mỹ thuật tân cổ điển | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 3)https://chanhkien.org/2024/12/cong-xa-paris-lan-thu-nhat-va-my-thuat-tan-co-dien-phan-3.htmlMon, 09 Dec 2024 02:17:58 +0000https://chanhkien.org/?p=35213Tác giả: A.H [ChanhKien.org] David cũng đã từng nếm trái đắng như vậy, chỉ là ông biết rõ những bức tranh ông vẽ này đều dùng để tuyên truyền chính trị, ông đương nhiên sẽ không ngốc đến mức đi giết người nhà mình. Nhưng sau khi ông bỏ phiếu tán thành việc đưa Vua […]

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: A.H

[ChanhKien.org]

David cũng đã từng nếm trái đắng như vậy, chỉ là ông biết rõ những bức tranh ông vẽ này đều dùng để tuyên truyền chính trị, ông đương nhiên sẽ không ngốc đến mức đi giết người nhà mình. Nhưng sau khi ông bỏ phiếu tán thành việc đưa Vua Louis XVI lên máy chém, vợ ông Charlotte (tên Charlotte David sau khi kết hôn và tên Marguerite Charlotte Pécoul lúc còn trẻ) cảm thấy chán ghét cuộc cách mạng này, cuối cùng đã không thể chịu đựng được và ly hôn với ông.

Tuy nhiên, theo tài liệu lịch sử, Charlotte cũng đã không từ bỏ việc kéo David trở về con đường chính đạo. David đã bị bỏ tù hai lần sau khi mất quyền lực vào năm 1794. Trong khoảng thời gian đó, Charlotte và các học trò của David đã bôn ba cầu viện, cuối cùng đã cứu được mạng sống của ông, và mỗi lần đều chỉ trong một khoảng thời gian ngắn đã giúp ông được thả. Hai người họ tái hôn vào ngày 12 tháng 11 năm 1796, và sống cùng nhau đến già, câu chuyện của họ cũng đã trở thành một giai thoại.

Tranh sơn dầu “La Liberté ou la Mort” (Tự do hay là chết) – Bức tranh của Họa sỹ Pháp Jean-Baptiste Regnault sáng tác năm 1793 – 1795.

Trong thời kỳ này, nghệ thuật chính trị liên quan đến cái chết không chỉ được phản ánh trong các sáng tác của David. Dưới ảnh hưởng của tà linh và bầu không khí chính trị thối nát, không ít nghệ sỹ đã đặt chân vào chủ đề này. Ví dụ, bức “La Liberté ou la Mort” được vẽ bởi Jean-Baptiste Regnault, bạn học của David, chính là loại tác phẩm lấy lòng chính quyền tà ác: hình người có đôi cánh ở giữa là biểu tượng của nước Pháp, đang bay phía trên Trái Đất. Hai bên thì một bên là Nữ Thần tượng trưng cho nền cộng hòa tự do, và một bên là Thần Chết. Chủ đề hiển lộ một cách rõ ràng màu sắc chính trị rằng: không tham gia vào cuộc cách mạng cộng hòa chính là chọn cái chết. Mặc dù các nhân vật trong tranh có sự xuất hiện của Thiên sứ hoặc nhân vật thần thoại, nhưng ai cũng biết rằng trong bối cảnh cấm chỉ tín ngưỡng chính giáo và cổ vũ bối cảnh xã hội sát hại tín đồ, thì những hình ảnh này tuyệt không phải là để ca ngợi các vị Thần, mà là bị đánh cắp để chống lại đức tin và ủng hộ cuộc cách mạng giết người.

Bức tranh “Cái chết của Gaius Gracchus”(La Mort de Caius Gracchus) do tác giả François Topino-Lebrun hoàn thành vào năm 1798.

Bởi vì David phụ trách bộ phận tuyên truyền và nghệ thuật, cùng với tài năng hội họa siêu phàm của mình, ông đương nhiên có rất nhiều đồ đệ. Trong đó, có không ít học trò cũng tiếp bước thầy giáo mình, tham gia vào hoạt động chính trị cách mạng. Ví dụ, François Topino-Lebrun, người đã tiếp nhận trường phái cộng sản sơ khai “Babouvisme”, là một trong những môn sinh đắc ý của David, và tác phẩm tiêu biểu của ông cũng là tác phẩm có chủ đề chết chóc “Cái chết của Gaius Gracchus” (La Mort de Caius Gracchus). Tuy nhiên, ông được biết đến nhiều nhất vì đã âm mưu với nhà điêu khắc Giuseppe Ceracchi để ám sát Napoléon vào mùa thu năm 1800 với sự trợ giúp từ thế lực phe Jacobin còn sót lại. Sau khi vụ việc thất bại, ông bị xử tử cùng với đồng bọn.

Một môn sinh khác của David, họa sỹ phái Jacobin Philippe-Auguste Hennequin cũng từng tham gia vào cuộc chính biến chủ nghĩa cộng sản thời kỳ đầu. Vào tháng 9 năm 1796, hàng trăm thành viên của nhóm chủ nghĩa cộng sản sơ khai Les Égaux đã gia nhập lực lượng với tàn dư của nhóm Montagnards – đảng của phái Jacobin trước đây, đóng quân tại Grenelle phía Tây Nam Paris. Tại đây, họ đã kích động phản loạn, mưu đồ xây dựng lại công xã đã sụp đổ, thực hành chính sách ruộng đất của chủ nghĩa cộng sản, nhưng nhanh chóng bị dập tắt, Hennequin cũng bị bỏ tù vì có liên quan.

Sự khác biệt và mối liên hệ

Sau khi Napoléon lên nắm quyền, những sự điên cuồng này đã được chấm dứt. Vào ngày 15 tháng 7 năm 1801, Napoléon và Giáo hoàng đã ký một hiệp định chính trị – tôn giáo, tức “Điều ước giáo vụ” (Régime concordataire français), dưới sự bảo hộ của pháp luật đã khôi phục địa vị của Giáo hội Thiên Chúa giáo là quốc giáo ở Pháp và cho phép nhà thờ tổ chức các nghi thức tôn giáo một cách công khai; đồng thời khôi phục giáo dục tôn giáo truyền thống trong các trường tiểu học công lập, và thuê các nhân sĩ giáo hội làm giáo viên. Kể từ đó, giáo hội đã có được một địa vị tương đối đặc biệt trong giáo dục tiểu học, các chức sắc tôn giáo có thể được bổ nhiệm làm hiệu trưởng các trường tiểu học công lập.

Nghệ thuật trong bối cảnh tại thời điểm này cũng được quay trở về chính thống. Các nghệ sỹ cuối cùng cũng có thể một lần nữa khắc họa các vị chính Thần mà không bị đe dọa bởi án tử hình – mặc dù ngày càng có ít tác phẩm miêu tả các vị Thần vào thời điểm này, nhưng ít nhất thế giới nghệ thuật không còn đầy rẫy những độc tố ma tính cổ vũ cho cuộc cách mạng giết người.

Nghệ thuật chính thống từng bước đi về đúng quỹ đạo, và chủ nghĩa tân cổ điển từ thời kỳ đế quốc về sau có thể được coi là sự quay trở lại chủ nghĩa cổ điển trước đó, tức là phát triển và mở rộng của nghệ thuật cổ điển thế kỷ 17 và 18. Rất nhiều nghệ sỹ không còn tập trung sáng tác vào chính trị hiện thực mà dần hướng đến một số chủ đề thần thoại và nghệ thuật thuần túy. Điều này được thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm của các nghệ sỹ tiêu biểu của chủ nghĩa tân cổ điển sau này như Jean-Auguste-Dominique Ingres, v.v.

Nếu nhìn lại “Nghệ thuật cách mạng” trước đây, không khó để nhận thấy rằng không có nhiều sự khác biệt về kỹ pháp mỹ thuật giữa những tác phẩm cổ vũ bạo lực giết người và những tác phẩm cổ điển bình thường. Mà điều tạo nên sự khác biệt một trời một vực giữa chúng chính là ý nghĩa của tác phẩm, tức một tác phẩm muốn biểu đạt cái gì, đây chính là cốt lõi của sáng tác nghệ thuật.

