Nghĩa giải tam quốc | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Nghĩa giải tam quốc (20): Chư hầu phân liệt, Triệu Vân chọn chủhttps://chanhkien.org/2022/07/nghia-giai-tam-quoc-20-chu-hau-phan-liet-trieu-van-chon-chu.htmlMon, 11 Jul 2022 04:27:22 +0000https://chanhkien.org/?p=28786Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Đổng Trác ép hoàng đế dời đô, chư hầu lục đục Đổng Trác thấy Lã Bố thất bại, nghe theo mưu kế của tâm phúc Lý Nho, bức ép thiên tử và bách tính Lạc Dương chuyển đến Trường An, Đổng Trác giết sạch các hộ gia đình giàu ở […]

The post Nghĩa giải tam quốc (20): Chư hầu phân liệt, Triệu Vân chọn chủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Đổng Trác ép hoàng đế dời đô, chư hầu lục đục

Đổng Trác thấy Lã Bố thất bại, nghe theo mưu kế của tâm phúc Lý Nho, bức ép thiên tử và bách tính Lạc Dương chuyển đến Trường An, Đổng Trác giết sạch các hộ gia đình giàu ở Lạc Dương, cưỡng đoạt tài vật, khai quật lăng mộ đế vương, cướp lấy ngọc ngà châu báu, sau khi rời đi, còn đem cả hoàng cung và thành Lạc Dương phồn hoa đốt thành tro bụi, trong quá trình di chuyển, bách tính bị ngược đãi và làm nhục, người chết vô số, tội ác tày trời của hắn đã đến tột cùng. Sau khi cùng các chư hầu đánh vào Lạc Dương, tuy rằng Tào Tháo muốn truy đuổi tận cùng Đổng Trác, nhưng dù sao cũng chỉ là một nhánh quân đội, chỉ có một vạn người, không thể nào chống lại Lã Bố với mười mấy vạn đại quân, do bị trúng mai phục, cuối cùng thua thảm bại, chỉ còn vẻn vẹn 500 tàn quân giữ được tính mạng, đặt một dấu chấm hết cho nghĩa cử lần này.

Tôn Kiên nhờ thu xếp xây dựng lại cung điện bị thiêu hủy, phát hiện trong giếng có ngọc tỷ truyền quốc đã bị thất lạc, bèn cho rằng thiên mệnh đế vương sau này sẽ thuộc về mình, do đó quyết định đem giấu ngọc tỷ quay về Giang Đông tính chuyện tương lai, việc này bị Viên Thiệu phát giác, muốn ông ta giao ra ngọc tỷ, Tôn Kiên lại phát lời thề phủ nhận trước mặt mọi người, hai người vì vậy mà kết oán, Tôn Kiên dẫn binh tự mình quay về Giang Đông, còn Viên Thiệu thì phát thư yêu cầu Lưu Biểu ở Kinh Châu ngăn Tôn Kiên lại, đoạt lấy ngọc tỷ về. Lưu Biểu với Tôn Kiên cũng vì vậy mà kết thù. Chúng chư hầu từ nay mỗi người một lòng, đường ai nấy đi.

Lịch sử tiến nhập vào giai đoạn mỗi người vì chủ nhân của mình mà phụng sự

Sau khi cuộc khởi nghĩa thảo phạt quốc tặc trên quy mô lớn lần này kết thúc, lịch sử chính thức tiến nhập vào giai đoạn các chư hầu mạnh ai nấy làm, thôn tính lẫn nhau, thiên hạ phân liệt. Cũng có nghĩa là, từ nay về sau chư hầu các nơi gây chiến lẫn nhau, có kẻ thì không màng liêm sỉ, cướp đoạt địa bàn, có kẻ chỉ muốn giữ nguyên hiện trạng giữ gìn địa bàn, có kẻ muốn sau này trở thành chủ của Trung Nguyên, đương nhiên Lưu Bị vẫn luôn một lòng muốn phục hưng nhà Hán, nói chung, trong giai đoạn như vậy, tất sẽ khiến những nghĩa sĩ có năng lực trong thiên hạ tự giác tuyển chọn chủ nhân của mình, cho đến cuối cùng phân thành ba nước, cũng là ba lực lượng chính. Trong quá trình này, cũng sẽ tự nhiên diễn biến thành cục diện là quan tài tướng giỏi của các nhà đều cống hiến cho chủ nhân của mình, cơ điểm nghĩa lý đã chuyển thành mỗi người vì chủ của mình mà phụng sự, cho đến lúc ba nhà bị Tấn tiêu diệt, lại bắt đầu hình thành mới lại cục diện thiên hạ có chủ. Do Hiến Đế danh nghĩa đế vương vẫn còn, do vậy, giai đoạn này, duy hộ nhà Hán duy hộ Hiến Đế, tuy không phải dòng chính, nhưng cũng là một loại trung nghĩa tất yếu, hai loại cơ điểm trung nghĩa đồng thời tồn tại, giai đoạn lịch sử mà mỗi người thực hiện việc diễn nghĩa của riêng mình, từ thời khắc này chính thức bắt đầu.

Viên Thiệu tranh hùng với Công Tôn Toản, xem Triệu Vân chọn chủ

Cuộc chiến tranh đầu tiên sau khi chư hầu phân liệt, mạnh ai nấy làm, bắt đầu từ oán thù tranh đoạt Ký Châu giữa Viên Thiệu và Công Tôn Toản. Viên Thiệu vì muốn đoạt lấy Ký Châu làm chỗ dựa, có được một lượng lớn tiền tài lương thực nhằm mưu cầu cho tương lai, lừa Công Tôn Toản xuất binh công đánh Ký Châu, giao hẹn với nhau tương lai sẽ phân chia vùng đất Ký Châu. Công Tôn Toản do đó khởi binh. Nguyên quan đứng đầu Ký Châu Hàn Phức vốn là môn sinh cũ của gia tộc Viên Thiệu, sợ rằng Công Tôn Toản bên cạnh có ba người Lưu Bị tương trợ, lo lắng sợ hãi, bèn mời Viên Thiệu tiếp quản Ký Châu, vừa hay trúng kế, bị Viên Thiệu lừa mất Ký Châu không phí một binh một tốt, Hàn Phức hối hận cũng đã muộn. Viên Thiệu vì muốn độc chiếm Ký Châu, giết chết sứ giả đồng thời là em ruột do Công Tôn Toản phái tới để yêu cầu phân chia một nửa đất Ký Châu như ước hẹn. Điều này mới dẫn đến cuộc chiến tranh khởi binh hỏi tội báo thù Viên Thiệu của Công Tôn Toản.

Trong cuộc chiến này, Công Tôn Toản thường bại trận dưới tay Viên Thiệu, lại dẫn đến việc xuất hiện một anh hùng trong tam quốc diễn nghĩa mà mọi người đều rất quen thuộc, đó chính là Triệu Vân, khi Triệu Vân đi cùng với Công Tôn Toản ra trận, lúc Toản hai lần thảm bại, tính mạng đang bị đe dọa, ông đều khiến Công Tôn Toản xoay chuyển chiến cục, nhưng không được Công Tôn Toản tín nhiệm và trọng dụng, việc này ngược lại lại thành toàn cho một nhân duyên khó có được, chính là nhờ cuộc chiến lần này, khiến Lưu Bị nhờ trợ chiến cho Công Tôn Toản mà có được duyên tương tri tương ngộ với Triệu Vân.

Nếu như ôm giữ quan điểm nhìn vấn đề trung nghĩa trong một thời đại chính thường thiên hạ có chủ, sẽ không thể hiểu được câu chuyện này, cho rằng Triệu Vân mấy lần thay đổi chủ nhân để phụng sự, trước là Viên Thiệu, sau bỏ Viên Thiệu đầu quân Công Tôn Toản, sau cùng lại theo trở về bên Lưu Bị. Như vậy phải chăng không phải là trung nghĩa chân chính? Kỳ thực, đây chính là mượn nhân vật điển hình Triệu Vân này, để nói cho mọi người rằng, đây chính là quá trình một nghĩa sĩ chân chính đang tìm người chủ nhân nghĩa, trước khi chưa tìm được chính xác, sẽ không dễ dàng thực hành đạo trung nghĩa thông thường. Sau khi quyết định phò tá Lưu Bị, lúc này mới lựa chọn không thể rời bỏ, chết không hối tiếc, cũng tức là nói, trong giai đoạn thiên hạ không có chủ, thì việc tuyển chọn một vị chủ có thể nghĩ cho bách tính thiên hạ, đã trở thành nghĩa lý quan trọng hàng đầu cần được triển hiện. Thông qua Triệu Vân, cũng là đang giảng nghĩa lý căn bản của cái trung nghĩa này, chỉ dạy cho người đời sau khi gặp phải tình huống tương tự, thì làm thế nào để tuyển chọn và đoán định, làm thế nào để thực hành đạo lý.

Chúng ta thấy được, Công Tôn Toản và Viên Thiệu, trong lúc chiếm đoạt Ký Châu thì hoàn toàn không bận tâm đến cảm nhận của vị quan đứng đầu Ký Châu, có thể nói là vô cớ xuất binh, chỉ là hành vi cậy mạnh đoạt lấy đất đai, tiền tài và lương thực. Viên Thiệu đối với quan đứng đầu Ký Châu nguyên là môn sinh của gia tộc mình, không những không không có lòng thương tiếc, ngược lại còn lợi dụng tín nhiệm của môn sinh, lừa dối đoạt Ký Châu. Khi lừa dối đoạt được, Viên Thiệu lại xé bỏ tín nghĩa, không màng liêm sỉ giết hại em ruột của Công Tôn Toản rồi đổ cho Đổng Trác, độc chiếm Ký Châu, có thể nói là kẻ tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa thuần chất. Đây mới là nguyên nhân khiến Triệu Vân rời bỏ Viên Thiệu, đầu quân cho Công Tôn Toản. Nhưng sau này Triệu Vân phát hiện, cả hai người này đều có thể thần phục Đổng Trác, do đó vô cùng thất vọng, Triệu Vân trong lúc Lưu Bị rời Công Tôn Toản, quay trở về Bình Nguyên, đã nói ra cái nhìn của bản thân mình với Lưu Bị: “Tôi vốn lầm tưởng cho rằng Công Tôn Toản là anh hùng; nay tận mắt chứng kiến, cũng chẳng qua là cùng một loại với Viên Thiệu!”. Lưu Bị an ủi ông: “Hãy chịu khó tạm nương thân ở đây, ngày sau sẽ có dịp gặp lại”. Ý tứ là, tuy rằng như vậy, bản thân Lưu Bị cũng không thể phá hoại tín nghĩa bằng hữu giữa mình và Công Tôn Toản, lập tức tiếp nạp Triệu Vân, do vậy khuyên ông đợi chờ cơ duyên. Nhờ việc này mà kết được một duyên phận.

Sau này, Viên Thuật nghe nói Viên Thiệu đoạt được Ký Châu, bèn mượn Viên Thiệu ngựa, Viên Thiệu không cho, mượn lương của Lưu Biểu, Lưu Biểu cũng không cho, kết quả Viên Thuật cũng thuộc loại không màng tình nghĩa huynh đệ, chỉ vì vẻn vẹn một chút lợi nhỏ không đắc được, bèn trở mặt thành thù, lợi dụng việc Viên Thiệu và Lưu Biểu trước đó bức ép Tôn Kiên giao ra ngọc tỷ mà phát sinh oán thù với Tôn Kiên, Viên Thuật hẹn Tôn Kiên khởi binh công đánh Lưu Biểu và Viên Thiệu, muốn trừ đi Viên Thiệu và Lưu Biểu. Chỉ vì hai lần mượn vật tư không được, bèn muốn khai chiến với huynh đệ, so với Viên Thiệu ông ta còn tự tư vô tình hơn, có thể nói mất hết tính người. Do đó, sự diệt vong của hai anh em nhà này, tuy rằng có khác biệt về sớm muộn, nhưng từ đó cũng đã diễn xuất ra hành động bất nghĩa điển hình trong các lộ chư hầu. Tôn Kiên vì lời mời của Viên Thuật, tấn công đánh Lưu Biểu phục thù, ứng với lời thề mà vong mạng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/255239

The post Nghĩa giải tam quốc (20): Chư hầu phân liệt, Triệu Vân chọn chủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải tam quốc (19): Tào Tháo huệ nhãn nhìn ra Quan Vũ, anh hùng phân cao thấp tại đâyhttps://chanhkien.org/2022/06/nghia-giai-tam-quoc-19-tao-thao-hue-nhan-nhin-ra-quan-vu-anh-hung-phan-cao-thap-tai-day.htmlWed, 29 Jun 2022 23:35:43 +0000https://chanhkien.org/?p=28751Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Cuộc thảo phạt nghịch tặc của liên quân lần này, cũng là lần đọ sức đầu tiên về tấm lòng và kiến thức giữa Tào Tháo và anh em họ Viên, quá trình Tào Tháo giành lấy cơ hội trao cho Quan Vũ cũng là đang triển hiện cảnh giới […]

The post Nghĩa giải tam quốc (19): Tào Tháo huệ nhãn nhìn ra Quan Vũ, anh hùng phân cao thấp tại đây first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Cuộc thảo phạt nghịch tặc của liên quân lần này, cũng là lần đọ sức đầu tiên về tấm lòng và kiến thức giữa Tào Tháo và anh em họ Viên, quá trình Tào Tháo giành lấy cơ hội trao cho Quan Vũ cũng là đang triển hiện cảnh giới của mỗi người. Có thể nói việc phân định cao thấp đã có kết quả rõ ràng. Nhà họ Viên cuối cùng không phải thất bại dưới tay Tào Tháo, mà là thất bại bởi chính bản thân mình. Đồng thời, mối duyên không giải giữa Tào Tháo và Quan Vũ cũng bắt đầu từ đây.

Quan Vũ xin ứng chiến, Tào Tháo trợ giúp

Lưu Bị vốn là bạn tốt của Công Tôn Toản, nghe nói chư hầu hội quân, cùng thảo phạt Đổng Trác, bèn từ bỏ chức quan huyện lệnh Bình Nguyên, mang theo Quan Vũ và Trương Phi gia nhập đội quân của lộ chư hầu Công Tôn Toản, đây là lần đầu ông công bố thân phận dòng dõi Hán thất trước mặt các trấn chư hầu trên toàn quốc. Khi các lộ chư hầu tại cửa Dĩ Thủy bị Hoa Hùng đánh cho thảm bại, trong truyện viết như sau:

“Tất cả đều thất sắc. Thiệu nói: “Tiếc thay các thượng tướng của ta là Nhan Lương, Văn Sú chưa đến! Giá thử một người ở đây thì sợ gì Hoa Hùng?” Nói chưa dứt lời, một người ở dưới thềm hô to lên rằng: “Tiểu tướng quân nguyện xin ra chém đầu Hoa Hùng, đem dâng dưới trướng!”. Mọi người nhìn xem, thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mắt phượng mày ngài, mặt đỏ như gấc, tiếng như chuông lớn, đứng ngay trước trướng. Thiệu hỏi là người nào. Công Tôn Toản thưa: “Em Huyền Đức tên là Quan Vũ đấy”. Thiệu lại hỏi hiện làm chức gì. Toản thưa: “Vũ theo Huyền Đức làm mã cung thủ”. Viên Thuật ở trên trướng thét lên: “Mày dám khinh chư hầu chúng tao không có đại tướng hay sao? Thứ mày là một thằng cung thủ, mà dám nói khoác à! Đuổi cổ nó ra ngoài kia!”. Tào Tháo vội ngăn rằng: “Công Lộ hãy nguôi cơn giận. Người ấy đã nói mạnh thế, chắc là có dũng lược. Xin hãy thử cho ra đánh, nếu không đánh thắng, trách cũng chưa muộn”. Viên Thiệu nói: “Sai một tay bắn cung ra đánh, tất sẽ bị Hoa Hùng cười nhạo”. Tháo nói: “Người ấy diện mạo oai vệ thế kia, Hoa Hùng đâu biết là tay bắn cung?” Quan Công nói: “Nếu tôi không đánh được, xin chặt đầu tôi đi”.

Có thể thấy, khi Quan Vũ thấy mọi người đều hoảng hốt lo sợ, không ai có thể ứng chiến, tự mình chủ động thỉnh mệnh, thế mà điều Viên Thiệu quan tâm đầu tiên lại là chức vị của Quan Vũ. Khi nghe nói chỉ là một chức bắn cung nhỏ nhoi dưới trướng huyện lệnh, chính là một tiểu đội trưởng cưỡi ngựa bắn cung, còn chưa đợi Viên Thiệu mở miệng, thì em trai của ông ta là Viên Thuật bèn ngay lập tức vì thế mà tức giận, coi thường chức vụ nhỏ của Quan Vũ, thậm chí cảm thấy để ông xuất trận sẽ là nỗi ô nhục của chúng chư hầu, không những không đồng ý, còn muốn đem Quan Vũ đánh đuổi ra ngoài. Lời nói của hắn cũng là nói thay tâm lý của Viên Thiệu, sợ bị đối phương chê cười. Anh em Viên Thiệu không nhìn ra anh hùng, chỉ nhìn vào xuất thân, kiến thức cổ hủ chú trọng thể diện và tấm lòng nhỏ mọn, phẩm chất ngạo mạn tự đại, đều được triển hiện một cách trơ trụi tại đây. Nếu như Tào Tháo không khuyên Viên Thiệu cho Quan Vũ cơ hội, nghĩ cách phá trừ lo nghĩ mất thể diện của Viên Thuật và Viện Thiệu, lấy lời nói “Diện mạo oai vệ, đối phương không nhìn ra là tay bắn cung” để khuyên giải, Quan Vũ sẽ thật sự bị Viên Thuật đuổi ra ngoài rồi, căn bản không có cơ hội xuất chiến.

Đoạn này đã chứng minh rõ nét về sự tương phản về tấm lòng cũng như kiến thức của Tào Tháo và Viên Thiệu, Viên Thuật, ai cao ai thấp, nhìn qua là có thể rõ ngay.

Quan Vũ “Uy chấn càn khôn đệ nhất công”

Tào Tháo sau khi giành được cơ hội xuất chiến cho Quan Vũ, đối đãi Quan Vũ mười phần kính trọng, sai người đem cho Quan Vũ một cốc rượu ấm, uống rồi lên ngựa. Nhưng Quan Vũ lại nói: “Xin hãy để chén rượu ở đấy, tôi đi rồi sẽ về ngay”. Thế là “ra khỏi lều, vác long đao nhảy lên lưng ngựa”. Bắt đầu giao chiến:

“Chúng chư hầu nghe thấy ngoài cửa ải tiếng trống đánh lớn, tiếng người hò reo ầm ầm, tựa hồ như trời long đất lở, núi đổ non nghiêng, ai nấy đều thất kinh. Đang định sai người ra nghe ngóng, thì đã thấy tiếng chuông ngựa vang lên, ngựa đã vào tới trong quân. Vân Trường cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo đưa hãy còn nóng. Đời sau có thơ khen rằng:

“Uy chấn càn khôn đệ nhất công;

Viên môn trống trận nổi thùng thùng;

Vân Trường ngừng rượu triển anh dũng;

Rượu còn đang nóng chém Hoa Hùng”.

Đây chính là thần uy kinh thiên động địa “rượu ấm trảm Hoa Hùng” của Quan Vũ, rượu mà Tào Tháo chuẩn bị vẫn còn đang nóng, người đã thắng trận trở về, có thể nói là thần tốc, không chỉ chiến thắng mà còn thắng theo cách thong dong như vậy, so với các thượng tướng của chúng chư hầu thật là khác biệt một trời một vực. Do vậy, thất bại thảm hại liên tiếp của các chư hầu trước đó đã triển hiện sự uy dũng vô địch của Hoa Hùng, cuối cùng chẳng qua là để tôn lên sự uy dũng của Quan Vũ. Cũng tức là nói, cho dù trước đó viết dài bao nhiêu trang, đều chỉ là làm nền cho Quan Vũ mà thôi. Do đó, Quan Vũ mới là nhân vật chính của trận chiến. Một mãnh tướng khiến cho người người kinh sợ như Hoa Hùng mà Quan Vũ đánh không tốn hơi sức. Hậu nhân vì vậy đã làm thơ ca ngợi ông là “Uy chấn càn khôn đệ nhất công”.

Quan Vũ đắc thắng, Viên Thuật đố kỵ tài năng, Tào Tháo quý mến

Quan vũ sau khi giành được thắng lợi, trong truyện miêu tả một đoạn về phản ứng khác nhau của Tào Tháo và Viên Thuật:

Tào Tháo mừng lắm. Lúc ấy, Trương Phi ở sau lưng Huyền Đức mới chạy ra nói to lên rằng: “Anh tôi đã chém chết được Hoa Hùng, sao không nhân thể đánh thẳng vào cửa quan, bắt sống lấy Đổng Trác, còn đợi đến bao giờ!” Viên Thuật giận quát mắng rằng: “Đại thần của chúng tao đây còn phải khiêm nhượng, thứ mày là tiểu tốt của một quan huyện, sao dám diễu võ dương oai ở đây! Đuổi cả chúng nó ra ngoài kia!” Tào Tháo nói: “Ai có công thì thưởng, hà tất phân quý tiện?” Viên Thuật nói: “Các ông chỉ trọng một người huyện lệnh như này thì tôi xin cáo lui”. Tháo nói: “Sao lại vì một lời nói mà bỏ việc lớn?” Nói thế rồi Tháo bảo Công Tôn Toản hãy mời Huyền Đức, Quan, Trương về trại. Chúng quan đều tản đi. Tháo mật sai người đem trâu và rượu đưa sang thăm hỏi, vỗ về ba người.

Đoạn văn này càng trực tiếp làm rõ tâm đố kỵ và lòng dạ hẹp hòi của Viên Thuật, đối lập với Tào Tháo là người có tấm lòng và khí độ biết quý tiếc người tài, thưởng phạt phân minh không kể xuất thân quý tiện. Tào Tháo còn bí mật đem rượu vỗ về ba người Lưu Bị, mười phần kính trọng, quan tâm đối với anh hùng. Do vậy, sau này bên Viên Thuật Viên Thiệu tất nhiên bị diệt vong. Tào Tháo và Quan Vũ qua việc này đã kết một thiện duyên, cùng diễn vở “Qua năm cửa chém sáu tướng”, “Vì nghĩa thả Tào Tháo ở đường Hoa Dung”… để lại câu chuyện trung nghĩa và ân nghĩa lưu truyền thiên cổ.

Thúc phụ bị giết, Viên Thiệu vô tình vô nghĩa

Lại nói tới Viên Thiệu, thúc phụ của ông ta Viên Ngỗi lúc đó ở tại Lạc Dương, giữ chức thái phó, Đổng Trác sau khi bị thất bại tại trận ải Dĩ Thủy, biết được Viên Thiệu là minh chủ, thế là đem cả nhà Viên Ngỗi sát hại, “không phân già trẻ, đều đem giết cả”, “đem đầu Viên Ngỗi ra bêu trước cửa ải”. Đổng Trác bèn đem hai mươi vạn quân, chia năm vạn quân trấn thủ cửa Dĩ Thủy, đồng thời tự mình đem Lã Bố và 15 vạn đại quân đi về hướng cửa Hổ Lao. Trận chiến này, Lã Bố là chủ tướng, độ khó càng lớn hơn, do vậy mới có câu chuyện “Tam anh chiến Lã Bố”.

Nhưng kỳ lạ ở chỗ, trong truyện không có nửa chữ miêu tả Viên Thiệu đau đớn và phẫn uất sau khi nghe thấy cả nhà thúc phụ bị giết hại. Đổng Trác sau khi thua trận, uy hiếp thiên tử rời đô về Trường An, ông lại không truy đuổi, lúc này về công hay về tư đều thấy là không hợp tình hợp lý. Liên tưởng đến chuyện sau này Viên Thiệu hủy ước sau khi lừa Công Tôn Toản đoạt Ký Châu, có được rất nhiều vật tư nhưng lại không muốn cho Viên Thuật mượn ngựa, dẫn đến huynh đệ trở mặt, từ đó có thể thấy được, con người của Viên Thiệu và Viên Thuật, có thể nói là loại người thấy lợi quên nghĩa, đối với cái chết của thúc phụ, đều thản nhiên không cảm thấy đau thương chút nào, con người vô tình vô nghĩa, tự tư tự lợi như vậy, làm sao có thể trở thành đối thủ của Tào Tháo. Do vậy tất sẽ bại vong.

Cho dù sau lần nghĩa cử này, thì trong truyện Tào Tháo dường như trở thành hình tượng phụ diện, nhưng kiến thức và bản chất anh hùng của ông thì từ đầu tới cuối tác giả không cách nào che đậy được, trong thời kỳ lịch sử hiền thần chọn chủ mà thờ, thiên hạ hào kiệt nghĩa sĩ tự chọn chủ, ông có thể xưng hùng một phương, trở thành chủ nhân mà các nghĩa sĩ trong thiên hạ lựa chọn, trung thành phụng dưỡng, bản thân điều này cũng đủ để thể hiện rõ vấn đề. Sau này Tào Tháo vì để báo thù cha mà tấn công đánh Đào Khiêm, bị miêu tả là lòng dạ hẹp hòi, dưới ngọn bút của tác giả ông trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa đồ sát bách tính, cũng chỉ là vì để làm nổi bật nhân nghĩa của Lưu Bị. Tác giả viết đến đoạn này hẳn là rất mâu thuẫn, so với hành động chính nghĩa của Tào Tháo khi tiêu diệt đồ đảng Khăn Vàng ở Thanh Châu, Sơn Đông, rõ ràng rất mâu thuẫn. Ông có thể thu nạp tướng sĩ nghịch tặc Khăn Vàng đã đầu hàng với con số lên đến 30 vạn người, lưu lại cửa sống cho hơn một trăm vạn nam nữ bách tính có liên quan, chứng minh rằng ông không phải là kẻ giết người bừa bãi, mà ông biết để một con đường sống cho một số lượng người rất lớn, sau này, ông đem những người tinh nhuệ trong đó kết hợp thành quân Thanh Châu, chiêu nạp bọn họ. Cho dù đoạn miêu tả này rất ngắn, nhưng cũng đủ để hé lộ và cho thấy rõ rằng, người có kiến thức và khí độ như vậy, sau khi thảo phạt Đào Khiêm thì sẽ không đè tội lên đầu bách tính. Đây là một đoạn rất mâu thuẫn, cho dù người ta có tin nghĩa cử của Tào Tháo là chân tâm hay không, thì ít nhất có thể đoán được rằng, người có đại chí, có thể xưng hùng một phương như Tào Tháo thì kiến thức, khí độ đều không đơn giản, làm sao có thể công khai đồ sát bách tính, làm tổn hại hình tượng bản thân, đem bản thân đặt vào vị trí trái với đạo nghĩa một cách ngu muội như vậy. Huống hồ, bên cạnh ông lúc đó thần tử dưới trướng có quá nhiều những mưu sĩ có kiến thức, không thể không khuyên can. Bởi vì việc phục thù thảo phạt Đào Khiêm kể ra thì vẫn hợp tình hợp lý, nhưng công khai đồ sát bách tính thì không hợp tình hợp lý.

Do vậy, đối với Tào Tháo, chúng ta cần có một nhận thức thanh tỉnh, dưới ngòi bút của tác giả ông trở thành hình tượng phụ diện, mục đích là để làm nổi bật Lưu Bị.

Tam anh chiến Lã Bố

Có thể nói câu chuyện “Tam anh chiến Lã Bố” ở cửa Hổ Lao, mọi người đều rất quen thuộc rồi. Tám lộ chư hầu tại cửa Hổ Lao giao chiến với Lã Bố, bị Lã Bố đánh cho đến độ nước chảy hoa rơi, không có cách nào ngăn cản, cuối cùng do Công Tôn Toản xém chút nữa bị Lã Bố giết chết, Trương Phi trượng nghĩa tương cứu, điều này mới dẫn đến việc Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi ba người hợp lực chiến đấu với Lã Bố, Lã Bố không cách nào ngăn cản, chỉ đành thất bại chạy về, tám lộ chư hầu do đó cùng nhau xông lên đánh bất ngờ mới đánh bại được Lã Bố. Do đó, việc Tào Tháo hiệu triệu dẫn khởi các chư hầu cùng khởi nghĩa lần này, khiến cho hai lộ anh hùng là Tào Tháo và ba anh em Lưu Bị được làm nổi bật lên trước mặt người dân trong thiên hạ, hai bên do đó cùng vang danh thiên hạ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/255238

(Còn tiếp)

The post Nghĩa giải tam quốc (19): Tào Tháo huệ nhãn nhìn ra Quan Vũ, anh hùng phân cao thấp tại đây first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải tam quốc (18): Thấy nghĩa cử của Tào Tháo, liên quân lập thệhttps://chanhkien.org/2022/06/nghia-giai-tam-quoc-18-thay-nghia-cu-cua-tao-thao-lien-quan-lap-the.htmlThu, 09 Jun 2022 23:28:10 +0000https://chanhkien.org/?p=28663Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Trong Tam quốc diễn nghĩa, cho dù Tào Tháo bị khắc họa thành gian hùng (cũng giống như Chu Du, hai người này tương ứng trở thành đối thủ ngang tầm với Lưu Bị và Gia Cát Lượng, khác biệt hoàn toàn so với nhân vật chân thực trong lịch […]

The post Nghĩa giải tam quốc (18): Thấy nghĩa cử của Tào Tháo, liên quân lập thệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Trong Tam quốc diễn nghĩa, cho dù Tào Tháo bị khắc họa thành gian hùng (cũng giống như Chu Du, hai người này tương ứng trở thành đối thủ ngang tầm với Lưu Bị và Gia Cát Lượng, khác biệt hoàn toàn so với nhân vật chân thực trong lịch sử), nhưng tác giả cũng không thể không thừa nhận, Tào Tháo là người đầu tiên khởi lên ngọn cờ lớn trung nghĩa, là anh hùng hiệu triệu thiên hạ chư hầu cùng nhau thảo phạt nghịch tặc. Do đó, việc làm vì chính nghĩa lần này, Tào Tháo được khắc họa một cách hết sức chính diện, sau khi thích sát Đổng Trác thất bại, ông chạy đến Trần Lưu, một mặt phát lời hiệu triệu (mượn danh nghĩa của chiếu thư) liên hệ chư hầu các nơi, một mặt chiêu mộ nghĩa quân. Các phương nghĩa sĩ do đó mau chóng tụ tập.

Mặc dù lần khởi nghĩa quy mô toàn quốc này đã mô tả hai trận đánh lớn tiến đến Lạc Dương, trảm Hoa Hùng ở cửa Dĩ Thủy và chiến đấu với Lã Bố ở cửa Hổ Lao, ba anh em Lưu Bị nhờ đó vang danh thiên hạ, nhưng trong quá trình đó, là xoay quanh chủ đề nghĩa mà dần dần triển khai. Trận chiến diễn ra tuy rằng đặc sắc, nhưng toàn bộ quá trình khởi nghĩa mới là trọng điểm trong việc triển hiện phương thức tư duy của người xưa. Thông qua lần nghĩa cử này của Tào Tháo, tác giả giả muốn để người đọc thấy được tâm chí chung các giới nghĩa sĩ trong thiên hạ. Trong đó bao gồm cả thương nhân.

Tào Tháo khởi nghĩa, triển hiện tâm chí của toàn dân

Chúng ta biết rằng, Lưu Bị lúc đầu vì để tiêu diệt giặc Khăn Vàng chiêu mộ nghĩa binh, đã dựa vào tấm lòng trọng nghĩa khinh tài của Trương Phi và các thương nhân khác, (đương nhiên sau đó Chu Du của Đông Ngô cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn của Lỗ Túc). Còn về Tào Tháo, cũng được cự phú Vệ Hoằng giúp đỡ, “tận xuất gia tài, mua sắm áo giáp cờ phiên”. Điều biểu hiện ra ở đây là nho thương cổ đại Trung Quốc với tiết tháo và đại chí “thành đạt kiêm tế thiên hạ”, họ hoàn toàn khác biệt so với thương nhân thời nay, điều họ giảng ra chính là trọng nghĩa khinh tài, họ không coi trọng kim tiền, có thể dùng tiền tài cứu trợ quốc gia, đó mới là giá trị nhân sinh mà những người như họ coi trọng. Đây là đức hạnh rất phổ biến vào thời cổ đại, tác giả cho dù viết đến bất kỳ câu chuyện nào trong tam quốc, cũng đều không quên ghi lại hành động trượng nghĩa của các gia tộc phú thương, đại biểu cho tiết tháo và tâm chí khi đối diện với quốc nạn của các giới dân chúng thời xưa không phải binh tướng. Đây mới là hình ảnh nguyên gốc của dân tộc Trung Hoa.

