Mai Hoa Thi | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1“Mai Hoa Thi” phá giải thiên cơ – thế nhân đều đến từ thiên thượnghttps://chanhkien.org/2020/04/mai-hoa-thi-pha-giai-thien-co-the-nhan-deu-den-tu-thien-thuong.htmlThu, 02 Apr 2020 13:44:32 +0000https://chanhkien.org/?p=26133Tác giả: Mai Hoa   [ChanhKien.org] Dự ngôn trên toàn thế giới có rất nhiều, những sự việc đang phát sinh đều được dự đoán vô cùng chính xác. Ví như các dự ngôn chúng ta thường gặp là Thôi Bối Đồ, Mai Hoa Thi, Mã Tiền Khoá, Thiêu Bính Ca v.v. Đa số đều […]

The post “Mai Hoa Thi” phá giải thiên cơ – thế nhân đều đến từ thiên thượng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mai Hoa

 

[ChanhKien.org] Dự ngôn trên toàn thế giới có rất nhiều, những sự việc đang phát sinh đều được dự đoán vô cùng chính xác. Ví như các dự ngôn chúng ta thường gặp là Thôi Bối Đồ, Mai Hoa Thi, Mã Tiền Khoá, Thiêu Bính Ca v.v. Đa số đều là đại đồng tiểu dị, đều là dự đoán trước được những sự việc đã và đang phát sinh, chuẩn xác đến nỗi người xem không thốt nên lời, mà đối với những sự việc sắp xảy ra trong tương lại có một số khác biệt không nhiều. Dự ngôn Mai Hoa Thi do Thiệu Ung đời nhà Tống sáng tác, điều đặc biệt nhất trong đó chính là hai câu đầu tiên, mà trong các dự ngôn khác không có.

I. Phá giải thiên cơ – Cửa Trời từ vạn cổ đã khai mở

Câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai” chính là để chỉ về lịch sử xa xưa của nhân loại, vốn không giống như thuyết vô Thần giảng rằng nhân loại có lịch sử mấy ngàn năm, mà là cực kỳ xa xưa từ rất lâu trước đó. Nhân loại cũng không chỉ có một thời kỳ, người Trung Quốc bình thường sẽ cho rằng thời kỳ văn minh nhân loại không dưới 5.000 năm, tuy nhiên chúng ta hãy suy xét cẩn thận một chút, trong các cổ thư như Chu Dịch, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Sơn Hải Kinh v.v. những kiến thức được viết trong đó đều vượt xa tri thức hiện nay của nhân loại chúng ta. Lại có rất nhiều các dạng các loại trí tuệ cùng dự ngôn là đến từ đâu, dùng thuyết vô Thần căn bản không cách nào giải thích được, không thể tìm ra nguồn gốc truyền thừa của chúng. Kỳ thực chúng đều được truyền thừa từ viễn cổ.

Thật ra lý giải về Thiên môn (cửa Trời), trong văn hoá người Trung Quốc không có gì xa lạ. Ví dụ như trong Tây Du Ký có Nam Thiên Môn, các chúng Thần muốn hạ giới đều phải đi qua đó, Na Tra đã từng đánh nhau với Long Vương ở đó. Là bởi vì chúng ta không nghĩ đem những sự việc này liên hệ lại mà thôi.

Chiểu theo cách nói về Thiên môn trong Mai Hoa Thi, tại thời kỳ viễn cổ xa xưa, của Trời đã mở rồi, chúng Thần đã đến, sáng tạo nên văn minh của nhân loại chúng ta hiện nay.

II. Chúng Thần hạ phàm – Mấy người quay về mấy người ở lại

Câu thứ hai “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” chính là để phá mê. Chúng Thần đều là từ trên thiên thượng mà đến, Thần trong Tam giới có vị tu thành Thần Tiên quay về cũng có vị ở lại trở thành Bồ tát độ nhân, còn những vị do phạm phải sai lầm mà bị giáng chức Thần Tiên thì có ở khắp nơi, chẳng hạn như Bát Giới, Sa Tăng, Lý Bạch v.v. đều là những Thần Tiên bị giáng chức.

III. Thần Vận khai diễn – Màn Trời mở ra chúng Thần đến

Thần Vận đang trình diễn trên khắp thế giới, có người quả thật đã nhìn thấy cảnh tượng trên trời, chúng Thần trên vũ đài đang biểu diễn. Đây là huyễn cảnh hay là chân tướng? Vậy phải xem ngộ tính của cá nhân họ như thế nào. Ngộ tính của một người mà cao, mức độ lý giải sâu sắc, thì sẽ tin tưởng những điều này là thật. Còn những ai cố chấp vào thuyết vô Thần, sẽ cho rằng chỉ là huyễn tượng ảo giác (Tất nhiên những ai có thể xem Thần Vận đều là có duyên phận, ngộ tính cao, đa số đều tin tưởng).

Trong số những ca khúc biểu diễn của Thần Vận, có một bài hát tựa đề “Sinh mệnh đến từ thiên thượng” đã tiết lộ rõ ràng, mọi người đa số đều là đến từ trên trời, hãy đừng lưu luyến vinh hoa phú quý của người thường mà quên tìm đường quay trở về ngôi nhà tốt đẹp của chính mình.

Mục đích chân chính của dự ngôn Mai Hoa Thi, chính là kêu gọi con người vào thời khắc then chốt hãy thanh tỉnh lại, khôi phục nguyện vọng quay trở về, tìm thấy đường về nhà. Đại Pháp đã đến để dẫn dắt mọi người trở về, mọi người có nghe thấy không?

 

Chú thích: Để đọc hiểu nguyên văn bài thơ dự ngôn Mai Hoa Thi, xin tham khảo các bài viết khác của Chánh Kiến tại đây: Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tống

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/257741

The post “Mai Hoa Thi” phá giải thiên cơ – thế nhân đều đến từ thiên thượng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiệu Ung xác thực có công năng tiên trihttps://chanhkien.org/2012/04/thieu-ung-xac-thuc-co-cong-nang-tien-tri.htmlhttps://chanhkien.org/2012/04/thieu-ung-xac-thuc-co-cong-nang-tien-tri.html#respondSat, 07 Apr 2012 06:34:19 +0000https://chanhkien.org/?p=17001Du Việt, hiệu Khúc Viên, một giám khảo đại học triều Thanh từng kể lại câu chuyện như sau.

The post Thiệu Ung xác thực có công năng tiên tri first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Chân

[Chanhkien.org] Du Việt, hiệu Khúc Viên, một giám khảo đại học triều Thanh từng kể lại câu chuyện như sau:

Sách «Khúc Vĩ Cựu Văn» triều Tống ghi lại rằng: Khi Âu Dương Tu làm Tể tướng đương thời, có nghe nói đại danh của Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết). Con trai ông là Âu Dương Phỉ, tự Thúc Bật, khi nhậm chức quan trên đường đi qua Lạc Dương. Âu Dương Tu dặn: “Con đến Lạc Dương, có thể tới bái kiến Thiệu tiên sinh”. Âu Dương Thúc Bật vừa đến cửa nhà Thiệu Nghiêu Phu, còn chưa kịp gõ cửa, thì Thiệu Nghiêu Phu đã vội vã xỏ giày ra nghênh tiếp và mời vào nhà rồi. Âu Dương Thúc Bật cảm thấy Thiệu Nghiêu Phu xác thực là có công năng tiên tri tiên liệu. Nên khi hai người ngồi cùng nhau, họ đã đàm đạo suốt cả một ngày.

Thiệu Nghiêu Phu còn chủ động thuật về những người mình từng gặp trong đời, về tri thức sở học của mình, và những việc mình từng làm qua. Khi ấy Âu Dương Thúc Bật không hiểu vì sao Thiệu Nghiêu Phu lại kể chuyện với nội dung chi tiết như vậy, chỉ cảm thấy rất kỳ quái. Sau khi nói một số nội dung nữa, Thiệu Nghiêu Phu còn hỏi Âu Dương Thúc Bật: “Ta giảng những nội dung này, ngài có nhớ nổi hết không?”

Lúc ấy Âu Dương Thúc Bật tuy kính cẩn lắng nghe, nhưng không rõ mục đích Nghiêu Phu tự thuật về mình là gì. Cộng thêm câu hỏi “ngài có nhớ nổi hết không?”, Thúc Bật thấy càng kỳ quái hơn nữa.

Mãi tới những năm Nguyên Phong thời Tống Thần Tông, Thiệu Nghiêu Phu qua đời, triều đình tôn kính phẩm hạnh của Thiệu Nghiêu Phu, nên mới phong hiệu cho ông. Âu Dương Thúc Bật khi ấy đã là Thái Thường Bác sĩ, vì đảm nhận chức trách Bác sĩ, nên quyết định viết sớ đề nghị phong hiệu cho ông, để trình tấu Hoàng thượng. Bấy giờ, Âu Dương Thúc Bật mới đột nhiên tỉnh ngộ: Nguyên nhân Thiệu Nghiêu Phu thuật lại bình sinh cho ông nghe, chính là để giúp ông viết bài sớ này.

Người đời vẫn đem Quách Cảnh Thuần triều Tấn ví như “Thanh Y Thần”. Thiệu Nghiêu Phu và Quách Cảnh Thuần tuy sự tích khác nhau, nhưng về khả năng tiên tri vị lai thì rất giống nhau.

Lại nghe nói khi Tư Mã Quang và Thiệu Nghiêu Phu gặp nhau, hai người từng tản bộ ở bờ Bắc sông Lạc Thủy, thấy có người trong căn nhà. Thiệu Nghiêu Phu chỉ vào mấy ngôi nhà mới xây ở bờ Bắc, nói: “Nhà ba gian này, vào tháng A năm B sẽ bị sụp đổ; nhà ba gian kia, vào tháng C năm D sẽ bị nước lũ cuốn trôi”. Tư Mã Quang trở về nhà, mới đem sự kiện này ghi vào mặt sau của bản thảo. Nhưng thời gian trôi qua, đã quên bẵng đi mất. Có một lần, Tư Mã Quang đi qua bờ Bắc sông Lạc Thủy, bỗng nhiên nhớ lại lời Thiệu Nghiêu Phu từng nói với mình, mới đi xem thử mấy căn nhà kia, thấy đúng là đã biến thành đống gạch vụn rồi. Ông bèn hỏi dò những người đương địa, thì họ đáp lại đúng y như lời dự đoán năm xưa của Thiệu Nghiêu Phu.

Bởi vậy người viết nghĩ rằng: Cả một đời người, anh ta sẽ làm gì, đi tới nơi đâu, kiếm được bao nhiêu tiền, sẽ kết hôn với ai, sẽ mắc bệnh gì, sẽ chết tại nơi nào, hết thảy đều được chư Thần an bài hoàn chỉnh rồi. Cũng như vậy, một căn phòng kia, nó sẽ xây xong vào thời gian nào, sẽ có ai tiến vào đó ở, nhà cửa hưng suy phá hoại thế nào, đều đã được an bài đầy đủ rồi. Do đó các bậc Thánh hiền mới dạy bảo người đời rằng: “Chỉ nỗ lực làm ruộng cày cấy, đừng quan tâm thu hoạch thế nào”, “Việc không thuận, tự xét lấy mình; vui tuổi trời, tùy kỳ tự nhiên”.

“Mệnh lý có lúc rồi sẽ hết, trong mệnh thì chớ có cưỡng cầu”, “Lấy cống hiến làm vui mừng, lấy tham lam làm hổ thẹn”, “Việc ác chớ làm, làm theo chữ Thiện”. Đây đều là các danh ngôn chí lý, rất đáng để chúng ta ghi nhớ trong tâm.

(Truyện theo «Trà hương thất tùng sao» của Du Việt triều Thanh)

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/5/17/66235.html

The post Thiệu Ung xác thực có công năng tiên tri first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/04/thieu-ung-xac-thuc-co-cong-nang-tien-tri.html/feed0
Video: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» của Trung Quốchttps://chanhkien.org/2012/02/video-du-ngon-mai-hoa-thi-cua-trung-quoc.htmlhttps://chanhkien.org/2012/02/video-du-ngon-mai-hoa-thi-cua-trung-quoc.html#respondSat, 18 Feb 2012 15:26:14 +0000https://chanhkien.org/?p=16194Nó chính là một dự ngôn lưu danh thiên cổ. «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung thời Bắc Tống chính là một khúc thanh âm như vậy.

The post Video: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

Lời thuyết minh:

Đứng bên bờ sông Trường Giang, ngắm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về Đông, một đi không trở lại… 2.500 năm trước, Khổng Phu Tử cảm thán: “Thời gian như dòng nước! Trôi không quản ngày đêm”. 1.500 năm sau, Tô Đông Pha đứng trước cơn sóng lớn Trường Giang mà phiền muộn: “Sông lớn cuồn cuộn chảy về Đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng”. Sông Trường Giang này, tưởng như vô tình. Mấy trăm năm, mấy nghìn năm, vẫn chảy xiết về phía trước không do dự. Đúng là nó đã đi theo dòng chảy suốt lịch sử nhân loại, chứng kiến tất cả thiện-ác, trung-gian, ái-hận, tình-sầu; biết bao vui buồn ly hợp, thế sự đổi thay. Vừa mới Hán Sở tranh hùng, đã tới Tam Quốc diễn nghĩa; rồi mới có Trinh Quán thịnh trị, sau đó là quý phi túy tửu; có Nhạc Phi tinh trung báo quốc, cũng có Tần Cối âm hiểm độc ác; có Thành Cát Tư Hãn xưng bá thiên hạ, cũng có ngày lễ của Hoàng đế Vĩnh Lạc triều Minh; thế mới có Khang Hy thịnh thế, sau đó là Nha Phiến quốc sỉ; âm hồn trong cuộc thảm sát Thiên An Môn còn chưa tan hết, đã đến cuộc thỉnh nguyện bi tráng của Pháp Luân Công,…

Lịch sử, nếu xem trong một thời-không ngưng đọng, thì cũng như một vở kịch, với trời làm màn, đất là đài, ngày đêm không ngừng xoay vần mà diễn biến. Các nhân vật trong vở kịch này, bất luận là anh hùng đội trời đạp đất, thét mây hô gió như thế nào, thì đều trôi dạt trong cõi hồng trần cuồn cuộn. Liệu ai có thể thực sự làm chủ vận mệnh của chính mình?