Đối với một nghệ sỹ, tầm quan trọng của nội hàm tư tưởng của tác phẩm là không thể thay thế. Chúng ta có thể thấy rằng, dù xưa hay nay, nếu như một nghệ sỹ ca ngợi một chính quyền chà đạp lên đức tin và tàn sát người dân vô tội, thì tác phẩm của anh ta dù có hay đến đâu cũng sẽ mất đi ý nghĩa, vì đó là trái với Thiên đạo. Nghệ thuật từ ban sơ đã bắt nguồn từ Thần, và có thể giúp cho con người thăng tiến về đức hạnh, mà không phải dùng để phá hủy đạo đức phổ quát. Vì vậy, ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật đóng vai trò cực kỳ trọng yếu trong việc quyết định linh hồn của tác phẩm đó.

Điều cần phải chỉ ra là, nghệ thuật tân cổ điển nói chung sử dụng các kỹ nghệ truyền thống và sử dụng các cách diễn đạt hàn lâm, cho nên không thể bị coi là cặn bã. Rất nhiều nghệ sỹ, bao gồm cả David, đã thực sự đạt được những thành tựu trác tuyệt trong kỹ pháp mỹ thuật, điều này là hoàn toàn không thể phủ nhận. Chỉ là trong các nghiên cứu cụ thể, bởi vì chúng ta hôm nay đang học hỏi từ các bậc tiền nhân thay vì chỉ rập khuôn thuần túy, đối với các tác phẩm của họ chúng ta cũng cần phân biệt và lựa chọn. Chẳng hạn như bức họa “The Death of Marat” (Cái chết của Marat) tôn sùng tà ác, làm ô nhiễm tâm trí con người, là những tác phẩm rất không thích hợp để làm nghiên cứu chính diện.

Có lẽ một số người sẽ cho rằng một số tác phẩm thể hiện cái chết vào thời đó đi theo trào lưu truyền thống về chủ đề bi kịch. Nhìn về mặt hình thức là có nhân tố về phương diện này, nhưng về bản chất nó cách biệt một trời một vực với truyền thống chân chính. Mặc dù từ xa xưa đã có những tác phẩm lấy đề tài bi kịch, nhưng mục đích của việc sáng tác bi kịch truyền thống là khơi dậy lòng trắc ẩn, sự cảm thông và thiện lương bên trong nhân tính, hoặc là gợi lên suy nghĩ của con người về ý nghĩa sinh mệnh và theo đuổi chân lý. Điều này là khác nhau căn bản giữa trước và sau Đại cách mạng, khi nhiều bộ môn nghệ thuật bị chính trị hóa hoàn toàn và trở thành công cụ để tuyên truyền chính trị. Những gì họ thể hiện là để phục vụ chính trị cách mạng và những thứ bề ngoài, khác hẳn với những tư tưởng truyền thống trước đây. Trong các tác phẩm này không có ý tưởng chủ đạo, tác giả thể hiện quan niệm nông cạn một chiều về hoàn cảnh xã hội mà đánh mất đi con người thật của mình trong nghệ thuật.

Những người bị ảnh hưởng bởi cái gọi là chủ đề bi kịch như vậy không thương tiếc sinh mệnh, hơn nữa còn ca ngợi chính quyền lưu manh bằng việc xúi giục và kích thích việc truy cầu giết chóc dân chúng. Có không ít tác phẩm là lấy sự lạnh lùng tàn sát nhân loại mang tính “cách mạng” làm ý nghĩa chính, thổi phồng quyền lực tối cao của nhà nước, kích động nhiệt tình bạo lực cách mạng đến mức “quân pháp bất vị thân” (chẳng hạn như tác phẩm “Le Serment des Horaces”- Lời thề của Horati và “Les licteurs rapportent à Brutus les Corps de ses fils” – Những người hầu cận của Brutus đem xác con trai trở về, v.v.). Những điều này phải được phân biệt cẩn thận đối với từng tác phẩm cụ thể.

Đồng thời, chúng ta cũng thấy rằng các yếu tố lịch sử chồng chéo rất phức tạp, trong một đời người có làm điều thiện và cũng có làm điều ác. Như đã đề cập trước đó, các nghệ sỹ trong lịch sử không phải tất cả đều là đen hoặc trắng. Ví dụ, David, người đã vẽ không ít bức tranh tuyên truyền bạo lực cách mạng trong giai đoạn đầu, cũng có lúc suy nghĩ lại về hành vi của mình. Trong thời gian bị giam cầm sau khi mất quyền lực, ông lại cân nhắc đến hướng sáng tác của mình. Qua tác phẩm “Les Sabines” được chính thức bắt đầu sáng tác vào đầu năm 1796, chúng ta có thể thấy sự chuyển biến nghệ thuật của họa sỹ sang chủ đề “chấm dứt xung đột bằng tình yêu”.

Bức tranh “Người phụ nữ của Sabines” (Les Sabines) do David sáng tác từ năm 1796 đến 1799.

Khi Napoléon một lần nữa tiếp tục bổ nhiệm David làm họa sỹ cung đình, các tác phẩm của ông đã tạm biệt chủ đề kích động cách mạng ban đầu. Mặc dù những bức tranh chủ đề ca ngợi hoàng đế cũng có thể coi là nội dung chính trị, nhưng Napoléon được sự chứng nhận của Giáo hoàng, lên ngôi xưng đế theo đúng thủ tục pháp lý. Căn cứ nguyên tắc “quân quyền thần thụ”, Napoléon thuộc về chế độ quân chủ được công nhận, vì vậy, mặc dù các tác phẩm cung đình thế kỷ 19 của David vẫn mang đầy không khí chính trị, nhưng chúng không còn thuộc về “ly kinh phản đạo” nữa. Trong quá trình vẽ bức “Le Sacre de Napoléon” (Lễ đăng quang của Napoléon), David cũng đã được gặp Giáo hoàng Pius PP. VII và được ngài ban phước lành. Sự phát triển từng bước của chuỗi sự kiện này cũng giúp cho người họa sỹ vốn là nhà cách mạng này dần dần tìm thấy vị trí của mình trong cuộc sống.

Từ các luận thuật của nhà phê bình nghệ thuật người Pháp Étienne-Jean Delécluze (1781-1863), người đã nghiên cứu về David nhiều năm, có thể thấy David hầu như không có ảnh hưởng gì đến chính trị cách mạng. Hầu hết các bài phát biểu của ông liên quan đến nghệ thuật, những người làm nghệ thuật, các tổ chức nghệ thuật và các lễ hội mà ông tổ chức. Vì vậy, có quan điểm cho rằng trong một thời đại cuồng loạn như Đại Cách mạng Pháp, David, với tư cách là một quan chức phụ trách nghệ thuật lúc bấy giờ, nhiều khi cũng là “người trong giang hồ, thân bất do kỷ”. Ông ấy không phải là một tên đồ tể điên cuồng, nhưng khi những tên đồ tể nắm trong tay quyền lực và giơ con dao đồ tể, vì để bảo vệ mình, ông cũng không thể không phục vụ cho những người đó.

Cũng có nghiên cứu cho rằng, hành động của David thực sự bắt nguồn từ ý thức chính trị nhạy bén của ông — đầu tiên ông rơi vào tay những người cách mạng vào đúng thời điểm, và sau khi phái Jacobin sụp đổ, tại một thời cơ thích hợp khác ông đã tìm thấy chỗ dựa mới là Napoléon – chứ không phải là thực sự ý thức được bạo lực cách mạng tà ác. Nói một cách logic, điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên, đối với nghiên cứu lịch sử, nhiều chuyện tốt nhất là nên được đo lường dựa trên hành vi thực tế của các nhân vật lịch sử hơn là suy nghĩ của họ. Bởi vì suy nghĩ của con người quá phức tạp, nhiều khi đủ loại ý nghĩ đều có thể là sự phản ánh của các nhân tố khác trong não người, khiến suy nghĩ của con người ở trạng thái không ổn định. Mà việc đánh giá thực sự một người vẫn phải dựa trên hành vi của người đó. Nhìn từ một góc độ khác, con đường nhân sinh mỗi người kỳ thực đã được an bài, và những ý nghĩ trong quá trình này cũng không thể giải thích được quá nhiều thực chất của vấn đề.

Chính vì việc lý giải lịch sử cũng là việc “nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí” (người nhân thấy gì cũng là nhân, người trí thấy gì cũng là trí), cho nên, thay vì đoán suy nghĩ của các nhân vật lịch sử lúc bấy giờ, chi bằng bắt đầu từ sự thật lịch sử, xem xét và phán đoán dựa trên hành vi của con người thì có thể chuẩn xác hơn, rất nhiều sự việc có thể lập tức hiểu ra ngay.

