Lưu Bá Ôn | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 10 Apr 2025 00:14:36 +0000en-UShourly1Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2012/04/pha-giai-moi-nhat-kim-lang-thap-bi-van-cua-luu-ba-on.htmlhttps://chanhkien.org/2012/04/pha-giai-moi-nhat-kim-lang-thap-bi-van-cua-luu-ba-on.html#respondSun, 22 Apr 2012 14:11:11 +0000https://chanhkien.org/?p=17752Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn).

The post Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Tử

[Chanhkien.org] “Nhị tứ bát, tam thất cửu”. Tháng 8 năm Dân Quốc thứ 24, ĐCSTQ ra “Tuyên ngôn Bát Nhất”, bắt đầu lợi dụng chiêu bài “kháng Nhật” để lừa dối tiến hành thống nhất chiến tuyến. Tháng 9 năm Dân Quốc thứ 37, ĐCSTQ phát động “chiến dịch Liêu Thẩm”, bắt đầu nội chiến toàn diện đại quy mô.

Giới thiệu: Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ 20 dưới mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh Tưởng Giới Thạch, và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Những văn tự này được viết theo hình thức thơ Trung Hoa, với những câu nói bóng gió dự báo trước những sự kiện sẽ xảy đến trong 500-600 năm sau triều Minh.

*  *  *

Sau đây là phần giải nghĩa:

Chú thích của người dịch: Chữ in đậm trong dấu ngoặc kép “” là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ in nghiêng trong dấu ngoặc đơn ( ) là diễn nghĩa của người dịch, chỉ có tác dụng tham khảo.

“Kim Lăng tháp, Kim Lăng tháp”
(Tháp Kim Lăng, Tháp Kim Lăng)

“Lưu Cơ kiến, Giới Thạch sách”
(Lưu Cơ xây, Giới Thạch phá)

Lưu Bá Ôn xây, Tưởng Giới Thạch phá.

“Sách liễu Kim Lăng tháp, Quân dân tự kỷ sát”
(Tháp Kim Lăng phá rồi, Quân dân tự giết hại lẫn nhau)

Khi tháp Kim Lăng bị phá là bắt đầu nội chiến Quốc-cộng.

“Thảo đầu tương đối thảo đầu nhân”
(Đầu cỏ đối đầu với người đầu cỏ)

“Thảo đầu” ở đây (草头) là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản; “thảo đầu nhân” (草头人) là chữ “Tưởng” (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch.

“Đáo vĩ chỉ thị bán súc quy”
(Đến đuôi chỉ là rùa co lại một nửa)

Chữ “quy” (龟) co đuôi rùa lại một nửa chính là chữ “Mao” (毛).

“Hồng thủy hoành lưu thành trạch quốc”
(Dòng nước lớn chảy tràn thành ngập lụt)

Ở đây có chữ “Trạch” (泽).

“Lộ thượng hành nhân bối hướng Tây”
(Người đi trên đường quay lưng về hướng Tây)

Chính là chữ “Đông” (东).

“Nhật xuất Đông, Nhật một Tây”
(Mặt trời mọc phía Đông, Mặt trời lặn phía Tây)

Nhật Bản xâm lược Trung Quốc.

“Gia gia hộ hộ thụ thảm thê”
(Mỗi nhà mỗi hộ đều chịu thảm thương)

“Đức tiêu diêu, Ý tiêu diêu”

Đức và Ý chiến bại đầu hàng trong chiến tranh thế giới thứ II.

“Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu”
(Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

“Hồng đầu kỳ, Đại đầu tinh”
(Cờ màu đỏ, Ngôi sao lớn)

Cờ đỏ và sao năm cánh của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

“Gia gia hộ hộ điếu linh đình”
(Mỗi nhà mỗi hộ đều không nơi nương tựa)

“Tam sơn lập túc, Ngũ tử tề vinh thăng”
(Ba ngọn núi khó đứng vững, Năm đứa con đều hưng thịnh)

Văn hóa truyền thống (Nho, Thích, Đạo) bị lật nhào, thay vào đó là cung phụng chủ nghĩa Mác-Lê (Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao).

“Tâm mang mang, Ý mang mang”
(Tâm bận rộn, Ý bận rộn)

“Thanh phong kiều sách tẩu như cuồng”
(Phong cách thanh nhã bị hủy đi như cuồng)

“Nhĩ nhất đảng thời ngã nhất đảng”
(Ngươi có đảng thì ta cũng có đảng)

Chỉ Quốc Dân Đảng và đảng cộng sản.

“Tọa cao đường, Thực cao lương”
(Ngồi nơi hội trường lớn, Ăn thức ăn cao cấp)

“Toàn bất kế cập tha nhân tang”
(Hoàn toàn không màng tới tính mạng người khác)

“Niệm bát nhân, Phù chúng vọng”
(Hai mươi tám người, Được quần chúng tín nhiệm)

“Cư nhiên ương châm thắng đao thương”
(Mặc nhiên gieo mầm mống thắng cả vũ khí)

ĐCSTQ lừa dối giành tín nhiệm của nhân dân, mặc nhiên phát triển từ nhỏ thành lớn, cuối cùng đoạt chính quyền. “Niệm” (廿) và “bát” (八) hợp thành chữ “cộng” (共).

“Tiểu tinh quang, Tế tinh quang”
(Sao nhỏ tỏa sáng, Che lấp ánh sao)

“Niệm tướng nhị nhân tẩu Bắc phương”
(Hai mươi tướng và hai người đi về phương Bắc)

ĐCSTQ thắng thế, quân Quốc Dân Đảng bại trận chạy về Đông Bắc (“Niệm” (廿) và “nhân” (人) hợp thành chữ “cộng” (共)). Chữ “tướng” (将) [jiàng] là hài âm của chữ “Tưởng” (蒋) [jiǎng].

“Khứ gia mộc, Lộ bàng hoàng”
(Rời nhà gỗ, Đường bàng hoàng)

“Đáo xứ bôn ba nhân giai báng”
(Bôn ba khắp nơi đều bị người phỉ báng)

Tưởng Giới Thạch bôn ba khắp nơi cứu nước nhưng bị ĐCSTQ gièm pha bôi nhọ.

“Đại hải lạc môn soan, Hà quảng vị vi quảng”
(Biển lớn bị chặn bởi then cửa, Sông rộng mà lại không thành rộng)

Đây là ĐCSTQ bao vây eo biển Đài Loan.

“Lương điền vạn khoảnh vô nam canh, Đại hảo tàm ti vô nữ phưởng”
(Ruộng tốt vạn khoảnh không có đàn ông canh tác, Tơ tằm rất tốt không có đàn bà xe sợi)

“Lệ nhân thiên ái tương, Nhĩ ngã hỗ tương bang”
(Phụ nữ đẹp thì được thiên vị, Ngươi và ta cùng bang trợ lẫn nhau)

Nước Mỹ trợ giúp Tưởng Giới Thạch. “Đẹp” chính là “Mỹ”.

“Tứ thủy hạnh Mộc nhật, Tam hổ sính hào cường”
(Bốn Thủy hạnh phúc ngày Mộc, Ba hổ khoe khoang ngang tàng)

Chữ “hạnh” (幸) ghép với bộ Thủy (氵) thành chữ “Trạch” (泽), chữ “nhật” (日) ghép với bộ “Mộc” (木) thành chữ “Đông” (东); “tam hổ” (三虎) là chữ “Bưu” (彪). Đây là chỉ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu.

“Bạch nhân thành uy vũ, Nhân tâm hoa điểu hoảng”
(Người da trắng thành lực lượng lớn, Nhân tâm hoảng sợ như tranh hoa và chim)

Nước Mỹ đứng ra điều đình.

“Trục thủy khứ Nam hãn, Ngoại nhi quy mẫu bang”
(Đuổi nước về đất phía Nam, Con ở ngoài quy về mẫu quốc)

Dân Quốc rút về phương Nam, trấn thủ Đài Loan (nguyên là Nhật chiếm giữ).

“Doanh hư nguyên hữu số, Thịnh suy dã hữu vô”
(Đầy hay trống nguyên đã có số phận, Thịnh suy cũng như là có hay không)

“Linh Sơn tao hạo kiếp, Liệt hỏa đảo phù đào”
(Linh Sơn gặp nạn lớn, Lửa cháy như sóng gầm)

Văn hóa Thần truyền, truyền thống Trung Hoa bắt đầu bị thuyết vô thần phá hoại.

“Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm đào bất thoát”
(Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm chạy không thoát)

“Đông phong xuy tống thảo mộc ai”
(Gió Đông thổi đi cây cỏ bi ai)

Mao Trạch Đông phát động cuộc vận động cộng sản tại Trung Quốc.

“Hồng thủy thao thiên trục nhật lai”
(Dòng nước lớn cuộn trời hàng ngày tới)

Các phong trào vận động chính trị tại Trung Quốc.

“Lục căn vị tịnh tùy ba khứ”
(Sáu căn không tịnh thì tùy theo sóng cuốn trôi)

“Chính quả năng tu vãng thiên đài”
(Có thể tu thành chính quả thì lên đài trên trời)

“Nhị tứ bát, Tam thất cửu”
(Hai bốn tám, Ba bảy chín)

Tháng 8 năm Dân Quốc thứ 24 (1935), ĐCSTQ ra “Tuyên ngôn Bát Nhất”, bắt đầu lợi dụng chiêu bài “kháng Nhật” để lừa dối tiến hành thống nhất chiến tuyến. Tháng 9 năm Dân Quốc thứ 37 (1948), ĐCSTQ phát động “chiến dịch Liêu Thẩm”, bắt đầu nội chiến toàn diện đại quy mô.

“Họa nguyên chủng kỷ cửu”
(Căn nguyên của tai họa là từ xa xưa)

“Dân tam dân thập dân tam thất”
(Dân ba dân mười dân ba bảy)

Năm Dân Quốc thứ 3 (1914), Viên Thế Khải nhậm chức; năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ĐCSTQ thành lập; năm Dân Quốc thứ 37 (1948), Dân Quốc di tản sang Đài Loan.

“Cẩm tú hà sơn hoán nhất sắc”
(Giang sơn gấm vóc đổi một màu)

Trung Quốc biến thành một màu đỏ.

“Mã bất điểm đầu thạch trầm để”
(Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy)

“Mã” (马) ở đây là chỉ “Mã Khắc Tư”, tức Marx; “thạch” (石) là chỉ “Thạch Đạt Lâm”, Trung Quốc Đại Lục phiên thành “Tư Đại Lâm”, tức Stalin. Tranh luận học thuyết Marx khiến ĐCSTQ và Stalin bằng mặt mà không bằng lòng.

“Hồng hoa khai tận hoàng hoa khai”
(Hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở)

Sau khi Stalin chết, thế lực cộng sản quốc tế giảm dần, còn ĐCSTQ dần ngẩng mặt lên.

“Tử Kim Sơn thượng mỹ nhân lai”
(Mỹ nhân đến nơi ngọn núi tía {Tử Kim Sơn là ngọn núi nổi tiếng ở Nam Kinh})

Mao Trạch Đông và nước Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao (“Mỹ nhân” ở đây chỉ người Mỹ).

“Nhất tai hoán nhất tai, Nhất hại hoán nhất hại”
(Tai họa này thay tai họa khác, Tai hại này thay tai hại khác)

ĐCSTQ hại nước hại dân.

“Thập cửu giai nhân ngũ ngũ tuế, Địa linh nhân kiệt sản tân quý”
(19 giai nhân 55 tuổi, Đất linh sinh hào kiệt mới)

“Ngũ ngũ tuế” (五五岁) ẩn chữ “Hồ” (胡), “thập cửu giai nhân” (十九佳人) ẩn chữ “Diệu” (耀), ám chỉ Hồ Diệu Bang 74 tuổi thì được giải oan.