Tài năng kinh thiên động địa, tấm lòng cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, cũng không thực hiện được chí lớn khôi phục Hán thất. Tài trí mưu lược, chí khí ngút trời như Nhạc Phi, cũng chỉ có thể để lại nỗi buồn vô hạn dưới đình Phong Ba. Thị phi thành bại theo dòng nước, Sừng sững cơ đồ bỗng tay không! Giữa dòng sông lớn lịch sử này, rốt cuộc là ai làm chủ? Dòng chảy lịch sử vĩ đại này rốt cuộc có chủ đề và kịch bản hay không?

Tuy nhiên, giữa cõi trần thế náo nhiệt ồn ã này, bỗng chốc vang lên một thanh âm siêu nhiên, âm lượng nhẹ nhàng mà kiên định; nó là âm thanh ngoài trần thế, chỉ điểm bến mê. Nó thời thời khắc khắc cảnh tỉnh thế nhân: Mang mang Thiên số đã sớm định trước, Thế Đạo hưng suy bất tự do vậy. Nó chính là một dự ngôn lưu danh thiên cổ. «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung thời Bắc Tống chính là một khúc thanh âm như vậy. Từ hơn 1.000 năm trước, nó đã chỉ điểm chỗ mê cho chúng sinh, giảng rõ khúc chủ đề nhấp nhô trầm bổng. Chúng ta hãy tĩnh tâm lắng nghe và thưởng thức bài thơ «Mai Hoa Thi» này.

* * *

Để hiểu được «Mai Hoa Thi», thì không thể không tìm hiểu về kỳ nhân Thiệu Ung. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông, tức năm 1011 SCN, mất năm thứ 10 Tống Thần Tông, tức năm 1077 SCN, hưởng thọ 67 tuổi. Ông sinh ra tại Phạm Dương, Hà Bắc, sau theo cha di cư tới Cộng Thành, cuối đời ẩn cư tại Lạc Dương. Thiệu Ung, tuy không phải là “nhà nhà đều biết” như Gia Cát Khổng Minh, nhưng xét về tài năng và phẩm đức, thì cũng không thua gì Gia Cát Lượng. Chẳng qua, ông trường kỳ ẩn cư, tên tuổi không được người đời sau biết đến nhiều. Trình Hạo, một trong những ông tổ của Lý học triều Tống từng ca ngợi Thiệu Ung như sau: “Nghiêu Phu, ấy là bậc thầy về cái học của nội Thánh ngoại Vương vậy!”

Thuở thiếu thời, Thiệu Ung đã ôm ấp chí lớn, nỗ lực khắc khổ đọc sách, không có sách nào là chưa đọc. Theo “Thiệu Ung truyện” trong sử triều Tống thì: Thiệu Ung “ban đầu học, sau chịu đựng gian khổ, lạnh không có lò sưởi, nóng không có quạt mát, đêm tối cũng không có một tấm chiếu để nằm trong mấy năm”. Sau đó, để tăng cường kiến thức, ông còn du học tứ phương, vượt Hoàng Hà, qua Phần Hà, lội Hoài Thủy, vượt Hán Thủy, qua các đất Tề, Lỗ, Tống, Trịnh, v.v. Sau khi trở về, ông nói “Đạo là đây rồi”, sau đó không vân du nữa. Bấy giờ có cao nhân Lý Đỉnh Chi, thấy ông ham học không biết mệt mỏi, mới truyền thụ cho ông “Hà Đồ”, “Lạc Thư”, “Phục Hy Bát quái” và các bí quyết Dịch học khác. Thiệu Ung thông minh tài trí, thông hiểu đạo lý, tự học tự đắc, cuối cùng trở thành một bậc thầy về Dịch học, một nhà Nho nổi tiếng xa gần. Ông hình thành cho mình một vũ trụ quan độc đáo mà hoàn chỉnh, các quy luật vận hóa của Thiên Địa, biến hóa của Âm Dương đều nắm trong lòng bàn tay. “Tống sử” cũng ghi lại như sau: Ông đối với “thế sự cổ kim xa gần, thậm chí tính nết của cây cỏ chim muông” thì đều có thể “thông suốt”, thậm chí “hiểu được suy nghĩ người khác, biết trước việc chưa xảy ra”. Trình Di, một ông tổ khác của Lý học Bắc Tống nói: Thiệu Ung “tấm lòng vừa trống vừa sáng, mà có thể biết tất cả”. Sau đó, Thiệu Ung viết các trước tác «Hoàng Cực kinh thế», «Quan vật nội ngoại thiên», v.v. tổng cộng hơn 1 vạn chữ. Ông cho rằng lịch sử là chiểu theo định số mà diễn hóa. Ông dùng Tiên thiên Dịch số của mình, cũng như các khái niệm nguyên, hội, vận, thế, v.v. để suy luận diễn hóa của Trời Đất và tuần hoàn của lịch sử. Các tác phẩm Dịch học có ảnh hưởng rất lớn với đời sau như «Thiết Bản thần số», «Mai Hoa tâm dịch», đều là của Thiệu Ung. Người đời sau tôn xưng ông là “Thiệu Tử”. Thời trung niên, ông không màng danh lợi, ẩn cư tại Lạc Dương, viết sách dạy học. Các học sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Phú Bật, Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, v.v. đều rất kính trọng ông. Họ từng góp tiền mua cho ông một khu vườn, gọi là “An Lạc Oa”, do vậy Thiệu Ung còn có tự hiệu là “An Lạc tiên sinh”. Ông không chỉ thông hiểu cổ kim, tài năng cái thế, mà còn phẩm đức đôn hậu, đãi người chân thành. Điều này khiến ông nức danh xa gần, đi đâu cũng được người ta tranh nhau mời lưu lại, có người còn gọi nơi Thiệu Ung từng nghỉ lại là “Hành Oa”. Uy vọng của ông trong tâm người đời là rất lớn. Ngày nay, người hiểu rõ Thiệu Ung và các tác phẩm của ông quả thực là không nhiều. Tuy nhiên trong dân gian vẫn lưu truyền một số lời răn của ông. Ví như, người ta thường nói: “Nhất niên chi tế tại vu xuân, Nhất thiên chi tế tại vu thần, Nhất sinh chi tế tại vu cần” (Ranh giới một năm là mùa Xuân, Ranh giới một ngày là bình minh, Ranh giới một đời là chuyên cần), ấy là xuất phát từ Thiệu Ung. Thiệu Ung còn có tài tiên tri tiên liệu, lưu lại hậu thế một dự ngôn chuẩn xác đến kinh người, một kiệt tác truyền đời của ông — «Mai Hoa Thi», tiên tri về những diễn biến lịch sử trọng đại phát sinh tại Trung Quốc sau khi ông mất. Tất nhiên, «Mai Hoa Thi» cũng như các dự ngôn khác, dùng ngôn ngữ rất kín đáo ẩn dụ, không dễ mà lý giải. Có một bộ phận, nếu như không phải là người tu luyện thông hiểu Phật lý Đạo học, thì khó mà hiểu được. Toàn bộ bài thơ có thể được chia làm 10 tiết nhỏ, sau đây chúng ta sẽ cùng nhau khám phá chi tiết:

Tiết 1

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.

Tạm dịch:

Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa.

Hai câu “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai”, từ ý nghĩa bề mặt mà xét thì: Cánh cổng thông lên bầu trời mênh mang từ vạn cổ nay đã khai mở lần đầu tiên. Biết bao người đã đến nhân gian, biết bao người có thể quay về? Tuy nhiên, hai câu này thực sự là chỉ điều gì? Chỉ xem một đoạn này thôi thì chưa rõ, phải xem toàn bài xong thì chân tướng mới đại bạch. Chẳng qua, từ hai câu đầu tiên đã có thể thấy Thiệu Ung bản lĩnh siêu phàm, lập ý cao xa, không chỉ nói với người ta tương lai sẽ phát sinh sự kiện gì, mà còn nói với chúng ta chủ đề tối hậu mà không bị lịch sử làm nhiễu. Triều Tống là một triều đại mà triều đình nhu nhược bất tài. Từ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận “dùng rượu tước binh quyền” mà lấy thiên hạ trở đi, thì triều Tống luôn áp dụng hạn chế tín nhiệm với tướng soái, kèm theo chính sách phòng ngừa thái quá, dẫn tới cục diện “binh không tướng soái, tướng không có thầy”. Triều Tống ngay từ đầu thì đã là binh lực yếu ớt, vừa dựng nước được không lâu đã phải xưng thần cống nạp cho chính quyền người Hồ ở phương Bắc. Quốc thổ phương Bắc, “Yên vân thập lục châu”, một mạch bị ngoại tộc chiếm mất, ấy chính là “Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích” (Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn). Nước Kim của tộc Nữ Chân ở phương Bắc nguyên là một dân tộc tiểu nhược, thế nhưng vào thời phát triển lớn mạnh từng liên hợp với Bắc Tống để cùng nhau lật đổ nước Liêu thời cận mạt. Tống Huy Tông dốt nát không nghe lời khuyên can của trung thần, một mực đòi kết liên minh với nước Kim, lại đồng ý đem cống phẩm mỗi năm cho nước Liêu chuyển sang nước Kim, không tin rằng nước đại “Kim” định đô tại “Hoàng” Long Phủ mới là “mầm tai họa” thực sự của triều Tống. Bởi vậy lịch sử Trung Quốc mới có “nỗi nhục Tịnh Khang” hiếm thấy, Hoàng đế Bắc Tống, cung phi, thân vương, đại thần khắp triều, toàn bộ hơn ba ngàn người sau này đều bị nước Kim lớn mạnh bắt làm nô lệ, khiến một nửa giang sơn lọt vào tay nước Kim. Đây chính là “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai”.

Tiết 2

Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.

Tạm dịch:

Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay.
Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày,
Non xanh nước biếc than ôi còn đâu.

Đến thời Nam Tống, Hoàng đế càng dốt nát bất tài hơn nữa, đành sống tạm bợ ở một nửa giang sơn vùng Giang Nam, cả ngày đắm chìm trong ca múa tửu sắc. Ngoài ra, toàn bộ dân chúng đều say sưa chán ngán, từ trên xuống dưới mê đắm trong hoan ái tình sắc, mà không nghĩ đến quyết chí tự cường. Thể thơ Tống từ có hàng vạn bài, văn nhân nhiều lời gặp thi sĩ tiếc vật thương tình, còn kẻ sĩ có thể ngẩng cao đầu thì rất hiếm. Bởi vì Nam Tống dựng đô tại Lâm An (nay là Hàng Châu), bên bờ Tây Hồ, dựa núi gần hồ, cộng thêm Hoàng đế Nam Tống ngày đêm chìm đắm trong giấc mộng say hoang dâm, nên mới gọi là “Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi”, chỉ một giấc mộng Núi, Hồ mà việc hỏng cả. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, phương Bắc có Chân Long Thiên Tử giáng sinh, triều đại mới ắt sẽ đản sinh tại phương Bắc. Khi vương triều Nam Tống còn chìm đắm trong giấc mộng say, thì Thành Cát Tư Hãn nổi lên tại phương Bắc, dốc sức vì nước, thống nhất Mông Cổ, lại cấp tốc khuếch trương bờ cõi. Sau khi nước Kim diệt vong, Mông Cổ ồ ạt xâm nhập Nam Tống. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ triều Tống sau khi trải qua hơn 300 năm (từ năm 960-1279 SCN), cuối cùng diệt vong. Năm 1276, quân Nguyên xâm nhập Lâm An, vua Tống bị bắt làm tù binh. “Trường thiên bích thủy thán di di” (Non xanh nước biếc than ôi còn đâu), là chỉ vào thời khắc diệt vong cuối cùng của triều Tống diễn ra một màn lịch sử bi tráng. Năm 1279, tàn quân Tống rơi vào bước đường cùng, chiến bại không còn lối thoát. Bởi không muốn bị bắt, đại thần Lục Tú Phu cõng tiểu Hoàng đế Nam Tống mới 9 tuổi nhảy xuống biển mà chết, còn đại tướng Trương Thế Kiệt đang bảo vệ Dương Thái Phi mưu đồ chạy trốn, thì bị một cơn bão lớn nhấn chìm dưới đáy đại dương.

Tiết 3

Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.

Tạm dịch:

Số nhân của Trời Đất đến một nguyên,
Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm thì càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu.

“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên” là nói niên đại tương giao của Thiên can Địa chi đã đến nguyên đầu, cũng chính là khí số thời đại mới đã đến rồi. “Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, có chữ “Hốt” (忽) là ngầm chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, còn “hưng Nguyên” là chỉ triều Nguyên hưng khởi. Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại Hãn năm 1260, đến năm 1264 (năm giáp tử) thì đăng cơ kiến lập triều Nguyên, định niên hiệu là Chí Nguyên theo nguyên niên, sau dời đô đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. Triều Nguyên tuy nhờ tài trí mưu lược của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt mà phát triển, nhưng sau khi Hốt Tất Liệt qua đời, thì lập tức rơi vào hỗn loạn tranh quyền đoạt vị. Truyền được 10 vị Hoàng đế từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Thuận Đế, sau khi trải qua thời huy hoàng, vương triều đoản mệnh trải dài khắp lục địa Á-Âu này cuối cùng diệt vong. Từ năm 1279 khi triều Tống diệt vong hoàn toàn đến năm 1368 triều Nguyên bị diệt, tổng cộng xấp xỉ 88 năm, đây chính là “Niên hoa nhị bát càn khôn cải” (Được tám tám năm thì càn khôn đổi). Câu “Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn” (Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu) ám chỉ thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên Hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.