Chúng ta xem nguyên văn sau đây:

Tháo bèn đặt một tiệc rượu, mời Vệ Hoằng đến nhà nói với Hoằng rằng: “Nay nhà Hán vô chủ, Đổng Trác lộng quyền, dối vua hại dân, thiên hạ ai ai cũng nghiến răng tức giận. Tôi muốn hết lòng khuông phò xã tắc, hiềm vì sức không đủ. Ngài là người trung nghĩa, rất mong ngài giúp đỡ cho”. Vệ Hoằng nói: “Tôi có lòng ấy đã lâu, giận rằng chưa gặp ai là người anh hùng. Nay Mạnh Đức đã có chí lớn, tôi xin đem hết của cải ra giúp”. Tào Tháo mừng lắm, làm ngay tờ hiệu triệu thông báo khắp nơi, sau đó chiêu tập nghĩa binh, rồi dựng một lá cờ trắng, đề hai chữ: “Trung nghĩa”. Chưa được mấy ngày mà nhân sỹ kéo đến ứng mộ đông như nước chảy.

Lại miêu tả “bốn phương tặng lương thực, không thể tính đếm”.

Tất cả các đoạn miêu tả đều đang nói với mọi người rằng, vì đại nghĩa quốc gia, mọi người có thể quyên tận gia tài, lương thực, và sinh mệnh, trong tâm của người xưa thì trung nghĩa được coi trọng hàng đầu, cái nghĩa này là chính lý phải tuân theo, là chuẩn tắc hành động của những người thời đó. Khi tìm thấy anh hùng có thể tin tưởng, thì tất nhiên không tiếc hết thảy, quyên tận gia tài.

Hịch văn và thệ ước

Chúng ta lại xem lại hịch văn hiệu triệu chư hầu thiên hạ cùng khởi nghĩa thảo phạt quốc tặc của Tào Tháo.

“Anh em Tào Tháo chúng tôi kính đem nghĩa lớn, bố cáo thiên hạ: Tặc thần Đổng Trác, lừa đất dối trời, giết vua phá nước; Làm ô uế chốn cung cấm, tàn hại sinh linh; Bạo ngược bất nhân, tội ác chồng chất! Nay vâng tờ mật chiếu của thiên tử, họp quân nghĩa binh, thề quét sạch cả Hoa Hạ, tiêu trừ mọi quân hung bạo. Rất mong các nơi đều dấy nghĩa binh, cùng hả lòng công phẫn để phò trợ vương thất, cứu lấy lê dân. Hịch văn đến ngày, lập tức thi hành!”

Ba anh em Lưu Bị ban đầu vì muốn tiêu diệt giặc Khăn Vàng, cứu quốc an dân, nên ba người kết nghĩa, còn Tào Tháo lại kết nghĩa với chư hầu thiên hạ, chỉ có điều đây là hịch văn. Đối tượng của việc thảo phạt quốc tặc là Đổng Trác. Đợi đến khi liên quân tập hợp đầy đủ, thì các chư hầu cùng nhau lập thệ ước.

Sau khi hịch văn được phát ra, bắt đầu từ Viên Thiệu, Viên Thuật, Khổng Dung, Công Tôn Toản, Tôn Kiên,… tổng cộng mười bảy lộ chư hầu, lần lượt hưởng ứng, liên hợp với Tào Tháo thành mười tám lộ đại quân, mấy chục vạn người, trở thành liên minh quân sự, bọn họ cùng nhau tôn Viên Thiệu làm minh chủ, lập ra thệ ước, thống nhất tuân lệnh.

Thệ ước viết: “Nhà Hán chẳng may, phép vua lơi lỏng. Tặc thần Đổng Trác, nhân cơ hội làm ác, vạ đến ngôi vua, hại ra trăm họ. Thiệu và các lộ chư hầu… sợ rằng xã tắc tiêu vong nên phải tụ họp nghĩa binh, cùng nhau cứu nạn nước. Phàm đã là người đồng minh, ai cũng phải dốc lòng hết sức để giữ lấy đạo làm tôi không được hai lòng. Ai trái lời thề này, sẽ chết mất mạng, tuyệt tự cháu con. Xin hoàng thiên hậu thổ, tổ tông minh linh chứng giám cho!”

Thệ ước này tương đồng với nội dung hịch văn của Tào Tháo, có một khác biệt duy nhất, đó là đây là lời thề, nói rằng người nào trái lời thề thì sẽ bị mất mạng, để tổ tông thần minh làm chứng giám. Mục đích báo quốc cứu dân và hậu quả của việc vi phạm lời thề trong đó thật giống với thệ ước kết nghĩa của ba anh em Lưu Bị. Tôn Kiên của Đông Ngô sau này chính vì vi phạm lời thệ ước sau khi tiến vào Lạc Dương, che giấu ngọc tỷ, có tâm phản nghịch không đúng với bổn phận một thần tử, lại phát ra lời thề độc, mới dẫn đến việc rất nhanh sau đó bị chết dưới loạn tiễn.

Đến đây, chúng ta có thể hiểu ra rằng, người hiệu triệu là Tào Tháo, còn minh chủ thống nhất chỉ huy lại là Viên Thiệu, Viên Thiệu chỉ có hư danh, “hảo mưu vô đoán”, chính là có thể xuất ra nhiều mưu kế, biết hoạch định sách lược, nhưng đến thời khắc quan trọng thì không có dũng khí và cách nhìn sự việc quyết đoán. Ông lại chú trọng xuất thân gia môn, khi dùng người thì đa nghi, tin dùng thân tộc, nhất định là khởi nghĩa lần này giữa đường mà hỏng, nhưng lại thành toàn cho ba anh em Lưu Bị. Do đó hai trận đại chiến đều đã trở thành vũ đài để họ vang danh trước mặt chư hầu thiên hạ.

Liên quân xuất quân, liên tục thất bại

Để liên quân chư hầu có thể công nhập Lạc Dương, thì trước hết phải chiếm lấy ải Dĩ Thủy, Tôn Kiên nhận mệnh làm tiên phong, vội vàng tới trước cửa thành. Một lộ chư hầu khác là Bào Tín vì muốn chiếm công đầu, bèn mật sai em mình Bào Trung đem quân đi đường tắt, giao chiến trước với người được Đổng Trác phái ra trận là Hoa Hùng, không ngờ nhanh chóng bị Hoa Hùng dùng đao chém chết. Về phần Tôn Kiên, lại vì Viên Thuật quản quân lương sợ rằng Tôn Kiên đắc thế nên cự tuyệt cung ứng quân lương, Tôn Kiên lòng quân tan rã, bị Hoa Hùng nửa đêm bao vây, chạy thoát mạng, thảm bại quay về, chư hầu thất kinh. Tôn Kiên được mệnh danh là mãnh hổ Giang Đông, cực kỳ dũng cảm, vang danh thiên hạ, không ngờ rằng lần đầu ra quân lại bị lay động tinh thần, các chư hầu không ai dám lên tiếng nhận lệnh giao chiến với Hoa Hùng. Hoa Hùng thừa thế phản công liên quân, hai chư hầu Viên Thuật và Hàn Phức trước sau cùng phái thượng tướng giao chiến với Hoa Hùng, nhưng đều bị Hoa Hùng dùng đao chém hạ chỉ sau vài hiệp giao đấu. Chúng quân thất sắc, hết đường xoay sở. Điều này dẫn đến việc Quan Vũ bước ra. Nhờ đó mà thể hiện được uy danh như thần tướng của Quan Vũ. Nhưng cơ hội lần này lại đến từ Tào Tháo.

Có nghĩa là, lời hiệu triệu của Tào Tháo đã kết thành liên minh, cũng là huệ nhãn của Tào Tháo đã cho Quan Vũ cơ hội được thể hiện tài năng.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/255235

The post Nghĩa giải tam quốc (18): Thấy nghĩa cử của Tào Tháo, liên quân lập thệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải tam quốc (17): Tào Tháo một mình giết tặc, nghĩa cử vang danh thiên hạhttps://chanhkien.org/2022/05/nghia-giai-tam-quoc-17-tao-thao-mot-minh-giet-tac-nghia-cu-vang-danh-thien-ha.htmlTue, 31 May 2022 02:49:48 +0000https://chanhkien.org/?p=28643Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Ngũ Phu đương triều giết tặc, hy sinh vì đại nghĩa, Tào Tháo nối gót theo sau, cuối cùng dẫn khởi toàn quốc cùng nhau khởi nghĩa thảo phạt nghịch tặc. Cuộc khởi nghĩa quy mô lớn này là do Tào Tháo khởi xướng, tuy không đạt được mục đích […]

The post Nghĩa giải tam quốc (17): Tào Tháo một mình giết tặc, nghĩa cử vang danh thiên hạ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Ngũ Phu đương triều giết tặc, hy sinh vì đại nghĩa, Tào Tháo nối gót theo sau, cuối cùng dẫn khởi toàn quốc cùng nhau khởi nghĩa thảo phạt nghịch tặc. Cuộc khởi nghĩa quy mô lớn này là do Tào Tháo khởi xướng, tuy không đạt được mục đích cuối cùng diệt trừ Đổng Trác, nhưng đã trở thành vũ đài triển hiện uy danh của ba đại anh hùng Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi trước mặt các chư hầu. Trong con mắt tác giả, ba người này mới là vai chính của khởi nghĩa toàn quốc. Tại ải Tỵ Thủy trảm Hoa Hùng và tại ải Hổ Lao đại chiến Lã Bố, quân chư hầu đều phải dựa vào ba người này mới có thể giành được thắng lợi, không có họ thì kiểu gì cũng sẽ thất bại. Biểu hiện vô năng của các chư hầu chỉ để làm nổi bật thần uy của tam anh. Mặt khác nghĩa dũng của Tào Tháo, cơ trí hơn người và tấm lòng cũng như quan điểm anh hùng không kể xuất thân của ông cũng được thể hiện đầy đủ. Có thể nói, một trường đại chiến khởi nghĩa, ngoài việc làm nổi bật những nhân vật quan trọng, thì cũng triển hiện một cách tinh tế và sâu sắc chí hướng và cảnh giới của các lộ chư hầu.

Liên minh quân chư hầu cuối cùng bỏ cuộc giữa chừng, tuy thắng mà bại, để mặc Đổng Trác bức ép thiên tử và bách tính dời đô đến Trường An, thiêu thành Lạc Dương thành một mảnh đất khô cằn, kỳ thực đó là ý trời, Đổng Trác đã được ấn định rằng trước khi bị trời trừng phạt thì hoàn tất việc định hình hình mẫu “hiệp thiên tử lệnh chư hầu”. Từ nay thiên tử phải theo quyền thần mà đi, phiêu bạt bốn phương, khiến cho vở kịch lớn sau này, trong đó Lưu Bị quật khởi, phò trợ Hán thất cứu nước, cuối cùng hình thành đại kịch tam quốc diễn “nghĩa”, trở thành một bộ kịch “lịch sử trường thiên” dài đằng đẵng, lưu lại cho người đời sau.

Chúng ta trước hết xem Tào Tháo làm cách nào để thích sát Đổng Trác.

Mượn bảo đao, Tào Tháo vào tướng phủ giết tặc

Tào Tháo và Viên Thiệu đều là cấm quân hiệu úy của triều đình. Viên Thiệu do trước đây phản đối Đổng Trác phế đế, sớm đã bị đuổi ra khỏi Lạc Dương, đóng quân tại Bột Hải, sau khi Ngũ Phu bị Đổng Trác giết hại, ông căm giận Đổng Trác chuyên quyền, không thể dung nhẫn, lệnh cho người đưa mật thư cho tư đồ Vương Doãn, trách tư đồ rằng thân là trọng thần của triều đình thì không thể trừng mắt nhìn Đổng Trác hành ác mà vẫn mặc kệ, khuyên ông dẫn đầu lập mưu tính kế, cùng nhau thảo phạt ác tặc. Lúc đó Đổng Trác đang dò xét quần thần, Vương Doãn do đó trong lòng lo như lửa đốt, vì muốn tránh sự nghi ngờ của Đổng Trác, ông dùng việc chúc tụng sinh nhật làm lý do, mời những vị quan mà mình tín nhiệm đến nhà, bí mật lập mưu trừ hại, Tào Tháo cũng ở trong đó. Nhưng mọi người bàn bạc nhiều mà lại không có kế sách khả thi nên cùng khóc nức nở, lúc này, Tào Tháo dũng cảm bước ra, nguyện ý mượn nhờ một thanh bảo đao tổ truyền cực kỳ sắc bén của nhà Vương Doãn, một mình đi trước thích sát Đổng Trác. Ông nói, bản thân mình bao lâu nay một mực trước mặt lấy lòng Đổng Trác, kỳ thực là muốn nhẫn nhục chờ thời, lấy được tín nhiệm của Đổng Trác, đợi thời cơ tốt diệt trừ quốc tặc. Đến nay đã có hiệu quả, Đổng Trác đối với ông mười phần tín nhiệm, lưu ông lại bên thân, ông có thể ra vào tướng phủ của Đổng Trác bất kỳ lúc nào, tức là có thể trực tiếp đến nhà Đổng Trác tìm thời cơ giết hắn. Vương Doãn nghe vậy rất vui mừng, không tiếc thanh bảo đao chút nào, lập tức đưa cho Tào Tháo, đây chính là nguyên do hành động thích sát của Tào Tháo.

Lời của Tào Tháo biểu hiện rõ ràng nghĩa cử thảo phạt gian tặc trừ hại của ông, thuộc phương thức hành nghĩa thứ hai là nhẫn nhục vì đại sự. Mặc dù sau khi Ngũ Phu thất bại, mất đi sinh mệnh, Đổng Trác đã đề phòng cảnh giác, phòng vệ nghiêm mật, nhưng Tào Tháo vẫn dám tự mình dũng cảm thực thi hành động nguy hiểm như vậy, chỉ dựa vào điểm này, có thể kết luận ông tuyệt đối không phải kẻ tham sống sợ chết, mà là nghĩa dũng song toàn, có dũng có mưu, là một anh hùng có thể cơ trí ứng biến. Quá trình thích sát này được viết ra cực kỳ chi tiết, không chỉ làm nổi bật sự cảnh giác của Đổng Trác, mà cũng triển hiện mười phần đầy đủ sự bình tĩnh và cơ trí của Tào Tháo.

Tào Tháo mang theo bảo đao, đi vào tướng phủ hầu phụng Đổng Trác, do có mưu kế thích sát, nên hiển nhiên đến chậm hơn một chút, vì việc này, Đổng Trác bèn truy vấn Tào Tháo vì sao lại đến trễ. Tào Tháo trả lời rất cơ trí rằng bởi vì con ngựa mình cưỡi quá gầy ốm rồi, đi quá chậm. Đổng Trác thấy ông trả lời không hề do dự như vậy, mới không cảnh giác, gọi Lã Bố – nghĩa tử vừa mới nhận, đi chọn một con ngựa tốt tặng cho Tào Tháo. Tào Tháo thấy kẻ có thực lực nhất là Lã Bố đã rời khỏi Đổng Trác, Đổng Trác lại vì quá to béo nằm xuống nghỉ ngơi, thế là chớp thời cơ rút đao, đang lúc chuẩn bị hành thích Đổng Trác thì Đổng Trác lại phát hiện qua tấm gương, thế là hỏi Tào Tháo, muốn làm gì đây? Tào Tháo lập tức có thể tùy cơ ứng biến, thay đổi thành quỳ xuống dâng tặng bảo đao, ông rõ trong lòng, Đổng Trác có sức lực rất lớn, Ngũ Phu chính là thất bại vì lý do này. Hơn nữa Lữ Bố cũng chọn xong ngựa tốt, lập tức quay trở về rồi.

Do đúng là bảo đao, Tào Tháo chỉ mới rút ra, chứ chưa hạ thủ, lời nói cũng trôi chảy không một chút sơ hở, nên Đổng Trác tuy rằng trong lòng sinh nghi, cũng chỉ có cách không biểu lộ tức giận, bảo Lã Bố đem ngựa cho ông. Tào Tháo thấy ngựa trong tay, bèn lập tức ra quyết định, lừa Đổng Trác rằng muốn thử ngựa, vội vàng đánh roi cưỡi ngựa, tháo chạy khỏi cung, muốn về quê hương chiêu tập nghĩa quân, hiệu lệnh các nơi chư hầu, cùng nhau thảo phạt ác tặc.

Nhờ bị truy nã toàn quốc, nghĩa cử được vang danh thiên hạ

Đổng Trác thấy Tào Tháo tháo chạy, chứng tỏ là ông muốn thích sát hắn, thế là cực kỳ tức giận, mượn danh nghĩa thiên tử lệnh toàn quốc viết thông báo truy bắt Tào Tháo. Hơn nữa còn treo thưởng ngàn vàng, phong vạn hộ hầu. Nếu giúp Tào Tháo tháo chạy hoặc che giấu, thì đồng tội với Tào Tháo. Tào Tháo muốn thoát được bị bắt, trừ phi được trời giúp.

Từ điểm này mà nhìn, thì hành vi cơ trí tận hết nỗ lực bảo toàn tính mạng của Tào Tháo tuyệt không phải tham sống sợ chết, ông vì không muốn chết uổng, lưu lại tấm thân hữu dụng, mới có thể gây dựng lực lượng, mới lại có cơ hội trừ ác, tại thời kỳ đặc thù đó, đây cũng là một loại phương thức báo quốc điển hình mà không có lựa chọn khác. Nếu như không phải ông đã buông bỏ được sinh tử từ lâu, hiểu được sinh tử có mệnh, thì ông thực sự sẽ không dám một mình đi hành thích, vì hễ thất bại, rất có khả năng sẽ mất mạng. Tào Tháo nếu như một chút giác ngộ này cũng không có thì sẽ không thể đi hành thích. Chúng ta thấy được rằng, ông chạy đến huyện Trung Mâu, bị huyện lệnh Trần Cung nhận ra, bắt ông vào ngục. Nếu như Trần Cung tham thưởng nghìn vàng và tước vị vạn hộ hầu thì sẽ áp giải ông đến kinh thành nhận thưởng, có lẽ Tào Tháo sẽ mất mạng. Cho dù trong lịch sử có lẽ là một người khác thả Tào Tháo, nhưng bất kể chân tướng thế nào, thì hành động thích sát của Tào Tháo đã được đông đảo quần chúng công nhận, do vậy, đây là hành động thuận thiên lý, hợp nhân tâm, ông được quan địa phương giúp đỡ, mệnh chưa phải chết, cuối cùng chạy thoát ra ngoài. Trần Cung chính là đại biểu cho những vị quan địa phương có lương tri, ông được an bài cứu Tào Tháo trong vở kịch lớn diễn nghĩa này, ông bỏ đi chức quan huyện lệnh, mạo hiểm nguy cơ đồng tội bị truy bắt, muốn cùng Tào Tháo khởi nghĩa.

Chúng ta thấy được rằng, cho dù là trong tiểu thuyết diễn nghĩa thì tác giả cũng viết, Tào Tháo bị Trần Cung nhận ra, lúc Trần Cung giả ý bắt ông giải về kinh lĩnh thưởng, nghĩa là lúc thật sự không có cơ hội thoát mạng, thì Tào Tháo cũng vẫn không cúi đầu. Chúng ta xem đoạn nguyên văn dưới đây:

Ðến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng: “Ta nghe nói thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân?” Tháo nói: “Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! Đã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lãnh thưởng.” Quan huyện (Trần Cung) bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng: “Ông đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu, cũng vì chưa gặp được chủ đấy thôi.” Tháo nói: “Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Ðổng Trác là muốn tìm cơ hội thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là ý trời!” Quan huyện nói: “Mạnh Đức (tên tự Tào Tháo) chuyến này muốn đi đâu?” Tháo nói: “Ta sẽ về cố hương, phát lời kêu gọi, kêu gọi tất cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh giết Ðổng Trác. Ðó là sở nguyện của ta.”

Đoạn này cho thấy tâm chí dám bỏ mạng vì nghĩa tuyệt không hối hận của Tào Tháo, nói rất rõ ràng, khuất thân lấy lòng Đổng Trác, mục đích là vì nước trừ hại, nếu không phải thực lòng sẽ không dám hành thích, đoạn này cũng nói rõ một câu nói của ông, đó là ông tin rằng giết tặc không thành công là ý trời. Quả nhiên, sau khi ông được phóng thích, đúng là đã về quê nhà, dựng cờ hiệu khởi nghĩa.

Tào Tháo tuy rằng thích sát thất bại, nhưng ông chính là thuận ứng với thiên tượng “Đổng Trác tội ác chồng chất, ai ai cũng hận”. Do đó, việc Đổng Trác trắng trợn truy bắt trên toàn quốc, là đang khảo nghiệm tâm chí của Tào Tháo trong khó nạn, nhưng vô tình cũng là đem nghĩa cử của Tào Tháo công bố cho toàn quốc, một cách tự nhiên đã khiến cho nghĩa cử của Tào Tháo giành được nhân tâm của thiên hạ. Chính như vậy ông đã giành được sự hưởng ứng và ủng hộ của các quan lại và các chư hầu toàn quốc, thuận lợi hình thành nên liên minh quân sự toàn quốc đại quy mô lần này. Trong việc này, Tào Tháo do thuận thiên ứng nhân, nên có được cái lợi thiên thời và nhân hòa một cách tự nhiên.

Tiếp đó, liên minh chư hầu khởi nghĩa, chính là sẽ tập trung triển hiện uy danh của Lưu Quan Trương. Khởi nghĩa tuy không có kết quả, nhưng lại khiến ba anh em Lưu Bị như tiềm long quật khởi, cùng vang danh thiên hạ.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/255078

The post Nghĩa giải tam quốc (17): Tào Tháo một mình giết tặc, nghĩa cử vang danh thiên hạ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải tam quốc (16): Ngũ Phu đương triều giết giặc, trung nghĩa lưỡng toànhttps://chanhkien.org/2022/05/nghia-giai-tam-quoc-16-ngu-phu-duong-trieu-giet-giac-trung-nghia-luong-toan.htmlWed, 25 May 2022 07:50:10 +0000https://chanhkien.org/?p=28632Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Đổng Trác giết vua làm nhục hoàng đế, tại kinh thành ngang nhiên đồ sát bách tính, đồng nghĩa với việc công khai tuyên cáo với thiên hạ rằng bản thân hắn là kẻ chống lại đạo nghĩa, đặt bản thân vào vị trí một tên quốc tặc mà người […]

The post Nghĩa giải tam quốc (16): Ngũ Phu đương triều giết giặc, trung nghĩa lưỡng toàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Đổng Trác giết vua làm nhục hoàng đế, tại kinh thành ngang nhiên đồ sát bách tính, đồng nghĩa với việc công khai tuyên cáo với thiên hạ rằng bản thân hắn là kẻ chống lại đạo nghĩa, đặt bản thân vào vị trí một tên quốc tặc mà người người đều có thể giết.

Cấm quân việt kỵ hiệu úy (là một chức vụ thống lĩnh quân khinh kỵ) Ngũ Phu, không thể tiếp tục dung nhẫn, là người đầu tiên bước ra. Cho dù là thành hay bại, nghĩa cử của ông đều sẽ trở thành tiếng hô mở màn cho các châu quận toàn quốc, là ánh lửa chỉ đường cho quần chúng cùng khởi nghĩa. Có nghĩa là, thời cơ diễn nghĩa trên quy mô lớn đã hoàn toàn chín muồi. Sau Ngũ Phu, đến lượt Tào Tháo, sau khi Tào Tháo thất bại, quan văn Vương Doãn kế thừa trách nhiệm trọng đại ấy, có thể nói là võ tướng dẫn đầu, quan văn dùng kế, cuối cùng đã diệt trừ được gian tặc.

Trung thần phụng nghĩa, hai loại phương thức

Quá trình này đã triển hiện hai loại nhận thức và phương thức căn bản trong việc thực hành trung nghĩa của quần thần Hán triều. Một loại là ôm giữ quyết tâm dùng cái chết để thành tựu việc nghĩa, như Ngũ Phu và quan thượng thư Đinh Quản, người đã đổ máu ngay trước khi Đổng Trác phế hoàng đế; một loại khác là có thể xả thân vì nghĩa nhưng không dễ dàng từ bỏ sinh mạng, mà phải nhẫn nhục chịu khổ để giữ lại sinh mạng và xây dựng lực lượng, chờ thời cơ cuối cùng để đạt được mục đích trừ ác như Tào Tháo và Vương Doãn. Đương nhiên cũng bao gồm những người sau này như Quan Vũ, Lưu Bị,… Hai loại phương thức ở tầng con người này đều được thế nhân khẳng định, nhưng loại thứ hai làm khó hơn. Tình hình cụ thể cũng phức tạp đa biến, khi thực hiện cũng tùy theo hoàn cảnh mà có cách làm khác nhau. Hai loại phương thức đều được thể hiện đầy đủ trong “Tam quốc diễn nghĩa”, đủ để cho hậu nhân khi gặp các tình huống khác nhau có thể có được nhiều loại tham chiếu và lựa chọn khác nhau.

Văn hóa truyền thống Trung Quốc, là con cái trong gia đình thì phải thật hiếu thảo; còn đối với quốc gia, là thần tử thì phải tận trung báo quốc. Nói cách khác, hiếu là yêu cầu đối với con cái, mà trung, chủ yếu là yêu cầu đối với thần tử. Thần tử tận trung, tất phải vì quốc gia bách tính giữ vững đạo nghĩa, lại có hàm nghĩa là đối với quân chủ phò tá có thủy có chung, không rời bỏ (do đó “trung” trong “trung nghĩa” đồng âm với “chung” trong “chung thủy”), đều là giảng đạo nghĩa dưới các góc nhìn khác nhau. Nhưng khi lịch sử Trung Quốc đi đến thời kỳ Hán mạt Tam Quốc, khi hoàng đế không có thực quyền, người ở thời đại này dường như chủ yếu dùng thân phận và góc độ của thần tử để thống lĩnh thiên hạ thi hành trung nghĩa, bảo vệ Hiến Đế, bảo vệ lê dân, do đó gọi là thi hành trung nghĩa, nhưng trọng điểm của nó đặt tại chữ “nghĩa” mà không phải chữ “trung”. Bởi vì giai đoạn lịch sử này trên thực chất là quyền thần lệnh chư hầu, không phải thời đại có quân chủ thực chất để quy thuận và phò tá, bối cảnh thời đại này không xuất hiện một quân chủ chân chính có thể khiến thiên hạ không thể rời bỏ, tận trung một cách có thủy có chung. Thực chất, thời đại này đa số là lấy danh nghĩa thần tử, thống lĩnh mọi người thi hành đạo nghĩa, tiến tới thời đại triển hiện toàn bộ nội hàm của nghĩa.

Chúng ta trước tiên xem xét phương thức thủ nghĩa của Ngũ Phu.

Ngũ Phu khởi đầu, thích sát Đổng Trác, trung nghĩa lưỡng toàn

“Việt kỵ hiệu úy Ngũ Phu, tên chữ là Đức Du, thấy Trác tàn bạo, căm hận bất bình, thường mặc áo giáp ở trong triều phục, dắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để giết Trác. Một hôm, Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác, Phu rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lữ Bố trông thấy, chạy lại túm Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng: “Ai xúi nhà ngươi làm phản?” Phu trợn mắt thét mắng: “Ngươi không phải là vua ta, ta không phải là bề tôi của ngươi, sao gọi là phản được, tội ngươi tày trời, ai ai cũng muốn giết! Ta tiếc rằng không xé nhỏ được xác ngươi ra để tạ thiên hạ!” Trác tức lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Đổng Trác không thôi cho đến lúc chết. Đời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng:

“Hán mạt trung thần thuyết Ngũ Phu, Xung thiên hào khí thế gian vô. Triều đường sát tặc danh do tại, Vạn cổ kham xưng đại trượng phu!”

Tạm dịch:

“Hán mạt trung thần nhắc Ngũ Phu, Hào khí xung thiên thế gian chẳng ai bằng. Đương triều giết giặc danh tiếng để, Vạn cổ xưng danh đại trượng phu!”

Đây chính là hình tượng Ngũ Phu được miêu tả trong “Tam quốc diễn nghĩa”, ông tuy hành thích thất bại, lấy cái chết để thành tựu việc nghĩa, nhưng lại nói ra được chính lý của trung thần vì đất nước trừ gian. Đổng Trác tự cho mình là chủ của thiên hạ, do đó mới cho rằng người khác hành thích hắn là hành động phản nghịch. Ngũ Phu không sợ hãi nói ra được đạo lý: Đổng Trác ngươi không phải là quân chủ mà ta muốn tận trung phò tá, ta đương nhiên không phải là thần tử của ngươi, không phải quan hệ quân thần sao nói là phản nghịch? Ta giết ngươi, chỉ bởi vì ngươi tội ác tày trời, thiên hạ ai cũng có thể giết ngươi. Những lời này chính là thể hiện rằng, giết hắn là thay trời hành đạo, là vì bách tính thiên hạ trừ hại, Đổng Trác trở thành kẻ địch chung của cả thiên hạ, hắn đã trở thành kẻ chống lại đạo nghĩa. Trừ bỏ hắn đã trở thành một hành động phù hợp với đạo lý của đất trời.

Ngũ Phu vì dùng cái chết để thực hành việc nghĩa, có thể nói là đã dùng phương thức đầu tiên để thay trời hành đạo, đã thi hành nghĩa cử của trung thần báo quốc, đồng thời cũng dùng sinh mệnh để hoàn thành bổn phận có thủy có chung của một thần tử đối với cá nhân quân chủ, cả cuộc đời ông đều phụng sự cho Hán triều, tròn bổn phận với hoàng đế đương triều Hán Hiến Đế. Do đó, hành vi của ông có thể được coi là “trung nghĩa lưỡng toàn” một cách hoàn mỹ. Phong trào diễn nghĩa của thời kỳ Hiến Đế là do ông khởi phát, nhưng người đời sau lại dùng hình thức thơ để định vị ông là một vị trung thần thời Hán mạt. Kỳ thực, từ góc độ của trung mà nói, hành động nhẫn nhục vì việc lớn, uốn mình chịu nhịn đem Điêu Thuyền hiến cho Đổng Trác, dùng mỹ nhân kế trừ bỏ Đổng Trác của Vương Doãn sau này, và với Hán Hiến Đế ông cũng không rời bỏ, cuối cùng dùng cái chết để bảo toàn cho Hiến Đế, hai vị này đều là thay bách tính thiên hạ thi hành đạo nghĩa, đồng thời mặt khác cũng hoàn thành việc tận trung với quân chủ của mình.

