mạn đàm Trung y | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Mạn đàm Trung y (18): Nhịp điệu của sinh mệnhhttps://chanhkien.org/2025/01/man-dam-trung-y-18-nhip-dieu-cua-sinh-menh.htmlThu, 16 Jan 2025 23:52:57 +0000https://chanhkien.org/?p=35886Tác giả: Ngọc Minh [ChanhKien.org] Ở đâu có sinh mệnh thì ở đó có nhịp điệu, mặt trời mọc và lặn, thủy triều lên xuống, chúng có khác gì với nhịp tim và hơi thở của chúng ta không? Trăng tròn trăng khuyết, bốn mùa luân phiên nóng lạnh, các hành tinh tự quay và […]

The post Mạn đàm Trung y (18): Nhịp điệu của sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngọc Minh

[ChanhKien.org]

Ở đâu có sinh mệnh thì ở đó có nhịp điệu, mặt trời mọc và lặn, thủy triều lên xuống, chúng có khác gì với nhịp tim và hơi thở của chúng ta không? Trăng tròn trăng khuyết, bốn mùa luân phiên nóng lạnh, các hành tinh tự quay và quay quanh hằng tinh, tất cả đều có nhịp điệu riêng của mình.

Có nhiều loại cây trồng, chẳng hạn như cây ăn quả, có chu kỳ “một năm nhiều và một năm ít”, tức là có một năm ra quả nhiều hơn, thì năm tiếp theo ra quả ít hơn, một chu kỳ là hai năm, và thổ nhưỡng cũng có nhịp điệu của sự hô hấp.

Trong một bữa tối nọ, một bác sĩ người Đức từng nói với tôi về âm nhạc của Beethoven. Ông ấy gõ tay xuống bàn, đánh nhịp “Bản giao hưởng định mệnh” rồi nói: “Tiếng gõ của bản giao hưởng định mệnh này giống như nhịp tim đập dồn dập của một cơn đau tim”. Có thể thấy những cảm xúc được phản ánh qua nhịp điệu của âm nhạc có mối liên hệ mật thiết với nhịp điệu của cơ thể con người chúng ta.

Có người đã làm một thí nghiệm, nhốt một người vào trong phòng, cho phép anh ta làm những gì mình thích nhưng không cho bất cứ dấu hiệu nào để anh ta tham chiếu thời gian, không có đồng hồ và bữa ăn cũng không có quy luật, kết quả sau một tháng người bị nhốt đó bị điên. Thời gian chính là nhịp điệu, khi nhịp điệu bị đảo lộn, sinh mệnh cũng sẽ bị rối loạn.

Trong thần thoại Hy Lạp có một vị Thần thời gian tên là Orpheus rất thích âm nhạc. Mỗi ngày, ông ấy chơi piano, mặt trời nhảy lên khỏi mặt đất theo tiếng hát của ông ấy, rồi lặn xuống vùng núi phía Tây theo tiếng hát của ông ấy. Nơi nào có thời gian thì ở đó có nhịp điệu.

Nếu các kinh mạch không còn lưu thông theo chu kỳ thì có khác gì các hành tinh đã ngừng chuyển động; nếu thủy triều không còn lên xuống theo chu kỳ khác gì nhịp tim của trời đất đã ngừng lại; nơi nào không có nhịp điệu thì ở đó không có sinh mệnh, giống như nước không gợn sóng là nước tù đọng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (18): Nhịp điệu của sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (17): “Phần mềm Trung y”https://chanhkien.org/2025/01/man-dam-trung-y-17-phan-mem-trung-y.htmlSun, 05 Jan 2025 04:49:09 +0000https://chanhkien.org/?p=35777Tác giả: Đào Tử [ChanhKien.org] Khi tôi đọc được “Phần mềm Trung y”, khiến tôi suýt vỡ kính, vừa buồn cười vừa bực mình. Chao ôi! Tinh túy của dân tộc Trung Hoa sẽ bị hủy diệt trong tay những kẻ “phá gia chi tử”. Có người nói ưu điểm của “Phần mềm Trung y” […]

The post Mạn đàm Trung y (17): “Phần mềm Trung y” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đào Tử

[ChanhKien.org]

Khi tôi đọc được “Phần mềm Trung y”, khiến tôi suýt vỡ kính, vừa buồn cười vừa bực mình. Chao ôi! Tinh túy của dân tộc Trung Hoa sẽ bị hủy diệt trong tay những kẻ “phá gia chi tử”.

Có người nói ưu điểm của “Phần mềm Trung y” này như sau:

1. Nó có thể “phỏng theo” các thầy thuốc Trung y cổ đại nổi tiếng, gia công chỉnh lý kinh nghiệm của họ thông qua “phương pháp khoa học” lại không “mệt mỏi”, do đó nói trình độ chẩn đoán và điều trị của nó cao hơn so với các thầy thuốc Trung y thông thường.

2. Nó có thể đạt được hiệu quả chẩn đoán và điều trị của các thầy thuốc Trung y nổi tiếng cổ xưa mà không cần sự có mặt của họ, và nó có thể được “chuyển nhượng”, “bán” và “vĩnh viễn trường tồn”.

3. Nó có trí nhớ tốt và dung lượng lưu trữ lớn, có thể “làm việc” bất cứ lúc nào, điều này hiệu suất cao hơn so với việc nhờ đến các thầy thuốc Trung y nổi tiếng để “truyền dạy, giúp đỡ và hướng dẫn”, đồng thời cũng giải quyết được tình thế khó xử là không có người kế thừa Trung y.

4. Nó không bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như tình cảm, tâm trạng, và suy nghĩ của nó sẽ không bị phân tán, vì vậy mọi người đều có thể được chú tâm chẩn đoán và điều trị bình đẳng như nhau.

“Phần mềm Trung y” này làm tôi nhớ đến một trải nghiệm khi tôi đến ngân hàng rút tiền.

Lúc đó, máy rút tiền bị hỏng và làm thế nào cũng không hoạt động. Tôi tìm nhân viên và cô ấy tra cứu trên máy tính nhưng không tìm thấy bản ghi dữ liệu của tôi. Tôi chỉ đứng đó, dở khóc dở cười biết oán trách ai được? Chỉ trách cái máy tính không nhận ra con người…

Chúng ta biết rằng tinh hoa của chẩn đoán và điều trị của Trung y là “Vọng, Văn, Vấn, Thiết”.

“Vọng” có nghĩa là nhìn vào ngũ quan, hình thể, khí sắc, thần thái của bệnh nhân.

“Văn” có nghĩa là dùng mũi để ngửi mùi, lại dùng tai để nghe giọng nói của người bệnh và kể rõ các triệu chứng, các triệu chứng khác nhau có biểu hiện mùi khác nhau.

“Vấn” có nghĩa là hỏi về bệnh tật, triệu chứng, tình trạng và cảm xúc.

“Thiết” có nghĩa là bắt mạch. Chẩn đoán mạch tượng trong Trung y là một môn học vấn tinh thâm, toàn bộ quá trình thực hành của nó đều xuất phát từ những thay đổi xúc giác dưới ngón tay của thầy thuốc khi lấy mạch của bệnh nhân, được gọi là bấm ngón tay. Điều này giống như một nhạc công diễn tấu đàn nhị, mạch giống như bản nhạc, và kỹ năng bấm ngón giống như cầm cung và di chuyển các ngón tay. Một nhạc công chỉ ghi nhớ bản nhạc mà không biết cách cầm cung đàn và di chuyển ngón tay sẽ không bao giờ chơi được những bản nhạc hay.

Tục ngữ có câu “Độc thư tam niên, thiên hạ vô bệnh bất trị; Trị bệnh tam niên, phương tri thiên hạ vô phương khả dụng” (tạm dịch: đọc sách ba năm, cho răng trong thiên hạ không bệnh nào là không trị được; trị bệnh ba năm mới biết rằng không có cách nào chữa khỏi mọi bệnh tật trong thiên hạ). Đối với một căn bệnh, các triệu chứng giống nhau không hẳn căn bệnh giống nhau, vì “chứng bệnh” là phản ánh cơ chế bệnh và thể hiện “bản chất” những biến đổi bệnh lý của bệnh ở một giai đoạn phát triển nào đó, còn “triệu chứng” là những biểu hiện bên ngoài của bệnh tật và thuộc về “tượng”.

Rõ ràng, “Phần mềm Trung y” này chữa bệnh cũng giống như rửa xe ở tiệm rửa xe, bất kể là xe to hay xe nhỏ, hoặc xe tải hay xe bọc thép, nhất loạt trước tiên phải dùng xà phòng, sau đó mới rửa sạch bằng nước, cuối cùng là thổi hơi cho khô. Đừng nói là nó không thể “vọng, văn, vấn, thiết”, một khi mất điện, “Phần mềm Trung y” sẽ nghỉ, bệnh nhân cũng sẽ “nghỉ ngơi”. Vì chữa bệnh là việc rất quan trọng liên quan đến tính mệnh con người nên hy vọng rằng các bạn tìm thầy thuốc thì phải suy đi nghĩ lại thật kỹ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (17): “Phần mềm Trung y” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (16): Thời gian, không gian và nướchttps://chanhkien.org/2024/12/man-dam-trung-y-16-thoi-gian-khong-gian-va-nuoc.htmlTue, 17 Dec 2024 03:53:40 +0000https://chanhkien.org/?p=35257Tác giả: Hồ Nãi Văn [ChanhKien.org] Khoa học hiện đại cho rằng nước (H2O) được hình thành bằng cách kết hợp hai nguyên tử khí hydro và một nguyên tử khí oxy. Trong bài “Không gian nhiều tầng có thể nhận biết và có thể cảm thấy” đã đề cập đến việc “Vàng đun trong […]

The post Mạn đàm Trung y (16): Thời gian, không gian và nước first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hồ Nãi Văn

[ChanhKien.org]

Khoa học hiện đại cho rằng nước (H2O) được hình thành bằng cách kết hợp hai nguyên tử khí hydro và một nguyên tử khí oxy.

Trong bài “Không gian nhiều tầng có thể nhận biết và có thể cảm thấy” đã đề cập đến việc “Vàng đun trong nước giếng có thể chữa chứng bệnh trẻ khóc đêm” và “Nước âm dương là hỗn hợp một nửa nước lạnh một nửa nước sôi, có thể dùng để chữa bệnh tả”, những điều như thế này trước đây khi đọc những cuốn sách chữ viết thảo, tôi luôn coi nó như một trò đùa.

Sách “Bản thảo cương mục” có ghi 13 loại “thiên thủy” và 30 loại “địa thủy”. Bây giờ chúng tôi chọn một số loại nước được ghi trong “Bản thảo cương mục” để xem đặc tính hoặc nguyên lý trị bệnh của chúng, có lẽ có một số hiểu biết về các tầng thứ không gian khác nhau và thời gian khác nhau.

Nước liên quan đến thời gian:

Nói về nước mưa, “Nước mưa Lập xuân”, có khí xuân dâng cao, có thể dùng để sắc thuốc trị “tỳ khí yếu, thanh khí không tăng”, có một bài thuốc cổ dành cho phụ nữ hiếm muộn, nếu hai vợ chồng mỗi người uống một cốc nước này thì nhập phòng sẽ có thai. Các thầy thuốc thời xưa cho rằng loại nước này có ý nghĩa “khởi đầu cho sự phát triển của vạn vật”. “Mai vũ thủy” là gì? Lý Thời Trân nói: nước mưa trong thời gian sau tiết Mang Chủng gặp Nhâm (ngày) cho đến tiết Tiểu Thử gặp ngày Nhâm gọi là mưa mai; dùng nước đó để tẩy rửa sạch ghẻ lở và vết sẹo; nước mưa này cũng có thể dùng để ủ lên men làm nước tương, làm tương dễ chín. “Dịch vũ thủy” dùng để chỉ nước mưa từ ngày thứ mười sau Lập đông (là “nhập dịch”) đến Tiểu tuyết (là “xuất dịch”). Nước mưa thời gian này còn được gọi là “dược vũ” (mưa thuốc), các loại côn trùng đều sẽ ngủ đông khi uống loại nước này, cho đến khi có sấm mùa xuân tới chúng mới lại xuất hiện, cho nên loại nước mưa này có thể dùng để giết hàng trăm loại côn trùng và dùng để sắc thuốc sát trùng và tiêu trừ bệnh cam tích.

Theo kiến thức hóa học hiện đại của chúng ta, nước mưa là hơi nước bốc lên, nó ngưng tụ thành nước khi gặp lạnh trên bầu trời, quá nhiều hơi nước thì sẽ rơi xuống và trở thành mưa. Nhưng người Trung Quốc cổ đại đã có một cái nhìn độc đáo, và rút ra kinh nghiệm rằng nước mưa ở các thời kỳ khác nhau vẫn có thể có tác dụng chữa bệnh khác nhau. Nếu chúng ta không thể loại bỏ được quan niệm tư tưởng do khoa học hiện đại dưỡng thành phát triển này thì chúng ta sẽ khó hiểu được bản chất của sự vật.

Hãy nói về nước liên quan đến không gian:

“Bán thiên hà” còn được gọi là “Thượng trì thủy”, chủ yếu dùng để chữa bệnh ma quỷ, cuồng tà và ác khí. Đào Hồng Cảnh nói: loại nước này là nước ở đầu hàng rào tre và nước trong hốc cây rỗng. Trong “Chiến Quốc sách”, Trường Tang Quân đã cho Biển Thước uống “Thượng trì thủy” để có thể nhìn rõ nội tạng. Khấu Tông Thích cho rằng “Thượng trì thủy” là nước ở đầm hồ trên Thiên thượng nên có thể chữa được bệnh tim, bệnh biểu hiện bề ngoài (các bệnh tương tự như bệnh trúng phong), bệnh điên.

“Nước trong ngôi mộ cổ (mồ mả)” có độc, có thể gây chết người. Trần Tàng Khí nói: lấy nước đó rửa các vết lở loét có thể lành (khỏi bệnh).

“Nước trong vết bánh xe” hoặc “nước trong móng chân trâu” có thể trị lở loét, phong hàn, lấy nước đó rửa vào ngày 5 tháng 5 thì rất tốt.

Nước được tạo ra bằng các phương pháp khác nhau cũng có các công dụng khác nhau:

“Nước sống và chín” còn được gọi là “nước âm dương”, lấy nước mới múc (nước giếng mới mang về) và bách phí thang (nước đun sôi lâu) hòa trộn đều nhau vào một cốc thì đó là “nước sống và nước chín” cũng gọi là “nước âm dương”, có thể chữa được bệnh tả. Lý Thời Trân nói: thượng tiêu (phần trên cơ thể, gồm tâm và phế) có nhiệm vụ tiếp nhận, trung tiêu (phần giữa cơ thể, gồm tỳ và vị) có nhiệm vụ tiêu hóa, hạ tiêu (phần dưới của cơ thể, gồm can, thận, tiểu trường, đại trường và bàng quang) có nhiệm vụ bài tiết; tam tiêu thông suốt thuận lợi, âm dương điều hòa, tuần hoàn đều đặn, thi tạng phủ thông suốt; nếu mất phương hướng thì hai khí sẽ rối loạn, âm đục không xuống, dương thanh không lên cho nên sinh ra bệnh tiêu chảy và nôn mửa. Người uống nước này chắc chắn sẽ ổn định sẽ được phân thành âm dương làm cho chúng được cân bằng yên ổn. Trong dân gian người ta dùng “nước âm dương” để điều trị các chứng rối loạn tâm thần và thần kinh. Tuy nhiên, một nữ sĩ họ Trang từng nói rằng một số người không thể uống nước này vì nó sẽ gây ra những bất thường về thần kinh và có xu hướng dẫn đến rối loạn.

Trong “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh có bài thuốc “Phục linh Quế chi Cam thảo Đại táo thang”, dùng một loại nước gọi là “Cam lan thủy” sắc thuốc uống để trị chứng bệnh Bôn đồn (1). Về cách làm “Nước Cam lan”, “Thương hàn tạp bệnh luận” nói rằng lấy ba đấu nước đổ vào trong một cái chậu lớn, dùng cái muôi múc nước đó dội hàng nghìn lần, có năm đến sáu nghìn hạt trên mặt nước đuổi theo nhau, hãy sử dụng nước này. Quan điểm của ông Trình Lâm cho rằng nước Cam lan đã trở nên vô lực vì nó đã được vung vẩy trong một thời gian dài, nó đã không còn tính chất nước nữa, sẽ không giúp ích gì cho tà khí ở thận. (Bởi vì Trung y cho rằng bệnh Bôn đồn là do “thận khí lăng tâm” nghĩa là khí ở thận xâm lấn lên tim).

Kiến thức của y học cổ truyền Trung Hoa không thể được coi là quan niệm của người thường trong quá khứ, trước đây chúng ta sử dụng khái niệm chiết xuất trong hóa học để nghĩ về cách sắc thuốc, hâm thuốc như thế nào, vì vậy khi sắc thuốc, cứ nghĩ rằng nấu càng lâu thì càng chiết xuất được nhiều thành phần hiệu nghiệm của thuốc. Nhưng trong dược học Trung Quốc, có một số loại thuốc có thể đun sôi cho đến khi có mùi thơm là được; một số loại thuốc cần được nấu càng lâu càng tốt; để đạt được mục đích sử dụng chất hoặc khí của thuốc, một số phải được sắc trước, còn một số phải sắc sau, điều này không thể giải thích được bằng lý thuyết chiết xuất hóa học của người thường. Không chỉ vậy, các đồ đựng nước và thuốc sắc có thể cần phải được xem xét lại, không thể chỉ dựa vào ý nghĩ rằng các đồ đựng sẽ không tạo ra phản ứng hóa học nào.

Chú thích: (1) Bôn đồn là bệnh chủ yếu do sợ hãi gây nên. Chứng trạng chính là tự cảm thấy có khí từ bụng dưới xông lên ngực, họng, giống như con heo chạy (bôn đồn), vì vậy gọi là Bôn Đồn Khí.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (16): Thời gian, không gian và nước first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận đượchttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-15-khong-gian-da-tang-co-the-biet-va-cam-nhan-duoc.htmlMon, 28 Oct 2024 23:06:44 +0000https://chanhkien.org/?p=34814Tác giả: Ngọc Minh [ChanhKien.org] Mọi người đều có thể cảm nhận được các kinh lạc và huyệt vị mà Trung y giảng, ấn vào huyệt Hợp Cốc sẽ có cảm giác đau nhức và căng lên khác với những nơi khác. Hiệu quả chữa bệnh của châm cứu từ mấy ngàn năm nay cũng […]

The post Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận được first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Minh

[ChanhKien.org]

Mọi người đều có thể cảm nhận được các kinh lạc và huyệt vị mà Trung y giảng, ấn vào huyệt Hợp Cốc sẽ có cảm giác đau nhức và căng lên khác với những nơi khác. Hiệu quả chữa bệnh của châm cứu từ mấy ngàn năm nay cũng đã chứng thực sự tồn tại của kinh lạc và huyệt vị, nhưng chúng không thể được tìm thấy trong giải phẫu học. Cũng có nghĩa là, kinh lạc và huyệt vị không tồn tại trong không gian có thể nhìn thấy bằng mắt thịt này của chúng ta.Trên thực tế, chúng tồn tại ở một không gian của một tầng sâu hơn, một không gian vi quan hơn. Sự khác biệt cơ bản giữa Trung y và Tây y là Trung y phần lớn bắt đầu chữa bệnh từ không gian vi quan, trong khi Tây y phần lớn bắt đầu chữa bệnh từ không gian bề mặt. Đại bộ phận các loại thuốc dùng trong Trung y cũng đều liên quan đến nguyên lý không gian vi quan, chính là điều chỉnh cơ thể từ mức độ vi quan nên bệnh được tiêu trừ triệt để.

Một số trẻ mắc chứng sợ hãi ban đêm, ngủ vào ban ngày và khóc vào ban đêm, âm dương đảo ngược. Có một phương thuốc chữa đơn giản: đun sôi vàng trong nước. Nước đã đun sôi với vàng trở thành nước dương tinh khiết rất “nặng”, cho trẻ uống có thể khiến trẻ yên lặng. Tuy nhiên, theo lý thuyết vật lý, vàng không hòa tan trong nước, nếu được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm sẽ không tìm thấy phân tử vàng nào trong nước. Tại sao nước đun sôi với vàng lại có đặc tính khác? Sự tồn tại của vật chất không chỉ trong không gian có thể nhìn thấy này của chúng ta. Vàng, nước và mọi thứ khác tồn tại cùng lúc ở nhiều tầng không gian và sự tồn tại trong các không gian khác nhau có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vàng và nước không hòa tan với nhau trong không gian bề mặt này, nhưng chúng thâm nhập vào nhau ở không gian sâu hơn, cho nên nước đã đun sôi có vàng với nước đã đun sôi không có vàng là những vật chất khác nhau.

Ví dụ trên là hai loại vật chất không hòa tan nhau ở bên này nhưng lại có thể hòa tan được ở bên kia, ngược lại, cũng có những vật chất có thể hòa tan được ở đây nhưng lại không thể hòa tan được ở kia. Có một loại bệnh tả nửa ướt nửa khô, có bài thuốc hiệu quả là múc nước giếng lên, đun sôi một nửa lượng nước đó rồi trộn với nửa còn lại, loại nước này là nước nửa ướt nửa khô, có tác dụng chữa bệnh tả nửa ướt nửa khô. (Trên thực tế, nước nửa âm nửa dương làm theo phương pháp này có thể chữa được rất nhiều bệnh kiểu nửa âm nửa dương).

Điều này cho thấy nước trộn theo cách này với nước được đun nóng cùng nhau đến nhiệt độ trung bình là hai vật chất hoàn toàn khác nhau. Nước chưa đun và nước đã đun sôi là những vật chất khác nhau, chúng được hòa tan với nhau trong không gian thấy rõ ở đây, nhưng ở không gian sâu hơn có sự gián cách và không thể hòa tan được. Nói cách khác, nước trộn theo cách này là một loại “salad” gồm hai chất. Những trường hợp như vậy có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ, nếu ta cho thêm một ít nước vào giữa lúc nấu canh, thì sẽ không thể nấu món canh nguyên vị ban đầu nữa và kết quả sẽ là một món canh “salad” cứng nhắc.

Theo quan điểm của vật lý học phương Tây, điều này tưởng chừng như là không thể tưởng tượng nổi. Theo lý thuyết khoa học, khi nước được làm nóng, các phân tử chuyển động nhanh hơn, đợi sau khi nước nguội đi, các phân tử nước “yên tĩnh” lại, chỉ cần hai loại nước cùng nhiệt độ thì chuyển động giống nhau, đó chính là điều giống nhau. Cách hiểu vấn đề trong một không gian đơn nhất này cũng giống như hiểu con người bằng cách nhìn chằm chằm vào cái bóng của họ, khó mà thấy được chân cơ.

Vật chất tồn tại ở nhiều không gian cùng một lúc và cùng một nơi, cơ thể chúng ta cũng tồn tại ở nhiều không gian cùng một lúc và ở cùng một nơi, cảm giác của cơ thể ở các tầng thứ không gian khác nhau là có mối liên hệ thông suốt với nhau. Các khái niệm lãnh (lạnh), lương (mát) và hàn (rét) trong Trung y chính là sự mô tả các trạng thái của các không gian khác nhau, các khái niệm lãnh (lạnh) và nhiệt (nóng) khác xa với khái niệm nhiệt độ trong vật lý học hiện đại.

Trong Trung y, bệnh được phân thành lãnh và nhiệt, thuốc cũng được phân thành hàn và nhiệt. Vị thuốc có tính lương trong Trung y không phải là khái niệm biểu hiện không gian bề mặt này của chúng ta. Băng thì lạnh, khi chạm vào da có thể cảm nhận được, nhưng thuốc làm mát như hạt trân châu, lại không lạnh, không lạnh như băng mà “lạnh” ở không gian tầng sâu hơn, Trung y dùng chữ lương để mô tả nó. Đôi khi người bệnh bị trong nóng ngoài lạnh nên khi uống thuốc phải uống thuốc khi còn nóng hoặc uống thuốc khi đã nguội; người bệnh trong nóng ngoài lạnh thì phải dùng thuốc có tính nóng nhưng uống khi nguội, tương ứng, có thuốc nóng phải uống khi còn nóng hoặc thuốc lạnh uống khi đã nguội, có nghĩa là trạng thái ngấm thuốc là diễn ra cùng một lúc ở các tầng thứ không gian khác nhau.

Từ “hàn” (lạnh) được sử dụng trong Trung y có ý nghĩa sâu hơn “lương” (mát) một tầng. Một loại ngọc được khai quật dưới tảng băng trôi nghìn năm tuổi được gọi là hàn ngọc, khi cầm trên tay không có cảm giác như băng và da sẽ không bị đông cứng nhưng theo thời gian sẽ có cảm giác lạnh thấu tim thấu xương. Ngày xưa, đặt một miếng hàn ngọc vào miệng của người chết thì có thể bảo quản hài cốt rất lâu mà không bị đông cứng. Mức độ lạnh này không thể đạt được bằng độ lạnh của thuốc hạ nhiệt. Nó là trạng thái không gian của một tầng sâu hơn, hoặc không gian vi quan hơn.

Tôi học chuyên ngành vật lý tại đại học và bắt đầu đọc sách Trung y khi còn là sinh viên năm thứ tư. Sau đó tôi nhận ra rằng Trung dược của Trung y là sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về vật chất và không gian, và đó là vật lý chân chính.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận được first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnhhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-14-manh-xuong-so-lanh.htmlSat, 12 Oct 2024 02:12:51 +0000https://chanhkien.org/?p=34692Tác giả: Lưu Tiên Dật [ChanhKien.org] Vào thời nhà Đường, khi quân đội của Vương Tiềm đóng quân ở Kinh Châu, nơi đó có một thầy thuốc tên là Trương Sĩ Chính, rất giỏi chữa gãy xương. Có một người lính bị gãy xương chân tìm đến Trương Sĩ Chính để chữa trị. Đầu tiên […]

The post Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Tiên Dật

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Đường, khi quân đội của Vương Tiềm đóng quân ở Kinh Châu, nơi đó có một thầy thuốc tên là Trương Sĩ Chính, rất giỏi chữa gãy xương. Có một người lính bị gãy xương chân tìm đến Trương Sĩ Chính để chữa trị. Đầu tiên Trương đại phu cho người lính uống một thứ rượu thuốc, rồi mổ thịt ra, kích thước to cỡ bằng hai ngón tay, sau đó gắp ra một mảnh xương vỡ, rồi dùng thuốc mỡ bôi lên vết mổ và bịt kín lại. Vài ngày sau, cái chân bị thương đã trở lại bình thường như trước.

Hơn hai năm sau, cái chân bị thương của người lính ấy đột nhiên đau nhức, anh ta đến hỏi Trương Sĩ Chính. Trương đại phu nói: “Đó là do mảnh xương được lấy ra cho anh trước đây cảm thấy lạnh, nên chân anh đau, anh có thể tìm ra nó ngay lập tức”. Sau đó quả nhiên mảnh xương đó đã được tìm thấy dưới gầm giường. Trương Sĩ Chính yêu cầu anh ta rửa mảnh xương đó bằng nước nóng và giấu nó vào trong bông, cái chân của người lính này lập tức hết đau.

Ghi chép này làm tôi nhớ đến một số bài viết về “Chân tay ảo” đã được đăng tải trên trang Chánh Kiến Net, một trong số đó là bài “Từ những hiện tượng ‘chân tay ảo’ thấy những hiểu lầm về y học thần kinh”, đã miêu tả chi tiết một số trường hợp tương tự. Cũng có thể thấy từ ghi chép này rằng sau khi mảnh xương được lấy ra, cơn đau ở chân của người lính dường như không phải do tác động tâm lý gây ra. Dường như nó cũng muốn nói với chúng ta rằng dù phần cơ thể này của chúng ta còn sống hay đã chết thì nó đều có quan hệ mật thiết với cơ thể. Bí ẩn của nó không thể giải thích được bằng y học hiện đại.

(Nguồn tư liệu: “Dật sử”)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thểhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-13-so-do-huyet-vi-tren-tai-va-quy-luat-tin-tuc-toan-the.htmlMon, 07 Oct 2024 02:27:32 +0000https://chanhkien.org/?p=34660Tác giả: Vương Ngọc [ChanhKien.org] Có lẽ ít người biết rằng tình trạng sức khỏe của mọi bộ phận trên cơ thể chúng ta đều có thể được chẩn đoán qua tai. Có rất nhiều huyệt vị trên tai, trong Trung y có nhĩ huyệt đồ (sơ đồ huyệt vị ở tai), bất kỳ bộ […]

The post Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Ngọc

[ChanhKien.org]

Có lẽ ít người biết rằng tình trạng sức khỏe của mọi bộ phận trên cơ thể chúng ta đều có thể được chẩn đoán qua tai.

Có rất nhiều huyệt vị trên tai, trong Trung y có nhĩ huyệt đồ (sơ đồ huyệt vị ở tai), bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể đều có thể tìm được huyệt vị tương ứng trên tai. Tai giống như một đứa trẻ đang co lại với đầu cúi xuống và chân hướng lên trên, có tất cả các cơ quan nội tạng và là một mô hình thu nhỏ của cơ thể.

Đây là một bức sơ đồ tín tức toàn thể điển hình, trong đó một bộ phận có thể phản ánh thông tin tổng thể các bộ phận khác. Điều đó có nghĩa là, từ một bộ phận của sinh vật thể, có thể quan sát được các đặc tính của toàn bộ sinh vật thể, đồng thời phản ánh ra cấu trúc của tổng thể. Trong cơ thể con người, những bộ phận có thể phản ánh thông tin về toàn bộ cơ thể không chỉ có tai mà còn có các vị trí khác cũng đối ứng với toàn cơ thể như lòng bàn tay, lòng bàn chân, mũi, mặt, xương thứ hai của xương bàn tay. Kỳ thực, bất kỳ một bộ phận nhỏ bé nào của cơ thể đều mang thông tin của toàn bộ cơ thể. Các nhà khoa học phương Tây đã tiến hành thí nghiệm và phát hiện ra rằng một tế bào não chứa đựng tất cả ký ức.

Tại sao một bộ phận có thể mang thông tin của toàn bộ cơ thể và tại sao lại có hiện tượng tín tức toàn thể? Mọi người đều biết rằng mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta đều được cấu thành từ các phân tử, và hiện nay các nhà khoa học đã nhìn qua kính hiển vi và máy gia tốc hạt mà thấy được bên dưới phân tử còn có các nguyên tử, proton, hạt nhân nguyên tử, electron, quark, neutrino, v.v. Năm 1982, một nhóm nghiên cứu do Alain Aspect, nhà vật lý học của Đại học Paris dẫn đầu, đã hoàn thành một trong những thí nghiệm khoa học quan trọng nhất của thế kỷ XX. Họ phát hiện ra rằng trong những điều kiện xác định, các hạt (lạp tử) nhỏ hơn nguyên tử, chẳng hạn như electron, có thể câu thông đồng bộ dù chúng ở cách nhau 10 thước (3,333m) hay một tỷ km. Và mỗi lạp tử dường như luôn biết lạp tử khác đang làm gì.