Tiết 4

Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi.

Tạm dịch:

Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa.
Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường,
Nở tới hoa mận thì xuân đã qua.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, xuất thân bần tiện, nguyên là bình dân áo vải, từng trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia quân khởi nghĩa Hồng Cân. Bởi vì kiêu dũng thiện chiến, đại hiển bản sắc anh hùng, nên từ một binh sĩ phổ thông thăng lên làm lãnh tụ, cuối cùng năm 1368 xưng Đế tại Nam Kinh. Do đó “Chu môn” giờ đây đã không còn là nhà nông đất vàng năm nào nữa. “Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải, Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa” đã tả rõ giai đoạn lịch sử này. “Phi lai yến tử tầm thường sự” (Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường) là chỉ đoạn lịch sử khi Yến vương Chu Đệ, con thứ tư của Chu Nguyên Chương hùng cứ Yên Kinh rồi đoạt ngai vàng. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, vì Thái tử mất sớm, nên đã đem Hoàng vị truyền cho Hoàng Thái tôn, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười Hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yến vương Chu Đệ đóng tại Yên Kinh tinh thông binh pháp, lập nhiều chiến công, thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế dáng vẻ mười phần thư sinh, dưới kiến nghị của mưu sĩ đã khăng khăng đòi tước bỏ Phiên vương, bãi miễn Yến vương, nên Yến vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yến vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi vị Hoàng đế, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yến vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Dưới sự cai trị của Minh Thành Tổ Chu Đệ, triều Minh trải qua thời kỳ huy hoàng toàn thịnh. Tuy nhiên sự suy bại vào những năm Minh mạt, cộng thêm những cuộc khởi nghĩa nông dân, đã khiến triều Minh rơi vào cảnh “Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi” (Nở tới hoa mận thì xuân đã qua). “Lý hoa” ở đây chính là chỉ Sấm vương Lý Tự Thành. Mùa Xuân năm 1644, Lý Tự Thành dẫn quân khởi nghĩa công chiếm Bắc Kinh, Hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn sau Tử Cấm Thành, triều Minh diệt vong, ấy chính là “xuân đã qua”.

Tiết 5

Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.

Tạm dịch:

Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi,
Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem.

Trung Quốc xưa nay vẫn có cách nói “Bắc Hồ Nam Man”. Bởi thế câu “Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An” là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Cuối triều Minh, xã hội động loạn, Lý Tự Thành vừa mới đoạt thiên hạ, còn chưa ổn định chỗ đứng. Đại tướng triều Minh Ngô Tam Quế trấn giữ vùng ven biển, xuất phát từ tư lợi đã nương tựa Mãn Thanh, sau lại dẫn quân Thanh nhập quan. Mãn Thanh thời bấy giờ mạnh mẽ cường thịnh, sau khi nhập quan thì thế như chẻ tre, thống nhất tàn cục thời Minh mạt, năm 1644 dựng đô tại Bắc Kinh, trở thành đế quốc Đại Thanh. “Tẩu Trường An” thực ra là lấy Trường An để ám chỉ Trung Quốc. Đầu triều Thanh, thế nước lớn mạnh, văn trị võ công đều vô cùng cường thịnh, trong đó hơn 100 năm là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời thịnh trị của Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là Hoàng đế Khang Hy được người đời sau tôn là “thiên cổ nhất Đế”, tài trí mưu lược, dốc sức vì nước, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, khiến bản đồ Trung Quốc không ngừng mở rộng ở mức chưa từng có. Ngoài ra, bắt đầu từ triều Thanh, Trung Quốc tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác cảng biển, cũng chính là “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”.

“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi”, có chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Chữ “Hồng” (洪) trong “Hồng thủy” chính là ám chỉ Hồng Tú Toàn. Chính phủ Mãn Thanh sau khi tiêu hao một lượng lớn nguyên khí, cuối cùng mới may mắn bình định được cuộc khởi nghĩa này. Tuy nhiên sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, tựa như những cơn hồng thủy liên tiếp cuốn sạch toàn quốc, động loạn khắp nơi. Cuối cùng năm 1911, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng trở thành đô đốc chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết lại trở thành Tổng thống, vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Bản thân danh tự của Lê Nguyên Hồng đã có sẵn một chữ “Hồng” (洪), bởi vậy mới nói “Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi”. Câu “Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán” là chỉ tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”), nơi khởi nghĩa cách mạng thành công mà xem.

Tiết 6

Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.

Tạm dịch:

Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.

“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” (Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu) là nói Trung Quốc sau khi trải qua 300 năm thống trị của ngoại tộc Mãn Thanh cuối cùng đã có hy vọng mới. “Trời Hán sáng tỏ” ở đây là chỉ hy vọng mới. “Sông Hán mùa thu” là chỉ ngày 10 tháng 10 mùa Thu năm 1911, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Trung Quốc tiến vào một thời đại hoàn toàn mới. Cũng chính là vào mùa Thu năm 1911 tại Vũ Hán lại quật khởi lần nữa. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu” (Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu) là chỉ cách mạng Dân Quốc tuy thành công, nhưng nền móng rất bất ổn định, cũng như “hoa cúc vàng tiều tụy”. Hoa cúc trong truyền thống thường được dùng để chỉ sinh linh còn non nớt. Kể từ khi Dân Quốc kiến lập, đầu tiên là Viên Thế Khải cướp đoạt chính quyền, sau đó là Trương Huân phục hồi, tiếp đó là thời quân phiệt hỗn chiến trường kỳ, bè phái cát cứ. Chính quyền Quốc Dân tựa như “hoa cúc vàng tiều tụy”, lúc nào cũng ưu sầu, nên mới nói “tổng đới sầu”. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn” (Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn): “Ánh cát tường” là chỉ quốc kỳ Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng của Trung Hoa Dân Quốc, còn “nửa thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng. Sau khi trải qua thời thống trị phong kiến trường kỳ, sau đó là ngoại tộc cướp bóc và chiến tranh quân phiệt, Trung Quốc trở nên hoang phế. Khi chiến tranh Bắc phạt mà Tưởng Giới Thạch lãnh đạo vừa mới thành công, quốc gia đang cất bước phát triển, chính quyền Quốc Dân Đảng đang củng cố địa vị thống trị, thì thế lực đen tối của đảng cộng sản đã ngấm ngầm phát triển lớn mạnh. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây có ý là chấm nhỏ, ám chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản. Ba chữ “Ki Đẩu ẩn” đã chỉ rõ sự thật lịch sử khi đảng cộng sản thừa cơ loạn trong giặc ngoài để ngấm ngầm phát triển thực lực. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu” (Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển): “Kim Ô” là một tên gọi khác của Thái Dương (mặt trời) vào thời cổ đại, ở đây ám chỉ Nhật Bản, vốn tự xưng là đất nước mặt trời mọc. Toàn bộ câu này chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II, xâm lược Trung Quốc, rồi cuối cùng chịu vận mệnh chiến bại đầu hàng.

Tiết 7

Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.

Tạm dịch:

Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.

Sau khi trải qua nội chiến Quốc-cộng, Trung Quốc Đại Lục và Đài Loan xuất hiện cục diện đối lập, chia nhau để trị; “Vân vụ thương mang các nhất thiên” (Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm) chính là đảng cộng sản và Quốc Dân Đảng trải qua một cuộc nội chiến kinh thiên động địa. Ba câu thơ sau là chỉ cục diện bất ổn của Trung Quốc Đại Lục dưới sự thống trị của đảng cộng sản. “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” (Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh) là chỉ bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo” (Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây) là chỉ vào đầu những năm 50, Trung Quốc và Mỹ quốc đụng độ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên; sau đó, vào đầu những năm 60, Trung Quốc bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. Tại phương Bắc, Liên Xô từ những năm 50 đã bất hòa với Trung Cộng, một mực uy hiếp Trung Quốc, hai bên từng bùng phát chiến tranh Trân Bảo đảo, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ biên cương trong cả mấy chục năm. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền” (Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt): Chiếu theo cách nói “Bắc Hồ Nam Man”, thì “Hồ nhi” ở đây chỉ đích thị Liên Xô.

Tiết 8

Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai thu sắc tại Trường An.

Tạm dịch:

Như ván cờ mới rơi vào thế tàn,
Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn,
Con báo chết còn lưu lại bộ da,
Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An.

“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”, đại ý là cục diện thế giới cũng tựa như một ván cờ vậy, ở đây chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với cộng sản quốc tế, hay “Cộng tề hòa trung” trong bài thơ mà nói, thì là lâm vào đại kiếp nạn. “Báo tử do lưu bì nhất tập” (Con báo chết còn lưu lại bộ da): Con báo là chỉ Liên Xô cũ. Bản đồ Liên Xô cũ trông như một con báo đang chạy. Con báo, tức Liên Xô cũ đã tan rã rồi, hệ thống cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cả những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An” (Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An): Trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.

Tiết 9

Hỏa long trập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.

Tạm dịch:

Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn,
Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về,
Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu.

“Hỏa long trập khởi Yên Môn thu” (Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn): “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. “Trập khởi”, chính là từ cơn ngủ đông mà thức tỉnh. “Yên Môn” chỉ Thiên An Môn ở Bắc Kinh. Chữ “thu” ở đây có ý là đau buồn, chết chóc. Đây là ẩn dụ về sự kiện “Lục Tứ” (ngày 4/6). Năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn để ủng hộ dân chủ và phản đối tham nhũng của quan chức, sau đó chịu thảm sát tàn khốc. Trung Cộng cũng giống như một con ác long tỉnh dậy từ giấc ngủ đông, hiện xuất bản tính, khai đao chém giết, tạo thành thảm án Thiên An Môn chấn động trong và ngoài nước. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu” (Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về): “Nguyên bích” ngầm chỉ Trung Quốc với lịch sử 5.000 năm, “ưng nạn” là nói Trung Quốc sẽ gặp phải kiếp nạn này. “Triệu thị thu” (họ Triệu thu về) là chỉ Triệu Tử Dương, Tổng Bí thư Trung Cộng thời bấy giờ, vì sự kiện “Lục Tứ” mà bị đàn áp.

Còn mấy câu sau đây, nếu như không nhìn tổng quát toàn bộ chủ thể bài thơ, không thông hiểu chuyện tu luyện, thì rất khó lý giải được. Rất nhiều người đã từng thử giải mấy câu này, tuy nhiên đều cảm thấy lực bất tòng tâm. Trên thực tế, không hiểu tu luyện, không có tầm nhìn rộng lớn thì rất khó lý giải được hàm nghĩa mấy câu thơ này.

Xem lại cẩn thận câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, thì nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ. Tại Trung Quốc, đất nước trung tâm của thế giới này, từ những năm 70 của thế kỷ trước, bỗng nhiên xuất hiện trào lưu khí công. Công pháp các môn, các phái nhộn nhịp truyền xuất, có thể nói là trăm hoa nở đẹp, đua nhau khoe sắc. Có công pháp Phật gia, công pháp Đạo gia, còn có các loại khí công dân gian, đều từ bí ẩn trường kỳ mà truyền ra, công khai truyền thụ tại xã hội. Số người luyện khí công, theo thống kê từ phía chính phủ là hơn 100 triệu người, xuyên suốt các giai tầng xã hội. Đây không chỉ là điều chưa từng chứng kiến trong văn minh Trung Quốc 5.000 năm, mà còn là chưa từng có tiền lệ trong văn minh nhân loại. Người ta chưa từng nghĩ tới vì sao Trung Quốc khi ấy lại xuất hiện trào lưu khí công như vậy. Hết thảy liệu có thể là ngẫu nhiên chăng? Lịch sử, thực ra là chiểu theo kịch bản được định trước mà diễn xuất, theo cách người ta không tự biết. Trào lưu khí công này đã đả khai sự cầm cố tư tưởng từ chốn sâu thẳm nhất của con người, khiến con người đối với các khái niệm như khí công, tu luyện và công năng đặc dị, thì từ chưa từng nghe qua cho tới quen thuộc, đều có nhận thức hoặc ít hoặc nhiều. Điều này vô hình trung đã trải đường cho sự hồng truyền của Đại Pháp tu luyện chân chính, để sẵn đoạn mở bài.

Cuối cùng, năm 1992, khi trào lưu khí công bắt đầu lắng xuống, các môn phái theo nhau rút lui, thì ông Lý Hồng Chí bắt đầu công khai truyền thụ Pháp Luân Công, còn gọi là Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp. Vậy là tấm màn tối hậu và cũng là xuất sắc nhất của lịch sử văn minh nhân loại lần này cuối cùng đã được vén mở ra. Ông Lý Hồng Chí, ngay từ khi bắt đầu, đã lập ý cao xa, khác hẳn với số đông. Ông công khai chỉ rõ: Sự truyền xuất Pháp Luân Công chính là “Chân chính đưa con người lên cao tầng“. Ông giảng: “Tôi nói cho mọi người rằng, [pháp môn] chúng ta là tu luyện Đại Pháp của Phật gia, vậy đương nhiên là tu Phật…”; “Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản“. Càng khiến người ta kinh ngạc hơn nữa, đó là ông hoàn toàn tự tin chỉ rõ: “Cả trong ngoài nước hiện nay, về việc truyền công lên cao tầng một cách chân chính, thì chỉ có mình cá nhân tôi đang làm“; “tất cả lý luận từ xưa tới nay không thể lại khiến nhân tâm trở về thời kỳ tốt nhất nữa, nhưng thực tiễn tôi truyền bộ Đại Pháp căn bản của vũ trụ này đã chứng minh có thể khiến con người viên mãn“. Vậy là chỉ trong vòng có mấy năm ngắn ngủi, dưới sự khuyến khích của chính phủ, và trong điều kiện không có tuyên truyền quy mô lớn nào, sau khi trải qua tai họa tinh thần lớn trong Cách mạng Văn hóa, giữa những người Trung Quốc đánh mất tín ngưỡng tinh thần, Pháp Luân Công đã lấy phương thức người truyền người, tâm truyền tâm để nhanh chóng phổ biến khắp Trung Hoa Đại Địa, thậm chí còn vượt qua đại dương, truyền tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. “Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ” (Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ) chính là lời biểu thuật chân thực về sự kiện lịch sử này. Trước ngày 20/7/1999, cũng là trước khi Trung Cộng và Giang Trạch Dân bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc Đại Lục, đến đâu cũng đều gặp đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, đến đâu cũng đều có thể thấy đồ hình Pháp Luân “như hình bông hoa đẹp”, đây chính là “nhất viện kỳ hoa”. “Xuân hữu chủ” là chỉ vào mùa Xuân một năm nào đó, đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ của họ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính.