Đơn cử một ví dụ rất nổi tiếng: Philatô (Pontius Pilate) là thống đốc thành Rome, người đã ra lệnh hành quyết Chúa Giê-su. Ông biết rằng Chúa Giê-su là một người vô tội và lương thiện, và rằng Chúa Giê-su đã dùng phép thuật để chữa khỏi bệnh nan y cho con trai duy nhất của ông, bởi vậy ông không muốn hành hình Chúa Giê-su. Tuy nhiên, trước áp lực chính trị, Philatô đã lấy nước rửa tay trước mặt đại chúng và nói rằng: “Làm đổ máu người công chính này, tội không tại ta, các người chịu đi!”, sau đó ông mới phán quyết tử hình Chúa Giê-su.

Mặc dù Philatô trong lòng nghĩ rằng Chúa Giê-su là người tốt, ngoài miệng cũng nói Chúa Giê-su là người công chính, nhưng trên hành vi vẫn là làm việc ác, do đó ông ta vẫn phải gánh chịu tội nghiệp to lớn. Sau khi Philatô kết án tử hình Chúa Giê-su, người con trai được chữa khỏi ban đầu của ông ngã xuống đất và chết. Sau đó không lâu, Philatô bị sốt cao và hôn mê. Về sau, sự nghiệp ông cũng sớm gặp rắc rối và bị lưu đày đến Gaul, đồng thời tài sản cũng bị tịch thu, khiến ông không còn một xu dính túi và sống cuộc đời nô lệ. Nhưng chuyện này vẫn chưa kết thúc, Philatô về sau bị hạ lệnh “được ban cái chết”. Khi biết hung tin, ông chỉ biết tự thiêu mình trong cơn tuyệt vọng, ném tấm thân tàn tạ xuống sông cho bầy cá ăn thịt.

Điều này đối với các nhân vật lịch sử, đối với con người ngày nay chẳng phải cũng giống nhau hay sao? Ngày nay, rất nhiều người Trung Quốc trong lòng đều biết rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc làm rất nhiều việc ác, và thậm chí còn âm thầm mắng chửi nó tà ác. Tuy nhiên, họ lại không tình nguyện thoái đảng, rút lui khỏi các tổ chức liên đới của nó. Họ không biết rằng, một khi đứng dưới lá cờ máu mà thốt lên lời thề độc “đem sinh mệnh của mình hiến cho đảng, phấn đầu một đời vì đảng”, thì họ chính là một phần của đảng và được coi là một phần tử của tổ chức này. Như vậy, vào lúc Đảng Cộng sản Trung Quốc bị tiêu diệt, những người chưa thoái khỏi nó sẽ bị liên lụy và gặp nguy hiểm.

Có thể thấy, tà ác thực chất là tà linh chuyên hại người. Đối với con người mà nói, dù là nghệ thuật gia hay những chuyên gia khác, dù ở thời xưa hay thời nay, trải qua những gian truân của cuộc đời trong hoàn cảnh hỗn loạn cuối cùng tìm được vị trí nhân sinh của mình, quả thực không hề dễ dàng. Về các tác phẩm nghệ thuật trong thời kỳ Công xã Paris đầu tiên, từ quan điểm của các lý thuyết hiện có, đứng từ góc độ con người, mặc dù có sự quấy nhiễu của tà ma, nhưng chúng không hoàn toàn được xếp vào lý thuyết chủ nghĩa cộng sản ở thế gian. Chúng ta cũng không nhận định những tác phẩm này từ đầu đến cuối đều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, chỉ là đối với từng tác phẩm cụ thể cần phân biệt rõ những nhân tố tà ma để tránh bị lợi dụng sơ hở khi nghiên cứu nghệ thuật. Đối với những nghệ thuật gia trong lịch sử, nếu có những tác phẩm chính diện, truyền thống và xuất sắc mà không miêu tả tà ác, thì chúng ta vẫn cần đối đãi bằng từ bi. Chỉ khi nghiên cứu các tác phẩm của các bậc tiền bối một cách rõ ràng, toàn diện, chúng ta mới có thể dễ dàng tham khảo được từ nghệ thuật truyền thống, từ đó quay trở về với nghệ thuật Thần truyền.

Tài liệu tham khảo:

Augustin Barruel, 《 Mémoires pour servir à l’histoire du jacobinisme 》, 1798
Étienne-Jean Delécluze, 《 Louis David, son école et son temps : Souvenirs 》, 1855
Epoch Times, 《 Comment le spectre du communisme dirige le monde 》, 2018
Epoch Times, 《 Neuf commentaires sur le Parti communiste 》, 2004
Frans de Haes, 《 Aux sources du XIXe siècle : les Mémoires du peintre Philippe-Auguste Hennequin (1762-1833) 》, 2007
Joshua Philipp, 《 The Dark Origins of Communism 》, 2017
Tite-Live, 《 Histoire romaine 》, 1940
Voltaire, 《 Lettre à Frédéric II, roi de Prusse 》, 1767
William Fleming, 《 Arts and Ideas 》, 1955

(Hoàn) Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/258121

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/12/cong-xa-paris-lan-thu-nhat-va-my-thuat-tan-co-dien-phan-2.htmlThu, 05 Dec 2024 02:17:42 +0000https://chanhkien.org/?p=35179Tác giả: A.H [ChanhKien.org] Ngày nay nhiều người cho rằng Phong trào Khai sáng là tốt. Tại sao? Bởi vì trong sách giáo khoa đều viết như thế, trong trường học đều dạy như thế. Nhưng trên thực tế, Phong trào Khai sáng là một phong trào tẩy não tất cả những người bình thường […]

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: A.H

[ChanhKien.org]

Ngày nay nhiều người cho rằng Phong trào Khai sáng là tốt. Tại sao? Bởi vì trong sách giáo khoa đều viết như thế, trong trường học đều dạy như thế. Nhưng trên thực tế, Phong trào Khai sáng là một phong trào tẩy não tất cả những người bình thường có tư tưởng truyền thống lúc bấy giờ, nhằm gạt bỏ chính tín của con người ra khỏi hệ tư tưởng và tạo cơ sở lý luận cho cuộc cách mạng giết người sau này.

Đám người trong Phong trào Khai sáng kia ở trong đủ các ngành các nghề khác nhau, nhưng họ có một điểm chung rất lớn đó là nhất trí trong việc chống lại tín ngưỡng tôn giáo truyền thống. Bọn họ mô tả thời đại của tín ngưỡng thành kính đối với Thần là thời đại đen tối, tự gọi mình là “Những nhà khai sáng” (Hommes des Lumières) nhằm tiêu diệt tín ngưỡng, đem “ánh sáng” của ma quỷ đến nhân gian, dựng xây “Thời đại ánh sáng”.

Những nhân vật nổi bật trong Thời đại Khai sáng là những nhà tư tưởng, triết học, xã hội học, nhà lý luận nổi tiếng mà chúng ta đã rất quen thuộc, kỳ thực họ đều được chọn lọc đưa vào sách giáo khoa. Lấy giáo dục bắt buộc của Trung Quốc làm ví dụ, Đảng Cộng sản Trung Quốc có mục đích đưa một số danh nhân lịch sử có quan điểm ủng hộ cộng sản vào sách giáo khoa một cách có chọn lọc, để người Trung Quốc có thể xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan lịch sử do tà ác hoạch định ngay từ khi còn nhỏ.

Với thông tin tương đối cởi mở ngày nay, sự xâm nhập của Hội Tam Điểm và Illuminati trong lịch sử đã là một chủ đề công khai, đã từ lâu không còn là một bí mật gì ghê gớm nữa. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử quen thuộc đối với người Trung Quốc kỳ thực là thành viên của Hội Tam Điểm, chẳng hạn như Voltaire, người luôn lăng mạ Cơ Đốc giáo, Paul Thiry d’Holbach, người trắng trợn tuyên truyền thuyết vô Thần, và Montesquieu – người công khai phản đối chế độ quân quyền Thần thụ, v.v.