Bởi vì giữa các hạt đồng nhất cấu thành nên mỗi tế bào có sự trao đổi thông tin với nhau, vì vậy nên tình trạng sức khỏe của các cơ quan trong toàn bộ thân thể có thể quan sát được từ tai và lòng bàn chân, và một tế bào não sẽ mang tất cả ký ức. Ví dụ nếu hôm nay dạ dày có tình trạng gì đó thì các lạp tử khác nhau tạo nên tế bào dạ dày như electron, proton, neutron… đều sẽ cảm nhận được tình trạng đó, đồng thời các lạp tử trong toàn cơ thể cũng sẽ biết, cho nên Trung y kích thích lên huyệt vị ở tai tương ứng với dạ dày, nếu cảm thấy đau thì có thể xác định sơ bộ là sức khỏe của dạ dày có vấn đề.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gáihttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-12-ban-ve-am-duong-chan-doan-sinh-con-trai-con-gai.htmlSat, 05 Oct 2024 02:13:56 +0000https://chanhkien.org/?p=34613Tác giả: Thập Phương [ChanhKien.org] Trong đơn vị tôi vốn có phóng viên kỳ cựu, cả đời ông ấy đã đi khắp các danh sơn đại xuyên của Trung Quốc, đã thấy nhiều cảnh đời, học rộng biết nhiều. Một trong những sở thích của ông là mỗi khi gặp được danh y các nơi, […]

The post Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thập Phương

[ChanhKien.org]

Trong đơn vị tôi vốn có phóng viên kỳ cựu, cả đời ông ấy đã đi khắp các danh sơn đại xuyên của Trung Quốc, đã thấy nhiều cảnh đời, học rộng biết nhiều. Một trong những sở thích của ông là mỗi khi gặp được danh y các nơi, ông đều khiêm tốn xin chỉ bảo. Mười mấy năm qua, ông đã nắm vững rất nhiều thuật chẩn đoán bệnh. Mọi người xung quanh chúng tôi cũng thường tìm đến ông ấy để được giúp đỡ.

Hai mươi năm trước, khi ở Trung Quốc thực hiện chính sách một con, có một thời gian việc sinh con trai hay con gái đã trở thành một vấn đề nhạy cảm và thiết thực. Có một nữ đồng nghiệp lớn tuổi trong đơn vị lấy chồng rất muộn, vì chồng là con một nên muốn sinh con trai, ngay khi biết mình có thai, cô đã chạy đến nhờ người phóng viên đó bắt mạch để xem đó là con trai hay con gái. Lúc đó tôi rất nghi ngờ về tác dụng của việc xem mạch này. Sau vài phút, người phóng viên tự tin nói rằng đó là một cậu bé. Mấy tháng sau, nữ đồng nghiệp quả nhiên đạt được nguyện vọng, vui mừng sinh được quý tử. Có lần tôi tò mò hỏi vị lão ký giả: “Người ta mới có thai, thai chưa lớn, làm sao ông biết được đó là bào thai gì?” Vị ký giả bình tĩnh nói: “Rất đơn giản, nam là dương, nữ là âm. Nếu phụ nữ mang thai có mạch tượng của nam thì cô ấy đang mang thai con trai, còn nếu là mạch tượng của nữ thì cô ấy đang mang thai con gái. Vì vậy có thể biết một cách chính xác và việc bắt mạch cũng dễ dàng”.

Lúc đó tôi cảm thấy lão ký giả là người có bản lĩnh. Những gì người khác qua hóa nghiệm ở bệnh viện mới biết thì ông ấy lại có thể nói rõ ra bằng cách bắt mạch. Nhưng đạo lý trong đó tinh thâm đến mức nào thì tôi chưa từng nghĩ đến. Sau này, khi đã kết hôn và cũng có thai, tôi mới biết mọi chuyện không đơn giản như vậy. Tôi cũng kết hôn muộn và có con muộn, lúc đầu tôi không để ý việc có con trai hay con gái, chỉ muốn chờ đợi một điều ngạc nhiên vui mừng sau này. Tôi không muốn thời gian mỗi lần khám thai kỳ đều phải chờ đợi quá lâu, tâm hiếu kỳ của tôi cũng dần dần mất hẳn. Khi làm siêu âm đen trắng tôi bèn tiện thể hỏi bác sĩ có thể xem là trai hay gái hay không. Bác sĩ không ngờ lại nói, có lúc dễ, có lúc không dễ, cũng không nhất định chính xác. Quả nhiên bác sĩ tìm hồi lâu cũng không thấy gì, anh ấy nói dù thai nhi đã rất lớn nhưng hai chân luôn chặn lại nên không nhìn thấy được. Liên tục cho đến khi đứa bé sắp chào đời thì vì góc độ không đúng nên không thể kiểm tra được nữa.

Cho đến lúc đó tôi vẫn không hề nghi ngờ gì về sự tiên tiến của kỹ thuật Tây Y, mãi cho đến khi một sự việc nhỏ xảy ra tiếp theo, trong đầu tôi mới nảy ra một câu hỏi về Tây Y. Sự việc kỳ thực rất đơn giản: một phụ nữ da trắng cùng buồng sinh được một bé trai, sau khi sự hưng phấn đầy hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ qua đi, họ tiếc nuối nói: “Thật đáng tiếc vì chúng tôi đã chuẩn bị nhiều thứ như thế cho một bé gái, lần nào siêu âm đen trắng bác sĩ cũng nói với chúng tôi rằng đó là con gái, chúng tôi thậm chí còn đặt cả tên cho đứa trẻ”. Tôi bắt đầu cảm thấy mơ hồ, thiết bị kỹ thuật tiên tiến như vậy thậm chí còn không thể xác định được giới tính của thai nhi, còn tệ hơn cả vị phóng viên ở đơn vị chúng tôi, một người thậm chí còn chưa được tính là đổi nghề giữa chừng.

Hôm nay nói một chút về hai khí âm dương của Thái Cực mà tôi đọc được trong sách, tôi không khỏi nghĩ tới câu chuyện của vị ký giả năm đó bắt mạch để xác định giới tính của thai nhi, nếu suy nghĩ kỹ thì không có gì thần bí cả. Đàn ông là khí thuần dương, còn phụ nữ là khí thuần âm, một khi trứng được thụ tinh dương tính thành bào thai trong tử cung, thể thuần dương sẽ biểu hiện nam tính trong mạch đập, đó là điều mà cơ thể thuần âm không nên có, tất nhiên sẽ thể hiện ra mạch của bé trai; mạch của bé gái là âm thêm âm nên mạch của bà bầu vẫn là mạch của phụ nữ và tất nhiên đó là bào thai nữ.

Hơn 2000 năm trước, Hoa Đà đã nhìn thấy một khối u trong não Tào Tháo mà không cần dùng bất kỳ dụng cụ nào, ông lại còn có thể thực hiện phẫu thuật mở hộp sọ để loại bỏ khối u. Lão ký giả của đơn vị chúng tôi đã tranh thủ lúc rảnh rỗi sau giờ làm việc dễ dàng học được hai thủ thuật, khi người phụ nữ mới mang thai, khi y học phương Tây vẫn chưa phân biệt được hình dáng con người, ông ấy đã có thể xác định được giới tính của thai nhi chỉ dựa vào vài ngón tay, đây chẳng phải là tiên tiến sao? Hãy suy nghĩ kỹ xem, chúng ta nên rời bỏ văn hóa Trung Quốc hay nên xem xét lại nền văn minh cổ xưa của Trung Quốc? Liệu chúng ta có nên bỏ gần tìm xa và bỏ qua kho báu mỹ hảo nhất, thần thánh nhất của thế gian con người không?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ýhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-11-sinh-benh-la-thien-y-khoi-benh-cung-la-thien-y.htmlThu, 03 Oct 2024 02:20:52 +0000https://chanhkien.org/?p=34552Tác giả: Hồ Nại Văn [ChanhKien.org] Đôi khi, việc con người mắc bệnh là ý trời, và việc họ khỏi bệnh hay không cũng là ý trời, không phải có thầy thuốc giỏi là có thể trị khỏi bệnh. Sách “Thái Bình quảng ký” đã chọn một câu chuyện từ cuốn “Hội Xương giải di”, […]

The post Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hồ Nại Văn

[ChanhKien.org]

Đôi khi, việc con người mắc bệnh là ý trời, và việc họ khỏi bệnh hay không cũng là ý trời, không phải có thầy thuốc giỏi là có thể trị khỏi bệnh.

Sách “Thái Bình quảng ký” đã chọn một câu chuyện từ cuốn “Hội Xương giải di”, kể rằng có một người bị bệnh và chữa thế nào cũng không thể khỏi. Để ông ta ngẫu nhiên uống phải một phương thuốc có thể chữa bệnh và thế là ông ta đã khỏi bệnh. Câu chuyện này cũng kể về sự thật rằng có một số người có siêu năng lực, độ chính xác trong việc nhìn nhận sự vật của họ rất khác so với người thường, câu chuyện đại ý như sau:

Có một ông lão gia đình giàu có mắc một căn bệnh khó chữa, cơ thể ngày càng gầy gò, thậm chí không thể ăn uống, mỗi ngày đều phải uống nửa lít máu tươi để sống sót. Già trẻ trong nhà đều lo lắng sợ hãi nên đã bỏ ra rất nhiều tiền để cầu tìm những người giỏi chữa bệnh, nhiều thầy thuốc đã đến, nhưng dù có đãi ngộ rất hậu hĩnh thì việc chữa trị cũng không thu được kết quả.

Có một người đến từ Kiếm Nam, sau hơn mười ngày chẩn đoán và điều trị, ông ta vẫn không tìm ra bệnh, ông ta liền nói với con trai của bệnh nhân: “Tôi chữa bệnh cho mọi người, đã ba đời gia truyền rồi, phàm là chẩn đoán bệnh, đều nhất định phải biết nguồn gốc của bệnh là gì. Bây giờ nhìn bệnh tình của ông cụ, lại hoàn toàn cảm thấy chẳng có chút manh mối nào, có thể là do y thuật của tôi không tinh thông, hoặc có thể bệnh của ông cụ là do tai họa của ông trời giáng xuống phải không? Tuy nhiên, tôi nghe có một vị phủ soái họ Giả là người học rộng tài cao, đồng thời cũng là người có năng lực phi thường. Ông thành thạo về toán quái, toán mệnh và y dược. Anh có thể bỏ ra một số tiền không? Mang đi cho người hầu của phủ soái để biết khi nào ông ta sẽ ra ngoài, có thể cung kính chờ đợi phủ soái đến gặp ông cụ. Hãy để ông ta nhìn thấy, chỉ cần ông ta nói vài lời, thì tôi có cách giúp ông cụ chữa khỏi bệnh”.

Con trai của ông lão đã nghe theo lời khuyên của vị thầy thuốc. Quả nhiên có một ngày, Giả phủ soái ra ngoài đang trên đường vào chùa dâng hương, thấy ông lão liền nhìn chăm chăm một hồi. Khi ông vừa định nói gì đó thì giám quân tới báo cáo công việc.

Vị thầy thuốc này đành phải tin rằng số phận như thế, nên từ bỏ việc chẩn bệnh và rời đi. Ông lão cũng tin vào số phận và nói với con trai của mình: “Bệnh của cha chắc chắn sẽ chết. Bây giờ cha rất buồn bực và không muốn nghe ai nói cả. Con có thể đưa cha đến một nơi có núi sông ở ngoại thành, chỉ cần ba ngày các con đến thăm cha một lần, nếu cha chết, hãy chôn cha ở đó”.

Con trai ông bất đắc dĩ đành chở ông ra ngoại thành, nhìn thấy một tảng đá gần cái hồ, anh đặt cha mình lên đó, khóc lóc thảm thiết rồi quay về. Sau khi con trai đi rồi, ông lão đột nhiên nhìn thấy một con chó màu vàng đi vào hồ, ẩn hiện nhiều lần trong hồ, như thể đang tắm trong đó. Sau khi con chó vàng rời đi, hồ nước đó trở nên thơm ngát. Ông lão khát nước và muốn uống nước, nhưng do sức yếu vô lực nên đành phải bò đến bên hồ. Uống nước hồ xong ông lập tức cảm thấy toàn thân đều dễ chịu. Sau khi uống nước liên tục, thì ông lão có thể ngồi dậy. Khi con trai đến nhìn thấy, rất ngạc nhiên mừng rỡ và đón ông về nhà. Ông lão không những có thể ăn uống mà còn bình phục trong vòng mười ngày.

Một ngày nọ, Giả phủ soái lại đi ra ngoài, khi xe đến chỗ đậu xe mà trước đó ông đã đi qua, ông hỏi thuộc hạ: “Người lần trước ta gặp ở đây có còn ở đó không?” Thuộc hạ báo rằng đã khỏi bệnh rồi.

Giả phủ soái nói: “Bệnh của người này hầu hết các thầy thuốc đều không biết. Thứ mà ông ta mắc phải là “bệnh chấy rận”, trên đời không có loại thuốc nào có thể chữa khỏi, phải lấy một chiếc lược gỗ nghìn năm tuổi, đốt thành tro rồi uống. Nếu không, ông ta phải uống “Hoàng Long dục thủy” (nước tắm Hoàng Long), ngoài ra không còn cách chữa trị nào khác. Các ngươi có biết ông ta đã khỏi bệnh như thế nào không?”

Thuộc hạ đến nhà ông lão để hỏi thăm, ông lão đã kể đầu đuôi ngọn nguồn. Sau khi vị phủ soái biết được điều đó, ông nói: “Đó là Thiên ý để ông ta mắc phải căn bệnh này, cũng là Thiên ý để ông ta tự tìm ra loại thuốc có thể chữa khỏi bệnh, điều này hoàn toàn là do số mệnh của ông ta”. Khi đó mọi người nghe đều khâm phục kiến ​​thức uyên thâm của Giả phủ soái, người thầy thuốc đó nói vị ấy là “dị nhân” cũng không phải là nói suông.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đạihttps://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-10-phuong-phap-tri-benh-cua-trung-quoc-co-dai.htmlSat, 28 Sep 2024 02:16:23 +0000https://chanhkien.org/?p=34511Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] Việc chẩn đoán bệnh ở Trung Quốc cổ đại là thông qua vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi), thiết (sờ, xem), nhưng đó không chỉ là sự kết hợp của tứ chẩn mà là sự phân chia các tầng thứ khả năng chẩn đoán, cảnh giới cao nhất là […]

The post Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

Việc chẩn đoán bệnh ở Trung Quốc cổ đại là thông qua vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi), thiết (sờ, xem), nhưng đó không chỉ là sự kết hợp của tứ chẩn mà là sự phân chia các tầng thứ khả năng chẩn đoán, cảnh giới cao nhất là vọng và cảnh giới thấp nhất là thiết mạch (bắt mạch); cùng với việc đạo đức của nhân loại tuột dốc, khả năng của tự thân con người cũng ngày càng ít đi. Hoa Đà thời đó có thể thấy trong não Tào Tháo có khối u, các bác sỹ ngày nay chỉ có thể dựa vào thiết bị để chẩn đoán bệnh, bản năng của con người hầu như đã mất đi hết, thậm chí có vị chủ nhiệm khoa Trung y của một bệnh viện nói rằng bắt mạch chỉ là cách lừa gạt bệnh nhân, chứ không thể chẩn đoán ra bệnh.

Việc chẩn đoán bệnh thời cổ đại chủ yếu là xem xét một số vật chất trong cơ thể con người tăng hay giảm ở các không gian khác và những thay đổi về tính chất và trạng thái của chúng; cái gọi là hàn và nhiệt, hư và thực, ngoại và nội, âm và dương là chỉ về những đặc tính của cơ thể con người ở các không gian khác.

Thuốc ở thời Trung Quốc cổ đại được phân thành thuốc thực vật, thuốc động vật, thuốc kim thạch, nước v.v., hầu hết mọi thứ trong thế giới tự nhiên đều có thể được dùng để làm thuốc. Việc nhận biết về thuốc của người cổ đại cũng là nhìn vào đặc tính của thuốc ở các không gian khác.

Qua những phân tích trên có thể thấy, nếu muốn sử dụng các phương pháp trị bệnh cổ xưa của Trung Quốc thì phải tu luyện bản thân mới có khả năng nắm bắt được đặc tính của vạn sự vạn vật trong giới tự nhiên, mới có thể chẩn đoán bệnh chính xác và sử dụng thuốc chính xác đối với bệnh tật, mới có thể trở thành thầy thuốc cao siêu.

Vào thời Trung Quốc cổ đại, phương pháp tu luyện có rất nhiều, chỉ cần tu luyện sẽ có năng lực và có thể trị bệnh, vì vậy vào thời cổ đại có rất nhiều hòa thượng, đạo sỹ và văn nhân mặc khách đều có thể trị bệnh, đều tinh thông về y học, bói toán và chiêm tinh. Văn hóa Trung Hoa cổ đại là sự thể hiện và tổng hợp của rất nhiều phương pháp và tầng thứ tu luyện khác nhau. Toàn bộ xã hội đều có bầu không khí như vậy cho nên nó có vẻ thần bí đối với người hiện đại.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”?https://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-9-the-nao-la-tri-benh-khi-chua-thanh-benh.htmlMon, 23 Sep 2024 06:17:52 +0000https://chanhkien.org/?p=34447Tác giả: Nhược Bình Tử [ChanhKien.org] “Hoàng Đế Nội Kinh” nhiều lần đề cập đến vấn đề “trị bệnh khi chưa thành bệnh” và gọi những người có thể “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là bậc “thượng công” hay thậm chí là “Thánh nhân”. “Thượng công” ở đây ám chỉ những thầy thuốc bậc […]

The post Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhược Bình Tử

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế.

“Hoàng Đế Nội Kinh” nhiều lần đề cập đến vấn đề “trị bệnh khi chưa thành bệnh” và gọi những người có thể “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là bậc “thượng công” hay thậm chí là “Thánh nhân”. “Thượng công” ở đây ám chỉ những thầy thuốc bậc thượng đẳng có y thuật cao minh, trái ngược với “hạ công” là thầy thuốc y thuật không được cao minh như vậy.

Nhưng cách nói “trị bệnh khi chưa thành bệnh” thoạt nghe dường như không thuận tai vì có vẻ hơi không hợp logic: người “chưa thành bệnh” là người còn chưa có bệnh thì làm sao lại tìm thầy thuốc? Thầy thuốc là người phải chữa bệnh, chữa người có bệnh thành người không bệnh, bây giờ nếu giao cho anh ta một người không bệnh thì bảo anh ta chữa cái gì?

Vấn đề này liên quan đến hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau và cần được thảo luận để phân biệt: thứ nhất, “có bệnh” và “có triệu chứng bệnh” là khác nhau; thứ hai, tiêu chí để phán định “có bệnh” và “chưa thành bệnh” là khác nhau và có sự thay đổi tùy theo các thầy thuốc, không có tiêu chuẩn cố định. Bởi vì y thuật của các thầy thuốc có thể có tầng thứ khác nhau nên có sự khác biệt rất nhiều. Thầy thuốc cao siêu có thể phát hiện được những thay đổi rất nhỏ trên cơ thể báo hiệu bệnh tật và có thể ngăn chặn bệnh từ khi chưa xảy ra, trong khi các thầy thuốc khác phải có triệu chứng rõ ràng mới có thể quan sát được.

Đối với tình huống đầu tiên, có thể nêu ví dụ: người bị nhiệt ở một trong ngũ tạng sẽ bị đỏ ở phần tương ứng trên khuôn mặt, chẳng hạn như “người bị nhiệt ở gan trước tiên má trái sẽ đỏ”, “người bị nhiệt ở tỳ trước tiên mũi sẽ đỏ” v.v. “Mặc dù bệnh chưa phát bệnh, nhưng nếu thấy sắc đỏ đó mà châm thì gọi là chữa bệnh khi chưa thành bệnh”. Ở đây “trị bệnh khi chưa thành bệnh” được định nghĩa là thực hiện điều trị “châm cứu” khi có “triệu chứng của bệnh” nhưng chưa “phát bệnh”. Căn cứ để làm như vậy là: bất kỳ bệnh tật nào (trừ vết thương bên ngoài) đều có một quá trình hình thành và cũng sẽ có những dấu hiệu nào đó. Khi các dấu hiệu xuất hiện và người bệnh chưa cảm thấy bị ốm thì sẽ áp dụng phương pháp điều trị dự phòng. Lúc này có thể nói, điều thầy thuốc chữa không phải là “bệnh”, mà chỉ loại bỏ một số nhân tố đang phát triển thành bệnh, vì vậy, “trị bệnh khi chưa thành bệnh” quả thực là một cách nói rất thỏa đáng. Nhưng khi bệnh nhân không cảm thấy mình có bệnh, đa số sẽ không tìm đến thầy thuốc nên tình trạng trên không gặp nhiều lắm. Ngày xưa khi Hoàng đế thỉnh giáo Bá Cao về phương pháp châm cứu, câu trả lời của Bá Cao đã tăng thêm nội hàm của “không trị bệnh khi đã có bệnh”: “Thứ nhất, thượng công sẽ châm cứu khi bệnh chưa biểu hiện ra ngoài; thứ hai, sẽ châm cứu khi tình trạng bệnh chưa nặng; thứ ba, sẽ châm cứu khi bệnh đã thuyên giảm. Hạ công khi có triệu chứng lặp đi lặp lại mới châm cứu, hoặc châm cứu khi bệnh đã lên đến đỉnh điểm, hoặc châm cứu khi biểu hiện bên ngoài của bệnh trái ngược với tình trạng mạch”. Vì vậy kinh điển y học cổ xưa còn có câu: “Thượng công trị bệnh khi chưa thành bệnh, chứ không trị bệnh khi đã có bệnh”, đó chính là ý nghĩa của nó. Theo cách giải thích này, “không trị bệnh khi đã thành bệnh” không có nghĩa là không chữa trị cho người đang bị bệnh, mà đó là sách lược và phương pháp trong chữa bệnh, đồng thời cũng cho thấy rõ có sự khác biệt giữa thượng công là người giỏi trị cho những người “chưa thành bệnh” và hạ công là người giỏi trị cho những người “đã có bệnh”.

Trong tình huống thứ hai, cần nói rõ rằng “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là một cách diễn đạt có tính tương đối, nó là điều tùy theo trình độ và tầng thứ của thầy thuốc mà thay đổi, chúng ta có thể lấy Biển Thước, một thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại làm ví dụ. Câu chuyện Biển Thước ba lần gặp Tề Hoàn Hầu đã được nhiều người biết đến, so với nhiều đại y gia nổi tiếng lưu truyền trong lịch sử Biển Thước có thể được coi là “thượng công”, việc chẩn đoán bệnh cho Tề Hoàn Hầu của ông quả thực là tại thời điểm khi “chưa thành bệnh”, nếu Tề Hoàn Hầu không cố chấp như vậy, ông ta đã có thể trị bệnh cho Tề Hoàn Hầu “khi chưa thành bệnh”. Tuy nhiên, theo Biển Thước nói, anh cả và anh thứ hai của ông đều là thầy thuốc giỏi hơn ông: “Về bệnh thì khi anh cả nhìn thấy được cái ‘thần’ của bệnh khi nó chưa thành ‘hình’ thì đã loại bỏ nó rồi”; “Anh hai trị bệnh là khi dấu hiệu bệnh chỉ nhỏ như lông tơ thì đã trị rồi”; “Còn về Biển Thước ta, dùng kim châm mạch máu bệnh nhân, lấy vị thuốc có độc tố cho bệnh nhân uống, dùng dao rạch da và thịt của bệnh nhân”. Vì vậy, so với ba anh em, anh cả mới là “thượng công”, điều được chữa trị không chỉ là “chưa thành bệnh ” bản thân người bệnh không biết, mà có khi ngay cả Biển Thước cũng không biết, còn người “chưa thành bệnh” như Tề Hoàn Hầu theo chẩn đoán của Biển Thước, thì có lẽ trong mắt của anh cả, e rằng sẽ không được coi là “chưa thành bệnh” nữa.

Vì “chữa bệnh khi chưa thành bệnh” là một cách diễn đạt có tính tương đối, nên việc phân chia “thượng công” và “hạ công” cũng là cách nói có tính tương đối. Nói cách khác, trên “thượng công” còn có “thượng thượng công” nữa, cứ truy tầm tiếp tục hướng lên chắc chắn sẽ đạt đến một trình độ khiến người ta khó tin. Có thể truy tầm đến tầng thứ nào là một chuyện, còn độc giả và ngay cả các bác sỹ đương thời có thể tin tưởng và chấp nhận nó đến mức độ nào lại là một chuyện khác. Ngay cả đối với những đại y nổi tiếng trong lịch sử như Biển Thước và Hoa Đà, cũng như có một số bác sỹ sau này (bao gồm cả những bác sỹ nổi tiếng) không thể chấp nhận một số “kỳ tích” trong việc chẩn đoán và trị bệnh của họ, những thầy thuốc cao siêu hơn họ lại càng khó được người ta tin tưởng và chấp nhận. Đặc biệt là các bác sỹ ngày nay, bất kể Trung y hay Tây y, do bị ảnh hưởng của “y học hiện đại”, nhiều người đã tuyệt đối hóa các phương pháp chẩn đoán và điều trị của y học phương Tây, phàm là những gì mà họ không thể biết thì đều nói đó là điều “không thể”, thậm chí còn gọi đó là “mê tín”. Trí nhớ của những người này dường như đặc biệt kém: cách đây không lâu, y học phương Tây đã bác bỏ học thuyết về “kinh mạch” của Trung y, họ cho rằng cơ thể con người hoàn toàn không có “kinh mạch” (sau khi họ đích thân mổ xẻ cơ thể con người đã không tìm thấy gì cả!); họ chế giễu lý thuyết “thai giáo” (giáo dục thai nhi) của Trung y, cho rằng làm sao thai nhi có thể hiểu được âm nhạc hay thậm chí là ngôn ngữ của người lớn? Hiện nay thì thế nào? Chẳng phải tất cả chúng đều đã được khoa học hiện đại công nhận, thậm chí đã ra sức phổ cập đó sao? Như vậy, vì những gì chúng bị chúng ta phủ nhận trong quá khứ đã được sự phát triển của khoa học xác nhận, thì liệu những gì chúng ta phủ nhận hôm nay có đảm bảo sẽ không được khoa học ngày mai thừa nhận? Cách nhận thức sự vật khách quan một cách khoa học là không ngừng phủ nhận bản thân và sửa chữa lại những kết luận trước đó của mình, để việc miêu tả của mình đối với sự vật khách quan dần dần tiếp cận những đặc điểm mà con người quan sát được từ sự vật khách quan. Việc cho rằng các kết luận khoa học của bất kỳ thời kỳ nào đều là chân lý tuyệt đối, thậm chí dùng chúng để phủ nhận những sự vật tồn tại một cách khách quan, đều là cách làm ấu trĩ, thiếu hiểu biết về khoa học.

Dù bạn có tin hay không, nhưng khả năng “siêu thường” về chẩn đoán và điều trị bệnh là điều tồn tại một cách khách quan. Tạm thời không kể đến quá khứ xa xưa, nhiều ví dụ về việc sử dụng khả năng đặc biệt để chẩn đoán và điều trị bệnh tật vào cuối thời kỳ “Cách mạng Văn hóa” (chỉ cách đây 20 đến 30 năm) đều đã được các bộ môn khoa học hoặc y học liên quan chứng minh là đúng. Ngoài những ví dụ cụ thể trong lịch sử như Hoa Đà, Biển Thước, Miêu Phụ, Du Phu, trong “Hoàng Đế Nội Kinh” cũng nói đến tính phổ biến về khả năng chẩn đoán siêu thường của các “thượng công”: “Cái gọi là quan sát trong vô hình vô thanh có nghĩa là những thay đổi trong khí huyết của Vinh Vệ tuy không hiển lộ ra ngoài, nhưng thầy thuốc lại có thể hiểu được, …… các thầy thuốc đều có khả năng dự đoán về bệnh tật, nhưng bệnh tật lại không bộc lộ ra bên ngoài, cho nên người ta nói quan sát âm thầm là vậy!”, “Có thể sử dụng phương pháp này để hiểu rõ các loại lý lẽ, kinh nghiệm của họ có thể lưu truyền cho hậu thế, đây là chỗ khác biệt giữa thầy thuốc có học thức kinh nghiệm phong phú với người bình thường. Tuy nhiên bệnh tật không biểu lộ ra bên ngoài, nên người bình thường không dễ phát hiện được, không thấy được dấu vết, nếm không thấy mùi vị, nên mới gọi là âm thầm lặng lẽ, giống như Thần vậy”. “Bậc thượng công trị bệnh ngay từ lúc mới manh nha, cho nên mới gọi là thượng công, còn kẻ hạ công thì chỉ cứu chữa khi bệnh đã thành, khi thế đã bại”. Ở đây chỉ ra rõ ràng rằng sở dĩ “thượng công” có thể thấy được những dấu hiệu bệnh từ đầu là vì họ có thể “trông rõ từ vô hình, nghe tỏ từ vô thanh” và nhìn thấy những thay đổi bất thường trong hoạt động sống trong cơ thể con người mà “không biểu hiện ra bên ngoài”, và những thay đổi này là thứ mà người bình thường không thể nhìn thấy được. Ở đây cũng ẩn chứa một cách cố định lại khái niệm “thượng công”: phàm là thầy thuốc có thể “trông rõ từ vô hình, nghe tỏ từ vô thanh” và sử dụng các phương pháp chẩn đoán siêu thường để phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh tật và loại bỏ các yếu tố gây bệnh thì đều có thể được gọi là “thượng công”.

Chiểu theo tiêu chuẩn này để phân định “thượng công” và “hạ công”, chính là phù hợp với tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt “Đạo y” và “Nho y”: “Đạo y” về cơ bản đều là “thượng công”, còn “Nho y” thì đều không phải là “thượng công” ngoại trừ một số ít tình huống đặc thù. Qua phương pháp học tập của người thường, các Nho y chỉ học được những nội hàm y học đã “thường nhân hóa” nên không thể học được những năng lực siêu thường đó. Một số ít “Nho y” vì có điều kiện tiên thiên tốt, lại thủ đức tu tâm, nên qua thời gian lâu dài, họ có thể tự phát sinh một số khả năng đặc dị và có thể sử dụng các phương pháp chẩn đoán siêu thường để thấy được một số dấu hiệu sớm của bệnh tật. Nhưng ngày càng có ít những “Nho y” như vậy, đặc biệt là ngày nay lại càng ít. Phương pháp mà các “Đạo y” có được khả năng chẩn đoán và điều trị bệnh siêu thường của họ cũng rất siêu thường: hoặc đó là kết quả của quá trình tu luyện lâu dài trong một giáo phái chính nghĩa nào đó, hoặc đó là duyên phận đặc biệt dẫn đến mà một lần có được. Khả năng chẩn đoán và trị bệnh siêu thường của Biển Thước chính là một ví dụ điển hình của việc có được một lần.

Bây giờ nhiều người đều cảm thấy rất tự hào khi nói về “y học hiện đại”: sự phát triển của y học quá nhanh, số lượng thầy thuốc tăng thêm bao nhiêu, các loại thuốc đã tăng thêm bao nhiêu, sự gia tăng sản lượng thuốc và giá cả hạ thấp, mọi người đều có đủ khả năng mua thuốc! Họ coi các thầy thuốc và dùng thuốc thành “hưởng phúc”! Thật không ngờ chính là ngược lại, các mục tiêu phát triển và quá trình phát triển của y học nên là: số lượng thầy thuốc ngày càng ít đi, các loại và sản lượng của thuốc ngày càng ít đi, cho đến cuối cùng mọi người hoàn toàn không cần thầy thuốc, hoàn toàn không dựa vào bất kỳ loại thuốc nào để điều chỉnh trạng thái bất thường của cơ thể họ – bởi vì cơ thể họ không có trạng thái bất thường! Nói cách khác, y học là một ngành khác biệt với các ngành khác, mục tiêu phát triển của nó chính là tiêu hủy bản thân nó (y học) càng nhanh càng tốt!