Hành động trấn áp của tập đoàn Giang Trạch Dân đối với Pháp Luân Công là tàn khốc đến mức xưa nay chưa từng có. Trong lịch sử nhân loại, xưa nay chưa hề có chính phủ nào tiến hành trấn áp tàn bạo điên cuồng như vậy đối với một đoàn thể gồm toàn những người tay không tấc sắt, không có tham vọng chính trị nào, mà chỉ muốn có được thân thể khỏe mạnh và sự đề cao cảnh giới tinh thần. Trong cuộc đàn áp này, tập đoàn Giang Trạch Dân đã áp dụng cách thức trong thời Cách mạng Văn hóa đối với các học viên Pháp Luân Công, huy động toàn bộ bộ máy quốc gia, dùng cạn các loại âm mưu và thủ đoạn. Có thể nói là mưa to, gió lớn, đêm đen, cũng chính là “liên tiêu phong vũ” (mưa gió suốt đêm). Bất chấp cuộc bức hại tàn khốc chưa từng có, các học viên Pháp Luân Công vẫn ngày càng kiên cường. Một quần thể trông như những người luyện công phổ thông này, giữa cuộc bức hại như mưa gió bão bùng này, càng biểu hiện kiên định đến kinh ngạc và tinh thần bất khuất. Chúng ta đã nhìn thấy vô số đệ tử Pháp Luân Công không ngại sinh tử, đi lên Thiên An Môn, chỉ để nói một câu “Pháp Luân Đại Pháp hảo” hướng về quốc gia và chính phủ của họ. Chúng ta đã nhìn thấy vô số đệ tử Pháp Luân Công không ngại nguy hiểm, bước đi trên phố, chỉ để nói với đồng bào của họ chân tướng về Pháp Luân Công và sự tà ác của cuộc bức hại. Chúng ta đã nhìn thấy các học viên Pháp Luân Công toàn thế giới, đoàn kết một lòng, có mặt khắp nơi, dùng các loại phương thức để tìm cầu sự ủng hộ chính nghĩa, đồng thời thức tỉnh lương tri con người. Cuối cùng, con người đã bị sự chân thành ấy làm cảm động, ngày càng nhiều người hơn đã ý thức được sự tà ác của cuộc bức hại, và bắt đầu ủng hộ Pháp Luân Công. Cuối cùng, con người đã bị sự thiện lương ấy làm cảm động, các học viên Pháp Luân Công khi bị cảnh sát lăng nhục vẫn chủ động mở ô che cho cảnh sát, khiến cảnh sát cảm động phát khóc. Cuối cùng, con người đã bị sự kiên nhẫn và ôn hòa ấy làm cảm động, rất nhiều chính phủ quốc gia và dư luận quốc tế đã cùng lên tiếng khiển trách cuộc bức hại phát sinh tại Trung Quốc này. Dùng nhãn quan lịch sử vĩ mô mà xét, thì bất luận tà ác điên cuồng thế nào, mùa Đông lạnh lẽo ra sao, đêm đen kéo dài bao lâu, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng tà ác, mùa Xuân cuối cùng sẽ xua tan ngày Đông giá rét, ánh sáng cuối cùng sẽ tràn ngập đêm đen, tinh thần “Chân-Thiện-Nhẫn” bất diệt cuối cùng sẽ thắng lợi, đây chính là “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu” (Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu).

Tiết 10

Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

Tạm dịch:

Số điểm hoa mai trời đất là xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa.
Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách.

“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân” (Số điểm hoa mai trời đất là xuân): Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa Đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Chính Pháp truyền biến khắp thế gian. Thiên Địa hồi sinh, vạn vật quy chính. Tới đây, hai câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” (Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về) vậy là rõ rồi. Trên thế giới, vô luận là tu luyện môn nào, Phật gia cũng vậy, Đạo gia cũng vậy, tôn giáo Tây phương cũng vậy, đều giảng con người đến từ thiên thượng, bởi vậy mục đích tu luyện chính là phản bổn quy chân, trở về thiên quốc. Kỳ thực, rất nhiều người đều là đến từ nơi tốt đẹp phi thường, chính là để có thể dung luyện trong bộ Đại Pháp này. Lịch sử toàn nhân loại chính là được an bài cho lần hồng truyền Đại Pháp này. Tuy nhiên, bao nhiêu người đã tới đây để chờ đợi Pháp, bao nhiêu người có thể đắc Pháp để viên mãn quy vị? Có bao nhiêu người đã bị cõi hồng trần này mê hoặc mà quên mất bản nguyện tự kỷ, vĩnh viễn bị chôn vùi tại cõi người nơi đây, không có cách nào trở về sự thánh khiết và huy hoàng ban đầu? Vở kịch lớn này vẫn còn đang diễn ra sôi nổi trên địa cầu, trong đó mỗi cá nhân chúng ta vừa là khán giả, vừa là diễn viên. Bộ phim này nên chăng cũng là một vở kịch trong vở kịch lớn, khiến rất nhiều người xem đột nhiên minh bạch vai của mình, từ đó không mê hoặc nữa, cũng như tiếng gọi từ chốn sâu thẳm nhất của tâm linh mà chúng ta đang chờ đợi…

“Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” (Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa): Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như chuyển luân (bánh xe xoay chuyển), có nhân trước tất có quả sau. “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” cũng là hỏi rằng sự tuần hoàn vãng phục của lịch sử này rốt cuộc là vì điều gì? “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật” có ý là trong cõi hoàn vũ bát ngát bao la này tự nhiên thừa hưởng “ngày thái bình”. “Tứ hải vi gia thục chủ tân” (Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách) là chỉ từ năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí bước ra truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân” (hỏi ai chủ khách), là muốn hỏi: Trong đại vũ đài lịch sử của nhân loại này, ai là vai chính, ai là vai phụ? Chẳng phải hết thảy đều theo kịch bản sớm được định trước mà diễn hay sao? Văn minh nhân loại lần này chính là vì sự hồng truyền của Đại Pháp vũ trụ mà được tạo ra, vì Đại Pháp mà khai sáng. Đây cũng chính là chủ đề của toàn bộ dự ngôn này.

* * *

Lời bài hát:

(Hán Việt)

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Du du thanh sử đa thiểu sự,
Bất tri nhân sinh thị hí đài.
Chân kim na phạ lô hỏa luyện,
Trọc thế nê lý đính thanh liên.
Mạn thiên phong tuyết ngạo chi mai,
Vi đắc chân Pháp nhẫn vạn thiên.

Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Na lai mai hoa phác tỵ hương.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

(Tạm dịch)

Từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Mấy người đến mấy người trở về?
Sử xanh đằng đẵng bao nhiêu chuyện,
Đâu biết nhân sinh là đài diễn.
Vàng thật nào sợ nung trong lửa,
Đóa sen tinh khiết giữa bùn dơ.
Khắp trời hoa mai ngạo sương tuyết,
Để đắc chân Pháp nhẫn vô bờ.

Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Khó biết hoa mai tỏa mùi hương.
Một vườn hoa đẹp xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm chẳng sầu thương.
Số điểm hoa mai trời đất xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân.
Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ,
Bốn biển là nhà ai chính-phụ.

(Hết)

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/10681
http://asp.fgmtv.org/ProgramDetail.asp?NewsID=1137&OtherInfo=1

The post Video: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» của Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/02/video-du-ngon-mai-hoa-thi-cua-trung-quoc.html/feed0
Diễn tấu sáo trúc: “Số điểm mai hoa Thiên Địa xuân”https://chanhkien.org/2012/02/dien-tau-sao-truc-so-diem-mai-hoa-thien-dia-xuan.htmlhttps://chanhkien.org/2012/02/dien-tau-sao-truc-so-diem-mai-hoa-thien-dia-xuan.html#respondWed, 01 Feb 2012 08:09:52 +0000https://chanhkien.org/?p=15891[Chanhkien.org] Sáng tác: Đệ tử Đại PhápDiễn tấu: Kỷ VũĐộ dài: 3 phút 28Nhạc phổ: [.jpg] Nghe Online (Real) | Download (Real) Download Mp3: http://media.zhengjian.org/media/2003/02/20/shudianmeihuabiandichun.mp3 Dịch từ: http://www2.zhengjian.org/music/Yuequchaungzuo/minzulequ/guzheng/2003/0219/20508.html

The post Diễn tấu sáo trúc: “Số điểm mai hoa Thiên Địa xuân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org]

Sáng tác: Đệ tử Đại Pháp
Diễn tấu: Kỷ Vũ
Độ dài: 3 phút 28
Nhạc phổ: [.jpg]

Nghe Online (Real) | Download (Real)

Download Mp3: http://media.zhengjian.org/media/2003/02/20/shudianmeihuabiandichun.mp3

Dịch từ:

http://www2.zhengjian.org/music/Yuequchaungzuo/minzulequ/guzheng/2003/0219/20508.html

The post Diễn tấu sáo trúc: “Số điểm mai hoa Thiên Địa xuân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/02/dien-tau-sao-truc-so-diem-mai-hoa-thien-dia-xuan.html/feed0
Ca khúc chính dự ngôn “Mai Hoa Thi”https://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-chinh-du-ngon-mai-hoa-thi.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-chinh-du-ngon-mai-hoa-thi.html#respondWed, 25 Jan 2012 06:43:59 +0000https://chanhkien.org/?p=15897Thiết kế bìa đĩa VCD dự ngôn «Mai Hoa Thi» [Chanhkien.org] Tác giả/Ca từ: Chính Dương Soạn nhạc: Chính Dương Diễn xướng: Chính Dương Diễn tấu: Hiểu Xuân, Carlos Campos Lời bài hát: 荡荡天门万古开,几人归去几人来。 悠悠青史多少事,不知人生是戏台。 真金哪怕炉火炼,浊世泥里挺清莲。 漫天风雪傲枝梅,为得真法忍万千。 不经一番寒彻骨,哪来梅花扑鼻香。 一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。 数点梅花天地春,欲将剥复问前因。 寰中自有承平日,四海为家孰主宾。 (Hán Việt) Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ […]

The post Ca khúc chính dự ngôn “Mai Hoa Thi” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Thiết kế bìa đĩa VCD dự ngôn «Mai Hoa Thi»

[Chanhkien.org]

Tác giả/Ca từ: Chính Dương
Soạn nhạc: Chính Dương
Diễn xướng: Chính Dương
Diễn tấu: Hiểu Xuân, Carlos Campos

Lời bài hát:

荡荡天门万古开,几人归去几人来。
悠悠青史多少事,不知人生是戏台。
真金哪怕炉火炼,浊世泥里挺清莲。
漫天风雪傲枝梅,为得真法忍万千。

不经一番寒彻骨,哪来梅花扑鼻香。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。
数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。

(Hán Việt)

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Du du thanh sử đa thiểu sự,
Bất tri nhân sinh thị hí đài.
Chân kim na phạ lô hỏa luyện,
Trọc thế nê lý đính thanh liên.
Mạn thiên phong tuyết ngạo chi mai,
Vi đắc chân Pháp nhẫn vạn thiên.

Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Na lai mai hoa phác tỵ hương.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

(Tạm dịch)

Từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Mấy người đến mấy người trở về?
Sử xanh đằng đẵng bao nhiêu chuyện,
Đâu biết nhân sinh là đài diễn.
Vàng thật nào sợ nung trong lửa,
Đóa sen tinh khiết giữa bùn dơ.
Khắp trời hoa mai ngạo sương tuyết,
Để đắc chân Pháp nhẫn vô bờ.

Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Khó biết hoa mai tỏa mùi hương.
Một vườn hoa đẹp xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm chẳng sầu thương.
Số điểm hoa mai trời đất xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân.
Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ,
Bốn biển là nhà ai chính-phụ.

Nhạc phổ: Giản phổ | Phổ khuông nhạc

Nghe Online (Real) | Download (Real) | Download Mp3

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/99607

The post Ca khúc chính dự ngôn “Mai Hoa Thi” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/ca-khuc-chinh-du-ngon-mai-hoa-thi.html/feed0
Nhạc chủ đề dự ngôn “Mai Hoa Thi”https://chanhkien.org/2012/01/nhac-chu-de-du-ngon-mai-hoa-thi.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/nhac-chu-de-du-ngon-mai-hoa-thi.html#respondWed, 25 Jan 2012 06:42:43 +0000https://chanhkien.org/?p=15887Thiết kế bìa đĩa VCD dự ngôn «Mai Hoa Thi» [Chanhkien.org] Tác giả: Chính Dương Soạn nhạc: Chính Dương Nhạc phổ: Giản phổ | Phổ khuông nhạc Nghe Online (Real) | Download (Real) | Download Mp3 Dịch từ: http://www2.zhengjian.org/music/Yuequchaungzuo/xiyanglequ/jianpan/2002/0627/24760.html

The post Nhạc chủ đề dự ngôn “Mai Hoa Thi” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Thiết kế bìa đĩa VCD dự ngôn «Mai Hoa Thi»

[Chanhkien.org]

Tác giả: Chính Dương
Soạn nhạc: Chính Dương
Nhạc phổ: Giản phổ | Phổ khuông nhạc

Nghe Online (Real) | Download (Real) | Download Mp3

Dịch từ:

http://www2.zhengjian.org/music/Yuequchaungzuo/xiyanglequ/jianpan/2002/0627/24760.html

The post Nhạc chủ đề dự ngôn “Mai Hoa Thi” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/nhac-chu-de-du-ngon-mai-hoa-thi.html/feed0
Phim: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tốnghttps://chanhkien.org/2012/01/phim-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-bac-tong.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/phim-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-bac-tong.html#respondSun, 22 Jan 2012 05:53:09 +0000https://chanhkien.org/?p=15866Tuy nhiên, giữa cõi trần thế náo nhiệt ồn ã này, bỗng chốc vang lên một thanh âm siêu nhiên, âm lượng nhẹ nhàng mà kiên định; nó là âm thanh ngoài trần thế, chỉ điểm bến mê.