“Anh hùng bạt tận thạch trung mao, Huyết lưu tiêu can vạn nhân hào”
(Anh hùng nhổ sạch lông trong đá, Máu chảy cọc tiêu vạn người gào)

Vạn Lý và Kiều Thạch thay nhau nhượng quyền, Giang Trạch Dân dẫm lên hài cốt sinh viên trong cuộc thảm sát Thiên An Môn để lên ngôi.

“Đầu sinh giác, Nhãn sinh quang; Thứ dân bất dụng hoảng”
(Đầu mọc sừng, mắt phóng quang; Dân đen không cần hoảng sợ)

Đây là chỉ con “thú” bảy đầu mười sừng đi lên từ biển (Thượng Hải) trong «Khải Huyền», tức Giang Trạch Dân.

“Quốc vận hưng long thời nhật đáo, Tứ thời hạ chủng thái bình lương”
(Ngày mà vận nước hưng vượng đã tới, Bốn mùa gieo hạt lương thực thái bình)

Năm 1998 là năm Hổ, sản lượng lương thực Trung Quốc đạt mức cao nhất trong lịch sử, cũng như dự ngôn «Thối Bối Đồ» nói: “Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, Bạch mễ doanh thương bất trị tiền” (Người đầu hổ gặp năm đầu hổ, Kho dư gạo trắng chẳng đáng tiền) {Giang Trạch Dân cũng sinh năm Hổ}.

“Nhất khí sát nhân thiên thiên vạn, Đại dương tàn bạo quá sài lang”
(Một khí giết người nghìn nghìn vạn, Dê lớn tàn bạo hơn lang sói)

Năm 2003 là năm con Dê, dịch bệnh SARS hoành hành khắp Trung Quốc.

“Khinh khí động sơn nhạc, Nhất tuyến thiết nan đương”
(Khí nhẹ chấn động cả núi cao, Một sợi dây sắt cũng khó mà chịu nổi)

“Nhân phùng mãnh hổ nan hồi tị, Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang”
(Người gặp hổ dữ thì khó mà tránh được, Người có phúc phận thì sống ở sơn trang)

Đây là miêu tả tập đoàn Giang Trạch Dân (thuộc Hổ) mang đến bao tai nạn cho nhân dân.

“Phồn hoa thị, Biến uông dương”
(Đô thị phồn hoa chìm trong biển nước mênh mông)

“Cao lâu các, Biến nê cương”
(Nhà lầu cao trở thành đống đổ nát trong bùn lầy)

“Phụ mẫu tử, Nan mai táng”
(Phụ mẫu chết, Khó mai táng)

“Đa nương tử, Nhân tôn giang”
(Cha mẹ chết, Con cháu vác)

“Vạn vật đồng tao kiếp, Trùng nghĩ diệc tao ương”
(Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương)

“Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ, Điểu phi dương tẩu phản gia bang”
(May được hai cành gỗ lớn chống đỡ cho lâu đài, Dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà)

“Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, Trạch cập quần sinh lạc thả khang”
(May gặp Mộc Thỏ thì được thọ, Chúng sinh vui mừng mà khỏe mạnh)

Đây là chỉ Thánh nhân xuất sinh vào năm Thỏ – Đại sư Lý Hồng Chí mang đến phúc âm cho chúng sinh (*).

“Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, Phú quý vinh hoa bách thế xương”
(Ai biết được ý tứ ở trong đó thì phú quý vinh hoa thịnh vượng trăm đời)

“Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, Xa thủy mã long cánh tịch hiêu”
(Nhà lầu chọc trời lớp lớp tới tận mây xanh, Giao thông nhộn nhịp càng ầm ĩ về đêm)

“Thiển thủy lý ngư chung hữu nạn, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu”
(Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

Dân Quốc thành lập năm 1912, đến năm 2012 là tròn 100 năm. Đây là hồi kết.

Ghi chú:

(*) Trong thơ dự ngôn của Bộ Hư Đại sư triều Tùy tiên tri về Thánh nhân giáng thế thời mạt thế rằng: “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng“, còn dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc nói: “Mạt thế Thánh quân Mộc nhân, Hà Mộc thượng cú mưu kiến tự; Dục tri sinh mệnh xứ tâm giác, Kim cưu Mộc thỏ“. Ngoài ra, dự ngôn «Trịnh Giám Lục» của Hàn Quốc còn giảng minh xác hơn nữa: “Ký ngữ thế gian độc giác sĩ, Tu tùng bạch Thỏ tẩu thanh lâm“. “Thanh lâm” (rừng xanh) ở đây chính là đối ứng với “hai cành gỗ lớn” ở bên trên”; chữ “lâm” (林) do hai chữ “Mộc” (木) ghép thành, đều chỉ Đại Thánh nhân thuộc Mộc.

Xem thêm:

>> Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiện

Dịch từ:

http://www.epochtimes.com/gb/11/2/16/n3171712.htm

The post Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/04/pha-giai-moi-nhat-kim-lang-thap-bi-van-cua-luu-ba-on.html/feed0
Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (8): «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2012/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-8-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.htmlhttps://chanhkien.org/2012/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-8-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html#respondWed, 01 Feb 2012 08:11:47 +0000https://chanhkien.org/?p=15922Lưu Bá Ôn là Tể tướng khai quốc triều Minh, cũng là tác giả «Thiêu Bính Ca», một trong tam đại dự ngôn dân gian của Trung Quốc.

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (8): «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
—Phân tích tham khảo dự ngôn về sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp

Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến Net

[Chanhkien.org]

(8) Dự ngôn «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh

Lưu Bá Ôn là Tể tướng khai quốc triều Minh, cũng là tác giả «Thiêu Bính Ca», một trong tam đại dự ngôn dân gian của Trung Quốc (cùng với «Thôi Bối Đồ» của Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong và «Mã Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng). Ông đã tiên tri chuẩn xác các sự kiện chủ yếu phát sinh từ đầu triều Minh cho tới nay, gồm cả dự kiến sự hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp và ý nghĩa thâm sâu của nó đối với nhân loại. Dưới đây, chúng ta sẽ xem qua một số sự tích về Lưu Bá Ôn và dự ngôn của ông đối với thời đại ngày nay.

Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, là mưu thần khai quốc của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Lưu Cơ năm 22 tuổi thi đỗ Tiến sĩ. Khi làm quan cho triều Nguyên, ông liêm khiết chính trực, hết mình phụng sự việc công, sau vì tố giác quan Giám sát Ngự sử không làm tròn chức trách mà bị cách chức về quê ẩn cư. Sau khi Chu Nguyên Chương dấy binh, Lưu Cơ xuất sơn, cuối cùng giúp Chu Nguyên Chương thành tựu nghiệp Đế vương.

Chu Nguyên Chương thừa cơ khởi binh, bình định quần hùng, sau cùng lật đổ vương triều nhà Nguyên, đều là nhờ mưu lược đắc lực của Lưu Cơ. Dự ngôn của Lưu Cơ đối với nghiệp Đế vương của Chu Nguyên Chương cuối cùng đã thành hiện thực. Tuy nhiên từ một góc độ khác mà nói, cải triều hoán đại, ấy đều là Thiên ý. Trong «Thiêu Bính Ca», Lưu Bá Ôn đã tiên tri rất xa về tương lai, tất nhiên cũng nhìn thấy khí số triều Nguyên đã tận, triều Minh hưng khởi. Do đó ông mới thuận theo Thiên ý, trở thành một đại danh tướng.

Trước tiên giới thiệu sơ qua một chút về «Thiêu Bính Ca». Là bậc vua chúa, điều Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương quan tâm nhất đương nhiên là liệu bản thân có thể giữ giang sơn mãi mãi hay không. Ông biết Lưu Bá Ôn là người thâm hiểu lý số, nên mới hỏi dò Lưu Bá Ôn về các sự việc liên quan trong tương lai. Thay đổi triều đại tự có định số, thiên cơ càng không thể tùy tiện tiết lộ. Thế nhưng Chu Nguyên Dương dẫu sao cũng là bậc Đế vương, thật khó mà thoái thác, do đó Lưu Bá Ôn mới sáng tác một bài ca nửa tỏ nửa mờ. Vừa tuân mệnh Hoàng đế, vừa lưu lại cho đời sau một kiệt tác kinh thế, một dự ngôn chính xác đến khó mà tin được. Bởi vì khi Lưu Bá Ôn diện kiến, Minh Thái Tổ đang ăn bánh nướng, nên mới gọi là «Thiêu Bính Ca».

Sau đây là đoạn dự ngôn liên quan đến thời đại ngày nay:

Minh Thái Tổ một ngày nọ ngự trong nội điện, đang ăn bánh nướng, vừa ngoạm một miếng, thì giám thị báo có Quốc sư Lưu Cơ yết kiến. Thái Tổ vội đậy bát lại, rồi triệu Lưu Cơ vào. Hành lễ xong xuôi, Hoàng đế hỏi rằng: “Tiên sinh thâm hiểu lý số, có thể biết trong bát ta có vật gì chăng?”

Lưu Cơ bấm tay tính toán một chập, rồi nói: “Nửa tựa mặt trời nửa mặt trăng, vừa bị Kim Long cắn một miếng, là cái bánh nướng”. Mở ra quả đúng là như vậy.

Hoàng đế bèn hỏi thiên hạ đời sau việc như thế nào: “Việc trong thiên hạ sẽ ra sao? Thiên hạ nhà Chu có được lâu dài hay không?”

Lưu Cơ đáp: “Số Trời mênh mông, ta là chủ vạn con vạn cháu, hà tất phải hỏi”.

Rất minh hiển, Lưu Cơ đáp lại câu hỏi của Chu Nguyên Chương, là một lời mà hai ý nghĩa. Bề mặt là một câu đáp thuận miệng, nói giang sơn triều Minh sẽ truyền tới thiên thu vạn đại, nhưng thực tế là dự ngôn minh xác rằng: Giang sơn triều Minh sẽ truyền tới Hoàng đế Sùng Trinh, tức Vạn Lịch Hoàng đế rồi dừng. Có thể thấy Lưu Cơ khi ấy không tiện nói rõ, lại càng không dám phạm tội khi quân, nên mới nói một câu lập lờ nước đôi như vậy. Giờ xem tiếp đoạn vấn đáp.

Hoàng đế hỏi: “Tuy nhiên, tự cổ hưng vong vốn có định số, huống chi thiên hạ đâu phải thiên hạ của một người, chỉ người có đức mới có thể hưởng, ngại gì nói ra, nói qua thử xem”.

Lưu Cơ đáp: “Tiết lộ thiên cơ, tội thần không nhỏ, bệ hạ thứ tội cho thần có chết cũng không dám mạo tấu”.

Hoàng đế bèn ban cho Miễn Tử Kim Bài, Lưu Cơ tạ ơn, tấu rằng: ……

(lược)

Đế vương thời cổ đại tuy là Vua một nước, nhưng cũng biết hưng suy tự có số Trời, mệnh Trời khó cải. Vả lại điều Đế vương nói nên là một lời mà chín đỉnh, bởi vậy Lưu Cơ sau khi có được Miễn Tử Kim Bài của Minh Thái Tổ, mới bắt đầu dùng hình thức thi ca để giảng ra khí số của vị lai. Chẳng qua dùng một lượng lớn ám ngữ ẩn dụ, nên chỉ sau khi sự việc phát sinh, thì người đời sau mới thấy sự chuẩn xác của dự ngôn. «Thiêu Bính Ca» đã tiên tri chuẩn xác về “Thổ Mộc chi biến”, “hoạn quan loạn chính”, “quân Thanh nhập quan”, “Khang Càn thịnh thế”, “Thanh mạt và hậu Dân Quốc”, mãi cho tới khi “Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền” vào hơn 600 năm sau. Đã trở thành lịch sử, người ta đều thấy rõ ràng, hơn nữa giải thích cũng không ít, do vậy ở đây không nói lại từng việc nữa, bởi vì sự việc ngày nay và tương lai mới là trọng điểm của bài viết này. Đoạn cuối «Thiêu Bính Ca» cùng với Pháp Luân Đại Pháp là có quan hệ, nhưng những tình tiết nhỏ, không giải thích nhiều nữa. Dưới đây giới thiệu một đoạn đối thoại khác giữa Minh Thái Tổ và Lưu Bá Ôn, luận thuật càng rõ ràng xuất chúng hơn nữa.