Nội hàm cơ bản của trung: tận tâm duy hộ chính đạo

Tại đây, chúng tôi muốn làm rõ một khái niệm, chính là từ “trung” này, nếu như trở thành bổn phận của thần tử, muốn thực hành một cách hoàn mỹ, chỉ có thể đối với quân chủ có đức hoặc ít nhất là không đến mức như Hạ Kiệt và Thương Trụ Vương, mới có thể làm được. Chữ trung (忠), là một loại đạo nghĩa, do trung (中) và tâm (心) tổ hợp thành, biểu hiện nội hàm cơ bản của nó là làm người phải trung chính vô tư, tận tâm tận lực, cũng tức là phải tận tâm duy hộ chính đạo. Chữ “trung” này thường dùng để chỉ việc thần tử vì quốc phụng công, do đó trung thần khi đứng trước quốc gia, phục vụ quân chủ, thì xuất hiện hai tầng nghĩa vụ, thứ nhất là dùng tâm chính trực vô tư thi hành trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ đối với quốc gia bách tính, nhưng đồng thời cũng có cả phương diện tận tâm tận lực phò tá có thủy có chung đối với cá nhân quân chủ. Bảo vệ quốc gia bách tính là cái nghĩa lớn, bảo vệ cá nhân quân chủ là cái nghĩa tương đối nhỏ, đều là đạo nghĩa, trong tình huống bình thường thì không mâu thuẫn, bản thân trung nghĩa chính là một. Vì khi quân chủ có thể yêu thương dân thì phò tá ông tận trung cũng chính là đồng nghĩa với việc đang bảo hộ quốc gia, tự nhiên sẽ phù hợp đạo nghĩa lớn. Nhưng nếu như quân chủ tàn hại bách tính, thiên lý không dung, vậy sẽ không được coi là chủ của thiên hạ, lúc này nếu như phò tá ông ta tận trung, thì trừ khi có thể dùng đạo lý chân chính khuyên giải và quy chính ông ta về với chính đạo, thay bách tính chỉ dạy ông ta, còn không làm được như thế mà vẫn muốn ở bên cạnh ông ta toàn lực tiếp tục giúp đỡ thì cũng đồng nghĩa với việc tổn hại bách tính quốc gia, thay người xấu làm việc ác rồi. Do đó, trong tình huống cá biệt đối với quân chủ tàn bạo hoặc cực kỳ hôn quân, nếu trung một cách cực đoan với cá nhân quân chủ, thì ngược lại sẽ xa rời chính đạo, sẽ không đúng với nghĩa ban đầu của chữ trung, nguyên gốc là không nghiêng lệch, công chính.

Chữ tâm với nghĩa “tấm lòng tận tâm tận lực”, được đặt ở dưới chữ trung (中), chính là muốn con người một lòng một dạ thi hành chính đạo, vậy thì khi quân chủ tàn bạo bất chính, thì thực sự tận trung thế nào đây. Do đó trong lịch sử những năm cuối của Thương Triều đã diễn dịch câu chuyện “Trợ Trụ vi ngược” và đã trở thành thành ngữ sử dụng thường ngày, trở thành lời cảnh báo đối với những người muốn giúp người khác làm việc ác. Do vậy, khi gặp phải bạo quân hôn quân, thì phải lấy lịch sử làm gương, nhận định có nên tạm thời từ bỏ trung đối với cá nhân quân chủ hay không, chỉ nói về nghĩa đối với quốc gia bách tính. Ngoài ra, Trung Quốc còn có thành ngữ “Tận trung báo quốc”, nhắc nhở thần tử rằng, tận trung là vì báo quốc an dân, tận trung không được quên mục đích cuối cùng là dùng chính đạo báo đáp quốc gia bảo vệ người dân. Trung nghĩa phải là nhất thể.

Quá trình hình thành tam quốc thời Hán mạt quả là rất đặc thù, luận hành vi và lựa chọn của những thần tử, đối mặt với cá nhân quân chủ thì có thể nói họ tận trung cũng đúng, tuy không cách nào trực tiếp phò tá, nhưng nhân phẩm và danh nghĩa của Hiến Đế vẫn còn, dựng lên ngọn cờ chính nghĩa thì nhất định phải coi Hán thất là chính thống, là danh nghĩa chính đáng. Nhưng nói họ tận nghĩa thì chính xác hơn, suy cho cùng cũng là thay trời hành đạo, coi việc trừ bỏ kẻ thù chung là việc chính, đối với cá nhân vị hoàng đế không thể làm chủ quốc gia ấy, có nhiều tình huống, cho dù muốn phò tá ông cũng không cách nào phò tá, muốn làm đến độ không rời bỏ, có thủy có chung thì đã mất đi điều kiện thực tế. Nhưng về hàm nghĩa căn bản của chữ trung mà nói, chỉ cần tận tâm duy hộ chính đạo là đã được coi là trung thần chân chính theo nghĩa rộng rồi.

Ngũ Phu và Vương Doãn, đối với Hiến Đế, là hai vị trung thần điển hình cho câu “trung nghĩa lưỡng toàn”. Hai người họ đã đại biểu cho đức hạnh phổ biến của thần tử trong thời kỳ quân chủ bình thường. Nhưng tại thời kỳ mạt của vương triều, thường thường phải coi trọng đạo nghĩa cứu dân cứu quốc lên vị trí thứ nhất. Do đó, vũ đài tam quốc chỉ có thể làm nổi bật những cái lý chính nghĩa mà tất cả mọi người tuân theo một cách phổ biến.

Ngũ Phu hành thích, tuy không thành công, nhưng lại trở thành ánh lửa dẫn đường cho toàn quốc cùng nhau khởi nghĩa, thảo phạt Đổng Trác, góp phần dẫn đến hành động hành thích của Tào Tháo ở chương tiếp theo.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/255062

The post Nghĩa giải tam quốc (16): Ngũ Phu đương triều giết giặc, trung nghĩa lưỡng toàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (15): Lợi dụng Đổng Trác, hình thành cục diện diễn nghĩahttps://chanhkien.org/2022/05/nghia-giai-tam-quoc-15-loi-dung-dong-trac-hinh-thanh-cuc-dien-dien-nghia.htmlMon, 02 May 2022 04:00:06 +0000https://chanhkien.org/?p=28541Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Hán Hiến Đế hữu danh vô thực tại vị trong thời gian dài, nếu việc này là để thiên hạ có hai nền tảng tư tưởng là có chủ và vô chủ đồng thời tồn tại, dùng để triển hiện nội hàm của nghĩa, thì việc lợi dụng Đổng Trác […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (15): Lợi dụng Đổng Trác, hình thành cục diện diễn nghĩa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Hán Hiến Đế hữu danh vô thực tại vị trong thời gian dài, nếu việc này là để thiên hạ có hai nền tảng tư tưởng là có chủ và vô chủ đồng thời tồn tại, dùng để triển hiện nội hàm của nghĩa, thì việc lợi dụng Đổng Trác tàn bạo để đưa ông lên ngôi đã trở thành một lẽ tất nhiên. Kẻ ác sẽ ở trong vô tri, trong cuồng vọng tự hủy diệt bản thân, và trở thành công cụ nhằm tạo dựng và bắt đầu thúc đẩy cục diện lịch sử vốn đã được [Thần] định trước.

Lợi dụng hành vi xấu xa của Đổng Trác, hình thành cục diện diễn nghĩa

“Lịch sử Trời định, văn hóa Thần truyền”, là góc nhìn sáng tác của tác giả bộ tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa”. Nghĩa là, mảnh đất Thần Châu 5000 năm là vũ đài do Trời định, là nơi Thần dùng để an bài các giai đoạn lịch sử, diễn dịch các triều đại khác nhau, từ đó lưu lại cho con người các văn hóa khác nhau ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Do vậy, lịch sử 5000 năm đã được an bài ổn cả rồi, 5000 năm văn hóa là do Thần truyền cấp cho con người thông qua các triều đại lịch sử. Tác giả chính là dùng góc nhìn này để diễn giải thực chất của văn hóa Tam Quốc, thông qua tiểu thuyết triển hiện ra mục đích dùng đoạn lịch sử này để lưu lại cho con người văn hóa “nghĩa”. Đây chính là văn hóa quan và lịch sử quan chính thống của dân tộc Trung Hoa. Đứng tại góc nhìn này, chúng ta mới có thể đọc hiểu cổ nhân và văn hóa mà cổ nhân lưu lại, mới có thể đọc hiểu mục đích xuất hiện và tồn tại của mỗi câu chuyện và nhân vật trong bộ tiểu thuyết này.

Do vậy Đổng Trác hoang dâm tàn bạo, nhìn thì thấy thế lực tà ác vô pháp vô thiên, muốn gì làm nấy, nắm quyền khuynh đảo thiên hạ, bắt nhốt quần thần, bức ép Lư Thực phải rời đi, mua chuộc Lã Bố sát hại người trượng nghĩa bảo vệ chủ là Đinh Nguyên, giải trừ tất cả lực lượng quân sự bên cạnh Hán Thiếu Đế, phế Thiếu Đế mà không mảy may tốn sức, kỳ thực bất quá chỉ là vì đạt đến kết quả Hán Hiến Đế lên ngôi. Thành công của hắn ta thuận tiện cho việc thiên hạ chính thức bắt đầu thuộc về Hán Hiến Đế trên danh nghĩa, hình thành sân khấu dùng để bắt đầu cho vở đại kịch lịch sử diễn nghĩa. Trên biểu hiện thì thấy Hán Hiến Đế chịu mọi khổ nhục, nhưng chân tướng lại là kẻ ác Đổng Trác cho dù có thành công hay kiêu ngạo cuồng vọng như thế nào, chẳng qua chỉ là dùng để hình thành thiên hạ của Hán Hiến Đế mà tồn tại, để hắn định ra cục diện “hoàng đế không giống hoàng đế” của Hán Hiến Đế sau này. Và khi không còn giá trị tồn tại, thì tất nhiên sẽ để hắn thoái xuất khỏi vũ đài của lịch sử, không chỉ như vậy, còn khiến hắn chịu sự trừng phạt của Trời, kết cục bi thảm, ác báo khiến người thời nay nghe mà kinh hãi.

Do vậy, cổ nhân thường nói, ác có ác báo, không phải không báo, chỉ là chưa đến lúc mà thôi; hễ đạt đến mục đích lịch sử đã được an bài, thì báo ứng sẽ bắt đầu, bài học giáo huấn như thế này chúng ta vĩnh viễn không thể quên, nhất định đừng để bị lừa dối bởi những bộ phim cổ trang đấu đá hiện đại, trong đó người ta xây dựng hình ảnh kẻ ác trở thành nhân vật chính và hình mẫu làm người, say sưa đàm luận các loại âm mưu quỷ kế như một loại trí huệ. Nếu lý giải sai lầm quan điểm chính thống của lịch sử, nhìn không ra tuyến chính của lịch sử, thì như vậy sẽ hủy đi nhân sinh của bản thân mình.

Đổng Trác tàn bạo hoang dâm, giết hoàng đế, làm nhục vua

Đổng Trác lợi dụng vàng bạc đá quý và ngựa xích thố, mua chuộc Lã Bố, cắt đứt quan hệ phụ tử kết nghĩa của Lã Bố với Đinh Nguyên, lợi dụng Lã Bố giết chết người có năng lực chống đối nhất là Đinh Nguyên, lại ép Viên Thiệu phải rời đi, sau khi trừ bỏ hai lực lượng quân sự chủ yếu trong cung và ngoại viện, Thiếu Đế dễ dàng bị phế, giáng làm Hoằng Nông Vương, bị giam cầm cùng với mẹ là Hà thái hậu và các phi tử, mất hết tự do, không được gặp bất kỳ ai. Còn Đổng Trác thì từ đó nắm trong tay đại quyền, làm nhục hoàng đế mới lên ngôi khi còn 9 tuổi, cũng tức là Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, tác oai tác quái, để hắn tận sức “biểu diễn” cái tàn bạo vô sỉ của hạng lưu manh thổ phỉ.

“Đổng Trác làm tướng quốc, bái kiến vua không cần xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, mang kiếm khi lên điện, làm mưa làm gió, không ai sánh được”. Đổng Trác trở thành người lãnh đạo đầu tiên “Hiệp thiên tử lệnh chư hầu”, quyền thần đầu tiên ức hiếp quân chủ của đoạn lịch sử thời kỳ Hiến Đế, Hiến Đế hoàn toàn trở thành con rối để hắn tùy ý thao túng. Hắn danh là tướng quốc, thực tế là tên quốc tặc đã bắt giam quân thần, bái kiến Hiến Đế không xưng tên, vào triều ngông nghênh cực đoan vô lễ, còn mang kiếm lên điện, những lễ tiết bên ngoài đều không cần nữa, ngay cả dáng vẻ thần tử trên hình thức cũng không cần diễn nữa, nói hắn là quyền thần thì thật là không xứng, chỉ có thể là kẻ cướp nước – quốc tặc. Sau này, Hán Thiếu Đế bị phế, dần dần bị thiếu ăn thiếu mặc, mười phần thê thảm, do đó ngâm thơ trút giận, bị Đổng Trác lệnh cho tâm phúc Lý Nho dùng rượu độc hại chết, thái hậu đang còn sống thì bị ném xuống lầu, mà phi tử cũng bị treo cổ chết, cả gia đình Thiếu Đế chết mười phần thê thảm, không bằng cỏ rác.

Đây vẫn còn chưa tính đến việc, trong sách miêu tả Đổng Trác “Kể từ đó Trác đêm nào cũng vào cung, gian dâm với cung nữ, đêm nằm giường rồng. Thường dẫn quân ra khỏi thành, một bữa, Trác đến Dương Thành, bấy giờ đang tháng hai, dân mở hội hát, nam nữ đều tụ họp xem hội, Trác lệnh quân bao vây cả lại, rồi giết sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn một nghìn thủ cấp ở dưới gầm xe, kéo đuôi nhau về đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc đại thắng trở về; Trác sai đốt thủ cấp người dưới cửa thành, còn phụ nữ và của cải thì đem chia cho quân sĩ.”

Đoạn miêu tả này có thể là đã diễn tả tường tận hết mức về bộ mặt của những kẻ thổ phỉ ác bá nhất thời đắc thế, lộ ra sau khi giành được chính quyền. Những kẻ lang sói ấy nắm quyền, tất nhiên sẽ nguy hại thiên hạ, vô luận là đế vương quần thần hay là bách tính, đều bị bắt nhốt trong tay, chúng tùy ý thao túng sinh tử của người khác, coi sinh mệnh như cỏ rác, biểu lộ hành vi ác độc vô sỉ của chúng một cách công khai không kiêng nể.

Vậy thì, có người sẽ hỏi, hắn đã ngạo mạn như vậy, tại sao không tự mình lên ngôi vị hoàng đế, tự thân làm hoàng đế? Lý do là, hắn vẫn không có bản sự khống chế thiên hạ, ra lệnh cho các vùng châu quận bỏ rơi Hán thất, phục tùng hắn ta, coi hắn ta là chủ. Nhưng chỉ cần hoàng đế Hán triều tại vị, thì chư hầu thiên hạ cho dù biết hoàng đế không có thực quyền, nhưng trên danh nghĩa vẫn còn, dùng danh nghĩa của đế vương phát ra bất kể mệnh lệnh nào, thì chư hầu châu quận các nơi không dám làm trái, trái lệnh cũng đồng nghĩa với phản nghịch, Đổng Trác lại có thể thảo phạt các chư hầu không tuân mệnh, các chư hầu khác cũng không dám cứu giúp. Do đó, mới có thể khống chế chư hầu các nơi nghe theo hiệu lệnh của bản thân mình. Nếu như Đổng Trác tự thân lên ngôi hoàng đế, chư hầu các nơi sẽ có thể danh chính ngôn thuận liên hợp lại thảo phạt Đổng Trác, sẽ không phải là mưu phản nữa. Do đó, Đổng Trác lúc ban đầu lại không dám quá ngang ngược. Nhưng bản tính tà ác của hắn căn bản không cách nào khống chế và che đậy, hễ nắm trong tay đại quyền, sau khi giết chết Thiếu Đế, thì không cần che giấu, công khai biểu thị hành vi bạo ngược dối trời của hắn, điều này cũng đồng nghĩa đang báo hiệu rằng, hắn sẽ rất nhanh chóng bị vứt bỏ, bị người chủ đạo sân khấu đại kịch lịch sử này vứt bỏ.

Nói một cách khác, Đổng Trác đắc ý cố tình làm bậy, không phải ông Trời không có mắt, mà đây chính là phương thức mà ông Trời đào thải kẻ ác, để một kẻ điên cuồng làm ác đắc được một chút thành công tạm thời, cho đến khi trời đất phẫn nộ, người người oán thán, hận thấu xương, chính là đợi cho đến khi tội ác của kẻ này ai ai cũng rõ ràng, đạt đến độ bị người trong thiên hạ nhìn rõ mà vứt bỏ hắn. Đến lúc này việc giương cao ngọn cờ trung nghĩa, cục diện chiến tranh bảo vệ quân chủ sẽ hình thành, sau đó thiên hạ phân liệt, dần dần diễn biến thành thực tế thiên hạ vô chủ, chư hầu các nơi tranh giành Trung Nguyên, mỗi người vì chủ của mình mà triển hiện trung nghĩa. Quyền thần bên thân của Hiến Đế không ngừng thay đổi, hai loại nền tảng trung nghĩa cùng song hành, mỗi bên đều “diễn nghĩa”.

Chính vì vậy, các thần tử trung nghĩa đã bắt đầu cách làm riêng của họ, muốn diệt trừ Đổng Trác. Từ đó, lịch sử diễn “nghĩa” oanh oanh liệt liệt chính thức bắt đầu. Đầu tiên là quan việt kỵ hiệu úy Ngũ Phu, dùng sinh mệnh thực thi trung nghĩa, hô lên chính kiến của trung thần, lưu lại tiếng thơm thiên cổ.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254891

The post Nghĩa giải Tam quốc (15): Lợi dụng Đổng Trác, hình thành cục diện diễn nghĩa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (14): Hiến Đế lên ngôi, hai nền tảng đạo nghĩa lớn cùng song hànhhttps://chanhkien.org/2022/04/nghia-giai-tam-quoc-14-hien-de-len-ngoi-hai-nen-tang-dao-nghia-lon-cung-song-hanh.htmlSun, 24 Apr 2022 08:09:21 +0000https://chanhkien.org/?p=28510Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Trong con mắt của tác giả La Quán Trung, sự an bài tam quốc không chỉ là dùng hình thức tam tài Thiên Địa Nhân truyền đạt cái nhìn nhân văn về thiên nhân hợp nhất, để con người biết đạo diễn của văn hóa này là Trời chứ không […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (14): Hiến Đế lên ngôi, hai nền tảng đạo nghĩa lớn cùng song hành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Trong con mắt của tác giả La Quán Trung, sự an bài tam quốc không chỉ là dùng hình thức tam tài Thiên Địa Nhân truyền đạt cái nhìn nhân văn về thiên nhân hợp nhất, để con người biết đạo diễn của văn hóa này là Trời chứ không phải người, mà đồng thời, mục đích chủ yếu của toàn bộ câu chuyện cũng là muốn chỉ rõ đoạn lịch sử này cần phải để con người ở nhân gian “diễn” xuất nội hàm các góc độ và tầng thứ khác nhau của “nghĩa”. Do đó, thời kỳ Hán mạt mới xuất hiện hiện tượng vừa có đế vương vừa không có đế vương, cũng tức là hiện tượng lịch sử đặc biệt “Hoàng đế mà không phải hoàng đế, vua mà không phải vua” do việc Hán Hiến Đế tại vị trong thời gian dài.

Cũng có nghĩa là, chính vì cho rằng thiên hạ không có chủ, nên mới tạo thành việc những người khác nhau có nền tảng thực hành việc nghĩa khác nhau, từ đó có những lựa chọn khác nhau, để con người thấy được những lý giải và cách làm khác nhau của con người đối với đạo nghĩa. Như vậy nội hàm của nghĩa mới có thể triển hiện mười phần chi tiết. Để lý giải vấn đề này, chúng ta có thể bắt đầu từ cuộc chiến bình định loạn khăn vàng của nghĩa quân Lưu Bị.

Vận dụng đạo nghĩa khi thiên hạ có chủ rõ ràng

Mọi người hẳn đều nhớ đến câu chuyện kinh điển bậc nhất “Kết nghĩa vườn đào” trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi kết nghĩa, chính là vì muốn bình định phản loạn của quân Khăn vàng, để quốc gia thái bình, lấy việc này để trên báo đáp quốc gia, dưới an định lê dân. Đây là nội hàm của “nghĩa” trong câu chuyện đầu tiên. Do đó, đồng thời với việc triển hiện chiến tranh, tác giả không hề quên biểu hiện việc lý giải và thực thi đạo nghĩa của ba anh em Lưu Bị.

Việc đầu tiên Lưu Bị làm là trợ giúp Thái thú U Châu đánh đuổi quân phản loạn, bản thân việc này chính là đang làm tròn lời thề của ba người khi kết nghĩa, thể hiện việc thực hành đại nghĩa của ba người đối với quốc gia. Về sau, khi Lưu Bị biết được thầy của mình là Lư Thực lấy thân phận Trung lang tướng dẫn quân, đang đối đầu với Trương Giác ở Quảng Tông, ông bèn từ biệt quân đội của Thái thú, thống lĩnh đội quân của mình trợ chiến cho Lư Thực, một là vì sư ân, hai là vì quốc gia, đều cần phải đồng thời báo đáp. Nhưng sau khi Lư Thực thấy Lưu Bị, lại để Lưu Bị đi thám thính tình hình của hai đại quân triều đình khác do Chu Tuấn và Hoàng Phủ Tung dẫn đầu, hẹn ngày diệt đạo tặc, thế là Lưu Bị phụng mệnh trong đêm tối đến Dĩnh Châu, sau khi nhìn thấy hai vị tướng quân, biết rằng hai người em của Trương Giác là Trương Bảo và Trương Lương đều bị đánh bại, đang dẫn tàn binh chạy về Quảng Tông, thế là trong đêm tối Lưu Bị lại quay về Quảng Tông, không ngờ rằng trên đường đi lại gặp Lư Thực đang bị kết tội, bị giam, đang bị áp giải về kinh hỏi tội. Thì ra Lư Thực bị Trương Giác dùng gian thuật cản trở, mãi không thấy tin chiến thắng, sứ giả do triều đình phái tới do không nhận được tiền hối lộ của Lư Thực, nên đã báo tin quân sự giả, Lư Thực vì vậy mà bị bắt giam bãi chức, Đổng Trác trở thành người thay thế Lư Thực lãnh quân.

Lưu Bị Thấy Lư Thực bị nhốt giam hỏi tội, không có cách nào, bèn dự định quay trở về chỗ Thái thú quận Trác. Trên đường lại gặp được Đổng Trác bị Trương Giác đánh cho tán loạn bỏ chạy, quân Hán thảm bại, ba người không nói lời gì khác, liều mình cứu được Đổng Trác, Đổng Trác chính là người sau này dẫn quân tiến kinh phế trừ Thiếu Đế. Đổng Trác lúc ấy đang giữ chức Thái thú Hà Đông, tính tình tàn bạo, ngạo mạn vô lễ, khi được ba anh em Lưu Bị ra tay tương cứu, không những không biết cảm ân, mà còn vì nghe nói Lưu Bị là một dân thường không quan không chức, nên hắn đối với Lưu Bị mười phần vô lễ. Do đó Trương Phi tức giận, muốn giết luôn loại người bất nghĩa này, nhưng ông bị Lưu Bị, Quan Vũ ngăn lại vì lý do không thể giết mệnh quan triều đình. Nhưng Trương Phi cho rằng, loại người bất nghĩa như vậy, cho dù không thể giết hắn thì cũng không thể làm thuộc hạ nghe theo mệnh lệnh của hắn, nếu như hai vị ca ca lựa chọn đi theo Đổng Trác thì ông cũng sẽ không nghe theo. Lưu Bị và Quan Vũ cho rằng ba người kết nghĩa cùng sống chết, tiến thoái có nhau, thế là ông rời khỏi Đổng Trác, dẫn quân đầu quân cho Chu Tuấn, giúp Chu Tuấn tiêu diệt Trương Bảo, bình định các quận, giành được thắng lợi lớn.

Ở đây chúng ta thấy được ba người Lưu Bị thực hành việc nghĩa, bọn họ trước hết bảo vệ quận Trác, vùng đất của họ, sau đó báo đáp ân sư, chính là giảng ra nghĩa thầy trò, sau giúp đỡ Đổng Trác xoay chuyển bại cục, cứu được quân Hán. Có thể thấy họ không hề có tư tâm cá nhân, chỉ vì Đổng Trác phụng mệnh triều đình, do vậy chưa cần biết thân sơ, họ vẫn xả thân vì nghĩa. Nhưng khi phát hiện được phẩm chất con người Đổng Trác là một kẻ bất nghĩa, kiêu ngạo vô lễ, thì tính tình cương trực thủ nghĩa của Trương Phi bắt đầu biểu hiện ra, điều ông thể hiện ra là đạo nghĩa của việc “Hiền thần chọn chủ mà thờ”. Đạo lý “Hiền thần chọn chủ mà thờ” này không chỉ đơn giản hạn hẹp nghĩa giải trong quan hệ giữa quân thần với nhau, mà là chỉ nghĩa rộng trong quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Tuy rằng Trương Phi tính tình cương trực, nhưng về đạo nghĩa này thì ông lại không hề hồ đồ. Ông lựa chọn việc rời khỏi Đổng Trác, cũng giống như Triệu Tử Long, Từ Thứ và Gia Cát Lượng lựa chọn Lưu Bị, đều là tuân theo đạo nghĩa, chỉ có như vậy, mới không dẫn đều việc trợ Trụ vi ngược.

Nhưng Lưu Bị cũng có suy xét và lựa chọn của ông, triều đình đương thời là chính thống trong thiên hạ, Linh Đế tuy rằng dốt nát, nhưng thời đó vẫn là thiên hạ có chủ. Đổng Trác là tướng phụng mệnh lãnh quân, là quan viên triều đình, giết hắn đồng nghĩa với việc chống lại triều đình, về danh nghĩa là không thỏa đáng, như vậy thì sẽ bị người ta vu tội là cùng đội ngũ với quân Khăn Vàng, vì vậy, nhận định của Lưu Bị cũng là đúng, do đó, cách làm lúc đó của bọn họ, lựa chọn hợp lý nhất, chính là không thể giết mệnh quan triều đình, nhưng có thể lựa chọn rời bỏ kẻ bất nghĩa. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, ba người đối diện với tình huống cụ thể lựa chọn việc nghĩa, mỗi người có góc đó khác nhau, hợp lại làm một, chính là nhận định tốt nhất lúc bấy giờ. Ví dụ này là nhận định khi thiên hạ có chủ.

Lựa chọn việc nghĩa của Trần Cung khi thiên hạ vô chủ

Ba anh em Lưu Bị không giết mà rời khỏi Đổng Trác, cách lựa chọn thi hành việc nghĩa của họ thì trong sách nhiều lần đề cập đến phương thức này, và khi thiên hạ xuất hiện tình hình vô chủ, cũng tức là Hán Hiến Đế không cách nào làm chủ cục diện, trong thời kỳ mà ông không được coi là chủ của thiên hạ về mặt thực tế cũng như ý nghĩa, thì phương thức này cũng được biểu hiện. Ví dụ, Trung Mưu huyện lệnh Trần Cung vì ủng hộ Tào Tháo hành nghĩa ám sát Đổng Trác mà tình nguyện từ bỏ chức quan, mạo hiểm tính mạng của bản thân mà thả Tào Tháo đang bị bắt, về sau biết được Tào Tháo dự định trở về quê chiêu tập nghĩa quân thảo phạt Đổng Trác, thế là quyết định đi theo Tào Tháo. Nhưng trên đường đi Tào Tháo tá túc tại nhà của người bác nuôi của Tào Tháo là Lã Bá Sa, Tào Tháo do đa nghi, giết cả nhà Lã Bá Sa (trong truyện vì để hình thành đối lập với hình tượng Lưu Bị, Tào Tháo bị khắc họa thành hình tượng gian hùng, không phải là lịch sử chân thực của Tào Tháo, điều này mọi người nên hiểu rõ). Do vậy ông cho rằng Tào Tháo bất nghĩa, muốn giết Tào Tháo, nhưng lại chuyển một niệm nghĩ, bản thân vì đại nghĩa đã minh xác lựa chọn đi theo Tào Tháo, cũng tức là khi vẫn chưa chính thức lựa chọn rời bỏ thì theo lý vẫn nên phụng sự quân chủ, trung nghĩa phò tá, bây giờ giết Tào Tháo, thì bản thân mình chẳng phải sẽ trở thành kẻ bất nghĩa giết chủ quân sao. Nhưng bây giờ phát hiện Tào Tháo bất nghĩa, không thể đi theo, nên chỉ có thể rời đi, không thể giết ông ta. Do đó, Trần Cung nhận định, chỉ có thể rời khỏi ông ta, không muốn đem tài trí đi theo ông ta làm những việc không có đạo nghĩa như vậy, đây chính là phương thức tư duy của người xưa đối với việc lý giải về trung nghĩa.

Sau này Trần Cung đi theo Lã Bố, bị Tào Tháo bắt được, nhưng vẫn không đầu quân dưới trướng Tào Tháo, dù chết cũng không hối hận. Sự việc ấy biểu hiện một điều là sau khi thiên hạ không có chủ, thì chủ của mỗi người lúc này chính là tư tưởng nền tảng để thực hành trung nghĩa. Cũng tức là khi thiên hạ không có chủ xác định, Hán Hiến Đế không được coi như là chủ nhân thực sự của thiên hạ nữa, do đó anh hùng tranh giành, thì Trần Cung lựa chọn Lã Bố để phò tá, là quân chủ mà cá nhân ông đã nhận định, do đó trung nghĩa đối với Lã Bố, không rời bỏ, sống chết không hối hận.

Về biểu hiện của câu chuyện đầu đuôi nhân duyên giữa Trần Cung và Tào Tháo, cho dù là đối với Tào Tháo hay là Trần Cung, thì những tình tiết được viết ra chưa chắc đã có thật, đây không phải lịch sử chân thực, mọi người coi đó là tiểu thuyết hư cấu là được. Điều tác giả nhấn mạnh không phải bản thân thật giả của câu chuyện mà là mượn câu chuyện này để thể hiện cụ thể phương thức tư duy của người xưa, rằng khi không có chủ rõ ràng thì làm thế nào dùng nghĩa để lựa chọn và hành động.

Thế nhưng, quá trình lịch sử này cũng rất có ý nghĩa, nói là không có định chủ, nhưng trang phục Hán triều vẫn tồn tại, danh nghĩa đế vương của Hán Hiến Đế vẫn còn, hơn nữa ông không ngu dốt, cũng không tàn bạo, lại không làm việc xấu, nên để ông làm chủ thì cũng hợp đạo nghĩa, cũng là một cách thi hành trung nghĩa. Do đó, thiên hạ vô định chủ và có định chủ, hai cách suy nghĩ đều không thể nói là sai, vào thời điểm đó, có thể dùng cả hai cách nói, đều không thể tuyệt đối nói ai đúng ai sai.

Nghĩa cử của Lư Thực, sau khi can gián thì từ quan

Lại nói đến Lư Thực, Lư Thực vì không có cách nào can gián Hà Tiến, Hà Tiến nắm quyền nhưng không có mưu, dẫn Đổng Trác tiến vào kinh, do vậy Lư Thực cho rằng thiên hạ không còn chủ và từ quan, để tránh việc thân là thần tử triều Hán mà vừa phải thực hành trung nghĩa của thần tử, lại phải phụng mệnh Hà Tiến làm việc xấu. Đây chính là nguyên nhân khiến Lư Thực lựa chọn từ quan. Nhưng sau khi ông từ quan lại không kịp rời đi nên tận mắt thấy hoạn quan ức hiếp Thiếu Đế, không nhẫn tâm bỏ rơi Thiếu Đế bơ vơ, bèn cứu thái hậu và Thiếu Đế, còn kịch liệt bài bác lại hành vi phế đế của Đổng Trác, làm một việc nghĩa cuối cùng mà ông nên làm, rồi mới rời đi. Có thể nói là ông đã tận nhân tận nghĩa. Lúc làm quan, thì trung nghĩa khuyên gián, sau khi từ quan, dù không còn là quan hệ quân thần, ông vẫn liều mạng đối kháng với Đổng Trác, bảo vệ quân chủ. Ông là một quân tử chân chính.

Những câu chuyện bên trên chính là viết ra rất chi tiết việc cổ nhân suy nghĩ về nghĩa như thế nào, làm thế nào để tránh trở thành ngu trung, làm thế nào để lựa chọn hành vi của mình. Chính bởi vì có Hán Hiến Đế hữu danh vô thực tồn tại mấy chục năm, mới có hai loại nền tảng suy xét đồng thời tồn tại là có định chủ và vô định chủ, mới có nhận thức và lựa chọn khác nhau về việc làm thế nào để thực thi đạo nghĩa dưới những cơ điểm khác nhau.