The post Phim: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Thiết kế bìa đĩa VCD dự ngôn «Mai Hoa Thi»

[Chanhkien.org]

Real độ phân giải thấp

Xem trực tuyến (52 phút 7 giây) | Download (13,4 MB)

Real độ phân giải cao

Xem trực tuyến (52 phút 7 giây) | Download (84,7 MB)

Phương pháp download: Click chuột phải -> Save Target as…

◇◇◇ ◇◇◇

Lời thuyết minh:

Đứng bên bờ sông Trường Giang, ngắm nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về Đông, một đi không trở lại… 2.500 năm trước, Khổng Phu Tử cảm thán: “Thời gian như dòng nước! Trôi không quản ngày đêm”. 1.500 năm sau, Tô Đông Pha đứng trước cơn sóng lớn Trường Giang mà phiền muộn: “Sông lớn cuồn cuộn chảy về Đông, Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng”. Sông Trường Giang này, tưởng như vô tình. Mấy trăm năm, mấy nghìn năm, vẫn chảy xiết về phía trước không do dự. Đúng là nó đã đi theo dòng chảy suốt lịch sử nhân loại, chứng kiến tất cả thiện-ác, trung-gian, ái-hận, tình-sầu; biết bao vui buồn ly hợp, thế sự đổi thay. Vừa mới Hán Sở tranh hùng, đã tới Tam Quốc diễn nghĩa; rồi mới có Trinh Quán thịnh trị, sau đó là quý phi túy tửu; có Nhạc Phi tinh trung báo quốc, cũng có Tần Cối âm hiểm độc ác; có Thành Cát Tư Hãn xưng bá thiên hạ, cũng có ngày lễ của Hoàng đế Vĩnh Lạc triều Minh; thế mới có Khang Hy thịnh thế, sau đó là Nha Phiến quốc sỉ; âm hồn trong cuộc thảm sát Thiên An Môn còn chưa tan hết, đã đến cuộc thỉnh nguyện bi tráng của Pháp Luân Công,…

Lịch sử, nếu xem trong một thời-không ngưng đọng, thì cũng như một vở kịch, với trời làm màn, đất là đài, ngày đêm không ngừng xoay vần mà diễn biến. Các nhân vật trong vở kịch này, bất luận là anh hùng đội trời đạp đất, thét mây hô gió như thế nào, thì đều trôi dạt trong cõi hồng trần cuồn cuộn. Liệu ai có thể thực sự làm chủ vận mệnh của chính mình?

Tài năng kinh thiên động địa, tấm lòng cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, cũng không thực hiện được chí lớn khôi phục Hán thất. Tài trí mưu lược, chí khí ngút trời như Nhạc Phi, cũng chỉ có thể để lại nỗi buồn vô hạn dưới đình Phong Ba. Thị phi thành bại theo dòng nước, Sừng sững cơ đồ bỗng tay không! Giữa dòng sông lớn lịch sử này, rốt cuộc là ai làm chủ? Dòng chảy lịch sử vĩ đại này rốt cuộc có chủ đề và kịch bản hay không?

Tuy nhiên, giữa cõi trần thế náo nhiệt ồn ã này, bỗng chốc vang lên một thanh âm siêu nhiên, âm lượng nhẹ nhàng mà kiên định; nó là âm thanh ngoài trần thế, chỉ điểm bến mê. Nó thời thời khắc khắc cảnh tỉnh thế nhân: Mang mang Thiên số đã sớm định trước, Thế Đạo hưng suy bất tự do vậy. Nó chính là một dự ngôn lưu danh thiên cổ. «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung thời Bắc Tống chính là một khúc thanh âm như vậy. Từ hơn 1.000 năm trước, nó đã chỉ điểm chỗ mê cho chúng sinh, giảng rõ khúc chủ đề nhấp nhô trầm bổng. Chúng ta hãy tĩnh tâm lắng nghe và thưởng thức bài thơ «Mai Hoa Thi» này.

*   *   *

Để hiểu được «Mai Hoa Thi», thì không thể không tìm hiểu về kỳ nhân Thiệu Ung. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông, tức năm 1011 SCN, mất năm thứ 10 Tống Thần Tông, tức năm 1077 SCN, hưởng thọ 67 tuổi. Ông sinh ra tại Phạm Dương, Hà Bắc, sau theo cha di cư tới Cộng Thành, cuối đời ẩn cư tại Lạc Dương. Thiệu Ung, tuy không phải là “nhà nhà đều biết” như Gia Cát Khổng Minh, nhưng xét về tài năng và phẩm đức, thì cũng không thua gì Gia Cát Lượng. Chẳng qua, ông trường kỳ ẩn cư, tên tuổi không được người đời sau biết đến nhiều. Trình Hạo, một trong những ông tổ của Lý học triều Tống từng ca ngợi Thiệu Ung như sau: “Nghiêu Phu, ấy là bậc thầy về cái học của nội Thánh ngoại Vương vậy!”

Thuở thiếu thời, Thiệu Ung đã ôm ấp chí lớn, nỗ lực khắc khổ đọc sách, không có sách nào là chưa đọc. Theo “Thiệu Ung truyện” trong sử triều Tống thì: Thiệu Ung “ban đầu học, sau chịu đựng gian khổ, lạnh không có lò sưởi, nóng không có quạt mát, đêm tối cũng không có một tấm chiếu để nằm trong mấy năm”. Sau đó, để tăng cường kiến thức, ông còn du học tứ phương, vượt Hoàng Hà, qua Phần Hà, lội Hoài Thủy, vượt Hán Thủy, qua các đất Tề, Lỗ, Tống, Trịnh, v.v. Sau khi trở về, ông nói “Đạo là đây rồi”, sau đó không vân du nữa. Bấy giờ có cao nhân Lý Đỉnh Chi, thấy ông ham học không biết mệt mỏi, mới truyền thụ cho ông “Hà Đồ”, “Lạc Thư”, “Phục Hy Bát quái” và các bí quyết Dịch học khác. Thiệu Ung thông minh tài trí, thông hiểu đạo lý, tự học tự đắc, cuối cùng trở thành một bậc thầy về Dịch học, một nhà Nho nổi tiếng xa gần. Ông hình thành cho mình một vũ trụ quan độc đáo mà hoàn chỉnh, các quy luật vận hóa của Thiên Địa, biến hóa của Âm Dương đều nắm trong lòng bàn tay. “Tống sử” cũng ghi lại như sau: Ông đối với “thế sự cổ kim xa gần, thậm chí tính nết của cây cỏ chim muông” thì đều có thể “thông suốt”, thậm chí “hiểu được suy nghĩ người khác, biết trước việc chưa xảy ra”. Trình Di, một ông tổ khác của Lý học Bắc Tống nói: Thiệu Ung “tấm lòng vừa trống vừa sáng, mà có thể biết tất cả”. Sau đó, Thiệu Ung viết các trước tác «Hoàng Cực kinh thế», «Quan vật nội ngoại thiên», v.v. tổng cộng hơn 1 vạn chữ. Ông cho rằng lịch sử là chiểu theo định số mà diễn hóa. Ông dùng Tiên thiên Dịch số của mình, cũng như các khái niệm nguyên, hội, vận, thế, v.v. để suy luận diễn hóa của Trời Đất và tuần hoàn của lịch sử. Các tác phẩm Dịch học có ảnh hưởng rất lớn với đời sau như «Thiết Bản thần số», «Mai Hoa tâm dịch», đều là của Thiệu Ung. Người đời sau tôn xưng ông là “Thiệu Tử”. Thời trung niên, ông không màng danh lợi, ẩn cư tại Lạc Dương, viết sách dạy học. Các học sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Phú Bật, Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, v.v. đều rất kính trọng ông. Họ từng góp tiền mua cho ông một khu vườn, gọi là “An Lạc Oa”, do vậy Thiệu Ung còn có tự hiệu là “An Lạc tiên sinh”. Ông không chỉ thông hiểu cổ kim, tài năng cái thế, mà còn phẩm đức đôn hậu, đãi người chân thành. Điều này khiến ông nức danh xa gần, đi đâu cũng được người ta tranh nhau mời lưu lại, có người còn gọi nơi Thiệu Ung từng nghỉ lại là “Hành Oa”. Uy vọng của ông trong tâm người đời là rất lớn. Ngày nay, người hiểu rõ Thiệu Ung và các tác phẩm của ông quả thực là không nhiều. Tuy nhiên trong dân gian vẫn lưu truyền một số lời răn của ông. Ví như, người ta thường nói: “Nhất niên chi tế tại vu xuân, Nhất thiên chi tế tại vu thần, Nhất sinh chi tế tại vu cần” (Ranh giới một năm là mùa Xuân, Ranh giới một ngày là bình minh, Ranh giới một đời là chuyên cần), ấy là xuất phát từ Thiệu Ung. Thiệu Ung còn có tài tiên tri tiên liệu, lưu lại hậu thế một dự ngôn chuẩn xác đến kinh người, một kiệt tác truyền đời của ông — «Mai Hoa Thi», tiên tri về những diễn biến lịch sử trọng đại phát sinh tại Trung Quốc sau khi ông mất. Tất nhiên, «Mai Hoa Thi» cũng như các dự ngôn khác, dùng ngôn ngữ rất kín đáo ẩn dụ, không dễ mà lý giải. Có một bộ phận, nếu như không phải là người tu luyện thông hiểu Phật lý Đạo học, thì khó mà hiểu được. Toàn bộ bài thơ có thể được chia làm 10 tiết nhỏ, sau đây chúng ta sẽ cùng nhau khám phá chi tiết:

Tiết 1

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.

Tạm dịch:

Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa.

Hai câu “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai”, từ ý nghĩa bề mặt mà xét thì: Cánh cổng thông lên bầu trời mênh mang từ vạn cổ nay đã khai mở lần đầu tiên. Biết bao người đã đến nhân gian, biết bao người có thể quay về? Tuy nhiên, hai câu này thực sự là chỉ điều gì? Chỉ xem một đoạn này thôi thì chưa rõ, phải xem toàn bài xong thì chân tướng mới đại bạch. Chẳng qua, từ hai câu đầu tiên đã có thể thấy Thiệu Ung bản lĩnh siêu phàm, lập ý cao xa, không chỉ nói với người ta tương lai sẽ phát sinh sự kiện gì, mà còn nói với chúng ta chủ đề tối hậu mà không bị lịch sử làm nhiễu. Triều Tống là một triều đại mà triều đình nhu nhược bất tài. Từ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận “dùng rượu tước binh quyền” mà lấy thiên hạ trở đi, thì triều Tống luôn áp dụng hạn chế tín nhiệm với tướng soái, kèm theo chính sách phòng ngừa thái quá, dẫn tới cục diện “binh không tướng soái, tướng không có thầy”. Triều Tống ngay từ đầu thì đã là binh lực yếu ớt, vừa dựng nước được không lâu đã phải xưng thần cống nạp cho chính quyền người Hồ ở phương Bắc. Quốc thổ phương Bắc, “Yên vân thập lục châu”, một mạch bị ngoại tộc chiếm mất, ấy chính là “Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích” (Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn). Nước Kim của tộc Nữ Chân ở phương Bắc nguyên là một dân tộc tiểu nhược, thế nhưng vào thời phát triển lớn mạnh từng liên hợp với Bắc Tống để cùng nhau lật đổ nước Liêu thời cận mạt. Tống Huy Tông dốt nát không nghe lời khuyên can của trung thần, một mực đòi kết liên minh với nước Kim, lại đồng ý đem cống phẩm mỗi năm cho nước Liêu chuyển sang nước Kim, không tin rằng nước đại “Kim” định đô tại “Hoàng” Long Phủ mới là “mầm tai họa” thực sự của triều Tống. Bởi vậy lịch sử Trung Quốc mới có “nỗi nhục Tịnh Khang” hiếm thấy, Hoàng đế Bắc Tống, cung phi, thân vương, đại thần khắp triều, toàn bộ hơn ba ngàn người sau này đều bị nước Kim lớn mạnh bắt làm nô lệ, khiến một nửa giang sơn lọt vào tay nước Kim. Đây chính là “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai”.

Tiết 2

Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.

Tạm dịch:

Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay.
Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày,
Non xanh nước biếc than ôi còn đâu.