Bởi vì thời đại đã lâu, mặc dù chúng ta không có 100% bằng chứng lịch sử thuyết phục để chứng minh rằng một số người là thành viên của Hội Tam Điểm, nhưng họ có liên hệ mật thiết và hợp tác chặt chẽ với hội đó, chẳng hạn như nhà duy vật Denis Diderot, người đã viết sách luận chứng thuyết vô Thần. Nhưng nhiều vị Thánh nhân nổi tiếng trong lịch sử phương Tây thì lại không hề được biết đến ở Trung Quốc, và họ thậm chí còn bị các cơ quan chính phủ kiểm soát khống chế không cho truyền bá. Đối với giới trí thức ở Trung Quốc ngày nay, những người tùy ý khinh nhờn Thần linh ở mọi thời đại, chẳng hạn như Voltaire ở thế kỷ 18 và Friedrich Nietzsche ở thế kỷ 19, đều nổi tiếng hơn nhiều so với Vua Louis IX (vị vua được sắc phong làm Thánh đồ nước Pháp, nổi tiếng với sự thành kính và nền chính trị nhân từ, đức hạnh). Điều này không thể không nói là do kết quả của sự cố ý kiểm soát tư tưởng. Những người trí thức hoàn toàn không nghĩ rằng hầu hết những người nổi tiếng mà họ nghiêm túc nghiên cứu và sùng bái là những kẻ điên cuồng đấu trời đấu đất, còn những người tốt thì họ lại biết rất ít.

Loại “quốc giáo” vô thần luận “sùng bái lý tính” hoàn toàn không thể khiến người ta tin phục này chắc chắn sẽ đoản mệnh. Sau khi băng đảng của Eber thất thế và bị giết trong cuộc tranh giành quyền lực vào mùa xuân năm 1794, Robespierre cho rằng dân chúng không thể chấp nhận chủ nghĩa vô thần hoàn toàn, vì vậy ông ta bắt đầu thổi phồng một loại hữu thần luận khác, phát minh ra một loại tín ngưỡng mới – Sùng bái tối cao (Culte de l’ Être suprême) làm quốc giáo, sùng bái một vị Thần tự nhiên không xác định nào đó, và ra mắt “Tết Tối cao” (Fête de l’Être suprême) vào ngày 8 tháng 6 năm 1794. Khu vực Paris vào thời điểm đó đương nhiên do David phụ trách công tác tuyên truyền, và nó được tổ chức xung quanh những ngọn đồi nhân tạo trên Quảng trường Champ-de-Mars vào năm đó.

Bức tranh “Fête de l’Être suprême au Champ-de-Mars” (Tết Tối cao trên Quảng trường Chiến Thần), Tác giả: Pierre-Antoine Demachy, vẽ năm 1794.

Phiên bản quốc giáo mới này rõ ràng bị ảnh hưởng bởi quan điểm của Voltaire quá cố. Voltaire là người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy vật, mặc dù thừa nhận có quyền lực tối cao mà con người không biết đã điều chỉnh sự vận hành của vũ trụ, nhưng ông lại phủ nhận mọi hiện tượng và thần tích trái với quy luật tự nhiên. Ông ta tin rằng tất cả những người được xưng là con của Thượng Đế đều là những câu chuyện lừa gạt do các thầy phù thủy dựng nên, vì vậy ông ta căm thù Giáo hội Thiên Chúa và gán cho Cơ Đốc giáo là mê tín mù quáng. Trong bức thư gửi Frédéric II, ông thậm chí còn viết: “Chừng nào còn những kẻ lừa đảo và ngớ ngẩn, thì sẽ còn tôn giáo” (Tant qu’ il yaura des fripons et des imbéciles,il yaura des religions).

Sở dĩ ông ta dám to gan lớn mật tấn công các tôn giáo truyền thống trong thời đại đó, không thể tách rời tôn chỉ và sự hỗ trợ của các thế lực đứng sau hậu thuẫn. Có thể thấy điều này từ “Bách khoa toàn thư” (Encyclopédie) mà Diderot, Voltaire, Holbach, Jean Le Rond d’Alembert và các nhà khai sáng khác đã biên soạn. Những hành vi này mục đích là lợi dụng tri thức khoa học thực chứng và quan điểm thuyết vô thần để thay thế tôn giáo tín ngưỡng trên hình thái ý thức, và đặt nền tảng tư tưởng cho sự phá hủy trật tự xã hội truyền thống.

Trên thực tế, mọi người đều biết rằng những tà giáo kỳ lạ quái dị không cách nào lừa gạt được đại chúng, bọn chúng như phù dung sớm nở tối tàn, dựa vào sức mạnh, sự uy hiếp và tàn sát của các thế lực lưu manh. Với sự sụp đổ của Công xã Paris vào năm 1795 và sự thay thế của các lực lượng vũ trang, không mấy người thực sự tin vào cái gọi là “tôn giáo” do những người kia tạo ra nữa. Vài năm sau, những thứ mới như “Bác ái giáo” (Théophilanthropie) cũng xuất hiện, nhưng chúng không gây ra được làn sóng lớn. Tuy nhiên, các tôn giáo loại này thường cứ sau một khoảng thời gian lại ra đời một loại “tôn giáo nào đó”, từ trực quan làm suy yếu uy tín của tất cả các tôn giáo trong tâm trí mọi người.

Nghệ thuật chết chóc

Trong vòng một năm từ mùa hè năm 1793 đến mùa hè năm 1794, phái Jacobins chủ đạo Công xã Paris, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã đem bạo lực khủng bố viết thành một tài liệu chính thức, và được đặt làm quốc sách của chính phủ. Vào thời điểm đó, số người bị kết án tử hình ở Paris là 2.639 người, và tổng số người bị hành quyết ở Pháp là 16.594 người. Nhưng trên thực tế, còn có nhiều người hơn đã thiệt mạng mà không có bản án chính thức nào được tòa tuyên án.

Bắt đầu từ ngày 10 tháng 6 năm 1794, Ủy ban An toàn Công cộng đã thông qua Luật Khai sáng được người đời sau gọi là thời kỳ “Đại khủng bố” (Grande Terreur). Từ ngày 10 tháng 6 đến ngày 27 tháng 7 cùng năm, trước khi Robespierre sụp đổ, luật pháp quy định mọi công dân có quyền bắt giữ những kẻ phản cách mạng và đồng bọn của chúng, và giao những người bị bắt cho các quan chức an ninh. Các quan chức an ninh phải ngay lập tức buộc tội những người bị bắt. Đồng thời, “Tòa án cách mạng” khét tiếng (Tribunal révolutionnaire) cấm bị cáo được thuê luật sư hoặc tự bào chữa, không được kháng cáo bản án và quy định án tử hình là hình phạt duy nhất, và tất cả tài sản của người chết sẽ bị quy về quốc gia sở hữu.

Vì vậy, loại luật biến tướng cổ vũ tùy tiện giết người chiếm đoạt của cải này cho phép Tòa án Cách mạng tuyên án và xử tử hàng nghìn người trên máy chém. Các băng đảng xã hội cũng đã gán cho không ít người cái gọi là “phần tử phản cách mạng”, rất nhiều người bị bắt và bị xử tử chỉ vì bị tình nghi. Tất nhiên, còn có không ít người khác chỉ vì có một chút ân oán cá nhân mà bị mượn cớ diệt khẩu. Trong tình thế hỗn loạn, có vô số sự việc xảy ra, trong đó những sự kiện một số đám lưu manh tùy tiện tấn công kẻ yếu đến chết cũng nhiều không kể xiết.

Chúng ta đã biết rằng, thứ bạo lực điên cuồng khát máu và ham muốn máu tươi này đến từ những linh hồn ma quỷ. Mặc dù trong hiện thực thể hiện ra là bạo lực và thảm sát đang từng bước leo thang theo cách giải thích của lịch sử, nhưng chính là do linh hồn ma quỷ đã tồn tại từ lâu và đang ảnh hưởng đến tâm trí của con người. Điều này có thể được phản ánh trong các tác phẩm nghệ thuật có mối liên quan chặt chẽ với tư tưởng của con người.

Vẫn lấy họa sỹ đại diện lúc bấy giờ là David làm ví dụ. Một đặc điểm trong các tác phẩm ban đầu của David là ông thích vẽ người khác chết như thế nào. Trước khi thất thế vào năm 1794, ông đã vẽ ít nhất mười tác phẩm về chủ đề cái chết, và thậm chí một nửa trong số các tiêu đề trực tiếp là “Cái chết của XX”, ví dụ:

“Cái chết của Sénèque” (La Mort de Sénèque, 1773)
“Tang lễ của Patrocle” (Les Funérailles de Patrocle, 1778)
“Đấng Christ trên Thập tự giá” (Le Christ en croix, 1782)
“Nỗi bi ai của Andromaque trước thi thể của chồng” (La Douleur et les Regrets d’Andromaque sur le Corps d’Hector son mari, 1783)
“Cái chết của Socrate” (La Mort de Socrate, 1787)
“Người hầu mang xác con trai trở về cho Brutus” (Les licteurs rapportentà Brutus les Corps de ses fils, 1789)
“Cái chết của Lepeletier” hoặc “Những khoảnh khắc cuối cùng của Lepeletier” (La Mort de Lepeletier de Saint-Fargeau ou Les Derniers Moments de Michel Lepeletier, 1793)
“Cái chết của Marat” (La Mort de Marat, 1793)
“Marie-Antoinette tới Máy chém” (Marie-Antoinette conduiteàl’échafaud 1793)
“Cái chết của Bara thời trẻ” (La Mort du jeune Bara, 1794)
Bức tranh “Lời thề của Horatii” (Le Serment des Horaces)

Bức tranh “Lời thề của Horatii” (Le Serment des Horaces), Tác giả: David (Jacques-Louis David), vẽ năm 1784.