Câu nói mỗi người vì chủ của mình biểu hiện ra là hai nhận thức lựa chọn việc nghĩa trong thời kỳ không có định chủ, ví dụ lựa chọn đi theo Tào Tháo, Viên Thiệu, Lã Bố, hay những anh hùng khác; và nhận thức và lựa chọn phụng sự Hán thất, trọng trung nghĩa, đi theo Lưu Bị, thừa nhận Hán Hiến Đế là hoàng đế. Như vậy, lịch sử thông qua thời đại đặc thù này mà triển hiện cụ thể và toàn diện những góc độ khác nhau về nội hàm của nghĩa. Đây chính là nguyên nhân căn bản của thời kỳ trị vì lâu dài “Đế mà không phải Đế” của Hán Hiến Đế. Vũ đài này là do Trời định, vì để “diễn nghĩa” mà được tạo thành.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254900

The post Nghĩa giải Tam quốc (14): Hiến Đế lên ngôi, hai nền tảng đạo nghĩa lớn cùng song hành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (13): Định tam quốc, truyền tam tàihttps://chanhkien.org/2022/03/nghia-giai-tam-quoc-13-dinh-tam-quoc-truyen-tam-tai.htmlThu, 31 Mar 2022 04:24:46 +0000https://chanhkien.org/?p=28460Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Khi việc Đổng Trác cưỡng ép các đại thần phế hoàng đế phát sinh, đồng nghĩa với việc lời tiên tri “Đế mà không phải đế, vương mà không phải vương” đã hoàn toàn ứng nghiệm. Vậy thì có người sẽ hỏi, nếu lịch sử đã là do Trời định, […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (13): Định tam quốc, truyền tam tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Khi việc Đổng Trác cưỡng ép các đại thần phế hoàng đế phát sinh, đồng nghĩa với việc lời tiên tri “Đế mà không phải đế, vương mà không phải vương” đã hoàn toàn ứng nghiệm. Vậy thì có người sẽ hỏi, nếu lịch sử đã là do Trời định, vậy vì sao mà vào thời Hán mạt lại định ra tam quốc cùng tồn tại, mà không phải là tứ quốc hay lục quốc; tại sao không giống như các triều đại trước xuất hiện bạo quân hoặc hôn quân thì kết thúc một cách chính thường, cứ phải xuất hiện lặp đi lặp lại hiện tượng “quyền thần hiệp thiên tử” hay “phụng thiên tử lệnh chư hầu”, để con người vĩnh viễn ghi nhớ?

Tam Quốc truyền tam tài

Tác giả viết diễn nghĩa, nếu đã là đứng tại góc độ văn hóa Thần truyền để viết, đương nhiên sẽ minh bạch, hết thảy không chỉ đều là có định số, còn có mục đích vì con người lưu lại một văn hóa nào đó. Khi lịch sử xuất hiện tam quốc, cũng là hữu ý muốn minh xác đặt định và vận dụng khái niệm tam tài Thiên Địa Nhân, nếu khái niệm này phổ biến được đại chúng nhận biết, sẽ khiến cho con người vĩnh viễn không quên vũ trụ quan thiên nhân hợp nhất, để đế vương, quan tướng, hiền tài danh sĩ của đời sau, ôm giữ tâm kính úy và cảm ân đối với thiên địa, vĩnh viễn ghi nhớ nguồn gốc của bản thân mình, không dám tùy tâm sở dục, vô pháp vô thiên.

Tam quốc đại biểu nội hàm tam tài “Thiên Địa Nhân”, trong “diễn nghĩa” được giảng ra thông qua Gia Cát Lượng. Câu chuyện Lưu Bị “ba lần đến lều tranh”, đã minh xác nói rõ một khái niệm. Gia Cát Lượng chưa ra khỏi lều tranh, đã biết thiên hạ sẽ chia ba, dù chúng ta đối với sự việc này có hoàn toàn nhớ hay không, ít nhất cũng biết rằng tam quốc mỗi nước đều có ưu thế của mình, đó chính là Tào Tháo chiếm giữ “thiên thời”, Lưu Bị có “nhân hòa”, mà điều Đông Ngô có được chính là “địa lợi”. Cũng có nghĩa là, Gia Cát Lượng biết rằng tam quốc mỗi nước đều có nhân tố vượt trội mà Trời an bài, theo khái niệm tam tài Thiên Địa Nhân mà tiến hành phân định, bề ngoài là chiến tranh mỗi nước đều có ưu thế riêng, thực tế là truyền tải cách nhìn về mặt văn hóa (văn hóa quan) tam tài phải hợp lại làm một, cũng đồng nghĩa với việc sớm đưa ra lời nhắc nhở: Ba quốc gia này, tuy rằng mỗi nước đều có ưu thế khác nhau, có thể tạm thời xuất hiện một giai đoạn cục diện thế chân vạc cùng tồn tại, nhưng cuối cùng cũng không thể lâu dài, chỉ có Thiên Địa Nhân ba điều kiện này hợp lại làm một, mới có thể hoàn thành việc thống nhất Trung Nguyên. Do đó, ba quốc gia cuối cùng đều sẽ diệt vong. Quân chủ của quốc gia nào cũng không thể đạt được mục đích, đều không có thiên mệnh là sau cùng thống nhất mảnh đất này.

Sự xuất hiện của tam quốc, rất hiển nhiên, chính là nói cho con người biết, Thiên Địa Nhân tam tài, khuyết một cái cũng không được, thiếu cái nào cũng đều không thể thành tựu đại nghiệp. Đây là đại tài và đại trí của Gia Cát Lượng mà tác giả nhìn ra được, dùng câu chuyện sinh động, kết hợp trạng thái chiến tranh và mong ước thành tựu đại nghiệp của con người thời đó, đã giảng ra thực chất của văn hóa tam tài này, kết hợp với đoạn lịch sử này, và đem văn hóa quan to lớn mà đoạn lịch sử này muốn truyền đạt, để truyền đạt một cách sinh động cho quảng đại bách tính phổ thông. Chính vì có đoạn lịch sử tam quốc này, nội hàm của tam tài, mới có thể khắc ghi sâu đậm trong tâm mỗi người.

Lưu Bị và Tào Tháo, đều có cái nhìn rộng lớn về thiên mệnh

Văn hóa tam tài Thiên Địa Nhân này, đến triều Tống, được chính thức đưa vào Tam Tự Kinh, trở thành nội dung trong sách giáo khoa để giáo dục trẻ nhỏ. Do đó, văn hóa chính thống năm nghìn năm của Trung Hoa, trước giờ đều là văn hóa kính thiên tín Thần, mọi người do đó thuận thiên ý, biết thiên mệnh, giữ vững đạo nghĩa, không dám làm trái, với tâm thái như vậy mà tận tâm hoàn thành việc của bản thân, thành bại đều dựa vào thiên mệnh. Lưu Bị, Tào Tháo, hai nhân vật đại anh hùng này được khắc họa đối lập trong sách, cho dù có nhiều chi tiết có thể không đúng với lịch sử, nhưng dù khắc họa thế nào, họ đều có một cái nhìn rộng lớn về thiên mệnh.

Ví dụ Tào Tháo trượng nghĩa ám sát Đổng Trác không thành, bản thân thừa nhận đây là thiên ý, lại ví dụ trận chiến Xích Bích, Tào Tháo đã tổn thất trăm vạn đại quân, cuối cùng bại tẩu ở đường Hoa Dung, ông mấy lần trên đường trốn chạy, trúng mai phục của Gia Cát Lượng, cơ hồ mất mạng, mà vẫn ung dung cười một cách hào phóng, mọi người nghĩ xem, nếu không có niềm tin mạnh mẽ vào thiên mệnh, sinh tử định số, làm sao có thể đối đãi với việc thắng bại tổn thất trăm vạn đại quân một cách tự nhiên thoải mái như vậy. Một người bình thường thì sớm đã suy sụp rồi.

Lại nhìn về Lưu Bị, khi Gia Cát Lượng báo cho Lưu Bị biết, để Quan Vũ, một người từng nhận ân hậu đãi của Tào Tháo, trấn thủ đường Hoa Dung, nguyên nhân là vì mệnh của Tào Tháo chưa nên tuyệt, thiên tượng đã là như vậy, bản thân ông là đang thuận thiên ý, do đó bèn cố ý an bài để Quan Vũ tha cho Tào Tháo, đồng thời thuận với thiên ý, cũng là thành toàn cho hành động trọng nghĩa của Quan Vũ, hoàn trả ân tình Tào Tháo hậu đãi Quan Vũ trước đây. Lúc này, Lưu Bị giật mình tỉnh ngộ, không hề trách tội Gia Cát Lượng đã bỏ qua cơ hội khó gặp để tiêu diệt đối thủ là Tào Tháo. Những câu chuyện này đều đang nói về tâm kính úy đối với thiên địa của người xưa. Nếu không có thiên mệnh quan như thế này, thì người ta sẽ không hiểu được rằng lịch sử con người thế gian là biến hóa của thiên tượng, rằng mỗi người đều có số mệnh, như vậy sẽ coi trọng được mất, thành bại, không thể trở thành anh hùng hào kiệt chân chính. Do đó biết thiên mệnh, thì người sẽ không tiêu cực, ngược lại biết độ lượng.

Từ góc độ này mà nói, các danh thần hiền tướng phò tá đế vương khai quốc các triều đại xưa nay, đều không phải người thường, đặc biệt là người đầu tiên được xem là thầy của đế vương, hiền tướng của Triều Thương Y Doãn, cũng là vị thừa tướng mà ở bài trước Lưu Thực đề cập đến là có tư cách phế trừ vua Thái Giáp, trí huệ của ông cũng không kém hơn Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng trong tam quốc, chúng ta đã từng nói qua, dường như chính là đóng vai trò ông ấy, bọn họ là những người đại tài phò trợ vua, là được trời giao phó, sớm đã minh bạch thiên mệnh của bản thân, đối với đại thế thiên hạ họ đã rõ ràng, mỗi một sự việc, chẳng qua là thuận thiên ý mà hành, tuyệt đối không quá coi trọng công danh lợi lộc ở thế gian con người, đối với chức vị đế vương, họ căn bản không động tâm. Do đó, những người đại tài không có tư dục như vậy, mới có tư cách bàn luận về việc phế vị đế vương.

Đế mà không phải đế, mấy chục năm, chỗ mê khó giải

Vậy thì vấn đề thứ hai, chính là Đổng Trác sau khi phế Thiếu Đế, chính thức mở ra lịch sử “quyền thần hiệp trợ Hán Hiến Đế”, đương nhiên, chân tướng lịch sử chân thực của Tào Tháo là “phụng thiên tử, lệnh chư hầu”, cái này chúng ta không phân tích, bởi vì vấn đề giảng ở đây là hình tượng văn học được gia công nghệ thuật trong tiểu thuyết, chúng ta chỉ nói rằng đoạn lịch sử này rất đặc thù, rõ ràng sau khi hôn quân Hán Linh Đế băng hà, Hán Triều đáng ra sẽ kết thúc nhanh chóng, thế nhưng bắt đầu từ Đổng Trác, trải qua mấy lần thay đổi quyền thần, Hán Hiến Đế, vị thiên tử thời Hán mạt này, thực tế đều là không còn thực quyền nữa, đồng nghĩa với việc để lại một khoảng trống đế vương, đã duy trì mấy chục năm lịch sử “Đế mà không phải đế”, nếu nói thiên hạ đã có chủ, nhưng kỳ thực ông đã là không thể làm bất cứ việc gì, còn như nói không có chủ, thì thực ra trên danh nghĩa vẫn còn. Hơn nữa bản thân ông có thiên tư thông minh, không có lỗi lầm, không dốt nát cũng không bạo ngược, quá trình kết thúc trong tay vị đế vương như thế đã kéo dài thêm 32 năm, việc an bài lịch sử như vậy quả là rất đặc thù, để con người cảm thấy mười phần bất ngờ, rất nhiều học giả nghiên cứu lịch sử đều sẽ cảm thấy khó khăn nghi hoặc, cũng có rất nhiều người vì thế mà mười phần đồng cảm với cảnh ngộ của Hán Hiến Đế.

Để làm sáng tỏ chỗ mê này, chúng ta cần từ thiên ý một lần nữa phản hồi đến đạo lý của con người thế gian. Sau khi đều sáng tỏ hai vấn đề này, thì có thể tiếp tục đi đến chương Đổng Trác phế đế.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254817

The post Nghĩa giải Tam quốc (13): Định tam quốc, truyền tam tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (12): Loạn thế nan đề, duy đức năng giảihttps://chanhkien.org/2022/01/nghia-giai-tam-quoc-12-loan-the-nan-de-duy-duc-nang-giai.htmlFri, 07 Jan 2022 02:08:52 +0000https://chanhkien.org/?p=28261Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Đọc truyện “Tam quốc diễn nghĩa” chúng ta sẽ kinh ngạc phát hiện ra rằng xã hội cổ đại được miêu tả trong sách hoàn toàn không giống với những gì chúng ta thấy trên truyền hình. Người xưa muốn quyết định sự việc gì thì đều lấy đức làm […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (12): Loạn thế nan đề, duy đức năng giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Đọc truyện “Tam quốc diễn nghĩa” chúng ta sẽ kinh ngạc phát hiện ra rằng xã hội cổ đại được miêu tả trong sách hoàn toàn không giống với những gì chúng ta thấy trên truyền hình. Người xưa muốn quyết định sự việc gì thì đều lấy đức làm trung tâm, kỷ cương phép tắc và vũ lực đều là phụ, còn những oai lý (oai lý, “oai” trong từ “tà môn oai đạo”) thì không cách nào tìm được chỗ đứng trong xã hội. Ngay cả người không đủ dũng khí nhất thời khiếp sợ vũ lực, không dám lên tiếng, nhưng trong tư tưởng lại không hề hồ đồ, cũng không dễ dàng bị tẩy não và lợi dụng. Đây cũng là điều mà tà ác khiếp sợ nhất, thế nên bạo ngược như Đổng Trác mới sợ người hiểu biết đạo nghĩa như Lư Thực đến thế và muốn trừ khử ông ta. Hôm nay chúng ta đem những lời Lư Thực ra phân tích một cách kỹ lưỡng sẽ thấy người xưa phán đoán sự việc một cách trí huệ như thế nào.

Học theo chí Y Doãn, phán Đổng Trác phản nghịch

Trước hết chúng ta cùng xem lại đoạn hội thoại của Lư Thực:

Lư Thực nói: “Ông lầm rồi! Xưa vua Thái Giáp không minh. Y Doãn lưu đày ông ta ở Đồng cung; vua Xương Ấp lên ngôi vua mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba nghìn điều ác, nên Hoắc Quang phải làm lễ cáo ở thái miếu rồi bỏ đi. Ngày nay vua dẫu còn trẻ tuổi, song vốn thông minh nhân từ, chưa có một chút lỗi lầm. Ông chẳng qua là thứ sử đường ngoài, chưa tham dự việc nước, lại không có tài lớn như Hoắc Quang, Y Doãn, sao dám cả gan bàn đến việc bỏ vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng: “Có chí như Y Doãn thì hay, bằng không có chí ấy mà làm thì là thoán nghịch!”

Lời nói của Lư Thực đại ý nói rằng: Đổng Trác ngài nói muốn phế Thiếu Đế ấy là sai rồi, thời xưa vua Thái Giáp của nhà Thương đức hạnh bại hoại, thừa tướng Y Doãn mới đày vua ra Đổng Cung để vua phản tỉnh, tự mình tạm thời đích thân chấp chính. (Sau 3 năm vua Thái Giáp tỉnh ngộ quyết tâm sửa chữa sai lầm của mình, Y Doãn đích thân đến đón rước vua về kinh và trao lại quyền hành, sau Thái Giáp trở thành một vị minh quân của nhà Thương). Vua Hán Xương Ấp đăng cơ mới 27 ngày đã làm ra hơn 3000 điều ác, nên đại thần Hoắc Quang đã làm lễ cáo ở thái miếu phế truất vua. Còn ngày nay vua Thiếu Đế của chúng ta tuy còn nhỏ tuổi nhưng thông minh nhân đức, có tài trí, lại chưa có một chút lỗi lầm, còn ngài chỉ là một Thứ sử của quận ngoài thành, ngày thường không có quyền tham dự triều chính, lại không có tài lớn phụng thiên tế thế như Hoắc Quang, Y Doãn, thì sao dám cả gan cưỡng ép làm chuyện đại sự phế vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng nếu có công tâm như Y Doãn không mưu đồ vương vị mà chỉ dạy dỗ vua quy chính đức hạnh, ôm chí lớn tế thế an dân thì không thành vấn đề, còn nếu không có hoài bão như vậy mà làm việc soán vị thì chính là hành vi phản nghịch.

Câu trả lời của thượng thư Lưu Thực đã cho chúng ta thấy rõ rằng người bị phế vị ắt phải làm chuyện gì thất đức nghiêm trọng, còn người thực thi việc phế vị phải xuất từ công tâm, còn phải có tư cách và uy tín được tổ tiên giao phó nhiệm vụ trọng đại là giáo dục đời sau, được thần minh thiên địa cho phép thì mới có thể làm sự việc này.

Y Doãn là thừa tướng khai quốc của triều Thương, phò trợ 5 đời quân vương, sống đến hơn 100 tuổi, sau khi mất, được mai táng theo nghi lễ vương giả. Ông quả là nhân tài tuân theo thiên mệnh hạ thế, thông thiên lý hợp nhân đạo; là bậc thầy lấy đạo trị quốc nhân hiếu của Vua Nghiêu vua Thuấn để dạy dỗ các bậc đế vương của triều Thương. Gia Cát Lượng trong “Tam Quốc diễn nghĩa” chính là tượng trưng cho Y Doãn. Lưu Bị phải ba lần đến lều tranh thỉnh mời, Gia Cát Lượng mới xuống núi, đây không phải là cảnh giới mà người bình thường có thể đạt được. Những bậc đại trí này vốn là người thông suốt thiên lý hiểu được thiên mệnh, thuận theo thiên ý mà hành sự, trong lòng hiểu rõ vận mệnh quốc gia và đại sự, họ căn bản sẽ không có hứng thú đối với quyền lực và vương vị.

Chuyện Y Doãn đày vua Thái Giáp ra Đồng cung xuất phát từ ghi chép trong Sử ký và trong nhiều tài liệu lịch sử. Có không ít người lấy những loại sách vở khác, những thứ hoàn toàn tương phản, tuyên dương cái ác làm giá trị, để phủ định Y Doãn, phủ định quy phạm đạo đức truyền thống do Thánh vương và Hiền tướng truyền lại. Đây là điều vô cùng đáng sợ, những kẻ dùng ý đồ thóa mạ tổ tiên để huỷ hoại con cháu đời sau và huỷ hoại đạo đức của một dân tộc sẽ thành tội nhân thiên cổ, chỉ có ma quỷ mới làm như vậy. Nếu như con cháu đời sau tin vào những lời lừa dối ấy của ma quỷ thì chúng sẽ cười nhạo tổ tiên, nhạo báng đạo đức. Những kẻ làm ra việc này sẽ biến con cháu đời sau thành phường tà ác chỉ vì quyền lợi mà muốn gì làm nấy không từ thủ đoạn. Chúng ta rốt cục là đang biểu dương cái thiện hay đang huỷ hoại người, muốn biến con người thành cầm thú? Cái mà chúng ta gọi là học vấn và thông minh đó há chẳng phải là do ma quỷ lợi dụng và khống chế [mà làm ra] hay sao? Thử nghĩ một chút thôi cũng sẽ giật mình sởn gáy. Những người viết ngược lịch sử hoặc muốn chứng thực các giá trị quan tà ác, xin hãy suy nghĩ cho kỹ, tài trí của chúng ta có thật là để dùng vào việc huỷ diệt đạo đức dân tộc không? Những nghiên cứu học vấn mà chúng ta làm, những năm tháng cũng như giá trị của kiếp nhân sinh có thật là vì mục đích đáng sợ này mà tồn tại hay không?

Loạn thế nan đề, duy đức năng giải

Thượng thư Lư Thực vốn là bậc đại nho của nhà Đông Hán, chúng ta thấy lời ông nói nhắm vào việc phế vị đế vương, vốn là chuyện đại sự hàng đầu của quốc gia, nhưng trong lời ấy không có chút lúng túng sợ hãi, cũng không tránh né, lời lẽ nhã nhặn, luận cứ rõ ràng, dứt khoát bác bỏ luận điệu hoang đường của Đổng Trác. Ông chỉ cho Trác biết rằng tuyển chọn đế vương thì cũng phải phán đoán ai có tư cách ngồi vào vị trí ấy, không phải dựa vào tiêu chuẩn dáng vẻ uy nghi mà là lấy đức hạnh làm tiêu chuẩn. Những sự kiện phát sinh trong lịch sử đều là những ví dụ về các bậc đế vương bản thân thất đức nghiêm trọng, thất tín với thiên hạ mới bị truất ngôi. Vì thế Thiếu Đế không phù hợp với điều kiện này, ai cũng không thể làm chuyện như thế được.

Lời của Lư Thực chính là để nói rằng đức là nguyên tắc trung tâm để phán đoán đại sự. Có một điều cần chú ý là Lư Thực không lập tức nói tới những phép tắc như đạo quân thần hay quy tắc trưởng thứ có thứ tự, lập con trưởng không lập con thứ. Chính vì thế, người thực sự am hiểu học vấn đều hiểu rõ rằng “lễ” là quy định thường nhật phổ biến thông dụng, tiện cho con người trong công tác bình thường, giao tiếp và sinh hoạt, là phương tiện để biểu đạt sự tôn kính, là các quy củ thông dụng về hành vi của con người như thăm hỏi, hữu hảo và thiện ý. Các dân tộc khác nhau, các triều đại khác nhau sẽ có hình thức biểu đạt cụ thể khác nhau, thế nên hình thức bên ngoài của lễ có thể thay đổi nhưng tác dụng bảo vệ đạo đức, nguyên tắc lấy đức làm trung tâm sẽ vĩnh viễn không đổi.

Do đó, trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, trong một tình huống đặc thù, khi đế vương thất đức nghiêm trọng gây nguy hiểm cho quốc gia và bách tính, lúc mà vua mất đi tư cách của một bậc đế vương, thì cái lễ nghĩa quân thần có thể tạm thời gác sang một bên, thần tử có thể ở trước tông miếu của đế vương, nhưng không phải lấy thân phận một thần tử mà lấy thân phận thay mặt tiên tổ đế vương dạy dỗ đế vương, ở nơi rất nghiêm túc tế cáo với trời đất và tổ tiên của đế vương rồi tiến hành phế truất. Cần phải có tâm thái đường đường chính chính ở trước tông miếu và thiên địa cũng như có mặt đầy đủ các đại thần mà làm việc này. Thế nên trong lịch sử vào thời kỳ đặc thù thật sự là có tiền lệ thần tử phế đế, nhưng phải là khi đế vương đó đã thất đức nghiêm trọng, hơn nữa việc phế đế phải thực hiện một cách công khai và hết sức nghiêm túc. Người tiến hành phế đế không thể có tư tâm không công chính chỉ vì bản thân, nếu không sẽ bị người đời nhìn thấy rõ rành rành.

Thế nên nếu một người lăm lăm trong tay con dao đồ tể, muốn lừa dối trời, bức ép người khác, thì chính là có tội, nếu dễ dàng hoàn thành chính sự trọng đại này một cách tùy tiện, thì cho dù là kẻ ngốc đến mấy cũng đều biết đó là làm điều phản nghịch. Huống chi Thiếu Đế căn bản chưa phạm việc gì thất đức. Do đó hành vi của Đổng Trác không còn nghi ngờ gì nữa chính là hành động mưu phản trái với nghĩa quân thần, sẽ bị người đời mạ là kẻ bất nghĩa thích làm điều ngang ngược. Vậy nên dẫu cuối cùng Đổng Trác cũng làm được việc phế đế nhưng sẽ nhanh chóng làm dấy lên cuộc khởi nghĩa của các anh hùng cùng nhau thảo phạt quốc tặc, và ai ai cũng lăng mạ ông ta. Bởi vì bất kể là người ta có dám lên tiếng hay không thì toàn bộ xã hội đều chọn đức làm tiêu chuẩn tốt đẹp, sẽ tự giác tuân theo nghĩa lý, một cách tự nhiên sẽ phán đoán ra được hành vi của Đổng Trác là bất nghĩa. Lễ nghĩa và pháp luật có thể căn cứ theo hình thức xã hội mà thay đổi, nhưng đạo lý làm người thì không thể thay đổi, do đó có thể thấy được sự sáng suốt của người xưa.

Đổng Trác sau khi phế đế thì ngày ngày đề phòng, ngay cả ban đêm cũng ngủ không ngon giấc, lúc nào cũng e có người ám sát mình, một kẻ dựa vào bạo lực để giành được thiên hạ thì có thể bền lâu chăng? Người như vậy có đáng để người khác tôn sùng và noi theo không? Khẳng định là không thể. Nhưng có phải vì vậy mà chúng ta liền phủ định tác dụng của vũ lực? Đương nhiên không phải, bởi truyện “Tam quốc diễn nghĩa” sẽ vào thời cơ thích hợp, cũng chính là khi “Lưu Bị dẫn quân vào Tây Xuyên thông qua quân sư Bàng Thống mà giảng về đạo lý lấy đức dụng võ và nghịch thủ thuận thủ [1] để giải đáp nghi vấn này cho chúng ta.

Mọi người xem truyện “Tam quốc diễn nghĩa” nếu chú ý sẽ thấy rằng lễ nghĩa không phải là trung tâm khi thảo luận vấn đề mà đức mới là trung tâm, những bậc quân tử có học vấn đều hết sức minh xác điểm này, chỉ có quy về cơ điểm là đạo đức thì mới có thể nhận định được sự vật, mới có thể nhận ra được hết thảy tà ngôn, loạn tượng và mới có thể bác bỏ được những luận điệu hoang đường. Điều này nói lên rằng người xưa vẫn hiểu và áp dụng một cách linh hoạt lời dạy của đức Khổng Tử “vi chính dĩ đức” (làm chính trị thì dùng đức cảm hoá dân) để xử lý việc quốc gia đại sự, thông hiểu về đạo đức mới là căn bản để đoán định được mọi việc, trong đó có cả tiêu chuẩn về lễ nghĩa, đạo đức mới là trung tâm xoay chuyển chính sự. Am hiểu đạo lý mới thoát khỏi được cái vỏ giáo điều sáo rỗng. Rất nhiều vấn đề pháp luật, giáo dục, kinh tế, xã hội ngày nay chỉ cần dùng giá trị quan đạo đức của cổ nhân để đo lường thiện ác thì sẽ có thể tìm ra được mấu chốt của vấn đề. Do đó người đọc sách thánh hiền không những không được bảo thủ mà trái lại còn phải phá trừ những quan niệm bảo thủ, trả lại sự thật cho nền văn hoá của dân tộc Trung Hoa.

Như vậy (Sau lời vạch trần hoang ngôn ấy thì) tính mệnh của Lư Thực sẽ như thế nào? Trong truyện viết có các quan đã can ngăn Đổng Trác: “Lư thượng thư là người có danh vọng lớn ở trong thiên hạ, nếu đem giết đi, e rằng thiên hạ không phục!” Thế là Đổng Trác liền không dám động thủ. Đương nhiên nếu Đổng Trác sát hại bậc quân tử đại biểu cho đạo nghĩa của thiên hạ thì cũng tương đương với việc tuyên cáo khắp thiên hạ rằng y là kẻ đối địch với đạo nghĩa, sẽ lập tức khiến các châu các quận đồng loạt nổi lên thảo phạt nghịch tặc, trở ngại đến việc Trác phế đế.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254816

[1]: 逆取顺守 nghịch thủ thuận thủ: tạm dịch là khi giành thiên hạ thì phải đi ngược đạo lý trung thần, còn khi cai trị thiên hạ thì phải tuân theo chính đạo

The post Nghĩa giải Tam quốc (12): Loạn thế nan đề, duy đức năng giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (11): Đổng Trác âm mưu phế đế, Lư Thực bác bỏ những lời lẽ sai tráihttps://chanhkien.org/2021/11/nghia-giai-tam-quoc-11-dong-trac-am-muu-phe-de-lu-thuc-bac-bo-nhung-loi-le-sai-trai.htmlMon, 22 Nov 2021 07:58:47 +0000https://chanhkien.org/?p=28122Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Sau khi các quan tướng tìm được Hán Thiếu Đế và Trần Lưu vương trước đó bị bọn hoạn quan uy hiếp, thì thứ sử Tây Lương Đổng Trác đã đến kinh thành, lúc này Trác thừa lúc hỗn loạn mà vào kinh với danh nghĩa là đội hộ giá, […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (11): Đổng Trác âm mưu phế đế, Lư Thực bác bỏ những lời lẽ sai trái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Sau khi các quan tướng tìm được Hán Thiếu Đế và Trần Lưu vương trước đó bị bọn hoạn quan uy hiếp, thì thứ sử Tây Lương Đổng Trác đã đến kinh thành, lúc này Trác thừa lúc hỗn loạn mà vào kinh với danh nghĩa là đội hộ giá, dẫn một đội quân hùng mạnh xông thẳng tới bên cạnh Hán Thiếu Đế. Điều này tương đương với việc nắm cả các quan triều đình và hoàng đế trong tay, thế nên rất nhanh sau đó Trác đã bắt đầu bàn tính chuyện phế đế, việc này dẫn đến việc thượng thư Lư Thực, một vị đại nho với danh vọng cực cao trong nước thời Hán mạt, xuất hiện để phản đối chủ kiến phế đế của Đổng Trác.

Đổng Trác âm mưu phế đế

Hồi 3 “Tam Quốc diễn nghĩa” có viết rằng khi Hán Thiếu Đế và Trần Lưu Vương được Đổng Trác làm cho cái việc gọi là hộ giá về kinh, khi về đến kinh thành thì phát hiện ngọc tỷ bị thất lạc đâu mất, còn Đổng Trác bắt đầu lộ ra cái tâm muốn phản nghịch. “Đổng Trác đóng đồn ở ngoài thành, hàng ngày đem quân mã mang thiết giáp vào trong thành, đi nghênh ngang các phố, nhân dân rất sợ hãi. Trác lại tự do vào ra chỗ cung cấm, không kiêng sợ gì cả. Hậu quân hiệu úy Bào Tín đến chơi Viên Thiệu, bàn với Thiệu rằng: Đổng Trác hình như có bụng khác, phải trừ ngay đi.”

Hán Linh Đế lúc sinh thời sủng tín hoạn quan, ông đã lập ra một đội quân Tây Viên bát hiệu úy do hoạn quan làm thống lĩnh tối cao, đội quân chia thành 8 hiệu úy, các tướng như Tào Tháo, Viên Thiệu, Bào Tín… đều là hiệu uý, với nhiệm vụ chủ yếu là hộ vệ cho đế vương. Khi ấy Viên Thiệu được bổ nhiệm làm Trung quân hiệu úy nhưng sau khi các hoạn quan bị tiêu diệt thì 8 bộ hiệu úy thế lực phân tán, chỉ có danh mà không có thực. Do đó triều đình căn bản không có cách nào chống lại đội quân của Đổng Trác; Viên Thiệu và các quần thần như quan tư đồ Vương Doãn đều không dám nghe theo kiến nghị của Bào Tín, Bào Tín bèn dẫn quân bản bộ rời đi. Vì thế mà đội hiệu úy quân bên cạnh Hán Thiếu Đế càng trở nên thưa thớt, không có năng lực.

Còn về phần Đổng Trác, Trác chiêu dụ những quân bộ hạ của anh em Hà Tiến về cả tay mình rồi cùng với mưu sĩ thân cận mình là Lý Nho bàn bạc chuyện phế Hán Thiếu Đế lập Trần Lưu Vương lên làm tân đế. Lý Nho đưa ra chủ ý: “Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên làm ngay mới được, nếu để chậm sẽ sinh biến. Ngày mai nên triệu các quan hội họp ở trong vườn Ôn Minh, đem việc phế lập ra biểu dụ, ai không nghe thì chém. Nắm được uy quyền, chính ở lúc này đây.” Lý Nho kiến nghị Đổng Trác nên thừa cơ quân vương không có uy quyền mà giành quyền tự chủ, lợi dụng yến tiệc chiêu đãi rồi dùng đao kiếm bức ép các đại thần phải đồng ý chuyện phế đế, nếu ai không nghe theo sẽ bị giết. Nho – Trác muốn dùng vũ lực để thuần phục người ta.