Hoàng Đế hỏi: “Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?”

Bá Ôn đáp: “Có thơ làm chứng rằng:

Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo,
Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng.
Chân Phật không ở trong tự viện,
Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.”

Hoàng Đế hỏi: “Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?”

Bá Ôn đáp: “Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc”.

Hoàng Đế hỏi: “Triều Thanh tận thế nào, ông nói rõ xem, để hậu nhân thấy?”

Bá Ôn đáp: “Thần không dám nói hết, hải vận chưa khai là Đại Thanh, hải vận khai rồi động đao binh, nếu như vận vận lại khai nữa, ắt là Lão Thủy về kinh đô.”

Hoàng Đế hỏi: “Lão Thủy có gì ư?”

Bá Ôn đáp: “Có có có. Chúng Đạo sẽ tiến vào tu hành, lớn thành nhỏ, già thành trẻ, hòa thượng muốn cặp kè với giai nhân, thật đáng cười đáng cười, thời tăng nhân lấy vợ sẽ đến.”

Hoàng Đế hỏi: “Khanh nói gì về Đạo thời đó?”

Bá Ôn đáp: “Lúc sắp kết thúc, vạn Tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này, chính là vị lai Phật, hạ thế truyền Đạo, thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ, nếu không gặp con đường Kim Tuyến, khó tránh kiếp này, bị tước quả vị, sau cùng Di Lặc phong bế hết 81 kiếp”.

Giải:

Về xuất sinh của Thánh nhân:

Đoạn dự ngôn này đã thuyết minh nguồn gốc, xuất xứ và hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp ngày hôm nay. “Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?” là chỉ vào cuối thời mạt pháp, chính Pháp chính Đạo sẽ do ai truyền? Bá Ôn đáp “Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo”, ý nói không phải là kiểu người trong tôn giáo quá khứ, “Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” là một cách ẩn dụ, bởi vì tóc trên đầu đàn ông ngày nay cũng chỉ nặng chừng ấy. “Chân Phật không ở trong tự viện, Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo” đã thuyết minh rõ ràng Phật Di Lặc tương lai không ở trong Phật giáo, mà là “giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi”, một gia đình bình dân nghèo khổ. Bởi vì Sư phụ Lý Hồng Chí truyền Pháp Luân Đại Pháp là lấy hình thức khí công, không phải Phật giáo hay tôn giáo khác, hơn nữa ông Lý giáng sinh trong một gia đình nghèo khó.

Về địa điểm hạ thế truyền Pháp:

Hoàng Đế hỏi: “Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?”. Bá Ôn đáp: “Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, …” Đoạn này đã nói rõ thân thế của Thánh nhân. Câu cuối cùng, “rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc”: “Yên” là chỉ vùng phía Bắc tỉnh Hà Bắc, thời xưa gọi là nước Yên. “Yên Nam” chính là vùng Bắc Kinh (bởi vì phía Bắc Bắc Kinh là rặng núi Yên Sơn, vì thế mà có tên này); “Triệu” thời cổ đại chỉ phía Nam tỉnh Hà Bắc và vùng lân cận. Bởi vì nước Triệu xưa đóng đô tại Hàm Đan, nằm ở chính Nam Bắc Kinh. Do đó “Yên Nam Triệu Bắc” chắc chắn là chỉ Bắc Kinh. “Rải vàng” là đem Đại Pháp vũ trụ, tức Phật Pháp độ nhân truyền cấp cho người thế gian. Phật Pháp so với vàng còn trân quý hơn, bởi vậy truyền Pháp độ nhân được so sánh với “rải vàng”. Đây là chỉ năm 1992, Sư phụ Lý Hồng Chí bắt đầu truyền Pháp Luân Đại Pháp tại Bắc Kinh trong Hội Sức khỏe Đông phương, lấy hình thức khí công để khiến người ta liễu giải được Đại Pháp.

Về thời điểm hồng truyền Đại Pháp:

Cuộc vận động cải cách khai phóng cuối triều Thanh ở đây được ví với “hải vận”. “Hải vận chưa khai là Đại Thanh” chỉ triều Thanh trước khi khai phóng mở cửa là ổn định, “hải vận khai rồi động đao binh” chỉ thời Thanh mạt, các cường quốc ồ ạt xâm nhập Trung Quốc, sau đó xảy ra chiến tranh. “Nếu như vận vận lại khai nữa, ắt là Lão Thủy về kinh đô”: “vận vận lại khai nữa” ở đây chỉ cải cách mở cửa thời Đảng Cộng sản Trung Quốc; “Lão Thủy” ở đây là chỉ Đại Pháp nguyên thủy của vũ trụ, bởi vì chữ “Pháp” (法) là do ba điểm Thủy (氵) và chữ “Khứ” (去) tổ hợp thành. Như vậy đoạn này tiên tri Đại Pháp vũ trụ sẽ được truyền ra vào thời Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa.

Hoàng Đế hỏi: “Lão Thủy có gì ư?”, ý là hỏi “Lão Thủy (Đại Pháp) sẽ mang tới biến hóa gì?” Bá Ôn đáp: “Có có có. Chúng Đạo sẽ tiến vào tu hành…” “Chúng Đạo” chỉ các phương pháp tu luyện khác nhau, sẽ dẫn đường vào tu luyện thật sự. “Lớn thành nhỏ, già thành trẻ” chỉ Đại Pháp tu luyện là tính mệnh song tu, khiến người ta trở nên trẻ hơn tuổi.

Về đặc điểm của Đại Pháp Đại Đạo:

Hoàng Đế hỏi: “Khanh nói gì về Đạo thời đó?”. Bá Ôn đáp: “Lúc sắp kết thúc…”, là chỉ khi thời kỳ mạt pháp sắp kết thúc. “Vạn Tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này” đã chỉ rõ đến cả những sinh mệnh cao tầng như Phật, Đạo, Thần trên thiên thượng cũng đều hạ thế để tiếp thụ và đồng hóa Đại Pháp này. “Kiếp này” là chỉ tới nơi con người, dùng thân người để đồng hóa Pháp Luân Đại Pháp. Khi vị lai Phật (Phật Di Lặc) hạ thế truyền Pháp, chư Phật chư Tổ khắp thiên thượng, bất kể là ai, nếu không gặp Pháp Luân Đại Pháp trân quý như “con đường Kim Tuyến” này, thì khó tránh kiếp nạn này, đều bị tước hết quả vị.

Đoạn đối thoại này đúng thực là càng nói càng rõ, đem đặc điểm thời đại và hồng truyền Đại Pháp ngày nay ra nói rõ ràng rành mạch. Càng khiến người ta kinh ngạc hơn, nó đề cập đến cả thiên thượng chư Phật chư Tổ, đều phải hạ xuống đồng hóa Đại Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”. Điều này đối với thời đại “nhân Thần đồng tại” trong các lời tiên tri Tây phương là cùng một ý nghĩa. Từ đó có thể thấy phỉ báng Đại Pháp, bức hại đệ tử Đại Pháp chân tu là tội nghiệp to lớn nhường nào! Thiên cơ đã được tiết lộ từ lâu, đợi đến khi chân tướng đại hiển mới ngộ thì đã quá muộn rồi!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/3/15/14307.html

The post Những dự ngôn vĩ đại về thời đại ngày nay (8): «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/02/nhung-du-ngon-vi-dai-ve-thoi-dai-ngay-nay-8-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html/feed0
Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: Chân bị thiếu của Gà Vàng là Đài Loanhttps://chanhkien.org/2012/01/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chan-bi-thieu-cua-ga-vang-la-dai-loan.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chan-bi-thieu-cua-ga-vang-la-dai-loan.html#respondWed, 18 Jan 2012 08:52:06 +0000https://chanhkien.org/?p=15817Bản đồ Trung Quốc là một con Gà Vàng (Kim Kê), đầu tại Đông Bắc, đuôi hướng Tây Nam.

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: Chân bị thiếu của Gà Vàng là Đài Loan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trương Kiệt Liên

Bản đồ Trung Quốc như con Gà Vàng (Kim Kê), với mắt gà nằm tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm.

[Chanhkien.org] Bản đồ Trung Quốc là một con Gà Vàng (Kim Kê), đầu tại Đông Bắc, đuôi hướng Tây Nam. Nhìn kỹ hơn, thì hai đảo Hải Nam và Đài Loan chính là hai chân của Gà Vàng, đảo Hải Nam hướng chính Nam là chân phải con gà, còn chân trái con gà chính là đảo Đài Loan nằm ở duyên hải Đông Nam.

Năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đoạt chính quyền đại Đại Lục, ở trên cổng lầu Thiên An Môn mà hét lớn: Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ đây đứng dậy rồi.

Tuy nhiên có thể thấy Thần từ đó chưa hề cho phép ĐCSTQ thực sự đứng dậy, nó thực tế chỉ giống một con gà chọi đứng bằng chân phải mà thôi, rất tốn sức lực. Thiên ý an bài Quốc Dân Đảng rút lui về Đài Loan, cắt mất của ĐCSTQ một cái chân trái.

ĐCSTQ tất nhiên không chịu, tấn công mạnh Đài Loan, không tiếc dùng xác người để lấp đầy eo biển. Tiếc rằng Thiên ý khó trái, mấy nghìn binh sĩ của ĐCSTQ đành vùi thân ngoài biển khơi. Ngoài ra, Triều Tiên lại gây chiến tranh, ĐCSTQ hiếu chiến không cách nào đứng nhìn, buộc phải ngừng lại. Chiếc chân vàng Đài Loan cuối cùng được bảo toàn, không đứng cùng ĐCSTQ cho đến nay.

Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn ẩn chứa huyền cơ

Quốc sư triều Minh Lưu Bá Ôn, trong đoạn cuối 【Quyển tam•Hiền Bảo】của dự ngôn nổi tiếng «Thôi Bi Đồ» đã ghi lại Thần ý huyền cơ về Đài Loan như sau:

“Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai; năm Tỵ qua Sửu đầu Dần, Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần. Đây chính là Thần an bài địa hình trung thiên Trung Quốc Kim Kê thiếu mất một chân, luôn không thể đứng thẳng, phải muốn được thống nhất; ác nhân trước diệt tận, càn khôn lại đổi mới.”

Có thể thấy, trước khi “ác nhân diệt tận”, Thần chính là an bài Đài Loan không đi theo Trung Cộng, tức “trung thiên Trung Quốc Kim Kê thiếu mất một chân”. Còn khi nào thống nhất, để chứng kiến cảnh tượng “toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng”, thì phải đợi ĐCSTQ giải thể, tức “ác nhân diệt tận, càn khôn lại đổi mới”.

Năm 2005 là năm Kim Kê (năm Dậu), đây chính là “chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai”. Trong năm này, “Cửu Bình” xuất hiện gây tiếng vang lớn, chấn động Thiên Địa, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa hàng triệu người thoái đảng, chỉ đợi “Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng”. Lúc này, ĐCSTQ nguy cơ bốn bề, Trời diệt Trung Cộng đã tại nhãn tiền.

Sau khi ĐCSTQ diệt vong, thế giới nghênh đón thời đại mới không có đảng cộng sản, đạo đức nhân loại hồi thăng, “tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần”, “càn khôn lại đổi mới”, toàn bộ thế giới đều an khang.