Một số tác phẩm mặc dù nội dung không phải là cảnh chết chóc, nhưng những câu chuyện và ý tưởng đằng sau chúng cũng rất đáng sợ, chẳng hạn như tác phẩm nổi tiếng “Lời thề của Horatii” (Le Serment des Horaces, 1784) của ông. Tác phẩm kể về một câu chuyện: Vào thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên, một cuộc chiến nổ ra giữa La Mã và nước láng giềng Albalonga, hai bên nhất trí mỗi bên chọn một nhóm ba anh em, và đấu trận ba chọi ba quyết định thắng thua.

Bên La Mã chọn ba anh em Horace, bên đối phương cử ba anh em Curiace. Kết thúc trận đấu là ba anh em của Curiace đều chết trong trận chiến, còn ba anh em của Horace thì chết hai. Khi người anh trai Horace duy nhất còn lại trong niềm hân hoan trở về, em gái anh ta là Camille đã nhận ra một chiếc áo khoác từ những chiến lợi phẩm của anh trai chính là chiếc áo mà cô đã may cho một trong những anh em nhà Curiace. Thì ra cô là hôn thê của người đàn ông này. Camille đau khổ khóc thảm thiết khiến anh trai cô không hài lòng nên đã giết cô và nói: “Tất cả những phụ nữ La Mã dám khóc cho kẻ thù đã chết đều phải bị xử tử như thế này”.

Bức tranh “Những người hầu cận của Brutus đem xác con trai trở về” (Les licteurs rapportentàBrutus les Corps de ses fils), Tác giả: David, vẽ năm 1789.

Loại đề tài vứt bỏ nhân tính, cái được gọi là “đại nghĩa diệt thân”, càng thể hiện rõ ràng hơn trong tác phẩm “Những người hầu cận của Brutus đem xác con trai trở về” (The Attendant Brutus Back the Corpses of His Sons, năm 1789) được vẽ vào năm 1789 để phục vụ cho cách mạng và tuyên dương ý tưởng cộng hòa: Năm 509 TCN, Lucius Junius Brutus phát động binh biến, trục xuất vua La Mã Lucius Tarquinius Superbus, trở thành người sáng lập và chấp chính chế độ Cộng hòa La Mã. Nhưng hai người con trai của ông lại có ý đồ lật đổ chế độ cộng hòa và khôi phục chế độ quân chủ. Lựa chọn giữa chế độ và các con trai, Brutus đã hành quyết hai con trai ruột của mình để bảo vệ chế độ Cộng hòa La Mã và quyền lực của mình.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/258121

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/12/cong-xa-paris-lan-thu-nhat-va-my-thuat-tan-co-dien-phan-1.htmlSun, 01 Dec 2024 00:45:04 +0000https://chanhkien.org/?p=35155Tác giả: A.H [ChanhKien.org] Nói về Công xã Paris, nhiều người sẽ nghĩ đến một chính quyền ngắn ngủi cướp đoạt được thông qua vụ thảm sát đẫm máu năm 1871. Nhưng ai đã từng nghiên cứu lịch sử đều biết rằng, trong lịch sử nước Pháp thực tế đã từng có hai lần “Công […]

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: A.H

[ChanhKien.org]

Nói về Công xã Paris, nhiều người sẽ nghĩ đến một chính quyền ngắn ngủi cướp đoạt được thông qua vụ thảm sát đẫm máu năm 1871. Nhưng ai đã từng nghiên cứu lịch sử đều biết rằng, trong lịch sử nước Pháp thực tế đã từng có hai lần “Công xã Paris” (Commune de Paris). Cuối thế kỷ XVIII, Công xã Paris lần thứ nhất xuất hiện trong Đại Cách mạng Pháp, Công xã Paris năm 1871 thực sự kế thừa tên gọi Công xã Paris trong Đại Cách mạng và mở rộng cơ cấu tổ chức cũng như phương thức bạo lực của nó.

Rất nhiều dữ liệu lịch sử hiện có và nhiều nghiên cứu khác nhau cho thấy, sau hai lần Công xã Paris đều xuất hiện tổ chức giáo phái bí mật Illuminati (hay Quang chiếu bang), và Hội Tam Điểm (Freemasonry, hay Cộng tế hội). Đồng thời, Công xã Paris năm 1792 và Công xã Paris năm 1871 rất giống nhau từ tên tổ chức, cương lĩnh hành động cho đến áp dụng những thủ đoạn đẫm máu cụ thể. Có thể thấy rằng, tuy cách nhau hàng chục năm nhưng hoàn toàn có thể coi hai sự kiện này là những việc tương tự nhau do quần thể có tính chất giống nhau làm ra.

Một số lý thuyết cộng sản hiện có đã quen với việc định nghĩa Cách mạng Pháp là một “Cuộc cách mạng tư sản”. Trên thực tế, cái gọi là sự phân chia “giai cấp tư sản” và “giai cấp vô sản” tự bản thân nó chỉ là một khẩu hiệu chính trị do tà linh cộng sản lập ra và miễn cưỡng gán ghép cho mục đích giết người đối lập mà thôi. Trong những người giàu có và quyền lực trong Đảng Cộng sản Trung Quốc có ai là “giai cấp vô sản” hoàn toàn không có tài sản gì? Tà linh cộng sản đã cưỡng ép chia đám đông thành nhiều cái gọi là “giai cấp” đối lập nhau, hơn nữa còn chủ trương “đấu tranh giai cấp” để lừa gạt khiến cho nhóm này giết nhóm khác, rồi lấy cái tên mỹ miều là “Đại cách mạng” để “ngư ông được lợi”. Chúng ta cần biết rằng ý nghĩa của từ “cách mạng” có thể được hiểu là “cắt bỏ mạng sống”, hay nói một cách thông tục thì chính là “giết người”. Vậy thì “Cuộc cách mạng vĩ đại” chính là “Cuộc đại thảm sát”, đây cũng là một sự thật lịch sử.

Trong thời kỳ Cách mạng Pháp, nghệ thuật vừa vặn nằm dưới làn sóng Tân cổ điển (Néo-classicisme) đang dâng trào, sự can thiệp của những thứ tà linh ác quỷ cùng nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài đã khiến trào lưu nghệ thuật này rơi vào trong trạng thái phức tạp. Trường phái Hiện thực (Réalisme) được các họa sỹ Công xã Paris ngưỡng mộ vào năm 1871 và những thứ được cộng sản Liên Xô sau này kế thừa, từ phong cách kỹ xảo đến nội dung thể hiện đều tràn ngập nhân tố tà linh, đều là những thứ cặn bã đáng vứt bỏ.

Chủ nghĩa Tân cổ điển được đề cập trong bài viết này, bản thân nó không phải là do tà linh sinh ra, mà trong quá trình phát triển nó đã bị tà linh tác động ảnh hưởng và lợi dụng. Vì vậy, nó không thể đem so sánh và đối đãi ngang bằng với loại hình nghệ thuật thuần túy Chủ nghĩa Cộng sản – cái gọi là “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism). Nhưng chính vì vậy, để tránh bị ô nhiễm bởi tà linh trong việc nghiên cứu và tìm hiểu nghệ thuật Tân cổ điển thì việc làm rõ các vấn đề cụ thể trong đó là vô cùng quan trọng. Mặc dù nói đến các loại nhân tố rắc rối phức tạp, nhưng lịch sử là như vậy, các trường phái nghệ thuật và nghệ thuật gia trong lịch sử cũng không phải không đen thì ắt sẽ trắng, rất nhiều sự việc cần từng bước làm rõ từ đầu đến cuối.