Đinh Nguyên trượng nghĩa, vạch trần cái tâm phản nghịch của Đổng Trác

Sáng hôm sau Đổng Trác mở yến tiệc rất lớn ở vườn Ôn Minh mời các công khanh đại thần đến. Vì Đổng Trác nắm giữ trọng binh nên ai cũng sợ, không ai dám vắng mặt cả. Bước ngoặt của câu chuyện bắt đầu từ đây. Nguyên văn viết rằng:

Trác chờ các quan đến đông đủ, mới lững thững đến cửa vườn, xuống ngựa đeo gươm vào tiệc.

Rượu được vài tuần, Trác truyền lệnh dừng chén, nghỉ âm nhạc, rồi nói lớn lên rằng:

– Các quan hãy im lặng, nghe ta nói một câu chuyện: Vua là chủ tể thiên hạ, không có uy nghi không thể nào tôn phụng tôn miếu tổ tiên và cai quản xã tắc. Nay hoàng thượng nhu nhược, không bằng Trần Lưu Vương thông minh ham học, xứng đáng ngôi rồng. Vậy ý ta muốn bỏ vua Thiếu đế, lập Trần Lưu vương, các quan nghĩ sao?

Các quan nghe đoạn yên lặng nhìn nhau, không ai dám nói câu gì cả. Bỗng có một người ngồi trong yến tiệc đẩy ghế đứng dậy, nói lớn lên rằng:

– Không được! Không được! Ngươi là kẻ nào mà dám nói càn rỡ như vậy? Hoàng thượng là con cả đức Tiên đế, xưa nay không chút lầm lỗi, sao bỗng dưng dám nói bỏ người này lập người kia! Ngươi muốn phản nghịch chăng?

Trác nhìn xem mới biết người ấy là quan thứ sử Kinh Châu, tên gọi Đinh Nguyên. Trác nổi giận quát lên rằng:

– Ai theo ta thì sống, ai chống ta thì chết!

Bèn rút gươm toan chém Đinh Nguyên.

Đoạn này kể đến chuyện quan thứ sử Kinh Châu là Đinh Nguyên cũng là ngoại thần (quan ở địa phương, không phải kinh thành), nhưng dám phản bác Đổng Trác. Đinh Nguyên thẳng thắn phản đối chuyện phế đế, xếp Trác vào hàng phản nghịch. Ông đưa ra ba lý do: thứ nhất Thiếu Đế là con trưởng của tiên đế được danh chính ngôn thuận lên ngôi, thứ hai là Thiếu Đế vừa mới đăng cơ, lại cũng chưa làm chuyện gì thất đức. Với hai lý do này nếu muốn phế đế thì phải nói được vua vì sao bị phế khi đang tại vị, chẳng hạn như có vấn đề về đức hạnh hay làm gì có lỗi với tổ tông. Thứ ba đây là chuyện kinh thiên đại sự, không phải một người bình thường có thể quyết định và thực hiện được. Nếu là một vị quan đứng ra thực hiện chuyện phế đế ắt phải có tư cách tương xứng. Đây là chính kiến [1] phổ biến của những bậc trung thần. Đinh Nguyên cũng là ngoại thần, lúc trước cũng theo lệnh triệu tập của Hà Tiến dẫn binh vào kinh để giúp vua, những kiến giải của thứ sử Kinh Châu vốn mang tính phổ biến, chứng minh rằng các quân các tướng thời ấy đều hiểu được kiến giải phổ biến này trong tình huống bình thường, nhưng thời Hán mạt xuất hiện hoạn quan uy hiếp hoàng đế, lại thêm Hà Tiến ngu xuẩn cấp cơ hội cho Đổng Trác dẫn binh tiến vào kinh thành Lạc Dương, đáng tiếc là không có vị thần tử nào dám đứng ra trước mặt đám đông chỉ ra đây là những lời hàm hồ đại nghịch bất đạo, hành động phế đế này rất hiếm xảy ra ở một triều đình bình thường, cũng rất khó có thể xảy ra một việc như vậy. Thời xưa vô luận là quân vương hay thần tử đều được tiếp thụ nền giáo dục chính thống, đều đã từng học kinh thư và sử thư, đều có năng lực phán đoán cơ bản, nên cả vua và bề tôi đều không thể tùy tiện muốn gì là làm nấy.

Trường hợp của Đổng Trác, nói thẳng ra là tác giả đứng từ góc độ thiên ý muốn thay triều đổi đại mà viết, cũng chính là để nói rằng, thiên tượng dị thường [được mô tả ở đầu hồi 1], từng báo hiệu cho Hán Linh Đế, thiên ý không thể thay đổi, nhất định sẽ thu hồi quân quyền, thế nên khi con trai của Hán Linh Đế lên kế vị đã làm mất ngọc tỷ truyền quốc, bản thân Hán Thiếu Đế cũng không có quân quyền, triều Hán kết thúc đã là định số, hơn nữa thiên thượng sẽ lợi dụng ác nhân để làm việc này. Nhưng sau khi sự việc này qua đi Đổng Trác sẽ bị kết liễu cuộc đời, bị trời phạt, và đến lúc ấy thì bài đồng dao dự ngôn về Trác cũng sẽ xuất hiện. Đó là tác giả cũng đã sớm viết ra kết cục cuối cùng: ác giả ác báo.

Có thể thấy vào thời kỳ lịch sử đặc biệt, những lời cuồng vọng của một gian thần: “Ai theo ta thì sống, ai chống ta thì chết!” không phải là trào lưu chính của lịch sử, cũng không phải là trạng thái bình thường trong xã hội, chỉ bất quá là nó diễn ra trong một thời gian ngắn mà thôi. Nếu như người Trung Quốc lấy những hành vi của kẻ ác trong thời loạn thế mạt thế ấy ra để phủ định và phỉ báng văn hoá Trung Quốc trong thời kỳ lịch sử bình thường, thì chính là tự mình bêu xấu tổ tiên, đó là một sai lầm hết sức lớn.

Đinh Nguyên dù sao cũng là một ngoại thần, lời của ông đương nhiên không đủ sức nặng, nên tác giả đã mượn thêm một nhân vật nữa là thượng thư Lư Thực đức cao vọng trọng, để lập luận một cách tường tận với lý lẽ và căn cứ xác đáng, những lập luận này đại biểu cho kiến giải hiền minh của tác giả về việc một thần tử phế đế là đúng đắn hay không. Khiến cho người ta thấy được rằng trước những hiện tượng hỗn loạn, cổ nhân có thể nắm vững những cơ sở phán đoán vững chắc, từ đó kinh ngạc khâm phục trước kiến giải tinh tường sắc bén trong việc xử thế và luận chính sự của họ, khâm phục kiến thức hiền minh của họ.

Thượng thư Lư Thực bác bỏ lời lẽ sai trái

Bên cạnh Đinh Nguyên có Lữ Bố nên Lý Nho khuyên Đổng Trác dừng tay, nhờ thế Đinh Nguyên không bị giết ngay và rời khỏi yến hội. Đổng Trác thấy Đinh Nguyên đã dẫn binh về càng thêm xấc xược, Trác ép hỏi các quan văn thường ngày vẫn tham gia chính sự rằng Trác đề xướng việc phế đế có hợp lẽ không. Khi này Lư Thực xuất hiện và nói:

Ông lầm rồi! Xưa vua Thái Giáp không minh. Y Doãn lưu đày ông ta ở Đồng cung; vua Xương Ấp lên ngôi vua mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba nghìn điều ác, nên Hoắc Quang phải làm lễ cáo ở thái miếu rồi bỏ đi. Ngày nay vua dẫu còn trẻ tuổi, song vốn thông minh nhân từ, chưa có một chút lỗi lầm. Ông chẳng qua là thứ sử đường ngoài, chưa tham dự việc nước, lại không có tài lớn như Hoắc Quang, Y Doãn, sao dám cả gan bàn đến việc bỏ vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng: “Có chí như Y Doãn thì hay, bằng không có chí ấy mà làm thì là thoán nghịch!”

Những lời của thượng thư Lư Thực chính là đại biểu cho ý kiến của những bậc đại nho và những người am hiểu tri thức nhất trong triều đình, là người có tư cách nhất, thế nên lời của ông có sức thuyết phục mạnh nhất, dường như so với kiến giải của thứ sử Đinh Nguyên thì có tính chứng thực cao hơn. Ông đưa ra hai ví dụ nổi tiếng về việc thần tử phế đế trong lịch sử Trung Quốc, đưa ra lý do phế hoàng đế đang tại vị và nêu tư cách của người thực thi việc đó, cùng với lời dạy của thánh nhân, nói một cách hết sức rõ ràng. Ông nói một cách có lý lẽ có căn cứ. Vì vậy khi Lư Thực vừa dứt lời thì Đổng Trác lập tức nổi giận, rút gươm muốn giết Lư Thực. Như vậy có thể thấy rằng những lời của Lư Thực có đủ sức mạnh để bác bỏ những lời lẽ sai trái của Đổng Trác.

Thế thì hàm nghĩa của những lời ấy là gì? Và Lư Thực có thể bảo toàn được tính mạng không? Mời độc giả theo dõi tiếp phần sau để được giải thích rõ.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254815

[1] kiến giải đúng đắn, ngay chính

The post Nghĩa giải Tam quốc (11): Đổng Trác âm mưu phế đế, Lư Thực bác bỏ những lời lẽ sai trái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (10): Đồng dao vốn là dự ngônhttps://chanhkien.org/2021/10/nghia-giai-tam-quoc-10-dong-dao-von-la-du-ngon.htmlThu, 21 Oct 2021 15:42:46 +0000https://chanhkien.org/?p=28013Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Đế chẳng ra đế Vương chẳng ra vương Nghìn xe vạn ngựa Chạy ra Bắc Mang. Đây là bài đồng dao thứ nhất xuất hiện trong bộ truyện “Tam quốc” dự ngôn về vận mệnh của hai vị hoàng đế cuối cùng sau khi Hán Linh Đế băng hà. Như […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (10): Đồng dao vốn là dự ngôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Đế chẳng ra đế
Vương chẳng ra vương
Nghìn xe vạn ngựa
Chạy ra Bắc Mang.

Đây là bài đồng dao thứ nhất xuất hiện trong bộ truyện “Tam quốc” dự ngôn về vận mệnh của hai vị hoàng đế cuối cùng sau khi Hán Linh Đế băng hà. Như thể tác giả đã mượn bài đồng dao làm căn cứ để chỉ ra sự tồn tại của thiên ý, thúc đẩy câu chuyện phát triển.

Một vương một đế nhưng đều không mang mệnh đế vương

Năm Trung Bình thứ 6, tức là vào tháng 4 năm 189 SCN, Hán Linh Đế lâm trọng bệnh, do vẫn chưa lập thái tử, và ông cũng chưa lưu lại di chiếu rõ ràng về việc kế vị nên sau khi Linh Đế băng hà thì những hoạn quan nắm giữ quyền hành lúc bấy giờ đã chiểu theo di nguyện của ông lúc còn sống mà lập Lưu Hiệp, vốn là con của phi tần, lên làm hoàng đế, nhưng đích trưởng tử [1] Lưu Biện bên cạnh còn có quốc cữu Hà Tiến đang là đại tướng quân nắm giữ binh quyền quốc gia, mẹ của Lưu Biện là Hà hậu – một hoàng hậu danh chính ngôn thuận, thế nên nếu muốn để Lưu Hiệp kế vị thì phải trừ khử Hà Tiến. Bọn hoạn quan bèn lập mưu bí mật để Hà Tiến nhập cung, định thừa cơ giết Hà Tiến nhưng kế hoạch bị bại lộ, ngược lại Hà Tiến liền muốn tóm gọn giết sạch cả đám hoạn quan. Hà Tiến trước tiên thống lĩnh các quan trước linh cữu của Linh Đế để hoàng tử Lưu Biện, tức là Hán Thiếu Đế đăng cơ, sau đó báo cho mẫu thân của Thiếu Đế là Hà thái hậu rằng muốn giết hết tất cả hoạn quan, nhưng Hà thái hậu không cho phép, Hà Tiến nghe theo kiến nghị của Viên Thiệu hạ lệnh cho tướng quân bên ngoài dẫn binh sĩ đến Lạc Dương giúp Tiến trừ sạch hoạn quan.

Đó là nguyên nhân mà tướng quân bên ngoài thành – thứ sử Tây Lương Đổng Trác dẫn một đội binh mã tiến vào kinh đô Lạc Dương. Nhưng việc để ngoại tướng dẫn quân vào kinh là phương án nguy hiểm mà các bậc đế vương xưa nay đều kị nhất. Một khi để người dẫn quân vào thành thì rất có thể giang sơn sẽ bị lật đổ. Thế nên nếu không có chiếu thư của hoàng đế thì ai cũng không dám phạm vào việc cấm này, một khi làm vậy, thì ngay sau khi đội quân khởi hành liền bị phát hiện và kết tội phản nghịch, vì vậy căn bản là quân binh của ngoại tướng như Đổng Trác không có cách nào tiếp cận kinh thành. Đổng Trác dù ngang ngược đến mấy cũng không thể khinh suất xuất binh, rất khó có cơ hội uy hiếp hoàng đế và các đại thần phế Hán Thiếu Đế. Như vậy có thể nói hành vi của Hà Tiến đã cấp cho Đổng Trác một cơ hội nghìn năm khó gặp!

Dẫu cho Lư Thực, Tào Tháo và các đại thần có khuyên can thế nào thì Hà Tiến đều như bị ma xui quỷ khiến, khư khư cố chấp mà làm. Thượng thư Lư Thực thấy Hà Tiến không cùng chí hướng nên cáo lão từ quan, trong triều số người từ quan quá nửa, Đổng Trác danh chính ngôn thuận dẫn binh tiến vào kinh chuẩn bị áp chế kinh thành, bắt ép các đại thần phải nghe theo lệnh ông ta. Đồng thời cùng lúc ấy Trương Nhượng và các hoạn quan thấy tính mệnh khó bảo toàn nên liền “tiên hạ thủ vi cường” [2], lợi dụng thái hậu triệu Hà Tiến nhập cung, chúng cho đao phủ mai phục sẵn ở cửa giết Hà Tiến, sau khi Viên Thiệu và những người khác phát hiện ra thì dẫn binh tiến vào cung giết sạch hoạn quan, phóng hỏa đốt cháy cung điện, trong cung hết sức hỗn loạn.

Trong tình huống ấy, Trương Nhượng cùng bọn hoạn quan tháo chạy thoát thân, chúng bắt cóc hai anh em Hán Thiếu Đế và Trần Lưu vương Lưu Hiệp chạy đến Bắc Cung, sau khi đột phá được vòng vây, trong đêm tối, chúng một mạch chạy đến núi Bắc Mang, giữa đường nhân lúc hỗn loạn Thiếu Đế cùng Trần Lưu Vương đã tìm cách thoát khỏi bọn hoạn quan, tìm nấp vào trong bụi cỏ ở bờ sông. Thiếu Đế khi ấy mới 14 tuổi, Trần Lưu Vương thì chưa đầy 10 tuổi, hai anh em ôm nhau nuốt nước mắt chịu khổ, sương lạnh ướt áo, chịu cảnh cơ hàn khốn khổ, đến tận canh năm mới bò khỏi bờ sông, được người dân cứu giúp, sau đó được các quan và cấm quân tìm được liền hộ giá về kinh.

Trong truyện có đoạn viết thế này: Trước đây ít lâu, trẻ con ở kinh thành Lạc Dương thường hát mấy câu sau: “Đế chẳng ra đế, Vương chẳng ra vương, Nghìn xe vạn ngựa, Chạy ra Bắc Mang” . Đến bây giờ quả là ứng nghiệm. Sấm chính là dự ngôn, thực sự đã ứng nghiệm dự ngôn của bài đồng dao ấy.

Có thể thấy trước khi sự kiện phát sinh thì bài đồng dao ở thành Lạc Dương đã đưa ra lời dự đoán trước rồi, nhưng không ai hiểu được điều ấy là gì, mãi cho đến khi việc xảy ra rồi thì người ta mới bỗng nhiên tỉnh ngộ. Nguyên ban đầu ý của bài đồng dao nói rằng đế chẳng giống đế, vương chẳng giống vương, khi các quần thần và tướng sĩ đi tìm hai vị đế vương bị bắt cóc, nghìn xe vạn ngựa đi tìm khắp bốn phía, cuối cùng chạy đến núi Bắc Mang.

Sau khi về cung mọi người lại phát hiện ngọc tỷ – tượng trưng cho quyền uy chính thống của bậc đế vương – đã biến đâu mất. Có 1 điều thú vị nữa là trong bài đồng dao đã dự ngôn rằng Lưu Biện sẽ mất đế vị, Lưu Hiệp sẽ trở thành hoàng đế cuối cùng của nhà Hán, nhưng dù ai là hoàng đế đi chăng nữa thì trong số đã định rằng hoàng đế ấy sẽ chỉ có danh mà không có thực, không có quyền hành của một hoàng đế thực thụ. Thế nên đồng dao mới viết: “Đế chẳng ra đế, Vương chẳng ra vương”. Sau khi lịch sử đã qua rồi người ta mới nhận ra điều đó.

Có thể rất nhiều người sẽ cảm thấy kỳ lạ, rằng bài đồng dao ấy chẳng phải do trẻ con hát sao? Tại sao đồng dao lại trở thành dự ngôn được? Kỳ thực từ thời nhà Chu đã có sử quan đặt định nghĩa cho đồng dao, so với hàm nghĩa của ngày nay hoàn toàn khác hẳn.

Đồng dao vốn là dự ngôn, dùng để cảnh báo cho vua và dân, là nói về tương lai Trong truyện Đông Chu Liệt Quốc có đoạn: “Thượng thiên muốn cảnh cáo quân vương, lệnh cho sao Huỳnh Hoặc, tức Hỏa Tinh, (thời cổ đại cho là không lành) hóa thành đứa trẻ, tạo ra lời đồn, rồi dạy cho đám trẻ tập hát, đó chính là đồng dao”. Đây là lời giải thích của quan Thái sử nhà Đông Chu là Bá Dương Phụ. Thời xưa đồng dao gọi là sấm dao, sấm chính là cái mà ngày nay người ta gọi là dự ngôn, người xưa tin rằng những bài ca dao do con nít hát truyền ra nhưng tìm không được nguồn gốc (tác giả) thì chính là thiên ý, đồng dao là để dự đoán tương lai và những tai họa sắp xảy ra.

Theo lời của sử quan nhà Đông Chu thì rõ ràng đồng dao là được Huỳnh Hoặc tinh (sao huỳnh hoặc) từ thiên thượng truyền ra, mục đích chủ yếu của đồng dao là để cảnh báo các vị quân vương ở nhân gian cần quy chính đức hạnh, nếu không trời sẽ giáng tai họa, con người sẽ không có cách nào tránh thoát được. Hàm nghĩa của từ đồng dao thời ấy khác xa so với cách hiểu của chúng ta ngày nay. Vừa là cảnh báo các vị quân vương, vừa mang theo năng lực thần bí thay trời dự đoán về tương lai của những sự việc sẽ phát sinh trên nhân gian và vận mệnh của con người. Rất hiển nhiên lời lẽ của các đồng dao phần nhiều nói về tai họa, nhưng nói rất không rõ ràng. Còn riêng đồng dao của thời Hán mạt đã xuất hiện tổng cộng 8 lần trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa”, và những lời ấy lần lượt ứng nghiệm khiến người ta không khỏi giật mình thất sắc.

Câu hát “Đế chẳng ra đế, Vương chẳng ra vương, Xe xe ngựa ngựa, Chạy ra Bắc Mang” có từ năm cuối cùng của vua Hán Linh Đế. Câu đồng dao này trong sách Hậu Hán thư có ghi chép, thực ra thì một nửa những bài đồng dao trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa” đều có ghi chép trong sử thư, ví như bài đồng dao mà có lẽ mọi người đều rất quen thuộc, dự ngôn về việc Đổng Trác bị giết sau khi ông ta phế Hán Thiếu Đế: “Cỏ ngàn dặm, xanh được sao? Trong mười ngày, không được sống”. (Thiên lý thảo, hà thanh thanh! Thập nhật bốc, bất đắc sinh). Đó là một ví dụ. Trong sách Hậu Hán thư giải thích rằng: thiên lý thảo (千里草) ghép thành chữ ‘Đổng’ (董), thập nhật bốc (十日卜) ghép thành chữ ‘Trác’ (卓). Sử thư nhìn nhận rằng Đổng Trác từ hèn mọn leo lên cao, dùng phận bề tôi mà chèn ép vua, “thanh thanh” ý là mọc lên nhanh chóng mãnh liệt, “bất đắc sinh” nghĩa là chết nhanh chóng, cuối cùng rơi vào kết cục bi thảm. Thực tế thì thoạt nhìn Đổng Trác là đương có quyền có thế nhưng rất nhanh thôi sẽ bị tiêu diệt, chết vì bị giết.

Chúng ta có thể thấy rằng sử thư của Trung Quốc cổ đại đã ghi lại một cách rõ ràng rằng thiên ý là có tồn tại chứ tuyệt không phải là tiểu thuyết hư cấu. Đồng thời sách sử xưa cũng biểu đạt rõ ràng rằng đồng dao không chỉ cảnh báo đến bậc đế vương mà còn cảnh báo cả người làm quan, rằng nếu làm bề tôi mà bất nghĩa thì sẽ phải chịu ác báo. Tác giả đã mượn lịch sử quan văn hóa Thần truyền như vậy để tạo dựng bố cục và thúc đẩy diễn biến của các câu chuyện trong Tam Quốc. Tác giả muốn biểu đạt rõ ràng rằng, nghĩa lý không phải là hình thành tự nhiên, mà là do Thần truyền và do Thiên định. Chính là thông qua câu chuyện mà quy phạm chuẩn tắc và hành vi đạo đức của con người. Nếu ai mà đi ngược với nhân nghĩa và đạo lý ấy thì nhất định sẽ bị trời trừng phạt.

Xem “Tam quốc diễn nghĩa” mà hiểu được “Hồng Lâu Mộng”

Kỳ thực không chỉ là truyện “Tam quốc diễn nghĩa” là đứng từ góc độ văn hóa Thần truyền để xây dựng kết cấu câu chuyện, mà tứ đại danh tác [3] đều như thế. Khi chúng ta đọc đến hồi thứ nhất của nguyên tác thì đều thấy tác giả đã viết rất rõ về sự an bài của thiên ý, thấy được những câu chuyện xảy ra ở thế gian là liên quan mật thiết đến thiên thượng, chỉ bất quá là chủ đề khác nhau mà thôi.

Ví như truyện “Hồng lâu mộng” cũng là dùng hình thức viết sách để truyền tải đạo lý, nhưng điều truyền đạt là cái lý khuyên con người nhìn thấu giả tướng như mộng huyễn của thế gian, khuyến con người ngộ đạo tu đạo. Để người đọc dựa vào quá trình Bảo Ngọc hiểu ra vận mệnh đã định của các chị em xung quanh mình, mà nhìn thấu được danh lợi tình, hiểu được đời người chính là vở kịch lớn mà ông trời đã định sẵn. Câu chuyện cũng thức tỉnh con người nên mau chóng ngộ đạo mà thoát khỏi bể khổ. Ngay tại hồi đầu tiên đã viết rõ lai lịch nhân vật trong truyện – nguyên vốn là một hòn đá mà Nữ Oa vá trời còn dư, đây là câu chuyện về chuyến hạ phàm của hòn đá.

Hòn đá ấy chính là Giả Bảo Ngọc ở nhân gian, vì ái mộ nhân gian mà khẩn cầu cao tăng và đạo nhân (vốn là hai vị Thần hóa thành) giúp cậu ta chuyển sinh hạ phàm, sau khi kết thúc chuyến du ngoạn nhân gian sẽ trở về đỉnh Thanh Ngạnh Phong, lại đem những việc mà bản thân đã trải qua ở nhân gian khắc lên thân mình, hy vọng gặp được người hữu duyên đem những câu chuyện mà cậu ta trải qua viết ra truyền cho con người, để không uổng công cậu hạ phàm xuống nhân gian. Kết quả đợi đến khi có Không Không đạo nhân đi cầu đạo ngang qua, nghe được câu chuyện của hòn đá bèn đem viết ra mang đến nhân gian. Đó là lai lịch của câu chuyện.

Mà vị Không Không đạo nhân này lại nhờ xem xong bộ truyện mà nhìn thấu được vận mệnh và nhân duyên của con người ở thế gian, hiểu được ái tình của hồng trần, giữa người với người bất kể là mối quan hệ gì cũng chỉ là có ân trả ân, có nợ trả nợ, duyên hết rồi thì đường ai nấy đi, đạo nhân vì vậy mà ngộ đạo đắc đạo. Điều này có ý là, tác giả bảo mọi người rằng khi xem và hiểu được bộ truyện thì đã tính là ngộ đạo. Bộ truyện tuyệt không phải viết về bi kịch của ái tình. Lâm Đại Ngọc vì để hoàn trả ơn tưới nước cam lồ của Giả Bảo Ngọc khi còn ở trên thiên thượng mà cùng hòn đá hạ phàm, thế nên cả đời của Lâm Đại Ngọc đều là nước mắt, cả đời không có việc gì được như ý. Mục đích của tác giả là thông qua những sự việc mà Giả Bảo Ngọc trải qua khi hạ phàm, hiểu được vận mệnh đã được định sẵn của các chị em xung quanh, mà cuối cùng ngộ đạo. Trong mắt tác giả, Bảo Ngọc chính là muôn vàn người chấp vào cái mê của nhân gian, thực ra mọi người đều đến từ thiên thượng, nếu như mê ở chốn này sẽ phải chịu đủ cái khổ của luân hồi, thực sự là bể khổ vô bờ!

Thế nên khi chúng ta đọc tiểu thuyết xưa thì nhất định phải hiểu được phần mở màn của câu chuyện, toàn bộ bộ truyện thường sẽ thể hiện ra thiên ý, định số, ý chí và dấu ấn của Thần Phật, mở ra ý cảnh cho người đọc, cho người đọc cảm thấy thần bí khó đoán. Các tác giả của tứ đại danh tác đều là dùng truyện mà truyền tải đạo lý, khuyên bảo con người nên tu đạo để sớm ngày ngộ đạo hoặc là làm người cần trọng đức hành thiện, sống cần phải tuân theo nghĩa lý. Truyền đạt những lý niệm này vốn là hai mục đích lớn mà lịch sử của Thần châu (Trung Quốc) muốn đạt được, cũng là trách nhiệm căn bản của người đọc sách thời xưa. Vậy nên việc những tiểu thuyết này trở thành danh tác đều không phải là ngẫu nhiên. Còn trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa”, sau khi hai vị đế vương gặp nạn thì Đổng Trác tiến vào kinh thành và thừa cơ khống chế triều đình, Trác không những không khởi được tác dụng mà Hà Tiến mong muốn, ngược lại còn phế truất cả Hán Thiếu Đế.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254804

[1] Đích trưởng tử: con trưởng của chính thê

[2] Tiên hạ thủ vi cường: ra tay trước thì chiếm được lợi thế

[3] Tứ đại danh tác gồm: Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa, Hồng Lâu Mộng và Tây Du Ký

The post Nghĩa giải Tam quốc (10): Đồng dao vốn là dự ngôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (9): Dùng sách truyền Đạo, giải mê cho ngườihttps://chanhkien.org/2021/09/nghia-giai-tam-quoc-9-dung-sach-truyen-dao-giai-me-cho-nguoi.htmlFri, 03 Sep 2021 14:24:47 +0000https://chanhkien.org/?p=27830Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Thiên kinh địa nghĩa: Trời chỉ đạo, đất diễn nghĩa Thời xưa, Đạo làm người giảng về “thiên kinh địa nghĩa” không chỉ có ý là cần phải phù hợp với Thiên lý và nhân đạo (đạo của con người), kỳ thực trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa” còn chỉ […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (9): Dùng sách truyền Đạo, giải mê cho người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Thiên kinh địa nghĩa: Trời chỉ đạo, đất diễn nghĩa

Thời xưa, Đạo làm người giảng về “thiên kinh địa nghĩa” không chỉ có ý là cần phải phù hợp với Thiên lý và nhân đạo (đạo của con người), kỳ thực trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa” còn chỉ ra nội hàm ở một tầng thâm sâu hơn của “thiên kinh địa nghĩa”; sự thay triều đổi đại chính là Trời đang chỉ đạo [1], Đất đang diễn nghĩa.

Vì thế câu “thiên kinh địa nghĩa” vừa chỉ tiêu chuẩn đạo đức, vừa thể hiện vũ trụ quan thiên nhân hợp nhất. Hiểu được thiên tượng, thuận theo thiên ý, hợp với nhân đạo, đó mới thực sự là nội hàm của câu nói này, và từ đó có thể hiểu được vì sao người xưa giảng “tận nhân sự, thính thiên mệnh”, “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Họ sống một cách kiên định không hối tiếc, mang tấm lòng khoáng đạt và thản đãng.

Chữ kinh có ý chỉ kinh sách, trong đó có kinh sách của Nho gia, Đạo gia và Phật gia. Đạo lý mà Nho gia giảng chính là đạo lý ở tầng làm người, nhưng là những nghĩa lý mà Thần truyền cấp cho con người. Vậy nên dù là để tu Đạo hay tu Phật hay để làm người thì đó là những đạo lý mà Trời truyền dạy. Do vậy nếu có thể chiểu theo “Thiên kinh Địa nghĩa”  thì có thể đạt đến Thiên nhân hợp nhất.

Ngày nay người ta hay nói về kinh tế xã hội, về kinh doanh, kỳ thực trong hai chữ “kinh doanh” có chứa đựng thiên cơ, cần lấy kinh, tức là những đạo lý, đạo nghĩa bất biến được Thần truyền cấp cho con người để chỉ đạo và vận hành doanh nghiệp, như vậy sẽ thật sự đạt được đạo kinh doanh “thiên kinh địa nghĩa”, công việc làm ăn mới có thể càng ngày càng tốt đẹp, càng ngày càng thuận lợi. Dùng đạo nghĩa để thực hiện những hoạt động ý nghĩa cho xã hội, đó thực sự là kinh tế [2] xã hội chân chính. Vận hành văn hóa doanh nghiệp được như vậy chính là việc làm công đức vô lượng, nhất định sẽ được trời cao phù hộ. Khi ấy tiền tài của doanh nghiệp không phải là để thỏa mãn mục đích cá nhân, mà nó thuộc về toàn bộ doanh nghiệp hay lớn hơn nữa là thuộc về toàn bộ xã hội, chúng ta sử dụng số tiền ấy để vận hành kinh doanh và có những đóng góp đối với xã hội. Người chủ doanh nghiệp càng có tâm khoáng đạt rộng rãi vô tư bao nhiêu thì càng có tầm nhìn cao bấy nhiêu, doanh nghiệp càng phát triển lớn bấy nhiêu. Trong công việc luôn tận lực mà làm, kết quả dù thành hay bại, đi hay ở, thì lại có một tâm thái hết sức khoáng đạt. Nếu theo cách đó mà làm người thì thân tuy bận nhưng tâm lại an.

Đương nhiên truyện “Tam quốc diễn nghĩa” đứng từ góc độ thiên kinh rồi mới giảng địa nghĩa, tức là cần phải dựa vào thiên tượng, các dự ngôn và những câu chuyện cụ thể khác nhau để giải thích ý nghĩa thực chất của lịch sử Tam quốc – chứ không phải chỉ là kể một cách khái quát về thời gian, địa điểm, cá nhân nào đó, sự việc gì đó, kết quả ra sao – mà tác giả sẽ để những thiên tượng và dự ngôn đóng vai trò như một đạo diễn biến hóa ẩn hiện trong bộ truyện “Tam quốc”, đồng thời cũng phản ánh hết thảy những suy nghĩ của các nhân vật chính, khiến bạn cảm thấy có sự tồn tại của “đạo diễn”, và tác giả cũng đồng thời triển hiện cụ thể những nguyên tắc và phương thức suy xét vấn đề của người xưa, người xưa khi phải đối diện vấn đề thì suy xét như thế nào, dùng tiêu chuẩn nào để xử thế và lựa chọn tiến hay lùi, tất cả đều được chỉ ra một cách rất cụ thể. Đây một phần ưu điểm của truyện mà sử sách không cách nào biểu đạt được.