Đến thời Nam Tống, Hoàng đế càng dốt nát bất tài hơn nữa, đành sống tạm bợ ở một nửa giang sơn vùng Giang Nam, cả ngày đắm chìm trong ca múa tửu sắc. Ngoài ra, toàn bộ dân chúng đều say sưa chán ngán, từ trên xuống dưới mê đắm trong hoan ái tình sắc, mà không nghĩ đến quyết chí tự cường. Thể thơ Tống từ có hàng vạn bài, văn nhân nhiều lời gặp thi sĩ tiếc vật thương tình, còn kẻ sĩ có thể ngẩng cao đầu thì rất hiếm. Bởi vì Nam Tống dựng đô tại Lâm An (nay là Hàng Châu), bên bờ Tây Hồ, dựa núi gần hồ, cộng thêm Hoàng đế Nam Tống ngày đêm chìm đắm trong giấc mộng say hoang dâm, nên mới gọi là “Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi”, chỉ một giấc mộng Núi, Hồ mà việc hỏng cả. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, phương Bắc có Chân Long Thiên Tử giáng sinh, triều đại mới ắt sẽ đản sinh tại phương Bắc. Khi vương triều Nam Tống còn chìm đắm trong giấc mộng say, thì Thành Cát Tư Hãn nổi lên tại phương Bắc, dốc sức vì nước, thống nhất Mông Cổ, lại cấp tốc khuếch trương bờ cõi. Sau khi nước Kim diệt vong, Mông Cổ ồ ạt xâm nhập Nam Tống. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ triều Tống sau khi trải qua hơn 300 năm (từ năm 960-1279 SCN), cuối cùng diệt vong. Năm 1276, quân Nguyên xâm nhập Lâm An, vua Tống bị bắt làm tù binh. “Trường thiên bích thủy thán di di” (Non xanh nước biếc than ôi còn đâu), là chỉ vào thời khắc diệt vong cuối cùng của triều Tống diễn ra một màn lịch sử bi tráng. Năm 1279, tàn quân Tống rơi vào bước đường cùng, chiến bại không còn lối thoát. Bởi không muốn bị bắt, đại thần Lục Tú Phu cõng tiểu Hoàng đế Nam Tống mới 9 tuổi nhảy xuống biển mà chết, còn đại tướng Trương Thế Kiệt đang bảo vệ Dương Thái Phi mưu đồ chạy trốn, thì bị một cơn bão lớn nhấn chìm dưới đáy đại dương.

Tiết 3

Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.

Tạm dịch:

Số nhân của Trời Đất đến một nguyên,
Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm thì càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu.

“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên” là nói niên đại tương giao của Thiên can Địa chi đã đến nguyên đầu, cũng chính là khí số thời đại mới đã đến rồi. “Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, có chữ “Hốt” (忽) là ngầm chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, còn “hưng Nguyên” là chỉ triều Nguyên hưng khởi. Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại Hãn năm 1260, đến năm 1264 (năm giáp tử) thì đăng cơ kiến lập triều Nguyên, định niên hiệu là Chí Nguyên theo nguyên niên, sau dời đô đến Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. Triều Nguyên tuy nhờ tài trí mưu lược của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt mà phát triển, nhưng sau khi Hốt Tất Liệt qua đời, thì lập tức rơi vào hỗn loạn tranh quyền đoạt vị. Truyền được 10 vị Hoàng đế từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Thuận Đế, sau khi trải qua thời huy hoàng, vương triều đoản mệnh trải dài khắp lục địa Á-Âu này cuối cùng diệt vong. Từ năm 1279 khi triều Tống diệt vong hoàn toàn đến năm 1368 triều Nguyên bị diệt, tổng cộng xấp xỉ 88 năm, đây chính là “Niên hoa nhị bát càn khôn cải” (Được tám tám năm thì càn khôn đổi). Câu “Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn” (Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu) ám chỉ thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên Hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.

Tiết 4

Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi.

Tạm dịch:

Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa.
Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường,
Nở tới hoa mận thì xuân đã qua.

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, xuất thân bần tiện, nguyên là bình dân áo vải, từng trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia quân khởi nghĩa Hồng Cân. Bởi vì kiêu dũng thiện chiến, đại hiển bản sắc anh hùng, nên từ một binh sĩ phổ thông thăng lên làm lãnh tụ, cuối cùng năm 1368 xưng Đế tại Nam Kinh. Do đó “Chu môn” giờ đây đã không còn là nhà nông đất vàng năm nào nữa. “Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải, Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa” đã tả rõ giai đoạn lịch sử này. “Phi lai yến tử tầm thường sự” (Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường) là chỉ đoạn lịch sử khi Yến vương Chu Đệ, con thứ tư của Chu Nguyên Chương hùng cứ Yên Kinh rồi đoạt ngai vàng. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, vì Thái tử mất sớm, nên đã đem Hoàng vị truyền cho Hoàng Thái tôn, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười Hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yến vương Chu Đệ đóng tại Yên Kinh tinh thông binh pháp, lập nhiều chiến công, thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế dáng vẻ mười phần thư sinh, dưới kiến nghị của mưu sĩ đã khăng khăng đòi tước bỏ Phiên vương, bãi miễn Yến vương, nên Yến vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yến vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi vị Hoàng đế, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yến vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Dưới sự cai trị của Minh Thành Tổ Chu Đệ, triều Minh trải qua thời kỳ huy hoàng toàn thịnh. Tuy nhiên sự suy bại vào những năm Minh mạt, cộng thêm những cuộc khởi nghĩa nông dân, đã khiến triều Minh rơi vào cảnh “Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi” (Nở tới hoa mận thì xuân đã qua). “Lý hoa” ở đây chính là chỉ Sấm vương Lý Tự Thành. Mùa Xuân năm 1644, Lý Tự Thành dẫn quân khởi nghĩa công chiếm Bắc Kinh, Hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn sau Tử Cấm Thành, triều Minh diệt vong, ấy chính là “xuân đã qua”.

Tiết 5

Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.

Tạm dịch:

Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi,
Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem.

Trung Quốc xưa nay vẫn có cách nói “Bắc Hồ Nam Man”. Bởi thế câu “Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An” là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Cuối triều Minh, xã hội động loạn, Lý Tự Thành vừa mới đoạt thiên hạ, còn chưa ổn định chỗ đứng. Đại tướng triều Minh Ngô Tam Quế trấn giữ vùng ven biển, xuất phát từ tư lợi đã nương tựa Mãn Thanh, sau lại dẫn quân Thanh nhập quan. Mãn Thanh thời bấy giờ mạnh mẽ cường thịnh, sau khi nhập quan thì thế như chẻ tre, thống nhất tàn cục thời Minh mạt, năm 1644 dựng đô tại Bắc Kinh, trở thành đế quốc Đại Thanh. “Tẩu Trường An” thực ra là lấy Trường An để ám chỉ Trung Quốc. Đầu triều Thanh, thế nước lớn mạnh, văn trị võ công đều vô cùng cường thịnh, trong đó hơn 100 năm là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời thịnh trị của Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là Hoàng đế Khang Hy được người đời sau tôn là “thiên cổ nhất Đế”, tài trí mưu lược, dốc sức vì nước, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, khiến bản đồ Trung Quốc không ngừng mở rộng ở mức chưa từng có. Ngoài ra, bắt đầu từ triều Thanh, Trung Quốc tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác cảng biển, cũng chính là “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”.

“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi”, có chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Chữ “Hồng” (洪) trong “Hồng thủy” chính là ám chỉ Hồng Tú Toàn. Chính phủ Mãn Thanh sau khi tiêu hao một lượng lớn nguyên khí, cuối cùng mới may mắn bình định được cuộc khởi nghĩa này. Tuy nhiên sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, tựa như những cơn hồng thủy liên tiếp cuốn sạch toàn quốc, động loạn khắp nơi. Cuối cùng năm 1911, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng trở thành đô đốc chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết lại trở thành Tổng thống, vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Bản thân danh tự của Lê Nguyên Hồng đã có sẵn một chữ “Hồng” (洪), bởi vậy mới nói “Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi”. Câu “Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán” là chỉ tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”), nơi khởi nghĩa cách mạng thành công mà xem.

Tiết 6

Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.

Tạm dịch:

Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.

“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” (Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu) là nói Trung Quốc sau khi trải qua 300 năm thống trị của ngoại tộc Mãn Thanh cuối cùng đã có hy vọng mới. “Trời Hán sáng tỏ” ở đây là chỉ hy vọng mới. “Sông Hán mùa thu” là chỉ ngày 10 tháng 10 mùa Thu năm 1911, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Trung Quốc tiến vào một thời đại hoàn toàn mới. Cũng chính là vào mùa Thu năm 1911 tại Vũ Hán lại quật khởi lần nữa. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu” (Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu) là chỉ cách mạng Dân Quốc tuy thành công, nhưng nền móng rất bất ổn định, cũng như “hoa cúc vàng tiều tụy”. Hoa cúc trong truyền thống thường được dùng để chỉ sinh linh còn non nớt. Kể từ khi Dân Quốc kiến lập, đầu tiên là Viên Thế Khải cướp đoạt chính quyền, sau đó là Trương Huân phục hồi, tiếp đó là thời quân phiệt hỗn chiến trường kỳ, bè phái cát cứ. Chính quyền Quốc Dân tựa như “hoa cúc vàng tiều tụy”, lúc nào cũng ưu sầu, nên mới nói “tổng đới sầu”. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn” (Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn): “Ánh cát tường” là chỉ quốc kỳ Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng của Trung Hoa Dân Quốc, còn “nửa thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng. Sau khi trải qua thời thống trị phong kiến trường kỳ, sau đó là ngoại tộc cướp bóc và chiến tranh quân phiệt, Trung Quốc trở nên hoang phế. Khi chiến tranh Bắc phạt mà Tưởng Giới Thạch lãnh đạo vừa mới thành công, quốc gia đang cất bước phát triển, chính quyền Quốc Dân Đảng đang củng cố địa vị thống trị, thì thế lực đen tối của đảng cộng sản đã ngấm ngầm phát triển lớn mạnh. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây có ý là chấm nhỏ, ám chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản. Ba chữ “Ki Đẩu ẩn” đã chỉ rõ sự thật lịch sử khi đảng cộng sản thừa cơ loạn trong giặc ngoài để ngấm ngầm phát triển thực lực. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu” (Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển): “Kim Ô” là một tên gọi khác của Thái Dương (mặt trời) vào thời cổ đại, ở đây ám chỉ Nhật Bản, vốn tự xưng là đất nước mặt trời mọc. Toàn bộ câu này chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II, xâm lược Trung Quốc, rồi cuối cùng chịu vận mệnh chiến bại đầu hàng.

Tiết 7

Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.

Tạm dịch:

Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.

Sau khi trải qua nội chiến Quốc-cộng, Trung Quốc Đại Lục và Đài Loan xuất hiện cục diện đối lập, chia nhau để trị; “Vân vụ thương mang các nhất thiên” (Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm) chính là đảng cộng sản và Quốc Dân Đảng trải qua một cuộc nội chiến kinh thiên động địa. Ba câu thơ sau là chỉ cục diện bất ổn của Trung Quốc Đại Lục dưới sự thống trị của đảng cộng sản. “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” (Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh) là chỉ bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo” (Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây) là chỉ vào đầu những năm 50, Trung Quốc và Mỹ quốc đụng độ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên; sau đó, vào đầu những năm 60, Trung Quốc bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. Tại phương Bắc, Liên Xô từ những năm 50 đã bất hòa với Trung Cộng, một mực uy hiếp Trung Quốc, hai bên từng bùng phát chiến tranh Trân Bảo đảo, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ biên cương trong cả mấy chục năm. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền” (Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt): Chiếu theo cách nói “Bắc Hồ Nam Man”, thì “Hồ nhi” ở đây chỉ đích thị Liên Xô.

Tiết 8

Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai thu sắc tại Trường An.

Tạm dịch:

Như ván cờ mới rơi vào thế tàn,
Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn,
Con báo chết còn lưu lại bộ da,
Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An.

“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”, đại ý là cục diện thế giới cũng tựa như một ván cờ vậy, ở đây chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với cộng sản quốc tế, hay “Cộng tề hòa trung” trong bài thơ mà nói, thì là lâm vào đại kiếp nạn. “Báo tử do lưu bì nhất tập” (Con báo chết còn lưu lại bộ da): Con báo là chỉ Liên Xô cũ. Bản đồ Liên Xô cũ trông như một con báo đang chạy. Con báo, tức Liên Xô cũ đã tan rã rồi, hệ thống cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cả những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An” (Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An): Trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.

Tiết 9

Hỏa long trập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.

Tạm dịch:

Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn,
Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về,
Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu.

“Hỏa long trập khởi Yên Môn thu” (Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn): “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. “Trập khởi”, chính là từ cơn ngủ đông mà thức tỉnh. “Yên Môn” chỉ Thiên An Môn ở Bắc Kinh. Chữ “thu” ở đây có ý là đau buồn, chết chóc. Đây là ẩn dụ về sự kiện “Lục Tứ” (ngày 4/6). Năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn để ủng hộ dân chủ và phản đối tham nhũng của quan chức, sau đó chịu thảm sát tàn khốc. Trung Cộng cũng giống như một con ác long tỉnh dậy từ giấc ngủ đông, hiện xuất bản tính, khai đao chém giết, tạo thành thảm án Thiên An Môn chấn động trong và ngoài nước. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu” (Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về): “Nguyên bích” ngầm chỉ Trung Quốc với lịch sử 5.000 năm, “ưng nạn” là nói Trung Quốc sẽ gặp phải kiếp nạn này. “Triệu thị thu” (họ Triệu thu về) là chỉ Triệu Tử Dương, Tổng Bí thư Trung Cộng thời bấy giờ, vì sự kiện “Lục Tứ” mà bị đàn áp.

Còn mấy câu sau đây, nếu như không nhìn tổng quát toàn bộ chủ thể bài thơ, không thông hiểu chuyện tu luyện, thì rất khó lý giải được. Rất nhiều người đã từng thử giải mấy câu này, tuy nhiên đều cảm thấy lực bất tòng tâm. Trên thực tế, không hiểu tu luyện, không có tầm nhìn rộng lớn thì rất khó lý giải được hàm nghĩa mấy câu thơ này.