Ngày nay y học đã phát triển đến mức bác sỹ và bệnh nhân loại này có ở khắp mọi nơi, và xã hội khó mà thoái thác sai lầm này. Bởi vì tất cả các hiện tượng trong một xã hội đều được gọi là “hiện tượng xã hội”, đó cũng là những hiện tượng mà chính bản thân xã hội đó sản sinh ra. Do ngày càng có nhiều bệnh tật và bệnh nhân trong xã hội ngày nay, nên mới sinh ra việc càng ngày càng có nhiều bác sỹ và thuốc. Đây là “căn bệnh” của bản thân xã hội đó, cho dù có bao nhiêu bác sỹ cũng chẳng thấm vào đâu! Muốn cho y học phát triển một cách khỏe mạnh, trước tiên chúng ta cần phải “khỏe mạnh” xã hội này! Nhưng mặt khác, con người lại là nhân tố chủ đạo của xã hội, nên muốn làm cho một xã hội “khỏe mạnh”, chính là tương đương với việc yêu cầu hầu hết mọi người trong xã hội này phải “khỏe mạnh” lên! Từ đây khiến mọi người hiểu rõ rằng việc trị bệnh của con người và việc trị bệnh của xã hội luôn có mối quan hệ mật thiết.

Chữa bệnh cho người thì phải tìm bác sỹ, chữa bệnh cho xã hội thì phải tìm nhà xã hội học và chính trị gia, hai người này dường như không liên quan với nhau. Kỳ thực không phải vậy. Chúng ta thường nói rằng phải lấy lịch sử làm tấm gương để soi chiếu, thì có thể tìm được cách giải quyết các vấn đề hiện đại. Khi chúng ta trở lại dọc theo bước chân của lịch sử, chúng ta thấy rằng: bệnh ở người và bệnh xã hội hoàn toàn có nguyên nhân như nhau! Nên phương pháp trị bệnh của con người và trị bệnh của xã hội là hoàn toàn đồng nhất!

“Bậc Thánh nhân đời thượng cổ đã răn dạy người dưới mình biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được”. “Vậy nên chí nhàn mà ít dục, yên tâm mà không sợ, hình thể hoạt động mà không mệt mỏi, chân khí điều hòa”. Thời “thượng cổ”, chính là “Thánh nhân” (không phải bác sỹ) đã dạy con người đạo dưỡng sinh để chăm sóc sức khỏe: cần phải thích ứng với những thay đổi của thiên nhiên, nuôi dưỡng tinh thần từ bên trong, tâm trí không hướng ra bên ngoài; tính tình điềm đạm, không truy cầu không tranh đấu. Có một câu nói, nếu bạn giữ được tinh thần và trái tim của mình, sẽ tự nhiên cảm thấy an tâm thuận khí và sẽ không bị bệnh. Người như vậy là người “bề ngoài không vất vả, bên trong không lo lắng, lấy an nhàn làm việc, lấy tự đắc làm công, thân thể không suy nhược, tinh thần không tán loạn”, vì vậy, họ “thọ mệnh có thể đạt được trăm tuổi mà động tác vẫn nhanh nhẹn”, sống đến hơn trăm tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Không những vậy, khi ai ai cũng làm được điều này thì phong tục dân gian sẽ đơn giản, xã hội sẽ ổn định, “khỏe mạnh”. “Người đời nay không như vậy, họ coi rượu như một thứ đồ uống, uống không có chừng mực, biến cuộc sống bất thường thành thói quen, say rượu cũng quan hệ tình dục, vì phóng túng dục vọng cho nên âm tính cạn kiệt, vì để thỏa mãn ham mê đã khiến cho chân khí tổn thất, không biết duy trì sự sung mãn của tinh khí một cách cẩn thận, không giỏi kiềm chế tinh thần, mà chỉ tìm kiếm niềm vui tạm bợ trong tâm trí, làm trái ngược với niềm vui cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày và nghỉ ngơi không có quy luật, nên nửa trăm năm đã già yếu” (chú thích: người đời nay ở trong câu này là con người của thời đại Hoàng đế, được nhắc đến trong Hoàng Đế Nội Kinh). Sở dĩ có thể được như vậy là bởi “đức toàn nên không gặp nguy hiểm” và “hợp với Đạo”. Nói cách khác, con người khi làm như vậy chính là bảo toàn được cái “đức” của mình và phù hợp với “Đạo”, đương nhiên con người và xã hội sẽ không bị bệnh tật. Ở đây “Thánh nhân” thông qua trị cái “tâm” của con người và dạy người ta thủ “đức” thì cũng đồng thời chữa bệnh cho người và chữa bệnh cho xã hội.

Con người hiện đại hiểu được những nguyên lý này rất ít, nhưng trong lịch sử luôn có những người hiểu và tự thể nghiệm. Kê Khang, một trong “Trúc Lâm Thất hiền” thời Tam Quốc từng nói: “Người giỏi dưỡng sinh sẽ không làm như thế, họ có thể an nhiên tự tại, thanh tâm quả dục. Họ hiểu rằng truy cầu danh lợi, địa vị sẽ làm tổn hại đạo đức con người, cho nên họ xem nhẹ mà không mưu cầu”, “có tâm hồn cởi mở thì sẽ không lo lắng, nội tâm yên tĩnh thì sẽ vô tư lự, lại có thể làm được trước sau như một hòa hợp với khí của tự nhiên thì sẽ ngày càng có hiệu quả, chính là thuận theo tự nhiên”. Phương pháp dưỡng sinh của họ là có tâm hồn trong sáng, tính tình an hòa, kiềm chế ham muốn, giảm bớt tính ích kỷ. Họ biết danh lợi là phải dùng “đức” mà đổi, vì để không “tổn đức” nên họ không truy cầu. Lại thêm làm được “trước sau như một” và “hòa khí với tự nhiên” gần với “Đạo” thì cuối cùng sẽ đạt được “thuận theo tự nhiên”, tức là sự hài hòa và thống nhất giữa con người và tự nhiên. Ý tưởng cơ bản ở đây vẫn là giữ “Đức” hợp với “Đạo”, từ đó để đạt được mục đích của dưỡng sinh.

Hoàng đế hỏi Kỳ Bá: “Các vị Thánh nhân cổ đại làm thang dịch giao lễ, nhưng chỉ làm mà không dùng là sao?” Kỳ Bá thưa rằng: “Các bậc Thánh nhân thời xưa làm ra thang dịch giao lễ là chỉ để phòng bị khi nào tà khí phạm đến. Nhưng người thời đó phần nhiều giữ được hoàn toàn thiên chân, nên tặc phong không mấy khi phạm vào được. Vì thế dù có làm ra thang dịch giao lễ mà cũng không mấy khi dùng tới. Đến thời trung cổ đạo đức suy yếu, khi tà khí phạm tới, dùng thang dịch giao lễ thì rất có công hiệu”. Điều khiến người ta kinh ngạc là, thời đại “thượng cổ” trước thời của Hoàng đế, “Thánh nhân” (không phải là thầy thuốc) mặc dù họ đã chuẩn bị các loại như thang dược và tửu dược, nhưng nói chung đều là các sản phẩm dự phòng, chúng thường không được dùng tới. Sau này vào “thời Trung cổ”, “đạo đức” của con người sa sút, họ không còn khả năng chống lại sự tấn công của bệnh tật, bệnh cũng càng ngày càng nhiều thì tất phải sử dụng các loại thang dược và tửu dược thì đảm bảo mọi thứ đều ổn. Ở đây được chỉ rõ ra rằng mối liên hệ trực tiếp giữa sự suy thoái “đạo đức” con người với bệnh tật của con người, hơn nữa người gánh vác chữa bệnh vẫn là “Thánh nhân” cai trị xã hội.

Toàn bộ lý thuyết của Trung y, thậm chí cả lý thuyết của Đạo gia, đều nhằm mục đích cân bằng “âm dương”. “Âm bình dương bí thì tinh thần của con người mới bình thường; nếu âm dương tách biệt thì tinh khí của con người sẽ cạn kiệt”. Tuy nhiên, người bình thường khó đạt được trạng thái lý tưởng “âm bình dương bí”, cho dù không biểu hiện ra triệu chứng bệnh tật thì luôn có sự mất cân bằng âm dương ở mức độ nhất định. Người thật sự đạt được “âm bình dương bí” là trạng thái như thế nào? Người có âm dương ôn hòa, trong lòng trong sáng vô tư, không suy tính được hay mất, thanh tâm quả dục và không quá hoan hỷ, thuận theo quy luật phát triển của vạn vật, không bao giờ tính toán đến chuyện được mất của cá nhân, giỏi thích nghi với những thay đổi của hoàn cảnh, dù địa vị cao nhưng rất khiêm tốn, thường dùng lý trí để thuyết phục người khác chứ không dùng thủ đoạn trấn áp để trừng trị người khác, có tài năng tổ chức và quản lý rất tốt”. Hóa ra đó chính là kiểu nhân vật “Thánh nhân” mà chúng ta đã nhắc đi nhắc lại ở trên! Biểu hiện của sự “âm dương ôn hòa” của họ là sống lặng lẽ, ôn hòa, tâm thái cao thượng, vững vàng, khiêm tốn và thuận theo tự nhiên, thích ứng với mọi hoàn cảnh, không tranh đấu với người khác. Phương pháp tối cao mà họ theo đuổi để cai trị con người và thế giới là chỉ trò chuyện (đàm) mà không trị, chỉ cần nói vài lời là được! Trong xã hội như vậy, chỉ cần có một số vị Thánh thì có thể cai quản thiên hạ và con người, chẳng trách người xưa đã nói: “Thánh nhân không trị bệnh khi đã mắc bệnh mà trị lúc chưa mắc bệnh, không trị khi đã loạn mà trị lúc chưa loạn”.

Đến đây, kết luận của chúng ta đã thật rõ ràng và hiển nhiên: bệnh của con người và “bệnh” của xã hội đều là vì nhân tâm có bệnh; muốn chữa bệnh cho người và chữa “bệnh” của xã hội, trước hết phải chữa được nhân tâm! Đây chính là cách “chữa bệnh khi chưa có bệnh” cao nhất!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung Y (8): Thượng Công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 3)https://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-8-thuong-cong-chua-benh-khi-chua-thanh-benh-ky-3.htmlFri, 20 Sep 2024 04:07:46 +0000https://chanhkien.org/?p=34416Tác Giả: Hồ Nãi Văn [ChanhKien.org] Vì sao các danh y thời cổ đại có thể biết được bệnh trong tương lai? Để làm một thầy thuốc giỏi, nên nghiên cứu các sách thuốc kinh điển thời cổ như “Tố Vấn”, “Giáp Ất Kinh”, “Hoàng Đế Châm Kinh”, “Minh Đường”, “Lưu Chú”, “Thảo Dược Đối”, […]

The post Mạn đàm Trung Y (8): Thượng Công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác Giả: Hồ Nãi Văn

[ChanhKien.org]

Vì sao các danh y thời cổ đại có thể biết được bệnh trong tương lai?

Để làm một thầy thuốc giỏi, nên nghiên cứu các sách thuốc kinh điển thời cổ như “Tố Vấn”, “Giáp Ất Kinh”, “Hoàng Đế Châm Kinh”, “Minh Đường”, “Lưu Chú”, “Thảo Dược Đối”, và các tác phẩm của Trương Trọng Cảnh, Vương Thúc Hòa v.v., còn cần phải biết một số học vấn về mệnh lý học, bói toán v.v., nếu không sẽ giống như đi đêm mà không có mắt, sẽ không thể trở thành một thầy thuốc giỏi. Ngoài ra, còn phải có lòng trắc ẩn, coi người bệnh như chính mình hoặc người thân của chính mình, hết sức quan tâm đến họ và nghĩ mọi cách để trị bệnh cho họ.

“Phàm muốn trở thành một thầy thuốc giỏi thì phải am hiểu các bộ kinh điển như Tố Vấn v.v. Người đó phải thông hiểu Âm Dương Lục Mệnh, Chư Gia Tướng Pháp, và đốt mai rùa để biết năm điều báo trước, biết Chu Dịch, Lục Nhâm, phải tinh thông thuần thục như thế thì mới trở thành thầy thuốc giỏi. Nếu không như thế thì giống như đi lang thang trong đêm mà không có mắt, dẫn đến tử vong, thứ hai phải đọc kỹ phương thuốc này, suy ngẫm về đạo lý tinh vi, chú ý nghiên cứu thì khi đó mới có thể nói chuyện với người hành nghề y”. (Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương – Đại Y Tập Nghiệp).

Cho nên y thuật và bói toán là những kỹ nghệ khó tinh thông. Nếu không được Thần Tiên truyền thụ thì dựa vào điều gì mà có thể biết được đạo lý thâm sâu vi diệu?… Vì vậy người học y khoa phải tìm tòi nghiên cứu các nguyên lý y học một cách sâu rộng và thấu đáo, chuyên tâm cần cù không buông thả, không được dựa vào lời nói không có căn cứ, kiến thức nửa vời mà nói rằng mình đã hiểu các nguyên lý của y học. Nếu như vậy thì đã tự làm hại mình quá lớn!”. (Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương – Đại Y Tinh Thành).

“Phàm là một thầy thuốc khi chữa bệnh thì phải an định thần chí, vô cầu vô dục, mà trước hết phải có tâm trắc ẩn đại từ bi, nguyện độ khắp các linh hồn đang đau khổ. Nếu người bệnh tật đau khổ đến cầu cứu thầy thuốc thì bất luận người ta giàu hay nghèo, sang hay hèn, già hay trẻ, tướng mạo đẹp hay xấu, phẩm hạnh thiện hay ác, là người thân hay là người có thù oán, là người Hán hay là người dân tộc thiểu số, dù trí huệ cao hay thấp đều phải xem như nhau, đối xử như với người thân. Không được nhìn trước ngó sau, cân nhắc đến sự an nguy được mất của cá nhân mình, coi trọng tính mạng bản thân và gia đình mình, mà phải coi nỗi thống khổ của bệnh nhân như nỗi thống khổ của chính mình, phải có lòng từ bi sâu sắc, không né tránh đường đi nguy hiểm, không kể ngày hay đêm, lạnh hay nóng, không sợ đói khát hay mệt mỏi, một lòng chỉ nghĩ đến cứu giúp bệnh nhân, không được lãng phí thời gian nghĩ đến việc làm thế nào để mua danh cầu lợi. Chỉ bằng cách này, mới có thể trở thành một thầy thuốc được muôn dân trong thiên hạ tôn sùng, nếu không sẽ là một tai họa lớn cho tất cả chúng sinh”. (Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương – Đại Y Tinh Thành).

Việc “khai thiên mục” được nhắc đến trong các sách khí công hiện đại, được ghi lại trong câu chuyện của danh y cổ đại Biển Thước:

Biển Thước … lúc trẻ từng quản lý một quán trọ. Vị khách trọ Trường Tang Quân… lui tới quán trọ đó hơn mười năm, cuối cùng gọi Biển Thước gặp riêng một mình và nói với ông: “Ta có một phương thuốc bí mật… muốn truyền lại cho ngươi… hãy uống thuốc này cùng với nước sương chưa rơi xuống đất…”, thế là ông ta trao cho Biển Thước toàn bộ các phương thuốc bí truyền… Biển Thước theo lời ông ta uống thuốc ba mươi ngày, quả thực ông có thể nhìn thấy người ở bên kia bức tường. Ông dựa vào khả năng này để xem bệnh, ông hoàn toàn có thể nhìn ra bệnh tật của ngũ tạng trong cơ thể con người, chẳng qua chỉ lấy danh nghĩa chẩn đoán mạch mà thôi. (Sử Ký – Biển Thước Thương Công Liệt Truyện).

Cũng có nhiều câu chuyện về các danh y thời cổ đại kể rằng y thuật là do Thần truyền dạy.

“Hoa Đà tiên sinh, tự Nguyên Hóa. Ông tính tình điềm đạm, thích sách thuốc, thường xuyên đi đến những ngọn núi nổi tiếng và những hang động hẻo lánh, và thường gặp chuyện gì đó. Một ngày nọ, vì có chút rượu trong người nên ngồi nghỉ trước một động cổ ở núi Công Nghi, ông chợt nghe có người nói về phương pháp chữa bệnh. Hoa Đà quá ngạc nhiên nên âm thầm tiến đến cửa động để nghe lén. Một lúc sau, ông nghe có người nói: “Hoa Đà đang ở gần đây, chúng ta có thể giao phó thuật trị bệnh này cho anh ta”. Nhưng một người khác lại nói: “Hoa Đà bản tính tham lam, không có lòng thương xót chúng sinh. Làm sao có thể giao phó cho hắn được?” Hoa Đà tiên sinh bất giác vô cùng sợ hãi, vội nhảy vào trong động để thanh minh thì nhìn thấy hai cụ già ngồi trong đó, họ khoác y phục làm bằng vỏ cây, đầu đội mũ bằng cỏ, đang nhìn ông cười. Hoa Đà khom mình hướng về hai phía trái phải mà bái lạy nói rằng: “Vừa rồi nghe hai vị hiền nhân nói về thuật chữa bệnh, tôi rất thích thú lắng nghe mà quên cả trở về nhà. Huống hồ, tôi luôn thích học Đạo pháp để trợ giúp bách tính, nhưng tôi không tìm được cách nào hiệu quả, trong lòng luôn cảm thấy có lỗi. Mong hai vị hiền giả có thể minh giám cho tấm chân tình của tôi bớt soi xét về sự ngu muội của tôi, chân thành cầu xin hai vị khai ngộ cho tôi, suốt đời tôi nhất định không phụ ân tình của hai vị”. Lúc này người ngồi trên cùng nói rằng: “Chúng ta không tiếc truyền y thuật cho ngươi, chỉ e rằng sau này sẽ liên lụy đến ngươi. Nếu lúc cứu người, không phân biệt giàu nghèo, không nhận tiền bạc đút lót, không ngại gian khổ, xót thương người già yếu, thì tương lai ngươi sẽ tránh được họa”. Hoa Đà tiên sinh vội bái tạ và nói: “Tôi nhất định ghi nhớ cẩn thận lời giáo huấn của ngài, một câu cũng không dám quên, tuân theo lời chỉ dạy của ngài mà làm việc”. Hai cụ già mỉm cười chỉ vào phía đông động nói: “Trên giường đá có một hộp sách, ngươi tự mình lấy rồi nhanh rời khỏi nơi này! Tuyệt đối không được cho người thường xem! Luôn phải giữ bí mật”. Lúc Hoa Đà bước đến phía trước cầm lấy cuốn sách và quay lại, thì hai cụ già đã biến mất. Hoa Đà sợ hãi rời khỏi sơn động, mới bước ra ngoài cửa động, bỗng nhiên không nhìn thấy gì nữa, mây đen ập đến, mưa như trút nước, động đá liền bị phá tan và sụp đổ…. Hoa Đà bị nhà Ngụy giết khi chưa đầy sáu mươi tuổi, đã chứng minh lời nói của cụ già là đúng. (“Trung Tàng Kinh – tựa” của Đặng Xứ Trung).

Phần kết luận

Các sách cổ khác nhau có cách giải thích khác nhau về “Thượng công trị bệnh khi chưa thành bệnh”, “Nạn Kinh” cho rằng chẩn bệnh là để nhận ra bệnh sau này sẽ thay đổi, nhất định phải sớm phòng ngừa. Còn về bệnh tật, “Linh Khu” nhận thấy bệnh đang ở giai đoạn đầu mới phát triển hoặc đã thuyên giảm, tốt nhất nên phòng bệnh khi chưa có bệnh; nếu không thì phải chữa trị ngay khi chưa có bệnh hoặc khi bệnh đã giảm dần. “Tố Vấn” cho rằng sự phát sinh của bệnh tật có liên quan đến sự suy thoái đạo đức, liên quan đến việc ăn uống không điều độ, hành vi không kiểm soát, ham muốn quá mức, nói dối và nói năng khoác loác, v.v. “Thiên Kim Phương” và “Tố Vấn” của nhà Đường cũng có những cách nói khá giống nhau, người ta tin rằng những người có tính cách thiện lương sẽ tự nhiên không bị bệnh tật, ngay cả tai họa cũng khó xảy ra. Cho nên người tu tốt bản tính thì đã khỏi bệnh trước khi có bệnh. Vì vậy, thầy thuốc giỏi chỉ cứu được những người nhất thời có tư tưởng và hành vi lệch lạc, đối với những người không chịu cải biến lại tư tưởng và hành vi của mình thì sẽ thường xuyên sinh bệnh.

Những thầy thuốc giỏi thời cổ đại yêu cầu truyền thụ cho bệnh nhân những phương pháp dưỡng sinh và phòng bệnh tương tự như “Tố Vấn” hay “Thiên Kim Phương”, dạy cho bệnh nhân rằng cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của họ phải hoàn toàn phù hợp với Âm dương và Ngũ hành của trời đất, việc ăn uống, ngủ nghỉ của người bệnh phải nên điều độ và bình thường (“Con người thời thượng cổ, họ đều biết đạo dưỡng sinh, bắt chước ở âm dương, điều hòa với thuật số, ăn uống điều độ, sống điều độ, không làm quá sức”), hơn nữa cần tránh sự xâm nhập của thời tiết như gió nóng đối với con người, người bệnh phải giảm bớt ham muốn trong đời sống của mình, như thế thì hoàn toàn không bị bệnh chút nào. (“Bậc Thánh nhân thời thượng cổ dạy người dưới mình biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được?”). Vì vậy, cách chữa bệnh của thầy thuốc thời xưa khác xa so với bây giờ.

Nếu như các thầy thuốc hiện tại của chúng ta cũng có thể coi trọng và học hỏi những phương pháp chữa bệnh của các thầy thuốc thời xưa để bệnh nhân không còn đối mặt với bệnh tật nữa chẳng phải tốt lắm sao?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung Y (8): Thượng Công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung Y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 2)https://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-8-thuong-cong-chua-benh-khi-chua-thanh-benh-ky-2.htmlMon, 16 Sep 2024 23:47:41 +0000https://chanhkien.org/?p=34359Tác Giả: Hồ Nãi Văn [ChanhKien.org] Phương pháp trị bệnh và trị khi chưa thành bệnh Phép biện chứng của “Bát cương” đã rõ ràng, qua đó có thể tìm ra căn nguyên để chữa bệnh; các phương pháp điều trị của Trung y rất đa dạng, trong đó phương pháp đơn giản, dễ hiểu […]

The post Mạn đàm Trung Y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác Giả: Hồ Nãi Văn

[ChanhKien.org]

Phương pháp trị bệnh và trị khi chưa thành bệnh

Phép biện chứng của “Bát cương” đã rõ ràng, qua đó có thể tìm ra căn nguyên để chữa bệnh; các phương pháp điều trị của Trung y rất đa dạng, trong đó phương pháp đơn giản, dễ hiểu nhất là phương pháp “chính trị” (điều trị trực tiếp); phương pháp “chính trị” (nghịch trị) và một khái niệm “tòng trị” (phản trị) là xuất phát từ phương pháp hướng dẫn điều trị “nghịch giả chính trị, tòng giả phản trị” (nghịch là chính trị, tòng là phản trị) trong “Tố Vấn – Chí Chân Yếu Đại Luận”; phương pháp “chính trị” “hàn thì làm cho nhiệt, nhiệt thì làm cho hàn, ôn thì làm cho thanh, thanh thì làm cho ôn, tán thì thu lại, uất thì tán đi, táo thì làm cho nhuận, cấp thì làm cho hoãn, kiên thì làm cho nhuyễn, nhuế (mềm) thì làm cho kiên, suy thì bổ thêm vào, cương thì tả bớt đi” là cách điều trị chọn dùng thuốc ngược với tình trạng bệnh; còn phương pháp “phản trị” hay còn gọi là “tòng trị” “lấy nhiệt trị nhiệt, lấy hàn trị hàn” chính là nhằm vào bệnh tình, dùng các vị thuốc tương đồng với bệnh tình, “thuận theo khí bệnh mà chữa trị”. Sau khi hiểu rõ được bát cương của bệnh tình, thì có thể định ra được một phương pháp chính trị để trị bệnh, Trung y có tám loại phương pháp điều trị là “hãn (đổ mồ hôi), thổ (nôn mửa), hạ (tẩy), hòa, ôn (làm ấm), thanh (thanh lọc), tiêu (loại bỏ), bổ (tẩm bổ, bù)”, tất cả đều dựa trên “Bát cương” biện chứng khác nhau mà dự tính.

“Chính trị” là chữa bệnh bằng phương pháp thông thường, còn “phản trị” là phương pháp chữa bệnh phản thông thường dựa trên tình trạng đặc biệt của bệnh tình. Ngoài ra còn có các phương pháp chữa bệnh dựa vào sự biến hóa tương sinh tương khắc của Âm dương và Ngũ hành.

Việc chữa bệnh khi chưa thành bệnh cũng tương tự như vậy, là phương pháp trị bệnh được sáng chế ra từ lý Âm dương Ngũ hành sinh khắc, tương tự như “hàn thì làm cho nhiệt, nhiệt thì làm cho hàn,…”, chỉ vậy thôi.

Các gia phái có quan điểm khác nhau về trị bệnh khi chưa thành bệnh

Hầu hết các học giả Trung y đều tin rằng ý nghĩa của câu “Thượng công trị vị bệnh, Trung công trị dĩ bệnh” (thầy thuốc giỏi chữa bệnh khi chưa có bệnh, thầy thuốc bậc trung trị bệnh khi đã có bệnh) là phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhưng học thuyết của mỗi gia phái hơi khác nhau, có lẽ vì y thuật của các thầy thuốc và mức độ tu dưỡng y học hàng ngày không giống nhau cũng như có mức độ hiểu biết khác nhau.

Cả “Nạn kinh” và “Kim Quỹ Yếu Lược” đều nói rằng khi chữa bệnh, một thầy thuốc giỏi sẽ biết bệnh sẽ lây lan sang các phủ tạng và kinh mạch khác, vì vậy trước tiên sẽ chữa trị cho các kinh mạch và các phủ tạng có thể bị bệnh ấy, như vậy bệnh sẽ không truyền đến các kinh mạch và phủ tạng khác, điều này quả thực có thể đạt được một số mục đích phòng bệnh.

“Trị bệnh khi chưa thành bệnh, nghĩa là khi thấy gan có bệnh thì biết gan sẽ truyền bệnh cho lá lách, vì thế trước hết nên tăng cường bồi bổ thực khí cho lá lách, để khiến cho nó không nhận cái tà khí của gan, do đó người ta nói đó là trị bệnh khi chưa có bệnh. Khi nói đến thầy thuốc bậc trung, nghĩa là khi thấy gan có bệnh thì họ không biết bệnh sẽ lan truyền sang lá lách mà một lòng chuyên chú chữa bệnh cho gan nên nói là trị bệnh khi đã có bệnh”. (Nạn Kinh – Đệ Thất Thập Thất Nạn).

“Trị bệnh khi chưa thành bệnh, là thấy bệnh ở gan biết sẽ truyền đến lá lách, trước tiên phải làm cho lá lách mạnh lên. Nếu bốn mùa lá lách đều khỏe mạnh không bị tà khí, thì không cần bồi bổ. Thầy thuốc hạng trung không hiểu quy luật tương truyền đó, thấy gan bị bệnh, không biết làm cho lá lách mạnh lên, chỉ lo trị bệnh ở gan” (Kim Quỹ – Tạng Phủ Kinh Lạc Tiền Hậu Bệnh Mạch Chứng Đệ Nhất).

Trung y cho rằng cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, trong vũ trụ có gì thì cơ thể con người cũng sẽ có cái đó. Trời có ngũ khí là phong, hỏa, thấp, táo, hàn; đất có Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Vạn vật sinh ra trên đất bao gồm các vị thuốc, cũng đều có ngũ vị tương ứng với Ngũ hành: toan (chua), khổ (đắng), cam (ngọt), tân (cay), hàm (mặn), và ngũ tính hàn, nhiệt, ôn, lương, bình; ngũ chí của con người (nộ, hỷ, tư, ưu, khủng) và ngũ tạng (can, tâm, tỳ, phế, thận) đều có sự đối ứng từ xa với nhau. Vì vậy, khi dùng các vị thuốc để chữa bệnh, trước tiên phải suy xét cân nhắc đến việc sử dụng các mối quan hệ sinh khắc hoặc tương đồng tương dị giữa ngũ vị và ngũ tạng.

“Bệnh ở gan (can), dùng vị chua để bổ, dùng vị khét đắng để hỗ trợ, dùng thuốc vị ngọt để điều hòa cho nó. Chua vào can, khét đắng vào tâm, ngọt vào tỳ. Tỳ có thể làm tổn thương thận (Thổ khắc Thủy), thận khí yếu thì Thủy không lưu thông; Thủy không lưu thông thì hỏa khí ở tâm hưng thịnh lên; hỏa khí ở tâm hưng thịnh lên thì làm cho phế bị tổn thương, phế bị tổn thương thì Kim khí không lưu thông, can khí sẽ hưng thịnh. Do đó nếu tỳ được tăng cường thì bệnh của can tự khỏi. Đó là diệu pháp trị can bằng cách bổ tỳ. Can hư thì dùng phép này, thực thì không trị như thế. Sách Nội Kinh viết: ‘Hư trị theo hư, thực trị theo thực, bổ vào chỗ không đủ, bớt chỗ có thừa’, nghĩa nó là như thế”. (Kim Quỹ – Tạng Phủ Kinh Lạc Tiên Hậu Bệnh Mạch Chứng Đệ Nhất).

Mỗi kinh mạch của huyệt đạo châm cứu đều có ngũ du huyệt: Tỉnh (như cái giếng), Huỳnh (là dòng chảy), Du (dồn tới nơi sâu hơn), Kinh (là xuyên qua), Hợp (là dồn lại đi sâu vào tạng phủ) liên quan đến Ngũ hành, khi sử dụng phương pháp điều trị bằng châm cứu cũng sẽ xem xét đến mối quan hệ tương ứng giữa thuộc tính sinh khắc của Ngũ hành của huyệt đạo với bệnh tình. Như vậy nếu có thể làm cho sự biến đổi năng lượng của các kinh mạch và các tạng phủ trong cơ thể con người tương ứng với trời đất, thì bệnh tật có thể dễ dàng chữa khỏi. Phương pháp tương tự cũng có thể được sử dụng để phòng bệnh, ví dụ phương pháp phòng bệnh “mùa xuân châm chích thì cần chọn ở giữa lạc mạch và phận nhục, mùa hạ châm chích thì cần chọn ở giữa thịnh kinh và phận thấu, mùa thu châm chích thì cần chọn huyệt Kinh và huyệt Du, mùa đông châm chích thì cần chọn huyệt Tỉnh và huyệt Huỳnh”. Lấy ví dụ về việc mùa đông cần chọn huyệt Tỉnh và huyệt Huỳnh:

Hoàng Đế nói: “Vào mùa đông châm chích nên chọn huyệt Tỉnh và huyệt Huỳnh, là đạo lý gì?” Kỳ Bá nói: “Vào mùa đông, thủy khí bắt đầu thuận theo mùa, thận khí bắt đầu bế tàng (đóng lại), dương khí suy giảm một ít, âm khí ngày càng mạnh lên nhiều, khi mặt trời nổi lên và chìm xuống, dương mạch cũng chìm xuống theo, vì thế châm chích nên lấy huyệt Tỉnh trên dương kinh để đè khí âm phản nghịch xuống, châm huyệt Huỳnh của âm kinh để bổ sung lượng dương khí còn thiếu”. Vì vậy mới có câu: “Mùa đông nên chọn châm ở Tỉnh Huỳnh, mùa xuân sẽ không sổ mũi chảy máu cam, chính là đạo lý đó” (“Tố Vấn – Thủy Nhiệt Huyệt Luận”).

