Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (2)https://chanhkien.org/2022/03/nghe-thuat-nho-tin-nguong-va-dao-duc-ma-tro-nen-huy-hoang-2.htmlTue, 01 Mar 2022 08:16:31 +0000https://chanhkien.org/?p=28399[ChanhKien.org] Nghệ thuật truyền thống chủ trương thuần chân và thiện lương Nghệ thuật ngoài chức năng bày tỏ lòng sùng kính, hướng về thế giới thiên quốc, thì nó còn có một chức năng quan trọng khác là khắc họa chân thực phong cảnh tự nhiên, cuộc sống sinh hoạt của con người, cùng […]

The post Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nghệ thuật truyền thống chủ trương thuần chân và thiện lương


Nghệ thuật ngoài chức năng bày tỏ lòng sùng kính, hướng về thế giới thiên quốc, thì nó còn có một chức năng quan trọng khác là khắc họa chân thực phong cảnh tự nhiên, cuộc sống sinh hoạt của con người, cùng với tinh thần tư tưởng chứa đựng phía sau đó. Nghệ thuật phương Tây thời Trung cổ và nghệ thuật Trung Quốc cổ đại đều trọng về tả ý, trong khi nghệ thuật phương Tây sau thời kỳ Phục hưng lại chú trọng hơn về thể hiện sự đẹp đẽ, chân thật và tinh tế của hình thức bề mặt. Trước cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai, dù ở phương Đông hay phương Tây thì tư tưởng chủ đạo của nghệ thuật truyền thống đều dùng ánh sáng làm chủ đạo để duy hộ giá trị quan đạo đức cũng như cái thiện trong nhân tính.

Hãy cùng chúng tôi quay ngược lại dòng thời gian lịch sử lâu dài, để xem xét khắp các nơi trên thế giới, chứng kiến vào thời điểm các vương triều thay đổi, những con người đạo đức bại hoại đã xa rời ý chỉ của Thần để rồi chuốc lấy diệt vong ra sao, những nghệ thuật gia với phẩm đức cao thượng đã ghi lại những bài học lịch sử trong tác phẩm của họ như thế nào, để những điều này lưu truyền qua nhiều thế hệ, soi sáng và cảnh báo cho thế hệ mai sau.

  • * *

“Nữ sử châm đồ”

Trước tiên chúng ta đến vùng đất Thần Châu. Vào triều đại Tây Tấn, Hoàng hậu Dương Diễm của Tấn Vũ Đế đã nhận hối lộ từ Giả Sung, hết sức tiến cử con gái của Giả Sung là Giả Nam Phong thành Thái tử phi. Tấn Vũ Đế ban đầu cũng không thích dung mạo xấu xí, tính tình ghen tuông của Giả Nam Phong, nhưng trước những lời cầu xin liên tục của Hoàng hậu, ông đã xiêu lòng chấp thuận. Sau khi trở thành Thái tử phi, Giả Nam Phong đã dùng những thủ đoạn lừa gạt để giúp Thái tử yếu đuối nhu nhược chiếm được sự sủng ái của Vũ Đế, thuận lợi đăng cơ thành Hoàng đế, sau đó chuyên quyền gây loạn triều đình, cuối cùng dẫn đến Loạn Bát vương khiến nhà Tây Tấn sụp đổ.

Sau khi triều đại Đông Tấn được thành lập, nhằm nhấn mạnh lại tầm quan trọng của đạo đức người phụ nữ, không để đất nước lặp lại những sai lầm tương tự, Trương Hoa đã viết bài văn “Nữ sử châm” (bài văn gồm 12 tiết để khuyên bảo nữ quan). Bài văn nhấn mạnh tầm quan trọng mười phần về đức hạnh của người phụ nữ đối với sự tồn vong của một quốc gia, với bậc Hoàng hậu càng phải biết tu dưỡng đạo đức thật cao, dùng sự hiền đức của mình mà tác động đến Quốc vương, để Quốc vương có thể sửa đổi hướng thiện, bình trị thiên hạ. Dựa trên bài văn này, họa sĩ nổi tiếng của triều đại Đông Tấn là Cố Khải Chi đã vẽ một bức tranh dài “Nữ sử châm đồ”. Bức tranh miêu tả 12 cảnh, gồm có: Phàn Cơ cảm Trang (1), Vệ Cơ gián Tề Hoàn Công (2), Phùng Tiệp Dư đáng hùng (3), Ban Tiệp Dư từ liễn (4) và các sự tích về hiền nữ nổi tiếng trong lịch sử. Thành tựu nghệ thuật của bức tranh này rất cao siêu, nét vẽ tinh tế, mạnh mẽ nối tiếp nhau, nhân vật trong tranh trang nhã, ăn mặc duyên dáng, cử chỉ nhẹ nhàng, phong thái xuất trần, bức tranh quả là quốc bảo truyền thế.