Từ đó có thể thấy rằng, phần mở đầu tác giả mô tả bối cảnh triều mạt Hán thời vua Hán Linh Đế, hoạn quan loạn quyền; với một lượng câu chữ nhất định tác giả đã mô tả những thiên tượng không lành và các tai nạn biến hóa, đó là thiên ý đang cảnh cáo, quân thần nhà Hán thất đức ắt sẽ bị tiêu diệt, cục diện tam quốc bắt đầu, thế gian xuất hiện Trương Giác dấy binh nổi loạn, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi nhờ việc triều đình chiêu mộ nghĩa binh mà hội ngộ, những nhân vật chính xuất hiện diễn lưu câu chuyện kết nghĩa đào viên. Câu chuyện này chủ yếu nói rằng, khi đất nước lâm nguy thì trang nam tử cần suy xét và hành động như thế nào, có câu của Trương Phi hỏi Lưu Bị rằng: “Đại trượng phu không ra giúp nước, sao lại đứng đó thở dài?”. Nghĩa là, trước cảnh đất nước nguy nan, nguyên tắc suy xét cách làm người của trang nam tử thời xưa là: “ra giúp nước”. Đó là cái nghĩa của trang nam tử thời xưa. Đây cũng chính là thụ ích của việc đọc sách; hiểu được nghĩa lý trong đó. Câu nói “quốc gia hữu nạn thất phu hữu trách” (khi quốc gia gặp nạn thì kẻ thất phu cũng phải có trách nhiệm) chính là tư tưởng được truyền thừa trong đạo nghĩa luân lý truyền thống của chúng ta. Vậy nên người xưa có thể đạt được trạng thái gặp chuyện không hốt hoảng, tỉnh táo minh bạch, khi đối diện với những lựa chọn của đời người như sinh tử và thủ nghĩa thì không mơ hồ, không hối tiếc. Trong loạn thế, nếu lấy nghĩa làm nguyên tắc, thì có thể thể hiện ra một cách rõ ràng rằng, sự giao tranh và lựa chọn giữa thiện – ác, chính – tà là khó tránh khỏi, kể cả nhân vật phụ diện cũng không tránh được vấn đề này… bộ truyện đã thể hiện được một cách chi tiết và sống động như vậy.

Truyện “Tam quốc diễn nghĩa”: dùng sách truyền Đạo, giải mê cho người

Khi viết truyện “Tam quốc”, tác giả La Quán Trung đã lấy trời làm đạo diễn, lấy nghĩa làm nguyên tắc, lấy phương thức tiểu thuyết để truyền tải đạo lý giáo hóa thế nhân và giúp phá giải những nghi hoặc trong lòng người. Hoàn thành trách nhiệm của một người thầy. La Quán Trung đã cống hiến cho văn hóa nhân loại một bộ sách giáo khoa xuất chúng, là bộ sách dạy Đạo làm người là như thế nào. Đó là nguyên nhân vì sao ở Trung Quốc, nội dung giảng bài của người thầy được gọi là “giảng nghĩa”. Điều mà chúng ta nên giảng chính là cái “nghĩa” này, đó là điều căn bản nhất. Tuy nhiên nội dung này đã không còn có trong sách giáo khoa ngày nay.

Việc giáo dục của người xưa lấy việc truyền tải đạo lý làm căn bản, chức trách của người thầy là truyền dạy đạo lý, dạy trò đạo lý nên làm người như thế nào, để đạt được mục đích ấy mà mở lớp chiêu sinh. Khi gặp vấn đề thực tế thì thầy sẽ phải dạy trò cách vận dụng những đạo lý đã được học để phán đoán đúng sai như thế nào, khi xử lý vấn đề cụ thể thì phải đưa ra được quyết định và lựa chọn. Năm xưa Khổng Tử dẫn đệ tử đi chu du các nước cũng là quá trình không ngừng giải đáp các vấn đề cho đệ tử, chính là quá trình truyền Đạo, cũng là quá trình không ngừng phá giải nghi hoặc khi đệ tử gặp phải những vấn đề khác nhau. Đó là giáo dục của thời xưa. Vì thế truyện “Tam quốc diễn nghĩa” cũng thông qua các nhân vật và sự kiện khác nhau để giải đáp những vấn đề nan giải của kiếp nhân sinh. Cũng chính là phá giải chỗ mê cho con người.

Ví như bậc quân vương cần coi trọng nhân nghĩa; khi đối phương đầu hàng thì có chấp thuận ngay không, cần quyết định ra sao; khi gặp các việc như Đổng Trác cầm quân, vô cớ bức ép các đại thần phế bỏ đế vương, thì nhận định đúng sai thế nào, lấy gì làm tiêu chuẩn; khi Lưu Bị không nỡ chiếm đoạt cơ nghiệp của người cùng tổ tiên, thì cuối cùng dưới sự giáo đạo của quân sư Bàng Thống thì đã thực nghịch thủ thuận thủ [3] như thế nào? Khi trung hiếu không thể vẹn toàn, cần bỏ tối chọn sáng, và nếu chỉ chú trọng hiếu đạo thì có đúng không? Câu chuyện “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” (Quan Vũ thân ở Tào doanh nhưng lòng vẫn hướng về Hán thất) chính là giảng giải vấn đề này, nếu hiểu được câu chuyện này sẽ hiểu được phương thức tư duy của cổ nhân, và minh bạch được rằng thời xưa sẽ không xuất hiện lựa chọn “khi mẹ và vợ cùng rơi xuống nước thì nên cứu ai trước”, và họ cũng sẽ minh bạch được rằng nữ tử thời xưa khi làm vợ đều thông hiểu đại nghĩa, tuyệt không phải là đối tượng bị ức hiếp, rất nhiều nữ nhân thời xưa đều minh tỏ đại nghĩa, khuyên chồng trọng đạo, kiến thức của họ thậm chí vượt cả nam tử, khiến người ta phải kính ngưỡng, về điều này được mô tả ở rất nhiều đoạn trong “Tam quốc diễn nghĩa”; từng trường hợp cụ thể nên vận dụng nghĩa lý để xử lý vấn đề ra sao, đều được tác giả La Quán Trung viết ra rõ ràng.

Khi hiểu được bộ truyện “Tam quốc diễn nghĩa” thì dù là nam hay nữ đều có thể sống một cuộc đời chính nghĩa thản đãng, minh bạch quyết đoán. Đối với giáo dục, pháp luật ngày nay cũng như các vấn đề loạn tượng của xã hội đều có thể hiểu được gốc rễ, và có những kiến giải rõ ràng minh xác. Trong nền văn hóa 5000 năm của Trung Hoa, cả thời thịnh thế và thời loạn thế đều tuần hoàn diễn lại việc nhân loại vì sao xuất hiện các vấn đề, khi xuất hiện rồi thì nên giải quyết như thế nào, nên lấy gì làm tiêu chuẩn, từ lâu [Thần] đã đưa ra đáp án cho nhân loại ở các tầng khác nhau. Nếu như học sinh có thể tiếp thụ nền giáo dục từ thời xưa truyền lại, hiểu được đạo nghĩa luân lý truyền thống, thì tự nhiên sẽ biết xử lý vấn đề gia đình và vấn đề đất nước ra sao. Đối với những vấn đề hỗn loạn của xã hội ngày nay cũng có thể nhìn một cái liền thấu tỏ. Và người ta sẽ sống một cách đường đường chính chính, minh bạch tỏ tường.

Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi trong quá trình giải nghĩa “Tam quốc” sẽ lần lượt trình bày với mọi người phương thức tư duy của cổ nhân.

Khi đã hiểu được mục đích thuận theo thiên ý mà truyền đạo nghĩa cho con người của tác giả thì sau đó chúng ta sẽ nói tiếp nối nội dung phần trước. Trong bài trước đã kể đến đoạn Hán Linh Đế sẽ nhanh chóng băng hà, cục diện quần hùng xuất hiện, thiên hạ vô chủ, trong quá trình ấy tác giả đã viết rất chi tiết, liên quan đến hai sự việc lớn, một là tân đế phải chịu nạn ban đêm phải chạy đến núi Bắc Mang, làm mất ngọc tỷ truyền quốc, đế vị chỉ có danh mà không có thực, một nữa là việc Đổng Trác tiến kinh khống chế kinh thành bức ép phế Hán Thiếu Đế lập Hán Hiến Đế, quá trình này thì bài đồng dao mà trẻ con ở thành Lạc Dương hát chính là dự ngôn, tuyên cáo rằng hoàng đế đời cuối “đế mà không phải đế, vương mà không phải vương”, hơn nữa đã triển hiện ra được ý kiến chính trực rằng là một thần tử thì nên thực thi đạo của bề tôi ra sao. Trong câu chuyện, cả thiên ý lẫn đạo nghĩa làm người đều được triển hiện rõ nét.

[1] chỉ đạo: bản gốc là “kinh doanh”, từ này có một nghĩa là điều hành, ở đây tạm dịch là chỉ đạo

[2] Kinh tế: chữ kinh như trong chữ kinh sách, chữ “tế” trong cứu tế. Nếu hiểu theo bề mặt chữ, thì kinh tế có thể hiểu là chiểu theo đạo nghĩa kinh sách mà cứu tế.

[3] 逆取顺守 Nghịch thủ thuận thủ: tạm dịch là khi giành thiên hạ thì phải đi ngược đạo lý trung thần, còn khi cai trị thiên hạ thì phải tuân theo chính đạo.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254545

(còn tiếp)

The post Nghĩa giải Tam quốc (9): Dùng sách truyền Đạo, giải mê cho người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (8): Hai mục đích lớn đằng sau việc Trương Phi đánh đốc bưuhttps://chanhkien.org/2021/08/nghia-giai-tam-quoc-8-hai-muc-dich-lon-dang-sau-viec-truong-phi-danh-doc-buu.htmlMon, 30 Aug 2021 14:42:44 +0000https://chanhkien.org/?p=27810Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Trương Phi đánh quan đốc bưu là một câu chuyện kinh điển nằm ở hồi thứ 2 của truyện “Tam quốc diễn nghĩa”. Chuyện đánh đốc bưu này không phải được viết nhằm lột tả phẩm chất chính trực, trượng nghĩa dám vì dân trừ hại của Trương Phi, mà […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (8): Hai mục đích lớn đằng sau việc Trương Phi đánh đốc bưu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Trương Phi đánh quan đốc bưu là một câu chuyện kinh điển nằm ở hồi thứ 2 của truyện “Tam quốc diễn nghĩa”. Chuyện đánh đốc bưu này không phải được viết nhằm lột tả phẩm chất chính trực, trượng nghĩa dám vì dân trừ hại của Trương Phi, mà là để miêu tả một cách tường tận màn kịch điển hình “thập thường thị” xảy ra vào thời Hán Linh Đế: 10 tên hoạn quan thao túng triều chính ngang nhiên muốn gì làm nấy, dối vua lừa trên, rắp tâm mưu hại và loại trừ đi những trung thần lương tướng của triều đình. Và mục đích của câu chuyện cũng tuyệt không phải để vạch trần hiện thực u tối, mà là để nói lên rằng nhà Hán thời mạt thế vì vậy sẽ rất nhanh đi theo xu hướng bị phân rã, anh hùng khắp nơi sẽ nổi lên.

Đốc bưu là chức quan gì?

Để nói rõ câu chuyện này trước tiên chúng ta cần tìm hiểu kỹ đốc bưu rốt cục là người như thế nào. Đây chỉ là một chức quan dưới quyền Thái thú các quận quốc thời Hán triều. Về lý thì là một chức quan không lớn nhưng lại có quyền giám sát, buộc tội quan lại các huyện. Bọn họ đảm nhận việc thay thái thú tuần tra các huyện nội, kiểm tra xem quan viên các nơi có làm tốt ở chức vị của mình hay không, đốc bưu nắm giữ và kiểm soát hình ngục, giám sát tư pháp. Mỗi quận chia ra thành nhiều bộ, mỗi bộ thiết lập một chức đốc bưu (ví dụ như Tây bộ đốc bưu, Đông bộ đốc bưu…). Đến thời Hán Linh Đế thì những đốc bưu này đều là tay sai của “thập thường thị”. Bọn chúng lợi dụng chức quyền uy hiếp quan viên các huyện, nhận hối lộ, ức hiếp người lương thiện.

Lưu Bị thực hiện lời thề, không tơ hào một đồng của dân

Trong truyện viết rằng Lưu Bị đến An Hỷ làm chức quan suốt một tháng, không tơ hào của dân một chút gì, nên ai nấy đều cảm phục. Lưu Bị nhận chức huyện uý phụ trách việc trị an, tương đương với chức cảnh sát trưởng ngày nay. Quan Vũ và Trương Phi ở bên cạnh Lưu Bị, ba người cùng ăn cùng ở, khi Lưu Bị ngồi chỗ đông người thì Quan, Trương đứng hầu hai bên, cả ngày không biết mỏi. Có thể thấy Quan Vũ và Trương Phi cùng theo Lưu Bị phụ trách việc trị an của huyện, làm việc cần cù chăm chỉ, không lợi dụng chức quyền để ức hiếp bách tính, vơ vét của dân. Họ đã thực sự thực hiện lời thề “trên báo đền nợ nước, dưới yên định muôn dân” khi kết nghĩa đào viên, đây là những ví dụ điển hình cho bề tôi trung nghĩa, tận trung với nước. Lê dân bách tính vì thế mà vô cùng cảm phục họ.

Đốc bưu vu oan Lưu Bị nhận tham ô hối lộ

Lưu Bị làm quan chưa đến bốn tháng thì triều đình bỗng dưng hạ chỉ: phàm những ai tiêu diệt giặc Khăn Vàng lập công được phong chức quan cao cấp ở các huyện đều bị thu hồi quan chức, gạt tên, sa thải. Thực ra chiếu chỉ này là kết quả của việc bọn hoạn quan “thập thường thị” che mắt hoàng đế mà làm ra. Chức quan trong triều đình là phương thức làm giàu của bọn chúng, ai mà không có nhiều tiền để đút lót thì nghiễm nhiên sẽ thành cái gai trong mắt bọn chúng. Thế nên, việc Lưu Bị nhờ lập công trạng mà được chức quan, lại không đưa hối lộ thì trong mắt chúng sẽ thành đối tượng bị loại trừ. Chúng tuyệt đối sẽ không để ai không giao nộp tiền lại ngồi yên làm quan, đó là nhảy khỏi bàn tay thao túng của chúng. Do đó, những móng vuốt ma quỷ của lũ hoạn quan sẽ vươn về phía các quan lại cấp huyện, Lưu Bị cũng vì thế mà chịu nạn.

Đốc bưu phụng mệnh thái thú đến chỗ huyện đường của Lưu Bị làm công việc gọi là tiến hành khảo sát. Lưu Bị vái chào cung kính nhưng đốc bưu lại thể hiện thái độ hết sức ngạo mạn, vô lễ. Khi đến dịch quán, viên đốc bưu lại ngoảnh mặt hướng nam ngồi cao ngất ngưởng, để Lưu Bị đứng hầu ở dưới thềm, bộ mặt hắn ra vẻ không coi ai ra gì, nhìn người mà như không thấy. Đốc bưu hồi lâu mới mở miệng, vừa mở miệng đã hỏi đến xuất thân. Lưu Bị đáp: “Tôi dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương, từ khi tiêu diệt giặc Khăn Vàng ở Trác Quận, đã đánh hơn ba mươi trận đánh lớn nhỏ, có chút công lao, nên được chức quan này”. Câu vừa nói dứt, viên đốc bưu liền hét lớn lên rằng: “Mi giả mạo hoàng thân, báo càn công trạng. Hiện nay triều đình xuống chiếu, chính là để thải bớt những bọn tham quan, ô lại như mi đó!”

Lưu Bị trở về huyện đường cùng các quan lại khác bàn tính lại chuyện này. Mọi người đều cho rằng đốc bưu làm dữ chẳng qua chỉ muốn của đút lót hối lộ. Nhưng Lưu Bị đã cự tuyệt chuyện đút lót.

Ngày hôm sau, đốc bưu cho bắt các quan dưới trướng Lưu Bị lại, bức ép họ phải làm chứng là Lưu bị hại dân, để hãm hại Lưu Bị. Lưu Bị mấy lần đến cầu kiến đốc bưu đòi ông ta thả người nhưng đều bị quân canh cửa chặn lại.

Bách tính bị đánh, Trương Phi trừ hại

Bách tính nghe nói đốc bưu định làm hại Lưu Bị nên vội đến dịch quán giúp đỡ Lưu bị nhưng lại bị quân gác cửa đánh đuổi đi. Trương Phi cưỡi ngựa đi ngang qua dịch quán thấy bốn, năm mươi ông già đang than khóc ở trước cửa. Trương Phi hỏi rõ nguyên do biết được rằng viên đốc bưu vì muốn đạt được mục đích là tiền hối lộ mà bắt bớ quan lại, chèn ép bách tính, thì liền nổi cơn thịnh nộ nhảy ngay xuống ngựa chạy thẳng vào dịch quán, quân canh cửa không tài nào cản lại được. Trương Phi chạy thẳng vào hậu đường thấy viên đốc bưu đang ngồi chễm chệ trên sảnh còn các quan trong huyện bị trói ở dưới đất. Trương Phi hét lớn: “Thằng mọt dân kia! Có biết ta là ai không?” Vừa nói dứt, liền túm tóc viên đốc bưu lôi tuột ra khỏi dịch quán, lôi đến chỗ cọc buộc ngựa ở trước huyện rồi trói lại, bẻ cành liễu quất thật lực, đánh gãy luôn đến mười mấy cành liễu. Ông muốn vì dân trừ hại.

Lưu Bị nghe tiếng xôn xao hỏi ra mới biết Trương Phi đánh đốc bưu đã hết sức kinh ngạc, bảo Trương Phi dừng lại, đốc bưu nhờ thế mà giữ được cái mạng hèn. Quan Vũ khuyên Lưu Bị chi bằng giết tên tham quan, bỏ chức huyện uý nhỏ bé về mưu tính việc lớn. Lưu Bị nhân từ không nỡ giết, đem cái ấn treo vào cổ viên đốc bưu cảnh cáo hắn rằng đây là vì dân trừ hại, lần này tạm tha mạng cho hắn, nói xong từ quan. Đốc bưu sau khi trở về đã tố giác Lưu Bị với quan thái thú Định Châu. Thái thú bèn phái người đi bắt anh em Lưu Bị. Thấy thế, Lưu Bị dẫn Quan Vũ và Trương Phi sang Đại Châu (vùng Sơn Đông ngày nay) nương nhờ chỗ thái thú Lưu Khôi. Lưu Khôi thấy Lưu Bị là tôn thất nhà Hán bèn cứu giúp, giấu Lưu Bị ở trong nhà.

Trên đây đã kể lại toàn bộ câu chuyện Trương Phi nổi giận đánh đốc bưu. Câu chuyện này đã triển hiện cho độc giả một cách rất rõ ràng về ba nhân vật Lưu, Quan, Trương trung nghĩa chính trực yêu dân như con, không cùng một giuộc với bọn tham quan. Đồng thời cũng lột tả hết sức chân thực bọn “thập thường thị” với hành vi xấu ác đáng ghê tởm hãm hại trung thần, chèn ép bách tính, ngang nhiên muốn gì làm nấy. Mục đích của câu chuyện cũng để báo hiệu rằng thời Hán mạt, hoạn quan làm loạn triều chính đã đến mức không thể vãn hồi được nữa.

Thế nên, ngay sau đó trong truyện đã khái quát về chuyện “thập thường thị” nắm giữ trọng quyền, chuyển mục tiêu loại trừ của chúng sang những tướng quân nhờ lập công tiêu diệt giặc Khăn Vàng mà được phong quan. Chúng sai người đến đòi các tướng sĩ có công phá giặc Khăn Vàng ngày trước phải dâng cho chúng vàng bạc mới được làm quan, nếu không thì tâu lên hoàng đế xin hạ chiếu bãi chức. Những danh tướng như Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn cũng theo Lưu Bị, không chịu đút lót. Hán Linh Đế nghe theo điều xằng bậy bãi hết chức của những vị công thần này. Không những vậy, vua còn phong cho những tên hoạn quan hãm hại trung thần làm tướng quân, đám 13 tên hoạn quan của Trương Nhượng không có công lao mà lại được hưởng lộc, phong tước hầu. Triều chính mỗi ngày một suy đồi, nhân dân ai oán khắp nơi. Những chỗ như Trường Sa, Ngư Dương dấy lên việc nổi loạn tạo phản. Những tờ biểu cáo cấp gửi về triều đình nhiều như lá rụng mùa thu nhưng vua lại mảy may không hay biết gì cả, bởi bọn “thập thường thị” đều đem giấu đi hết, không tâu lên vua. Khi quan gián nghị đại phu là Lưu Đào đến can gián và mắng bọn hoạn quan, vua thản nhiên nói: “Quốc gia đương yên ổn, có việc gì mà nguy ngập?” Vua cho rằng các đại thần đang gièm pha cận thần của mình, đem bắt hết các quan can gián lại. Cuối cùng, họ bị bọn hoạn quan mưu hại, chết ở trong ngục.

Còn về phần Lưu Bị, sau khi được Lưu Khôi tiến cử thì đầu quân cho U Châu mục là Lưu Ngu rồi đem quân đi dẹp giặc tạo phản ở Ngư Dương. Lưu Bị lập được đại công nên được triều đình tha tội đánh viên đốc bưu trước đây và lĩnh chức huyện lệnh Bình Nguyên. Tuy rằng triều đình đã bình định được giặc tạo phản các nơi nhưng hết thảy mọi chuyện triều chính đều do bọn hoạn quan giả mệnh vua hạ chỉ. Nếu như tình hình có nguy cơ nghiêm trọng thì chúng lại diễn trò cũ tiêu diệt trung thần, mua quan bán chức, không từ bất cứ thủ đoạn nào.

Thế nên, Hán Linh Đế đã hoàn toàn bị những lời sàm ngôn của hoạn quan che mắt. Trong triều trung thần thoái lùi, tiểu nhân diễn xướng, giang sơn sụp đổ đến nơi. Đến đoạn này của truyện, Hán Linh Đế đã sắp băng hà. Anh hùng khắp nơi nổi lên, giang sơn chia cắt, phần mở đầu của việc chư hầu tranh chiến rất nhanh sẽ diễn ra.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254544

(còn tiếp)

The post Nghĩa giải Tam quốc (8): Hai mục đích lớn đằng sau việc Trương Phi đánh đốc bưu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (7): Kết nghĩa đào viên, trọng ở lời thềhttps://chanhkien.org/2021/08/tam-quoc-dien-nghia-7-ket-nghia-dao-vien-trong-o-loi-the.htmlTue, 24 Aug 2021 13:37:40 +0000https://chanhkien.org/?p=27795Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Quan Vũ: Tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt Sau khi Lưu Bị và Trương Phi gặp nhau, kế đến là sự xuất hiện của Quan Vũ. Trương Phi giọng như sấm rền, thế như ngựa phi, Quan Vũ thì tướng mạo và uy phong như Thần khiến người […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (7): Kết nghĩa đào viên, trọng ở lời thề first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Quan Vũ: Tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt

Sau khi Lưu Bị và Trương Phi gặp nhau, kế đến là sự xuất hiện của Quan Vũ. Trương Phi giọng như sấm rền, thế như ngựa phi, Quan Vũ thì tướng mạo và uy phong như Thần khiến người ta vừa thấy đã giật mình kinh sợ. Quan Vũ “mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt đỏ như gấc, môi như bôi son, mắt phượng mày ngài, oai phong lẫm liệt”. (1)

“Tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt” đến như thế, dáng vẻ thiên nhân của Quan Vũ dường như khiến người ta phải kinh sợ, thế nên không cần ngôn từ hoa mỹ để miêu tả ông, bởi toàn thân chính khí nên vì thế uy nghiêm cũng tự sinh ra. Người như vậy thì nhất định là người trung nghĩa, uy vũ bất khuất, khí chất kiên cường. Và cái vẻ ngoài tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt đó đã lọt vào mắt của Lưu Bị.

Chuyện là ngày hôm ấy Lưu Bị và Trương Phi gặp nhau rồi cùng vào quán uống rượu bàn chuyện, chẳng bao lâu sau thì nhìn thấy một đại hảo hán đẩy một cái xe đến trước quán rượu, bảo tiểu nhị mau chóng mang rượu lên, người này nói một lúc nữa sẽ đi tòng quân. Tất cả những chuyện ấy đều lọt vào mắt của Lưu Bị, Lưu Bị bèn đến mời đại hảo hán cùng ngồi chung, rồi mới tìm hiểu thân thế tên họ. Người đó là Quan Vũ, tự Vân Trường, người làng Giải Lương tỉnh Hà Đông (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), 5 – 6 năm trước vì gặp chuyện bất bình vì dân trừ hại nên đã giết chết một tên cường hào ỷ thế hiếp người ở đó, do không thể không trốn nạn nên đã lưu lạc giang hồ đến tận đây, nghe nói rằng quan phủ đang chiêu quân diệt tặc nên đến ứng tuyển.

Không còn nghi ngờ gì nữa, Quan Vũ chính là bậc anh hùng hào kiệt, trên đường gặp chuyện bất bình nên ra tay trượng nghĩa, vì có tin quan phủ chiêu mộ nghĩa quân giúp dân diệt trừ thảo tặc, nên trong lòng rất gấp rút, dự định đến ăn chút cơm rượu rồi đi đầu quân, vừa khéo lại gặp Lưu Bị và Trương Phi ở đây. Chúng ta có thể thấy ba nhân vật Lưu, Quan, Trương đức – chí tương đồng. Ba người chí hướng vốn đã hợp, họ hẹn sẽ cùng nhau đến gia trang của Trương Phi chuẩn bị chiêu mộ nghĩa binh và cùng nhau thương thảo chuyện diệt trừ thảo tặc.

Kết nghĩa ở đào viên, trọng ở lời thề

Theo đề nghị của Trương Phi thì nhà ông có một vườn đào, đương mùa hoa nở rộ, chi bằng ngày mai sẽ cho người lập hương án bái tạ trời đất kết thành huynh đệ, cùng nhau làm việc đại sự. Đó là nguồn gốc của câu chuyện kết nghĩa đào viên mà người ta quen thuộc nhất. Bởi vì ba người ở vườn đào kết bái thành huynh đệ nên câu chuyện này người ta cũng gọi là chuyện kết nghĩa đào viên.

Đó là hàm nghĩa ở tầng bề mặt nhất. Hàm nghĩa thực sự ở tầng thâm sâu hơn của kết nghĩa đào viên là họ đã phát thệ với trời đất, lời thề này mới là cái “nghĩa” mà ba người sẽ cùng nhau gìn giữ đến cùng. Nghĩa là họ kết thành huynh đệ, mục đích là để thực hiện chí nguyện chung được nêu trong lời thề ấy. Đây mới là chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện. Nếu như chúng ta xem nhẹ lời thề này thì chính là đã bỏ đi phần linh hồn của bộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa rồi.

Trong truyện viết rằng: “Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng: “Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, phải đồng tâm hiệp lực, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định muôn dân. Chúng tôi không cầu sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, nhưng nguyện chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Xin hoàng Thiên hậu thổ soi xét cho lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì Trời người cùng giết. Thề xong thì họ tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út.” (2)

Như thế ba người họ đã đứng giữa trời đất phát lời thề rằng sẽ “đồng tâm hiệp lực, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định muôn dân”, đây là cái “nghĩa” lớn nhất mà ba người đã kết, đó cũng là tâm nguyện và mục đích lớn nhất khiến họ trở thành huynh đệ, từ đó về sau sẽ vì cái “nghĩa” này mà đồng tâm hiệp lực. “Xin hoàng thiên hậu thổ soi xét lòng này”, người xưa khi thề với Trời Đất thì không phải là chuyện nhỏ, phát thệ với Thiên Địa là để được Thiên Địa chứng giám, trông coi giám sát. Nếu như “ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết”. Đến một ngày nào đó, bất kể là ai quên đi và bỏ lời thệ ước, quên đi cái ân nghĩa phò trợ lẫn nhau và chí hướng cùng nhau báo quốc an dân thì cả thiên thần và thế nhân đều sẽ trừng phạt người đó, cũng có nghĩa là hễ ai quên đi lời thệ ước thì sẽ phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình.

Tôn Kiên phát lời thệ độc, chết dưới tên loạn

Người xưa tin vào Thần, cho rằng mắt Thần như điện (3), họ không thể nào xem thường Trời mà làm những việc bất nghĩa bất tín, do đó người xưa đối với lời thề là vô cùng nghiêm túc. Trương Giác cũng vì thế mà phải chịu ác báo mất mạng. Kỳ thực trong truyện “Tam quốc diễn nghĩa” không chỉ Trương Giác chịu báo ứng mà Tôn Kiên của nước Đông Ngô cũng chịu cảnh tương tự. Năm xưa Tào Tháo trượng nghĩa liên kết chư hầu các nơi, kết thành nghĩa quân liên minh lập lời thệ ước sẽ phò trợ xã tắc thảo phạt quốc tặc Đổng Trác vô cớ phế ngôi Hán Thiếu Đế. Nhưng sau khi cung điện ở Lạc Dương bị Đổng Trác thiêu rụi và Tôn Kiên phát hiện ra ngọc tỷ bị thất lạc, thì ông ta muốn chiếm ngọc tỷ làm của riêng, đồng thời nảy sinh tâm phản nghịch muốn xưng đế, phản bội lại lời thề đã lập trước kia với liên minh thảo phạt. Khi bị người khác tố cáo thì Tôn Kiên không những không thừa nhận mà còn ở trước mặt Viên Thiệu và mọi người phát lời thề độc rằng: “Tôi mà được của ấy, lại giấu đi, thì không được thiện chung, sẽ chết dưới đao tên.” (4) Quả đúng như vậy, chẳng bao lâu sau Tôn Kiên bị trúng mai phục, bị quân của Lưu Biểu bắn chết dưới loạn tên, não bắn ra ngoài, lúc đó Tôn Kiên chỉ mới 37 tuổi. Quả thật cái chết này ứng nghiệm với lời thề rằng nếu như chiếm riêng ngọc tỉ, xem thường mệnh trời mà nói dối, bội tín quên nghĩa, thì sẽ không được thiện chung.

Lưu Bị nhất thời thất đại nghĩa, cũng phải mất đi sinh mệnh

Còn chuyện Lưu Bị cùng 70 vạn đại quân bị bại trận ở Đông Ngô rồi chết ở thành Bạch Đế cũng có liên quan đến lời thề. Ông luôn mang trong mình cái tâm trung nghĩa thực hiện lời thệ ước báo quốc an dân phò trợ Hán thất. Nhưng từ khi lòng dân quy phục, mọi thứ dần lớn mạnh rồi lập ra nhà Thục, sau khi Hán Hiến Đế bị Tào Phi bức phải phế vị, Lưu Bị kế thừa đại nghiệp phục hưng nhà Hán, thảo phạt hành vi cướp nước bất trung của Ngụy quốc, các đại thần như Triệu Tử Long, Gia Cát Lượng… đều khuyên Lưu Bị ưu tiên việc công trước việc tư sau, nên thay Hán Hiến Đế báo thù phục hưng nhà Hán, sau đó mới thay Quan Vũ trả thù bị Đông Ngô trảm. Một bên là việc quốc gia đại nghĩa, một bên là tình riêng sâu nặng với Quan Vũ. Nhưng Lưu Bị đã bị tình huynh đệ chi phối, nhất thời quên chuyện đại nghĩa, quên mất mục đích ban đầu khi kết nghĩa đào viên, không nghe theo lời khuyên của trung thần, trong đau khổ vô tận chỉ muốn báo thù cho Quan Vũ, dốc hết quốc lực thảo phạt Đông Ngô, điều ấy tương đương với việc lấy nhân lực tài lực của quốc gia điều vào việc riêng, đó là vi phạm lời thề. Ông đã bại trận nên không còn mặt mũi nào để gặp những lương tướng trung thần của mình, cuối cùng lâm bệnh và chết tại thành Bạch Đế. Cuộc đời Lưu Bị vì sai lầm ở điểm này mà mất đi sinh mệnh. Còn Trương Phi cũng vì nóng lòng báo thù mà không màng đại nghĩa, cuối cùng mất mạng.

