độ văn minh, những dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nam Trung Quốc có trình độ văn minh thấp hơn nhiều so với dân tộc Hán. Nhưng nền văn minh của dân tộc Hán trong quá trình phát triển và […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 5): Nguồn gốc của trà ở vùng Tây Nam, Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

Tiếp theo Phần 4

[ChanhKien.org] Nếu nói về trình độ văn minh, những dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nam Trung Quốc có trình độ văn minh thấp hơn nhiều so với dân tộc Hán. Nhưng nền văn minh của dân tộc Hán trong quá trình phát triển và truyền thừa có rất nhiều yếu tố truyền thống dần dần bị mai một, còn những dân tộc thiểu số ở vùng biên giới do sống biệt lập nên một số phong tục và văn hóa nguyên thủy, cổ xưa vẫn được lưu giữ, trở thành những “hóa thạch sống” thực sự. Văn hóa trà cũng là một trong số đó, chúng ta hãy điểm qua một vài ví dụ thực tế được sưu tầm trên mạng:

  1. Dân tộc Thổ Gia

Người dân tộc Thổ Gia sùng bái “Bát bộ đại vương” trong truyền thuyết, coi họ là thủ lĩnh của người Thổ Gia, là “hóa thân” của trà. Theo “Thi Mã thánh ca” của người Thổ Gia, mẫu thân của Bát bộ đại vương là Dĩ Hòa Nương Nương – nữ thần mà người Thổ Gia kính trọng nhất. Khi Dĩ Hòa Nương Nương còn là một thiếu nữ, một hôm cô lên núi hái trà, vì trời nóng, khát không chịu được bèn tiện tay bốc một nắm lá trà để giải khát, kết quả cô đã mang thai, mang thai suốt ba năm sáu tháng thì sinh hạ tám bé trai. Nhưng Dĩ Hòa Nương Nương nào có tiền để nuôi dưỡng tám đứa trẻ! Cô đành để chúng lại trong rừng sâu, phó mặc cho ông trời. Nào ngờ trời giúp người, tám anh em được một con hổ trắng nuôi dưỡng lớn nhanh như thổi, võ nghệ cao cường, cuối cùng trở thành những võ tướng. Về sau, vì có công đánh trận mà được phong làm “Bát bộ đại vương” ở núi Long Sơn.

Câu chuyện này tuy là truyền thuyết nhưng cũng cho thấy rằng người dân tộc Thổ Gia tiếp nối mạch phát triển của xã hội thị tộc mẫu hệ Thần Nông, Phục Hy vào thời kỳ sơ khai của dân tộc Trung Hoa. Vào thời đó, trà tất nhiên được coi là một nhu yếu phẩm của cuộc sống, “vào sinh ra tử” với dân tộc Thổ Gia. Vì vậy, đến ngày nay ở biên giới tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Trùng Khánh, Quý Châu nơi mà dân tộc Thổ Gia cư trú vẫn bảo tồn tập quán ăn cơm với trà. Kỳ thực, đây chính là sự tiếp nối của tục uống trà cổ xưa.

  1. Dân tộc Ki-nô

Dân tộc Ki-nô chủ yếu định cư tại vùng Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, trong đó tập trung nhiều nhất ở Cảnh Hồng. Họ chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, nổi tiếng về trồng trà, họ sống ở vùng biên giới, vùng đất của trà Phổ Nhĩ. Trà do người Ki-nô trồng rất ngon, người dân tộc này còn lưu truyền câu chuyện về “Nữ thủy tổ Nghiêu Bạch”, kể rằng vào thuở xa xưa khi Nghiêu Bạch khai thiên lập địa, bà triệu tập các dân tộc đến phân chia trời đất, nhưng dân tộc Ki-nô không tham gia. Nghiêu Bạch nhờ dân tộc Hán và dân tộc Thái đến mời, nhưng dân tộc Ki-nô vẫn không đi. Nghiêu Bạch đích thân đến mời, dân tộc Ki-nô vẫn không đi. Cuối cùng, Nghiêu Bạch đành phải giận dữ bỏ về.

Khi Nghiêu Bạch lên núi, nghĩ đến dân tộc Ki-nô không tham gia khai thiên lập địa thì sau này sẽ sinh sống ra sao? Vậy là Nghiêu Bạch bèn bốc một nắm hạt giống trà trải xuống chân núi Ki-nô. Từ đó, cây trà bén rễ, khai hoa. Về sau, người dân tộc Ki-nô tộc bắt đầu trồng trà ở nơi họ sinh sống, kết mối duyên bền chặt với trà.

  1. Dân tộc Thái

“Du thế lục diệp kinh” trong kinh Bối Diệp được viết vào năm 204 theo lịch Thái có ghi chép rằng cây trà được phát hiện và trồng ở vùng Tây Song Bản Nạp vào thời Phật Tổ đi các nơi truyền giáo, cách đây khoảng 1200 năm. Trong kinh viết: “Có cành lá xanh tươi, hoa trắng quả xanh, sinh trưởng tại nhân gian, Phật Tổ từng nói ở Du Lạc, Dịch Vũ, Man Trang, Man Táp có những chiếc lá non đẹp đẽ, theo Kinh Phật nói là loại lá có vị ngọt, sinh ra dưới bóng râm của cây đại thụ”. Trong kinh còn viết rằng nam nữ già trẻ uống loại trà được gọi là “thứ ngon trong thiên hạ, trước đắng sau ngọt, dễ uống lại trơn họng, mang về trồng, sau này nhất định có ích …” Có thể thấy rằng dân tộc Thái đã có lịch sử uống trà lâu đời.