Người hiện đại thường có sự hiểu lầm rằng vào thời cổ đại phụ nữ không được xem trọng. Trên thực tế, xã hội truyền thống lại rất xem trọng người phụ nữ, Khổng Tử soạn ra Kinh Thi, bài thơ đầu tiên chính là Quan Thư (Người quân tử tưởng nhớ ái mộ thục nữ của mình, mong được thành hôn cùng nàng), nhấn mạnh tính trọng yếu rất lớn của người thê tử hiền đức đối với gia đình và quốc gia, vì lẽ đó mà người phụ nữ xứng đáng được yêu thương và trân trọng. Trong hoàng thất, Hoàng đế có các sử quan ghi chép lại lời nói và việc làm, có gián quan khuyên ngăn can gián, tránh cho Hoàng đế có ngôn hành thất đức. Hoàng hậu cũng có nữ sử chỉ dẫn khuyên can. Quốc gia từ trên xuống dưới đều coi trọng đạo đức và giáo hóa, cho dù là cửu ngũ chí tôn, mẫu nghi thiên hạ cũng không thể không tuân thủ quy phạm đạo đức. Trong bối cảnh như vậy, rất nhiều tác phẩm nghệ thuật đã được sáng tác nhằm duy trì đạo đức, khuyến khích mọi người làm việc tốt và tránh làm việc ác.

Bên cạnh các tác phẩm nghệ thuật có mục đích rõ ràng là giáo hóa đạo đức, còn có vô số tác phẩm khác ca ngợi đào nguyên tiên cảnh, cũng nhằm duy hộ sự thuần chân thuần thiện của thiên tính con người. Từ xa xưa, người Trung Quốc đã sùng Đạo, Khổng Tử được tôn là Thánh nhân cũng là người nối bước của tổ sư Đạo gia Lão Tử. Kinh điển của Đạo gia được xưng là Đạo Đức Kinh, đề cao tư tưởng con người cần phải thuận ứng Thiên đạo, phải xem trọng đạo đức. Đạo gia khuyên con người phải phản bổn quy chân, cởi bỏ sự ràng buộc của danh lợi, quay về thiên tính ‘vô triêm vô nhiễm’ (không nhiễm bẩn). Người xưa tin rằng để làm được điều này, một cách dễ dàng hơn là ẩn cư tránh đời, tại nơi núi sâu tìm một chốn đào nguyên. Vậy nên thời Trung Quốc cổ đại đã sản sinh ra rất nhiều tranh sơn thủy, tranh ẩn sĩ. Những bức tranh sơn thủy này chứa đựng nội hàm văn hóa Đạo gia sâu sắc, phản ánh tình chí cao khiết, tấm lòng lỗi lạc của họa sĩ, khiến người xem quên đi trần tục, khơi dậy tâm thành kính đối với Thiên Địa tạo hóa, tỉnh ngộ nhận ra sự khiêm tốn nhỏ bé của chính mình.

Cái giá của sự phóng túng tình cảm

Tiếp theo chúng ta đến với thánh địa Jerusalem cách đây hơn 2000 năm. Đế chế Tân Babylon này đã từng rất huy hoàng. Sau khi đế quốc này được truyền đến đời vua Nebuchadnezzar, Babylon thôn tính nước Do Thái, cướp phá sạch sẽ thủ đô nước Do Thái và còn thôn tính luôn các nước láng giềng nhỏ là Moab, Ammon và Edom… Khi Nebuchadnezzar trở về Babylon mang theo vô số vàng bạc châu báu và hàng ngàn tù binh, ông ta bắt đầu sống xa hoa, ông ta đã đem những châu báu trang sức khảm lên mỗi một đồ vật trong cung điện, ông ta ném những chàng thanh niên trẻ tuổi bất khuất người Do Thái vào trong lò lửa, thậm chí ông ta bắt đầu tự xem bản thân mình sáng ngang với Thượng Đế.