Tóm tắt bối cảnh sinh ra nghệ thuật phong cách Tân cổ điển

Vào cuối thế kỷ XVI, để kìm hãm những cải cách tôn giáo ngày càng mạnh mẽ đương thời, Giáo hội Công giáo đã khuyến khích các nghệ sỹ thể hiện cảm xúc Thần thánh trong các tác phẩm của họ khi miêu tả các chủ đề tôn giáo, từ đó khơi dậy lòng khao khát hướng tới Thiên Đường của các tín đồ, bởi vậy đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của phong cách Baroque vào thế kỷ XVII. Có thể thấy điều đó qua một số bức họa trên trần nhà thờ hoặc các tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự tự tại trong thế giới của Thiên Chúa, kết cấu tràn ngập sự sinh động, khung cảnh linh thiêng tráng lệ và nguy nga, lối trang trí tinh tế duyên dáng và sang trọng, màu sắc ánh sáng có sức cuốn hút sâu sắc. Các yếu tố nghệ thuật này khiến cho người ta cảm thấy thế giới Thiên quốc hiện ra nguy nga tráng lệ, từ đó biểu đạt tấm lòng thành kính và ca tụng của con người đối với Thần.

Đương nhiên, các phong cách biểu hiện và chủ đề nghệ thuật rất đa dạng. Đặc biệt là trong thế giới con người, bình thản lý tính chính là trạng thái chuẩn mực, điểm này thể hiện nhiều hơn trong phong cách Chủ nghĩa Cổ điển (Classicisme) song song với Baroque trong lịch sử mỹ thuật. Chủ nghĩa Cổ điển lấy nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại làm hình mẫu, tôn trọng lý tính, tuân theo quy phạm, tìm kiếm chân lý trong nghệ thuật trang nhã và hài hòa.

Tuy nhiên, sự xuất hiện của Phong trào Khai sáng (Lumières) đã sử dụng sự phát triển của khoa học thực chứng, thúc đẩy các tư tưởng khai sáng, vô thần luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng khác nhau để làm suy yếu tín ngưỡng của con người đối với Thần, khiến con người bị ảnh hưởng bởi nó mà ngày càng xa rời Thần, chú trọng hiện thực. Đến thế kỷ XVIII là thời kỳ phong cách Rococo, vốn kế thừa phong cách Baroque, thì các tác phẩm nghệ thuật đã phát triển theo hai phương diện.

Trong nghệ thuật tôn giáo, các nghệ sỹ tiếp tục thể hiện sự Thần thánh và huy hoàng của Thiên quốc như trước đây. Về hình thức nghệ thuật, ngoài việc kế thừa vẻ ngoài tráng lệ huy hoàng, tư thế sinh động của phong cách Baroque trước đó, còn chú trọng những nhân tố sáng tạo như sự nhẹ nhàng tinh xảo của nghệ thuật và sự phong phú tinh tế của các chi tiết trang trí.

Trong nghệ thuật đời thường, các họa sỹ chú trọng mô tả sự hào nhoáng của cuộc sống con người và sự tinh tế lãng mạn của cảm xúc. So với các tác phẩm của các họa sỹ thời kỳ trước, các chủ đề đời thường thời này hầu hết thể hiện cuộc sống vui vẻ của xã hội thượng lưu, truy cầu tình yêu và các nội dung khác, hoặc sử dụng các chủ đề thần thoại làm ẩn dụ để thể hiện niềm vui cuộc sống. Để phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của xã hội lúc bấy giờ, Học viện Hội họa và Điêu khắc Hoàng gia Pháp (Académie royale de peinture et de sculpture), nơi luôn được biết đến với truyền thống cổ điển, đã có một số viện trưởng và một số lượng lớn giáo viên là các nghệ sỹ sáng tạo theo phong cách Rococo. François Boucher, họa sỹ tiêu biểu của phong cách này, từng là viện trưởng từ năm 1765 đến năm 1768.

Đối với một loại phong cách nghệ thuật nào đó, có người thích thì cũng tự nhiên có người không thích. Một số người trong thế giới nghệ thuật có gu cổ điển hơn cảm thấy mệt mỏi với những đồ trang trí phức tạp và tầm thường cũng như xu hướng xa hoa hưởng lạc theo phong cách Rococo, họ tìm cách phát triển phong cách cổ điển nguyên bản. Đồng thời, khi phong trào Khai sáng thúc đẩy mạnh mẽ việc phổ biến chủ nghĩa duy lý, xu hướng này dần dần bắt đầu ảnh hưởng đến nhiều người hơn. Các chuyên gia, đại diện là Johann Joachim Winckelmann (nhà khảo cổ học và sử học nghệ thuật người Phổ), đã thực hiện các chuyến đi thực tế đến tàn tích của các thành phố cổ đại Pompeii và Herculaneum, một lần nữa khơi dậy niềm đam mê đối với nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại. Được thực hiện bởi các họa sỹ nổi tiếng như Joseph-Marie Vien ở Pháp và Pompeo Batoni ở Ý, phong cách Tân cổ điển dần được hình thành.

Winckelmann hy vọng lấy văn hóa lý tưởng để tái tạo lại nền văn hóa và nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, nhưng những tác phẩm điêu khắc và kiến ​​trúc cổ đại mà ông và một số nhà khảo cổ học khác tìm thấy thực sự chỉ còn sót lại sau một thời gian lịch sử dài đằng đẵng. Ngày nay, thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ hiện đại, người ta đã phát hiện ra rằng các công trình kiến ​​trúc và tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ đại đều thực sự được người dân thời đó vẽ bằng nhiều màu sắc phong phú, tuy nhiên do quá trình bào mòn và phong hóa của các chất liệu màu trong hơn 2000 năm, nên về cơ bản chúng đã mất đi màu sắc vốn có. Do đó, phong cách hài hòa, ngắn gọn, đơn nhất và không màu sắc do thời gian gây ra không phải là diện mạo chân chính của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại nguyên bản đầy màu sắc. Nhưng Winckelmann, người đã hiểu lầm điểm này đã đề xuất rằng lý tưởng của nghệ thuật Tân cổ điển phải là “Sự đơn thuần cao quý và trang nghiêm vĩ đại” (Edle Einfalt und stille Größe). Từ những nét mộc mạc, rõ ràng và trang trọng được thể hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật tiếp theo của thể loại này, người ta có thể đánh giá được cảm thụ trực quan mà lý tưởng nghệ thuật này mang lại cho con người trong thực tiễn.

Nghệ thuật và chính trị

Khi tà linh cộng sản còn chưa trắng trợn xâm lấn và khống chế nghệ thuật của nhân loại, chúng ta đều có thể giữ thái độ khoan dung khi nhìn nhận các trường phái xuất hiện trong quá trình phát triển của nghệ thuật, trong đó cũng bao gồm sự biểu hiện của các phong cách nghệ thuật đa dạng. Tuy nhiên, một khi những nhân tố tà ác bắt đầu tiếp quản nghệ thuật của nhân loại một cách có hệ thống, tuyên truyền cuộc cách mạng giết người, thì những thứ này về bản chất không còn giống với nghệ thuật bình thường nữa. Trong một thế cục hỗn loạn, cho dù là nghệ thuật gia hay là người dân từ các ngành các nghề khác nhau đều có thể gây ra một số hành động điên cuồng, trên thực chất chính là do tư tưởng bị tà ác thao túng, khống chế.

Nội dung bài viết này tập trung vào thời kỳ lịch sử cuồng loạn của Cách mạng Pháp, do đó, một số tác phẩm, tư liệu lịch sử được liệt kê không tránh khỏi mang theo đặc điểm của thời kỳ này. Nhưng điều cần nhấn mạnh ở đây chính là, chúng ta cũng không cho rằng những người bị tà ác thao túng tư tưởng chính là ác ma, bởi rất nhiều trường hợp kỳ thực họ chỉ là những người bị tà ác lợi dụng. Bởi vì con người sống tại cõi mê, trong trào lưu và sóng gió của xã hội, nhiều khi là khó lòng tự chủ, thân bất do kỷ, nên dễ dàng bị tà linh lợi dụng. Vì vậy, thường là tà linh lợi dụng những người bị mê hoặc để làm việc xấu, nhưng bản chất của con người không hẳn là xấu. Đồng thời, nghệ thuật thời kỳ này không đại diện cho toàn bộ nghệ thuật Tân cổ điển. Bởi trước và sau Cách mạng Pháp, ở Pháp cũng như trên toàn thế giới trong cùng thời kỳ cũng có nhiều tác phẩm Tân cổ điển xuất sắc không chịu tác động của tà linh, chúng rất đáng để tham khảo và học hỏi.