Trong “Du thế lục diệp kinh” còn ghi chép về việc tổ tiên người dân tộc Thái sấy trà, đun trà và ăn cơm nấu với trà, khi Phật Tổ du thế, đi từ trên núi Dịch Vũ xuống, Ngài gặp hai người dân tộc Thái đang chăn lừa dưới chân núi, họ lập tức dâng nước nóng cho Phật Tổ. Phật tổ uống vào thấy nhạt nhẽo không có vị gì, bèn hái vài chiếc lá non gần đó, hong khô rồi thả vào ống tre cùng với nước đun lên, lập tức hương thơm lan tỏa, nước có vị ngọt, quả là “của ngon trong thiên hạ”. Trà “có thể làm dịu cơn khát, khi không có rau có thể nấu lên ăn với cơm. Hai người Thái lập tức nếm thử, quả nhiên hương vị rất ngon. Từ đó họ nhớ lời Phật Tổ, hàng ngày hái những lá trà tươi non trên cây, sấy khô rồi đun lên uống…”. Từ đó, phong tục đun trà trong ống tre và ăn cơm nấu với trà của người dân tộc Thái được lưu truyền cho đến ngày nay.

Thực ra, các dân tộc khác cũng có rất nhiều ví dụ tương tự, nhưng do giới hạn bài viết nên chúng tôi không thể kể hết.

Một số ví dụ kể trên để thấy rằng “trà” là do trời ban cho tổ tiên chúng ta, từ đó có thể thấy được lòng từ bi vĩ đại của trời và Thần Phật, cũng có thể thấy trà có quan hệ rất mật thiết với cuộc sống của tổ tiên chúng ta.

Xem tiếp Phần 6

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245110

The post Nguồn gốc của trà (Phần 5): Nguồn gốc của trà ở vùng Tây Nam, Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 4): Sự phát triển của trà vào thời nhà Hạ Thươnghttps://chanhkien.org/2018/11/nguon-goc-cua-tra-phan-4-su-phat-trien-cua-tra-vao-thoi-nha-ha-thuong.htmlFri, 16 Nov 2018 02:41:14 +0000http://chanhkien.org/?p=25509Tác giả: Thạch Phương Hành Tiếp theo Phần 3 [ChanhKien.org] Sau thời kỳ Viêm Hoàng, trà tiếp tục phát triển qua các thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, trong quá trình đó, nhận thức của con người đối với trà ngày càng sâu sắc hơn, tầm ảnh hưởng của trà cũng ngày càng rộng hơn. […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 4): Sự phát triển của trà vào thời nhà Hạ Thương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

Tiếp theo Phần 3

[ChanhKien.org] Sau thời kỳ Viêm Hoàng, trà tiếp tục phát triển qua các thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, trong quá trình đó, nhận thức của con người đối với trà ngày càng sâu sắc hơn, tầm ảnh hưởng của trà cũng ngày càng rộng hơn. Mặc dù sự phát triển của trà vào thời kỳ này không được ghi chép rõ ràng trong sử sách, nhưng thực tế đây cũng là thời kỳ quan trọng đối với sự phát triển của trà.

Con người hiện đại luôn cho rằng sau khi có chữ viết thì con người mới biết đến việc uống trà, rằng chỉ sau khi đời sống vật chất trở nên phong phú thì con người mới bắt đầu biết thưởng thức trà. Kỳ thực không phải vậy.

Chúng tôi lấy một ví dụ đơn giản: Chúng ta đều biết vào giữa thế kỷ trước, người Ngạc Luân Xuân cư trú lâu dài trong khu rừng rậm nguyên thủy ở phía đông bắc núi Đại Hưng An Lĩnh, họ thuộc xã hội thị tộc nguyên thủy, dù vậy họ vẫn có thói quen “ngâm lá hoàng cần, á cách làm đồ uống”. Mà nền văn minh Hoàng Hà thời kỳ đầu (giai đoạn từ thời kỳ Viêm Hoàng đến Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang) có trình độ văn minh còn cao hơn so với trình độ văn minh của bộ tộc này, vậy thì trà hẳn phải được phổ biến rộng rãi hơn. Vào thời đó, trà được dùng làm thuốc nhiều hơn làm thức uống, bởi vì con người lúc đó đầu tiên cần phải sống sót, nên người ta đa phần nhai trà để làm thuốc, rất ít thấy dùng trà để thưởng thức, giải trí hay giao thương.

Giai đoạn này các vị Thần cũng dùng những phương thức khác nhau để giáo hóa dân chúng, dạy cho dân chúng biết một số phương pháp canh tác, du mục và biết cách xử lý một số vấn đề gặp phải.

Trong nhân gian có lý tương sinh tương khắc. Còn nhớ hồi nhỏ tôi từng đọc một cuốn sách viết rằng: năm xưa Lỗ Ban vì tay bị gai đâm trầy xước mà phát minh ra cái cưa. Rất nhiều hiện tượng tưởng chừng ngẫu nhiên nhưng lại hoàn toàn tất nhiên.

Chúng tôi xin kể về hai câu chuyện không được ghi chép trong lịch sử, cũng không được truyền miệng trong dân gian.

Câu chuyện thứ nhất xảy ra vào triều nhà Hạ.

Có một lần quốc vương triều nhà Hạ dẫn thị vệ lên núi đi săn, khi đi vào núi thì bị lạc đường, lại cảm thấy rất khát nước. Thật không may, xung quanh đó lại không có suối, làm thế nào đây? Hai thị vệ khát quá không chịu nổi, thấy xung quanh có cây liền vội hái lá cây để nhai, nhai xong cả hai đều ngã lăn ra đất bất tỉnh. Nhà vua hoảng sợ, thấy mặt trời sắp xuống núi, nếu cứ thế này không khéo mình và các thị vệ còn lại sẽ bị thú dữ ăn thịt mất!