Ai cũng đều biết chân là gốc rễ, không có chân thì không có gốc rễ, sẽ bất ổn. Chẳng trách ĐCSTQ bao năm qua vẫn hô hào “ổn định, ổn định”, nhưng đứng một chân thì chỉ có cách bất động, sắp đổ, hiện tại muốn đổi chân kia đứng, nên mới nghiêng về Đài Loan.

Thần tất nhiên không cho phép, đại hạn của ĐCSTQ đã sắp đến rồi, hơn 50 năm qua vẫn không để nó đổi chân kia đứng, cũng chính là đến lúc sẽ diệt trừ tà linh này. Ngẫm lại, thấy đây đúng là an bài đặc thù của Thần ý đối với Đài Loan.

Sai một bước mà cách biệt cả Thiên Đường, địa ngục

Tiếc là, một số người tâm ý dao động bất an, bởi vậy làm trái Thiên ý, định tuyên dương con gà đất ĐCSTQ theo thuyết vô thần thành “Kim Kê” và “Chân Thần”. Họ tưởng rằng “chỉ đợi Kim Kê khiếu” là đợi con gà đất ĐCSTQ gáy, sau đó “tứ hương quy về Thần Châu Lục”, rồi lại còn “xuất Chân Thần”.

Quả thực là đáng thương, chẳng khác gì bước nhầm, thời cơ không đúng, suy luận lại còn quá sai. Đúng ra phải là, “không có ĐCSTQ mới có tân Trung Hoa”. Đúng là đi sai một bước mà cách biệt cả Thiên Đường, địa ngục.

Hỡi những người nôn nóng, hãy tĩnh tâm tịnh tâm lại, không việc gì phải hoảng loạn khi đối diện với tiền trình của sinh mệnh, hãy dừng chân ba lần rồi mới suy nghĩ.

Sự biến hóa ở Đài Loan đã sớm nằm trong tay Thần Phật, hiện nay đã ở ngay trước mắt người đời. Vẫn câu nói cũ, chỉ có thuận theo Thiên ý mà hành sự mới có thể có tương lai tươi sáng, câu này vĩnh viễn không thay đổi.

(Chi tiết dự ngôn «Thôi Bi Đồ» xin tham khảo mạng Chánh Kiến: Phần 1, Phần 2, Phần 3).

Dịch từ:

http://www.epochtimes.com/gb/5/5/7/n913863.htm

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: Chân bị thiếu của Gà Vàng là Đài Loan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chan-bi-thieu-cua-ga-vang-la-dai-loan.html/feed0
Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (III)https://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-iii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-iii.html#respondSat, 24 Sep 2011 07:16:21 +0000http://chanhkien.org/?p=13153Tác giả: Sử Giám [Chanhkien.org] Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ […]

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (III) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sử Giám

[Chanhkien.org] Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích.

Tiếp theo Phần I, Phần II.

*  *  *

Phụ lục: Nguyên văn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn triều Minh

【Quyển nhất

Nam Kinh Thương Thiên phủ sét chấn động hạ một bia, hiện xuất quyển kinh có hai cuốn——«Định Kiếp», «Hiền Bảo» và «Thôi Bi Đồ» nhị quyển, tam quyển dần dần hạ xuống báo ứng nghiệm. Ngay trước mắt, theo chiếu chương, mau đến hành thiện sự, miễn trời trách phạt; giờ nếu không mau, mau hối tiếc, nào ai thoát khỏi mạt kiếp niên? Đến thời sét đánh Nam Hải Phổ Đà sơn đột nhiên hạ xuống một khối bia đá, nhìn ra văn chương quyển kinh; đến lúc này trong Khắc Điền phủ ba người thành tâm tụng, sau rất nhiều người truyền biết, xem đọc sâu sắc, chiếu theo thực hành, thụ ích không lời biểu đạt. Truyền tụng thế này với Mã tri phủ bất tín, mọi cách vu miệt, phỉ báng, chửi mắng, tàn hại; không qua ngày, cả nhà đều chết.

Di Lặc Phật ở lưng trời nói rằng: Thiện tai, thiện tai, mạt niên thời nay, thiên hạ nhân dân mười phần phải thu chín phần, đều là những người có tội không tôn bề trên, bất kính phụ mẫu, ỷ mạnh hiếp yếu, hành ác khinh nghèo, tranh đấu nhỏ nhen, tâm sói tham tài, ức hiếp trung lương, lừa người lấy tiền, giết mổ trâu cày. Di Lặc Phật tại cõi phàm và Thần tướng Hỏa La hạ giới tra xét dân gian; thiện ác có người tụng chân kinh, biết đường hối cải, gọi là quay đầu; người biết chân tướng, gọi là tới bờ, có thể miễn tai họa cả nhà; có người không tin mà làm điều ác, chỉ xem đến năm Hợi, có nhà không người ở, có ruộng không người cày; tháng Ba, Năm ôn thần khắp đất, tháng Tám Chín ác nhân chết sạch. Bằng như hành thiện, hiền lương quân tử, có thể miễn tai họa cả nhà. Thiên hạ có mười sầu lớn: Nhất sầu tật bệnh vô trị; nhị sầu kiền hạn thủy tai, tam sầu ngày đêm bất an; tứ sầu phụ tử bất đoàn viên; ngũ sầu phu thê không gặp mặt; lục sầu xác người chết khắp nơi; thất sầu thây cốt không người liệm; bát sầu áo không người mặc; cửu sầu cơm không người ăn; thập sầu nhà không người ở. Người minh bạch điềm nhiên vô sự; người hồ đồ khó qua năm thái bình; người đi đường chết vô số, trong một vạn chết chín nghìn; không tin quyển kinh này, thập kiếp tại nhãn tiền.

Đến ngày Đông năm ấy, trời giáng mưa giông, sương lớn từ Nam tới Bắc; chúng tu thiện lương dân, ngộ tai! Ngộ tai! Phàm trần có đại nạn này. Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni chưởng quản thiên hạ một vạn ba ngàn năm nay đã mãn, khoanh tay không có cách nào, nhìn trong chùa miếu không có hòa thượng tu Phật, Phật A Di Đà như thế nào? Thấy Cực Lạc ra sao? Ác ma khắp nơi, nhưng Thiên đường Tây phương không có cửa, bách giáo đảo hướng diệt vong, thật quá bi ai. Con cái của mình quay về thế nào? Chỉ ngóng tỳ khưu ni Tây phương, cùng giúp Di Lặc Phật thu thập tàn duyên, hàng ma, diệt yêu chân kinh quang thiên, tử đệ trong nhà từ từ quy thiên, Di Lặc Phật Phật Pháp vô biên, toàn bộ Tây Thiên sinh cơ ngang nhiên. Thừa lệnh Quan Âm hàng thánh trùng sinh và Đông ngục Đại Đế phái Quan, Triệu hai tướng tra xét thiện ác nhân gian; phàm có tâm quỷ quái ẩn giấu mà bất trung bất hiếu, bất tôn kính người trên, có tội ác trùng trùng, thì Uông Lương ôn thần hạ giới, năm đói kém gặp đại kiếp số, lôi kiếp, thủy tai, phong kiếp, tật bệnh, yêu kiếp, quái kiếp. Mà Di Lặc Phật Pháp tử, người người góp đức tích ngọc, đường đường chính chính, cùng tu Di Lặc Phật truyền tam tự, nhân kiến bất nhất, tín giả thiểu, mạ giả đa, thiện ác lưỡng phân thanh, tới tháng Ba năm ấy trừ ác đến nhân gian.

Mạt kiếp niên nhân dân bất an, ngũ cốc năng thu; tháng Ba, Năm ôn thần hạ giới; năm này tật bệnh lạ lùng, đại đa số không thuốc trị được, không thầy thuốc chữa; tháng Năm, Sáu lại có thập đại sầu: nhất, bất thái bình; nhị, Sơn Đông gặp kiếp nạn; tam, Hồ Quảng gặp thủy tai; tứ, Tứ Xuyên khởi lang khói; ngũ, Vân Quý gặp nạn đói; lục, tứ xứ bất an nhiên; thất, có cơm không người ăn; bát, có áo không người mặc; cửu, có đường không người đi; thập, khó qua Dần Mão Thìn Tỵ niên, nếu qua được mấy năm trên, mới là hoạt thần tiên.

Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh; người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể cải biến chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải, không tin đợi xem Dần Mão Thìn Tỵ niên. Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao; một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh; qua tháng Tám Chín thấy Tý nguyệt định càn khôn.

【Quyển nhị • Định Kiếp

Như ta nghe nhất thời Phật ở trong cung Ngọc Thanh, cùng thập phương hết thảy Tỳ khưu ni, chư Thiên, chư Phật, Bồ Tát, chư Tổ sư. Tám mươi mốt lớp Thần tiên, Địa tiên, Thánh nhân, Tam giáo Thánh nhân, Lục đại Tổ sư, Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, Tứ đẩu Chân nhân, chư Thiên, chư Tướng nhất thời tập hợp cung Ngọc Thanh. Ngọc Đế Thiên Phật mãn thánh tượng, hết thảy thần linh đều nhất thời tập hợp một nơi,

Tam Thanh Ngọc Đế hỏi: “Bên dưới Nam Hạp Phù Đề oán khí ngút trời, tại sao?”

Thiên Phật đáp: “Thế giới đã tận, Phạm vương vô phúc, địa hổ về sao đây?”

Ngọc Đế hỏi: “Ai có thể hạ giới tái lập nhân luận, chưởng giáo chỉnh lý càn khôn thế giới?”

Ngọc Ưu đáp: “Giờ có Yên Ma vương, Tam giáo Thánh nhân, tranh đoạt càn khôn bất định.”

Ngọc Đế hỏi: “Vì sao người tranh đoạt bất định?”

Thiên Phật đáp: “Đệ nhất Thánh nhân, sinh hạ mang thai 81 năm, chỉ Lý làm họ, hiệu là Lão Quân, đệ nhất Thanh Dương hội; đệ nhị Thánh nhân Sơ phàm Ngọc Đế, hiệu Thích gọi Di Lặc Phật, đệ nhị Hoàng Dương hội; đệ tam Thánh nhân Khổng Khâu giáng sinh, hiệu là Trọng Ni, đệ tam có Nhật Dương hội.”

Ngọc Đế hỏi: “Nay người nào chưởng giáo?”

Thiên Phật đáp: “Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới. Ta vừa đợi nơi này vừa giúp từ điệu, ta nói Thượng Thượng Chủ Thánh là Di Lặc Phật sẽ sớm đến. Ngọc Đế thống lĩnh hết thảy thần tiên triều bái, cầu Thượng Thượng Chủ Thánh chưởng lập càn khôn; ta đợi cũng là ý nguyện, cùng giúp cùng đi.”

Ngọc Đế hạ lệnh 72 hiền, 3.000 đồ chúng, Tứ đẩu Chân nhân, Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, 81 lớp Chân nhân, Lục đại Tổ sư, 500 La Hán, 92 Thiên tiên, chư Thiên, chư Tướng, Tứ thánh cửu phàm, hết thảy thánh tượng đi trước.

Cũng bởi càn khôn bất định, hết thảy chúng sinh không biết chân Pháp của Thượng Thượng Chủ Thánh, Di Lặc Phật đau xót bi ai nói: “Ta đi xuống dưới, chúng sinh khó điều, khó trị, chỉ là điên đảo, chẳng thể quay đầu, kẻ ác thì nhiều, người thiện thì ít, khó hàng phục.”