Cụ thể cần nói đến họa sỹ Tân cổ điển nổi tiếng nhất thời kỳ này là Jacques-Louis David. Nói về David, rất nhiều người Trung Quốc không hiểu mỹ thuật có thể đều biết: đây chính là họa sỹ của bức tranh “La Mort de Marat” trong sách giáo khoa mỹ thuật của học sinh Trung Quốc. Bởi vì trong bức họa, David đã mỹ hóa tên đồ tể cổ xúy bạo lực, giết người như ngóe Marat này thành một nhân vật anh hùng nhân từ và dũng cảm. Chính quyền Trung Cộng đã tuyên truyền bức tranh này nhằm tuyên dương “đấu tranh cách mạng”, để mỗi học sinh Trung Quốc đều phải học tập nó, dùng để tẩy não cách mạng.

David là một trong những họa sỹ có ảnh hưởng lớn nhất ở châu Âu vào cuối thế kỷ 18 và 19. Tranh cãi về ông trong lịch sử cũng tương đối lớn, bao gồm việc đánh giá cao kỹ năng hội họa tuyệt vời của ông, và điều đáng buồn là ông đã biến nghệ thuật thành công cụ tuyên truyền cách mạng bạo lực.

Ngay từ thuở sơ khai, nghệ thuật xuất hiện trong điện thờ Thần với mục đích thể hiện các vị Thần, vì vậy, địa vị của các nghệ sỹ với sứ mệnh ca ngợi các vị Thần và đề cao đạo đức luôn được đề cao. Cũng có thể thấy trong lịch sử nghệ thuật, những nghệ sỹ trứ danh thời kỳ đầu luôn có mối liên hệ với tôn giáo, giáo hoàng, giám mục, hoàng đế, quý tộc… Có thể thấy địa vị xã hội và tầm nhìn của các nghệ sỹ là không hề thấp. Các chủ đề biểu hiện nghệ thuật ban đầu về cơ bản là các chủ đề tôn giáo, và sau đó là các chủ đề về vương quyền thế tục, cũng được xây dựng trên cơ sở lý luận “Quân quyền Thần thụ” (quyền lực vua là do Thần ban cho), suy cho cùng vẫn là có mối quan hệ với Thần.

Giữa những dân chúng bình thường, những nghệ sỹ kiệt xuất luôn được tôn sùng. Ngay từ thời Trung cổ ở châu Âu, người ta vẫn luôn nghĩ rằng hội họa là ngành nghề không thể tưởng tượng nổi: một họa sỹ có thể biến một tờ giấy trắng hoặc một mảnh gỗ thành một tấm gương phản chiếu phong cảnh thiên nhiên hoặc chân dung của một người thật. Đặc biệt là khi các bức họa nhìn giống như thật, người ta lúc ấy vẫn cho rằng kỹ thuật của người nghệ sỹ thực ra là phép thuật do Thần ban tặng. Vì vậy, một họa sỹ có tay nghề cao sẽ được coi là người được Thần quan tâm, luôn được mọi người kính trọng và tin tưởng, đồng thời có quyền tự do sáng tác tương đối cao.

Nói cách khác, người nghệ sỹ có niềm kiêu hãnh riêng của mình, trong khuôn khổ lý thuyết nghệ thuật đã hoàn thiện, họ sẽ không dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị và quyền lực mà nhượng bộ nghệ thuật. Lấy ví dụ về một nhà điêu khắc: Sau khi Napoléon lên nắm quyền, ông đã yêu cầu nhà điêu khắc Antonio Canova làm một bức tượng về ông. Canova đã làm cho Napoléon một bức tượng khỏa thân dựa theo phong cách điêu khắc của thời kỳ Hy Lạp hóa. Napoléon không muốn mọi người nhìn thấy bức tượng bản thân mình khỏa thân, vì vậy đề nghị nhà điêu khắc khắc thêm quần áo cho bức tượng, nhưng Canova không hài lòng và trả lời: “Giống như các nhà thơ, chúng tôi có tiếng nói riêng của mình. Nếu như một nhà thơ đem những câu nói và tiếng địa phương quen dùng của các tầng lớp thấp trong xã hội làm lời dẫn cho một vở bi kịch, anh ta sẽ bị lên án là lẽ đương nhiên. Tương tự như vậy, các nhà điêu khắc chúng tôi không thể nào đặt các bức tượng của chúng tôi trong trang phục hiện đại mà không bị lên án như vậy”. Cuối cùng, Napoléon, kẻ bất khả chiến bại trên chiến trường, buộc phải chấp nhận thực tế rằng bức tượng của mình khỏa thân.

David luôn bị chỉ trích vì ông đã công khai tuyên dương nghệ thuật để phục vụ chính trị cách mạng trong thời kỳ cách mạng, và đây là điều mà hầu hết các nghệ sỹ không đánh giá cao. Khi các nhà sử học nghệ thuật nhận xét về David, họ thường đề cập đến điều gì đó khác ngoài nghệ thuật – nghĩa là ông ấy có ý thức rất mạnh đối với chính trị, nhạy cảm và thời cơ. Khi Louis XVI vẫn còn nắm quyền, David cũng được chọn vào Học viện Hội họa và Điêu khắc Vương gia. Và khi ánh đèn sân khấu nghiêng về phe cách mạng, David đã quay sang phe cách mạng vào đúng thời điểm và đạt được vị thế chính trị nhất định. Trong Công xã Paris, ông trở thành bạn thân của Maximilien de Robespierre, một thành viên của phái Jacobins, và được bầu làm đại biểu Quốc hội. Do nhu cầu chính trị, David đã bỏ phiếu cho việc hành quyết vua Louis XVI và đóng cửa Học viện Hội họa và Điêu khắc Vương gia. Trong thời kỳ “thống trị khủng bố” của Công xã Paris (Terreur, 1793-1794, Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi nó là “chuyên chính phái Jacobin”), David từng là ủy viên của “Ủy ban An ninh Công cộng” (Comité de salut public) – một cơ cấu thống trị khủng bố, ông phụ trách tuyên truyền cách mạng bạo lực.

Đằng sau các loại “tôn giáo quốc gia mới”

Trong lịch sử, có rất nhiều nghệ sỹ có xu hướng nghiêng về quyền lực và lợi ích, nhưng lý do khiến David gây tranh cãi nhiều hơn trong thời kỳ này liên quan nhiều đến sự đàn áp tín ngưỡng chính thống của các thế lực chính trị mà ông phục vụ. Dù sao, vào hơn 200 năm trước, những người tin vào Thần vẫn còn rất phổ biến, và việc ca tụng và tuyên truyền cho một chế độ phủ nhận Thần thánh, chà đạp lên tín ngưỡng tôn giáo truyền thống và phạm phải tội ác thảm sát, quả thực là điều mà rất nhiều người còn có chính niệm khó có thể chấp nhận được.

Các sách giáo khoa lấy tà thuyết của Marx làm tôn chỉ luôn xuất phát từ góc độ quan điểm duy vật, cho rằng Cách mạng Pháp là do xung đột lợi ích kinh tế của các tầng lớp xã hội khác nhau, miêu tả mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội thành coi tiền là mạng sống và mọi thứ đều xuất phát từ tiền. Điều này khiến cho người ta trong tiềm thức cảm thấy như thể nhân loại từ xưa đến nay chỉ tín ngưỡng tiền tài. Thực tế, đó là những lời nói dối lừa bịp và thủ đoạn tẩy não. Giết người cướp đoạt của cải thường là những hoạt động mà những người cách mạng hoặc những tay súng cấp dưới say mê, hành động đó không thể thay đổi xã hội nếu không có một ý thức cốt lõi nhất định và một tổ chức lãnh đạo tuân theo ý thức này. Từ cuối thế kỷ thứ 18 cho đến ngày nay, luôn có lý luận cho rằng Cách mạng Pháp được thúc đẩy và thực hiện bởi Hội Tam Điểm do Illuminati kiểm soát, và có rất nhiều thành viên Hội Tam Điểm trong phái Jacobins, những người đã tuân thủ nghiêm ngặt một số yêu cầu có tính tinh thần khi xử lý mọi mặt công việc.