Dẫu rằng thiên ý đã là như thế, khí số của nhà Hán đã tận, nhưng tác giả La Quán Trung cũng mượn những ví dụ này để nói với hậu nhân rằng: tuy con người không có cách nào cải biến những an bài đã được đặt định từ đầu như sự chuyển hướng của thế gian, việc thay triều đổi đại… nhưng làm người vẫn có đạo lý làm người, thành bại đều là việc không đáng để tiếc nuối, trong quá trình theo đuổi mục tiêu, làm sao để sắp đặt cái tâm của mình cho đúng mới là trọng yếu nhất. Con người khi đứng trước lựa chọn giữa công và tư, giữa thiện và ác, trước việc tín nghĩa thì biểu hiện như thế nào, đó mới là trọng yếu. Lịch sử từ xưa đến nay vẫn là quá trình không ngừng kiểm nghiệm, khảo nghiệm nhân tâm. Kết cục cuối cùng, có lẽ vẫn là không thể cải biến, bởi vì kịch bản cho mỗi một triều mỗi một đại từ đầu đã được an bài ổn thoả cả, đó cũng là chân tướng mà tác giả không ngừng chỉ ra [trong suốt câu chuyện]. Nhưng trong quá trình ấy cũng cần phải kiểm nghiệm nhân tâm, xem nhân nghĩa, trung nghĩa, tín nghĩa có thể giữ vững được không, đó mới là điều trọng yếu nhất. Vô luận rằng Hán triều có phải khí số đã tận hay không, chỉ cần hoàng đế không phải là kẻ hôn quân bạo ngược, thì những người thân là bề tôi cần vì quốc tận trung, đã lập thệ ước thì phải đi thực hiện, thành công hay không không quan trọng, chỉ cần tận tâm tận lực mà làm, chính là không thẹn với lòng, dẫu sao thì [xưa nay mọi chuyện trên đời vẫn là] mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Đó cũng là lý do Gia Cát Lượng không ngừng bắc phạt Trung Nguyên, biết rõ sự sẽ bất thành mà vẫn tận lực mà làm. Ông chính là thực hiện lời giao phó của tiên chủ Lưu Bị.

Việc thề với trời đất, cũng chính là ước định với trời đất, tất sẽ ứng nghiệm. Dẫu rằng Lưu Bị không hoàn thành đại nghĩa, mà thực hiện tiểu nghĩa của riêng cá nhân, tuy không phải là lén lút làm việc xấu, thì vẫn phải chịu báo ứng như vậy. Lời thề xưa nay tuyệt không phải là trò đùa con trẻ.

Sau khi ba người Lưu, Quan, Trương kết thành huynh đệ, thì ban đầu là họ chiêu binh mãi mã, chế tạo binh khí áo giáp. Song Cổ Kiếm của Lưu Bị, Thanh Long Yển Nguyệt Đao của Quan Vũ, Bát Xà Mâu của Trương Phi đều được chế tạo từ thời ấy. Họ lập ra được đội nghĩa quân 500 người, đầu quân cho Thái Thú Lưu Yên Xứ, từ đó, họ đánh hơn 30 trận, tiêu diệt giặc Khăn Vàng lập chiến công hiển hách, anh hùng bắt đầu triển hiện được uy danh.

Nhưng do hoạn quan chuyên quyền, dối vua lừa trên nên Lưu Bị chỉ được chức huyện uý An Hỷ (5), là một chức quan rất nhỏ. Hơn nữa bọn hoạn quan còn mưu tính sẽ hãm hại những người đã lập được công dẹp thảo tặc, thu hồi lại chức quan. Thế nên trong truyện mới có điển cố kinh điển: Trương Phi nổi giận đánh đốc Bưu.

(còn tiếp)

Chú thích:

(1): Trích từ truyện Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung

(2): Truyện Tam quốc diễn nghĩa, hồi 1

(3): Thần nhãn như điện

(4): Truyện Tam quốc diễn nghĩa, hồi 6

(5):

– An Hỷ: nay thuộc đông nam thành phố Định Châu tỉnh Hà Bắc

– Huyện uý: chức quan phụ tá cho huyện lệnh thời xưa

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254543

The post Nghĩa giải Tam quốc (7): Kết nghĩa đào viên, trọng ở lời thề first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (6): Trương Phi đại nghĩa giúp Lưu Bị, cương nhu kết hợphttps://chanhkien.org/2021/07/tam-quoc-dien-nghia-6-truong-phi-dai-nghia-giup-luu-bi-cuong-nhu-ket-hop.htmlTue, 27 Jul 2021 14:15:04 +0000https://chanhkien.org/?p=27691Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] “Lúc Lưu Diên đăng bảng mộ quân, Huyền Đức cũng đã hai mươi tám tuổi. Ông nhìn thấy thông báo danh sách hôm đó và thở dài. Sau đó, có một người nghiêm khắc hỏi: “Đại trượng phu không ra sức vì quốc gia, cớ sao thở dài?”. Huyền Đức […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (6): Trương Phi đại nghĩa giúp Lưu Bị, cương nhu kết hợp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

“Lúc Lưu Diên đăng bảng mộ quân, Huyền Đức cũng đã hai mươi tám tuổi. Ông nhìn thấy thông báo danh sách hôm đó và thở dài. Sau đó, có một người nghiêm khắc hỏi: “Đại trượng phu không ra sức vì quốc gia, cớ sao thở dài?”. Huyền Đức quay lại nhìn người: Người cao tám thước, đầu báo mắt trừng, râu hùm hàm én, giọng nói như sấm, khí thế tựa ngựa phi”.

Hai câu này trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả lúc Trương Phi gặp Lưu Bị, đây là lần đầu tiên Trương Phi xuất hiện trước độc giả. Nhiều người nghĩ Trương Phi tính tình hung bạo, làm việc bốc đồng nhưng thực tế không phải vậy.

Trương Phi – Lưu Bị, sự kết hợp giữa cương và nhu

Nói về Trương Phi, trong câu đầu tiên là đề cập đến giọng nói với vẻ nghiêm khắc chứ chưa miêu tả vóc dáng của ông. Câu thứ hai miêu tả sinh động khí chất mãnh tướng của ông: nhanh nhẹn, mạnh mẽ như hổ báo, giọng nói như tiếng sấm vang dội trên không trung, khí thế như tuấn mã dũng mãnh chạy như bay, sự miêu tả sinh động khiến độc giả cảm thấy như đang nhìn thấy con người thực sự. Như vậy có một sự tương phản nổi bật với sự điềm tĩnh và ôn hòa của Lưu Bị, có thể nói một tĩnh một động, một cương một nhu, kết hợp cương nhu trở thành sự kết hợp hoàn mỹ. Chính giọng nói này, một mình đứng trước cầu Trường Bản ở Đương Dương, ba tiếng vang như sấm đã làm khiếp sợ hàng trăm ngàn binh sĩ của Tào Tháo. Vì nên, Trương Phi nhanh nhẹn, dũng mãnh, khí phách hiên ngang như thần uy, tuyệt đối không phải là một kẻ lỗ mãng hữu dũng vô mưu.

Tác giả dùng bút lực phi thường làm nhân vật sống động như thật, khiến người ta như nhập vào tình huống câu chuyện, nhưng đó đều không phải là mục đích chính. Thật ra quan trọng nhất không phải là việc miêu tả giọng nói hay ngoại hình của Trương Phi mà là câu hỏi mở đầu của ông: “Đại trượng phu không dốc sức vì quốc gia, cớ sao thở dài?”. Nếu là một người lỗ mãng thì làm sao lại có được kiến giải như vậy, thốt ra lời hùng tâm tráng trí, không chút che đậy, nói thẳng vào vấn đề trọng tâm. Có thể thấy khi miêu tả Trương Phi, điều đầu tiên người ta nghĩ đến chính là đại nghĩa của một trang nam tử đối với quốc gia, quốc gia gặp nạn, vì nghĩa không từ. Vội vàng tìm cách đóng góp cho đất nước, sao lại thở dài?

Vì vậy, chúng ta có thể thấy rõ Trương Phi tính tình nhanh nhẹn, thẳng thắn, dũng mãnh, chính trực, tuy có khuyết điểm là có xu hướng thô lỗ với người khác sau khi uống rượu, nhưng tính chính trực, quyết đoán chính là đặc điểm chủ yếu. Vì vậy, ông đã tức giận đánh quan đốc bưu tham nhũng, trừng trị cái ác và bảo vệ người dân; Trương Phi còn là con người hào hiệp: thả Nghiêm Nhan khi vào Tây Xuyên, thiện đãi lão tướng Hoàng Trung, và đồng thời cũng thể hiện sự quyết liệt, dũng cảm và mưu lược. Nếu như Lưu Bị nổi bật về lòng nhân từ thì Trương Phi lại nổi bật về nghĩa khí ngay thẳng, chính trực không nể tình riêng. Chính trực là cương, nhân từ là nhu, cương và nhu là sự kết hợp của nhân và nghĩa. Hai cái vốn dĩ là một và không thể tách rời.

Vì vậy, ở chương 70, tác giả đã đánh giá một cách khái quát về Trương Phi qua lời kể của Gia Cát Lượng: “Khổng Minh cười nói: ‘Chủ Công và Dực Đức đã là huynh đệ bấy lâu nay, nhưng vẫn không hiểu con người ông ấy sao. Dực Đức từ trước đến nay cương cường, nhưng trước khi vào Tây Xuyên thì đã thả Nghiêm Nhan, một kẻ dũng phu thì không làm được như vậy”.

Nói chung, Trương Phi là một người mạnh mẽ, cương quyết, nổi bật với tính quyết liệt, chính trực, không thể dung thứ cho những việc làm xấu xa, không chấp nhận sự bất công, không để cái ác chạy thoát. Thực sự đại diện cho mặt mạnh của công lý, nhưng chính vì Trương Phi quá mạnh mẽ, thiếu đi sự nhu hòa mềm mỏng, cần sự khuyên can nhu hòa của tính “nhân” của Lưu Bị. Vì vậy, Lưu Bị và Trương Phi chính là khởi tác dụng kết hợp cương nhu. Có thể nói đó là duyên phận trời sinh, là sự tương phùng trong mệnh đã định sẵn.

Trương Phi đại chí đại nghĩa hiến của cải

Chính nhờ câu nói của Trương Phi, “Bậc đại trượng phu không cống hiến cho quốc gia, cớ sao lại thở dài?” mà khiến cho Lưu Bị có được đại chí là “Phá tặc an dân”. Tiếp theo tác giả viết:

“Huyền Đức thấy tướng mạo dị thường liền hỏi tên. Người đó nói: ‘Tôi họ Trương, tên là Phi, tự là Dực Đức. Người sống ở huyện Trác, có nhiều ruộng đất, bán rượu mổ lợn, thường hay kết giao với thiên hạ hào kiệt, vừa rồi thấy ông nhìn bảng mộ quân mà thở dài, nên mới hỏi.’ Huyền Đức nói: ‘Tôi vốn là người của Hán thất, họ Lưu, tên là Bị. Nay nghe đội quân khăn vàng nổi loạn, mong muốn phá tặc an dân; chỉ hận lực không đủ, nên đành thở dài vậy thôi.”

Cuộc đối thoại giữa hai người đã phần nào cho thấy chí hướng to lớn của Lưu Bị, nhưng lực bất tòng tâm. Hà cớ vì sao lại bất lực? Bởi vì xuất thân Lưu Bị gia cảnh bần hàn, không có của cải chiêu tập nghĩa binh, chế tạo binh khí áo giáp, mua sắm chiến mã, và thảo phạt quân giặc. Trương Phi nghe vậy, liền thấy việc này quá dễ dàng, vừa vặn lúc tài chính dồi dào, chỉ đang canh cánh không tìm được người cùng chung chí hướng, thân phận lại cũng phải phù hợp, để tới hỗ trợ đắc lực cho người đó, vì vậy, ông ta vui mừng khôn xiết và dứt khoát nói với Lưu Bị rằng: “Tôi có rất nhiều tiền, cũng đang chiêu mộ dũng sĩ trong thôn, cùng ông làm đại sự, được không?”

Hai người có cùng chung chí hướng nên chỉ qua dăm ba câu làm quen đã trở thành bạn tâm giao, vui vẻ uống rượu và bàn tính về tương lai tại một quán rượu trong làng.

Với tính cách mạnh mẽ và quyết đoán, vì trợ giúp Lưu Bị thực hiện chí lớn báo quốc an dân nên Trương Phi đã chủ động mở lời. Đây chính là vai trò của Trương Phi.

Trương Phi vì để thảo tặc an dân nên đã không ngần ngại quyên góp tiền bạc của cải cá nhân, trái ngược với những kẻ gian vì lợi mà quên nghĩa. Lưu Bị, Trương Phi và Quan Vũ là ba huynh đệ hợp nhất, họ tuy thân phận bất đồng, chức trách có khác, nhưng cùng chung chí hướng cao xa, sở trường của người này bù đắp cho sở đoản của người kia, và hình thành mối quan hệ quân thần hợp tác và bổ trợ lẫn nhau, và mỗi diễn dịch ra các nội hàm cụ thể khác nhau của chữ “nghĩa”.

“Nghĩa khí ngút trời” không chỉ là đánh giá về Quan Vũ, mà cũng là đánh giá về Lưu Bị và Trương Phi. Ba người họ là ‘tam vị nhất thể’ (tuy ba mà một). Ba người cùng nhau “Diễn” “Nghĩa”, cũng chính là thiên mệnh của họ.

Phần tiếp theo sẽ kể về sự xuất hiện của Quan Vũ. Lúc này long hổ gặp nhau phụng sự thiên mệnh, và cả ba huynh đệ cùng nhau kết nghĩa vườn đào.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/25434

The post Nghĩa giải Tam quốc (6): Trương Phi đại nghĩa giúp Lưu Bị, cương nhu kết hợp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Nghĩa giải Tam quốchttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-nghia-giai-tam-quoc.htmlSun, 07 Mar 2021 20:53:54 +0000https://chanhkien.org/?p=27240Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org]    Nghĩa giải Tam quốc (1): “Tam quốc chí” và “Tam quốc diễn nghĩa Nghĩa giải Tam quốc (2): Thế nào là ‘nghĩa’? Nghĩa giải Tam quốc (3): Mở đầu luận đế vương thất đức Nghĩa giải Tam quốc (4): Trương Giác ác dụng Đạo thuật, tôn giáo tà biến […]

The post Loạt bài: Nghĩa giải Tam quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] 

 

Nghĩa giải Tam quốc (1): “Tam quốc chí” và “Tam quốc diễn nghĩa

Nghĩa giải Tam quốc (2): Thế nào là ‘nghĩa’?

Nghĩa giải Tam quốc (3): Mở đầu luận đế vương thất đức

Nghĩa giải Tam quốc (4): Trương Giác ác dụng Đạo thuật, tôn giáo tà biến

Nghĩa giải Tam Quốc (5): Sự xuất hiện của Lưu Bị — Đức đi đầu

The post Loạt bài: Nghĩa giải Tam quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam Quốc (5): Sự xuất hiện của Lưu Bị — Đức đi đầuhttps://chanhkien.org/2020/05/nghia-giai-tam-quoc-5-su-xuat-hien-cua-luu-bi-duc-di-dau.htmlMon, 25 May 2020 09:18:27 +0000https://chanhkien.org/?p=26327Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4 Bài trước đã nói, quân Khăn Vàng phản loạn, đội quân của Trương Giác xâm phạm biên giới quận U Châu[1], tình thế nguy cấp, Lưu Yên —Thái thú U Châu— yết bảng các huyện triệu tập nghĩa binh, bảng cáo thị đến huyện Trác [2], […]

The post Nghĩa giải Tam Quốc (5): Sự xuất hiện của Lưu Bị — Đức đi đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4

Bài trước đã nói, quân Khăn Vàng phản loạn, đội quân của Trương Giác xâm phạm biên giới quận U Châu[1], tình thế nguy cấp, Lưu Yên —Thái thú U Châu— yết bảng các huyện triệu tập nghĩa binh, bảng cáo thị đến huyện Trác [2], sự xuất hiện của Lưu Bị bắt đầu từ đây.

Sự xuất hiện của Lưu Bị — ‘Đức’, ‘chí’ đi đầu

Câu chuyện “Kết nghĩa vườn đào” chính thức bắt đầu, lần đầu tiên Lưu Bị xuất hiện, chúng ta hãy đọc kỹ trình tự trong nguyên tác. Đầu tiên là giới thiệu ông phẩm chất và chí lớn: “Người này không thường đọc sách, tính tình khoan dung, kiệm lời, giận vui không biểu lộ trên mặt; vốn có chí lớn, thường xuyên kết giao hào kiệt trong thiên hạ”.

Người đọc nhất định cảm thấy kỳ lạ, vì sao tác giả mở đầu giới thiệu Lưu Bị như vậy, mà không bắt đầu bằng việc miêu tả ông là dòng dõi của Hán Cảnh Đế hay họ tên.

Chỉ có một nguyên nhân, là vì tác giả sáng tác chỉ có mục đích là thông qua câu chuyện của nhân vật mà biểu đạt nghĩa lý. Mô tả nhân vật, nhất là nhân vật chính then chốt thì tác giả coi trọng đức hạnh, một câu “tính tình khoan dung, kiệm lời, giận vui không biểu lộ trên mặt” chính là quyết định phẩm đức cơ bản của nhân vật chính — nhân ái, lý trí, ổn định. “Vốn có chí lớn”, chí lớn là gì đây? Chính là tế thế an dân mà sẽ được tiết lộ trong lời thệ ước khi “Kết nghĩa vườn đào”.

‘Đức’ và ‘chí’ là yếu tố cơ bản nhất của người quân tử xưa. Cho dù là vua hay thần, quân thần là một thể thống nhất, đồng tâm đồng đức, cùng nhau trình diễn đạo nghĩa quân thần, chính là ý này. Bởi vậy thông qua cách mở đầu của tác giả đã nói lên hai thông tin, cho thấy Lưu Bị có cả hai yếu tố then chốt để đạt thành sự nghiệp đế vương. Xuyên suốt tác phẩm, khi miêu tả Lưu Bị, chắc chắn sẽ lấy hai yếu tố này làm trung tâm, hình tượng Lưu Bị tất nhiên sẽ trở thành vị vua nhân nghĩa. Người sống theo nghĩa lý chắc chắn sẽ xuất tâm nhân hậu. Bởi vậy, chúng ta sẽ thấy sau này, Lưu Bị từ chối Từ Châu của Đào Khiêm, không đoạt Kinh Châu của Lưu Biểu, trong quá trình hỏa thiêu Tân Dã trốn tránh quân Tào truy sát, ông không đành lòng buông bỏ bách tính đi theo dù suốt hành trình gặp phải bao nhiêu trắc trở, tác giả đều mô tả rất kỹ càng; nhất là đem Từ Châu nhượng cho Lữ Bố, sau bị Lữ Bố truy sát, vậy mà Lưu Bị chỉ cảm thán Lữ Bố [chứ không thù hận]; được không nhất định là điều vui, mất đi không nhất định là chuyện xấu, tấm lòng vô cùng rộng rãi, đây chính là biểu hiện của người xưa khi hết lòng tin theo mệnh trời mà giữ vững đạo nghĩa.

Vì sao không thường đọc sách?

Có lẽ có người sẽ thắc mắc, nếu là quân tử, tất phải đọc sách, vì sao câu giới thiệu đầu tiên lại nói “Người này không thường đọc sách” chứ? Đáp án cho câu hỏi này, tác giả đã trình bày vô cùng thấu triệt trong chương mô tả Gia Cát Lượng phân tích “hủ nho” và “đại nho” khi đấu khẩu với các nho sĩ. Những năm cuối triều Hán, nhân tâm đạo đức đi về hướng bại hoại, rất nhiều người đọc sách đã quên mất mục đích căn bản của việc đọc sách là hiểu rõ đạo lý làm người, sau đó áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Nhưng những người đọc sách thời Hán mạt, tuy kinh sách đầy bụng, dù xuất thân là bốn đời tam công, như Viên Thiệu Viên Thuật, nhưng anh không hữu hảo, em không giữ lễ, lòng dạ nhỏ mọn, dùng người không tin, đối đãi bất nhân với người ngoài, quân thần bất hòa, cuối cùng trở thành tiểu nhân theo đuổi danh lợi. Dù là đọc cả vạn quyển sách, nhưng không áp dụng vào thực tiễn, cuối cùng đánh mất lòng người, thuộc hạ bỏ đi, bị Tào Tháo tiêu diệt, thì còn ý nghĩa gì nữa. Bởi vậy, tác giả viết câu mở đầu như vậy, cho thấy Lưu Bị không đọc sách nhiều, nhưng trời sinh đã có bản tính quân tử, so với “hủ nho” ngày ngày đọc sách nhưng hành vi lại xa rời lời thánh nhân giáo huấn thì còn tốt hơn nhiều.

Thật ra, trở thành quân tử không nhất định chỉ có con đường đọc sách, mà tiếp xúc nhiều người hiền, tâm bảo trì thiện niệm, chính là đã theo lời dạy của Khổng Tử, cũng là một con đường khác. Theo quan điểm của Khổng Tử, nếu mọi người đã đọc qua cuốn Học Nhi Thiên trong Luận Ngữ thì sẽ biết, Khổng Tử từng nói với đệ tử rằng: “Phép người con, thánh nhân dạy. Hiếu đễ trước, rồi cẩn tín. Yêu rộng khắp, gần người nhân. Có dư sức, thì học văn”. Là ý nói, làm người học trò, điều đầu tiên là ở nhà phải hiếu kính cha mẹ ông bà, ra đường phải đối đãi người ngoài như anh em, lời nói và việc làm phải cẩn thận giữ chữ tín, nhân ái yêu thương mọi người, gần gũi với người nhân nghĩa, làm những điều này tốt rồi, còn dư sức thì học văn, nắm giữ thêm nhiều đạo lý kiến thức. Trọng tâm lời giảng của Khổng Tử là thực hành Hiếu–Đễ–Trung–Tín và gần gũi với người nhân nghĩa, tâm bảo trì thiện niệm, ông đặt đọc sách học văn ở vị trí thứ hai.

Học trò Tử Hạ nghe xong lời Khổng Tử dạy, đã lý giải lời của thầy như sau: “Hiền hiền dịch sắc; sự phụ mẫu, năng kiệt kỳ lực; sự quân, năng trí kỳ thân; dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín. Tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hĩ”. Ý tứ là, lấy người hiền làm chuẩn, thái độ đoan chính (đây là gần người nhân), phụng dưỡng cha mẹ tận tâm tận lực (đây là ở nhà phải hiếu), phục vụ quân vương có thể giao phó cả thân và tâm, đối với bạn bè phải giữ chữ tín (đây là cách đối ngoại), [nếu làm được vậy] cho dù người này chưa từng đọc sách, ta cũng muốn nói rằng người này đã học rồi, là người thật sự hiểu được ý nghĩa chân chính của học vấn.

Bởi vậy, tác giả Tam Quốc diễn nghĩa muốn khôi phục lại ý nghĩa đích thực về việc đọc sách của Khổng Tử, người quân tử không phải là ở đọc sách nhiều hay ít, mà phải xem hành vi của người đó. Trong truyện có viết “Huyền Đức ấu cô, sự mẫu chí hiếu”, Huyền Đức là Lưu Bị, mồ côi cha từ nhỏ, phụng dưỡng mẹ vô cùng hiếu thảo. Đó là nói hành vi của Lưu Bị phù hợp với bản chất của người quân tử, với lời dạy của thánh nhân.

Cháu nhiều đời của Cảnh Đế, gia cảnh bần hàn

Sau đấy tác giả mô tả tướng mạo, xuất thân con cháu đế vương, tên và sau đó là gia cảnh bần hàn: “Thân cao bảy xích năm thốn, tai dài đến vai, tay quá đầu gối, mắt có thể nhìn thấy tai, mặt như đội ngọc, môi hồng; là con cháu Tĩnh Vương Lưu Thắng ở Trung Sơn, cháu nhiều đời của Hán Cảnh Đế; họ Lưu, tên Bị, tự Huyền Đức”. “Huyền Đức mồ côi cha từ nhỏ, phụng dưỡng mẹ vô cùng hiếu thảo; nhà nghèo, làm nghề bán giày dệt chiếu. Nhà ở thôn Lâu Tang huyện Trác”.

Tiên đoán chắc chắn có mệnh làm đế vương hay quý nhân

Sau đó lại mô tả tương lai sẽ thành nghiệp đế vương: “Ở hướng đông nam của nhà người này, có một cây Tang lớn, cao hơn năm trượng, tán lá vươn xa, nhìn như xa thử (xe có lọng che). Có tướng gia (người có tài xem tướng đoán mệnh) từng nói: ‘Nhà này tất xuất quý nhân'”.

Khi Huyền Đức còn bé, lúc chơi với trẻ con hàng xóm dưới tán cây, đã viết: “Ta là thiên tử, đang ngồi xa thử”. Chú ruột của ông đã viết trong Lưu Nguyên Khởi kỳ ngôn rằng: “Đây là đứa trẻ phi thường”. “Năm mười lăm tuổi, mẹ bảo ông đi du học, ông bái Trịnh Huyền, Lô Thực làm thầy; bạn cùng lớp với Công Tôn Toản”.

Những đoạn mô tả trên không chỉ nêu ra thân thế dòng dõi đế vương của Lưu Bị, mẹ góa con côi gia cảnh bần hàn, mà còn nói rằng không phải ông vô học, thật ra là như Khổng Tử đã nói, đến tuổi 15 ông thực hành hiếu đạo tại nhà, sau đó bái bậc đại nho gia Trịnh Huyền, Lư Thực làm thầy, bắt đầu đọc sách học văn, học thức tất nhiên có chỗ hơn người.

Sau đó đến lượt Trương Phi và Quan Vũ xuất hiện. Chúng ta sẽ bàn trong bài tiếp theo.

Chú thích:

[1] U Châu: một trong 13 châu của Trung Quốc thời nhà Hán, trong kinh Chu Lễ có viết: “Đông Bắc viết U Châu”. Phương Bắc thái Âm, nên người xuân lấy U làm hiệu. Là đất thụ phong của Triệu Công, nên thành nước Yên. Thời Đông Hán, U Châu tương đương với Bắc Kinh, Thiên Tân ngày nay, phía Bắc của Hà Bắc, phía Nam của Liêu Ninh, phía Tây Bắc của Triều Tiên. Đơn vị hành chính thời đó U Châu có 11 quận, 90 huyện (huyện là ở dưới châu). Vị quan cao nhất của một châu gọi Thứ sử, quan quản lý quận gọi là Thái thú.

[2] huyện Trác: ngày nay là thị xã Trác Châu thuộc miền Trung của Hà Bắc. Được mệnh danh là “Nam đại môn” của Bắc Kinh.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/254339

The post Nghĩa giải Tam Quốc (5): Sự xuất hiện của Lưu Bị — Đức đi đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (4): Trương Giác ác dụng Đạo thuật, tôn giáo tà biếnhttps://chanhkien.org/2020/05/nghia-giai-tam-quoc-4-truong-giac-ac-dung-dao-thuat-ton-giao-ta-bien.htmlThu, 07 May 2020 09:27:54 +0000https://chanhkien.org/?p=26240Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 3. Quân “Khăn Vàng” được xác định là giặc trong lịch sử “Cuối thời Linh Đế, Khăn Vàng nổi lên, châu quận các nơi tự mộ nghĩa binh, Tiên Chủ (chỉ Lưu Bị) dẫn thuộc cấp từ chỗ hiệu úy Trâu Tĩnh thảo phạt giặc Khăn Vàng […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (4): Trương Giác ác dụng Đạo thuật, tôn giáo tà biến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 3.

Quân “Khăn Vàng” được xác định là giặc trong lịch sử

“Cuối thời Linh Đế, Khăn Vàng nổi lên, châu quận các nơi tự mộ nghĩa binh, Tiên Chủ (chỉ Lưu Bị) dẫn thuộc cấp từ chỗ hiệu úy Trâu Tĩnh thảo phạt giặc Khăn Vàng có công, trở thành huyện úy huyện An Hỷ”. Câu này là trong sách Tam Quốc Chí – Tiên Chủ truyện nói về việc Lưu Bị đánh giặc lập công và được phong chức. Có thể thấy quân Khăn Vàng bị chính sử phán xét là quốc tặc, không phải là nông dân khởi nghĩa như trong sách giáo khoa lịch sử đã bị soán cải của Trung Quốc hiện đại. “Châu quận các nơi tự mộ nghĩa binh” mới là nghĩa binh mà lịch sử thừa nhận, là các tổ chức tự phát trong nhân dân do cơ quan chính phủ ở các châu các quận dán bảng triệu tập, và là nghĩa quân cùng với quan quân đi thảo phạt giặc Khăn Vàng.

Còn một nhánh mà Lưu Bị tổ chức, chính là nghĩa binh triệu tập theo bảng cáo thị của quan phủ. Trong câu chuyện mở đầu của Tam Quốc diễn nghĩa, Lưu Bị được cấp cho địa vị nông dân báo quốc, nghĩa quân hưng khởi, viết rằng ba anh hùng hào kiệt Lưu–Quan–Trương trượng nghĩa đánh giặc mà ‘kết nghĩa vườn đào’. Nếu như đảo lộn địa vị này, thì anh hùng dân tộc thiên cổ mà người ta ca tụng sẽ mất đi ý nghĩa, người dân trăm họ sẽ không yêu mến và kính ngưỡng họ; văn hóa của chúng ta, lý niệm nhân nghĩa làm người cũng sẽ bị nghi ngờ và phủ định. Nếu nhận thức cơ bản về quân Khăn Vàng bị soán cải thì thị phi thiện ác cũng bị điên đảo, người đời sau học đến đoạn lịch sử này sẽ hoài nghi tổ tiên và văn hóa truyền thống của mình, đạo đức tất nhiên sẽ trượt xuống. Người Trung Quốc hôm nay đã là như vậy.

Do đó, khi tác giả viết tiểu thuyết lịch sử, mặc dù là tiểu thuyết, nhưng mục đích cũng mười phần rõ ràng: nếu đã là thông qua hình thức hý kịch vừa học vừa vui để đạt được hiệu quả, truyền đạt giá trị quan ‘nghĩa’, thì đầu tiên nhất định phải minh xác bên nào là nghĩa binh. Đây là việc quan trọng bậc nhất, cũng là tuyệt đối không được thay đổi. Nhân vật và câu chuyện có thể được hư cấu, nhưng cái lý niệm ‘nghĩa’ mà nó biểu đạt là tuyệt đối không được thay đổi, cho nên các nhân vật chủ yếu mà tác giả dùng để hồng dương lý niệm nhân nghĩa như Lưu Bị, hồng dương trung nghĩa như Quan Vũ, Gia Cát Lượng, cũng tất nhiên đại biểu cho bên chính nghĩa.

Vì vậy, chúng ta mới tiến hành diễn giải tường tận, từ bối cảnh của câu chuyện mở đầu ‘kết nghĩa vườn đào’.

Đạo thuật vốn dĩ vô tội, chỉ vì bị dùng với mục đích xấu

Vậy vì sao thủ lĩnh của quân Khăn Vàng là Trương Giác có thể hô mưa gọi gió, còn có thể sử dụng nước phép để trị bệnh cho người ta? Tác giả gửi gắm nguyên nhân, thiện ác chính tà ở trong đó hết sức rõ ràng.

Trong sách viết: “Quận Cự Lộc có ba anh em: một là Trương Giác, hai là Trương Bảo, ba là Trương Lương. Trương Giác vốn trượt tú tài. Khi vào núi hái thuốc, thì gặp một lão nhân, mắt danh, khuôn mặt trẻ, tay nắm gậy lê, gọi Giác vào trong một hang động, truyền cho ba cuốn thiên thư, rồi nói: ‘Sách này gọi là Thái Bình yếu thuật. Ngươi có được nó rồi thì phải thay Trời giáo hóa dân chúng, phổ cứu thế nhân; nếu có lòng khác, thì tất bị ác báo’. Giác lạy hỏi danh tính, thì lão nhân nói: ‘Ta là Nam Hoa lão tiên’. Nói xong thì hóa thành cơn gió đi mất.”