Một ngày nọ, Thượng Đế cho ông ta một giấc mơ và cảnh báo ông ta phải kết thúc cuộc sống tội lỗi này, nếu không cải biến thì tương lai sự trừng phạt của Thượng Đế sẽ giáng xuống ông ta. Tuy nhiên, Nebuchadnezzar không quan tâm và vẫn sống một cuộc sống xa hoa đầy dục vọng. Một hôm, Nebuchadnezzar đang đi dạo trong cung điện, khi đang kiêu ngạo ngắm nhìn vương quốc của mình, ông ta đột nhiên phát cuồng, trốn khỏi cung điện và sống trong rừng như dã thú suốt bảy năm. Dù sau này Nebuchadnezzar bình phục trở lại nhưng bài học ấy cũng không khiến cho con cháu của ông ta cảnh giác, con trai của Nebuchadnezzar là Belshazzar sau khi lên ngôi, vẫn ăn chơi sa đọa, tha hồ hưởng lạc, không tu thiện tích đức. Vì vậy, Thần đã viết một dòng chữ trên tường, ý tứ là: “Thần tính số năm trị vì vương quốc của ngươi đã hết, và vương quốc của ngươi sẽ thuộc về người Medes và người Ba Tư”. Đêm đó, Belshazzar bị giết, người Medes đã công phá vương quốc Tân Babylon.

Bức tranh “Lễ hội của Belshazzar” của họa sĩ người Hà Lan, Rembrandt. (Hình ảnh từ internet)

Vào thế kỷ 17, Rembrandt, một họa sĩ tiêu biểu của trường phái nghệ thuật Baroque Hà Lan, ông nổi tiếng về vẽ những câu chuyện lịch sử và kinh thánh, đã vẽ ra cảnh tượng kinh ngạc này dựa trên những ghi chép trong sách Kinh thánh – Daniel: Người hầu gái của Belshazzar đang dùng đồ cướp được trong thánh điện để rót rượu góp vui, đó vốn là những đồ dùng bằng vàng bạc dâng lên Thượng Đế, nhưng Belshazzar chưa kịp thưởng thức thì trên tường đột nhiên xuất hiện bàn tay và dòng chữ bí ẩn, khiến Belshazzar vô cùng kinh hãi và khiếp sợ. Ngụ ý trong tranh là sự phóng túng hưởng thụ tình cảm dục vọng thường chỉ thoáng qua trong giây phút, phồn hoa qua đi, sự phán xét của Thần mới là kết cục sau cùng của sinh mệnh. Đến khi đó, biểu hiện của con người thế gian sẽ trở thành tiêu chuẩn đánh giá; người khiêm tốn, tự giác, thiện lương sẽ đắc phúc báo; kẻ kiêu căng, ngang ngược, phóng túng dục vọng, tàn bạo sẽ chịu ác báo.

  • *

Thomas Jefferson, một trong những Quốc phụ sáng lập nên nước Mỹ từng nói: “Thượng đế đại diện cho đạo đức lương thiện và đẹp đẽ nhất mà loài người có thể có được”. Cho dù là Cơ đốc giáo và Thiên chúa giáo ở phương Tây, hay Phật giáo và Đạo giáo ở phương Đông, đều khuyên bảo dẫn dắt thế nhân làm mọi việc phải tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức nhất định. Vì vậy, trước khi khoa học kỹ thuật và văn minh hiện đại thống trị xã hội, hầu hết mọi người đều tín ngưỡng Thần và thiên quốc, tin vào những chuẩn tắc hành vi mà Thần cấp cho con người, cho nên cả xã hội đều hướng thiện tu đức, lòng người có chuẩn mực đo lường thiện ác. Trong bối cảnh xã hội như vậy, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật cũng tập trung đánh thức mặt thiện lương, quang minh của con người, rất hiếm khi khắc họa những hình tượng âm ám, méo mó. Những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp này tỏa ra ánh sáng của nhân tính và Thần tính, có ảnh hưởng tích cực đối với thẩm mỹ quan và đạo đức quan của con người.