Lúc đó ông nghĩ đến chuyện Hiên Viên Hoàng Đế đại chiến Si Vưu và chuyện Nghiêu, Thuấn, Vũ đợi Thánh vương, khi họ gặp nạn đều cầu cứu Thần đến giúp. Nhà vua bèn quỳ xuống cầu xin trời giúp đỡ.

Một lát sau, không biết từ đâu một thiếu nữ chừng 16, 17 tuổi bước tới, trên đầu cài một chiếc lá màu xanh, mặc y phục màu hồng, tay cầm phất trần, đến trước mặt vua nhẹ nhàng nói: “Tôi nghe nói nhà vua gặp nguy ở đây nên đến giúp”. Nói rồi gỡ chiếc lá xanh trên đầu xuống, vung cây phất trần lên, nước trong chiếc lá liền chảy ra từng giọt. Nhà vua vội vàng bước tới kề miệng đón từng giọt nước. Sau khi uống xong lập tức cảm thấy tinh thần phấn chấn gấp bội, liền xin thiếu nữ lần lượt cho các thị vệ còn lại uống nước và dùng nước chảy ra từ chiếc lá để giúp hai thị vệ bất tỉnh vì nhai lá cây tỉnh lại.

Nhà vua vô cùng cảm kích, bèn hỏi thiếu nữ từ đâu đến. Thiếu nữ cười nói: “Tôi là thị nữ của Thần trà. Thần trà bảo tôi tới giúp các vị. Các vị từ nay phải nhớ kỹ: không phải lá nào cũng có thể nhai được. Năm xưa, mục đích Thần Nông nếm bách thảo là để nhận biết dược tính và thực tính của các loài thực vật khác nhau. Các vị cần phải lưu ý những kinh nghiệm mà Thần Nông để lại. Nếu như ăn nhầm loại lá có hại cho cơ thể thì sẽ không tốt. Hơn nữa, triều đại của các vị trong tương lai sẽ phải chuyển sinh đến những nơi rất xa, ở đó cũng phải học cách sinh tồn mới được”. Nói xong thiếu nữ đưa họ ra khỏi rừng rậm, rồi biến mất.

Câu chuyện thứ hai xảy ra vào triều nhà Thương.

Thời kỳ Hạ, Thương, Chu được gọi là thời đại đồ đồng. Thời nhà Hạ là thời kỳ khởi đầu, thời nhà Thương là thời kỳ phát triển, thời nhà Chu là thời kỳ cường thịnh. Vào thời nhà Thương đồ đồng rất phát triển, việc luyện đồng hao tổn rất nhiều sức người sức của, cũng có rất nhiều người vì thế mà bỏ mạng.

Một lần, có một thanh niên trẻ đến từ vùng Ba Thục muốn học kỹ năng luyện kim. Để lấy lòng thầy dạy, anh ta đã mang một ít lá trà ở quê nhà đến tặng riêng cho thầy. Nhưng ông thầy này vốn lơ đễnh, chỉ nghe nói uống trà tốt mà không hỏi rõ uống vào lúc nào tốt nhất. Một lần ông đang luyện kim, mồ hôi túa ra khắp người, cảm thấy rất khát bèn lấy trà ngâm vào nước sôi một lúc rồi uống, kết quả là một lúc sau cảm thấy chóng mặt, ngã lăn ra bất tỉnh. Thật không may đúng lúc đốc công đi qua thấy ông nằm ở đó, tưởng ông lười biếng, liền dùng roi đánh và lấy nước dội cho ông tỉnh lại. Cho rằng chàng thanh niên cố ý hại mình, ông trút hết oán giận lên anh ta, đánh anh ta một trận rồi đuổi đi.

Chàng thanh niên cảm thấy vô cùng oan uổng nhưng lại không biết nói sao, đành trở về Ba Thục. Đi đến nửa đường, càng nghĩ càng thấy tủi thân, nhất thời nghĩ không thông bèn tìm một cái cây để treo cổ, muốn chết quách đi cho xong. Nhưng cành cây nhỏ không chắc nên bị gãy, anh ta ngã xuống đất và không đứng dậy được. Lúc này anh ta càng thêm buồn phiền, cảm thấy vì trà mà rước họa vào thân, bèn ném chỗ trà còn lại xuống chân. Điều thú vị là không lâu sau trời đổ cơn mưa nhỏ. Thân thể anh ta lúc này dường như đã có thể cử động được, vô tình anh ta ngửi thấy một mùi hương thơm ngát xung quanh, nước dưới chân chuyển màu. Anh cầm lá trà lên và ngửi, bỗng cảm thấy tinh thần tốt hơn rất nhiều. Lúc này anh ta hiểu ra thì ra uống trà phải đúng giờ và đúng lúc, không phải giờ nào, lúc nào cũng có thể uống. Lúc đó một ông lão đi qua, nhìn bộ dạng anh ta liền hỏi nguyên do, anh ta kể lại sự tình cho ông lão, rồi hỏi ông lão những nghi hoặc trong lòng: “Tại sao cùng một loại trà đó mà vị sư phụ uống trà lại say còn tôi ngửi trà lại cảm thấy tinh thần tốt hơn?”. Ông lão liền nói với anh ta uống trà trong những trường hợp nào thì tốt và uống vào lúc nào có hại đối với con người. Anh ta ghi nhớ trong lòng. Ông lão thấy anh ta đã hiểu liền cáo từ rời đi.