Nếu dự đoán được bệnh tật trong tương lai, thì sẽ đưa ra phương pháp điều trị thích hợp. Uống thuốc để chữa bệnh hoặc sử dụng thuốc trước để nâng cao năng lực và sức khỏe thể chất dĩ nhiên là điều tốt, nhưng những người không bị bệnh nếu vì muốn sau này không bị bệnh thì cũng có thể dùng thuốc để dưỡng sinh.

Trong nhiều kinh điển y dược đều đã ghi lại cái gọi là “phục thực pháp” (phương pháp sử dụng đan dược và thảo dược), đó chính là để bảo dưỡng cơ thể con người khiến cho nó không phát sinh bệnh tật, chẳng hạn nhiều phương pháp đa dạng như “Phục địa hoàng phương”, “Hoàng tinh cao phương”, “Phục tùng chi phương” v.v. Trong lịch sử Trung y dược, đã có những chế tác ra bài thuốc thực phẩm tự nhiên, những phương thuốc để bổ dưỡng các phủ tạng. Ví dụ như các phương thuốc: “Quy tỳ thang” và “Tứ quân tử thang” dùng để bổ tỳ, “Thiên vương bổ tâm thang” dùng để bổ tim, “Lục vị địa hoàng hoàn” dùng để bổ thận, “Hoàn thiếu đan” được sử dụng để bổ tỳ thận, còn “Bát trân thang” và “Thập toàn đại bổ thang” dùng để bổ cả khí và máu, cùng với “Ngũ thạch thang” mà Trương Trọng Cảnh đã kê đơn cho Vương Trọng Tuyên đã đề cập ở trên, và “Thang dịch giao lễ” được đề cập trong “Hoàng Đế Nội Kinh – Tố Vấn” tất cả chỉ là để nuôi thận, là nền tảng tiên thiên, hoặc nuôi lá lách, là nền tảng hậu thiên, hoặc là dưỡng gan thanh nhiệt gan, hoặc bổ sung tâm khí thiếu hụt, đều hy vọng có thể cân đối chức năng của lục phủ ngũ tạng, nhờ đó tăng cường được khả năng chống lại bệnh tật, tránh được phát sinh bệnh tật sau này. Nhiều phương thuốc học trong sách cổ cũng ghi lại các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc. Ví dụ, “Y Phương Tập Giải” của Uông Ngang vào thời nhà Thanh có một thiên “Vật Dược Nguyên Thuyên”, đã nói với hậu nhân rằng có thể sử dụng các loại phương pháp xoa bóp hoặc hít thở, điều tức hoặc những cách tu dưỡng tính tình của bản thân để có trái tim nhân hậu có thể tránh khỏi bệnh tật.

“Hoàng Đế Nội Kinh” cho rằng việc điều trị bệnh có liên hệ lớn với sự phát triển của bệnh tình; hơn nữa còn cho rằng sự thuận nghịch của khí và sự hư thực của mạch cũng như Âm dương Ngũ hành đều có tính tương quan nhất định đến việc trị bệnh, nắm vững phương pháp trị bệnh này thì mới có thể kê đơn trị bệnh. Đưa ra một phương pháp điều trị tốt có mối quan hệ tương tự như việc tác chiến, không nên chống lại bệnh khi bệnh nặng và nghiêm trọng mà hãy đợi cho đến khi bệnh thuyên giảm rồi mới điều trị lại, cũng giống như trong đánh trận thì không nên đối đầu khi nhuệ khí đối phương đang cao thì mới hữu hiệu.

Việc thuận nghịch của khí là tương ứng với tứ thời Ngũ hành Âm dương Thiên địa. Sự mạnh yếu của mạch là do tình trạng thiếu hoặc thừa của khí huyết. Người giỏi châm cứu phải biết rõ bệnh nào có thể châm được, bệnh nào chưa có thể châm được, bệnh nào không thể châm được.

“Binh pháp” nói rằng, không đánh khi địch đang khí thế bừng bừng, không đối trận khi quân địch đội ngũ chỉnh tề, tiến lui nhịp nhành. Phương pháp châm nói rằng, không châm khi nóng hâm hấp, không châm khi mồ hôi đầm đìa, không châm khi mạch không rõ, không châm khi bệnh và mạch có sự trái ngược nhau.

Thầy thuốc giỏi có thể châm cho người khi chưa thành bệnh. Thầy thuốc hạng vừa có thể châm khi bệnh chưa nặng. Hạng tiếp nữa có thể châm khi bệnh đã suy yếu. Thầy thuốc có y thuật thấp kém, khi tà khí vẫn đang mạnh hoặc bệnh có triệu chứng nghiêm trọng, hoặc trong tình huống bệnh tình không phù hợp với tình trạng mạch mà vẫn tiến hành châm. Cho nên mới nói khi tà khí vẫn còn mạnh thì không nên dùng châm mà tổn hại đến nguyên khí, khi tà khí đã suy yếu mà tiến hành châm thì bệnh nhất định sẽ khỏi. Cho nên nói thầy thuốc giỏi phòng ngừa và điều trị bệnh trước khi thành bệnh, chứ không điều trị sau khi bệnh đã phát sinh. Đây chính là ý nghĩa như thế. (“Linh Khu. Nghịch thuận Đệ ngũ Thập ngũ”)

Một thầy thuốc giỏi trị bệnh là có thể hiểu rõ được bệnh tình và tiến hành điều trị sớm khi bệnh tình còn chưa phát triển đến một trạng thái nào đó. Ví dụ “Tố Vấn – Thích Nhiệt Thiên” viết: “Ở những người bị nóng gan, má trái sẽ đỏ trước tiên… Tuy bệnh chưa xuất hiện nhưng nếu thấy đỏ thì châm nên gọi là ‘trị khi chưa thành bệnh’. Đó là để ngăn chặn sự khởi phát của bệnh tình; và trong “Tố Vấn – Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận ” viết: “Thiện trị giả trị bì mao” (thầy thuốc giỏi trị bệnh khi bệnh còn ở ngoài da), trong “Tố Vấn – Bát Chính Thần Minh Luận” viết: “Thượng công cứu kỳ manh nha” (Bậc thượng công chữa bệnh ngay từ lúc mới manh nha) đều mong rằng trước khi bệnh tình phát sinh thì đã thấy sự phát triển tiếp theo của bệnh và trị khỏi. Nhưng nếu thầy thuốc có thể khiến mọi người chú ý đến việc dưỡng sinh ở giai đoạn sớm hơn trước khi bệnh tình xảy ra, để gốc rễ bệnh tình không có cơ hội phát sinh, đó là điều mà chỉ những thầy thuốc có tầm nhìn xa trông rộng mới có thể làm được.

“Hoàng Đế Nội Kinh” cho rằng tiêu chuẩn đạo đức thấp là nguyên nhân gây ra bệnh tật. Khi đạo đức hơi sa sút, con người sẽ bắt đầu mắc bệnh, con người thời Hoàng Đế đã không còn giữ gìn đạo đức được chu toàn nữa, đến mức phải thu góp các thứ độc dược và châm cứu để chữa bệnh. “Thang dịch giao lễ… đến thời Trung Cổ, đạo đức suy đồi một chút, khi tà khí phạm tới, khi này dùng tới Thang dịch và Giao lễ thì tất là công hiệu… Nay tất phải bào chế độc dược để trị bên trong và dùng sâm thạch châm ngải để điều trị bên ngoài thì bệnh mới mong khỏi được” (Tố Vấn – Thang Dịch Giao Lễ Luận Thiên Đệ Thập Tứ). Không chỉ như vậy, “Hoàng Đế Nội Kinh” còn cho rằng “châm thạch cũng là phương pháp trị bệnh, không phải là một điều bình thường, nó thực sự liên quan đến cái lý của tu Đạo, nhất định tinh thần ý chí phải ở trong Đạo, thì bệnh mới có thể chữa khỏi”, “thần khí của người bệnh đã phân tán, ý chí đã tán loạn, cho dù có phương pháp tốt thì thần khí cũng không khởi được tác dụng nên bệnh không thể khỏi”. “Tố vấn – Thang Dịch Giao Lễ Luận” cũng cho rằng nếu sở thích và ham muốn của con người là vô tận, thì hoạn nạn khốn khó sẽ không ngừng, khiến khí lực và tinh thần trở nên lỏng lẻo và hỗn loạn, khí huyết cũng sẽ trở nên tồi tệ, như vậy là dùng nhiều độc dược để chữa bệnh bên trong, sau đó dùng châm cứu để chữa bệnh bên ngoài thì cũng khó mà thành công. Vì vậy, “Tố Vấn – Thang Dịch Giao Lễ Luận Thiên” nói rằng “con người ngày nay tuy uống thang dịch giao lễ nhưng bệnh không khỏi” và “sự thèm muốn là vô tận, lo lắng hoạn nạn là vô cùng, dẫn đến chân khí của con người bại hoại, máu trở nên khô, dần dần mất hẳn tác dụng, mất đi hiệu quả với các phương pháp điều trị, tất nhiên bệnh sẽ không khỏi” và than thở rằng “phải kết hợp độc dược để tấn công bên trong, và đá châm và châm cứu để chữa trị bên ngoài thì bệnh mới khỏi”.

“Sử ký – Biển Thước Thương Công Truyện” cũng cho rằng việc trị bệnh là dựa vào sự hợp tác giữa thầy thuốc giỏi và bệnh nhân; thầy thuốc giỏi có thể biết được sự phát triển của bệnh tình ở giai đoạn đầu, bệnh có thể được chữa khỏi sớm và người bệnh có thể được cứu sống, ông cũng đã nêu ra sáu loại bệnh khó chữa ở con người.

Nếu Thánh nhân có thể đoán trước được sự tinh vi ảo diệu, khiến cho thầy thuốc giỏi có thể sớm xử lý thì bệnh có thể khỏi và cơ thể có thể được cứu sống. Điều mà con người lo lắng là có quá nhiều bệnh tật, còn điều mà thầy thuốc lo lắng là có quá ít phương pháp trị bệnh. Có sáu tình huống khó điều trị: loại thứ nhất là kiêu ngạo phóng túng không phân rõ phải trái; loại thứ hai là thà bỏ mạng chứ không bỏ tiền của; loại thứ ba là cơm ăn áo mặc không thích hợp; loại thứ tư là âm dương rối loạn, phủ tạng tinh khí mất cân bằng; loại thứ năm là cơ thể quá yếu không thể uống thuốc; loại thứ sáu là tin tưởng vào phép thuật của thầy phù thủy mà không tin vào y thuật. Nếu mắc vào một trong những tình huống đó thì bệnh sẽ rất nặng và khó chữa trị. (Sử Ký – Biển Thước Thương Công Truyện).

Thời cổ đại người ta chú trọng đến mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, đều hy vọng rằng tâm trí của bệnh nhân sẽ theo kịp các phương pháp điều trị, trong “Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương – Dưỡng Tính – Tự” của Tôn Tư Mạc viết: “Thánh nhân dùng thuốc men và thần dược để cứu người qua đường. Cho nên kẻ ngu bị bệnh nhiều năm mà không tu một môn phái nào, cuối cùng bệnh tật quấn đầy thân mà không hề hối hận”. Điều này có thể nhìn thấy rõ.

Người thầy thuốc giỏi là người coi trọng đạo dưỡng sinh, đồng thời dạy bảo người bệnh làm người lương thiện, vì tính thiện có thể trừ bỏ được bách bệnh; và việc dưỡng tính có thể chữa khỏi bệnh trước khi có bệnh, đồng thời không nhấn mạnh rằng người bệnh phải uống thuốc; sở dĩ một thầy thuốc giỏi yêu cầu bệnh nhân uống thuốc là vì để tạm thời cứu vãn người có hành vi và suy nghĩ hơi lệch lạc, nếu người này cải chính phương thức hành vi và suy nghĩ của mình thì sẽ có thể không bị bệnh. Ví dụ Tôn Tư Mạc đã nói trong “Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương”:

“Dưỡng tính cần không ngừng tu luyện bản tính để đạt đến lương thiện, khi bản tính tự nhiên hướng thiện, cho dù không tu luyện, bất kể là ở đâu cũng không gặp khó khăn gì. Bản tính tự nhiên mà hướng thiện, trong ngoài bách bệnh đều sẽ không phát sinh, các loại tai họa và thiên tai cũng không xảy ra một cách vô duyên vô cớ, đây là nguyên tắc chung của dưỡng tính”.

Người dưỡng tính tốt thì có thể chữa bệnh khi chưa có bệnh, đó là ý nghĩa của việc này.

Vì vậy dưỡng tính không chỉ là thuốc trường sinh bất lão, mà còn bao gồm các loại phẩm hạnh và đức hạnh, các loại đều có đầy đủ, tuy thuốc có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng đức hạnh chưa đủ thì ngay cả uống ngọc dịch kim đan vẫn không thể kéo dài tuổi thọ được.

Vì vậy Lão tử nói rằng với người chuyên dưỡng sinh đi trên đường sẽ không bao giờ gặp phải thú dữ, “đạo đức” nói tới ở đây là chỉ cảnh giới cao siêu này, sao có thể muốn sống lâu nhờ vào việc uống đan dược được?

Thánh nhân dùng thuốc men và thần dược để cứu người qua đường. Cho nên kẻ ngu bị bệnh nhiều năm mà không tu một môn phái nào, cuối cùng bệnh tật quấn đầy thân mà không hề hối hận. Người như thế này thì dẫu các bậc Thần y như Kỳ Bá, Y Hòa, Vu Bành, Du Phụ cũng bó tay mà ra đi mãi mãi, quả là rất có đạo lý” (Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương – Dưỡng Tính – Tự).

“Bậc Thánh nhân thời thượng cổ dạy người dưới mình biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được?” (Tố Vấn – Thượng Cổ Thiên Chân Luận).

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung Y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 1)https://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-8-thuong-cong-chua-benh-khi-chua-thanh-benh-ky-1.htmlSat, 14 Sep 2024 03:31:53 +0000https://chanhkien.org/?p=34140Tác Giả: Hồ Nãi Văn [ChanhKien.org] Lời nói đầu Quan niệm cổ xưa của Trung Quốc là nghĩ cách ngăn ngừa việc mắc bệnh, ví dụ “Chu Dịch” nói: “Thủy tại hỏa thượng, Ký Tế. Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi”, (dịch nghĩa: Nước ở trên lửa là quẻ Ký Tế, đấng […]

The post Mạn đàm Trung y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác Giả: Hồ Nãi Văn

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Lời nói đầu

Quan niệm cổ xưa của Trung Quốc là nghĩ cách ngăn ngừa việc mắc bệnh, ví dụ “Chu Dịch” nói: “Thủy tại hỏa thượng, Ký Tế. Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi”, (dịch nghĩa: Nước ở trên lửa là quẻ Ký Tế, đấng quân tử coi đó để nghĩ sự lo mà ngừa sẵn). Có nghĩa là khi khỏe mạnh người ta nên nghĩ tới và phòng ngừa bệnh tật sau này. Trong sách “Quốc ngữ” cũng đề cập rằng con người đều sẽ mắc bệnh, thầy thuốc giỏi có thể loại bỏ chúng sớm, và cũng cảnh báo rằng oán thù cũ từ đời trước của người dân không tốt cho gia tộc, nó cũng có thể được coi là bệnh hoạn của quốc gia, phải đối mặt với nó một cách thận trọng, và cần được ngăn chặn và loại bỏ càng sớm càng tốt.

“Hoàng Đế Nội Kinh”, một cuốn sách tham khảo quan trọng dành cho những người tu Đạo thời kỳ đầu ở Trung Quốc và những thầy thuốc Trung y, có nói rằng: “Đạo giả, Thánh nhân hành chi, ngu giả bội chi. Tòng Âm Dương tắc sinh, nghịch chi tắc tử. Tòng chi tắc trị, nghịch chi tắc loạn. Phản thuận vi nghịch, thị vị ‘nội cách’. Thị cố Thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn, trị vị loạn, thử chi vị dã. Phu bệnh dĩ thành nhi hậu dược chi, loạn dĩ thành nhi hậu trị chi, thí do khát nhi xuyên tỉnh, đấu nhi chú binh, bất diệc vãn hồ?” trích “Tố Vấn – Tứ Khí Điều Thần Đại Luận” (tạm dịch: Đạo là điều mà bậc Thánh nhân làm theo, kẻ ngu muội thì làm trái. Thuận theo âm dương thì sinh, nghịch lại âm dương thì tử. Thuận theo thì trị, nghịch lại thì loạn. Từ thuận chuyển thành nghịch gọi là “nội cách”. Vì vậy mà Thánh nhân không trị khi đã thành bệnh, mà trị từ lúc chưa thành bệnh; không trị khi đã loạn, mà trị từ lúc chưa loạn, chính là vì lý do đó. Phàm là bệnh đã hình thành mới dùng thuốc, loạn đã hình thành mới đi trị, thì giống như việc khát mới đi đào giếng, giặc đến mới đi tuyển binh, chẳng phải đã muộn sao?). Có nghĩa là thầy thuốc giỏi đều là người tu Đạo, người tu Đạo thì thuận theo âm dương và không hành sự ngược lại quy luật âm dương, cũng giống như đạo lý âm dương cai trị đất nước, minh quân không làm trái ý trời, họ đều có những đặc điểm giống nhau, vì vậy thầy thuốc giỏi chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân khi còn chưa có bệnh, người trị quốc giỏi chấm dứt hỗn loạn khi chưa hỗn loạn.

Về việc phòng ngừa bệnh tật, Tôn Tư Mạc thời nhà Đường đã nói: “Tồn bất vong vong, an bất vong nguy, đại Thánh chi chí giáo. Cầu dân chi mạc, tuất dân chi ẩn, hiền nhân chi dụng tâm”, (nghĩa là: Khi tồn không được quên nghĩ đến lúc vong, khi bình an không được quên nghĩ đến lúc nguy, đây là lời dạy tối thượng của bậc đại Thánh. Truy tìm nỗi khổ của dân, lo lắng cho nỗi khốn khổ của dân, đó là dụng tâm của bậc hiền nhân). Ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh tật, cũng tức là lý tưởng “thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh” trong Trung y, điều này liệu có thể thực hiện được không?

Về mặt lý thuyết thì có thể nhưng thực tế lại rất khó. Làm thế nào để có thể đạt được “thượng công trị bệnh khi chưa có bệnh”? Hãy nhìn vào khả năng “biết bệnh khi chưa thành bệnh” và “trị bệnh khi chưa có bệnh” của các thầy thuốc cổ đại, có lẽ có thể lấy đó làm tham chiếu cho các bác sỹ sau này.

Người ta khó tin vào những căn bệnh mà họ nhìn không thấy

Câu chuyện Biển Thước gặp Tề Hoàn Hầu được ghi lại trong “Sử ký – Biển Thước Thương Công truyện” là một ví dụ.

Biển Thước là khách của Tề Hoàn Hầu. Khi vào triều kiến, ông nói: “Ngài có bệnh ở da, nếu không chữa trị bệnh sẽ nặng hơn” … Hoàn Hầu không ưng ý cứ phớt lờ. Khi Biển Thước ra về, Hoàn Hầu không vui. Năm ngày sau, Biển Thước gặp lại Hoàn Hầu liền thoái lui… Hoàn Hầu sai người hỏi nguyên cớ. Biển Thước nói: “Bệnh ở da thịt còn chữa được bằng cách uống thuốc, bệnh ở huyết mạch chữa được bằng cách châm cứu, bệnh ở ruột và dạ dày dùng rượu thuốc chữa được, nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì thần không có cách nào cứu được nữa”. Năm ngày sau, Hoàn Hầu lâm bệnh, sai người triệu Biển Thước nhưng Biển Thước đã bỏ trốn. Sau đó Hoàn Hầu qua đời. (Sử Ký – Biển Thước Thương Công truyện).

Trong bộ “Hoàng Đế Tam bộ Châm cứu Giáp ất kinh” có ghi chép một câu chuyện về Trương Trọng Cảnh, một danh y thời Đông Hán có thể nhìn thấy trước được bệnh tật.

Trương Trọng Cảnh gặp người hầu của mình là Vương Trọng Tuyên khi đó hơn 20 tuổi. Ông nói: “Anh có bệnh. Khi bốn mươi tuổi lông mày sẽ rụng, lông mày rụng trong nửa năm thì chết”. Có thể tránh được điều đó bằng cách uống “Ngũ Thạch Thang”. Trọng Tuyên không hài lòng khi nghe những lời này, tuy nhận thuốc nhưng không uống. Ở lại ba ngày, Trọng Cảnh gặp Trọng Tuyên hỏi: “Uống thuốc chưa?” Trọng Tuyên đáp: “Đã uống rồi”. Trọng Cảnh nói: “Thần sắc của anh vẫn như cũ, anh chưa hề uống thuốc, sao anh xem nhẹ mạng sống của mình vậy!” Trọng Tuyên vẫn không tin. 20 năm sau quả nhiên lông mày của anh rụng, 187 ngày sau anh ta qua đời đúng như lời Trọng Cảnh đã nói. (Hoàng Đế Tam bộ Châm cứu Giáp ất kinh).

Dịch SARS đã hoành hành cực kỳ nghiêm trọng, nó đạt đến đỉnh điểm từ tháng Ba đến tháng Sáu năm 2003. Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan và Toronto của Canada khi đó đều là những vùng có nguy cơ mắc bệnh. Trên thực tế, “Kim Dịch” (dịch bệnh Vàng) đã được nói đến từ lâu trong “Hoàng Đế Nội Kinh”, “Kim Dịch” là một bệnh dịch ở phổi. Ba năm trước khi “Kim Dịch” phát sinh (năm Canh Thìn, Ất Canh thất thủ) có một tình trạng đã xảy ra; sau khi có những điềm báo trước phát sinh thì còn có một trận bão cát che khuất tầm nhìn (cánh đồng tối đen mù mịt, cát bụi trắng bay tứ phía), tất cả đều siêu việt lạ thường. Không chỉ vậy, nếu nó xảy ra sớm hơn thì manh mối đã được nhìn thấy vào năm Nhâm Ngọ (2002), nhưng nó đã xảy ra muộn hơn một chút vào năm Quý Mùi (2003).

Muốn chữa bệnh cần phải biết bệnh và tiến trình diễn biến của bệnh

Trung y sử dụng phương pháp “Tứ chẩn” là “vọng văn vấn thiết” để chẩn đoán bệnh và sử dụng phương pháp “bát cương” để đoán định “âm – dương, biểu – lý, hư – thực, hàn – nhiệt” của bệnh. Đứng đầu trong “Tứ chẩn” là vọng chẩn (nhìn, quan sát để đoán bệnh), thứ hai là văn chẩn (nghe âm thanh, ngửi mùi để đoán bệnh), thứ ba là vấn chẩn (hỏi để đoán bệnh) và thứ tư là mạch chẩn (bắt mạch để đoán bệnh). Trong “Nạn Kinh – Lục Thập Nhất Nạn” có cách nói như sau: Vọng mà biết thì gọi là Thần, Văn mà biết thì gọi là Thánh, Vấn mà biết thì gọi là giỏi, Thiết mà biết thì gọi là tài nghệ… Người giỏi về Vọng nhìn thấy thần sắc thì biết bệnh của họ; người giỏi về Văn nghe được ngũ âm để phân biệt bệnh của họ; người Vấn giỏi, tức là hỏi người ấy về ngũ vị mà họ ham muốn để biết được bệnh của họ bắt nguồn từ đâu; người Thiết (bắt mạch) mà biết thì có thể đoán được mạch cổ tay của người ấy, thấy được thực hư của người ấy, để biết được bệnh và bệnh ở tạng phủ nào.

Khoa học Trung Quốc cổ đại dựa trên học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành, người ta tin rằng mọi thứ vật chất và tinh thần đều liên quan đến học thuyết này. Vì vậy, thiên “Đại Y Tập Nghiệp” trong “Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương” của Tôn Tư Mạc nhà Đường viết: “Phàm muốn trở thành một thầy thuốc giỏi thì phải am hiểu bộ kinh điển như “Tố Vấn”. Người đó còn phải thông hiểu Âm Dương Lục Mệnh, Chư Gia Tướng Pháp, đốt mai rùa để biết năm điềm báo, Chu Dịch lục nhâm (một loại phương pháp bói toán cổ xưa sử dụng Âm Dương Ngũ Hành để dự đoán điều tốt hay xấu), hơn nữa phải đạt đến mức tinh thông thuần thục thì mới trở thành thầy thuốc giỏi. Nếu không như thế thì giống như đi lang thang trong đêm mà không có mắt, dẫn đến tử vong, thứ hai là phải đọc kỹ phương thuốc, suy ngẫm về đạo lý tinh vi, chú ý nghiên cứu thì khi đó mới có thể nói chuyện với người hành nghề y”. Nếu muốn trở thành một thầy thuốc giỏi, nhất định phải học các bài thuốc trong các sách kinh điển thời cổ, cũng cần biết xem số mệnh, và các thuật chiêm bói, chỉ khi có huệ nhãn có năng lực phân biệt độc đáo, mới có thể trở thành một thầy thuốc giỏi.

Trong “Hoàng Đế Nội Kinh” cũng ghi lại phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh theo “Ngũ vận lục khí”, lấy ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, còn được gọi là “Ngũ vận”, phối hợp với sự thay đổi của lục khí gồm “phong, hỏa, nhiệt, thấp, táo, hàn” của thời tiết theo bốn mùa trong năm, từ đó có thể phán đoán những bệnh nào có thể xảy ra trong năm ấy. Lời tiên đoán về “Kim Dịch” năm Quý Mùi nêu trên là được tính toán bằng cách sử dụng “Ngũ vận lục khí”. Nếu có thể biết trước sự xuất hiện của bệnh tật thì sẽ có thể đưa ra lời cảnh báo để người dân tránh bị lục khí như phong hàn thấp nhiệt v.v. xâm nhập, “bậc Thánh nhân thời thượng cổ đã răn dạy người dưới mình biết xa lánh hư tà phong tặc (khí độc và gió độc)”. Ngoài ra đời sống tinh thần và vật chất của người dân đều có thể phối hợp một cách đơn giản thì sẽ không dễ mắc bệnh, “trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn đâu mà sinh ra được?”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (8): Thượng công chữa bệnh khi chưa thành bệnh (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (7): Nhìn nhận về Trung yhttps://chanhkien.org/2024/04/man-dam-trung-y-7-nhin-nhan-ve-trung-y.htmlThu, 11 Apr 2024 02:03:09 +0000https://chanhkien.org/?p=32949Tác giả: Lưu Tiên Dật [ChanhKien.org] Nhận thức đầu tiên về Trung y Gia đình tôi ở trong ký túc xá nhân viên của bệnh viện, từ nhỏ tôi đã nghe người lớn nói về bác sĩ Trung y nào trong bệnh viện là gia truyền từ gia đình, ai giỏi châm cứu nhi khoa, […]

The post Mạn đàm Trung y (7): Nhìn nhận về Trung y first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Tiên Dật

[ChanhKien.org]

Nhận thức đầu tiên về Trung y

Gia đình tôi ở trong ký túc xá nhân viên của bệnh viện, từ nhỏ tôi đã nghe người lớn nói về bác sĩ Trung y nào trong bệnh viện là gia truyền từ gia đình, ai giỏi châm cứu nhi khoa, ai hiểu dịch lý biết bói toán… Thỉnh thoảng khi đến chơi xưởng sản xuất trung dược của bệnh viện, tôi gặp một số vị bác sĩ Trung y lúc rảnh rỗi đang đọc sách y học, sách được đóng theo kiểu buộc chỉ (kiểu truyền thống) và bằng chữ Hán chính thể (phồn thể). Nét mặt của họ lộ vẻ nhàn nhã và thanh thản, khác với những người khác. Vào thời kỳ đầu thập niên 70, dường như do ở vùng nông thôn cần lượng lớn bác sĩ chân đất, nên lúc đó Trung y bắt đầu thịnh hành, trong đó châm cứu và dùng thảo dược là những phương pháp tiết kiệm chi phí và hiệu quả nhất. Kết quả là các gia đình cũng vì thế mà có những cây kim bạc dài, những cuốn sách có hình minh họa về các loại thảo dược và các mô hình nhỏ về cơ thể và tai người chứa đầy các huyệt vị. Khi còn nhỏ, tôi yêu thích chúng không muốn rời tay nhưng tôi không biết tác dụng tuyệt vời của chúng. Khi lớn hơn một chút, cuốn “Bản thảo cương mục” trong nhà được tôi đọc đi đọc lại, tôi thực sự muốn học cách nhận biết những loại thảo dược đó. Về sau tôi mới thực sự học được từ người lớn cách nhận biết loại cây mã đề có thể thấy ở khắp mọi nơi, đồng thời cũng biết được dùng nó sắc thành nước có thể chữa được bệnh kiết lỵ. Đây đại khái được xem là sự giáo dục vỡ lòng về Trung y của tôi. Đó là lúc tình cảm của tôi với Trung y bắt đầu nảy nở.

Tôi được tiếp xúc với kiến thức trị bệnh Trung y khi lên năm hoặc sáu tuổi. Có một lần, vào lúc nửa đêm, em trai tôi vì đau do thoát vị bẹn mà khóc ầm ĩ, tiếng khóc đã đánh thức những người hàng xóm sống cùng sân, trong đó có bà Vương, một người nghiện thuốc lá nặng. Không biết là chủ ý của ai, nhưng họ đã dùng thuốc lá của bà Vương để đốt ở huyệt vị dưới lỗ rốn của em trai tôi, vậy mà khiến nó ngừng khóc và ngủ một giấc cho đến khi trời sáng. Điều này đã khắc sâu vào kí ức của tôi và không thể xóa bỏ được. Bây giờ nghĩ lại, đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một ví dụ thực tế về việc Trung y không cần tiêm thuốc hay dùng thuốc mà chỉ dùng một điếu thuốc lá là có thể chữa được bệnh.

Sau này, khi vào học trường y, tôi lại không học Trung y mà học Tây y. Nhưng có một môn là Trung y bắt buộc phải học, điều này cũng thỏa mãn mong muốn của tôi: biết thêm chút ít kiến thức về Trung y. Trước đây khi chưa làm bác sĩ, tôi đã trải qua nỗi đau và sự bất lực khi làm bệnh nhân, đồng thời tôi cũng nhận thức được điểm khác biệt giữa Trung y và Tây y.

Khi tôi học năm thứ hai và năm thứ ba đại học, không biết nguyên nhân vì sao tôi lại cảm thấy đau ở xương sườn bên phải, dựa vào một chút cảm nhận và kiến thức y khoa đó của bản thân, tôi nghĩ chỉ có Trung y mới có thể chữa khỏi bệnh. Tôi đến khoa Trung y của bệnh viện trực thuộc trường, vị bác sĩ rất giỏi về y thuật đã kê đơn bài thuốc “Tiểu sài hồ thang”. Bài thuốc đó đã chữa cho tôi khỏi bệnh. Tôi đã kiểm chứng rằng bài thuốc Tiểu sài hồ thang có tác dụng điều trị chứng bệnh can khí uất kết (tích tụ ứ đọng, đau sườn). Niềm tin vào Trung y của tôi cũng đã được hình thành vào thời điểm đó.