Các tác phẩm nghệ thuật do Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun) sáng tác nên cũng nhằm mục đích đánh thức thiện niệm của con người. Các tiêu chuẩn thẩm mỹ của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận luôn tuân theo nguyên lý “Thuần Chân – Thuần Thiện – Thuần Mỹ”, không có bất kỳ nội dung u ám hay tiêu cực nào. Để có thể làm được điều này chính là nhờ đức tin thành kính xuất phát từ nội tâm của những người nghệ sĩ. Các thành viên của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đều tu luyện pháp môn thượng thừa của Phật gia – “Pháp Luân Đại Pháp”. “Pháp Luân Đại Pháp” yêu cầu tập luyện năm bài công pháp cải biến bản thể, đồng thời yêu cầu tâm tính đạt đến tiêu chuẩn “Chân-Thiện-Nhẫn”. Tâm thái của người tu luyện giúp cho diễn xuất của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đạt đến tiêu chuẩn hàng đầu thế giới. Đây là một trong chín đặc điểm khác biệt của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận so với các đoàn biểu diễn khác.

Thực ra, nghệ thuật ngay từ lúc sinh ra đã không thể tách rời tín ngưỡng, trước khi tôn giáo ra đời, tín ngưỡng của con người đối với Thần đã cắm rễ sâu vào sinh mệnh, người người vì tín ngưỡng mà kính sợ, vì kính sợ mà nghe theo lời cảnh báo của Thần mà được phúc báo và vinh diệu. Khi người nghệ sĩ có phẩm chất đạo đức và tính tự giác cực cao, tác phẩm mà họ sáng tác ra cũng sẽ lan toả sức mạnh tinh thần quang minh thuần chính, có sức lay động lòng người.

(Đăng lại theo sự cho phép của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun), bản quyền thuộc về Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun))

Chú thích:

(1) Phàn Cơ là Phu Nhân của Sở Trang Vương. Sau khi lên ngôi, Sở Trang Vương thích săn bắn. Phàn Cơ nhiều lần can gián không được, bèn quyết không ăn thịt cầm thú. Từ đấy Sở Trang Vương sửa đổi, chuyên việc chính sự hơn. (Theo Liệt Nữ Truyện – Sở Trang Phàn Cơ)

(2) Vệ Cơ là con gái Vệ hầu, là Phu nhân của Tề Hoàn Công. Hoàn Công tính tình phong lưu, yêu thích âm nhạc của hai nước Trịnh, Vệ, thích mỹ nữ của hai nước Trịnh, Vệ, cho rằng phụ nữ của hai nước cũng giống với âm nhạc của họ, đều dùng để hưởng lạc. Để sửa đổi thành kiến của Tề Hoàn Công, Vệ Cơ kiên quyết tỏ ý không nghe âm nhạc của quê hương. Không lấy sắc đẹp và tài múa để lấy lòng Vua. Tề Hoàn Công cũng không trách phạt, ngược lại bị sự khác người của bà hấp dẫn. (Theo Liệt Nữ Truyện – Tề Hoàn Vệ Cơ)

(3) Phùng Chiêu Nghi khi còn là Tiệp dư của Hán Nguyên Đế, một lần Vua cùng hậu cung cơ thiếp xem đấu thú ở quảng trường lớn. Khi đang theo dõi trận đấu, đột nhiên một con gấu mất kiểm soát vồ lên khán đài nơi Nguyên Đế đang ngồi. Tất cả quan thần lẫn cơ thiếp đều nhất loạt chạy tứ tán bỏ mặc Nguyên Đế, duy chỉ có Phùng Tiệp dư xả thân mình lên chắn ngang giữa Nguyên Đế và con gấu. Con gấu sau đó bị giết bởi đội vệ binh. (Theo Liệt Nữ Truyện – Hán Phùng Chiêu Nghi)

(4) Ban Tiệp Dư là Tiệp Dư của Hán Hiếu Thành Hoàng đế. Bà là người hiền tài, khéo ăn nói. Mới đầu vào cung bà chỉ là Thiếu Sử, sau được phong lên làm Tiệp Dư. Mỗi lần đi ra ngoài, Hán Thành Đế định cho làm một chiếc xe rộng lớn để Ban Tiệp Dư có thể ngồi chung. Biết chuyện ấy, Ban Tiệp Dư lễ phép tâu với Vua, lời tâu của Ban Tiệp Dư rất có đạo lý nên Hán Thành Đế phải hủy bỏ ý định ấy. (Theo Liệt Nữ Truyện – Ban Tiệp Dư)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/258760