Sau khi đã hiểu ra, anh ta quay lại tìm ông thầy dạy luyện kim và nói với ông những điều đó, thầy anh ta cũng làm theo, sau đó uống trà thật sự cảm thấy tinh thần sảng khoái. Ông rất vui mừng, dần dần đem hết những kỹ năng mà ông nắm được truyền dạy cho anh ta. Cuối cùng anh ta trở thành một người thợ luyện kim rất nổi tiếng.

Xem tiếp phần 5

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245109

The post Nguồn gốc của trà (Phần 4): Sự phát triển của trà vào thời nhà Hạ Thương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 3): Trà giúp Hiên Viênhttps://chanhkien.org/2018/10/nguon-goc-cua-tra-phan-3-tra-giup-hien-vien.htmlTue, 16 Oct 2018 15:23:12 +0000http://chanhkien.org/?p=25482Tác giả: Thạch Phương Hành Tiếp theo Phần 2 [ChanhKien.org] Sau thời kỳ Thần Nông, sự phát triển của nhân loại cũng trải qua rất nhiều biến cố kinh thiên động địa, thậm chí là những trận đại quyết chiến chưa từng có trong lịch sử, mục đích là để lưu lại cho nhân loại […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 3): Trà giúp Hiên Viên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

Tiếp theo Phần 2

[ChanhKien.org] Sau thời kỳ Thần Nông, sự phát triển của nhân loại cũng trải qua rất nhiều biến cố kinh thiên động địa, thậm chí là những trận đại quyết chiến chưa từng có trong lịch sử, mục đích là để lưu lại cho nhân loại tương lai cách thức chiến tranh. Các phe phái giao tranh rất lâu, cuối cùng mới định phương thức phát triển của nền văn minh lần này mà chúng ta có thể nhận biết được.

Thời kỳ lịch sử từ thời Hiên Viên Hoàng Đế đến Hạ Vũ (Đại Vũ) có thể nói là màn cuối của những trận đại quyết chiến kinh thiên động địa đó. Sự kiện Hoàng Đế chiến thắng Si Vưu chính là quét sạch văn hóa truyền thừa mà những vị Thần khác đại biểu. Nếu như Si Vưu đại thắng thì văn hóa truyền thừa sẽ không thể như hiện tại, nó sẽ là một thể hệ văn hóa khác. Còn thời đại Nghiêu, Thuấn, Vũ sau này, rất nhiều những trận thiên tai hoặc những khiếm khuyết trong xã hội cũng đều là do ảnh hưởng kéo dài của các cuộc đại chiến do bất đồng về thể hệ văn hóa trên thiên thượng.

Rất nhiều người sẽ hỏi tại sao phải như vậy? Lẽ nào nền văn minh và nhân loại lần này có gì đặc biệt? Trong “Phần mở đầu” tôi đã nhắc đến việc khi Thần quay trở lại thì phải cùng Thần quay về. Hiên Viên Hoàng Đế cuối cùng tu thành đạo và phi thăng về trời tại núi Hoàng Sơn chính là một ví dụ điển hình lưu lại cho chúng ta. Bởi vì nền văn minh và nhân loại lần này vào cuối cùng vẫn cần phải truyền ra một phương pháp tu luyện có thể khiến con người chân chính quay trở về, cho nên để an bài những sự việc này, các sinh mệnh khác nhau trên Thiên thượng đều muốn an bài nền văn minh theo cách nghĩ của bản thân mình. Có vị muốn lấy thể hệ văn hóa của mình làm chủ đạo, muốn thế này, muốn thế kia, vì vậy đã xảy ra tranh chấp rất lớn, phản ánh tại nhân gian chính là xuất hiện những trận đại quyết chiến kinh thiên động địa mà tôi đã nói ở trên, đương nhiên tình huống cụ thể tạm thời không thể tiết lộ. Qua các nghiên cứu khảo cổ và các tài liệu lịch sử còn lưu lại đến nay, có thể tìm thấy một vài bằng chứng vụn vặt về những cuộc chiến tranh hạt nhân thời tiền sử và cuộc chiến với người ngoài hành tinh. Phương diện này chúng tôi không bàn đến nhiều, nội dung bài viết này chỉ tập trung nói về trà.

Sau khi trà được Thần Nông phát hiện, ông cũng phải mất một thời gian dài tìm tòi mới dần dần nhận thức được tác dụng của trà đối với sức khỏe con người. Sau này, đến thời kỳ Hiên Viên Hoàng Đế – thủy tổ của nền văn minh lần này, thói quen uống trà mới bắt đầu được lưu truyền rộng rãi.

Có một câu chuyện thú vị từng được lưu truyền trong dân gian như sau: Một lần Hoàng Đế dẫn tùy tùng vào núi săn bắn, ông bỗng cảm thấy khát nước bèn bảo quân lính đun nước cho ông uống. Khi nước đang sôi sùng sục thì một vài lá trà bị gió thổi rơi vào trong nước khiến nước biến màu. Anh lính kia kinh sợ định đổ nước đi, nhưng vì Hoàng Đế sai người đến giục, anh lính nếm thử, cảm thấy hương vị rất thơm ngon liền dâng lên Hoàng Đế. Hoàng Đế uống xong cũng cảm thấy rất ngon. Lúc này anh lính mới kể đầu đuôi sự việc. Hoàng Đế không trách tội anh ta, trái lại còn bảo anh ta tìm một ít lá cây đó mang về để Hoàng Đế dùng. Từ đó, tập tục dùng nước sôi để pha trà uống đã được lưu truyền trong dân gian.