Xem lại cẩn thận câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, thì nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ. Tại Trung Quốc, đất nước trung tâm của thế giới này, từ những năm 70 của thế kỷ trước, bỗng nhiên xuất hiện trào lưu khí công. Công pháp các môn, các phái nhộn nhịp truyền xuất, có thể nói là trăm hoa nở đẹp, đua nhau khoe sắc. Có công pháp Phật gia, công pháp Đạo gia, còn có các loại khí công dân gian, đều từ bí ẩn trường kỳ mà truyền ra, công khai truyền thụ tại xã hội. Số người luyện khí công, theo thống kê từ phía chính phủ là hơn 100 triệu người, xuyên suốt các giai tầng xã hội. Đây không chỉ là điều chưa từng chứng kiến trong văn minh Trung Quốc 5.000 năm, mà còn là chưa từng có tiền lệ trong văn minh nhân loại. Người ta chưa từng nghĩ tới vì sao Trung Quốc khi ấy lại xuất hiện trào lưu khí công như vậy. Hết thảy liệu có thể là ngẫu nhiên chăng? Lịch sử, thực ra là chiểu theo kịch bản được định trước mà diễn xuất, theo cách người ta không tự biết. Trào lưu khí công này đã đả khai sự cầm cố tư tưởng từ chốn sâu thẳm nhất của con người, khiến con người đối với các khái niệm như khí công, tu luyện và công năng đặc dị, thì từ chưa từng nghe qua cho tới quen thuộc, đều có nhận thức hoặc ít hoặc nhiều. Điều này vô hình trung đã trải đường cho sự hồng truyền của Đại Pháp tu luyện chân chính, để sẵn đoạn mở bài.

Cuối cùng, năm 1992, khi trào lưu khí công bắt đầu lắng xuống, các môn phái theo nhau rút lui, thì ông Lý Hồng Chí bắt đầu công khai truyền thụ Pháp Luân Công, còn gọi là Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp. Vậy là tấm màn tối hậu và cũng là xuất sắc nhất của lịch sử văn minh nhân loại lần này cuối cùng đã được vén mở ra. Ông Lý Hồng Chí, ngay từ khi bắt đầu, đã lập ý cao xa, khác hẳn với số đông. Ông công khai chỉ rõ: Sự truyền xuất Pháp Luân Công chính là “Chân chính đưa con người lên cao tầng“. Ông giảng: “Tôi nói cho mọi người rằng, [pháp môn] chúng ta là tu luyện Đại Pháp của Phật gia, vậy đương nhiên là tu Phật…”; “Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản“. Càng khiến người ta kinh ngạc hơn nữa, đó là ông hoàn toàn tự tin chỉ rõ: “Cả trong ngoài nước hiện nay, về việc truyền công lên cao tầng một cách chân chính, thì chỉ có mình cá nhân tôi đang làm“; “tất cả lý luận từ xưa tới nay không thể lại khiến nhân tâm trở về thời kỳ tốt nhất nữa, nhưng thực tiễn tôi truyền bộ Đại Pháp căn bản của vũ trụ này đã chứng minh có thể khiến con người viên mãn“. Vậy là chỉ trong vòng có mấy năm ngắn ngủi, dưới sự khuyến khích của chính phủ, và trong điều kiện không có tuyên truyền quy mô lớn nào, sau khi trải qua tai họa tinh thần lớn trong Cách mạng Văn hóa, giữa những người Trung Quốc đánh mất tín ngưỡng tinh thần, Pháp Luân Công đã lấy phương thức người truyền người, tâm truyền tâm để nhanh chóng phổ biến khắp Trung Hoa Đại Địa, thậm chí còn vượt qua đại dương, truyền tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. “Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ” (Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ) chính là lời biểu thuật chân thực về sự kiện lịch sử này. Trước ngày 20/7/1999, cũng là trước khi Trung Cộng và Giang Trạch Dân bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc Đại Lục, đến đâu cũng đều gặp đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, đến đâu cũng đều có thể thấy đồ hình Pháp Luân “như hình bông hoa đẹp”, đây chính là “nhất viện kỳ hoa”. “Xuân hữu chủ” là chỉ vào mùa Xuân một năm nào đó, đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ của họ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính.

Hành động trấn áp của tập đoàn Giang Trạch Dân đối với Pháp Luân Công là tàn khốc đến mức xưa nay chưa từng có. Trong lịch sử nhân loại, xưa nay chưa hề có chính phủ nào tiến hành trấn áp tàn bạo điên cuồng như vậy đối với một đoàn thể gồm toàn những người tay không tấc sắt, không có tham vọng chính trị nào, mà chỉ muốn có được thân thể khỏe mạnh và sự đề cao cảnh giới tinh thần. Trong cuộc đàn áp này, tập đoàn Giang Trạch Dân đã áp dụng cách thức trong thời Cách mạng Văn hóa đối với các học viên Pháp Luân Công, huy động toàn bộ bộ máy quốc gia, dùng cạn các loại âm mưu và thủ đoạn. Có thể nói là mưa to, gió lớn, đêm đen, cũng chính là “liên tiêu phong vũ” (mưa gió suốt đêm). Bất chấp cuộc bức hại tàn khốc chưa từng có, các học viên Pháp Luân Công vẫn ngày càng kiên cường. Một quần thể trông như những người luyện công phổ thông này, giữa cuộc bức hại như mưa gió bão bùng này, càng biểu hiện kiên định đến kinh ngạc và tinh thần bất khuất. Chúng ta đã nhìn thấy vô số đệ tử Pháp Luân Công không ngại sinh tử, đi lên Thiên An Môn, chỉ để nói một câu “Pháp Luân Đại Pháp hảo” hướng về quốc gia và chính phủ của họ. Chúng ta đã nhìn thấy vô số đệ tử Pháp Luân Công không ngại nguy hiểm, bước đi trên phố, chỉ để nói với đồng bào của họ chân tướng về Pháp Luân Công và sự tà ác của cuộc bức hại. Chúng ta đã nhìn thấy các học viên Pháp Luân Công toàn thế giới, đoàn kết một lòng, có mặt khắp nơi, dùng các loại phương thức để tìm cầu sự ủng hộ chính nghĩa, đồng thời thức tỉnh lương tri con người. Cuối cùng, con người đã bị sự chân thành ấy làm cảm động, ngày càng nhiều người hơn đã ý thức được sự tà ác của cuộc bức hại, và bắt đầu ủng hộ Pháp Luân Công. Cuối cùng, con người đã bị sự thiện lương ấy làm cảm động, các học viên Pháp Luân Công khi bị cảnh sát lăng nhục vẫn chủ động mở ô che cho cảnh sát, khiến cảnh sát cảm động phát khóc. Cuối cùng, con người đã bị sự kiên nhẫn và ôn hòa ấy làm cảm động, rất nhiều chính phủ quốc gia và dư luận quốc tế đã cùng lên tiếng khiển trách cuộc bức hại phát sinh tại Trung Quốc này. Dùng nhãn quan lịch sử vĩ mô mà xét, thì bất luận tà ác điên cuồng thế nào, mùa Đông lạnh lẽo ra sao, đêm đen kéo dài bao lâu, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng tà ác, mùa Xuân cuối cùng sẽ xua tan ngày Đông giá rét, ánh sáng cuối cùng sẽ tràn ngập đêm đen, tinh thần “Chân-Thiện-Nhẫn” bất diệt cuối cùng sẽ thắng lợi, đây chính là “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu” (Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu).

Tiết 10

Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

Tạm dịch:

Số điểm hoa mai trời đất là xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa.
Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách.

“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân” (Số điểm hoa mai trời đất là xuân): Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa Đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Chính Pháp truyền biến khắp thế gian. Thiên Địa hồi sinh, vạn vật quy chính. Tới đây, hai câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” (Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về) vậy là rõ rồi. Trên thế giới, vô luận là tu luyện môn nào, Phật gia cũng vậy, Đạo gia cũng vậy, tôn giáo Tây phương cũng vậy, đều giảng con người đến từ thiên thượng, bởi vậy mục đích tu luyện chính là phản bổn quy chân, trở về thiên quốc. Kỳ thực, rất nhiều người đều là đến từ nơi tốt đẹp phi thường, chính là để có thể dung luyện trong bộ Đại Pháp này. Lịch sử toàn nhân loại chính là được an bài cho lần hồng truyền Đại Pháp này. Tuy nhiên, bao nhiêu người đã tới đây để chờ đợi Pháp, bao nhiêu người có thể đắc Pháp để viên mãn quy vị? Có bao nhiêu người đã bị cõi hồng trần này mê hoặc mà quên mất bản nguyện tự kỷ, vĩnh viễn bị chôn vùi tại cõi người nơi đây, không có cách nào trở về sự thánh khiết và huy hoàng ban đầu? Vở kịch lớn này vẫn còn đang diễn ra sôi nổi trên địa cầu, trong đó mỗi cá nhân chúng ta vừa là khán giả, vừa là diễn viên. Bộ phim này nên chăng cũng là một vở kịch trong vở kịch lớn, khiến rất nhiều người xem đột nhiên minh bạch vai của mình, từ đó không mê hoặc nữa, cũng như tiếng gọi từ chốn sâu thẳm nhất của tâm linh mà chúng ta đang chờ đợi…

“Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” (Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa): Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như chuyển luân (bánh xe xoay chuyển), có nhân trước tất có quả sau. “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” cũng là hỏi rằng sự tuần hoàn vãng phục của lịch sử này rốt cuộc là vì điều gì? “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật” có ý là trong cõi hoàn vũ bát ngát bao la này tự nhiên thừa hưởng “ngày thái bình”. “Tứ hải vi gia thục chủ tân” (Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách) là chỉ từ năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí bước ra truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân” (hỏi ai chủ khách), là muốn hỏi: Trong đại vũ đài lịch sử của nhân loại này, ai là vai chính, ai là vai phụ? Chẳng phải hết thảy đều theo kịch bản sớm được định trước mà diễn hay sao? Văn minh nhân loại lần này chính là vì sự hồng truyền của Đại Pháp vũ trụ mà được tạo ra, vì Đại Pháp mà khai sáng. Đây cũng chính là chủ đề của toàn bộ dự ngôn này.

*   *   *

Lời bài hát:

(Hán Việt)

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Du du thanh sử đa thiểu sự,
Bất tri nhân sinh thị hí đài.
Chân kim na phạ lô hỏa luyện,
Trọc thế nê lý đính thanh liên.
Mạn thiên phong tuyết ngạo chi mai,
Vi đắc chân Pháp nhẫn vạn thiên.

Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Na lai mai hoa phác tỵ hương.
Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Số điểm mai hoa thiên địa xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

(Tạm dịch)

Từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Mấy người đến mấy người trở về?
Sử xanh đằng đẵng bao nhiêu chuyện,
Đâu biết nhân sinh là đài diễn.
Vàng thật nào sợ nung trong lửa,
Đóa sen tinh khiết giữa bùn dơ.
Khắp trời hoa mai ngạo sương tuyết,
Để đắc chân Pháp nhẫn vô bờ.

Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Khó biết hoa mai tỏa mùi hương.
Một vườn hoa đẹp xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm chẳng sầu thương.
Số điểm hoa mai trời đất xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân.
Hưởng ngày thái bình khắp hoàn vũ,
Bốn biển là nhà ai chính-phụ.

(Hết)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/25/18347.html

The post Phim: Dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/phim-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-bac-tong.html/feed0
Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Unghttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-mai-hoa-thi-cua-thieu-ung.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-mai-hoa-thi-cua-thieu-ung.html#respondTue, 12 Jul 2011 06:29:00 +0000https://chanhkien.org/?p=12554Tác giả: Đồng Tâm [Chanhkien.org] Tán Thiệu Ung «Mai Hoa Thi» Tài đức lược dữ Khổng Minh đồng, Vạn cổ «Mai Hoa» tự giải mộng. Vận hóa Âm Dương khuy Dịch lý, Thông đạt trí lự ấp Nho tông. Kim tích Thánh giả trừ mê vụ, Vãng cổ hiền nhân cảnh thế chung. Tửu tỉnh […]

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đồng Tâm

[Chanhkien.org]

Tán Thiệu Ung «Mai Hoa Thi»

Tài đức lược dữ Khổng Minh đồng,
Vạn cổ «Mai Hoa» tự giải mộng.
Vận hóa Âm Dương khuy Dịch lý,
Thông đạt trí lự ấp Nho tông.
Kim tích Thánh giả trừ mê vụ,
Vãng cổ hiền nhân cảnh thế chung.
Tửu tỉnh gia hương vô đế sự,
Duy tác «Thiết Bản» thứ hồng mông.

Tạm dịch:

Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung

Tài đức thao lược tựa Khổng Minh,
Nổi tiếng «Mai Hoa» được tôn vinh.
Biến hóa Âm Dương theo Dịch lý,
Trí tuệ Nho học thật tinh minh.
Xưa nay Thánh giả trừ mê vụ,
Vạn cổ hiền nhân cứu chúng sinh.
Tỉnh rượu về nhà như vô sự,
Duy có «Thiết Bản» hiển anh linh.

Ghi chú:

«Mai Hoa»: chỉ «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung tiên sinh triều Tống (xem thêm). «Thiết Bản»: chỉ «Thiết Bản thần toán» của Thiệu Ung tiên sinh. Dịch lý: lý biến hóa trong «Kinh Dịch». Mê vụ: sương mù dày đặc che lấp trí tuệ.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/18/69743.html

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-mai-hoa-thi-cua-thieu-ung.html/feed0
Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tốnghttps://chanhkien.org/2011/02/dich-giai-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-nha-tong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/02/dich-giai-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-nha-tong.html#respondSat, 12 Feb 2011 11:53:15 +0000https://chanhkien.org/?p=10605Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chanhkien.org] «Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác. Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm […]

The post Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org] «Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác. Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. «Mai Hoa Thi» tổng cộng có 10 kỳ, dự ngôn những diễn biến lịch sử trọng đại của Trung Quốc sau khi ông qua đời. Vì vậy tất nhiên bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiên tri, rất ẩn ý, không dễ mà lý giải cho được. Có một bộ phận là dành cho người tu luyện, người bình thường đọc quả thực không hiểu chút gì. Ở đây chỉ xin giải sơ qua, các bậc trí giả và cao nhân nếu thấy có chỗ nào không ổn kính mong chỉ giáo. Toàn bộ phần diễn nghĩa là của người dịch, chỉ để tham khảo.