Một lần khác, tôi bắt đầu bị tiêu chảy, tôi đã uống rất nhiều thuốc kháng sinh và các loại thuốc Tây khác nhưng không có tác dụng, ngược lại tác dụng phụ rất nhiều. Tôi đến gặp bác sĩ của trường, khi bác sĩ của trường nghe nói là tiêu chảy, ông không hỏi gì cả, lập tức kê ngay một loại thuốc chế biến sẵn trong hộp là “Hoắc hương chính khí hoàn”. Thuốc này quả là không thể uống, từ đó về sau, toàn bộ chức năng tiêu hóa của tôi trở nên rối loạn. Thuốc này đã làm hại tôi. Khi tôi biết rõ rằng “Hoắc hương chính khí hoàn” chủ yếu được sử dụng để điều trị khi bị tiêu chảy do cảm lạnh gây nên, tôi hiểu rằng loại Trung dược này không được uống lung tung bừa bãi. Một bác sĩ Trung y giỏi, sau khi bệnh nhân đến khám, qua vọng, văn, vấn, thiết, sẽ biết bệnh của bệnh nhân là ở ngoài da hay trong nội tạng, rồi mới kê đơn thuốc phù hợp để trị bệnh. Trung dược này cũng có rất nhiều kiến thức, các vị thuốc có nào là quân, thần, tá, sứ, lại có vị thuốc nào vào kinh nào, mạch nào, tuyệt đối không được một chút mảy may qua loa đại khái. Mà vị bác sĩ của trường ấy đâu có ngờ được rằng vì trình độ y thuật kém của mình, khiến một căn bệnh lẽ ra có thể chữa được bằng Trung y lại trở nên phức tạp và khó chữa. May mắn thay, căn bệnh của tôi không đến mức làm hại tính mệnh của tôi, nhưng chứng rối loạn chức năng đường tiêu hóa để lại khiến tôi khó chịu trong hơn 10 năm, cho đến khi tôi tu luyện Pháp Luân Công mới khỏi. Sự việc này không làm tôi cảm thấy chán ghét Trung y mà ngược lại khiến tôi cảm nhận được tính hợp lý trong việc biện chứng để thực hiện trị bệnh của nó. Mặc dù triệu chứng của bệnh giống nhau nhưng nguyên nhân lại khác nhau, thuốc dùng cũng khác nhau, không thể dùng rập khuôn cùng một loại thuốc để điều trị.

Sau khi trải nghiệm cảm giác làm bệnh nhân, tôi bắt đầu tham gia vào học các môn lâm sàng. Khi học lý thuyết về Trung y, tôi mới biết sự thâm sâu và rộng lớn về nguồn gốc của Trung y. Sự viên dung của lý thuyết Trung y khiến tôi cảm thấy tựa như không có bệnh nào là không thể chữa khỏi bằng cách phân tích khảo chứng để thực hiện trị bệnh. Nhưng đồng thời, dù có thể sử dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành của lý thuyết Trung y để phân tích một cách rõ ràng mạch lạc ca bệnh, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình không biết bắt đầu từ đâu, lực bất tòng tâm và không thể nắm bắt được điểm tinh túy của nó. Lúc đó, tôi cũng không muốn đi sâu tìm hiểu lý do tại sao, nhưng những kinh nghiệm này cho tôi biết rằng Trung y có những nét độc đáo riêng trong việc chữa bệnh, nhưng không phải ai cũng có thể trở thành thầy thuốc Trung y, để trở thành một người hành nghề Trung y giỏi không phải là điều dễ dàng. Nhưng điều đó là có thể, bởi vì trong lịch sử có rất nhiều thầy thuốc Trung y nổi tiếng. Vậy mấu chốt để trở thành một thầy thuốc Trung y giỏi là gì?

Trung y độc đáo

Sau khi tốt nghiệp trường y, tôi không đi vào công việc lâm sàng mà tham gia nghiên cứu y học cơ bản. Điều này xem ra ngày càng rời xa Trung y, sẽ không còn có cơ hội tiếp xúc và suy nghĩ về nó nữa. Nhưng khi chuẩn bị ra nước ngoài, tôi không quên mua một cuốn sách giáo khoa Trung y về châm cứu và xoa bóp, nghĩ rằng sau này nó sẽ có công dụng. Sau khi đến Mỹ, tôi phát hiện ra rằng châm cứu đã dần dần được người Mỹ chấp nhận, một số người đã thử dùng NMR (chụp cộng hưởng từ hạt nhân) để nghiệm chứng sự tồn tại thực sự của các huyệt vị. Nghiên cứu này cũng khiến tôi bắt đầu suy nghĩ lại về Trung y. Tại sao châm cứu đã tồn tại hàng nghìn năm và chữa khỏi bệnh cho vô số bệnh nhân lại không được y học hiện đại chấp nhận hoàn toàn mà cần được khoa học hiện đại xác nhận bằng thực nghiệm mà mắt nhìn thấy là thật thì con người mới tin vào sự tồn tại thực sự của nó? Điều gì đã che mắt mọi người và khiến họ phớt lờ sự thật đã diễn ra hàng nghìn năm qua mà không quan tâm? Là vấn đề gì đã sinh ra từ tự thân con người chúng ta?

Mãi cho đến khi tôi đọc cuốn “Chuyển Pháp Luân” thì những vấn đề này mới được giải quyết một cách dễ dàng. Trung y đi theo con đường hoàn toàn khác với y học hiện đại. Do sự suy thoái đạo đức và sự phức tạp về tư tưởng của con người hiện đại, họ không còn có thể thực sự hiểu được những tinh túy của Trung y mà chỉ chú trọng vào việc mò mẫm kinh nghiệm và ứng dụng các thủ pháp. Chỗ độc đáo của Trung y cổ đại là nó không coi con người như một cá thể biệt lập mà gắn kết con người với trời đất và môi trường xung quanh, đó cũng chính là quan niệm “Thiên nhân hợp nhất”. Theo quan niệm này, nhận thức về bệnh tật và phương pháp điều trị của Trung y cổ đại hoàn toàn khác với y học hiện đại. Hãy xem các danh y thời xưa như Biển Thước thời tiên Tần, Đổng Phụng và Hoa Đà thời Tam Quốc, Tôn Tư Mạc thời Đường, v.v., họ đều có năng lực đặc biệt và là những người tu Đạo. Khi người tu luyện đạt đến một cảnh giới nhất định, một số người có thể nhìn thấy các không gian khác, vì vậy sự tồn tại của các huyệt vị trên cơ thể con người không phải là không có căn cứ mà là những gì người tu luyện đã tận mắt nhìn thấy và ghi lại. Đối với những người ngày nay không tin vào tu luyện và chỉ tin vào khoa học hiện đại mà nói, thì đó chỉ là ảo tưởng. Không phải Trung y không còn tốt nữa mà là bởi người ta kém cỏi, không nhận ra được những tinh túy của Trung y, nên mới khiến cho Trung y bị chôn vùi trong bụi bặm.

Điều mà cổ nhân chú trọng trong đối nhân xử thế chính là “đức”. Việc đánh giá một người tốt hay xấu cũng là lấy đạo đức làm tiêu chuẩn, đối với một người thầy thuốc chữa bệnh cứu người mà nói, yêu cầu này lại càng cao hơn rất nhiều. Trong thời Tam Quốc, Đổng Phụng cùng với Trương Trọng Cảnh người Nam Dương, Hoa Đà người huyện Tiêu đều là những người nổi tiếng và được gọi là “Kiến An tam Thần y” (ba Thần y thời Kiến An), họ không chỉ tu Đạo mà cuối cùng còn đắc Đạo thành Tiên. Đổng Phụng sống ở nhân gian hơn 300 năm mới quy Tiên, khi rời đi, dáng vẻ của ông vẫn như một người ngoài 30 tuổi. Trong cuốn “Thần Tiên truyện” có những sự tích phi thường về việc chữa bệnh cứu người của ông, trong số đó, câu chuyện được người đời sau ca ngợi nhiều nhất là câu chuyện “Hạnh lâm xuân noãn” (Xuân ấm rừng hạnh), đó là một trong hai điển cố kinh điển lớn của Trung y cổ đại Trung Quốc.

Đổng Phụng sống trên núi, không làm ruộng, hàng ngày chữa bệnh cho mọi người mà không nhận một xu nào. Tuy nhiên, ông có một yêu cầu, những người bệnh nặng được ông chữa khỏi phải trồng năm cây hạnh, những người bệnh nhẹ thì trồng một cây. Nhiều năm sau, ông đã chữa khỏi bệnh cho hàng nghìn hàng vạn bệnh nhân và đã trồng được hơn 100.000 cây hạnh, tạo thành khu rừng tươi tốt. Đổng Phụng hàng năm bán quả hạnh để đổi lấy lương thực, ông đã dùng toàn bộ lương thực đó để cứu tế cho người nghèo và người qua đường thiếu lộ phí. Mỗi năm hai vạn hộc lương thực như thế này được phát ra, rừng hạnh của ông đã cứu được vô số sinh mệnh. Vì vậy người đời sau dùng các câu “Hạnh lâm xuân noãn” (Xuân ấm rừng hạnh) và “Dự mãn hạnh lâm” (Tiếng tăm đầy rừng hạnh) để ca ngợi mỹ đức của lương y.

Muốn làm một thầy thuốc giỏi trên thế gian không hề dễ. Tôn Tư Mạc, một danh y thời nhà Đường, khi 70 tuổi đã viết “Thiên kim yếu phương” và “Thiên kim dực phương”, trong phần mở đầu của “Bị cập thiên kim phương” có phần “Đại y tập nghiệp” và “Đại y tinh thành”. Ông đã nhấn mạnh đến y đức và y thuật mà một thầy thuốc nên có. “Đại y tinh thành” đã trở thành lời thề y đức mà các thầy thuốc đời sau phải tuân theo.

Muốn trở thành một “thương sinh đại y” (thầy thuốc giỏi của muôn dân) phải “nghiên cứu sâu sắc về nguyên lý y học, chuyên tâm siêng năng không biết mệt mỏi, không được nghe tin đồn lưu truyền”, khi chữa bệnh “nhất định phải ổn định tinh thần và ý chí, vô dục vô cầu, trước tiên phải có tấm lòng thông cảm đại từ đại bi, nguyện thề vui lòng giải trừ thống khổ cho tất cả các sinh linh”. Đối với phía bệnh nhân đến chữa bệnh “không được hỏi người ta địa vị cao hay thấp, giàu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người thân hay kẻ thù, người Hoa hay dân tộc thiểu số, người thông minh hay ngu dốt, tất cả đều bình đẳng, tất cả đều như người thân, cũng không được do dự nhìn trước ngó sau, tự lo lắng lành hay dữ, bảo vệ tính mệnh của bản thân và gia đình mình”. Khi thấy nỗi khổ của người bệnh, hãy coi như nỗi khổ của chính mình, trong lòng cảm thấy buồn bã, không trốn tránh hiểm nguy, ngày đêm, nóng lạnh, đói khát, mệt nhọc, toàn tâm toàn ý cứu vớt người bệnh. Ngược lại sẽ gây “thiệt hại lớn cho nhân dân”. Ngoài ra, Tôn Tư Mạc cũng có những quy định về hành vi của thầy thuốc khi đến khám bệnh tại nhà bệnh nhân là “Khi đến nhà bệnh nhân, trước mắt đầy hoa lụa không liếc mắt nhìn xung quanh, đàn sáo áp bên tai nhưng hình như không có gì thú vị, món ngon quý lạ dâng lên, ăn như vô vị, mỹ tửu bày ra, nhìn mà dường như không”. Nếu không làm như vậy sẽ là “nỗi sỉ nhục cho cả con người và Thần linh”.

Làm thế nào mới có thể có y thuật tinh minh? “Phàm muốn trở thành thầy thuốc giỏi ắt phải hiểu sâu Hoàng đế nội kinh – Tố Vấn, Châm cứu Giáp Ất kinh, Hoàng đế Châm Kinh, Minh Đường lưu trú, Thập nhị kinh mạch, Tam bộ Cửu hầu, Ngũ tạng lục phủ, Biểu lý khổng huyệt, Bản thảo dược đối, và các bài thuốc nổi tiếng của Trương Trọng Cảnh, Vương Thúc Hòa, Nguyễn Hà Nam, Phạm Đông Dương, Trương Miêu, Cận Thiệu”. Ngoài ra “còn phải hiểu vận mệnh Âm Dương, Chư gia tướng pháp, Cập chước quy ngũ triệu, Chu dịch lục nhâm, và phải thành thạo”. Không đạt được những yêu cầu này thì giống như “đi đêm không có mắt, dẫn đến tử vong”, yêu cầu tiếp nữa là phải “đọc kỹ các phương thuốc này, suy nghĩ về diệu lý của chúng và nghiên cứu kỹ” thì mới có tư cách để nói chuyện “Y Đạo” với người khác.

Tôn Tư Mạc cũng nói về tính quan trọng để làm “thầy thuốc giỏi” là phải đọc nhiều sách. Ông nói: “Nếu không đọc Ngũ Kinh thì không biết đạo nhân nghĩa; nếu không đọc Tam Sử thì sẽ không biết nhiều sự kiện trong lịch sử xưa và nay; nếu không đọc Bách gia Chư tử để mở rộng kiến thức thì khi gặp sự tình không thể im lặng mà nhận thức nó; nếu không đọc kinh Phật thì sẽ không biết được đạo đức của Phật giáo về từ bi hỷ xả; nếu không đọc Trang tử Lão tử, thì không thể chấp thuận nguồn gốc của mình, quan sát thuận theo sự biến hóa của tự nhiên, vì quá quan tâm đến hung cát mà sản sinh ra các loại cấm kỵ và cố chấp, và hoàn cảnh khó khăn sẽ sinh ra khắp nơi”. Nếu còn có thể hiểu được lý thuyết về Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử có tác dụng tương hỗ trong Ngũ hành và các quy luật vận hành thiên văn của Mặt Trời, Mặt Trăng và ngũ tinh, thì những người học nghề y cũng cần phải tìm tòi nghiên cứu những đạo lý vi diệu ở trong đó. Nếu có thể học tập một cách chu toàn, “thì trong nghiên cứu tìm tòi y đạo sẽ không gặp phải sự đình trệ và cản trở, thế là sẽ tận thiện tận mỹ”.

Hãy nhìn Trung y ngày nay, có bao nhiêu người có thể tuân theo những quy tắc do Tôn Tư Mạc đặt ra cho thầy thuốc từ hàng ngàn năm trước? Trung y có thể chữa khỏi bệnh, chỉ là vì con người không còn tốt nữa nên bệnh mới khó chữa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (7): Nhìn nhận về Trung y first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (6): Lấy Trung y làm gương để đột phá những nút thắt trong chữa bệnhhttps://chanhkien.org/2024/03/man-dam-trung-y-6-lay-trung-y-lam-guong-de-dot-pha-nhung-nut-that-trong-chua-benh.htmlThu, 21 Mar 2024 03:01:38 +0000https://chanhkien.org/?p=32815Tác giả: Hồ Nại Văn [ChanhKien.org] Mục đích của việc chữa bệnh chính là giúp con người tránh xa thống khổ bệnh tật, không còn bị bệnh nữa. Nhưng người xưa thường nói, người ta ăn ngũ cốc tạp lương thì làm sao có thể không sinh bệnh được? Có nghĩa là, sinh bệnh là […]

The post Mạn đàm Trung y (6): Lấy Trung y làm gương để đột phá những nút thắt trong chữa bệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hồ Nại Văn

[ChanhKien.org]

Mục đích của việc chữa bệnh chính là giúp con người tránh xa thống khổ bệnh tật, không còn bị bệnh nữa. Nhưng người xưa thường nói, người ta ăn ngũ cốc tạp lương thì làm sao có thể không sinh bệnh được? Có nghĩa là, sinh bệnh là chuyện thường tình, không sinh bệnh mới là kỳ tích.

Muốn để con người không sinh bệnh tật, thì từ y học truyền thống Trung Quốc ta có thể sẽ có nhiều hy vọng tìm kiếm câu được trả lời hơn là các phương thức ngày càng tự động hóa và cơ giới hóa hiện nay.

Những nút thắt của y học hiện đại là gì? Đó là hiện nay có thể kiểm soát được huyết áp, lượng đường trong máu nhưng thậm chí ngay cả bệnh cảm cúm lại không thể kiểm soát được, bệnh AIDS cũng vậy, nếu mọc khối u thì ngoại trừ phẫu thuật ra sẽ không có cách nào khác. Biến đổi bệnh lý của bệnh thần kinh, ngoại trừ tổn thương cơ học ra thì người ta không biết khi nào và tại sao bệnh thần kinh lại xảy ra, y học phân tử hay sinh vật học phân tử cũng không thể giải quyết các bệnh nội tiết và bệnh tâm thần. Đến cuối cùng, phần điều trị bệnh trở nên không còn quan trọng nữa, mà kiểm tra bệnh lý sinh ra bệnh lại trở thành vấn đề chính, điều này đã tạo nên sự biến đổi vị trí giữa chủ và khách. Các bạn chẳng phải đã thấy rằng khi các thiết bị ngày càng tiên tiến và số lượng thống kê ngày càng chính xác thì ngày càng có nhiều bệnh nhân sao?

Kỳ thực, sở dĩ con người mắc bệnh là vì họ có nghiệp lực đã tích lũy từ đời này qua đời khác. Sự bại hoại về đạo đức của con người và hành vi đi chệch khỏi các chuẩn mực đạo đức của con người chính là điều có thể dễ dàng tạo thành nghiệp lực. Trong “Bị cấp thiên kim yếu phương” của Tôn Tư Mạc viết: “Sở dĩ Thánh nhân chế ra thuốc là để cứu người có đức hạnh; thế nên kẻ ngu muội ôm bệnh quanh năm bởi vì chẳng tu lấy một đức hạnh nào. Cuối cùng vẫn không có lòng hối cải”. Điều này rõ ràng chỉ ra rằng người mà các thầy thuốc muốn cứu là những người do có hành vi sai trái mà mắc bệnh, nhưng con người rất cố chấp trong khuôn khổ nhận thức của bản thân, cho dù ốm đau quanh năm họ vẫn không chịu thay đổi những tư tưởng và quan niệm sai trái để nâng cao đạo đức của mình. Trong cuốn sách “Hoàng Đế Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” nói rằng: “Các bậc Thánh nhân đời xưa làm ra thang dịch giao lễ (thuốc sắc và rượu thuốc), là để phòng bị. Cho nên người thời thượng cổ làm thang dịch mà không mấy khi dùng đến. Đến thời trung cổ về sau, con người vì đạo đức suy thoái nên đôi khi bị tà khí xâm nhập và họ bị bệnh, khi đó dùng tới thang dịch giao lễ thì rất là công hiệu”. Khi suy nghĩ và hành vi của con người lệch xa đạo đức, thì tà khí bắt đầu xâm nhập vào và sẽ mắc bệnh.

Những căn bệnh hiện đại cũng rất khó chữa, tại sao lại khó chữa đến thế? “Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” đã nói rằng đạo đức suy đồi là nguyên nhân sinh ra bệnh tật.

Hệ thống chữa bệnh cận đại chính là bệnh viện nào có trang thiết bị tiên tiến hơn thì đó là bệnh viện cao cấp hơn và tốt hơn. Lúc đầu vốn không có bệnh gì, vì quảng cáo nói khi người ta có bệnh thì nên phát hiện và điều trị sớm cho nên luôn đến bệnh viện để kiểm tra thường xuyên. Nếu kết quả kiểm tra là có bệnh, thì sẽ làm cho họ sợ gần chết, hoặc là không truy tìm tận gốc căn nguyên của bệnh thì không thôi, hoặc sẽ như con đà điểu giấu đầu vào trong đống cát và không dám đối mặt với hiện thực. Càng kiểm tra càng sợ hãi, nhất là đối với những “căn bệnh hiện đại” chưa có loại thuốc nào được tạo ra để chữa trị. Nếu kết quả kiểm tra cho thấy không bị bệnh, một số người sẽ nói với người thân và bạn bè rằng: “Bệnh viện này không tốt, chưa đủ trang thiết bị tiên tiến nên không phát hiện ra bệnh”. Hình như phải tìm ra rằng anh ta có bệnh thế mới tính là bệnh viện tốt, bác sĩ giỏi, chưa tìm ra nguyên nhân vì sao thì ngay cả bác sĩ cũng không chịu buông bỏ. Khi tìm ra được bệnh rồi, nhưng lại không có thuốc để chữa trị nên vừa khóc vừa kêu lên rằng không trị được.

Các bệnh nhân thời Trung Quốc cổ đại không có thiết bị khám bệnh tiên tiến như vậy thì làm sao? Họ tìm thầy thuốc bắt mạch, thăm khám, hỏi han và kê đơn. Nếu hỏi đó là bệnh gì, thì chỉ cần nói một số thuật ngữ mà người bệnh không hiểu như nào là “huyết phong”, “vị hỏa”, “gan dương cang”, “âm hư hỏa nhiệt”… v.v., rồi uống thuốc theo đơn, uống vào có thể đổ mồ hôi, cũng có thể bị tiêu chảy, nhưng bệnh sẽ khỏi, nào cần phải truy tìm sự việc đến tận cùng?

Kỳ thực chữa bệnh chính là như thế, hãy xem hiệu quả của ai tốt nào? Khoa học Trung Quốc cổ đại quả thực rất phát triển, sư phụ dạy đồ đệ nhìn sắc mặt, nghe giọng nói, hỏi một số vấn đề mấu chốt như ra mồ hôi, đau đầu, đau nhức cơ thể, sốt, khô miệng, đắng miệng, khi nào xảy ra, xảy ra ở chỗ nào, hoặc xảy ra sau khi đã làm gì đó, v.v., là có thể phân biệt ra ngay tình trạng bệnh hư thực hàn nhiệt, sau đó bắt mạch rồi tìm hiểu thảo luận thông tin về các tạng phủ và kinh lạc, sau đó có thể kê đơn bốc thuốc hoặc cởi y phục để thực hiện châm cứu, xoa bóp hoặc điều trị bằng thôi nã (mát-xa). Còn thời hiện đại thì sao? Đôi khi các loại thiết bị hiện đại như máy chụp cắt lớp (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI), siêu âm trông có vẻ rất hoành tráng đường hoàng, nhưng nếu dùng những thiết bị đó mà không phát hiện được bệnh thì không còn cách nào. Có bệnh kéo dài nhiều ngày mà không phát hiện ra bệnh gì. Ví dụ, có một bệnh nhân trẻ em hôn mê, sốt cao, đến một bệnh viện đại học y nào đó không chẩn đoán ra bệnh, sốt cao không rõ lý do đành phải chụp cắt lớp não, sau ba ngày vẫn không tìm ra bệnh, vẫn hôn mê và sốt cao, chuyển đến một bệnh viện lớn, bệnh viện cũng kiểm tra y hệt như vậy, lại mất thêm ba ngày nữa, nhưng vẫn hôn mê và sốt cao.

Trung y không chỉ có thể xác định được âm dương, hư thực, hàn nhiệt sinh ra bệnh tật của một người mà còn xác định được bệnh đó thuộc về tạng phủ nào, kinh lạc nào, rồi dựa theo lý mà chẩn đoán ra bệnh, lập đơn thuốc và kê các vị thuốc để chữa trị, hoặc thầy thuốc có thể sử dụng châm cứu, chỉ cần phân biệt được kinh lạc của bệnh, thì có thể dựa vào Ngũ hành tương sinh tương khắc và tìm ra vị trí để châm cứu thì bệnh có thể khỏi.

Bởi vì Trung y và châm cứu đều trực tiếp sử dụng cơ thể con người làm đối tượng trị liệu, không được thực nghiệm trên động vật rồi mới sử dụng trên cơ thể con người, thông tin họ có được trực tiếp dựa vào cơ thể con người nên tất nhiên có thể được sử dụng trực tiếp trên cơ thể con người.

Trung y lại thuộc về phần trong hệ thống học thuật của Đạo gia, chú trọng đến “thiên nhân hợp nhất”, Đạo gia tin rằng cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, cơ thể sinh vật khác cũng giống như vậy. Hết thảy sự tuần hoàn vận chuyển khí huyết trong cơ thể con người đều có một đường thông liên hệ tương hỗ với đại vũ trụ, cho nên chỉ cần nhân khí được kết nối với thiên khí thì sẽ không bị bệnh, do đó mượn đặc tính vũ trụ tự nhiên của động vật, thực vật, v.v để điều chỉnh khí của con người, dùng phương pháp châm cứu kết nối khí của con người với khí của vũ trụ, để loại bỏ cơn đau. Vì vậy, một số loại thuốc trong cách sử dụng cần chú ý đến sự phối hợp của các thời không, ví như: “Thập Táo Thang” nên uống lúc rạng sáng (sáng sớm, khi mặt trời lên ngang với tầm mắt của chúng ta, khoảng 5 giờ sáng), các loại thuốc bổ thận như “Lục Vị Địa Hoàng Hoàn” và “Bát Vị Địa Hoàng Hoàn” nên uống khi bụng đói. Thậm chí còn phải chú ý đến phương pháp sắc thuốc, như: Trong cát căn thang và ma hoàng thang thì ma hoàng phải sắc trước, loại bỏ lớp bọt phía trên, sau đó cho phần thuốc còn lại vào sắc; tương tự cát căn cũng được sắc trước. Trong sự phát triển của y thuật châm cứu, có nhiều phương pháp điều trị khác nhau liên quan đến thời gian như “Tý ngọ lưu chú” và “Linh quy bát pháp”. Các phương pháp châm cứu này đều có liên quan đến can chi của thời thần, kỳ thực chính là đặc tính âm dương của thời gian có quan hệ mật thiết với Ngũ hành. Một số bệnh có thể chữa khỏi vào những ngày này nhưng không thể chữa khỏi vào những ngày khác, ví dụ có các phương pháp châm cứu bao gồm: “Giáp bất trị đầu, Ất bất trị hầu, Bính bất trị kiên, Đinh bất trị tâm, Mậu Kỷ nhật bất trị phúc, Canh bất trị yêu, Tân bất trị tất, Nhâm bất trị hĩnh, Quý bất trị túc, (giờ Giáp không chữa bệnh ở đầu, giờ Ất không chữa bệnh ở cổ họng, giờ Bính không chữa bệnh ở vai, giờ Đinh không chữa bệnh ở tim, ngày Mậu và Kỷ không chữa bệnh ở bụng, giờ Canh không chữa bệnh ở eo lưng, giờ Tân không chữa bệnh ở đầu gối, giờ Nhâm không chữa bệnh ở cẳng chân, giờ Quý không chữa bệnh ở bàn chân).

Một số loại thuốc chọn dùng chất của chúng, trong khi có những loại thuốc chọn dùng khí của chúng, tất cả đều rất đáng được chú ý. Một số loại thuốc không thể dùng cách đun sắc mà nhất định phải nghiền thành bột mịn rồi nuốt, chẳng hạn như cây nguyên hồ sách. Loại bào chế cũng là một vấn đề quan trọng như: cao, hoàn, đơn, tán, thang, dịch, giao, lễ, mỗi loại đều có tác dụng riêng, tức là hoàn tễ (thuốc viên) có loại làm thành mật hoàn (viên mật ong), có loại làm thành cơm nắm giã thành viên, có loại làm thành thủy hoàn, có loại làm thành diện quả hoàn… Trong y học có câu “Thang giả thang dã, hoàn giả hoãn dã, tán giả tan dã…”, có nghĩa là thuốc sắc có tác dụng của thuốc sắc, thuốc viên là có mục đích làm tác dụng chầm chậm, thuốc bột có tác dụng chữa bệnh cấp tính… Y học hiện đại cũng đã nhận ra điều này và đã phát triển các dạng bào chế như “Trường Y Đĩnh” (viên bao trong ruột), “Vị Y Đĩnh” (viên bao dạ dày) là nhằm giúp thuốc tan ra trong ruột hoặc dạ dày để đạt được hiệu quả hấp thu tối ưu.

Hệ thống chữa bệnh hiện đại đã xuất hiện rất nhiều nút thắt không thể vượt qua, mặc dù ở Trung Quốc đại lục và Đài Loan có rất nhiều cơ sở nghiên cứu và phòng thí nghiệm đang phát triển, nghiên cứu Trung y và Trung dược, cả về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế dường như họ rất có thành tựu, rất nhiều loại thuốc mới cũng đã được phát triển và ứng dụng; kỹ thuật gây mê bằng châm cứu đã nở hoa kết trái và có thể hỗ trợ cho các ca phẫu thuật ngoại khoa.

Trung y có lý thuyết và phương pháp điều trị rất cao và đạt tới đỉnh điểm do tự nó đã hình thành, nó là một hệ thống trị bệnh của tầng thứ cao hơn, Trung y thời cổ chưa bao giờ có ý nghĩ về vi khuẩn hay virus, nó chỉ sử dụng khái niệm phong, hỏa, nhiệt… để mô tả nguyên nhân gây bệnh, ví dụ thời xưa gọi bệnh cúm truyền nhiễm theo nguyên nhân gây bệnh bằng các tên như “thương hàn”, “ôn bệnh”, “nhiệt bệnh”, v.v. nhờ thế mà có thể chữa khỏi bệnh trong chưa đầy một tuần. Bởi vì nhờ sự tiến bộ của thiết bị kiểm tra, con người hiện đại dường như có thể truy tìm nguồn gốc của bất kỳ căn bệnh nào, nhưng họ không thể điều trị hiệu quả chứ đừng nói đến việc phòng ngừa. Ví dụ, loại “Trường bệnh độc” (dịch bệnh truyền nhiễm virus đường ruột enterovirus) từng hoành hành ở Đài Loan đã được phát hiện nhưng không có cách nào chữa trị. Cùng một bệnh đến thầy thuốc Trung y, chỉ cần xác định là vị hỏa (hỏa ở dạ dày), thì thanh lý vị hỏa, nếu xác định là can hỏa (hỏa ở gan), hãy thanh lọc can hỏa, nếu xác định cái gì hỏa, thì giải trừ hỏa đó, thuốc đến là bệnh khỏi. Bản thân tôi đã gặp nhiều trường hợp mắc bệnh này, vị trí phát bệnh luôn thay đổi thiên biến vạn hóa, có người bị tổn thương dây thần kinh thính giác khiến khi đi lại mất thăng bằng, cuối cùng là mất thính lực; có người bị tổn thương dây thần kinh mặt, có người bị mụn rộp ở mí mắt, có người bị mụn rộp ở tai, có người bị mụn rộp ở trong khoang miệng và trên ngón tay, Tây y đều xem là những vấn đề lớn, còn Trung y nói rõ nguyên nhân gây bệnh là do “hỏa”. Sau đó dùng một ít thuốc để thanh lý hỏa các kinh lạc và tạng phủ khác nhau, mấy ngày là có thể trị khỏi bệnh.