Nói đến Viên Đế (Hiên Viên Hoàng Đế), người ngày nay thường đánh đồng Thần Nông và Viên Đế là một, kỳ thực rất dễ phân biệt. Thời kỳ Thần Nông nếm thử bách thảo là thời đại mà con người hầu như chưa có nhận thức gì về thế giới tự nhiên, còn thời đại Viên Đế có sự kiện Thương Hiệt tạo ra chữ viết cùng với việc bắt đầu hình thành các yếu tố cơ bản của một nền văn minh như: nuôi tằm, dệt vải, âm luật, cung điện, thuyền bè, xe cộ v.v .. Điều này cho thấy từ thời đại Thần Nông đến thời đại Viên Đế cần một khoảng thời gian gián cách rất lớn. Từ góc độ này mà nói thì Viên Đế và Thần Nông không thể là một người. Nếu như nói “Thần Nông” là tên gọi của một bộ lạc thì “Viên Đế” là vị Thần hoặc biểu tượng mà bộ lạc này sùng bái, vậy còn có thể chấp nhận được. Vậy thì có thể có rất nhiều người người mang danh hiệu “Viên Đế Thần Nông”. Viên Đế Thần Nông được chôn cất tại Trà Lĩnh – quê hương của trà ở Trường Sa, Hồ Nam, Trung Quốc. Vị thủ lĩnh bộ lạc mang danh hiệu “Viên Đế Thần Nông” này được chôn cất tại đó, cũng cho thấy duyên phận của ông với trà.

Kỳ thực vào thời thượng cổ, trà chủ yếu dùng để làm thuốc. Bởi vì lúc đó rừng rậm rất nhiều, cây cối lại rất cao lớn. Khi các loài cây khác nhau trao đổi tuần hoàn không khí với thiên nhiên thì một số vật chất của chúng hòa tan trong không khí khiến trong rừng sâu khí độc ngút trời, mà con người lúc đó vừa mới bước vào giai đoạn khai hóa, khả năng thích ứng với thế giới bên ngoài rất yếu, hơn nữa còn phải đánh trận (như đại chiến Si Vưu). Trong hoàn cảnh đó, lá trà trở thành dược liệu vô cùng quan trọng. Nhờ tác dụng giải độc và giúp đầu óc tỉnh táo của lá trà mà tổ tiên của chúng ta mới có thể chiến thắng trong các trận chiến, đặt cơ sở cho nền văn minh hiện nay. Chủ đề của bài viết này chính là mang hàm ý đó.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245108

The post Nguồn gốc của trà (Phần 3): Trà giúp Hiên Viên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 2): Trà cứu Thần Nônghttps://chanhkien.org/2018/09/nguon-goc-cua-tra-2-tra-cuu-than-nong.htmlSat, 22 Sep 2018 10:33:39 +0000http://chanhkien.org/?p=25434Tác giả: Thạch Phương Hành Tiếp theo Phần 1 [ChanhKien.org] Lịch sử của trà xuất hiện tại thế gian vượt rất xa lịch sử nền văn minh của nhân loại, nhưng chỉ đến khi con người phát hiện ra giá trị của nó, trà mới dần dần trở nên quen thuộc và được mọi người […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 2): Trà cứu Thần Nông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

Tiếp theo Phần 1

[ChanhKien.org] Lịch sử của trà xuất hiện tại thế gian vượt rất xa lịch sử nền văn minh của nhân loại, nhưng chỉ đến khi con người phát hiện ra giá trị của nó, trà mới dần dần trở nên quen thuộc và được mọi người chú ý đến.

Trong phần Lời mở đầu, chúng tôi đã đề cập đến nguồn gốc của trà vốn là từ thiên giới, để con người thông qua việc thưởng trà mà khắc ghi lời nhắc nhở của thiên thượng (rằng con người vốn từ thiên thượng đến và phải quay trở về), con người cần phải giữ gìn sự thuần chính và trong sạch trong xã hội người thường, giống như trà vậy. Trà sau khi được Thần trồng ở nhân gian cũng phải trải qua một quá trình thích ứng. Môi trường sống xung quanh từ trời, đất, không khí cho đến hệ động thực vật đều khác biệt rất lớn so với thiên giới, cho nên không chỉ sự sinh trưởng của cây trà cần phải thích ứng với tự nhiên mà cả hương vị của trà cũng cần phải thích ứng với con người và sự phát triển của con người. Suy cho cùng, sự xuất hiện của trà ở nhân gian cũng giống như người mà thời gian dài đã ăn ngũ cốc, đột nhiên ăn đồ ăn quá nhiều dầu mỡ thì không thể ăn nổi. Vậy nên, thích ứng là việc quan trọng nhất.

Từ những khai quật khảo cổ trên khắp thế giới có thể thấy nền văn minh của nhân loại không chỉ xuất hiện một lần, vậy thì lá trà được con người biết đến và sử dụng cũng không thể chỉ trong nền văn minh lần này. Trong “Trung Quốc Thông Sử”, nhà đại sử học thời Dân quốc Lã Tư Miễn đã xác định rõ nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn từ núi Côn Luân, Trung Quốc (phía nam và tây nam của núi là dân tộc Miêu, Tạng, phía bắc là dân tộc Hoa Hạ ở Trung Nguyên).

Từ những hình vẽ biểu tượng, câu chuyện và truyền thuyết lưu truyền lại có thể thấy người dân tộc thiểu số ở tây nam Trung Quốc và những người dân tộc cổ người Hoa Hạ đều là hậu duệ của nền văn minh lần trước, do vậy vào thời thượng cổ họ mới có thể sáng tạo ra những thứ văn hóa mà con người hiện đại chúng ta không thể theo kịp, như: Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái v.v …

Những điều này chứng minh rằng trà chắc chắn không chỉ là thứ mà người hiện đại chúng ta cho là gắn với việc tu tâm dưỡng tính, mà còn chứa đựng lời nhắn nhủ của thiên thượng tới chúng ta rằng hãy luôn khắc ghi nguồn gốc của chính mình.