Ngọc Đế nói: “Chủ Thánh Ngài hạ xuống dưới không cần lo âu; hiện tại có 72 hiền, 3.000 đồ chúng, 81 lớp Chân nhân, 62 Thiên tiên, Nhị thập bát tú, Lục đại Tổ sư, 500 La Hán, Cửu tinh cung, chư Thiên, chư Tướng, Tứ thánh cửu phàm, Tứ hương bát quốc trước tiên hạ xuống thấu hư đi; còn có Văn Thù, Phổ Hiền, nhị Đại Bồ Tát làm bạn.”

Có kệ rằng: Ngọc Đế khích lệ mãi, Di Lặc thống bi ai, Thiên y vừa thoát bỏ, Thấu hư hàng phàm thai.

Phục Hựu nói: “Ngọc Đế tiễn Di Lặc lấy gì làm bảo vật chưởng lập càn khôn, trùng lập nhân duyên?”

Ngọc Đế đáp: “Ta và Ngài định kiếp đi xuống chưởng lập càn khôn, thu thập tàn duyên, còn có chiêu hiền, tụ bảo thường lấy chiếu nghi, thu nguyên Bắc cực Tử vi Đại Đế, hiện lĩnh Nhị thập bát tú, Cửu tinh cung, sâu mãi dưới đất Tần Châu; như có tranh giành bất định, duy Chủ Thánh mới có chân Pháp cứu tế nhân duyên và con cái xa quê. Ngài phải đi thôi, những đứa con xa quê đã tới mạt kiếp niên, nhiều người gặp tam tai nhân nạn, chịu nỗi khổ địa ngục; sau đó Hồ nhân tranh đoạt giang sơn xã tắc bốn mươi năm chưa định can qua, tận tẩy con cái xa quê, binh mã tận hành, Đông phương Tây lạc, cùng Nam Bắc giao hoán, lập thế giới khác. Chín gái tranh chồng, trâu trắng cày ruộng, phá núi tận đỉnh, sửa thành chữa trại, đốn chặt cây cối, đày đọa chúng sinh, quốc gia bất chính, cha giết con, con giết cha, quân không quân, thần không thần, giặc cướp khắp nơi, thiên hôn địa ám, nhật nguyệt bán minh, chính là mạt kiếp niên. Người thập phương chết tám chín còn lại một, đều là hiền lương quân tử, chính là người hành thiện.

Di Lặc Phật từ Thiên nói rằng: “Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn, không lập nhân luận, vĩnh bất hồi thiên.” Lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử làm họ. Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, người thành tâm thực tiễn chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín.

Sau có kệ rằng: Tam Thanh Ngọc Đế khích lệ mãi, Nghe tiếng Thiên Cung sắp an bài. Năm ấy phải? Long Hoa hội, vĩnh bảo thượng thiên thất bảo đài. Di Lặc Phật thống bi ai, Rời khỏi Thiên Cung chuyển phàm thai, Ngày nào mới trở lại?

Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử làm họ. Tại hai mươi đất trên tám nước các nơi có chỗ ở, Ngọc Thanh Nhị thập bát tú hàng phàm trên đất Tần Châu, bảo hộ Bắc cực Tử vi Đại Đế kế tục, có 72 hiền, 3.000 đồ chúng, 81 lớp Chân nhân, Lục đại Tổ sư, tại trung thiên Trung Quốc, chỉ đợi đến năm thu thập tàn duyên. Long Hoa tam hội cùng giúp mà đến.

Khi ấy Di Lặc Phật nói: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc, lại có ba mươi sáu cái Phật bảo, một bước đến nơi, không cầu khẩu hư, chỉ cầu chân tâm thực tiễn. Ắt thấy được huyền diệu, mãi được trường sinh, tất đắc chính quả, chuyển phàm thành Thánh, mãi thoát khổ hải. Không tin lời Pháp của ta, gặp thập chủng ác nghiệp, sớm bệnh chiều chết. Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo.”

Sau có kệ rằng: Di Lặc Phật thệ hồng thâm, Gấp tới hàng phàm trung thiên. Như ta nói lời cuồng ngữ, Vĩnh bất hồi quy Thiên Cung.

Lúc ấy Di Lặc Phật nói: “Thiện tai! Thiện tai! Tự chúng sinh không hành thiện, hủy báng tam bảo, thường sinh tâm tật đố, đến năm ấy tất có nỗi khổ hạ địa ngục, cầu không được nơi an lạc. Cha Nam con Bắc, ngươi Đông ta Tây, chịu không hết nỗi khổ não; nếu như không tin Pháp của ta, tận số mà chết, không thuốc trị được, chỉ có nghe lời Pháp này, người chân tâm thực tiễn, mới có thể giải thoát, không còn ưu khổ. Ác nhân chạy trốn gặp báo ứng, trong ngục giữ bảo, người tín tâm bất thoái, ta thân lĩnh về thiên quốc mười phương. Đã là người thập ác, chỉ cần quay đầu, ta đều cứu độ. Nhưng chúng sinh bất tín, đến năm ấy tất có can qua tứ khởi, đau xót bi thương, phản loạn thế giới; tu Thiện lương dân, chớ có phiền muộn.”

【Quyển tam • Hiền Bảo

Lúc ấy Di Lặc Phật, tại thập phương bách quốc, trên hai mươi đất lại dùng ba mươi sáu cái Phật bảo đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh. Toàn bằng Phật bảo thu thập người tàn duyên. Sớm sớm thu thập ba người đầu, bởi thế giới thập ác, bách giáo mất hiệu lực. Di Lặc Phật nói: “Hiện nay vạn ma nắm quyền, càn khôn bất chính, không Pháp của ta không hồi thiên đình, chúng sinh nhớ lấy! Nhớ lấy! Thiện tai! Thiện tai! Quay đầu là bờ. Như chúng nhân không tin lời ta, rơi vào cửa tử, thây chất như núi, vạn kiếp khó phục nhân đạo”. Nhưng chúng sinh bất tín, sau có kệ rằng:

Đến năm Giáp Tử mấy người minh, Chuyển lập càn khôn tạo hóa cơ, Nhâm Thìn Quý Tỵ là căn nguyên, Giáp Tử xa xôi tới trung thiên, Nếu gặp Canh Tý cùng ngôi Tý, Trời tặng Chân nhân mấy người minh, Đến năm hạn mãn cùng tụ hội, Nhị thập bát tú hiển thần uy, Nếu gặp năm ấy Thiên đường thấy, Được giúp để đưa tới trung thiên, Lập lại càn khôn cải thế giới, Đầu trâu đuôi hổ định căn nguyên. Giáp Ất Bính Đinh là sơ phân, Nhâm Tý Quý Sửu định nhân luân, Nếu gặp ngôi Tý sấm lôi hỏa, Mãi giữ thế giới đổi càn khôn, Canh Tý Tân Sửu là căn nguyên, 73 hiền lại cùng đoàn viên, Nhị thập bát tú tới tụ hội, Cùng giúp để đưa tới trung thiên, Nhâm Thìn Quý Tỵ hiển thần linh. Lã Công kinh thư xứ xứ tụng. Mười tám hài nhi tới tụ hội, Mão hạ Kim đao tụ nhân duyên. Quân trường Mộc Tử gọi Lưu Lang, Được giúp để đưa tới trung hương. Lã Công gọi tên những ai nhỉ, Dựa trên công quả định cao cường. Trời tặng Chân nhân mấy người minh, Âm Dương thành tựu chuyển thiên cơ, Tám mươi mốt lớp cùng bang trợ, Thu duyên kết quả tọa liên trì.

Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành thiên tảo địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục; không đến tháng Tám năm ấy, ôn thần giáng xuống, người trên mặt đất mười phần chết chín, kẻ ác thập đạo không còn sót ai. Nhưng chúng sinh lại càng bất tín. Sau có kệ rằng:

Đầu trâu đuôi chuột vẩy họa tai, Sớm bệnh chiều chết thật bi ai, Có người thu được Thiên Phật bảo, Long Hoa phù hộ thấy tương lai, Ngọc Đế hạ xuống thấy linh văn. Cả nhà già trẻ được bình an, Thiên Phật linh văn thật khó phai, Lưu truyền đời sau cứu bi ai, Nếu người gặp được linh văn bảo, Cầu đắc trường sinh lưỡng ngọc lai. Ngọc Tiêu linh văn thế gian hiếm, Miệng giấu Nam Bắc và Đông Tây. Ba mươi sáu đạo che luân kiếm, Mười hai địa thượng tổng thiên cơ. Ngọc Đế linh văn hàng hạ lai, Di Lặc kêu gọi cứu Hoàng thai.

Văn này đều là Thiên Phật bảo, Không phải nhất thời mà làm ra. Nhâm Thìn Quý Tỵ phụng thiên sai, Tam Thanh hạ xuống tấu văn lai. Tứ hương bát quốc cùng kêu khắp, Thu thập tàn duyên tụ Hoàng thai. Linh văn độ tựa thấu thiên cơ, Được miễn tai nạn lại đắc tri. Trong ngục giữ văn không để mất, Mười năm hạn mãn tọa liên trì. Ba mươi sáu cái chân Phật bảo, Phật ta thành Đạo tựa linh văn. Kim tỏa Mộc lan không thấu gió, Vượt thiên chuyển địa Thần tiên Pháp. Lập lại càn khôn cải thế giới, Linh văn báu này thay Âm Dương, Ba mươi sáu chiếc linh văn bảo, Chu thiên chuyển địa là bạch dương. Kiếp hóa bạc thành bảy trăm lý, Dựa trên công quả định cao cường.

Sau đó Di Lặc Phật giảng Pháp tam bảo, đồng thời truyền xuất ba mươi sáu cái bảo vật, đợi đến khi Tử vi Đại Đế đăng cơ, ai thu đủ ba mươi sáu cái Phật bảo gọi là hiền lương quân tử; người thiên hạ chân tâm chiêm ngưỡng cung kính, lễ bái thực hành tam bảo, không được thờ ơ; nếu không đến năm hạn mãn đã hết, mới biết Nhâm Thìn Quý Tỵ con cái xa quê trở về Thiên hương. Biết chúng sinh bất tín, sau lại có lưỡng khẩu thu thập tàn duyên. Lưỡng khẩu là thầy dạy, mở cứu nỗi khổ tam tai bát nạn, Mão Kim đao lưu duyên, chúng sinh bất tín, sau có kệ rằng:

Di Lặc thống bi ai, Thệ nguyện cứu Hoàng thai, Hạn mãn thời niên đến, Đều lên tọa liên đài. Lã Công công lao đại, Thệ nguyện cứu tương lai, Cùng dự liên trì hội, Dạy cho tụ Hoàng thai. Kim đao thu tàn duyên, Nhất thời đến trung thiên, Không đợi Kim Kê gáy, Trời sáng bái quân vương. Khuôn mặt tiêu ngọc bạc, Tử du miễn khám bài, Tử hạ đề tên gọi, Tử thai phân Hoàng thai.

Khi ấy Di Lặc Phật, Pháp chính càn khôn, lực trảm quần ma, trừ ác tới trung thiên, chỉ e chúng sinh không tin, sau có kệ rằng:

Thiên Phật linh văn thế gian ít, Cùng hạ Phù Đề mấy người tri, Tam Thanh Ngọc Đế tấu văn đến, Cầu Di Lặc Phật thu chúng mê. Sau có ba sáu cái Phật bảo, Lập lại càn khôn cải Hoa di.

Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai; năm Tỵ qua Sửu đầu Dần, Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần. Đây chính là Thần an bài địa hình trung thiên Trung Quốc Kim Kê thiếu mất một chân, luôn không thể đứng thẳng, phải muốn được thống nhất; ác nhân trước diệt tận, càn khôn lại đổi mới. Tử vi ngồi Đại Đế, thập phương bách quốc Pháp Luân huy, khắp trời mừng vui, thời hạn mãn. Pháp tử quy thập phương thiên quốc, người quay đầu làm người trên đất, người tới bờ, cùng lên chùa mười vạn tám ngàn, khi ấy Di Lặc Phật ở giữa cười vui vẻ. Pháp tử trên mặt đất còn muốn hỏi thiên cơ, Di Lặc Phật nói: “Không thể nói, không thể nói.”