The post Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (1)https://chanhkien.org/2022/02/nghe-thuat-nho-tin-nguong-va-dao-duc-ma-tro-nen-huy-hoang-1.htmlWed, 23 Feb 2022 02:36:12 +0000https://chanhkien.org/?p=28386[ChanhKien.org] Đức tin thành kính tạo nên những kiệt tác tuyệt vời Nghệ thuật là kết tinh trí tuệ của nền văn minh nhân loại, tìm hiểu trong lịch sử thì nguồn gốc của nghệ thuật thường có liên quan đến đức tin. Khi một loại cảm xúc tư tưởng nào đó quá mạnh mẽ, […]

The post Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]


Đức tin thành kính tạo nên những kiệt tác tuyệt vời

Nghệ thuật là kết tinh trí tuệ của nền văn minh nhân loại, tìm hiểu trong lịch sử thì nguồn gốc của nghệ thuật thường có liên quan đến đức tin. Khi một loại cảm xúc tư tưởng nào đó quá mạnh mẽ, con người thông qua ca hát, nhảy múa, hình vẽ tranh ảnh để biểu hiện ra. Thời cổ đại, tấm lòng tôn kính các vị thần cũng như tâm ý thành kính của con người là vượt trên bất kỳ một loại cảm xúc nào khác, vậy nên, tại giai đoạn đầu của bất kỳ loại hình nghệ thuật nào của con người, chúng ta thường thấy những tác phẩm nghệ thuật mô tả thế giới thiên quốc của các vị Thần Phật.

Hãy cùng chúng tôi quay ngược lại dòng thời gian lịch sử lâu dài, để xem xét khắp các nơi trên thế giới, cùng chứng kiến những vị Thần và Phật với thần thông vô hạn đã triển hiện những kỳ tích như thế nào tại thế gian con người, đồng thời chứng kiến những con người thuần phác và chân thành thời xưa đã làm thế nào đem sự huy hoàng này triển hiện trong các tác phẩm nghệ thuật.

“Thần và tôi đồng tại”

Hơn ba ngàn năm trước, xảy ra sự thay đổi thời tiết đột ngột ở vùng đất Trung Đông, trong bầu không khí tràn ngập sợ hãi. Vua Saul đang lãnh đạo người dân Israel cổ đại chiến đấu với người Philistines, tuy nhiên trong số những người Philistines có một người khổng lồ tên là Goliath, người dân Israel cổ đại không có bất kỳ một dũng sĩ nào có thể đương cự lại được người khổng lồ Goliath. Mỗi ngày trước trận chiến Goliath đều tuyên chuyến tìm người đấu với hắn, nhưng không một người Israel nào dám đối đầu với hắn. Hai đội quân cầm cự như vậy bốn mươi ngày, một cậu bé chăn cừu đến để đưa đồ ăn cho ba người anh em của mình trong quân đội, khi nhìn thấy tình cảnh này, cậu bé nói: “Tôi sẵn sàng chiến đấu với Goliath”. Các người anh em cậu bé rất tức giận. Họ không tin rằng cậu bé có thể đánh bại Goliath. Họ nghĩ rằng cậu bé chỉ nên đi chăn cừu. Nhưng cậu bé không cho là vậy mà cậu tin rằng mình sẽ đánh bại được Goliath. Cậu bé nhặt năm viên đá, đem theo dây quăng đá, đi nghênh chiến với Goliath. Goliath nhìn thấy một đứa bé ốm yếu đến khiêu chiến với hắn, liền haha cười lớn, chế nhạo cậu bé không biết tự lượng sức mình. Cậu bé bình tĩnh nói với Goliath: “Thần và tôi đồng tại.” Cậu giơ tay và quăng hòn đá về phía Goliath, trúng vào trán của người khổng lồ. Người Philistines nhìn thấy Goliath đã chết, liền lập tức tháo chạy tán loạn. Cậu bé trở thành vị anh hùng của người Israel, và sau đó trở thành Vua David kính yêu của người dân Israel.