Về công dụng, trà vừa có tác dụng chữa bệnh vừa làm đồ uống. Từ góc độ xã hội học mà nói, trong lịch sử văn minh mấy nghìn năm của Trung Quốc, trà đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối, giao lưu giữa người với người, giữa các bộ lạc với nhau, giữa các quốc gia với nhau. Văn hóa trà không chỉ giúp gắn kết tình cảm mà còn mở ra cơ hội giao lưu về kinh tế và văn hóa.

Từ góc độ ngoại giao mà nói, trà đóng vai trò là “đại sứ thân thiện”. Trà của Trung Quốc được các quốc gia khác nhập khẩu về, chế biến và sử dụng, cùng với đó là “văn hóa trà” mang đậm bản sắc Trung Quốc cũng lan rộng khắp thế giới và có tầm ảnh hưởng sâu sắc.

Trước tiên cần nói rõ, trà có nguồn gốc từ Trung Quốc, vậy nên trong quá trình phát triển và truyền bá ra thế giới, trà và văn hóa trà đều mang đậm “hương vị Trung Quốc”. Mà văn hóa truyền thống Trung Hoa vốn chú trọng “Thiên nhân hợp nhất” (sự hòa hợp giữa trời đất và con người), chú trọng việc truyền thừa các giá trị đạo đức. Thế nên khi nghiên cứu, luận bàn về trà và văn hóa trà, chúng ta đương nhiên không thể tách khỏi bối cảnh của văn hóa truyền thống Trung Hoa.

Trước hết chúng ta hãy nói về quá trình trà được phát hiện ở nhân gian:

Trong “Thần Nông bản thảo kinh” – cuốn sách y dược cổ đại của Trung Quốc và cũng là bộ sách về y dược đầu tiên lâu đời nhất thế giới (theo đánh giá của các chuyên gia, cuốn sách này được viết vào thời Chiến Quốc từ năm thứ 5 đến năm 221 trước công nguyên) có ghi: “Thần nông thưởng bách thảo, nhất nhật ngộ thất thập nhị độc, đắc trà nhi giải chi” (Thần Nông nếm thử trăm loại thảo mộc, một ngày gặp 72 loại độc, nhờ có trà mà giải được độc). Tương truyền khi Thần Nông đang nếm thử 100 loại thảo mộc, cây thuốc, khi nếm đến hạt kim lục sắc thì trúng độc, vừa hay ngã ngay dưới gốc cây trà, sương trên lá cây trà rơi vào miệng giúp ông tỉnh lại. Tuy rằng đây chỉ là câu chuyện truyền thuyết nhưng lại có ghi chép một sự thật rằng lá trà có chức năng giải độc. Sự cố mà Thần Nông gặp phải này, nhìn bề ngoài dường như là điều tất yếu xảy ra trong quá trình ông tìm hiểu các loại cây cỏ. Tuy nhiên nhìn từ góc độ khác, việc lưu lại câu chuyện truyền thuyết này phải chăng để người đời sau chúng ta hiểu rằng khắp nơi trong nhân gian đều tràn đầy các loại cỏ độc (những nhân tố bất hảo hình thành ở nhân gian như: lợi ích, dục vọng, tự tư v.v …), lúc đó cần phải nhờ đến công dụng của trà (chỉ chung là đạt đến cảnh giới thanh khiết, vô tư phù hợp với nguyên tắc tu tâm tính của người tu luyện) mới có thể giải quyết được.

Căn cứ vào tư liệu lịch sử hiện có: Thần Nông Thị (Thần Nông) là thủ lĩnh của các bộ tộc “Tam Miêu”, “Cửu Lê”. Bộ tộc của Thần Nông sống ở khu vực gần Thần Nông Giá hiện nay. Ở đây có rất nhiều khu rừng nguyên sinh, có nhiều loài thảo mộc phong phú để Thần Nông nếm thử các loại cỏ.

Kỳ thực, vào thời thượng cổ do chưa có văn tự ghi chép nên rất nhiều sự việc người ta đều lưu truyền lại theo cách khẩu truyền tâm thụ hoặc là dùng cách thắt nút dây để ghi nhớ. Sau này, theo thời gian con người bắt đầu sáng tạo ra chữ viết và hình thành các quan niệm dựa trên thực tiễn cuộc sống. Con người vô hình chung đã dùng quan niệm lúc đó để đo lường lịch sử trước đây. Vậy nên, thời gian càng dài thì nhận thức và ghi chép của con người về giai đoạn lịch sử chưa có chữ viết ngày càng xa rời sự thật.

Khi một nền văn minh xuất hiện, ông Trời sẽ phái một vị Thần xuống để dẫn dắt con người, giúp con người nhận thức một số sự vật hoặc phát triển một số phương diện. Chúng ta có thể hiểu được điều này qua những ghi chép của Hiên Viên Hoàng Đế trong cuốn “Sử ký”.

Đầu tiên hãy xem một số câu chuyện truyền thuyết đã rất quen thuộc với chúng ta: “Bàn Cổ khai thiên địa”, “Nữ Oa tạo ra con người”, “Phục Hi sáng tạo bát quái”, “Thần Nông nếm thử trăm loại thảo mộc”, “Hoàng Đế chiến đấu với Si Vưu”, rồi đến những vị vua nhân đức như “Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang” v.v… Khi xem một cách tuần tự những câu chuyện truyền thuyết này, chúng ta sẽ phát hiện đây là quá trình sắp đặt có trình tự của ông Trời. Mỗi một sự kiện trọng đại đều có ý nghĩa giúp làm phong phú kinh nghiệm của con người trong xã hội, hoàn thiện nhận thức của con người.