Đoạn này nói rõ, Trương Giác xuất thân ở huyện Cự Lộc, không phải nông dân, mà là thi trượt tú tài. Bản sự hô mưa gọi gió, dùng nước phép trị bệnh của y là do khi vào núi hái thuốc thì gặp được Nam Hoa lão tiên truyền cho ba quyển Thái Bình yếu thuật, nhưng thông tin này vẫn không phải trọng điểm, quan trọng nhất là lão nhân truyền lại rằng: “Ngươi có được nó rồi thì phải thay Trời giáo hóa dân chúng, phổ cứu thế nhân; nếu có lòng khác, thì tất bị ác báo”.

Vì sao câu này lại trọng yếu? Bởi vì đây là lời răn đe Trương Giác, người được nhận thiên thư thì phải thay Trời giáo hóa dân chúng, phổ cứu thế nhân, nếu không sẽ bị ác báo. Đây chính là mục đích của việc truyền thiên thư cho y, để y có được Đạo thuật thần kỳ, có được bản sự siêu thường, tuyệt đối không thể dùng để mưu cầu vinh hoa phú quý cho cá nhân. Rất hiển nhiên, tác giả viết ra lời này chính là đang nói với độc giả: Đạo thuật thần kỳ là có tồn tại, Thần Tiên sẽ lựa chọn người để truyền thụ thiên thư, để người này hiển hiện thần tích ở một mức độ nào đó, giúp người tiêu bệnh giải nạn, từ đó được quần chúng tin cậy, dựa vào đó mà thay Trời tuyên truyền đạo đức giáo hóa, để cho thế nhân nào có đạo đức bại hoại, có thể hiểu đạo lý thiện ác hữu báo, từ đó mà quy chính nhân tâm, trọng đức hành thiện, đạt được mục đích cứu người.

Có nghĩa là, những bản sự siêu thường ấy, các thứ thuật loại của Đạo giáo, nhất định phải dùng vào việc cứu người, cho dù là trị bệnh hay là để cuối cùng cứu nhân tâm đã bại hoại cũng vậy, đều là cứu người. Một khi đi ngược với lời thề, lợi dụng sự sùng bái của tín đồ đối với hiệu quả thần kỳ của Đạo thuật, dùng để đạt được mục đích danh lợi, thì tuyệt đối không có kết cục tốt. Ba anh em Trương Giác vì vậy mà mất mạng.

Các câu chuyện Thần Tiên lưu truyền từ thời cổ, đều cho người ta một nhận thức chung thế này: Thần Tiên truyền cho đệ tử, tuyệt đối không để cho đệ tử mưu cầu vinh hoa phú quý nơi thế gian con người, cho dù là trong Phong Thần diễn nghĩa kể rằng Nguyên Thủy Thiên Tôn lệnh cho Khương Tử Nha hạ sơn phò tá Châu Văn Vương, thuận thiên ý mà hành, thay đổi triều đại, lật đổ Trụ Vương nhà Thương, cũng chỉ có thể giới hạn ở việc xuất sơn phò tá Châu Văn Vương có đức hạnh rõ ràng, vốn được thiên hạ ủng hộ, mà không dùng phương thức cầm đầu các tín đồ tôn giáo, tự mình xưng vương để làm những việc đó. Việc này sẽ không gì hơn ngoài việc làm bại hoại hình tượng của tôn giáo, từ đó biến thành tà giáo. Việc thành lập tôn giáo vốn là để dẫn dắt đệ tử tu Đạo hướng thiện, vốn không cầu bất kể thứ gì của thế gian, Trương Giác rõ ràng đã vi phạm lời răn mà Thần Tiên đã căn dặn lúc đầu, muốn lợi dụng tôn giáo để đoạt lấy chính quyền, đi ngược mục đích ban đầu, thì làm sao có thể không tà biến được, không bị gọi là quốc tặc sao được? Có thể thấy tác giả đang răn đe người ta, rằng Đạo thuật mà thiên thư truyền vốn không có tội, dùng cho ngay chính thì là Thần thuật, dùng vào việc ác thì bị người ta xem là yêu thuật. Các thứ thuật loại, thiện dụng hay ác dụng, đều ở nhân tâm.

Vu Cát sử dụng Đạo thuật ngay chính, hình thành một ví dụ đối lập

Đạo thuật chỉ có thể dùng cho chính, chỉ có thể phục vụ cho tư tưởng cứu người, trong hồi 29 miêu tả Tôn Sách của Đông Ngô trảm Đạo sĩ Vu Cát, rồi bị Vu Cát đòi mạng mà chết đi, trong đó miêu tả rõ ràng nhất, Đạo nhân Vu Cát cũng trị bệnh cho người như vậy, cũng dùng Đạo thuật Thái Bình, hơn nữa từ không trung vẽ ra con rồng, rồi lấy gan rồng, tạo ra thần tích khiến mưa rơi xuống dày ba thước, giải trừ hạn hán ở địa phương, so với thần tích của Trương Giác thì còn thần kỳ đáng kinh ngạc hơn. Nhưng người này mấy chục năm không hề lợi dụng Đạo thuật để thu nạp môn đồ tại thế gian, chưa từng gây họa cho thế gian, chỉ là một mình hành tẩu làm việc tốt giúp người ta trị bệnh miễn phí, hình thành một hình ảnh đối lập mạnh mẽ với Trương Giác. Trong chương này, tác giả viết cũng là có mục đích, dùng để răn đe thế nhân. Đạo thuật thần tích của Thần Tiên là có tồn tại, chính là xem người dùng nó thế nào, là dùng một cách ngay chính hay dùng làm việc ác. Không thể vì có người dùng làm việc ác mà phủ định sự tồn tại của Thần Tiên và thiên ý, từ đó đi sang cực đoan, trở thành ác đồ vô Pháp vô Thiên, không tin thiện ác báo ứng, Tôn Sách cuối cùng bị Vu Cát đòi mạng, chính là để giảng đạo lý này. Tâm kính Thiên kính Thần là không thể bị dao động, nếu không sẽ có ác báo. Nhưng đồng thời cũng cần phải phân rõ thật giả và chính tà.

Từ khi Trương Giác sáng lập ra Đạo giáo Thái Bình thì đồ đệ ngày càng nhiều, tín đồ có mặt khắp nơi, thế là y khởi lên ý khác, cho rằng đã đắc được lòng dân, không dùng thì quả là đáng tiếc, nên bí mật bàn với hai em là Trương Bảo, Trương Lương để hành sự, muốn đoạt lấy chính quyền nhà Đông Hán. Bọn họ dùng một cách ác ý “Thiên nhân hợp nhất”, cách nói tam tài Thiên-Địa-Nhân mà văn hóa Đạo gia Trung Quốc giảng, Trương Giác tự xưng là Thiên Công tướng quân, Trương Bảo xưng là Địa Công tướng quân, Trương Lương xưng là Nhân Công tướng quân, lôi kéo cả một đội quân làm loạn lên đến 40~50 vạn người, muốn lập ra “Hoàng Thiên” của hắn, xảo ngôn rằng “Trời xanh đã chết, Trời vàng đang lập”. Vì họ buộc khăn vàng quanh trán, nên bị gọi là giặc Khăn Vàng. 

Mắt thấy “thế giặc to lớn, quan quân nản lòng”, đại tướng quân Hà Tiến tấu thỉnh Linh Đế hỏa tốc giáng chiếu, lệnh các nơi đánh giặc lập công; “mặt khác lệnh cho trung lang tướng Lô Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuyển, mỗi người dẫn theo lính tinh nhuệ, phân ba đường thảo phạt”.

Cánh quân của Trương Giác đến đánh U Châu, khiến cho thái thú Lưu Yên dán cáo thị chiêu mộ nghĩa binh. “Bảng cáo thị đi đến huyện Trác, thì có một anh hùng trong huyện Trác xuất hiện”. Vị anh hùng này chính là Lưu Bị. Lưu–Quan–Trương đã gặp nhau vào lúc này, mở ra câu chuyện kết nghĩa vườn đào.

Xem tiếp phần 5.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/254338

The post Nghĩa giải Tam quốc (4): Trương Giác ác dụng Đạo thuật, tôn giáo tà biến first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (3): Mở đầu luận đế vương thất đứchttps://chanhkien.org/2020/05/nghia-giai-tam-quoc-3-mo-dau-luan-de-vuong-that-duc.htmlSat, 02 May 2020 07:59:40 +0000https://chanhkien.org/?p=26235Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 2 Khi tác giả kể về “kết nghĩa vườn đào”, thì nhất định phải kể rõ về bối cảnh mà câu chuyện nảy sinh, tuy vậy quá trình kể rõ đó không giống với các tiểu thuyết của ngày nay, nó rất quan trọng, luận rõ về […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (3): Mở đầu luận đế vương thất đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 2

Khi tác giả kể về “kết nghĩa vườn đào”, thì nhất định phải kể rõ về bối cảnh mà câu chuyện nảy sinh, tuy vậy quá trình kể rõ đó không giống với các tiểu thuyết của ngày nay, nó rất quan trọng, luận rõ về căn nguyên “trị loạn hưng suy” của đại cục thiên hạ phân lâu tất hợp, hợp lâu tất phân và lai lịch của “Hoàng Cân” (Khăn Vàng) tạo phản. Cách nhìn về lịch sử của ông không hề hàm hồ chút nào. Nếu không làm rõ bộ phận lịch sử quan này thì sẽ không thể nào thực sự lĩnh hội được hàm nghĩa chân chính của câu chuyện.

Do vậy chúng ta trước tiên hãy xem bối cảnh được miêu tả trong nguyên văn. Bởi vì cuốn tiểu thuyết liên quan đến quá trình hình thành cho đến suy vong của ba nước, vậy nên đoạn mở đầu là từ cuối thời nhà Hán. Rất nhiều người là đọc bản phiên dịch sang tiếng bạch thoại hiện đại của Trung Quốc Đại lục, thông thường chỉ có thể thấy được vài câu ngắn ngủi như “Cuối thời Đông Hán, chính trị hủ bại, dẫn tới cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Cân”. Những thông điệp trọng yếu không chỉ bị xóa đi mất, mà nhận thức về đội quân Hoàng Cân này cũng là trái ngược với tác giả. Thật ra ở trong sách thì quân Khăn Vàng của Trương Giác, bị gọi là giặc Khăn Vàng, không hề được coi là khởi nghĩa nông dân, đây là cách nhìn của tác giả đối với lịch sử. Cho dù chúng ta có lý giải được hay không, thì cũng nên trả lại ý gốc cho tác phẩm. Vậy vì sao tác giả lại có nhận thức như vậy? Trong bối cảnh đã giải thích mười phần rõ ràng. Ai đúng ai sai, nhất định phải hết sức rõ ràng, nếu không Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi sẽ trở thành các nhân vật phản diện trấn áp nghĩa quân, tuyệt đối không thể nhận được sự yêu mến của đa số người dân trăm họ.

Trong nguyên văn, tác giả trước hết nói rõ về đại cục của thiên hạ, phân lâu tất hợp, hợp lâu tất phân, bắt đầu từ thời Chiến Quốc phân tranh cuối triều nhà Chu, rồi hợp nhất về thời nhà Tần, một mạch nói đến sự phân chia cuối thời Đông Hán, hình thành ba nước. Đây chính là lai lịch của Tam quốc. Nhưng tác giả không hề dừng lại ở hiện tượng bề mặt của sự phân phân hợp hợp, thay đổi triều đại, mà là tiến một bước luận bàn rõ về cái gốc căn bản của việc thiên hạ hợp rồi lại phân.

Hoàng đế thất đức, hợp lâu tất phân

Nguyên nhân là gì? Đó chính là đế vương thất đức thất nghĩa. Do vậy, nguyên văn trực tiếp viết rõ nguyên nhân căn bản của việc nhà Đông Hán suy vong phân thành Tam quốc như sau:

Suy xét nguyên nhân việc nhà Hán từ cuối thời Thái Bình đi vào loạn thế, trước hết phải truy tới hai vua là Hán Hoàn Đế và Hán Linh Đế, chính trị hỗn loạn, là bắt đầu từ hai vị hoàng đế này. Hoàn Đế xa rời hiền thần, giam cầm trung lương, tin dùng hoạn quan, nghĩa là để cho hoạn quan —vốn là những người hầu hạ hàng ngày cho đế vương và hậu phi, là tầng lớp người hầu, không có kiến thức và tài năng trị quốc— thay thế đại thần để trị quốc, nắm giữ quyền lớn của quốc gia. Bọn họ dựa vào quyền lực để mưu lợi riêng, bán quan bán tước, họa loạn triều chính.

Đến thời Linh Đế, trong sách có viết, dù đại thần có muốn quy chính lại triều cương, nhưng cơ mật bị lộ, các đại thần tham dự ngược lại lại bị hoạn quan hãm hại. Từ đó những hoạn quan muốn sao làm vậy, hoành hành bá đạo.

Những lời này, chính là nói về đế vương thất đức, đi ngược với đạo quân vương, do vậy mà thiên hạ mới bị chia rẽ. Vua không tin trung thần, rời xa người thiện lương, biến các đại thần thành bù nhìn, để cho “người hầu” của mình trị quốc, chính là công tư không rõ ràng, thất tín với các đại thần, thất tín với thiên hạ. Dùng người không thích đáng, không thân cận với người lương thiện, do vậy đế vương là có phần trách nhiệm của mình trong đó, việc chưa làm tròn nghĩa vụ của đế vương, là cái bất nhân và bất nghĩa lớn nhất của đế vương. Người hầu của hoàng gia là gia thần của riêng gia đình hoàng đế, chứ không phải là các đại thần trị quốc, để họ trị quốc thì quốc gia không loạn sao được.

Tai họa liên tiếp, thiên tượng cảnh cáo

Chúng ta biết rằng, cổ nhân nói quân quyền Thần thụ, đế vương là thiên tử, là người đứng đầu thay Trời quản lý và dạy dỗ dân chúng, nếu như thất đức, thì sẽ xuất hiện các dị tượng và thiên tai không lành, người ta tin rằng đó là Trời đang cảnh cáo, dùng để khuyên răn đế vương quy chính đạo đức hành vi của mình. Nếu không thì giang sơn khó giữ, thiên hạ đại loạn, Thiên thượng sẽ trừng phạt ông ta. Do vậy, chúng ta thấy được, sau khi tác giả nói rõ về nguyên nhân của phân-hợp, trị-loạn, thì tường tận kể về các loại điềm báo không lành và các loại thiên tai thời Linh Đế. Rất nhiều hiện tượng dị thường theo nhau mà đến, đầu tiên là có rắn xanh rơi xuống ngai vàng của Linh Đế, có giông tố và mưa đá đột ngột, làm hỏng vô số phòng ốc, tiếp đó là động đất ở kinh thành Lạc Dương, bờ biển có sóng thần, còn có gà mái biến thành gà trống, khối khí đen cao mười mấy trượng bay vào cung điện v.v. Đại thần Sài Ung dâng biểu giải thích việc gà mái biến thành gà trống là cảnh cáo việc hoạn quan tham dự chính trị, do đó mà ông đã đắc tội với hoạn quan, phải từ quan về quê. Kể từ đó, Linh Đế lại càng tin dùng hoạn quan hơn nữa. Có 10 viên hoạn quan lộng hành nhất, bị gọi là “thập thường thị”, Linh Đế còn tôn một người lên làm “A Phụ”, tức là kính trọng như phụ thân. Đã đến mức như thế.

Cuối cùng, đối với hậu quả của sự thất đức của Hoàn Đế và Linh Đế, thì tác giả tổng kết một câu như sau: “Triều chính ngày một bại hoại, xa rời chính đạo, dẫn tới nhân tâm của người trong thiên hạ trở nên xấu đi, rất nhiều người do vậy mà nhân cơ hội làm loạn thế gian, dẫn tới đạo tặc nổi lên ở tứ phương, bách tính chịu nạn”. Đây chính là nguồn gốc căn bản của việc ba anh em Trương Giác tụ tập quân Khăn Vàng, rồi dám làm phản. Đồng thời cũng thể hiện rõ cách nhìn của tác giả, quân Khăn Vàng không hề là khởi nghĩa, mà là quân đạo tặc, nhân thời loạn mà mưu đồ đoạt lấy ngôi vua. Mưu đồ hết sức xảo trá.

Do vậy, tiếp đó tác giả viết đến thủ lĩnh của Khăn Vàng là ba anh em Trương Giác, miêu tả rằng anh em bọn họ loạn dùng các thứ thuật loại của Đạo gia, dựa vào hiệu lực thần kỳ giúp người trị bệnh, mà thu hút tín đồ đông đảo, mê hoặc nhân tâm, tạo thành một thế lực lớn mạnh, có đến vài chục vạn người theo, và khởi động loạn Khăn Vàng.

Khi kể rõ về bối cảnh câu chuyện như vậy, thì quan điểm lịch sử đã rõ ràng, phân tích tường tận, cái lý trong con người và sự răn đe từ Thiên thượng hợp lại làm một, chính là để khuyến thiện, khuyên các quân vương trong tương lai đừng thất đức, cần phải hiểu rõ cái nguyên nhân căn bản của hưng suy, trị loạn.

Vậy thần thuật trị bệnh của Đạo gia, vì sao lại bị Trương Giác đoạt được, những thứ thuật loại này của Đạo gia, vốn dĩ có vấn đề không? Tác giả cũng cho thấy kiến giải rõ ràng.

 

Xem tiếp phần 4.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254337

The post Nghĩa giải Tam quốc (3): Mở đầu luận đế vương thất đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (2): Thế nào là ‘nghĩa’?https://chanhkien.org/2020/04/nghia-giai-tam-quoc-2-the-nao-la-nghia.htmlSat, 25 Apr 2020 01:58:09 +0000https://chanhkien.org/?p=26215Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1 Cái mà Tam quốc diễn nghĩa diễn là ‘nghĩa’, vì vậy câu chuyện kinh điển mở đầu chính là ‘kết nghĩa vườn đào’ giữa Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi. Tại vườn đào của Trương Phi đã hình thành nên mối quan hệ kết nghĩa huynh […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (2): Thế nào là ‘nghĩa’? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1

Cái mà Tam quốc diễn nghĩa diễn là ‘nghĩa’, vì vậy câu chuyện kinh điển mở đầu chính là ‘kết nghĩa vườn đào’ giữa Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi. Tại vườn đào của Trương Phi đã hình thành nên mối quan hệ kết nghĩa huynh đệ không cùng huyết thống. Vậy ‘nghĩa’ này là gì?

Cách hiểu phổ biến nhất về ‘nghĩa’ là chính lý làm người, là đạo lý mà làm người trên thế gian cần tuân theo. Do vậy, ‘nghĩa’ phải đường đường chính chính, ngay thẳng, công bằng, không vị tư, mà vị công, vì người khác mà hành. Chính vì vậy những người xuất thân khác nhau thì cũng có những nghĩa vụ khác nhau, không tự thân nỗ lực làm những việc nên làm thì bị xem là bất nghĩa, điều đó có nghĩa là bạn đã vi phạm nguyên tắc làm người. Dù bạn là ai, ngồi ở vị trí nào thì đều vô tư mà làm tốt những việc cần phải làm, đó chính là trách nhiệm của bạn, không thể trốn tránh, do vậy mới có cách nói rằng việc của mình thì không thể đẩy cho người khác. Tất nhiên cũng có cách nói rằng “chính nghĩa bất dung từ”, tức nếu cần phải gánh vác đạo nghĩa nào đó thì không thể nào từ chối.

Ví dụ, các quân thần, phu thê trong quá khứ đều nhấn mạnh về các nguyên tắc và trách nhiệm mà họ nên tuân theo, vương có vương đạo (nhân nghĩa), thần có thần đạo (trung nghĩa), phu thê diệc nhiên (lòng chung thủy). Bất luận là quân thần hay phu thê, sư đồ bằng hữu hay phụ tử huynh đệ, chị em dâu, mẹ chồng nàng dâu… dù bạn đang trong mối quan hệ nào, với thân phận ra sao đều phải nắm vững đạo lý căn bản về cách làm người này. Các đạo lý làm người mà mỗi bên đều cần tuân thủ, vốn có các nội dung cụ thể khác nhau, nhưng đều thuộc về phạm trù  ‘nghĩa’, đều là ‘nghĩa’. Đặc điểm chung chính là sự ngay chính, vô tư, vị tha, và những việc mà bản thân nên thực hiện, nên gánh vác.

Do đó, người xưa có câu: “huynh đạo hữu, đệ đạo cung”, ý là đạo lý của phận làm anh trai là phải yêu thương, chăm sóc, ân cần với em trai của mình, còn phận làm em trai thì sao, đó là sự biết ơn, tôn trọng, cung kính vị anh trai của mình, thái độ cũng cần tôn kính và cùng san sẻ với người anh trai, đó là nghĩa vụ. Vì thế, khi nói đến tình huynh đệ, có thể ai đó sẽ hỏi: vậy ‘kết nghĩa vườn đào’ của Lưu–Quan–Trương có phải ngụ ý là nghĩa tình huynh đệ này không?

Thể hiện cái nghĩa của quân thần

Chúng tôi quay trở lại quan điểm của tác giả. Tác giả viết về Tam quốc là mô tả về toàn bộ quá trình từ khi hình thành đến khi kết thúc của ba vương quốc Ngụy, Thục và Ngô, là sự miêu tả liên tục về những chi tiết thời hoàng kim và thất bại của các vị hoàng đế, những tướng lĩnh, các vị anh hùng hào kiệt. Tác giả triển khai câu chuyện của từng nhân vật chủ chốt một cách chi tiết, để cho mọi người thấy được những thân phận khác nhau đã có những quyết định và lựa chọn như thế nào khi đối diện với địa vị, quyền lực, giàu sang trong thời thế gian nguy nan, loạn lạc. Mỗi một người đều có những chí hướng khác nhau, những nguyên tắc ứng xử khác nhau và mỗi lựa chọn đều là sự khảo nghiệm nhân tâm, đều là sự lựa chọn giữa thiện và ác, cũng chính là lựa chọn giữa nghĩa và bất nghĩa mà người xưa nói đến. Do đó, chúng ta thấy rằng các cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn và các anh hùng từ mọi tầng lớp lại liên tục xuất hiện. Rốt cuộc thì ai đang công tâm báo quốc an dân, và ai là người nhân danh công lý trên bề mặt để rồi thực ra là tìm kiếm ngai vàng địa vị hay quyền lực lợi ích riêng tư? Để mọi người nhìn thấy được những biểu hiện cụ thể của nghĩa và bất nghĩa, tác giả đã viết nên tác phẩm đồ sộ này, và lịch sử quan của tác giả qua đó cũng được thể hiện một cách đầy đủ.

Vì thế, ‘kết nghĩa vườn đào’ xuất hiện ở phần mở đầu và cũng nhất định là có mối liên quan đến những nhân vật trọng yếu và nhân vật chính được tác giả khẳng định. Ba người quả thực là tam vị nhất thể: Lưu Bị là thủ lĩnh, là người đầu não cho các đệ, là nhân vật định hướng; Quan Vũ và Trương Phi là hai cánh tay trái phải đắc lực của Lưu Bị. Do đó, chúng ta có thể thấy được, khi ba người xuất hiện thì Quan Vũ ở bên trái, Trương Phi ở bên phải. Ngoài việc tận hết cái nghĩa huynh đệ, còn biểu hiện sự đồng tâm đồng lòng của nghĩa quân thần. Lưu Bị không quên công tâm mà ái dân kính hiền, làm vị vua nhân nghĩa khoan dung độ lượng, cùng với Quan Vũ là bề tôi, là vị tướng trung nghĩa, đã được triển hiện một cách trọng điểm. Đó là mối quan hệ giữa quân vương và quân thần mà tác giả đánh giá cao và tôn trọng. Tác giả viết ra là để giáo dục các đế vương và văn võ bá quan, cùng bách tính phổ thông trong tương lai.

Do đó, bạn sẽ nhận ra rằng Lưu Bị, người mà sau này sẽ làm vua, trọng điểm là thể hiện chữ ‘nhân’ trong ý nghĩa của nhân vật này, bởi vì có cách nói rằng đạo làm vua phải có nhân nghĩa. Còn Quan Vũ và Trương Phi là hai vị bề tôi, do vậy chủ yếu làm nổi bật hàm nghĩa ‘trung’. Tất nhiên mọi người cũng sẽ dễ dàng hiểu được vì sao bằng hữu thường nhắc đến tín nghĩa, bởi lẽ bằng hữu cốt yếu là biểu hiện cái hàm nghĩa “tín”. Thật ra nhân nghĩa, trung nghĩa, tín nghĩa đều có sự tương quan với nhau và không thể nào tách rời hoàn toàn, nếu tách rời hoàn toàn, thì sẽ xuất hiện cái ngu trung và ngu tín không phân biệt rõ thiện ác, thậm chí có thể dẫn tới “trợ Trụ vi ngược”. Do vậy, người xưa có câu rằng “hiền thần trạch chủ nhi sự” (Tôi hiền chọn chúa mà thờ). Tam quốc diễn nghĩa đã thể hiện nội hàm này một cách đầy đủ trong câu chuyện. Vì thế nhân nghĩa, trung nghĩa và tín nghĩa đều có hàm ý nhấn mạnh riêng. Nói một cách khác, cho dù là nhân, trung hay tín thì đều có nội hàm cơ bản bên trong là “Chính trực vô tư, giữ vững thiện niệm”.

Trong tiểu thuyết, để thể hiện lòng nhân từ của Lưu Bị, nhân vật Tào Tháo được miêu tả là một gian hùng và trái ngược với Lưu Bị. Những người tôn trọng lịch sử thì cho rằng không công bằng với nhân vật Tào Tháo và cảm thấy không phù hợp với lịch sử. Vậy chúng ta xem đây chỉ là cuốn tiểu thuyết và trên thực tế đó đều là xử lý nghệ thuật. Lưu Bị cũng không giống y như nhân vật lịch sử nguyên gốc mà là đại diện cho một tính cách cao quý trong lòng tác giả. Miễn là nhân vật chính được tác giả tạo dựng là chính diện và mục đích cuối cùng là đề cao lòng tốt, đồng thời nhằm mục đích chính là chuyển tải đến mọi người về nội hàm của các chủng loại ‘nghĩa’ khác nhau, dạy con người không chỉ trở thành người có tình mà còn là người trọng nghĩa.

Sau đây, chúng ta sẽ xem chuyện kết nghĩa của Lưu Quan Trương, trước hết cần phải nói rõ bối cảnh lịch sử. Ngày nay, cách giải nghĩa phổ biến ở Trung Quốc Đại lục là cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn Vàng) là do bối cảnh triều chính mục nát, quan lại tham ô và nhũng nhiễu vào cuối thời Đông Hán. Nhưng thật ra điều này không phù hợp nguyên tác lịch sử. Rốt cuộc như thế nào thì hãy dựa vào nguyên tác để đối chiếu.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254336

The post Nghĩa giải Tam quốc (2): Thế nào là ‘nghĩa’? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghĩa giải Tam quốc (1): “Tam quốc chí” và “Tam quốc diễn nghĩa”https://chanhkien.org/2020/04/nghia-giai-tam-quoc-1-tam-quoc-chi-va-tam-quoc-dien-nghia.htmlTue, 21 Apr 2020 23:36:56 +0000https://chanhkien.org/?p=26205Tác giả: Lưu Như [ChanhKien.org] Người Trung Quốc khá quen thuộc với hàng trăm nhân vật kinh điển trong lịch sử Trung Quốc như: Gia Cát Lượng, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, đại đa số đều xuất thân từ Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng nguyên gốc là Tam Quốc Chí, vậy phân biệt hai […]

The post Nghĩa giải Tam quốc (1): “Tam quốc chí” và “Tam quốc diễn nghĩa” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Người Trung Quốc khá quen thuộc với hàng trăm nhân vật kinh điển trong lịch sử Trung Quốc như: Gia Cát Lượng, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, đại đa số đều xuất thân từ Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng nguyên gốc là Tam Quốc Chí, vậy phân biệt hai cuốn sách này như thế nào?

Nói một cách đơn giản, tác phẩm đầu tiên là một cuốn tiểu thuyết, giống như những bộ phim lịch sử với quy mô lớn ngày nay, thuộc về tác phẩm văn học và xuất phát từ lịch sử nhưng không tương đương với lịch sử. Tác phẩm sau được xem là sách về lịch sử và những ghi chép về những sự việc có thật trong lịch sử. Một số người lại hỏi: “Vậy thì Tam Quốc Diễn Nghĩa không hoàn toàn tương đương với lịch sử chân thực, tầm quan trọng của những câu chuyện này là gì?” Trên thực tế rất đơn giản. Mục đích chính của tiểu thuyết lịch sử là truyền tải một cách sinh động và truyền thần, tiết lộ mục đích chính thật sự của một giai đoạn lịch sử cổ đại Trung Quốc được dàn dựng và sắp xếp, đại diện cho lịch sử quan của tác giả, chính là nhìn nhận bộ lịch sử này như thế nào, nhận thức bộ lịch sử này như thế nào, và sau đó thể hiện nhận thức này dưới dạng một cuốn tiểu thuyết.

Việc viết tiểu thuyết của người xưa khác với ngày nay do họ nhận sự giáo dục cũng khác. Những độc giả trong quá khứ được gọi là nho sinh, là nhận nền giáo dục về lòng nhân từ, công bằng, trí tuệ và niềm tin vào Khổng Tử. Chí lớn của những người đọc sách này là tế thế an dân và dạy con người trở thành người tốt. Do đó, hầu hết các tiểu thuyết gia mang chí lớn này sử dụng trí huệ của cả một đời người để hoàn thành tác phẩm của họ, mục đích là để thực hiện giá trị nhân sinh và đóng góp cho xã hội và con người. Do đó, họ không bao giờ viết chỉ để người đọc thấy phấn khích thích thú mà họ viết tiểu thuyết lịch sử để tiết lộ ý nghĩa thực sự của một giai đoạn lịch sử. Điều này có ý nghĩa gì vậy? Chính là vì tác giả đã thấy được nội hàm của văn hoá, muốn lưu lại hình mẫu và giáo huấn cho đời sau, dạy người ta làm sao để làm người cho đúng đắn.

Ví dụ trong bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa, toàn bộ cuốn sách tiết lộ rằng lịch sử của Tam Quốc là để lại cho nhân loại một văn hoá làm người-văn hóa liên quan tới chữ “Nghĩa”, nghĩa là dạy con người tuân thủ đạo nghĩ làm người trong nhiều tình huống khác nhau như thế nào. Để thể hiện một cách sống động và truyền thần, các nhân vật lịch sử được xử lý một cách nghệ thuật để làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, các nhân vật lịch sử được khắc sâu trong lòng người dân, lưu truyên thiên cổ, từ đó mà người ta hiểu được hàm nghĩa thật sự của “Nghĩa”.

Mọi người đã quen thuộc với Quan Vũ bước ra diễn “Vượt năm ải chém sáu tướng”, “Hoa Dung đạo nghĩa thích Tào Tháo”, đối với chủ công là Lưu Bị thì không rời xa, đối với đối thủ là Tào Tháo thì cũng có các câu chuyện như có ân tất báo, vì thế mà được đặt vào vị trí “Nghĩa bạc vân thiên” (có nghĩa khí cao ngút trời). Lưu Bị và Gia Cát Lượng cũng lưu lại cái nghĩa quân thần qua các câu “Tam cố mao lưu”, “Cúc cung tận tụy”.

Do cuốn tiểu thuyết này được mệnh danh Tam Quốc Diễn Nghĩa, cái mà nó diễn chính là một chữ “Nghĩa”, theo quan điểm của tác giả, lịch sử chính là một kịch bản được an bài từ cõi u minh và để lạicho nhân loại nội hàm “Nghĩa” của văn hóa.

Chính vì thế, cuốn tiểu thuyết này chính là được mở đầu từ câu chuyện Kết nghĩa vườn đào của Lưu Quan Trương, giống như những bộ phim nhiều tập hiện đại, nhân vật chính xuất hiện trước, và khi vừa xuất hiện, nhân vật đã thể hiện rõ nét chủ đề “Nghĩa” của tác giả. Chúng tôi sẽ đi theo cái mạch của chữ “Nghĩa” này, đứng từ góc độ của tác giả La Quán Trung để khôi phục sự thật của mỗi câu chuyện kinh điển trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Xem tiếpPhần 2.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254335

The post Nghĩa giải Tam quốc (1): “Tam quốc chí” và “Tam quốc diễn nghĩa” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>