Sự phát triển của khoa học đều hy vọng đơn giản hóa những điều phức tạp và sử dụng những mô thức đơn giản để giải thích mọi hiện tượng vật lý, hóa học và sinh học vốn muôn hình vạn trạng. Khoa học phương Tây đã phát hiện ra rằng cơ sở của bất kỳ vật chất nào đều là các hạt rất nhỏ bé, là nguyên tử, nó là thành phần cơ bản của vật chất, và nguyên tử lại do các thành phần như electron, proton, neutron cấu thành, dùng mô hình này có thể giải thích nhiều hiện tượng vật chất, sau đó lại trên cơ sở này đã phát hiện ra vi lạp vi quan hơn và nhỏ hơn, nhưng việc giải thích về các hiện tượng vật chất vẫn còn dừng lại ở ý tưởng, tuy có thể có những thành tựu trong các vấn đề mà vật lý và hóa học quan tâm, nhưng vẫn còn cách rất xa mới ứng dụng được vào việc trị bệnh trên cơ thể con người, thật khó để có thể tiến thêm một bước về phía trước. Nền tảng của khoa học Trung Quốc cổ đại chính là âm dương và ngũ hành, có thể dùng để giải thích mặt trời, mặt trăng, các vì sao và dùng để giải thích vạn sự vạn vật trên thế gian, đều giảng rất thông suốt, và trong y học cũng như vậy. Mối quan hệ giữa ngũ hành và ngũ sắc, ngũ hành và ngũ vị, ngũ hành và ngũ tạng, ngũ hành và ngũ dịch, ngũ thanh, v.v. ., kỳ thực là mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tất cả đều có thể dùng nó để giải thích rõ ràng.

Phương pháp quan sát đoán bệnh tình của Trung y thực hiện theo khái niệm âm dương và ngũ hành, dùng cách đơn giản nhất, ví như ngũ tạng đều có thuộc tính của ngũ hành (gan là âm mộc, tim là âm hỏa, lá lách là âm thổ, phổi là âm kim, thận là âm thủy), ngũ phủ cũng có thuộc tính của Ngũ hành (túi mật là âm mộc, ruột non là âm hỏa, dạ dày là âm thổ, ruột già là âm kim, bàng quang là âm thủy), ngũ vị, ngũ sắc, ngũ mạch, cho đến Thiên can và Địa chi dùng để ghi ngày tháng năm cũng có thuộc tính Ngũ hành riêng của nó, các mùa, giờ, ngày, tháng, năm đều có thuộc tính Ngũ hành của nó. Không những vậy, chúng còn có thuộc tính âm dương, đó là vì chúng có những điểm liên quan đến toàn bộ vũ trụ, vậy nên ngũ sắc, ngũ vị của thuốc đều hình thành mối liên hệ nhất định với các phủ tạng trong cơ thể chúng ta. Việc chẩn đoán và điều trị bệnh trong Trung y đều được suy xét theo hướng này.

Trung y rất chú trọng việc sử dụng, thu hái và kết hợp các loại thuốc. Ví dụ như mùa và giờ đều liên quan đến hiệu quả của thuốc, chẳng hạn một số loại thuốc được thu hái vào ngày hạ chí, có một số loại thuốc được thu hái vào ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc ngày 7 tháng 7 (như cây Hy thiêm), ngoài ra việc thu hái thuốc và chế thuốc cũng chú ý đến việc chọn người, hiệu quả của thuốc do những người khác nhau thu hái cũng khác nhau. Ví dụ, khi nói đến việc thu hái nhân sâm, truyền thuyết kể rằng có một số người đặc biệt nhìn thấy những đứa trẻ chạy nhảy trong rừng núi, họ dùng sợi tơ đỏ quây lại, rồi ngày hôm sau mới thu hái, kỳ thực chính là họ đã nhìn thấy hình dáng của nhân sâm ở không gian khác. Nhân sâm được sử dụng trên lâm sàng hiện nay là nhân sâm được nuôi trồng, nếu không có sự chú trọng như vậy thì hiệu lực và tác dụng của nhân sâm cũng giảm đi rất nhiều. Kỳ thực, người chuyên thu hái nhân sâm này là người đã khai mở thiên mục, phải là người có chuẩn mực đạo đức nhất định, nếu không phải là người có chuẩn mực đạo đức cao thì không thể khai mở thiên mục đủ để nhìn thấy trẻ em chạy nhảy ở không gian khác.

Trung y khi chẩn đoán bệnh cần luôn quan sát tỉ mỉ và cũng chú ý đến việc điều trị tâm lý. Họ chú trọng vào sự kết hợp của bốn cách chẩn đoán “vọng, văn, vấn, thiết” (nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch), đặc biệt ưu tiên đối với “vọng”, họ thậm chí còn cho rằng “nhìn là biết thì gọi là thần”. Ví dụ, “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh có phương pháp quan sát bệnh nhân giả mắc bệnh, khi bệnh nhân nằm quay mặt vào tường, khi thầy thuốc đến sẽ không còn trạng thái trông mong hay sợ hãi, lúc nói chuyện với anh ta còn ngáp, đây là căn bệnh giả, đơn thuốc ghi rằng có thể sử dụng hàng trăm mũi kim và hàng chục điểm châm cứu để khiến bệnh nhân sợ hãi đến mức không dám giả vờ bị bệnh, đồng thời đưa ra chẩn đoán chi tiết và điều trị tâm lý.

Trung y trong chẩn đoán điều trị cũng rất coi trọng sự tương tác giữa thầy thuốc và bệnh nhân, trong “Hoàng Đế Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” có một đoạn: Đối với người bị bệnh tại sao lại không trị khỏi? Tại sao “một khi bệnh tình phát triển đến mức hình thể hư hại, khí huyết cạn kiệt thì việc điều trị không có hiệu quả?” Câu trả lời là “Đó là do thần khí của bệnh nhân đã không thể phát huy tác dụng vốn có của nó nữa”. Thế thì tại sao nói “thần khí không thể phát huy tác dụng vốn có của nó nữa”? Bởi vì châm cứu và kim đá là thể hiện của “Đạo”, nếu như “tinh thần của bệnh nhân đã tán loạn, ý chí cũng đã tán loạn, dù có phương pháp tốt thì thần khí cũng không khởi tác dụng, và bệnh cũng không chữa khỏi được”. Nhưng bây giờ, bởi vì hầu hết mọi người đều có “ham muốn vô tận và lo lắng vô tận” khiến “tinh khí tan rã, dinh vệ cạn kiệt cho nên thần khí đã mất, bệnh không khỏi”. “Tinh khí bại hoại thần khí mất” cho nên “dinh vệ không thể hồi phục” thì bệnh khó chữa được. Khi chữa bệnh cho người bằng châm cứu, chúng ta nên chú ý đến “bản thần triều”, nghĩa là người bệnh và thầy thuốc phải hướng về nhau thì mới đạt được hiệu quả, vì vậy người ta nói “người bệnh và thầy thuốc không hướng vào nhau thì không chữa trị được”.

Trung y không chỉ dùng để chữa bệnh mà nội hàm của nó còn bao gồm cả dưỡng sinh. “Hoàng Đế Nội Kinh” về cơ bản là một cuốn sách nói về việc chữa bệnh, dưỡng sinh và tu luyện. Nhưng ba điều này lại không thể tách rời nhau, vì khi nói tu luyện mà mang theo một thân thể suy nhược thì hoàn toàn không thể tu luyện được, bệnh của một người đã chữa khỏi rồi, nhưng thường xuyên ốm đau cũng không được, cho nên phải chú ý đến dưỡng sinh. Sau đây là những quan điểm về bệnh tật, dưỡng sinh và tu luyện được đề cập đến trong “Hoàng Đế Nội Kinh”:

1. Ngăn ngừa sinh bệnh

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” dạy mọi người rằng nếu biết thiên mệnh của mình, họ có thể sống và hưởng thụ những năm tháng Trời ban; Những người hiểu Đạo Pháp trong con người thời kỳ sớm nhất đều biết rằng họ nên đồng hóa với Âm Dương, phải biết thiên mệnh của mình là đã có định số, cho nên việc ăn uống và chỗ ở phải có sự tiết chế nhất định, không ép mình làm việc quá sức, vì vậy, cả hình thể và thần khí đều không xa rời Đạo Pháp, cho nên đều có thể đạt đến tuổi thọ tối đa và sống đến trăm tuổi mới qua đời. (“Về đời Thượng cổ, những người biết đạo, bắt chước ở âm, dương; điều hòa với thuật số, ăn uống có mực, khởi cư có thường, không làm quá sức, cho nên giữ được cả hình hài và tinh thần, sống trọn số trời, linh trăm tuổi mới thác”).

2. Dưỡng sinh

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” cũng dạy mọi người rằng ngăn ngừa bị bệnh, nên cẩn thận gió lạnh, không màng với những ham muốn như danh lợi, cũng không chấp trước vào tình cảm, làm việc vừa phải, vì vậy họ có thể hưởng trọn tuổi trời, dù đã lớn tuổi nhưng động tác vẫn linh hoạt nhanh nhẹn. (“Bậc thánh nhân thời Thượng cổ đã răn dạy người dưới mình, biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí vì thế mà thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được. Vì vậy chí nhàn mà ít dục, tâm an mà không sợ, cơ thể hoạt động mà không mệt mỏi, chân khí điều hòa, mọi sự đều được mãn nguyện. Cho nên người ta ăn gì cũng thấy ngon, mặc gì cũng thấy hài lòng, ai cũng yêu phong tục tập quán của mình, sống vui vẻ, cho dù địa vị xã hội cao thấp đều không ngưỡng mộ riêng ai, vì vậy những người này có thể được gọi là thật thà chất phác. Do đó những điều ham muốn không thể làm mỏi mắt họ, những điều tà dâm không thể mê hoặc tâm họ, kẻ ngu, người khôn, người giỏi kẻ kém đều không vì sự biến đổi của sự vật ngoại giới mà động tâm lo lắng. Cho nên mới phù hợp với đạo dưỡng sinh, sở dĩ họ có thể sống trên trăm tuổi mà không tỏ ra già nua trong cử động chính là vì họ hiểu và nắm vững các phương pháp tu thân dưỡng tính mà không bị tà linh bên trong và bên ngoài can nhiễu làm tổn hại, đó là bởi đức toàn vậy”)

3. Tu luyện

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” nói rằng thời cổ đại có “Chân Nhân”, “Chí Nhân”, “Thánh Nhân” và “Hiền Nhân”, về cơ bản họ đều là những người tu luyện, tức là những người tu Đạo, họ đều hiểu được dưỡng sinh, và biết rằng ngoài việc bảo dưỡng hình thể, còn có một số điều về mặt tinh thần cần phải cải biến, chẳng hạn như không màng tới những ham muốn và chấp trước ở chốn nhân gian. “Chân Nhân” là người có thể nắm vững, nắm bắt được định số âm dương của trời đất; “Chí Nhân” là người có thể đồng hóa được với định số âm dương; “Thánh Nhân” là người có thể thuận theo cái lý của trời đất nhân gian, tức là người tốt trong số những người tốt, có thể bảo dưỡng tinh, khí, thần; “Hiền Nhân” tức là người có thể hòa hợp với trời đất và đạo nhân gian. (“Đời Thượng cổ có bậc Chân Nhân có thể xoay chuyển được trời đất, điều hòa được Âm Dương, thở hút tinh khí, giữ vững hình thần, da thịt không lúc nào thay đổi, nên mới có thể sống lâu cùng trời đất, tới mãi vô cùng tận. Đó là hạng người sống hợp với đạo”. “Về đời Trung cổ, có bậc Chí Nhân, sửa đức hợp đạo, hòa với âm dương, thuận với bốn mùa, xa đời, lánh tục, chứa tinh, vẹn thần, rong chơi trong khoảng trời đất, xa trông ra ngoài tám cõi. Đó là bởi biết giữ gìn tu luyện, nên mới được mạnh mẽ và sống lâu. Bậc này rồi cũng được như Chân Nhân”. “Về bậc thứ, có hạng gọi là Thánh Nhân, ở trong vòng trời đất, thuận theo lẽ tám phương, tuy cũng có thị dục như người thế tục, nhưng không có lòng hờn giận, cũng áo, mũ, cũng miếu đường; bên ngoài không để nhọc hình về việc; bên trong không để nhọc về lo; lấy vui làm hay, lấy tự đắc làm thích. Do đó hình thể không mỏi mệt, tinh thần không lìa tan, nên cũng có thể sống được linh trăm tuổi”. “Lại bậc thứ nữa, có hạng gọi là Hiền Nhân, bắt chước sự vận hành của trời đất và mặt trời, mặt trăng; thuận theo lẽ nghịch và thuận của hai khí Âm Dương, với sự thay đổi của bốn mùa cố tu luyện theo đời người Thượng cổ, cho hợp với đạo. Như thế cũng có thể sống lâu mãi mãi”).

Việc bảo dưỡng sức khỏe phải đồng hóa với sự thay đổi của mùa tiết, lao động và nghỉ ngơi cũng phải phù hợp với sự thay đổi thời tiết trong mùa. “Tứ Khí Điều Thần Đại Luận” (Hoàng Đế Nội Kinh chương 2) cho rằng: Nếu không tuân theo “Xuân dưỡng sinh, Hạ dưỡng trưởng, Thu dưỡng thâu, Đông dưỡng tàng” sẽ làm tổn hại đến khí của các cơ quan nội tạng và các bệnh khác sẽ xảy ra trong mùa tiếp theo. (Vào ba tháng của mùa xuân, đây được gọi là “phát trần”, khi cả trời và đất sinh ra, vạn vật thịnh vượng. Đêm nằm dậy sớm, đi thong dong ngoài sân, buông xõa tóc, nới rộng áo, để cho “chí” sinh ra. Chí sinh mà không sát, trao cho mà không đoạt, thưởng mà không phạt. Làm như vậy cho hợp với cái khí của mùa xuân, tức là cái đạo dưỡng sinh vậy. Nếu trái lại sẽ tổn thương đến Can, không đủ khí giúp sự phát triển của Tâm, tới mùa hạ sinh ra bệnh hàn. Ba tháng mùa hạ gọi là “Phồn tú” khí của trời đất giao nhau, cây cối đâm hoa kết trái. Đêm nằm dậy sớm, chớ ngại ngày dài. Đừng để trong “chí” có sự giận dữ, cho thần khí được thư thái. Để cho khí bên trong được tiết ra bên ngoài, không bị che lấp. Làm như vậy cho hợp với cái khí của mùa Hạ, tức là cái Đạo dưỡng sinh vậy. Nếu trái lại sẽ tổn thương đến Tâm, tới mùa Thu sinh ra bệnh sốt rét. Tâm khí ít không đủ giúp cho sự thu lượm của Phế, mùa đông tất lại mắc thêm bệnh. Ba tháng mùa Thu gọi là “dung bình”, khí trời hanh ráo, khí đất trong sáng. Nằm sớm dậy sớm theo tiếng gà gáy. Để cho “chí” được an ninh làm cho dịu bớt cái khí xơ xác tiêu điều của mùa thu ảnh hưởng đến cơ thể con người, hội tụ thần khí cho Phế khí được trong sạch. Làm như vậy cho hợp với cái khí của mùa Thu, tức là phương pháp giúp sự hội tụ vậy. Nếu trái lại, sẽ tổn thương đến Phế; không đủ khí giúp sự thu Tàng, đến mùa đông sinh ra bệnh thổ tả. Ba tháng mùa Đông gọi là “bế tàng”. Nước thành băng, đất nứt nẻ, không nên làm phiền nhiễu Dương khí. Nằm sớm dậy muộn, nên đợi lúc mặt trời mọc, khiến cho “chí” như ẩn nấp, như giấu diếm, để cho khí của Tâm với Thận giao nhau, lánh nơi rét, tới nơi ấm, đừng để da hở ra khiến cho Dương khí bị tổn thất liên tục. Làm như vậy cho hợp với cái khí của mùa Đông, tức là cái đạo giúp sự thu tàng vậy. Nếu trái lại sẽ tổn thương đến Thận, không đủ khí giúp sự sinh trưởng của Can, tới mùa Xuân, tất sinh ra bệnh nuy, quyết (liệt, hôn mê)).

Từ việc quan sát bệnh, chữa bệnh cho đến phòng bệnh, các phương pháp của y học cổ truyền đều là vô cùng đơn giản tiết kiệm, chỉ cần “điều hòa âm dương” và “biến hóa thuận theo ngũ hành” là có thể đạt được mục đích. Đặc biệt là đối với việc quan sát và nghiên cứu vạn sự vạn vật trong trời đất vô cùng đơn giản và tiết kiệm, nhưng cũng cực kỳ hiệu quả và có thể áp dụng cho con người, ví dụ như Thần Nông nếm hàng trăm loại thảo mộc bằng phương pháp đơn giản nhất, dùng giác quan của chính mình để nếm thử năm vị như chua đắng của các loại thực vật thân thảo là biết nó có thể đi vào tạng nào, phủ nào và kinh mạch nào, ít nhất không cần phải tốn nhiều tiền hay tốn nhiều nhân lực để chế tạo các thiết bị máy móc. Nhiều đại y học gia thời cổ đại có những năng lực đặc biệt, dùng ngôn ngữ hiện đại thì gọi là “công năng đặc dị”. Ví dụ như Biển Thước nhìn bệnh của Tề Hoàn Công liền biết diễn biến quá trình mắc bệnh của bệnh Tề Hoàn Công; Trương Trọng Cảnh nhìn bệnh của Vương Xán, biết Vương Xán khoảng 40 tuổi sẽ gặp đại nạn, sau khi tóc rụng, huyết mạch sẽ bị tổn hại…; Hoa Đà nhìn thấy Tào Tháo bị bệnh và biết rằng ông ta có khối u trong não và cần phải phẫu thuật; Cát Hồng điều trị vết thương chó cắn bằng cách bôi não chó lên vết thương để giải độc, tương tự như cách điều trị của Pasteur hàng nghìn năm sau, cũng phù hợp với liệu pháp miễn dịch được mô tả trong y học hiện đại; làm sao các y học gia thời cổ đại lại có được những “công năng đặc dị” siêu thường như vậy? Câu trả lời là tu luyện.

Ngoài ra, chăm sóc, dưỡng sinh, tu luyện đều là những cách giúp con người không sinh bệnh tật và có thể hưởng trọn tuổi trời. Các bậc tiền bối của y học Trung Quốc từ lâu đã cung cấp cho chúng ta những con đường thực tiễn. Loại bỏ dục vọng và chấp trước càng nhiều, thì càng có thể đạt được nhiều hơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (6): Lấy Trung y làm gương để đột phá những nút thắt trong chữa bệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (5): Nội hàm tu luyện của Trung yhttps://chanhkien.org/2024/03/man-dam-trung-y-5-noi-ham-tu-luyen-cua-trung-y.htmlFri, 01 Mar 2024 04:56:56 +0000https://chanhkien.org/?p=32690Tác giả: Lưu Đông Mai [ChanhKien.org] 1. Tu luyện và các khái niệm liên quan đến tu luyện Tu luyện là gì? Nói một cách đơn giản, tu luyện chính là sự thăng hoa và quay trở về của sinh mệnh ở tầng thấp lên tầng cao. Bất kỳ phương pháp tu luyện chân chính […]

The post Mạn đàm Trung y (5): Nội hàm tu luyện của Trung y first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lưu Đông Mai

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

1. Tu luyện và các khái niệm liên quan đến tu luyện

Tu luyện là gì?

Nói một cách đơn giản, tu luyện chính là sự thăng hoa và quay trở về của sinh mệnh ở tầng thấp lên tầng cao. Bất kỳ phương pháp tu luyện chân chính nào cũng đều tuân theo một tiền đề chung là: Sinh mệnh chân chính của con người không phải được sản sinh ra trong xã hội loài người, mà được sản sinh ra trong một thời không cao tầng đặc định nào đó; sinh mệnh chân chính của con người thường không biến mất cùng với cái chết của thể xác mà là lấy cái chết của thể xác làm điểm khởi đầu cho một hành trình thăng hoa và quay trở lại khác; và mỗi một bước tiến trong quá trình thăng hoa quay trở lại đều thể hiện sự khác biệt về tầng thứ của sinh mệnh. Nếu không có tiền đề chung này thì sẽ không có cơ sở để thảo luận các vấn đề tu luyện, và cũng sẽ không có cách nào tiến hành bất kỳ cuộc thảo luận nào về các vấn đề liên quan đến tu luyện.

Vậy làm thế nào để kiểm chứng tính khách quan và tính chân thực của tiền đề này? Tính khách quan và tính chân thực của tiền đề này trước tiên là từng bước từng bước trong quá trình tu luyện không ngừng của những người tu luyện chân chính khiến con người chân thực của người tu luyện hiển hiện ra, đây là nguồn sức mạnh tinh thần mạnh mẽ chủ yếu để một người chân tu kiên trì tu luyện, không bao giờ dao động, thậm chí hy sinh mạng sống vì đạo nghĩa; thứ hai là những người chân tu trường kỳ đều sẽ xuất hiện những thay đổi rất lớn đến kỳ lạ và không thể phủ nhận được trên cả hai phương diện thân và tâm, đây là bằng chứng chính khiến những người không tu luyện đều tín phục đối với tính khách quan và tính chân thực của việc tu luyện. Tất nhiên, đây là tình huống chung nhất và phổ biến nhất. Trong một số tình huống và trường hợp đặc biệt nào đó, có người sẽ trực tiếp nhìn thấy sự hiển hiện của các sinh mệnh ở tầng thứ cao hơn, thậm chí còn nhận được sự giúp đỡ của họ, và những sự giúp đỡ này thường là những việc mà thường không làm được, thậm chí không thể tưởng tượng được. Đó là câu chuyện có thật về “gặp Tiên” và “gặp Thần” được ghi lại ở mỗi thời đại trong lịch sử.

Loại phương pháp chứng nghiệm thận trọng, tiến dần từng bước đối với tính chân thực và khách quan của tiền đề tu luyện này đối với bản thân trên thực tế biểu hiện minh hiển hơn nhiều so với phương pháp nhận thức thế giới khách quan của khoa học hiện đại: Mỗi bước của phương pháp này đều là trực tiếp tiếp cận hướng đến mục tiêu, cũng là khẳng định hoàn toàn đối với bước trước đó; tuy nhiên phương pháp nhận thức của khoa học là qua quá trình không ngừng phủ nhận bản thân và không ngừng điều chỉnh bước đi trước đó để từ đó chậm chạp tiến gần đến mục tiêu của mình: Thời đại Newton tuyên bố đã đạt được chân lý tuyệt đối, nhưng thời đại Einstein phải dựa trên việc sửa đổi lại cách hiểu của Newton mới có thể tiến thêm một bước. Do đó có thể thấy, bước tiếp theo là tiến thêm một bước nữa dựa trên việc sửa lại cho đúng với Einstein, điều này khiến chúng ta bất cứ lúc nào cũng không dám nói rằng hiểu biết khoa học của chúng ta về thế giới khách quan là hoàn toàn chính xác, bởi vì chúng ta biết rằng những sửa đổi và phủ nhận tiếp theo chắc chắn sẽ đến và chúng sẽ đến với tốc độ ngày càng nhanh hơn.

Tu luyện như thế nào?

Những người tu luyện chính Đạo đều cho rằng con người là từ các tầng thứ thời không cao rớt xuống, và nguyên nhân rớt xuống là do sinh mệnh ở tầng thứ đó tâm của họ đã trở nên không tốt nữa, không còn phù hợp với yêu cầu tâm tính của tầng thứ đó nữa, bởi vì các sinh mệnh của mỗi tầng thứ đều phải phù hợp với yêu cầu về tâm tính của sinh mệnh ở tầng thứ đó. Vì vậy, để sinh mệnh ở tầng thứ thấp thăng hoa và quay trở về tầng thứ cao thì cần phải thay đổi mức độ tâm tính của bản thân, làm cho tâm của mình lần nữa trở nên tốt đẹp như trước.

Nói lúc đầu thì tốt mà bây giờ thì không tốt nữa, cần phải tu để quay trở về, vậy thì cần phải có một định nghĩa về tiêu chuẩn của “tốt đẹp”. Các pháp môn tu luyện khác nhau sẽ có những tiêu chuẩn nhấn mạnh riêng, ví như tu luyện Đạo giáo nhấn mạnh tu “Chân”, tu luyện Phật giáo nhấn mạnh tu “Thiện”. Cho đến nay, môn tu luyện tốt nhất mà chúng ta biết là “Chân, Thiện, Nhẫn” đồng tu, bởi vì như thế là bao hàm tất cả các môn tu luyện chính đạo của nhân loại ngày nay mà chúng ta biết.

Căn cứ vào nhận thức trên, chúng ta có thể mở rộng nội hàm của tu luyện đến mức độ rộng nhất, phổ quát nhất và dễ thực hành nhất: Tất cả mọi hành vi đều phải hữu ý chiểu theo nguyên lý “Chân, Thiện, Nhẫn” để tu tâm, để đề cao tâm tính thì đều là tu luyện. Hiểu tu luyện như vậy mới thực sự làm được “trực chỉ nhân tâm”, trực tiếp nhắm thẳng đến bản chất của tu luyện: Tu tâm.

Những thay đổi về thân và tâm trong quá trình tu luyện

Những thay đổi trong tâm của người tu luyện do tu luyện tạo ra là những cải biến rõ ràng nhất, có lực chấn động nhất. Người được hưởng lợi lớn nhất từ sự cải biến này chính là bản thân người tu luyện và người thân, bạn bè liên quan xung quanh. Nhưng với người ngoài không liên quan thì rất khó cảm nhận được, cũng không dễ dàng tin tưởng và chấp nhận. Vì vậy chúng tôi chú trọng bàn về những thay đổi có tính khách quan hơn của cơ thể, nó cũng là điều liên quan mật thiết hơn với bài viết này.

Những cải biến trên cơ thể của người tu luyện do tu luyện tạo ra có một số biểu hiện là của công năng, một số biểu hiện là của khí chất. Một số ví dụ về công năng: Không bị chết đuối trong nước (ngâm lâu dưới nước mà không lên khỏi mặt nước), không bị nóng trong lửa (đi chân trần trên than nóng không tổn thương chân), không bị lạnh trong tuyết (mặc quần áo mỏng ngồi dưới trời đầy băng tuyết mà nhiệt độ cơ thể không giảm), tịch cốc không ăn uống (thời gian từ vài ngày đến một số năm không ăn uống) v.v. Một số ví dụ về khí chất: Nhiều tăng nhân Phật giáo sau khi chết hỏa táng có xá lợi tử, một số người tu luyện sau khi chết thi thể không bị phân hủy, thậm chí toàn bộ cơ thể của họ biến thành ngọc; nhiều Lạt ma Tây Tạng trước khi qua đời đã thực hiện hồng hóa (biến thành cầu vồng) trước công chúng (cơ thể của họ phát ra ánh sáng màu cực mạnh, đồng thời ngày càng nhỏ hơn cho đến khi biến mất). Những hiện tượng này đều có những ghi chép và công bố trong lịch sử và thời hiện đại, thậm chí một số còn được báo chí chính thức đưa tin.

Điều đáng ngạc nhiên nhất và liên quan nhất với bài viết này là công năng đặc dị nhờ tu luyện mà có: Thị giác siêu thường (cách tường khán vật, thấu thị nhân thể, nhìn vật biết người), phi nhãn thị giác (tay sờ, tai nghe được những thông tin văn bản đã được gấp lại, niêm phong, thậm chí cả thông tin còn sót lại), v.v. Đây là những khả năng mà những người chân tu trong Phật giáo và Đạo giáo thường có được. Trong số đó “phi nhãn thị giác” chính là hiện tượng “lục căn hỗ dụng” (sáu căn dùng lẫn cho nhau) thường được nói đến trong Phật giáo. Những hiện tượng này không chỉ được ghi chép, công bố trong lịch sử và thời hiện đại mà còn liên tục có một số lượng đáng kể các nhà nghiên cứu khoa học đã tiến hành thực nghiệm và nghiên cứu. Những cuốn sách được viết dựa trên các tư liệu đã được giải mã cho thấy thành quả của những nghiên cứu này đã được một số bộ phận ngành quân sự và đặc công sử dụng.

Điều đáng chỉ ra là có một số người có công năng đặc dị dường như chưa trải qua tu luyện, công năng đặc dị của họ dường như là bẩm sinh hoặc tự nhiên sinh ra. Nhưng căn cứ vào sự thật mà người tu luyện đã biết, không có sự khác biệt cơ bản giữa “bẩm sinh” và “tu được ở kiếp này”, chúng chẳng qua là thứ có được ở những giai đoạn khác nhau trong hành trình dài của sinh mệnh mà thôi. Ngoài ra còn có tình huống “có được một lần”, chẳng hạn như sư phụ của Biển Thước – Trường Tang Quân đã đưa cho ông ta một loại thuốc giúp ông có công năng thấu thị nhân thể. Bản thân hiện tượng này thuộc về phạm trù tu luyện, vậy nên khi nói về những công năng đặc dị liên quan đến Trung y, chúng tôi không đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc của chúng. Hơn nữa, việc thừa nhận những công năng đặc dị bẩm sinh hoặc tự phát và “có được một lần”, bản thân điều này chính là thừa nhận nội hàm tu luyện của nó, bởi vì tất cả những hiện tượng này đều là kiến thức phổ biến trong nội bộ giới tu luyện hoặc là thể ngộ tu luyện của những người tu luyện ở các tầng thứ khác nhau.

2. Nguồn gốc của Trung y và tu luyện

Tính siêu dị về nguồn gốc của Trung y

Sự ra đời và phát triển của Trung y khác xa với những gì các “học giả” hiện đại suy đoán: Trong quá trình tìm kiếm thực phẩm, con người cổ đại dần dần biết đến một số loại thuốc và chức năng chữa bệnh chính của chúng, dần dần phát triển lý thuyết y học và tích lũy kinh nghiệm lâm sàng, hiệu quả điều trị bệnh cũng ngày càng tốt hơn. Trung y lúc đầu đều là những người tu luyện hoặc những người có công năng đặc dị mới được thực hiện và không cần bất kỳ loại thuốc hay phẫu thuật nào. Ví dụ Miêu Phụ thời viễn cổ (ít nhất là trước thời Hoàng Đế), ông chỉ dùng một con chó bằng rơm và miệng niệm mười chữ, là có thể trị bệnh hiệu quả cho mọi người. Ngay cả Quảng Thành Tử, Kỳ Bá và bản thân Hoàng Đế trong thời đại Hoàng Đế, tất cả họ đều là những người tu luyện mà ai ai cũng biết. Trong số đó, câu chuyện về Hoàng Đế sinh ra với năng lực siêu nhiên và sau đó giác ngộ thành đạo mà rời đi được truyền tụng rộng rãi trong lịch sử Trung Quốc. Tất nhiên, họ đồng thời cũng là những nhân vật chủ chốt trong việc truyền cấp những kiến thức y dược Trung Quốc cho nhân loại.

Sau này Trung y dần dần được chuyển hóa sang người thường, kinh nghiệm và lý thuyết được tổng kết và tích lũy ngày càng nhiều, khiến cho những người không tu luyện và những người không có công năng đặc dị cũng có thể học và chữa bệnh, ít nhất đó là việc sau khi bộ “Hoàng Đế Nội Kinh” ra đời. Việc tiến hành tăng tốc quá trình thường nhân hóa và phổ biến trên diện rộng Trung y rõ ràng là do sự tác động của cuốn sách “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh, ra đời vào khoảng năm 200.

Tính siêu dị của các phương pháp chẩn đoán của Trung y

Các phương pháp chẩn đoán của Trung y thuở ban sơ đều là dựa vào năng lực nhận biết đặc biệt, trực tiếp nhìn thấy vị trí của “bệnh” trong cơ thể con người, thậm chí nhìn thấy được nguyên nhân cơ bản nhất của bệnh tật – căn nguyên của nghiệp lực. Khả năng nhận biết đặc biệt này có một số là bẩm sinh hoặc tự phát, có một số là thông qua tu luyện mà đạt được, còn có một số là do gặp “dị nhân” mà “đạt được duy nhất một lần”.