Tượng David (Jörg Bittner Unna / Wikipedia)

Hai ngàn năm sau cái chết của David, văn phòng giám sát kỹ thuật Florence đã phát hiện và nghiên cứu một mảnh đá thô với kết cấu tuyệt vời, họ mời những nghệ sĩ tài năng nhất trong thành phố, hy vọng rằng một số trong số họ sẽ biến viên đá này thành một tác phẩm nghệ thuật. Chàng trai Michelangelo 26 tuổi phong nhã hào hoa, đã chủ động thực hiện nhiệm vụ khó khăn này. Michelangelo đặt một rào chắn xung quanh đá cẩm thạch, anh cần duy trì sự tập trung cao độ trong khi làm việc, không muốn bị một ai đến quấy rầy. Quá trình chạm khắc khó hơn tưởng tượng, làm thế nào để thổi hồn cho một thứ thô to lớn như vậy? Michelangelo vừa suy nghĩ vừa hồi tưởng lại một đoạn Thánh Kinh. Khi làm việc gặp phải nút thắt khó khăn, tự nhiên xuất hiện trong tâm trí anh câu nói đầy tự tin của vua David: “Thần và tôi đồng tại”. Dưới sự tập trung của ánh mắt chăm chú, cùng với tinh thần vững chắc kiên định, dần dần dưới đôi tay hữu lực của Michelangelo đường nét hình dáng dần dần hình thành, Michelangelo như nhìn thấy hình ảnh vua David đang đối mặt với Goliath, nhìn thấy niềm tin phát từ nội tâm của vua David, và sự hào hùng không một chút sợ hãi, ẩn hiện dưới những đường cơ bắp tinh tế. Michelangelo làm việc quên ăn quên ngủ, hầu như không có sự trợ giúp của bất kỳ một trợ thủ nào, bởi vì anh không chắc rằng sẽ có một ai khác sẽ hiểu được những thứ anh tâm niệm về vua David. Hai năm sau, một tác phẩm nghệ thuật chưa từng có đã ra đời, người ta tin rằng, đây là bức tượng đẹp nhất trong tất cả các bức tượng vua David từ trước đến nay và tương lai sau này. Ban đầu người ta dự định đặt nó trên ban công của bức tường vòm của nhà thờ, nhưng họ lại không nỡ đặt một tác phẩm hoàn hảo như vậy ở nơi cao mà không được mọi người chiêm ngưỡng, vì vậy cuối cùng bức tượng được đặt trước Tòa thị chính Florence cho đến hiện nay.

“Bệnh của chúng sinh là bệnh của tôi”

Cũng khoảng ba ngàn năm trước, ở thành phố Ville, Ấn Độ có một vị trưởng lão đức cao vọng trong là Vimosakir (Vimalakīrti, cũng được dịch là Vô Cấu Xưng hoặc Tịnh Danh). Tuy rằng ông chưa xuất gia, nhưng ông là tu sĩ tu tại gia. Khi cùng các đệ tử của Thích Ca Mâu Ni tham thiền ngộ Đạo, họ thường giảng các giáo lý Phật giáo mà họ chứng ngộ, nhưng rốt cuộc họ đều cảm phục trước các giáo lý cao hơn mà Vimosakir nói. Vimosakir hiểu rất rõ về huyền diệu của thần thông và thiên nhãn, có thể giảng giải rõ yếu nghĩa của việc toạ thiền và giới luật. Ông cũng hiểu rõ ý nghĩa chân chính của “Không”, đồng thời có thể dùng ngôn ngữ thích hợp để biểu đạt, khai thị những chỗ mê khó giải về tâm tính của chúng đệ tử Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên có một ngày, Vimosakir đột nhiên bị bệnh. Thích Ca Mâu Ni bảo Văn Thù Bồ Tát (Manjushri) đến thăm, khi đến nơi ở của Vimosakir Văn Thù Bồ Tát đã hỏi: “Ngài tu hành không phải là vô cùng thành công ư? Người tu hành thành công sao có thể mắc bệnh được?” Vimosakir nghe vậy trả lời: “Căn bệnh này của tôi đã có từ rất lâu rồi. Căn bệnh này xuất phát từ chấp trước si ái. Tôi thấy rằng tất cả chúng sinh đều vì chấp trước si ái mà sinh ra khổ nạn. Khổ nạn của chúng sinh trở thành căn bệnh của tôi. Nếu một ngày chúng sinh thoát khỏi đau khổ, thì bệnh của tôi có thể được chữa khỏi.” Văn Thù Bồ Tát vừa nghe xong liền đạt được sở ngộ. Sau đó, Vimosakir đã giải thích cho Văn Thù Bồ Tát ý nghĩa của “Không” và hàm nghĩa của “Bất nhị Pháp môn”, lời nói dẫn nhập đến cảnh giới mỹ diệu, Văn Thù Bồ Tát nghe xong liền nhập Thần, đang định tiếp tục tìm hiểu những Pháp lý cao hơn, Vimosakir đột nhiên trầm mặc không nói, Văn Thù Bồ Tát ở trong trầm tĩnh mặc niệm mà ngộ ra Phật lý, ngay trong khoảng khắc ấy, Trời đổ mưa hoa.