(Hết)

Dịch từ:

http://renminbao.com/rmb/articles/2005/3/9/34857.html

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (III) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-iii.html/feed0
Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (II)https://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-ii.htmlhttps://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-ii.html#respondThu, 22 Sep 2011 17:41:02 +0000http://chanhkien.org/?p=13136Tác giả: Sử Giám [Chanhkien.org] Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ […]

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (II) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sử Giám

[Chanhkien.org] Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích.

Tiếp theo Phần I: Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay

*  *  *

Rơi vào cửa tử, vạn kiếp khó phục

Đến năm ấy tất có can qua tứ khởi, đau xót bi thương, phản loạn thế giới; tu Thiện lương dân, chớ có phiền muộn.” (Quyển 2)

Giải: Phật Di Lặc nói: Vào mấy năm này (bức hại Pháp Luân Công), thế giới nhất định sẽ có chiến tranh, tấn công khủng bố, ôn dịch, động đất khắp nơi, các chủng sự tình bất hảo sẽ đua nhau xuất hiện. Điều này ắt có ảnh hưởng đến sự ổn định của thế giới; người tốt tu Thiện nghìn vạn lần không được sợ hãi, những điều này đối với các vị là vô quan.

Tại đây, «Thôi Bi Đồ» đã đề cập đến bộ phận thế nhân không tin Đại Pháp, lại bị kẻ ác đương quyền lừa dối, hủy báng Phật Pháp, bức hại đệ tử của Phật Di Lặc—tức đệ tử Đại Pháp, từ đó đi vào con đường tuyệt lộ của sinh mệnh.

Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

Dự ngôn không ngừng cảnh báo:

Tự chúng sinh không hành thiện, hủy báng tam bảo, thường sinh tâm tật đố, đến năm ấy tất có nỗi khổ hạ địa ngục, cầu không được nơi an lạc. …” (Quyển 2)

Giải: Rất nhiều người không làm việc tốt, mà lại chửi rủa, phỉ báng Chân-Thiện-Nhẫn, tức “tam tự chân kinh”, thường nảy sinh tâm ganh tỵ không chịu phục, đến mấy năm đào thải tối hậu con người (tức Pháp Chính Nhân Gian tới), khẳng định sẽ gặp phải ác báo, sinh mệnh tìm không được nơi chốn an lạc.

Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo,” (Quyển 2)

Giải: Với những người nghe tam tự Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” mà lại ác ý phỉ báng, thì trong luân hồi không thể đắc được thân người nữa, vĩnh viễn mất đi cơ hội làm người.

Như chúng nhân không tin lời ta, rơi vào cửa tử, thây chất như núi, vạn kiếp khó phục nhân đạo’. Nhưng chúng sinh bất tín.” (Quyển 3)

Giải: Nếu như chúng sinh không tin lời Phật Di Lặc, thì cuối cùng rơi vào đường cùng, xác người chất như núi, trong luân hồi vĩnh viễn khó lại có được cơ hội làm người. Vậy mà bách tính vẫn không tin lời Phật Di Lặc.

Đại ôn dịch hạ giới

Thiện ác có người tụng chân kinh, biết đường hối cải, gọi là quay đầu; người biết chân tướng, gọi là tới bờ“. (Quyển 1)

Giải: Cho dù là người tốt hay người xấu, có người đọc qua bộ chân kinh của Phật Di Lặc thì biết hối cải, không còn công kích bộ Phật Pháp này nữa, gọi là “quay đầu”; người biết chân tướng đệ tử Đại Pháp bị bức hại, lý giải và ủng hộ Đại Pháp, gọi là “tới bờ”.

Trong «Thôi Bi Đồ» cũng dự ngôn người Trung Quốc không tin, mà phỉ báng Đại Pháp, dẫn tới ôn dịch không ngừng, cuối cùng chịu khí hậu kỳ dị bất thường.

Không đến tháng Tám năm ấy, ôn thần giáng xuống, người trên mặt đất mười phần chết chín, kẻ ác thập đạo không còn sót ai. Nhưng chúng sinh lại càng bất tín.” (Quyển 3)

Giải: Không đến tháng Tám một năm nào đó, lại có ôn dịch hoành hành, người trên mặt đất mười phần chết chín, những người xấu các ngành các nghề đều không còn sót lại. Thế nhưng người dân lại càng không tin.

(Vào triều Minh, người ta gọi mỗi ngành nghề là một “đạo”; “thập đạo” chỉ các ngành các nghề.)

Ghi chú: Trận đại ôn dịch này là nhắm vào những ai phỉ báng và bức hại Phật Pháp, là đợt đại thanh trừ những kẻ hành ác chấp mê bất ngộ. Tuy nhiên con số “mười phần chết chín” này là an bài cũ, nhờ sự thức tỉnh của thế nhân mà có thể được thay đổi.

Trong một vạn người chết chín nghìn

Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh, người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể thay đổi chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải…”

Giải: Đối diện trường đại kiếp nạn này, những người không tin Đại Pháp, thì sẽ “không thuốc trị được, thổ huyết mà chết”. Những người chân chính tu luyện Đại Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, thì không chỉ bình an vô sự, mà còn từ phàm nhân chuyển thành Thánh nhân; còn người phản đối thì không ai sống sót. Thân Đại nhân hỏi: Liệu có biện pháp nào thay đổi tình huống này không? Thiên Sư đáp lại rằng: Chỉ có ba chữ (tức “Chân-Thiện-Nhẫn”) mới có thể giải cứu…

Thiên hạ có mười sầu lớn: Nhất sầu tật bệnh vô trị; nhị sầu hạn hán thủy tai, tam sầu ngày đêm bất an; tứ sầu phụ tử bất đoàn viên; ngũ sầu phu thê không gặp mặt; lục sầu xác người chết khắp nơi; thất sầu thây cốt không người liệm; bát sầu áo không người mặc; cửu sầu cơm không người ăn; thập sầu nhà không người ở.” (Quyển 1)

Đây là miêu tả tình huống sau khi đại ôn dịch phát sinh, nói rất minh bạch, không cần giải thích thêm nữa.

Trong «Thôi Bi Đồ» đề cập đến một lượng lớn người bị chết, nhưng vẫn có người thoát khỏi kiếp nạn này.

Người minh bạch điềm nhiên vô sự, người hồ đồ khó qua năm thái bình, người đi đường chết vô số, trong một vạn chết chín nghìn, không tin quyển kinh này, thập kiếp tại nhãn tiền.” (Quyển 1)

Giải: Người minh bạch chân tướng bức hại, không làm điều xấu, thì trong đại tai nạn vẫn bình an vô sự mà vượt qua; người hồ đồ không biết chân tướng, lại phỉ báng Phật Di Lặc và tham dự bức hại, thì không qua nổi năm thái bình, trốn không được trận ôn dịch này; người đi trên đường chết vô số kể, trong một vạn người chết chín nghìn người; người không tin bộ chân kinh này, mười loại kiếp nạn ở ngay trước mắt.

Người thập phương chết tám chín, còn lại một là hiền lương quân tử, chính là người hành thiện.” (Quyển 2)

Giải: Người các nơi chết tới 80-90% (an bài cũ), chỉ còn lại một bộ phận người, đều là người lương thiện trong sáng và tu đức hành thiện.

(“Thập phương”, là học thuyết về “thế giới mười phương” mà Phật gia khái quát đối với vũ trụ, ở đây có thể lý giải là “người các nơi”.)

Gà vàng gáy, trời sáng thiên môn khai

Trong quyển 3 «Thôi Bi Đồ» còn minh xác đề cập đến tình huống Phật Di Lặc hồng truyền Đại Pháp tại các nơi trên thế giới và Pháp Chính Nhân Gian.

Lúc ấy Di Lặc Phật, tại thập phương bách quốc,… đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh. Toàn bằng Phật bảo thu thập người tàn duyên.”

Giải: Lúc này Phật Di Lặc tại các nơi trên thế giới,… đi lại giữa bốn biển năm châu, cứu độ nhân dân các quốc gia này. Toàn bằng tam tự Phật Pháp, thu thập những người còn có duyên phận ở các nước.

Ban biên tập ghi chú: Từ tháng 5/1992 đến cuối năm 1994, Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất. Tại Trung Quốc, Đại sư Lý Hồng Chí đáp ứng lời mời của các ban ngành chính phủ và Hiệp hội Khí công các nơi, không ngừng bôn ba khắp Đông Tây Nam Bắc, truyền Pháp truyền công, chỉ trong thời gian hơn 2 năm ngắn ngủi đã tổ chức 54 lớp học Pháp Luân Công trên cả nước. Kể từ năm 1995, Lý Đại sư bắt đầu lịch trình truyền Pháp tại các nước hải ngoại; tính tới nay, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền tại hơn 114 quốc gia và khu vực. Đây chính là điều dự ngôn nói là “đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh.”

Khi ấy Di Lặc Phật, Pháp chính càn khôn, lực trảm quần ma, trừ ác đến trung thiên.”

Giải: Phật Di Lặc dùng tam tự chân Pháp để quy chính Trời Đất vũ trụ, triệt để tiêu hủy hết thảy tà ác lạn quỷ, trừ ác tiến nhập tới Trung Quốc, trừ sạch tất cả những tà ác cuối cùng.

(“Quần ma” chỉ những sinh mệnh tà ác phỉ báng tam tự chân kinh, bức hại đệ tử Phật Di Lặc và ngăn cản bách tính liễu giải được chân tướng Đại Pháp; “trung thiên” chỉ Trung Quốc.)

Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai,… Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần.”

Giải: Ngay lập tức đệ tử của Phật Di Lặc, kim cương bất động duy hộ Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, không ngừng giảng rõ chân tướng cho thế nhân trong mê, cũng là đang cứu độ chúng sinh, chỉ đợi gà vàng Trung Hoa Đại Địa gáy sớm, khi ấy bình minh xua tan tối tăm, nghênh đón thời khắc Pháp Chính Nhân Gian; đệ tử Đại Pháp các nơi tụ hội, Đại Lục Thần Châu xuất hiện những sinh mệnh cao cấp tu luyện viên mãn—trở thành Thần.

Mười phương trăm nước Pháp Luân huy

Thập phương bách quốc Pháp Luân huy, khắp trời mừng vui, thời hạn mãn. Pháp tử quy thập phương thiên quốc, người quay đầu làm người trên đất, người tới bờ, cùng lên chùa mười vạn tám ngàn, khi ấy Di Lặc Phật ở giữa cười vui vẻ.”

Giải: Toàn thế giới đều nhìn thấy ánh quang huy của Pháp Luân, khắp trời trên dưới cùng đón mừng. Đệ tử tu luyện viên mãn của Phật Di Lặc, quay trở về thế giới của từng người; người biết chân tướng bức hại đã quay đầu hối cải (“người quay đầu”), sau khi kiếp nạn qua đi trở thành nhân loại mới trên Địa cầu tương lai, có phúc phận lớn tương đương; người biết chân tướng bức hại, lại từng bảo hộ đệ tử Phật Di Lặc (“người tới bờ”), sẽ có cơ hội tu luyện chân Pháp, cũng trở thành sinh mệnh cao cấp. Khi ấy Phật Chủ Di Lặc nhìn chúng sinh của vũ trụ mới sau khi Pháp Chính Càn Khôn, sinh cơ bừng bừng, vui vẻ mỉm cười.