Nổi tiếng nhất trong lịch sử là việc Biển Thước uống một loại thuốc do sư phụ Trường Tang Quân ban cho, từ đó có công năng thấu thị nhân thể, trở thành một trong những thầy thuốc nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Trong lịch sử có rất nhiều ghi chép về khả năng chữa bệnh là do bẩm sinh mà có hoặc tự phát xuất hiện. Chẳng hạn như Hạnh Linh “kỳ nhân” của nhà Tấn là một ví dụ được ghi chép trong chính sử. Trong cao trào khí công ở Trung Quốc vào khoảng những năm 1970 của thế kỷ trước, tác giả biết có một số “kỳ nhân” tương tự, họ chưa từng được đào tạo về y học hay thậm chí không có trình độ học vấn, nhưng lại có thể chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh của bệnh nhân. Còn với những người thông qua tu luyện mà trở thành thầy thuốc nổi tiếng, thì trong lịch sử Trung y đâu đâu cũng có, và nhiều bước phát triển to lớn và có tính thực chất trong lịch sử Trung y đều do những người này tạo ra. Những người nổi tiếng nhất như Thần Nông, Hoàng Đế, Kỳ Bá, Biển Thước, Hoa Đà, Cát Hồng, Đào Hồng Cảnh, Tôn Tư Mạc, v.v.

Điều đặc biệt đáng nói đến là mức độ lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu và hình thức biểu hiện của năng lực siêu thường của mỗi người là khác nhau, có sự sai biệt về tầng thứ khác nhau. Lấy chức năng thấu thị nhân thể làm ví dụ, có một số người nhìn thấy ổ bệnh của người bệnh là khí huyết ứ đọng, phù thũng và biến dạng; có một số người nhìn thấy là một đám khí đen, khí ấy càng đen đặc thì bệnh càng nặng; một số người có thể nhận thấy sự biến dạng bất thường ở vùng nhiễm bệnh thực chất là một con động vật nhỏ nằm ở đó; người ở tầng thứ cao hơn, thì có thể lần theo dấu vết lịch sử sinh mệnh kiếp trước của con động vật này, trực tiếp nhìn thấy nghiệp báo nhân duyên giữa nó và bệnh nhân. Khi Ngụy Văn Hầu hỏi Biển Thước rằng trong ba anh em ai làm thầy thuốc giỏi nhất, Biển Thước trả lời rằng đó là anh cả của ông bởi vì “anh cả coi bệnh như Thần, trị bệnh khi chưa có biểu hiện bệnh”. Nói cách khác, khi “bệnh” chưa hình thành được hình ảnh độc lập của riêng nó, thì anh ấy đã có thể nhìn thấy và trừ bỏ nó.

Lý thuyết của Trung y là thể hiện cụ thể của lý thuyết tu luyện

Bất cứ ai có một chút kiến thức thông thường về Trung y hoặc Đạo gia đều sẽ giữ lại ấn tượng sâu sắc bởi mối tương quan chặt chẽ giữa lý thuyết Trung y và lý thuyết tu luyện Đạo gia. Lý thuyết cơ bản của Trung y, nói một cách đơn giản, chính là sự thể hiện cụ thể của lý thuyết tu luyện của Đạo gia về các phương diện như nhân thể, sinh mệnh, sức khỏe và bệnh tật.

Tất nhiên tác phẩm kinh điển có uy tín nhất trong các sách Trung y cổ hiện còn tồn tại chính là bộ sách “Hoàng đế nội kinh”. Chương đầu tiên nói rõ tôn chỉ của “Hoàng đế nội kinh” là nói về “Đạo”, “tu luyện” và những cảnh giới khác nhau mà người tu luyện có thể đạt được. “Về đời thượng cổ, những người biết Đạo, bắt chước ở âm dương; điều hòa với thuật số, ăn uống có mực, khởi cư có thường, không làm quá sức, cho nên giữ được cả hình hài và tinh thần, sống trọn số trời”. Điều này có nghĩa là con người thời xưa cách Đạo không xa, đều biết “Đạo”, tôn trọng “Đạo”, tuân theo “Đạo”, nên thể xác và tinh thần được bảo tồn, không bị bệnh tật, không chết trẻ và họ có thể sống trọn tuổi trời. Ngoài ra “lời dạy của thánh nhân thời thượng cổ” còn cho con người biết đạo lý “điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được”, đòi hỏi con người “chí nhàn mà ít dục, tâm yên mà không sợ”, “không vì địa vị cao thấp mà hâm mộ hay đố kỵ”, cuối cùng phải đạt đến trạng thái “những điều ham muốn không làm mỏi mắt họ, những điều tà dâm không thể làm bận tâm họ”, như thế chính là “hợp với Đạo”. Những gì được đàm luận ở đây đều là những phương pháp tu luyện rất cụ thể. “Người tu Đạo, có thể không già và giữ vẹn được thân hình”, Đạo có thể ngăn ngừa sự lão hóa và giữ vững hình dáng mãi mãi. “Đời thượng cổ có chân nhân có thể xoay chuyển được trời đất, hiểu rõ âm dương, thở hút tinh khí, giữ vững hình thần, da thịt không lúc nào thay đổi, nên mới có thể sống cùng trời đất, tới mãi vô cùng tận”. Nghĩa là loại người tu luyện đạt đến mức tốt nhất mới có thể tu thành “chân nhân”, khiến cho sinh mệnh của họ không có tột cùng. “Về đời trung cổ, có bậc chí nhân, sửa đức hợp Đạo, hòa với âm dương, thuận với bốn mùa, xa đời lánh tục, chứa tinh, vẹn thần, rong chơi trong khoảng trời đất, xa trông ra ngoài tám cõi, đó là bởi biết giữ gìn tu luyện, nên mới được mạnh mẽ và sống lâu, bậc này rồi cũng được như chân nhân”. Bậc “chí nhân” này mặc dù kém hơn “chân nhân” một chút, nhưng vì họ có thể thông qua tu luyện mà gia tăng thọ mệnh của mình, vẫn có hy vọng tu thành chân nhân, nên chúng ta vẫn xếp họ vào loại chân nhân; “thánh nhân” và “hiền nhân” được nhắc đến ở sau thì khác nhau khá nhiều. Bởi vì phương pháp tu luyện của họ đã tương đối gần với phương pháp của người thường rồi, nên thọ mệnh của họ không thể tăng lên vô hạn được.

“Âm dương” là cốt lõi trong lý thuyết tu luyện của Đạo gia, cũng là nền tảng của mọi lý thuyết của Trung y. “Âm dương là đạo của trời đất, là kỷ cương của muôn vật, là cha mẹ của sự biến hóa, là gốc ngọn của sự sinh sát, là cái kho chứa của sự Thần minh”. Đạo của trời và đất được thể hiện thông qua âm và dương nên trong lý thuyết của Trung y bất kể việc chẩn đoán hay phân tích để trị liệu đều không thể tách rời âm dương. “Âm bình dương bí tinh thần sẽ trị, âm dương ly biệt tinh khí sẽ tuyệt”. Như vậy toàn bộ quá trình điều trị của Trung y có thể được khái quát cao độ một cách cực kỳ ngắn gọn là “cân bằng âm dương” và “điều chỉnh âm dương”. Còn những khái niệm quan trọng khác trong lý thuyết Trung y như hàn nhiệt (lạnh và nóng), biểu lý (ngoài và trong), hư thực (thiếu và thừa) đều có thể biểu đạt bằng lý thuyết và ngôn ngữ âm dương.

“Ngũ hành” cũng là một khái niệm cơ bản trong lý thuyết tu luyện của Đạo gia, chuyên dùng để mô tả các mối quan hệ phức tạp và các trạng thái biến hóa của sự hỗ trợ nhau phát triển và chế ước lẫn nhau giữa vạn vật trong trời đất. Trong lý thuyết của Trung y, “ngũ hành” cũng là một khái niệm cơ bản không thể thiếu. Thông qua việc vạn vật trong trời đất đều có thể quy về ngũ hành, đây là một sự thực, trong lý thuyết Trung y đã tự nhiên tạo ra một bộ lý thuyết về sự ảnh hưởng qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên, trong đó bao gồm các cấu trúc lý thuyết phức tạp như “ngũ vận lục khí”. Việc mô tả và phân tích các mối quan hệ qua lại giữa lục phủ ngũ tạng và “sinh, khắc, thừa, vũ” trong quá trình lây truyền và biến đổi của bệnh tật, thậm chí cả những nguyên tắc điều trị rất cụ thể như “hư tắc bổ kỳ mẫu, thực tắc tả kỳ tử” (hư thì bổ mẹ, thực thì tả con) cũng đều đến từ những ứng dụng cụ thể của “Ngũ hành”.

Tính siêu dị của dược vật học Trung y

Tác phẩm cổ điển về dược vật học sớm nhất của Trung y là “Thần Nông Bản Thảo Kinh”, trong đó ghi lại 365 vị thuốc Trung dược. Nhưng các vị thuốc này không phải như người hiện đại tưởng tượng, mà là chúng được tích lũy, tổng kết từng chút một từ trong thực tiễn cuộc sống, lao động của đông đảo người dân, rồi mới lần lượt được các thầy thuốc biên soạn ra. Thậm chí cũng không giống như những gì được nói đến trong một số truyền thuyết, rằng “Thần Nông đã nếm hàng trăm loại thảo mộc” và đã “nếm” từng loại một.

Câu nói “Thần Nông nếm hàng trăm loài thảo mộc” tìm thấy trong sách “Hoài Nam Tử”, trong đó có ghi chép rằng “Thần Nông nếm mùi vị của hàng trăm loài thảo mộc, xem xét vị ngọt đắng của suối nguồn để người dân biết nơi nào cần tránh đến gần, khi đó trong một ngày ông đã gặp phải 70 loại độc”; nhưng hoàn toàn không đề cập đến chuyện Thần Nông lấy việc “nếm trăm loại thảo mộc” để xác định công hiệu chủ trị của các vị thuốc. Sau thời nhà Hán, một số thầy thuốc hảo tâm, gồm có Hoàng Phủ Mật đời nhà Tấn, Tư Mã Chân đời nhà Đường và Mão Lâm đời nhà Thanh, đã dựa trên đoạn văn này và sự tưởng tượng và hiểu biết mà bản thân có thể chấp nhận được, đã suy luận đoạn văn này thành “Thần Nông nếm trăm loài thảo mộc, rồi mới có thuốc”, kết quả đã gây thêm nhiều phiền phức khiến cho ngay cả người hiện đại đều không tin cách nói đầy hàm súc thực tiễn “Thần Nông đã nếm hàng trăm loại thảo mộc”, cứ cho rằng đó là “mượn danh người khác”.

Tuy nhiên những gì chúng ta nhận được từ các chú giải bổ sung của “Hán Thư” lại hoàn toàn là nhận thức ngược lại: Sở dĩ Thần Nông có thể biết được tác dụng chữa bệnh chính của các loại thuốc là vì ông đã cầm một cái “roi đỏ” du hành khắp “Ngũ nhạc tứ tú” (năm núi bốn sông), phàm là thảo dược mọc lên từ đất, ông đều dùng roi để hỏi từng loại và “biết được tác dụng chữa bệnh của chúng”.

Trước hết, chú giải bổ sung này không mâu thuẫn với “Hoài Nam Tử” mà chỉ là bổ sung cho nó; thứ hai, nó đi ngược lại với ý kiến của các đại y học gia như Hoàng Phủ Mật cũng như các nhân vật lịch sử nổi tiếng khác, chúng tôi cho rằng điều đó tuyệt đối không phải là không có căn cứ, bởi vì nó chẳng khác nào tự chuốc thêm phiền phức. Thứ ba, cách nói “nếm trăm loài thảo mộc” để xác định tác dụng trị bệnh chủ yếu của vị thuốc, nếu suy nghĩ một cách kỹ càng thì kỳ thực là đi ngược lại logic: Trong “Thần Nông bản thảo kinh” và rất nhiều sách nghiên cứu dược liệu sau đó đều có liên quan đến mối quan hệ tương ứng giữa tác dụng chữa bệnh chủ yếu của các vị thuốc với khí và vị (như vị đắng nhập tâm có tác dụng thanh nhiệt), đó là quy luật rút ra được sau khi biết tác dụng chính của nhiều loại thuốc, sau đó tiến hành tổng hợp, sắp xếp và so sánh. Phạm vi của tứ khí và ngũ vị của một loại thuốc nhỏ hơn nhiều so với phạm vi công dụng chữa bệnh chính của loại thuốc đó. Từ các phạm trù lớn tổng kết ra quy luật nào đó và tạo thành các phạm trù nhỏ, đó là điều hợp lý và có thể; nhưng ngược lại, việc xác định một số lượng lớn các tác dụng trị bệnh chính của các vị thuốc khác nhau chỉ từ một vài đặc tính thì đó là điều hoàn toàn trái ngược với logic.

Dựa vào những cân nhắc ở trên, cùng với việc Thần Nông là một người tu luyện nổi tiếng và có những thần tích khác, chúng tôi cho rằng những ghi chép trong ghi chú bổ sung của “Hán Thư” đáng tin cậy hơn nhiều so với các ý kiến khác. Về việc nói thảo mộc có tư duy và có thể giao lưu với con người, đây cũng là sự thật đã được chứng thực trong các ghi chép lịch sử và nghiên cứu khoa học hiện đại.

Bản thân việc chú trọng đến y đức chính là tu luyện

Tôn Tư Mạc, thầy thuốc trứ danh thời nhà Đường, ông cũng là một người tu Đạo nổi tiếng, được hậu thế gọi là Tôn Chân Nhân. Từ sau khi cuốn sách “Đại y tinh thành” ra đời, các thế hệ thầy thuốc sau này đã coi đó là tấm gương cho nghề y. Kỳ thực muốn đạt được những tiêu chuẩn đề ra trong cuốn “Đại y tinh thành” quả thực là điều rất khó, bởi vì thực tế nó đòi hỏi người thầy thuốc đồng thời phải là người tu tâm, để tâm tính mình có thể đạt và duy trì ở trình độ rất cao.

Chữ “Tinh” trong “Đại y tinh thành” là chỉ y thuật, còn chữ “thành” là chỉ y đức, yêu cầu đối với cả hai phương diện đều rất cao. “Phàm một vị đại y chữa bệnh thì phải an định thần chí, không ham muốn, không mong cầu, trước hết phát tâm trắc ẩn đại từ bi, thề nguyện độ khắp các linh hồn đang đau khổ”. Yêu cầu này chính là tâm phải chính, nếu thực hiện đầy đủ đã là rất khó rồi. Khi một người tự biết rằng mình chưa đạt được yêu cầu này nhưng cố gắng đạt được nó trong thực hành chữa bệnh thì đó đã là một quá trình tu luyện. Không chỉ như thế, chúng ta nên đối xử với đau đớn của người bệnh và gia đình họ như đau đớn của chính mình, không trốn tránh khó khăn nguy hiểm, ngày đêm, nóng lạnh, đói khát, mệt mỏi v.v., đều phải “hết lòng cứu chữa”. Điều này không chỉ đòi hỏi phải mài giũa tâm trí mà còn phải mài giũa cơ thể. Đối với những bệnh nhân bị lở loét, tiêu chảy, cơ thể có mùi hôi thì không được phản cảm mà nên có tấm lòng cảm thông. “Sát sinh cầu sinh, khứ sinh cánh viễn” (nghĩa là: Sát hại sinh mệnh của súc vật để bảo toàn sinh mệnh của con người, như thế, sẽ càng rời xa đạo nghĩa sống), Tôn Tư Mạc phản đối việc sát sinh bởi vì ông biết hậu quả nghiêm trọng của nó. Không những không được truy cầu danh lợi, mà cũng không được “tự khoe công đức” và “khoe khoang danh tiếng”. Tóm lại, muốn đạt được tiêu chuẩn “đại y” (thầy thuốc vĩ đại) này của Tôn Tư Mạc, không có phương pháp nào khác ngoại trừ việc thực sự tu tâm và ma luyện.

Phàm là người thầy thuốc chữa bệnh phải có đầy đủ phẩm đức và y thuật, phải an định thần chí, không ham muốn, không mong cầu (vô cầu vô dục), trước tiên phải tỏ lòng từ bi đồng cảm, quyết tâm cứu khổ cho nhân loại.

3. Sự ra đời và phát triển của Trung y

Mục đích của người truyền nghề y và người học nghề y là khác nhau

Như đã đề cập trước đó, sự ra đời của Trung y đến từ những người tu luyện và những người đắc đạo. Người thời xưa tôn trọng Đạo và tuân theo Đạo nên cơ thể sẽ không bị bệnh. Đến khi nhiều người mắc bệnh, thì họ đã rời xa Đạo rồi. Người tu luyện xuất tâm từ bi vì con người mà tạm thời giải trừ đau đớn của họ là điều có thể, nhưng người tu luyện sẽ không thể chỉ vì để bệnh nhân có được sự thoải mái mà làm những việc như thế, bởi vì điều này sẽ trái ngược với pháp lý của vũ trụ, tức là: sinh mệnh có thể gây ra nợ nghiệp mà không phải trả. Mọi điều sinh mệnh ở tầng thứ cao làm với con người chỉ có một mục đích: để họ trở về nơi tốt đẹp ban đầu của họ.

Vì vậy, mục đích của các sinh mệnh cao cấp truyền lại Trung y không phải là làm cho con người sống thoải mái, mà là làm mọi cách có thể để bảo lưu một con đường sau này cho con người bước vào tu luyện, để những sinh mệnh ở tầng thứ thấp tương lai có cơ hội quay trở về. Thần Nông nói: “Nếu bách bệnh không khỏi thì sao có thể trường sinh được?” Sau khi khỏi bệnh thì có thể tiến một bước hướng tới các mục tiêu tiến đến tầng thứ cao như “trường sinh” trong tu luyện. Trong cuốn sách nổi tiếng “Bào Phác tử” của mình, Cát Hồng đã ghi lại nhiều bài thuốc phân biệt ra cho phù hợp với người bình thường và người tu luyện ở tầng thứ thấp, dụng ý của ông cũng là làm cầu nối cho những người muốn tu luyện. Trong một số phương pháp tu luyện của Đạo gia, giai đoạn thanh lọc cơ thể ở tầng thứ thấp sẽ được thực hiện bằng dùng một số loại thuốc. Kỳ thực, sự xuất hiện của “Thần Nông bản thảo kinh” cũng chủ yếu là phục vụ người tu luyện: 365 vị thuốc trong cuốn sách đó được phân thành ba phẩm cấp thượng, trung, hạ, phần lớn loại thượng phẩm của nó là “dùng lâu dài sẽ khiến thân nhẹ nhàng, tuổi thọ kéo dài”, “dùng lâu dài sẽ không đói”, thậm chí những vị thuốc siêu thường có thể làm người ta bay lên trời, nhưng con người sau này càng ngày càng không tin vào chuyện tu luyện, nên nhiều vị thuốc loại thượng phẩm ngược lại chẳng có ai để ý đến nữa.

Con người mê ở chốn trần thế mịt mù, những thứ mà họ truy cầu thường phải đi một chặng đường rất xa, một lòng chỉ nghĩ đến việc bản thân thoải mái, hưởng lạc ra sao. Khi ngày càng có nhiều người như thế này, họ sẽ ảnh hưởng ngược lại đến các thầy thuốc, khiến họ đi chệch khỏi ước nguyện ban đầu của một sinh mệnh cao cấp là “tâm cứu người” và giúp họ quay trở về, mà chỉ làm việc “chữa bệnh cho cơ thể người”, giúp họ hưởng lạc.

Triển vọng của tương lai

Sự bại hoại của vạn vật trên thế gian đều là kết quả của nhân tâm bại hoại. Muốn xoay chuyển, quy chính sự vật bại hoại, phải bắt đầu từ việc xoay chuyển và quy chính nhân tâm. Vì vậy, khi nhân tâm bắt đầu hồi thăng cũng chính là lúc phải loại bỏ bại hoại.

Con người trong tương lai có tâm tính cao hơn và có thể đều là người tốt tin tưởng vào Chân-Thiện-Nhẫn, nên con người trong tương lai có thể không có bệnh hoặc ít bệnh, cũng giống như con người thời thượng cổ lúc họ còn tôn kính Đạo, tin tưởng Đạo và tuân theo Đạo. Ngay cả khi mắc bệnh, họ cũng không nhất thiết chữa trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật, bởi vì việc cải biến tâm của một người có thể cải biến tình trạng cơ thể của người đó. Khi con người có thể nắm giữ được tâm của mình thì họ cũng sẽ có thể nắm giữ được cơ thể của chính mình, lúc đó có lẽ ngay cả khái niệm y học cũng không có nữa, chỉ mong là như thế!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (5): Nội hàm tu luyện của Trung y first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (4): Đàm luận về Trung y xưa và nayhttps://chanhkien.org/2024/01/man-dam-trung-y-4-dam-luan-ve-trung-y-xua-va-nay.htmlFri, 19 Jan 2024 02:25:17 +0000https://chanhkien.org/?p=32403Tác giả: Thiên Minh [ChanhKien.org] Con người ngày nay, kể cả đại đa số các bác sỹ Trung y đã không còn biết Trung y cổ đại là gì nữa. Văn hóa Trung Quốc cổ đại là được thiết lập dựa trên cơ sở tín Thần, mọi người tin vào Thần và họ cũng tin […]

The post Mạn đàm Trung y (4): Đàm luận về Trung y xưa và nay first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Minh

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Con người ngày nay, kể cả đại đa số các bác sỹ Trung y đã không còn biết Trung y cổ đại là gì nữa. Văn hóa Trung Quốc cổ đại là được thiết lập dựa trên cơ sở tín Thần, mọi người tin vào Thần và họ cũng tin rằng có thể nhìn thấy và thậm chí tiếp xúc được với các không gian khác. Vì vậy y thuật thời đó là nhắm trực tiếp vào các linh thể khiến người mắc bệnh ở các không gian khác mà chữa trị. Ví dụ kinh mạch và huyệt vị của cơ thể con người là tồn tại trên cơ thể ở một không gian khác, cho nên y học hiện đại cho đến nay vẫn chưa thể hiểu rõ được những bí ẩn trong đó. Bản chất của châm cứu chính là khởi tác dụng trên cơ thể con người ở các không gian khác.

Trung dược trước đây rất coi trọng nguồn gốc xuất xứ và chú trọng đến “vị thuốc chính gốc”, điều này là do môi trường địa lý của các vùng khác nhau tương ứng với từng trường vật chất ở các không gian khác, và mỗi loại dược liệu có sự thích ứng khác nhau với môi trường tồn tại ở các không gian khác. Khi Trung y cổ đại sử dụng Trung dược để chữa bệnh, kỳ thực là đã sử dụng linh thể ở các không gian khác của dược liệu để chế ước linh thể đã gây ra bệnh ở các không gian khác. Đôi khi một dược liệu đơn độc không đủ lực để chế ước bệnh nên nhiều dược liệu được sử dụng kết hợp cùng nhau. Thời xưa việc phối hợp các vị thuốc trong một bài thuốc rất được chú trọng và nghiêm cẩn, việc lựa chọn dược liệu nào và liều lượng dược liệu rất được chú trọng, chúng được phân thành “quân, thần, tá, sứ”, có câu nói “dùng thuốc cũng như dùng binh”, nên nó có thể trông giống như một trận chiến ở không gian khác. Các danh y thời cổ đại có thể thấy rõ những điều này cho nên dùng thuốc một cách cao minh, không cần bệnh nhân uống quá nhiều thuốc. Ngày nay những người hành nghề Trung y chân chính và cao minh không nhiều, bệnh nhân phải chi trả rất nhiều tiền cho thuốc nhưng hiệu quả chữa bệnh vẫn không nhất định là tốt.

Dược liệu trước đây là có sẵn trong tự nhiên, đôi khi người hái thuốc phải mạo hiểm tính mạng leo lên vách đá cao thẳng đứng để hái, càng là những dược liệu quý có hiệu quả trị bệnh tốt như nhân sâm, nấm linh chi thì càng khó thu thập, là vì chúng càng có linh tính thì càng có năng lực nên không dễ tìm được. Cổ nhân tin vào sự tồn tại của Thần, biết thuận theo ý trời, nên không cần nghĩ đã biết làm thế nào, đức lớn nghiệp lực nhỏ, nên ít bệnh tật, tác dụng của các loại thuốc tương ứng cũng rất nổi bật. Con người ngày nay tin vào thuyết vô thần, tin rằng “nhân định thắng thiên”, họ tạo ra nghiệp lực rất lớn mà không chút kiêng dè, lại do luân hồi liên tục chuyển sinh nên hình thành mọi vật chất nghiệp lực đều rất lớn, họ mắc bệnh ngày càng nặng, hiệu quả chữa bệnh của dược liệu cũng kém. Ngoài ra, con người đã phá hủy môi trường sinh tồn của mình tới mức rất trầm trọng, dược liệu tự nhiên ngày càng ít nên người ta trồng một lượng lớn dược liệu theo cách nhân tạo, cách làm này đã đi ngược lại với đặc tính của các sinh mệnh, bề ngoài thì chúng đều là cùng một loại dược liệu giống nhau, nhưng ở các không gian khác thì khác nhau rất xa, vì vậy hiệu quả trị bệnh sa sút ghê gớm.

Ta có thể tìm thấy những ghi chép về các thần tích y học ở trong vô vàn sách Trung y cổ đại, và trong những cuốn sách lịch sử cổ đại cũng có rất nhiều ghi chép như thế. Trong “Sử ký – Biển Thước Thương Công Liệt truyện” ghi chép: “Có một vị khách tên là Trường Tang Quân đi ngang qua và ở lại quán trọ của Biển Thước, chỉ có Biển Thước thấy rằng ông ta là một người rất đặc biệt và kỳ lạ, nên luôn đối đãi cung kính với ông ấy. Trường Tang Quân cũng biết Biển Thước không phải là người bình thường. Ông ta đã lui tới nhà trọ này hơn mười năm, cuối cùng mới gọi riêng Biển Thước vào ngồi với ông, nhẹ nhàng nói: ‘Trong người ta có một bài thuốc bí mật, bây giờ ta đã già rồi, ta muốn truyền nó cho ngươi, nhưng ngươi không được phép tiết lộ ra ngoài’. Biển Thước nói: ‘Xin tuân lệnh’. Thế là Trường Tang Quân lấy thuốc từ trong ngực ra giao cho Biển Thước và nói: ‘Hãy uống thuốc này với nước sương trên cây cỏ, sau 30 ngày thì có thể nhìn thấu vạn vật’. Thế là ông ta lấy toàn bộ sách bài thuốc bí mật đưa cho Biển Thước. Đột nhiên không thấy ông nữa, chắc chắn ông ấy không phải là người thường. Biển Thước theo lời ông đã uống thuốc 30 ngày thì nhìn thấy được người ở bên kia bức tường. Xem bệnh với cách này, có thể thấy được tất cả các triệu chứng của ngũ tạng, dùng việc chẩn mạch làm cớ chể che tai che mắt người đời”.

Đại ý là Trường Tang Quân biết Biển Thước không phải người bình thường, sau khi quan sát Biển Thước hơn mười năm, đã bí mật dạy ông những bài thuốc bí truyền, ban tặng ông bí dược, còn yêu cầu ông uống thuốc cùng “nước sương trên cây cỏ” trong 30 ngày. Sau đó đột nhiên không nhìn thấy ông ấy nữa. Biển Thước sau khi uống thuốc như lời dặn, có thể cách tường khán vật, dùng phương pháp này coi bệnh cho mọi người, có thể nhìn thấy tình huống bệnh biến của nội tạng con người. Nhưng bề ngoài thì lấy danh nghĩa là chẩn mạch.

Trong cuốn sách này cũng đề cập đến y thuật cao siêu của Du Phụ, một danh y thời thượng cổ, nói rằng ông “chữa bệnh không dùng các phương pháp như thuốc sắc, rượu thuốc, kim đá, xoa bóp, bôi thuốc chườm nóng, mà vén y phục, khám bệnh biết bệnh tật ở nơi nào, rồi lựa theo đường huyệt vị của ngũ tạng, sau đó cắt da, tách cơ, khơi thông kinh mạch, thắt mạch máu, ấn trị tủy não, thụ lý cơ hoành, rửa sạch dạ dày, rửa sạch ngũ tạng, tu luyện tinh khí, cải biến thần sắc”. Trong “Tam Quốc Chí – Phương Kỹ truyện” đã ghi lại y thuật cao siêu của Hoa Đà, cũng như việc ông sử dụng bột Ma phí tán để gây mê cho bệnh nhân và sau đó thực hiện các ca phẫu thuật ngoại khoa.

Các thần y thời cổ đại được ghi chép trong sử sách đều có một đặc điểm chung trong việc chữa bệnh, đó là chẩn đoán bệnh nhanh chóng, rõ ràng chính xác, phương pháp điều trị bất ngờ ngoài dự đoán nhưng hiệu quả trị liệu rất cao. Hơn nữa những kỹ thuật mà họ nắm vững rất toàn diện, không giống như các bác sĩ hiện đại phải dành cả cuộc đời để đi sâu nghiên cứu y thuật của một khoa duy nhất. Kỳ thực chính là họ đều có công năng siêu thường, có thể nhìn thấy bản chất của bệnh tật và cũng có thể thấy được bản chất của các phương pháp chữa trị khác nhau mà thôi.

Khi một người đã đột phá được tầng thấp nhất của người thường, khi từ tầng thứ cao hơn người thường mà xem xét cái lý của người thường, thì họ sẽ tự nhiên vừa liếc qua là thấy rõ ngay. Vì vậy họ có thể xuất hiện ngoài xã hội để tế thế hoặc có thể lui về để cứu người. Các nho sinh Trung Quốc cổ đại có một câu nói như thế này: “Bất vi lương tướng, tức vi lương y” (không làm tướng giỏi thì làm thầy thuốc giỏi).

Các học giả thời cổ đại, đặc biệt là những người hành nghề y đều phải nghiên cứu về Chu Dịch, từ xưa đến nay vẫn nói “Y Dịch đồng nguyên” (y học và Chu Dịch có cùng nguồn gốc). “Chu Dịch” là thứ di lưu lại từ thời tiền sử, đạo lý mà nó giảng là đạo lý trong phạm vi hệ ngân hà của chúng ta, là những điều cao hơn người thường, đương nhiên có tác dụng chỉ đạo đối với y học của con người.

Thời Trung Quốc cổ đại các ngành các nghề đều coi trọng “đức”, có một cụm từ gọi là “đức cao vọng trọng”, người luyện võ giảng võ đức, người theo nghề y giảng y đức. Hơn nữa, khi nói đến truyền thừa, họ đều chú ý “không đúng người không truyền dạy”, nếu không tìm được một đệ tử có đức hạnh tốt, ngộ tính cao thì thà không truyền dạy còn hơn. Cùng với việc chuẩn mực đạo đức của toàn xã hội ngày càng xuống thấp thì ngày càng có nhiều điều tốt đẹp bị thất truyền. Kỳ thực đây cũng là một biểu hiện cho thấy đạo đức con người đã suy đồi và nền văn minh đã bị Thần kìm giữ lại.