Bản thân Thần Nông cũng là một vị Thần được Trời an bài xuống nhân gian, dạy dỗ những con người đầu tiên nhận thức được hình thái và công dụng của các loại thực vật (bao gồm cả cây trồng nông nghiệp). Cho dù thế nào, đã đến nhân gian thì phải phù hợp với những biểu hiện ở nhân gian, cho nên, ăn thứ có độc cũng sẽ bị trúng độc. Nhưng suy cho cùng, ông được Trời an bài xuống làm những việc này nên khi chưa đến lúc nên rời đi thì sẽ luôn luôn được cứu.

Từ đó mà trà (thời cổ dùng chữ “荼 – Đồ”) bắt đầu “tung hoành ngang dọc”. Nàng (ở đây dùng cách nhân hóa cho sinh động) vốn được ông Trời phái xuống, đã tồn tại rất lâu ở thế giới này rồi, chỉ là con người chưa nhận thức được công dụng và ý nghĩa sự tồn tại của nàng. Nàng đang chờ đợi, chờ một thời cơ, một cơ hội để chứng tỏ tài năng. Khi Thần Nông nếm thử một loại thực vật bị trúng độc, vừa hay ngã dưới chân nàng, nàng rất hân hoan, vui mừng, cảm thấy ngày xuất đầu lộ diện cuối cùng cũng đã tới rồi, không thể mất đi cơ hội này. Với sự phối hợp hoàn hảo của giọt sương, sức mạnh của nàng hòa tan trong giọt sương, rơi vào miệng Thần Nông. Từng giọt nước giống như dòng suối trong lành giải trừ hết thảy độc tố trong cơ thể Thần Nông, không lâu sau Thần Nông tỉnh lại, cây trà vui mừng đung đưa cành lá. Thần Nông mỉm cười hiểu ý, đôi bên hoàn thành “sự kết nối đánh dấu lịch sử”. Từ đó “trà” xuất hiện trong ý thức tư tưởng của con người, dần dần trở thành một trong bảy thứ quan trọng cuộc sống của người Trung Quốc (củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà).

Nói một cách văn vẻ và sinh động, nhưng chúng ta thử nghĩ xem chẳng phải đúng như vậy sao?

Kỳ thực việc phát hiện ra trà không chỉ do một mình công của Thần Nông, mặc dù vậy người ta đều quy tất cả do công của Thần Nông. Hơn nữa nguồn gốc của trà cũng là do Thần ở cảnh giới khác mang tới nhân gian, sắp đặt ở các khu vực khác nhau, trà được phát hiện ở những thời kỳ khác nhau, phù hợp với thói quen và khẩu vị khác nhau, cũng thích hợp với những nhóm người khác nhau.

Xem tiếp Phần 3

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245107

The post Nguồn gốc của trà (Phần 2): Trà cứu Thần Nông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguồn gốc của trà (Phần 1): Lời mở đầuhttps://chanhkien.org/2018/09/nguon-goc-cua-tra-1-loi-mo-dau.htmlSun, 09 Sep 2018 14:45:05 +0000http://chanhkien.org/?p=25408Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Chuyện kể rằng vào thuở tam giới còn sơ khai, trên thiên thượng mở một pháp hội để bàn việc con người sẽ sinh tồn và phát triển ra sao ở không gian tầng thấp. Tham gia pháp hội lúc đó có Thần cai quản môi trường vật chất […]

The post Nguồn gốc của trà (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org] Chuyện kể rằng vào thuở tam giới còn sơ khai, trên thiên thượng mở một pháp hội để bàn việc con người sẽ sinh tồn và phát triển ra sao ở không gian tầng thấp. Tham gia pháp hội lúc đó có Thần cai quản môi trường vật chất ở không gian tầng thấp, Thần phụ trách đa dạng sinh vật, còn có Thần quản lý quan hệ xã hội v.v… Vì tam giới mới sơ khai nên các vị Thần đều không có nhiều hình mẫu tham chiếu để tạo ra và đặt định sự phát triển của những thứ bên trong tam giới, họ chỉ có thể dựa theo trạng thái của tầng thứ lúc đó để an bài những sự vật trong tam giới mà thôi. Ví dụ: Thần dựa theo hình dáng của mình để tạo ra con người, Thần cũng dựa theo những hình tượng khác trên thiên giới để tạo ra các giống loài trên mặt đất. Về sau họ phát hiện bản thân mặt đất có thể tự sản sinh ra những giống loài mới, vậy là rất nhiều loài đã được tạo ra trên mặt đất. Đó là một công trình vô cùng phức tạp và tinh vi. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, chúng tôi không thể kể hết chi tiết, chỉ tập trung vào nội dung về trà.

Trong rất nhiều tầng thứ trên thiên giới đều có cây trà, thưởng trà đối với Thần tiên là một sự hưởng thụ siêu thường, kỳ thực hưởng thụ chính là trạng thái tự nhiên của các sinh mệnh trên thiên giới, bởi vì Thần tiên chính là tiêu dao tự tại.