Dịch từ:

http://renminbao.com/rmb/articles/2005/3/9/34857.html

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (II) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/09/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay-ii.html/feed0
“Hố địa ngục” và lời tiên tri của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2011/07/ho-dia-nguc-va-loi-tien-tri-cua-luu-ba-on.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/ho-dia-nguc-va-loi-tien-tri-cua-luu-ba-on.html#respondSat, 23 Jul 2011 10:48:21 +0000https://chanhkien.org/?p=12672Tác giả: Trạc Trần [Chanhkien.org] Kể từ tháng 4 năm 2010, sau khi huyện Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên đột nhiên xuất hiện 26 hố sụt đất, các tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam, Quảng Tây, Giang Tây, Quảng Đông, v.v. ở Trung Quốc cũng theo đó phát sinh sụt lún cục bộ và hình thành […]

The post “Hố địa ngục” và lời tiên tri của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trạc Trần

[Chanhkien.org] Kể từ tháng 4 năm 2010, sau khi huyện Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên đột nhiên xuất hiện 26 hố sụt đất, các tỉnh Chiết Giang, Hồ Nam, Quảng Tây, Giang Tây, Quảng Đông, v.v. ở Trung Quốc cũng theo đó phát sinh sụt lún cục bộ và hình thành các hố tự nhiên. Những hố xuất hiện do sụt đất này gây tổn thất kinh tế nhất định cho dân chúng sở tại, đồng thời trực tiếp đe dọa an toàn tính mạng và tài sản của dân chúng, chẳng hạn: ngày 17 tháng 1 năm 2010, trường tiểu học Phúc Tuyền ở trấn Đại Thành Kiều, huyện Ninh Hương, tỉnh Hồ Nam đột nhiên xuất hiện sụt lún, một phòng học cấp bốn đột nhiên biến mất. Mấy tháng sau, phạm vi sụt đất không ngừng khuếch đại, cả bãi tập của trường học bị thôn tính. Đường kính miệng hố hiện tại đã lên tới hơn 80 mét, trực tiếp đe dọa khu lớp học 2 tầng và dân cư quanh đó, tạo thành uy hiếp rất lớn tới an toàn của cư dân.

Ngày 3 tháng 6 năm 2010, ngọn núi lớn ở thôn Cát Lợi, trấn Lương Giang, thành phố Lai Tân thuộc khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây bỗng nhiên sụt xuống hình thành 4 hố lớn. Mặt đất sụt lún khiến phòng ốc, tường vách bị rạn nứt, xiêu vẹo, nhà cửa đổ sập, cũng ảnh hưởng đến thôn lân cận trên núi và một đập chứa nước nhỏ.

Tối ngày 8 tháng 6 năm 2010, vạch kẻ ngang dành cho người đi bộ ở khu Thành Hoa, thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên đột nhiên sụt xuống, tạo thành một hố sâu 3 mét khiến dân chúng không dám đến gần.

Ngày 9 tháng 6 năm 2010, tại thôn Trần Ốc, trấn Cửu Pha, thành phố Liên Châu, tỉnh Quảng Đông, một con trâu nặng cả trăm cân bị rơi vào hố gây ra bởi sụt đất, sau đó người ta phát hiện con trâu đã chết. Hơn 20 dân làng đã cố gắng dùng ròng rọc để kéo con trâu lên, nhưng kết quả nỗ lực trong mấy ngày mà không thành công.

…………………..

Sự xuất hiện của các “hố địa ngục” đã khiến dân chúng cực kỳ hoảng sợ, trong dân gian người ta nhao nhao truyền nhau sắp có địa chấn lớn xảy ra. Một số chuyên gia đã đứng ra giải thích và chỉ ra rằng nó không liên quan gì tới động đất, thế nhưng vẫn không thể xua tan mối nghi ngại trong dân chúng. Trên thực tế, “hố địa ngục” chính là sụt đất trong phạm vi nhỏ, nhưng nguyên nhân ở tầng sâu dẫn tới sụt đất là gì? E rằng đây không phải là điều mà các chuyên gia có thể giải thích từ góc độ khoa học hiện đại. Ví như mấy ngày trước, tại đoạn quốc lộ Giang Sơn trên đường cao tốc Hoàng Cù Nam, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc xuất hiện “hố địa ngục” với đường kính 8,3 mét, sâu 6 mét; mặt hố rất tròn, vách hố trơn tuột, trông không giống hố tự nhiên, thậm chí người ta còn thấy nguyên mặt nhựa đường dưới đáy hố. Kỳ lạ kiểu này giống như quỷ thần làm, chứ ngay cả dùng sức người khoét ra cũng khó đạt đến mức độ tròn như thế.

“Hố địa ngục” xuất hiện ngày nay tuyệt không phải là ngẫu nhiên. Dân gian Trung Quốc vẫn lưu truyền thuyết về “trời sụp đất lún”, “hố địa ngục” phải chăng là báo trước nhân loại sẽ phải đối diện với sụt đất trong phạm vi lớn hơn? Trong biến hóa địa chất của lịch sử lâu dài, có bản khối đại lục trồi lên, lại cũng có bản khối đại lục trầm xuống. Lục địa Atlantis theo truyền thuyết cũng từng bị chìm toàn bộ xuống đáy biển, quả là một tình cảnh đáng sợ! Ở đây tôi xin mạo muội đưa ra lời tiên tri nổi tiếng của đại dự ngôn gia Lưu Bá Ôn—«Lưu Bá Ôn bia ký tại núi Thái Bạch, tỉnh Thiểm Tây», trong đó có đoạn:

“Tiền bạc là vật bảo,
Nhìn thấu dùng không được.
Quả thực là vật bảo,
Lòng đất nứt không đảo.”

Bốn câu này nói, tiền bạc trong con mắt người ta được coi là vật bảo, thế nhưng khi nhìn thấu thì thấy nó không dùng để làm gì. “Nhìn thấu” gì đây? Chính là một khi “lòng đất nứt” thì tiền bạc không có giá trị sử dụng nữa, bởi vì lúc ấy nhân loại đã chẳng còn chỗ nào để trốn, vậy thì làm gì còn cơ hội tiêu tiền nữa? Có thể thấy, “lòng đất nứt” này đối với nhân loại mà nói là một tai họa ngập đầu, chính là điều truyền thuyết gọi là “trời sụp đất lún”. “Hố địa ngục” rất có khả năng là một điềm báo cho “lòng đất nứt” (tức “trời sụp đất lún”) trong tương lai. Đối diện với tai họa mang tính hủy diệt này, người ta liệu có thể “không đảo” mà vượt qua hay không? Có thể, bởi vì người được chân chính “bảo” hộ có thể vượt qua kiếp nạn này. Như vậy “vật bảo” chân chính ở đây là gì? Trong đoạn dự ngôn tiếp theo, Lưu Bá Ôn giải đáp câu hỏi này như sau:

“Bảy người một đường tẩu,
Dẫn dụ đã vào khẩu. (chữ “Chân”)
Ba chấm cộng một câu, (chữ “Nhẫn”)
Bát Vương nhị thập khẩu.” (chữ “Thiện”)

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu”: chính là chữ “Chân” (眞), viết theo tả pháp cổ đại. Chữ “Chân (眞) có thượng bộ là chữ “thất” (七), nghĩa là “bảy”; hạ bộ là do “nhân” (人) và “nhất” (一) tổ hợp mà thành, nghĩa là “một đường chạy”; đem phần “cung” (弓) của chữ “dẫn” (引) xếp đan xen vào chữ “khẩu” (口) thì tạo thành chữ “mục” (目), đây chính là phần giữa của chữ “Chân” (眞).

“Ba chấm cộng một câu“: chính là chữ “Nhẫn” (忍). Trong ba chấm này, đem một chấm đan vào bộ “đao” (刀) ở nửa trên của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “nhẫn” (刃); rồi lại đem hai chấm đặt lên nửa dưới “厶” của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “tâm” (心); chữ “nhẫn” (刃) đặt trên chữ “tâm” (心) chính là chữ “Nhẫn” (忍).

“Bát Vương nhị thập khẩu“: chính là chữ “Thiện” (善). Chữ “Thiện” (善) từ trên xuống dưới là do “bát” (八) (lật ngược), “Vương” (王), “niệm” (廿) (nghĩa là 20), và “khẩu” (口) tổ hợp thành.

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu. Ba chấm cộng một câu, bát Vương nhị thập khẩu“, liên kết lại tạo thành “Chân, Thiện, Nhẫn” (眞善忍).

Ở đây, Lưu Bá Ôn đã dùng hình thức câu đố chữ để nói với chúng ta rằng “vật bảo” này chính là “Chân-Thiện-Nhẫn”. Bất luận thế nào, chỉ cần nhận thức được “Chân-Thiện-Nhẫn” là có thể vượt qua đại kiếp nạn rồi, là có thể “Người người đều hỷ cười, ai ai cũng bình an”. “Chân-Thiện-Nhẫn” là đặc tính vũ trụ, là thể hiện tầng thứ tối cao của Pháp Luân Công. Xin các bạn nghìn vạn lần trân quý Pháp bảo mà Thần Phật đã ban cho nhân loại, hãy thành tâm niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo”, nhất định có thể gặp hung hóa cát, gặp dữ hóa lành, tiến nhập vào kỷ nguyên mới tràn đầy ánh sáng!

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/6/16/66777.html

The post “Hố địa ngục” và lời tiên tri của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/ho-dia-nguc-va-loi-tien-tri-cua-luu-ba-on.html/feed0
Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.htmlhttps://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html#respondTue, 12 Jul 2011 06:27:42 +0000https://chanhkien.org/?p=12552Tác giả: Đồng Tâm [Chanhkien.org] Tán Lưu Bá Ôn «Thiêu Bính Ca» Đế nghiệp khai quốc phụ đại Minh, Mang mang thế sự khí vô bằng. Phúc chung cái oản tri thần toán, Hạ giới lâm phàm cứu vũ băng. Đạo phá vị lai Phật Chủ độ, Thần thông hậu thế Pháp thuyền đăng. Linh […]

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đồng Tâm

[Chanhkien.org]

Tán Lưu Bá Ôn «Thiêu Bính Ca»

Đế nghiệp khai quốc phụ đại Minh,
Mang mang thế sự khí vô bằng.
Phúc chung cái oản tri thần toán,
Hạ giới lâm phàm cứu vũ băng.
Đạo phá vị lai Phật Chủ độ,
Thần thông hậu thế Pháp thuyền đăng.
Linh Sơn liệt hỏa kiếp vưu tại,
Chính quả năng tu hạc liễn thừa.

Tạm dịch:

Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn

Khai sáng Đế nghiệp dựng đại Minh,
Dự đoán thế sự mấy ai bằng.
Vang danh thiên hạ phục thần toán,
Hạ giới lâm phàm cứu chúng sinh.
Tiên tri vị lai Phật Chủ hạ,
Thần thông hậu thế Pháp thuyền đăng.
Ngọn lửa Linh Sơn vượt kiếp nạn,
Tu thành chính quả cưỡi hạc thăng.

Ghi chú của người dịch:

Linh Sơn: danh từ trong Phật giáo, dùng để chỉ một ngọn núi lớn trong vũ trụ, là nơi mà chư Phật, Đạo, Thần tụ hội. «Thiêu Bính Ca»: dự ngôn nổi tiếng của Lưu Bá Ôn triều Minh (xem thêm).