Người hiện đại luôn cảm thấy việc nghiên cứu Trung y quá rộng, sách y học nhiều đến mức cả đời cũng không đọc hết, hơn nữa trong hàng nghìn năm qua có nhiều danh y đã đưa ra nhiều lý luận và chia thành nhiều trường phái đến mức một người cả đời cũng không thể nghiên cứu hết được. Đó là bởi vì con người hiện đại tự cho rằng những điều tinh hoa của người xưa là ngu muội và mê tín, và con người hiện đại chỉ là mò mẫm trong những bài thuốc và kinh nghiệm mà người xưa để lại. Kỳ thực có một số sách y học cổ xưa còn ghi lại những bài thuốc rất hữu hiệu, nhưng các bác sĩ hiện đại đã không biết sử dụng nữa, còn cho rằng người xưa đang thổi phồng khoa trương. Thế hệ này chưa học được hết toàn bộ những điều của thế hệ trước, thế hệ sau lại chưa học được hết toàn bộ những điều của thế hệ này, dần dần đã suy vong, chỉ còn lại từng chút tinh hoa thất lạc trong dân gian. Ngày nay các bệnh viện Trung y khám bệnh cũng yêu cầu ba xét nghiệm thông thường (máu, nước tiểu, phân), treo chai truyền dịch và chụp X-quang, việc nắn bó xương cũng dùng đến những thứ như cưa và đinh thép, bệnh nặng cũng cần dùng các thủ thuật của Tây y để điều trị, việc chẩn đoán bệnh cũng ngày càng phụ thuộc vào các dụng cụ hiện đại hóa. Bản thân nhiều bác sĩ Trung y cũng cảm thấy có nhiều điều chẳng ra ngô ra khoai gì cả.

Từ một góc độ khác mà nói, nhìn chung suốt lịch sử y học của nhân loại, con người trước bệnh tật luôn là kẻ thất bại, khi con người nắm vững đầy đủ các kỹ thuật điều trị những căn bệnh hiện có, họ sẽ phát hiện ra rằng lại có những căn bệnh mới không thể chữa khỏi. Con người không thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, nói cách khác, con người không thể chiến thắng bệnh tật, bởi vì nó là những gì siêu xuất khỏi người thường, là do Thần an bài để tiêu nghiệp cho con người.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (4): Đàm luận về Trung y xưa và nay first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (3): Nhận thức đúng đắn về y học cổ đại Trung Quốchttps://chanhkien.org/2024/01/man-dam-trung-y-3-nhan-thuc-dung-dan-ve-y-hoc-co-dai-trung-quoc.htmlThu, 04 Jan 2024 23:49:04 +0000https://chanhkien.org/?p=32280Tác giả: Phủ Văn [ChanhKien.org] Khi còn là một thiếu niên tôi bắt đầu học Trung y, khí công và võ thuật, rồi lần lượt đạt được hai học vị thạc sĩ về võ thuật và Trung y, đồng thời vừa là bác sĩ Trung y vừa là giảng viên của hai ngành học này. […]

The post Mạn đàm Trung y (3): Nhận thức đúng đắn về y học cổ đại Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phủ Văn

[ChanhKien.org]

Khi còn là một thiếu niên tôi bắt đầu học Trung y, khí công và võ thuật, rồi lần lượt đạt được hai học vị thạc sĩ về võ thuật và Trung y, đồng thời vừa là bác sĩ Trung y vừa là giảng viên của hai ngành học này.

Cuối năm 1992, một người bạn của tôi họ Dương làm việc trong quân đội, đồng nghiệp của anh ấy là ông Trần mắc một căn bệnh quái lạ: Cứ mỗi khi có dịp quan trọng hoặc hưởng thụ cuộc sống cao cấp thì lại lên cơn đau tim, có lúc nghiêm trọng đến mức ngất xỉu trên mặt đất. Ví dụ một lần khi tiếp kiến thủ tướng thì ông bị đau tim ngã xuống đất, và được đưa đến bệnh viện cấp cứu khẩn cấp. Hơn nữa, bất cứ khi nào đi trên một chiếc xe sang trọng hoặc ở trong một khách sạn cao cấp ông lại cảm thấy đau dữ dội; còn khi ở trong một ngôi nhà giản dị hoặc đi trên một chiếc xe rẻ tiền thì đỡ đau hơn nhiều. Ông Trần có chức vụ quan trọng trong quân đội, nên đi khám bệnh cũng thuận lợi, ông đã từng đi khám ở nhiều bệnh viện nổi tiếng nhưng đều không tìm ra chứng bệnh gì. Bệnh tình tiếp diễn như vậy hơn hai năm, ông đã nhiều lần tìm đến các chuyên gia tim mạch nổi tiếng trong nước để chẩn đoán nhưng đều không biết nguyên nhân của bệnh là gì. Ông vô cùng đau khổ, cuối cùng, người bạn của ông là ông Dương đã tìm đến tôi và muốn mời tôi thử khám cho ông ấy. Tôi vội vã đến Bắc Kinh gặp ông Dương bạn tôi trước, chuẩn bị cùng ông ấy đến khám bệnh cho ông Trần. Lúc đó, ông Dương hỏi tôi: “Anh xem trên người ông ấy có thứ gì không?” Bởi vì ông Dương cũng đã từng tập khí công, nên ông cũng rất tin vào công năng đặc dị. Lúc ấy tôi nhắm mắt lại tĩnh lặng nhìn một chút thì vô tình nhìn thấy một con bọ cạp rất to, tôi nghĩ chính là nó. Nhưng tôi không nói gì với ông Dương, chỉ theo ông ấy đến nhà ông Trần. Lần đầu gặp ông Trần, thấy người ông ấy rất to cao và chắc khỏe, nhưng vùng tim thì đau không chịu nổi. Tôi đã châm cứu vào huyệt Nội Quan và Túc Tam Lý của ông. Ông lặng lẽ ngồi và chìm vào giấc ngủ. Khi tôi đang tĩnh tọa thì thấy con bọ cạp đang bò trên lưng tới cổ ông ấy, tôi liền dùng ý niệm tấn công xua đuổi nó, sau đó nó đã bay đi. Sau khi châm cứu, ông Trần cảm thấy dễ chịu và thoải mái, cũng không còn đau nữa. Ông nói rằng lần đầu tiên sau hai năm ông ấy cảm thấy thoải mái như vậy. Ngày hôm sau, tôi lại châm cứu một lần nữa và đã nói lời cáo từ với ông ấy.

Sau khi chúng tôi rời khỏi nhà ông Trần, ông Dương lại hỏi tôi: “Anh có thấy gì trên người ông ấy không?” Tôi nói thẳng: “Có!” Ông ta hỏi: “Là cái gì?” Tôi nói: “Đó là một con bọ cạp!” Ông Dương lại hỏi: “Có nên nói cho ông ấy biết không?” Tôi nói: “Người ta là đảng viên, cán bộ quân đội, đừng nói với ông ấy chuyện này”. Ông Dương đồng ý. Sau đó tôi quay lại nhà khách chuẩn bị về nhà. Nhưng 12 giờ đêm, ông Dương gọi điện bảo tôi ngày mai đừng đi, dù thế nào cũng nên nói chuyện với ông Trần một lần nữa. Tôi hỏi vì sao. Hóa ra là sau khi ông Dương về nhà, ông Trần đã gọi điện hỏi xem tôi có nói về thứ gắn trên người ông ấy không? Ông Dương giữ lời hứa và nói: “Có, nhưng tôi không thể nói với anh”. Ông Trần nhất thời đoán lung tung, nhưng ông Dương nói đều không đúng. Cuối cùng, ông Trần cũng bình tĩnh lại và từ từ nói: “Đó là một con bọ cạp à”. Ông Dương hỏi: “Tại sao anh lại nói là bọ cạp? Làm thế nào anh nói giống ông ấy thế?” Ông Trần kể lại câu chuyện của mình: Hai năm trước, ông ấy chuyển đến nhà mới, sáng hôm sau vợ ông bị bọ cạp cắn vào chân, sau đó ông lập tức đưa vợ đến bệnh viện, ông ta trở về nhà phát hiện ra con bọ cạp, bắt nó bỏ vào rượu đun lên mà không để nó chết, rồi uống rượu đó; rồi lại đổ rượu vào nấu tiếp. Có lúc ông ta bỏ nó vào một cái chai rỗng và hơ trên lửa… Tóm lại, ông ấy đã làm tất cả những cách trả thù mà ông có thể nghĩ ra. Kể từ đó, ông Trần bỗng nhiên mắc phải căn bệnh này: Vùng tim đau như hai gọng kìm kẹp lại. Kể xong câu chuyện, ông Dương tin chắc rằng chuyện mà hai người chúng tôi nói là một…

Thời điểm đó, tôi nghiên cứu khoa học về nhân thể người và đã gặp không ít những ví dụ loại này, sau đó, khi tôi đọc cuốn “Chuyển Pháp Luân”, trong sách có đoạn: “Bởi vì con người trước đây đã làm điều xấu nên nghiệp lực sinh ra mới tạo thành có bệnh hoặc ma nạn”. Trong sách còn có đoạn: “Sát sinh sẽ tạo thành nghiệp lực rất lớn”. Tôi nghĩ nếu ông Trần giết con bọ cạp này thì thế là xong, nếu tiếp tục trả thù nó như một kẻ thù không đội trời chung thì sẽ tạo thêm nhiều nghiệp lực, huống hồ ông ta còn uống rượu đun con bọ cạp đó…

Qua tu luyện, tôi biết đây là quả báo đời này của ông ta, nếu là giết hại sinh mệnh càng lớn hoặc giết người thì sẽ tạo nghiệp lực còn lớn hơn nữa và khó có thể hoàn trả. Người thường không biết rằng ở trong mê nghiệp cuộn lấy nghiệp thì hoặc sẽ phải chịu quả báo ngay ở đời này hoặc quả báo ở kiếp sau.

Lại nói về việc bắt mạch của Trung y phát triển như thế nào. Nhận thức của tôi là: Trước đây tôi phát hiện bệnh nhân bị bệnh ở bộ phận nào, nếu tôi sờ vào bộ phận đó thì tay của tôi cũng đau, nên tôi biết đó là ổ bệnh. Ngoài ra, khi chia sẻ với những người bạn luyện khí công, tôi còn phát hiện rằng dùng đầu ngón tay đặt vào ba vị trí Thốn, Quan, Xích, nếu tạng phủ nào của bệnh nhân bị bệnh thì ngón tay chỉ vào đó sẽ bị đau hoặc như bị kim châm, hoặc khó chịu, nếu ấn vào vị trí Thốn, Quan, Xích của tay trái tương ứng với tim, gan, thận hoặc Thốn, Quan, Xích của tay phải tương ứng với phổi, lá lách, mệnh môn, giống như cách chẩn đoán mạch trong Trung y hiện nay. Dần dần nghiên cứu kỹ, nếu là người không luyện công thì có thể qua quan sát các hiện tượng rung động khác nhau của mạch để tổng kết ra các mạch tượng khác nhau như trầm, phù, huyền, hoạt, trì, sác, nhu, nhược, sáp v.v. để chẩn đoán bệnh của bệnh nhân. Vì vậy mạch tượng cũng được phát triển từ các công năng nhỏ.

Tôi phát hiện rằng nếu người có công năng cũng có cảm ứng khác nhau đối với các loại thực vật và thảo dược khác nhau, họ sẽ biết các dược tính của thảo dược (nóng, lạnh, mát, ấm, trung tính v.v.), các vị (đắng, cay, chua, ngọt, mặn v.v.) và quy kinh (1) của nó (như 14 kinh mạch…).

Vì vậy theo quan điểm của y học cổ đại Trung Quốc, nếu con người duy trì được bản năng tiên thiên và không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng biến dị hiện đại thì có thể thực sự trở lại với trình độ của y học cổ đại Trung Quốc. Bệnh tật của con người có liên quan đến nghiệp lực, y thuật của Trung y có liên quan đến bản năng tiên thiên của con người, điều này dựa trên Pháp lý của đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, sự huyền diệu của Trung y cũng chính là ở chỗ này.

Chú thích:

(1) 归经 Quy kinh: “Quy” tức là sự phân bổ, đề cập đến sự phân bổ tác dụng của thuốc; “kinh” tức là kinh lạc của nội tạng cơ thể; “quy kinh” tức là định vị tác dụng của thuốc, là liên kết chặt chẽ giữa tác dụng của thuốc với kinh lạc tạng phủ của cơ thể để minh họa tính chọn lọc tác dụng của thuốc đối với một bộ phận nào đó của cơ thể, từ đó làm cơ sở cho điều trị trên lâm sàng.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (3): Nhận thức đúng đắn về y học cổ đại Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung Y (2): Y thuật Trung Y cổ đại bác đại tinh thâmhttps://chanhkien.org/2023/12/man-dam-trung-y-2-y-thuat-trung-y-co-dai-bac-dai-tinh-tham.htmlThu, 21 Dec 2023 02:42:41 +0000https://chanhkien.org/?p=32156Tác giả: Thu Văn [ChanhKien.org] Trung Y thời cổ đại tương đối phát triển, trong các triều đại trước đây của Trung Quốc đã xuất hiện nhiều danh y có y thuật cao siêu thần kỳ, ví dụ như Biển Thước vào cuối thời Xuân Thu, Hoa Đà, Đổng Phụng và Trương Trọng Cảnh vào […]

The post Mạn đàm Trung Y (2): Y thuật Trung Y cổ đại bác đại tinh thâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thu Văn

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế.

Trung Y thời cổ đại tương đối phát triển, trong các triều đại trước đây của Trung Quốc đã xuất hiện nhiều danh y có y thuật cao siêu thần kỳ, ví dụ như Biển Thước vào cuối thời Xuân Thu, Hoa Đà, Đổng Phụng và Trương Trọng Cảnh vào cuối thời Đông Hán, Hoàng Phố Mật và Cát Hồng thời nhà Tấn, Tôn Tư Mạc thời nhà Đường, Chu Chấn Hanh thời nhà Nguyên, Lý Thời Trân thời nhà Minh, v.v. Sau đây là phần giới thiệu tóm lược về một số đại y gia này.

Biển Thước (cuối thời Xuân Thu, 407 – 310 TCN)

Biển Thước chẩn đoán bệnh như Thần, chỉ cần quan sát trực quan thần sắc nét mặt của bệnh nhân, ông đã có thể đưa ra tóm lược về tình trạng của bệnh nhân và tùy bệnh bốc thuốc một cách chính xác. Điều đáng ngạc nhiên nhất là Biển Thước đã làm thủ thuật ghép tim cho Lỗ Công Hỗ và Triệu Tề Anh. Theo “Liệt tử. Thang Vấn Thiên” ghi chép, vào thời Xuân Thu, Công Hỗ của nước Lỗ và Tề Anh của nước Triệu bị bệnh và mời Biển Thước chữa trị cho họ. Sau khi Biển Thước chẩn đoán và chữa trị cho họ, ông không chỉ chẩn đoán nguyên nhân ngoại hình của họ mà còn chẩn đoán ra những căn bệnh do tính cách bẩm sinh khác nhau của họ gây ra, cuối cùng ông đã đổi trái tim của họ để tính cách của họ thay đổi so với ban đầu. Ca phẫu thuật này xảy ra từ năm 300 đến 400 trước công nguyên và có lẽ là ghi chép sớm nhất về việc cấy ghép nội tạng trong lịch sử văn minh lần này của nhân loại. Phẫu thuật thay tim chỉ mới xuất hiện ở phương Tây trong thời cận đại, hơn nữa tỷ lệ thành công không phải là 100%, bệnh nhân sau khi thay tim phải dùng thuốc, thậm chí có thể phát triển các bệnh khác hoặc bệnh tim tái phát và phải phẫu thuật lại để điều trị. Trong câu chuyện của Biển Thước, chúng ta có thể thấy Biển Thước đã làm phẫu thuật thay đổi tim cho hai người cùng một lúc mà không cần sử dụng các máy móc phức tạp và đa dạng.

Hoa Đà (cuối thời Đông Hán, 145 – 208)

Hoa Đà có y thuật kỳ diệu. Về châm cứu, điều cấm kỵ trong giới y học là kim không được xuyên quá bốn phân để tránh làm tổn thương đến nội tạng, nhưng Hoa Đà có thể di chuyển kim linh hoạt tự do mà không bị hạn chế này. Hoa Đà cũng là người đầu tiên phát hiện ra hệ thống huyệt Giáp Tích, huyệt Giáp Tích là tính từ bên dưới đốt sống thứ nhất đến dưới đốt sống thứ 17, nơi các huyệt được chọn cách giữa cột sống năm phân, tổng cộng khoảng 34 huyệt ở bên trái và bên phải, nhóm huyệt này có tác dụng chữa các bệnh mãn tính như ho, thở khò khè, đau mỏi thắt lưng.

Hoa Đà đã sử dụng Ma phí tán để gây mê khi ông nối lại các chi bị gãy của bệnh nhân, sớm hơn 1000 năm so với thuốc gây mê của châu Âu và Hoa Kỳ. Ông đã từng thực hiện một ca phẫu thuật được người hiện đại coi là có độ khó cao, đó là cắt ruột của bệnh nhân, rửa sạch, loại bỏ chất bẩn rồi sau đó lại khâu lại.

Sử sách ghi lại rằng Tào Tháo bị chứng đau nửa đầu, Hoa Đà đề nghị mở hộp sọ để điều trị, nhưng kết quả vì điều này mà dẫn đến cái họa ông bị giết. Trước khi chết, Hoa Đà mang cuốn y thư ông soạn lúc bị giam trong nhà ngục giao cho quản ngục, nhưng người quản ngục đó không dám nhận, thế là Hoa Đà đã mang cuốn y thư đó đốt thành tro.

Tôn Tư Mạc (thời Tùy Đường, 581 – 682)

Tôn Tư Mạc dùng thuốc như dùng binh, vô cùng chuẩn xác, được mệnh danh là “Dược Vương”, núi Ngũ Đài Sơn ở huyện Diệu, tỉnh Thiểm Tây còn được gọi là Dược Sơn vì ông thường đến núi này để hái thuốc. Trong “Thiên Kim Yếu Phương” và “Thiên Kim Dực Phương”, ông đã ghi lại kỹ càng tỉ mỉ hơn 5.300 đơn thuốc và hơn 800 dược liệu, ông cũng mô tả cách sử dụng, trồng trọt và bào chế những dược liệu này như thế nào, đồng thời ghi lại những kinh nghiệm lâm sàng trong hàng chục năm hành nghề y trong dân gian của ông. Hai cuốn sách này được coi là bộ bách khoa toàn thư y học sớm nhất ở Trung Quốc. Trong sách đã đề cập đến các phương thuốc điều trị như bệnh phong, bệnh tả, tiểu đường (đái tháo đường), lở loét, mụn nhọt (viêm mô tế bào), bệnh tràng nhạc (lao hạch), u bướu cổ (phì đại tuyến giáp trạng), bệnh ngoài da, bệnh bí tiểu tiện, bệnh quáng gà.

Y thuật của Tôn Tư Mạc rất tinh xảo, ông dùng lông cánh gà làm kim móc, cắt bỏ màng trắng trong mắt (đục thủy tinh thể), thực hiện phẫu thuật khoang miệng cho trẻ em bằng cách chích lưỡi. Ngoài ra Tôn Tư Mạc còn có một tập sách bảy cuốn về “Phụ nhân phương” (phương thuốc cho phụ nữ), trong đó mô tả các loại bệnh và cách điều trị dành cho phụ nữ, bao gồm vệ sinh thai kỳ, điều dưỡng sau khi sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh, cách tránh chậm chuyển dạ và đẻ khó, v.v.

Ngoài y thuật cao siêu, Tôn Tư Mạc còn là người rất coi trọng y đức. Trong lời tựa của cuốn “Thiên Kim Yếu Phương” ông viết: “Nhân mạng chí trọng, quý vu thiên kim; nhất phương tế chi, đức du vu thử” (Mạng người là quan trọng nhất, quý hơn ngàn vàng, tận lực cứu chữa người thì đức hạnh còn lớn hơn cả ngàn vàng). Trong thiên thứ nhất sách “Đại y tinh thành”, ông nhấn mạnh rằng muốn làm một đại y gia thì nhất định không được cầu xin gì cả, phải có lòng đại từ bi, và phát nguyện cứu được nhiều người đang bị khổ.

Lý Thời Trân (thời Minh, 1518 – 1593)

Trong cuốn “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân đã ghi lại 1.094 loại thuốc thực vật, 444 loại thuốc động vật, 275 loại thuốc khoáng chất, 79 loại dược liệu khác, có 1.096 bài thuốc dân gian và 1.160 bức tranh minh họa. Nó không những là một kiệt tác y học, mà còn là một cuốn bách khoa toàn thư về thực vật học, động vật học, khoáng vật học, mạch học, phương tễ học (khoa học kê đơn) và y lý.

Trong quá trình hành nghề y, Lý Thời Trân đã phát hiện ra nhiều sai sót trong nhiều sách thuốc, nên ông quyết định biên soạn và chú thích một cuốn sách thảo dược mới. Để biên soạn cuốn sách này, ông đã thâm nhập vào núi sâu rừng già nơi đầy rắn độc để thu thập thuốc, thậm chí còn thử thuốc trên chính cơ thể mình. Ông đã từng tự mình ăn cà độc dược có độc tố để thử độc tính của nó và điều chế thuốc giải độc. Ngoài dược liệu, Lý Thời Trân còn có những kiến giải độc đáo về khoa học kinh mạch. Ông đề xuất kỳ kinh bát mạch (các đường kinh mạch ngoài 12 kinh chính của cơ thể con người được gọi là kỳ kinh, tổng cộng là tám mạch), và nêu rõ sinh lý và bệnh lý của các kỳ kinh. Lý Thời Trân còn là một thầy thuốc vĩ đại có y đức cao thượng, được người dân thời bấy giờ tôn sùng.

Từ những câu chuyện về các danh y thời Trung Quốc cổ đại kể trên, không khó để chúng ta phát hiện ra sự phát triển của Trung Y thời cổ đại, chẳng hạn như tại Trung Quốc 300 đến 400 năm trước công nguyên đã xuất hiện phẫu thuật thay tim; hơn 100 năm trước công nguyên đã có việc đoạn chi tiếp cốt (bó xương chân tay gãy), tẩy ruột, phẫu thuật não và có thuốc gây mê; Tôn Tư Mạc đã thực hiện phẫu thuật bệnh đục thủy tinh thể mắt từ những năm công nguyên 500. Còn về công dụng của thuốc lại càng thần kỳ hơn, thuốc vào là bệnh khỏi, Hoa Đà đã chữa khỏi bệnh vàng da, Trương Trọng Cảnh chữa khỏi bệnh thương hàn, ngoài ra còn có nhiều bệnh khó chữa, phức tạp như bệnh tiêu khát (tương tự tiểu đường) cũng có đơn thuốc điều trị. Châm cứu, là liệu pháp độc đáo của Trung Quốc, vẫn tiếp tục được lưu truyền cho đến ngày nay. Các thần y thời Trung Quốc cổ đại còn có những khả năng vượt xa người thường, chẳng hạn như Biển Thước có thể dùng mắt nhìn mà nói ra tình trạng đại khái của bệnh nhân, còn Hoa Đà có thể nhìn thấy khối u trong não Tào Tháo. Các huyệt vị trên cơ thể con người được sử dụng phổ biến trong Trung Y, nhưng lại không được giới y học phương Tây công nhận. Gần đây các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật chụp ảnh Kirlian đã phát hiện ra rằng một số vị trí đặc biệt trên cơ thể con người (tức là vị trí của các huyệt đạo) hiện lên những đốm sáng, điều này đã chứng thực rằng y học Trung Quốc cổ đại tinh thâm và thần kỳ hơn so với y học hiện đại.

Các danh y thời Trung Quốc cổ đại đa phần đều là những người tu luyện, họ không màng danh lợi, thâm nhập vào nhân dân, sống an bần lạc đạo, có tâm nguyện muốn cứu người. Y đức cao thượng và y thuật thần kỳ kỳ diệu của họ đã được quảng đại hậu nhân ca tụng.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

 

The post Mạn đàm Trung Y (2): Y thuật Trung Y cổ đại bác đại tinh thâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (1): Lời tựahttps://chanhkien.org/2023/12/man-dam-trung-y-1-loi-tua.htmlFri, 15 Dec 2023 00:07:19 +0000https://chanhkien.org/?p=32083[ChanhKien.org] Giới thiệu vắn tắt về loạt sách trên mạng “Chánh Kiến” Loạt sách “Chánh Kiến” là dựa trên cơ sở các bài đăng tải trên “Chánh Kiến Net”, do nhóm biên tập Chánh Kiến căn cứ vào đề tài mà chỉnh lý, biên tập và bổ sung các tư liệu liên quan để hoàn […]

The post Mạn đàm Trung y (1): Lời tựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Giới thiệu vắn tắt về loạt sách trên mạng “Chánh Kiến”

Loạt sách “Chánh Kiến” là dựa trên cơ sở các bài đăng tải trên “Chánh Kiến Net”, do nhóm biên tập Chánh Kiến căn cứ vào đề tài mà chỉnh lý, biên tập và bổ sung các tư liệu liên quan để hoàn thành.

“Chánh Kiến Net” (Zhengjian.org) được thành lập vào tháng 12 năm 2000, tác giả của các bài viết đều là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Những người tu luyện này có mặt ở gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, đến từ mọi ngành nghề, bao gồm các chuyên gia, học giả trong các lĩnh vực khác nhau và các nhân sĩ chuyên nghiệp cũng như sinh viên, công nhân và nông dân. Họ dùng thời gian dư ra sau những giờ làm việc, học tập và lao động bận rộn để tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, trong quá trình tự mình thực hành chân lý của vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn”, cả thân và tâm của họ đều được hưởng lợi, khai trí khai huệ và có được nhận thức hoàn toàn mới về nhân thể, sinh mệnh và vũ trụ. Những tư tưởng mới và tư duy mới của họ nhờ tu luyện mà được thăng hoa, họ đã dùng hình thức các loại văn bản và nghệ thuật khác nhau để đăng lên trang “Chánh Kiến Net”, mong muốn được giao lưu trao đổi với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp và bạn bè quan tâm đến việc khám phá những bí ẩn của vũ trụ, sinh mệnh và cơ thể người.

Nội dung của loạt sách “Chánh Kiến” bao gồm các lĩnh vực như sinh mệnh, tu luyện, văn hóa, lịch sử, khoa học, xã hội, gia đình, giáo dục, Trung y và môi trường. Kho sách với các đề tài rộng lớn này đã công bố những bí ẩn về lý do sinh mệnh vì cái gì mà đến (sinh ra), tại sao lại ra đi (mất đi); diễn giải những biến đổi to lớn của các thiên thể trong vũ trụ; tiết lộ về những nền văn minh tiền sử mà con người chưa biết đến; giải thích những lời tiên tri cổ xưa về ngày nay; xóa bỏ những hiểu lầm, bí ẩn của mọi người về Trung y thông qua những lời kể hùng hồn sống động; tái hiện những kỳ tích có thật về những người tu đạo xưa tu luyện thành tiên trong những câu chuyện sống động; cùng quý vị chèo thuyền du ngoạn trên biển sử, hướng dẫn quý vị đi qua năm nghìn năm lịch sử của đất nước Thần Châu; cùng quý vị ngâm thơ và thưởng thức những câu ca du dương êm dịu từ hàng ngàn năm của đất nước chúng ta ngày xưa; triển hiện chân tính và sự tinh túy của nghệ thuật; nhìn về tương lai của khoa học và văn hóa; mách bảo cho quý vị biết nguyên nhân thường xuyên xảy ra thiên tai nhân họa hiện nay. Tất nhiên, còn có những trải nghiệm thần kỳ và thể nghiệm siêu thường của những người tu luyện Đại Pháp…

Hy vọng loạt sách “Chánh Kiến” sẽ mở rộng tầm nhìn của quý vị, mang lại những gợi mở cho cuộc sống của quý vị.

Lời tựa

Nội dung của Trung y có thể được khái quát trong bốn chữ: “Lý, Pháp, Phương, Dược”. “Hoàng đế nội kinh” và “Thần Nông bản thảo kinh” là khởi nguyên của Lý, Pháp, Phương, Dược của Trung y.

Chương đầu tiên ‘khai tông minh nghĩa’ của “Hoàng Đế nội kinh” chính là dạy con người phải “hợp với Đạo” và theo các mức độ khác nhau của việc “hợp với Đạo”, có bốn loại hình mẫu người được miêu tả cụ thể: Một là “Chân Nhân”, họ có thể có tuổi thọ dài lâu vô hạn; thứ hai là “Chí Nhân”, họ có thể không ngừng kéo dài tuổi thọ và cũng được coi là một loại Chân Nhân; thứ ba là “Thánh Nhân”, họ có thể sống đến trên trăm tuổi; thứ tư là “Hiền Nhân”, họ cũng có thể tăng thêm tuổi thọ nhưng rất có hạn. “Thần Nông bản thảo kinh” chia 365 vị thuốc Trung dược thành ba loại: thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm, trong “thượng phẩm” có rất nhiều vị thuốc “dùng lâu dài, làm nhẹ cơ thể và kéo dài tuổi thọ” và có thể khiến người ta phi thăng. Vì vậy, hậu nhân mới có cách nói “y dược uyên thâm, rất gần với Tiên Đạo”. Có thể dự đoán rằng khi hai vị Viêm Đế và Hoàng Đế truyền lại Trung y và Trung dược, ước nguyện ban đầu của họ là hy vọng rằng mọi người sẽ theo bước chân của những bậc hiền nhân, thánh nhân, chí nhân và chân nhân, đồng hóa với Đạo và hưởng thụ cuộc sống vô tận. Y học như thế là y học giảng về “Đạo” và giảng về “Đức”, là cầu nối để những người có Đức bước vào Đạo.

Giả Nghị thời nhà Hán từng nói: “Nghe nói Thánh nhân thời xưa họ không ở trong triều đình, mà nhất định ở làm nghề bói toán và trị bệnh”. Câu nói này thể hiện lòng nhân từ của Nho gia. Sau khi được Phạm Trọng Yêm thời nhà Tống đề xướng thêm, thì Nho gia đã có cách nói “không làm được lương tướng, thì cũng là lương y”, đặt ra tiêu chuẩn cao nhất cho “Nho y” của Trung y và Trung y được gọi là “nhân thuật” (thuật nhân từ). Trung y như thế không thể lại nói về “Đạo” và “Đức” nữa, nhưng đối với người hậu thế đã mất “Đạo”, mất “Đức” mà nói thì tiêu chuẩn “nhân” vẫn còn rất cao. Nho y có học cho rằng các bậc đế vương, tướng, thầy, Tiên, Phật và các nhân vật nổi tiếng trị quốc cứu người, tế thế độ nhân, chẳng qua là tấm lòng cứu sống người. Cách nói như thế, khiến việc chữa bệnh và cứu người trở thành mục tiêu cuối cùng của y học, và nó khác với ước nguyện “dẫn nhân nhập Đạo” ban sơ của Viêm Hoàng.

Sự phát triển nhanh chóng của khoa học hiện đại không làm giảm số người mắc bệnh, cũng không làm giảm các loại bệnh tật, bởi vì khoa học hiện đại không có cách nào ngăn ngừa được “tâm bệnh” của con người. Những thành quả của khoa học hiện đại đã khiến con người nhận ra rằng tinh thần và cảm xúc của con người có tác dụng chi phối khó mà phán đoán được đối với thể trạng con người; tinh thần và thể xác của con người là một tổng thể không thể tách rời, “tâm” là chủ tể của “thân”. Trung y thời Trung Quốc cổ đại chủ yếu là xem xét bệnh tật từ tổng thể nên việc chẩn đoán và điều trị rất độc đáo, vì vậy hy vọng rằng khi mọi người có nhận thức lại mới về Trung y, y học hiện đại sẽ đi theo một con đường hoàn toàn khác.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

 

The post Mạn đàm Trung y (1): Lời tựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>