Câu chuyện này được ghi chép trong “Duy Ma Cật Kinh”, sau khi được truyền vào Trung nguyên thì được dịch sang tiếng Trung Quốc, tấm lòng đại từ bi xả thân vì mọi người này sau đó đã được phổ cập trong tư tưởng văn hóa Hoa Hạ. Một số người bắt đầu vẽ chân dung của Vimalakir, trong đó có Cố Khải Chi, một trong những họa sĩ hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc. Vào năm thứ hai niên hiệu Hưng Ninh triều Đông Tấn, chàng thiếu niên Cố Khải Chi vẫn chưa thành danh, anh được biết thành Kim Lăng đang quyên góp tiền xây dựng chùa Ngoã Quan Tự, tuy nhiên không một vị quan nào của thành Kim Lăng sẵn sàng quyên góp vượt quá số tiền mười vạn, thế là anh phát nguyện quyên tặng trăm vạn tiền cho chùa Ngoã Quan Tự. Cố Khải Chi nói với các hoà thượng trong chùa rằng: “Xin chư vị hãy chuẩn bị một bức tường để tôi vẽ.” Sau đó Cố Khải Chi đã bế quan đóng cửa một tháng không ra ngoài không ra ngoài, để tập trung vẽ. Cố Khải Chi luôn tin rằng vẽ nhân vật nào đều yêu cầu phải hiểu rõ tư tưởng tính cách của nhân vật đó mới có thể hoạ xuất ra được thần thái, và quan trọng nhất là để vẽ trông giống như Thần. Một trong những bước quan trọng nhất để vẽ ra được thần thái đó chính là “Điểm nhãn”, nhưng không thể tùy tiện vẽ điểm nhãn, bởi vì một khi đôi mắt được vẽ ra, bức tranh sẽ có linh hồn. Vì vậy khi anh vẽ, “điểm nhãn” luôn là phần sau cùng, hoặc là cách một đoạn thời gian dài sau đó mới lại ‘điểm nhãn’, mỗi một lần đều vô cùng thận trọng, lo sợ nếu như ‘điểm nhãn’ không tốt, thì bức tranh vẽ đó sẽ có một linh hồn với tâm thuật bất chính, đặc biệt là bức tranh vẽ nhân vật như Vimalakirti. Bởi vì đoạn đối thoại trong kinh Duy Ma Cật Cố Khải Chi đã vốn đã thuộc làu, đối với những Pháp lý mà Vimalakirti đã giảng, anh cũng có sự lĩnh hội cá nhân, vì vậy đối với phần ‘điểm nhãn’ của bức tranh Cố Khải Chi rất tự tin. Anh nói các hoà thượng trong chùa thông báo cho mọi người, những ai muốn đến chiêm bái bức vẽ thì ngày đầu tiên cần quyên góp là mười vạn, ngày thứ hai là năm vạn, ngày thứ ba là số tiền tự nguyện, cứ như vậy, mọi người truyền nhau, tranh giành nhau đến xem, Chùa Ngõa Quan Tự rất nhanh đã quyên góp được một trăm vạn, Cố Khải Chi cũng từ việc này mà danh tiếng lan truyền. Bức tranh Vimalakirta này xác thực là ngàn vàng khó kiếm, nhưng điều quý giá hơn là tâm hướng thiện lễ Phật của người họa sĩ. Mặc dù bức tranh này đến hôm nay không còn được lưu giữ, nhưng qua Đường thi của nhà thơ Đỗ Phủ chúng ta vẫn có thể mà tượng tưởng ra phong thái khi đó: “Được coi bức hoạ mà tôi hằng khao khát bấy lâu, Nay cứ nghĩ lại mà lòng còn bàng hoàng. Thật rõ là quý tướng từ hình ảnh của Kim Túc, Thật là thần diệu khó mà quên được.” (Đây là 4 câu thơ trong bài thơ Đỗ Phủ viết Tiễn ông tám thập di họ Hứa về Giang Ninh thăm cha mẹ, trước Phủ tôi thường là khách thăm huyện này được anh Hứa xin cho coi tấm vẽ hình Duy Ma Cật, chùa Ngoã Quan. Bốn câu thơ cuối bài có nhắc đến bức vẽ Vimalakirti)