Sau đây, chúng tôi kể sơ lược hai câu chuyện Thần tiên liên quan đến trà:

Một lần, hai vị Đạo tiên đang tán ngẫu với nhau, lát sau tiên đồng dâng lên một chiếc ấm rỗng và một chén trà. Trên nắp của chiếc ấm chạm hình hạc tiên, trên thân ấm chạm hình một con rồng vàng. Vị Đạo tiên nhìn thấy cảnh này liền cảm thấy vị Đạo tiên chủ nhà (hình dung như vậy cho dễ hiểu một chút) rõ ràng muốn thi thố tài nghệ nào đó. Quả nhiên là như vậy, vị Đạo tiên chủ nhà tay cầm cây phất trần vung lên một cách khoáng đạt, hạc tiên và kim long bỗng nhiên sống dậy. Hạc tiên bay đi lấy trà cổ vạn năm, còn kim long bay đi lấy nước suối ngọt từ đáy biển, rót vào ấm xong, hạc tiên và kim long lại trở về vị trí ban đầu. Vị Thần tiên đặt tay lên nắp ấm, một lát thấy nước trở nên sẫm màu hơn, một lúc sau vị Thần tiên đối diện cảm thấy từng lỗ chân lông như mở ra, một luồng năng lượng như gió nhẹ ngấm vào trong thân thể, ngũ tạng đều có cảm giác vô cùng dễ chịu, định đưa tay lấy chén trà tự rót nhưng lại nhớ ra chỉ có một chiếc chén. Vị Đạo tiên chủ nhà thấy vậy mỉm cười nói: “Mời ngài cứ tự nhiên cầm chén trà, nhưng hãy cầm vào mặt trong của chén”. Nghe những lời này, vị này cảm thấy bên trong tất có gì đó sâu xa huyền diệu, vậy nên liền làm theo, vậy là từ trong chén trà đó ông lại lấy ra được một chén trà khác giống hệt như vậy.

Ông lấy chén trà ra xong, đặt trước ấm trà, trà trong ấm tự rót ra, đầy thì dừng lại, uống hết lại tự động rót, không muốn uống nữa thì dừng. Còn vị Đạo tiên chủ nhà trước giờ không hề đặt chén trà gần ấm trà, chỉ cầm trong tay mà trà cũng tự đầy, cho đến khi không muốn uống nữa thì trà trong chén cũng hết.

Một câu chuyện khác như sau: Một vị Thần tiên đang gảy đàn, tiếng đàn du dương, êm ái. Lúc này một làn hương trà bay đến, ông chợt cảm thấy tâm trạng thăng hoa, dường như tiến nhập vào một trạng thái mới lạ. Tiếng đàn lúc đó không những êm ái mà càng lay động lòng người, thanh trừ những vật chất xấu, gột rửa bụi trần.

Tôi muốn thông qua câu chuyện thứ nhất để nói rằng trà vốn là thứ mà Thần tiên trên thiên giới uống hàng ngày, còn câu chuyện thứ hai để nói về tác dụng của trà.

Trên thiên giới có rất nhiều loại trà, công dụng cũng không giống nhau. Thần tiên chỉ đem một phần rất ít ỏi trong số đó đến nhân gian để cho con người qua việc uống trà, thưởng trà mà tu tâm dưỡng tính, từ đó chấm dứt nhân duyên thế tục giữa người với người, trong dòng chảy xã hội, trải qua những câu chuyện hoặc là xúc động tâm can hoặc là da diết, buồn thương hoặc là bình thường, đơn điệu, mục đích là để con người ghi nhớ sự sáng tạo vạn vật của trời xanh và ân đức của Thần, gieo vào trong tâm hồn con người những hạt giống của lòng thành kính hướng tới Thần, để đến một ngày khi Thần trở lại có thể giữ được sự trong sạch và thuần khiết mà cùng Thần trở về. Bởi con người vốn từ thiên thượng đến, trở về nhà cũng là lẽ dĩ nhiên.

* * *

Rất nhiều người nghiên cứu về lịch sử của trà đều phát hiện một vấn đề thú vị rằng: nếu nói về khí hậu thì trên thế giới có rất nhiều nơi thích hợp để trồng cây trà, nhưng tại sao trà chỉ bắt nguồn ở Trung Quốc còn những nơi khác lại không có? Hơn nữa, trong những nền văn minh cổ trên thế giới, chỉ có nền văn minh Trung Hoa kéo dài mấy nghìn năm không bị đứt đoạn, mà đi cùng với nó là trà.

Từ một ý nghĩa khác mà nói, trà trở thành hình ảnh gần gũi và trực tiếp nhất thể hiện thế giới quan “thiên nhân hợp nhất” của người Trung Quốc, từ chén trà mà ngẫm nghĩ về triết lý nhân sinh và vũ trụ, từ chén trà mà tìm kiếm tri ân tri kỷ, từ chén trà mà chữa các bệnh tật cấp và mãn tính v.v… Trà cũng trở thành vật truyền tải văn hóa Trung Hoa để giao lưu với các nền văn hóa khác, hơn nữa, trước thời Mãn Thanh, trà còn là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của quốc gia này. Trung Hoa nhờ có trà mà trở nên rực rỡ, cũng bởi có trà mà bị các cường quốc nhòm ngó (do nhu cầu nhập khẩu trà từ Trung Quốc của các nước châu Âu và Anh quốc rất lớn, các nước này cảm thấy kinh tế của mình bị tổn thất lớn vì lệ thuộc vào Trung Quốc, nên đã bán phá giá thuốc phiện sang Trung Quốc, cuối cùng dẫn đến bùng phát cuộc chiến tranh nha phiến).

Cho đến nay, tuy rằng trà vẫn rất thơm ngon, nhưng nó không còn giữ được cảm giác và hương vị như thời cổ xưa nữa, bởi vì đất đã biến đổi, nước đã biến đổi, lòng người càng thay đổi, đã không còn thuần khiết như xưa. Giờ đây, chúng ta tìm lại trà và văn hóa trà để gợi lại những ký ức xưa cũ, nhặt nhạnh những mảnh vụn về văn hóa trà để hy vọng khơi dậy một chút nét đẹp văn hóa trà đã phai mờ qua tháng năm lịch sử.

Xem tiếp Phần 2

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/245043

The post Nguồn gốc của trà (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>