Theo sử liệu, rất nhiều nhà lãnh đạo cách mạng vào thời điểm đó đã có một sự liêm chính về tôn giáo trong cuộc đời của họ. Mặc dù họ sử dụng lợi ích vật chất để kích động những người Sans-culottes (dân nghèo) thuộc tầng lớp thấp hơn và các loại lưu manh tạo phản trong xã hội, nhưng họ lại có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với hành vi của mình. Đã có nhiều lời buộc tội khát máu hoặc cực đoan chính trị đối với nhóm người Robespierre, nhưng lại không có người nào nói cuộc sống cá nhân của họ xa xỉ hủ hóa như thế nào. Ngày nay, một số lượng lớn các nghiên cứu lịch sử ở phương Tây đã chỉ ra rõ ràng rằng, đằng sau Cách mạng Pháp có một thứ có tính tinh thần xuyên suốt từ đầu đến cuối, và tư tưởng chỉ đạo của nó cũng không phải là tiền bạc. Ngay từ đầu các thế lực cách mạng đã nhắm vào tín ngưỡng, yêu cầu các linh mục hoàn tục, đóng cửa nhà thờ, rồi phát triển đến việc tàn sát giáo sĩ, rồi lại đến thành lập quốc giáo mới… Tất cả hàng loạt những hành động này đều có thể cho người ta một cảm giác rõ rệt: nếu như nói cướp đoạt chính quyền chỉ là hành vi thủ đoạn, thế thì tiêu diệt chính tín có lẽ mới là mục đích thực sự của bọn họ.

Để tiêu diệt tín ngưỡng đối với Thần, thế lực cách mạng do phái Jacobins đứng đầu không chỉ thủ tiêu các tôn giáo truyền thống, ép buộc các giáo sĩ hoàn tục, mà còn tàn sát các giáo sĩ và tín đồ. Chỉ riêng trong “Thảm sát tháng 9” năm 1792, gần 1.400 tù nhân đã bị giết, mà hầu hết những người trong đó đều bị bắt tạm thời với nhiều tội danh vô lý. Trong số đó có 233 người từ chối tuyên thệ phục tùng “Hiến pháp dân sự của các giáo sĩ” (Constitution civile du clergé). Trên thực tế, nhiều linh mục đã hoàn thành thủ tục tuyên thệ cũng bị bắt và bị giết trong phong trào này. Có thể thấy rằng, những cái gọi là tội danh và lý do đó chỉ là một cái cớ mà ác ma khát máu tùy tiện vin vào.

Việc đàn áp các tín ngưỡng truyền thống cũng được phản ánh trong việc ban hành lịch mới. Nghị sĩ vô thần phái Jacobin Charles-Gilbert Romme và nghị sĩ Claude Joseph Ferry phái Girondins, người đã bỏ phiếu hành quyết quốc vương, đã tổ chức một nhóm học giả và nhà khoa học để cùng đặt ra lịch. Lịch pháp truyền thống lấy năm sinh của Chúa Giê-su làm năm bắt đầu, ngày nay được gọi là sau Công Nguyên. Đồng thời, mỗi một ngày ở phương Tây cũng tương ứng với tên của một vị Thánh, những truyền thống này tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, lịch mới lúc đó được gọi là “Lịch Cộng hòa Pháp” (Calendrier républicain) hoặc “Lịch Cách mạng Pháp” (Calendrier révolutionnaire français). Bởi vì coi tín ngưỡng tôn giáo là kẻ thù, thế nên họ lấy ngày ra đời của nước Cộng hòa Pháp là ngày 22/09/1792 chỉ định là “Ngày đầu tiên của năm đầu tiên của nước Cộng hòa”, hơn nữa còn thay thế các tên tôn giáo hoặc thần thoại của ngày và tháng ban đầu bằng tên của thực vật, khoáng sản, động vật, hiện tượng tự nhiên và các từ ngữ duy vật và vô thần khác. Động thái này nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa lịch pháp và tôn giáo truyền thống cũng như xóa bỏ dấu vết của tín ngưỡng chính giáo trong đời sống người dân. Ví dụ, các từ “Brumaire” (Tháng sương mù) và “Thermidor” (Tháng nóng nực) thường xuất hiện trong lịch sử Cách mạng Pháp không phải là các từ truyền thống của Pháp, mà được tạo ra để bài trừ các từ gốc của tháng truyền thống. Loại lịch pháp này có hiệu lực từ ngày 6 tháng 10 năm 1793 thông qua một đạo luật, và tiếp tục được sử dụng đến ngày 9 tháng 9 năm 1805, sau đó bị Napoléon bãi bỏ. Nhưng vào năm Công xã Paris 1871 nó đã có một sự hồi sinh ngắn ngủi, được sử dụng trong tám ngày vào tháng Năm.

Từ một số tác phẩm nghệ thuật được lưu truyền vào thời đó, chúng ta vẫn có thể thấy rằng vì tầng lớp thấp đố kỵ với phong cách hoa lệ của giới quý tộc, bởi vậy phong tục xã hội, sinh hoạt và thậm chí cả quần áo đều bị cách mạng hóa, ví dụ như mọi người bị yêu cầu phải hủy bỏ tóc giả và những bộ đồ thời trang lộng lẫy… Không chỉ vậy, có thể thấy trong các tài liệu lịch sử, khi nói chuyện mọi người thường sử dụng thuật ngữ hành chính “công dân” (Citoyen, Citoyenne) để thay thế cách xưng hô truyền thống như “Monsieur” (quý ông) và “Madame” (quý bà), và một số người thuộc bè cánh cộng sản thời kỳ đầu thì gọi nhau là “đồng chí” (Camarade)…

Mặc dù những hiện tượng xã hội hỗn loạn này đã tác động đến suy nghĩ truyền thống của con người, nhưng quan niệm của con người không thể thay đổi ngay lập tức. Vì những người phổ thông đại chúng khi đó không thể ngay lập tức thích nghi với cuộc sống mà không có Cơ Đốc giáo, tà linh thấy khó mà đạt được mục đích tiêu diệt chính tín, thế là tà ác liền lập ra một số tà giáo để thay thế các tôn giáo truyền thống vốn có ban đầu.

Vào mùa thu năm 1793, Jacques-René Hébert và Pierre-Gaspard Chaumette, những người vô thần ở Công xã Paris, đã giới thiệu một tôn giáo vô thần luận sùng bái lý tính (Culte de la Raison) làm quốc giáo của Pháp. Trong đó, loại “tôn giáo” này phủ định tất cả các vị Thần, chỉ tôn trọng lý tính của con người. Bởi vì để thủ tiêu Cơ Đốc giáo, một số tòa nhà tôn giáo ban đầu như Nhà thờ Đức Bà Paris đã được biến thành “Đền thờ Lý tính” (Temple de la Raison), được sử dụng để cử hành nghi thức cúng bái một “Nữ thần Lý tính” (Déesse de la Raison) hư cấu vào ngày “Tết Lý tính” (Fête de la Raison).

Bức tranh khắc “Fête de la Raison” (Tết Lý tính), 15 × 9,5cm, không rõ tác giả, vẽ năm 1793.

Những ai từng nghiên cứu triết học có thể dễ dàng nhận thấy dấu vết của tư tưởng Phong trào Khai sáng đằng sau tà giáo cực đoan đề cao lý tính của con người nhưng lại phủ nhận Thần này. Tên tiếng Pháp chính thức của “Kỷ nguyên Khai sáng” là “Siècle des Lumières”, được dịch theo nghĩa đen là “Kỷ nguyên của ánh sáng”; vào nửa sau của thế kỷ XVII, thuật ngữ “Siècle éclairé” cũng xuất hiện, có thể được dịch theo nghĩa đen là “Kỷ nguyên được chiếu sáng bởi ánh sáng”. “Quang Minh Hội” hoặc “Quang chiếu bang” (Illuminati) cũng vì vậy mà được đặt tên – “Thời kỳ Khai sáng” (Aevum Illuminationis) trong tiếng Latin và “Quang minh hội” (Illuminati) trong tiếng Latin về từ gốc là hoàn toàn như nhau. Điều đáng nói là tên của ác quỷ Lucifer trong văn hóa phương Tây có nghĩa là “Porteur de lumière”, tức là “Kẻ mang lại ánh sáng”. Vậy “Quang minh hội” (Illuminati) và Phong trào Khai sáng là do ai mang đến? Liệu “ánh sáng” do ma quỷ mang đến có thể là ánh sáng chân chính không?

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/258121

The post Công‌ ‌xã‌ ‌Paris‌ ‌lần thứ nhất ‌và‌ ‌mỹ‌ ‌thuật‌ ‌Tân‌ ‌cổ‌ ‌điển (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>