  • *

Trong lịch sử có rất nhiều tác phẩm được trưng bày ở các điện thờ đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật đều triển hiện rõ đức tin. Ví dụ những tác phẩm điêu khắc trong đền thờ Parthenon ở Hy Lạp, tỷ lệ cơ thể hoàn hảo, các mẫu quần áo giống như thật khiến người xem phải cảm thán kinh ngạc; ví như những bức tranh khảm kính trong các nhà thờ Châu Âu, ánh nắng mặt trời chiếu xuống xuyên qua những khe hở của các bức tranh trong thánh đường, giống như ánh sáng vinh quang của Thánh Kinh đang chiếu rọi; ví như bức tượng Phật tráng lệ trong hang động Đôn Hoàng, Đức Phật với dáng vẻ uy nghi được mọi người từ khắp nơi đến kính bái, tất cả đều thể hiện sự chân thành của những nghệ nhân đã được ghi vào lịch sử. Vào thời cổ đại ở phương Đông và phương Tây, những ai được sinh ra với tài năng nghệ thuật đều được xem là những người được Thần ban cho tài năng, họ sử dụng tài năng của mình để dâng tặng các vị Thần, ca ngợi chư Thần, rất hiếm ai sử dụng tài năng này để mưu cầu công danh lợi ích cá nhân. Những tác phẩm nghệ thuật được tạo ra từ trái tim sùng đạo, vị tha thường sẽ không bị lịch sử công kích hay đào thải mà tồn tại lưu truyền mãi với thời gian.

Chương trình nghệ thuật do Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun) biểu diễn cũng nhằm mục đích đánh thức thiện niệm của con người. Các tiêu chuẩn thẩm mỹ của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận luôn tuân theo nguyên lý “Thuần Chân – Thuần Thiện – Thuần Mỹ”, không có bất kỳ nội dung u ám hay tiêu cực nào. Để có thể làm được điều này chính là nhờ đức tin thành kính xuất phát từ nội tâm của những người nghệ sĩ. Các thành viên của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đều tu luyện pháp môn thượng thừa của Phật gia – “Pháp Luân Đại Pháp”. “Pháp Luân Đại Pháp” yêu cầu tập luyện năm bài công pháp cải biến bản thể, đồng thời yêu cầu tu tâm tính theo tiêu chuẩn “Chân-Thiện-Nhẫn”. Tâm thái của người tu luyện giúp cho diễn xuất của Đoàn Nghệ thuật Thần Vận đạt đến tiêu chuẩn hàng đầu thế giới. Đây là một trong chín đặc điểm khác biệt của đoàn nghệ thuật Thần Vận so với những đoàn nghê thuật khác. Thực ra, nghệ thuật ngay từ lúc sinh ra đã không thể tách rời tín ngưỡng, trước khi tôn giáo ra đời, tín ngưỡng của con người đối với Thần đã bám rễ sâu trong sinh mệnh, người người vì tín ngưỡng mà kính sợ, vì kính sợ nên nghe theo lời cảnh báo của Thần mà được phúc báo và vinh diệu. Khi người nghệ sĩ có phẩm chất đạo đức và tính tự giác cực cao, tác phẩm mà họ sáng tác ra cũng sẽ lan toả sức mạnh tinh thần quang minh thuần chính, có sức lay động lòng người.

(Bản quyền thuộc về Đoàn Nghệ thuật Thần Vận – Shen Yun)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/258759

The post Nghệ thuật nhờ tín ngưỡng và đạo đức mà trở nên huy hoàng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>