(一)

荡荡天门万古开,几人归去几人来。
山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。

(Nhất)

Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.

Tạm dịch:

(Một)

Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa.

Giải:

“Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Cánh cổng trời vĩ đại từ vạn cổ tới nay mới khai mở lần đầu tiên. Biết bao nhiêu người tới nhân gian, biết bao nhiêu người có thể trở về? Ý nghĩa của hai câu này gắn kết chặt chẽ với chủ đề bài thơ, ngay lúc mở đầu đã dẫn xuất chủ đề tối hậu. Người tu luyện nhìn một cái là rõ ngay, còn người phổ thông xem không hiểu rõ được, ở đây không giải kỹ thêm nữa.

“Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.” Thời nhà Tống là lúc mà triều đình nhu nhược bất tài. Toàn bộ xã hội từ trên xuống dưới đều như vậy, đam mê ca múa vui thái bình. Đặc biệt đến thời Nam Tống thì càng cẩu thả tạm bợ, ở nửa giang sơn vùng Giang Nam mà mê đắm trong tình sắc hoan ái, thể thơ Tống từ trở thành cách văn nhân bày tỏ tình cảm luyến ái. Rốt cuộc trong lịch sử Trung Quốc có “nỗi nhục Tịnh Khang” (Tịnh Khang là niên hiệu vua Khâm Tông thời Tống, năm 1126-1127 SCN), hoàng đế Bắc Tống, cung phi, hoàng thân, cho đến khắp đại thần trong triều ba ngàn người đều bị nước Kim bắt làm nô lệ. Đến nỗi cuối cùng hoàng đế Nam Tống phải nhảy xuống biển vùi thân. Do vậy, non sông tuy tươi đẹp mà không toàn vẹn là vậy. “Kim” là chỉ tộc Nữ Chân ở phương Bắc kiến lập nước Đại Kim. “Hoàng” là phủ Hoàng Long, kinh đô nước Kim (nay là huyện Nông An, tỉnh Cát Lâm. Trung Quốc). Ở đây tiên tri về sự kiện nhà Nam Tống sống tạm bợ trong một nửa giang sơn vùng Giang Nam và người Kim xâm nhập trong lịch sử. “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai” nói về nước Kim diệt Bắc Tống, xâm phạm Nam Tống.

(二)

湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。
三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。

(Nhị)

Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.

Tạm dịch:

(Hai)

Một giấc mộng Hồ Sơn mà hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng phía Bắc bay.
Ba trăm năm hết chỉ nội một ngày,
Non xanh nước biếc than ôi còn đâu.

Giải:

“Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi”: Bởi rằng Nam Tống lập kinh đô Lâm An (nay là Hàng Châu) bên bờ Tây Hồ, hơn nữa hoàng đế Nam Tống cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, vậy mới nói “Hồ Sơn nhất mộng”. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, ở miền Bắc sinh “chân long thiên tử”, triều đại mới sinh ra ở phương Bắc. Khi binh nhà Nguyên xâm nhập Lâm An, hoàng đế bị bắt làm tù binh. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ Bắc Tống, Nam Tống trải qua ba trăm năm (từ năm 960 đến 1279 SCN) rồi cuối cùng diệt vong. “Trường thiên bích thủy thán di di”, chính là chỉ năm 1279 SCN, tàn quân nhà Tống chiến bại không còn lối thoát, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế Nam Tống Triệu Bính nhảy xuống biển mà chết, các tướng sĩ khác và hoàng phi đều gặp bão lớn rồi chìm dưới đáy đại dương.

(三)

天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。
年华二八乾坤改,看尽残花总不言。

(Tam)

Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.

Tạm dịch:

(Ba)

Số nhân của Trời Đất đến một nguyên,
Hốt gặp giáp tử thì lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm thì càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn mà vẫn không tâu.

Giải:

“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, là nói thời kỳ Thiên can Địa chi tương giao, trở lại ngọn nguồn, nhà Nguyên bắt đầu hưng thịnh. “Hốt” ở đây là chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, “hưng Nguyên” là chỉ nhà Nguyên được kiến lập. Hốt Tất Liệt năm 1260 SCN làm Đại Hãn, năm 1264 SCN (một giáp – Giáp tử) lên ngôi kiến lập triều Nguyên, lấy hiệu nước là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ vào kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý nghĩa “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. “Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn”, triều Nguyên từ Nguyên Thế Tổ truyền được 10 đời. Năm 1279 SCN, triều Tống diệt vong hoàn toàn, đến năm 1368 SCN, triều Nguyên bị diệt, tổng cộng là 88 năm, ứng với ý trong “Được tám tám năm càn khôn đổi”. Thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.

(四)
毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。
飞来燕子寻常事,开到李花春已非。

(Tứ)

Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi.

Tạm dịch:

(Bốn)

Rốt cuộc là anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cờ vàng ngày xưa.
Chim én bay đến ấy chuyện tầm thường,
Nở tới hoa mận thì xuân đã qua.

Giải:

“Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ”, tả rõ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, tuy xuất thân bần tiện (bố y – áo vải), còn trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia khởi nghĩa nông dân hồng cân quân, cuối cùng thể hiện bản sắc anh hùng, từ một binh sĩ bình thường vọt lên làm thủ lĩnh, đến năm 1368 SCN xưng đế tại Nam Kinh. Chính “Chu môn – Lầu son” ấy không còn là nhà nông đất vàng (“cờ vàng”) ngày xưa nữa. “Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi” chỉ con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Yến vương Chu Đệ hùng cứ tại Yên Kinh, bị buộc phải phát động chiến dịch công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi Vua, đúng là “nhanh như chim én”. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhường ngôi cho Hoàng Thái Tôn cháu mình, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yến vương Chu Đệ thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế vì cứ khăng khăng tước bỏ Phiên vương, đòi miễn Yến vương, nên Yến vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yến vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yến vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. “Khai đáo Lý hoa xuân dĩ phi”, ứng với năm 1644 SCN, Sấm vương Lý Tự Thành (“Lý hoa”) dẫn quân khởi nghĩa công phá kinh thành, hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn, triều Minh diệt vong (“xuân đã qua”).

(五)

胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。
洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。

(Ngũ)

Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.

Tạm dịch:

(Năm)

Kỵ mã của trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác vùng hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi lại hồng thủy khởi,
Ánh sáng trong phải hướng Hán Trung xem.

Giải:

“Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An”: Trung Quốc xưa nay vẫn nói “Bắc hồ Nam man”. Bởi thế ở đây là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh qua ải, thống nhất toàn cục thời Minh mạt. Năm 1644 lập đô tại Bắc Kinh, trờ thành đế quốc Đại Thanh. “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”: nhà Thanh ngày trước, thế nước hưng thịnh, văn trị võ công, cường thịnh phi thường, một trăm năm đầu tiên là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là hoàng đế Khang Hy, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, mở rộng bản đồ Trung Quốc ở mức chưa từng có. Ngoài ra, nhà Thanh bắt đầu tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác bến cảng, cũng chính là “hải cảnh khoan” vậy.

“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán”: Chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, mãi đến cuối cùng, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng thành đô đốc Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết trở thành Tổng thống, Vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Do đó, tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”) mà xem.

(六)

汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。
吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。

(Lục)

Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.

(Sáu)

Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.

Giải:

“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” là nói nhà Thanh hủ bại suy vong, Trung Quốc cuối cùng lại có hy vọng mới (“Hán thiên nhất bạch”), tiến nhập thời đại mới (“Hán giang thu”), ngày 10 tháng 10 năm 1911 (mùa thu), khởi nghĩa Vũ Xương kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu”, cách mạng Dân Quốc tuy thành công nhưng nền móng rất thiếu ổn định, tựa như “tiều tụy hoàng hoa”, đầy ắp nguy cơ (“tổng đới sầu”). Cũng có thể là chỉ Viên Thế Khải khôi phục ngai vàng như “tiều tụy hoàng hoa”, sớm nở tối tàn, Viên Thế Khải cuối cùng buồn rầu hối hận mà bệnh chết. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn”: “Cát diệu” là chỉ cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Quốc Dân Đảng, “bán thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng, ở Trung Quốc quân phiệt cát cứ, nội chiến liên miên, không cách nào thực hiện bình định thống nhất, chỉ đến khi Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Bắc phạt thành công mới sơ bộ đặt địa vị cho Quốc Dân Đảng. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản ngấm ngầm phát triển. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu”: Thời cổ “Kim Ô” là tên gọi khác của Thái Dương (Mặt trời), ở đây ám chỉ Nhật Bản. Cả câu là chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II rồi cuối cùng chiến bại, đầu hàng.

(七)

云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。
东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。

(Thất)

Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.

Tạm dịch:

(Bảy)

Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.

Giải:

“Vân vụ thương mang các nhất thiên”, là nói cục diện Trung Quốc và Đài Loan phân chia đối lập nhau. Ba câu sau có thể chỉ sự việc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh. Thử giải như sau: “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” dường như chỉ giải phóng quân Trung Quốc bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập ở Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo”, có thể chỉ Bắc Triều Tiên ở phương Đông và Mỹ quốc có chiến tranh, đồng thời bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền”: nước Nga ở phương Bắc luôn trực tiếp uy hiếp Trung Quốc, Trung-Nga đã từng phát sinh chiến tranh, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ nơi biên giới trong cả chục năm.

(八)

如棋世事局初残,共济和衷却大难。
豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。

(Bát)

Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai Thu sắc tại Trường An.

Tạm dịch:

(Tám)

Như ván cờ mới rơi vào thế tàn,
Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn,
Con báo chết còn lưu lại bộ da,
Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An.

Giải:

“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”: Cục diện thế giới xưa nay tựa như bàn cờ, đây là chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với đảng cộng sản mà nói là lâm vào đại kiếp nạn vậy. “Báo tử do lưu bì nhất tập”: quốc gia đứng đầu các nước cộng sản là Liên Xô tan rã, hệ thống đảng cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cà những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An”: trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là chỉ kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.

(九)

火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。

(Cửu)

Hỏa long trập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.

Tạm dịch:

(Chín)

Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn,
Nguyên bích chịu nạn, họ Triệu thu về,
Một vườn hoa đẹp, mùa xuân có chủ,
Mưa gió suốt đêm không phải ưu sầu.

Giải:

“Hỏa long trập khởi Yên Môn thu”: “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. Câu đầu tiên ẩn dụ về sự kiện “lục tứ” năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn sau đó chịu thảm sát tàn khốc. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu”: “Nguyên bích” ngầm chỉ lịch sử Trung Quốc liên tục trong 5.000 năm, phải chịu nạn này. “Triệu thị thu” là chỉ Triệu Tử Dương, vì sự kiện “lục tứ” mà bị đàn áp.

Còn mấy câu dưới đây, nếu như không theo sát toàn bộ chủ đề bài thơ, không thông hiểu việc tu luyện, thì rất khó phá giải. Trên thực tế, mấy câu dưới đây rõ ràng là ứng hợp với chủ đề của toàn dự ngôn. Xem lại câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ.

“Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ”: trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc đại lục, nơi đâu cũng có đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, nơi đâu cũng trông thấy đồ hình Pháp Luân, chính là “một vườn hoa đẹp kỳ diệu” vậy. “Xuân hữu chủ” là chỉ một năm nào đó, các đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính. “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu”: Trung Cộng đối với đệ tử Pháp Luân Công đã áp dụng thủ đoạn thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, tiến hành bức hại trên quy mô lớn, chính là “gió mưa suốt đêm” vậy. Tuy vậy Pháp Luân Công vẫn biểu hiện kiên cường phi thường, liên tục duy trì tinh thần phản bức hại, quả thực trong lịch sử xưa nay hiếm. Chỉ với loại tinh thần này, họ cuối cùng đã giành thắng lợi. Lấy nhãn quang lịch sử mà xét, vô luận tà ác có điên cuồng đến cỡ nào, mùa đông có giá rét lạnh lẽo ra sao, cuối cùng vẫn vượt qua, chính là “không cần phải lo sầu” vậy.

(十)

数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。

(Thập)

Số điểm Mai Hoa thiên địa Xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.

Tạm dịch:

(Mười)

Số điểm hoa mai trời đất là xuân,
Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa.
Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách.

Giải:

“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân”: Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Pháp Chính Nhân Gian. Vạn vật nghênh Xuân, khắp nơi đều chính. Câu này với câu ở đầu “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” – “Hỏi mấy người đến mấy người trở về” là tương quan chặt chẽ với nhau, có bao nhiêu người có thể viên mãn mà sẽ đi đâu? “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân”: Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như bánh xe xoay chuyển (chuyển luân), có nhân trước tất có quả sau. Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp mà an bài. “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”: Đây chính là ngày mà vũ trụ rộng lớn không gì sánh được tự nhiên thừa hưởng thái bình. “Tứ hải vi gia thục chủ tân”: năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh xuất hiện truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân”, ẩn dụ ai là chủ, ai là khách; trong vũ đài lịch sử ai đóng vai phụ, ai đóng vai chính, đã sớm có số định trước. Văn minh nhân loại lần này đều là vì Đại Pháp mà khai sáng, nơi đây cũng chính là trung tâm Chính Pháp của toàn vũ trụ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/7/7/13024.html

The post Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/02/dich-giai-du-ngon-mai-hoa-thi-thoi-nha-tong.html/feed0