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/11/20/69795.html

The post Vườn thơ Chánh Kiến: Ngợi ca «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/07/vuon-tho-chanh-kien-ngoi-ca-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html/feed0
«Lưu Bá Ôn bia ký» — Bão Mặt trời và ôn dịchhttps://chanhkien.org/2011/06/luu-ba-on-bia-ky-bao-mat-troi-va-on-dich.htmlhttps://chanhkien.org/2011/06/luu-ba-on-bia-ky-bao-mat-troi-va-on-dich.html#respondSat, 18 Jun 2011 08:26:47 +0000https://chanhkien.org/?p=12428Tác giả: Thần Quang [Chanhkien.org] Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, từng phụ tá Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ, kiến lập triều Minh, là Tể tướng khai quốc triều Minh. Ông tính tình khoáng đạt chính trực, liêm khiết phụng sự việc công, không chỉ là một vị tướng trong […]

The post «Lưu Bá Ôn bia ký» — Bão Mặt trời và ôn dịch first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thần Quang

[Chanhkien.org] Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, từng phụ tá Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ, kiến lập triều Minh, là Tể tướng khai quốc triều Minh. Ông tính tình khoáng đạt chính trực, liêm khiết phụng sự việc công, không chỉ là một vị tướng trong triều, mà còn là một cao nhân đắc Đạo, đã vì hậu thế mà lưu lại rất nhiều dự ngôn, bao gồm dự ngôn «Thiêu Bính Ca» được nhiều người biết. Dự ngôn của ông được người đời sau nghiệm chứng, mãi cho đến tận hiện tại, miễn là sự tình đã phát sinh thì đều vô cùng chuẩn xác. Dự ngôn của Lưu Bá Ôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, tỉnh Thiểm Tây, còn gọi là «Lưu Bá Ôn bia ký», là do một trận địa chấn mà lộ ra ngoài, nói với người ta cảnh tượng đáng sợ về những sự việc có liên quan đến đại kiếp nạn thời mạt kiếp.

Trong «Lưu Bá Ôn bia ký» có ghi lại một đoạn tiên tri như sau:

“Thiên có nhãn, Địa có nhãn, Người người cũng có một đôi nhãn.
Thiên cũng lật, Địa cũng lật, Tiêu dao tự lại lạc vô biên.”

Mấy câu trên ý nói Thiên Địa, nhân gian đều nằm trong tầm mắt của chư Thần; người người cũng đều nhìn thấy trạng thái của xã hội nhân loại; thế nhưng ai ai cũng đều tìm cầu khoái lạc, tựa như rất tiêu dao tự tại, không có gì để ước thúc đạo đức. Nếu cứ như vậy, kết quả sẽ ra sao?

“Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, Kẻ giàu một vạn lưu hai ba.
Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, Nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền.”

Từ mấy câu trên có thể thấy hậu quả đáng sợ khi nhân loại mất đi tiêu chuẩn đạo đức. Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, kẻ giàu một vạn lưu hai ba. Loại tai nạn nào có thể khiến nhân loại bi thảm như vậy? Từ tình huống thê thảm bên trên mà xét, thì dường như là một loại dịch bệnh tương tự như SARS và cúm heo, tuy nhiên cướp đi rất nhiều sinh mệnh. Thế nhưng con người vẫn phớt lờ trước những cảnh tỉnh từ các dự ngôn xưa, vứt bỏ văn hóa Thần truyền, xa rời chuẩn tắc đạo đức, mà lại nghiên cứu tìm biện pháp cực đoan. Bao nhiêu tài lực của nhân loại liệu có thể giải quyết được tai nạn trước mắt hay không?

“Bình địa không có ngũ cốc trồng, Cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người.
Nếu hỏi ôn dịch thời nào hiện, Nên xem giữa cửu Đông tháng Mười.”

Mấy câu trên đã nói rõ tai nạn trước mắt mà nhân loại sẽ phải đối diện chính là “ôn dịch”, đồng thời đề cập đến thời gian phát sinh. Đối với những thứ hung khí quái dị thì cổ nhân Trung Quốc thường dùng “ôn dịch” để hình dung. Như vậy trận ôn dịch này là thế nào? Chúng ta chỉ biết rằng thời gian phát sinh ôn dịch sẽ là “giữa tháng Chín tháng Mười mùa Đông” một năm nào đó.

Tháng 3 năm 2009, tạp chí “New Scientist” của Anh đã công bố bản báo cáo của một nhà khoa học Mỹ, trong đó dự tính ngày 22 tháng 9 năm 2012 sẽ xuất hiện bão Mặt trời cực mạnh, trên bầu trời thành phố New York sẽ xuất hiện ánh sáng nhiều màu; một năm sau, hàng triệu người Mỹ sẽ lần lượt tử vong; hơn nữa đây là tai họa mang tính toàn thế giới, rất nhiều quốc gia đều sẽ phát sinh.

Nghe nói nguyên nhân dẫn tới tai họa này là vì Mặt trời phóng tới Địa cầu hàng tỷ tấn thể Plasma; sau khi tiến nhập Địa cầu, những thể Plasma này sẽ phá hoại từ trường Trái đất và gây ra các tai nạn mang tính hủy diệt. Không lâu sau, Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) đã dùng kính viễn vọng Hubble để chụp ảnh bề mặt Mặt trời; họ đã thấy được tình huống các lạp tử vật chất phun ra ngoài, sau đó đã đưa ra dự báo từ trường Trái đất sẽ thay đổi vào năm 2012.

Như vậy mấy câu “Nếu hỏi ôn dịch thời nào hiện, nên xem giữa tháng Chín tháng Mười mùa Đông” bên trên phải chăng có liên hệ với phát hiện khoa học này?

Mỗi khi trên thế giới phát sinh đại sự thì thường sẽ có các dự ngôn xuất hiện để cảnh tỉnh con người. Chẳng hạn tiên tri của người Maya nói nhân loại sẽ tiến nhập thời kỳ canh tân vào năm 2012; Phật Thích Ca Mâu Ni nói về mạt kiếp thời mạt pháp; Chúa Jesus nói về ngày tận thế; đối với “đại thẩm phán” được giảng trong «Thánh Kinh» đều là có quan hệ. Còn như nói về hủy diệt nhân loại thì «Thánh Kinh» giảng về đại hồng thủy; như vậy, vào lúc Mặt trời phóng tới Địa cầu hàng tỷ tấn thể Plasma, thì phải chăng sẽ tạo thành một loại “ôn dịch” đặc biệt khiến “Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, Kẻ giàu một vạn lưu hai ba”? Nghe nói bão từ Mặt trời có thể khiến các thiết bị khoa học của nhân loại bị tê liệt hoàn toàn. Nếu quả như vậy, sau bão Mặt trời, nhân loại hoàn toàn không thể dùng biện pháp khoa học để giải quyết hậu quả; phải chăng đây là lúc “Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, Kẻ giàu một vạn lưu hai ba” bắt đầu? Phải chăng là dùng hình thức này để xử lý những ai một mực không nghe lời Thần, những người xấu trong “đại thẩm phán”? Nếu như nói trong «Thánh Kinh» ghi lại Thần đã dùng đại hồng thủy để tiêu hủy một nền văn minh nhân loại như thế nào, thì phải chăng vào lúc Mặt trời phóng tới Địa cầu hàng tỷ tấn thể Plasma, nó sẽ tạo thành các loại tai nạn mà con người hoàn toàn không thể chế ngự? Trong “Sáng Thế Ký” của «Thánh Kinh» cũng nói thế giới là do Thần tạo thành. Con người không còn tốt nữa thì có lẽ Thần cũng không cần con người nữa.

Kỳ thực, các loại tai nạn phát sinh trên Địa cầu đều là nhắm vào nhân loại. Đối diện với những tai nạn này, liệu con người có biện pháp nào để tránh hay không?

“Người làm việc thiện thì được thấy, Kẻ làm việc ác không được xem.
Trên đời có người hành Đại Thiện, Lây bởi kiếp này thật không đáng.”

Mấy câu này đã nói rõ biện pháp tránh nạn chính là phải hành Thiện, đồng thời khuyên con người hãy mau đi tìm những người “hành Đại Thiện” để được cứu độ; nếu không, bỏ lỡ dịp này thì sẽ ân hận mãi mãi. Như vậy những người “hành Đại Thiện” này rốt cuộc là ai? Họ dùng điều gì để giải cứu chúng sinh?

“Tiền bạc là vật bảo, Nhìn thấu dùng không được.
Quả thực là vật bảo, Lòng đất nứt không đảo.”

Mấy câu trên đã tiết lộ những người “hành Đại Thiện” này là ai, đó chính là các học viên Pháp Luân Đại Pháp. Đồng tiền thời cổ đại ở giữa có một lỗ hình vuông; đây chính là ám chỉ Pháp Luân của Pháp Luân Công; hình tượng rất tương tự. Pháp Luân ở giữa là phù hiệu chữ Vạn (卍) lớn của Phật gia, chính là có hình vuông. Khi xem sách của Pháp Luân Đại Pháp và đối chiếu với đồ hình Pháp Luân thì liếc một cái là rõ ngay. Dự ngôn nói với chúng ta rằng Pháp Luân Đại Pháp là vật bảo của Trời, nếu như có thể đắc được, thì dẫu tai nạn đất long núi lở thế nào cũng không sợ.

Đồ hình Pháp Luân trông rất giống với hình đồng tiền thời cổ đại.

“Bảy người một đường tẩu, Dẫn dụ đã vào khẩu.
Ba chấm cộng một câu, Bát Vương nhị thập khẩu.”

Mấy câu trên dùng hình thức câu đố chữ để ám chỉ Pháp Luân Đại Pháp. Đoạn này đã có người phá giải trên Chánh Kiến Net rồi, ngoài ra tiết mục “Dự ngôn và nhân sinh” trên Đài truyền hình Tân Đường Nhân cũng có đề cập, ở đây chúng ta nhắc lại:

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu“: chính là chữ “Chân” (眞), viết theo tả pháp cổ đại. Chữ “Chân (眞) có thượng bộ là chữ “thất” (七), nghĩa là “bảy”; hạ bộ là do “nhân” (人) và “nhất” (一) tổ hợp mà thành, nghĩa là “một đường chạy”; đem phần “cung” (弓) của chữ “dẫn” (引) xếp đan xen vào chữ “khẩu” (口) thì tạo thành chữ “mục” (目), đây chính là phần giữa của chữ “Chân” (眞).

“Ba chấm cộng một câu“: chính là chữ “Nhẫn” (忍). Trong ba chấm này, đem một chấm đan vào bộ “đao” (刀) ở nửa trên của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “nhẫn” (刃); rồi lại đem hai chấm đặt lên nửa dưới “厶” của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “tâm” (心); chữ “nhẫn” (刃) đặt trên chữ “tâm” (心) chính là chữ “Nhẫn” (忍).

“Bát Vương nhị thập khẩu“: chính là chữ “Thiện” (善). Chữ “Thiện” (善) từ trên xuống dưới là do “bát” (八) (lật ngược), “Vương” (王), “niệm” (廿) (nghĩa là 20), và “khẩu” (口) tổ hợp thành.

“Bảy người một đường tẩu, dẫn dụ đã vào khẩu. Ba chấm cộng một câu, bát Vương nhị thập khẩu“, liên kết lại tạo thành “Chân, Thiện, Nhẫn” (眞善忍).

Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói với chúng ta rằng vào mạt kiếp thời mạt pháp, Pháp Luân Thánh Vương sẽ hạ thế độ nhân; Chúa Jesus cũng giảng rằng vào ngày tận thế, Mặt trời do Thượng Đế vun trồng sẽ tới. Pháp Luân Đại Pháp nói với chúng ta rằng “Chân-Thiện-Nhẫn” là căn bản của vũ trụ, là đặc tính tối cao của vũ trụ, ước chế hết thảy mọi vật chất trong vũ trụ. Do đó, chỉ cần nhận thức, tuân theo và đồng hóa với đặc tính “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ thì sẽ có thể đạt được sự bảo hộ của vũ trụ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/5/20/66298.html

The post «Lưu Bá Ôn bia ký» — Bão Mặt trời và ôn dịch first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/06/luu-ba-on-bia-ky-bao-mat-troi-va-on-dich.html/feed0
Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (I)https://chanhkien.org/2011/04/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay.html#respondFri, 22 Apr 2011 13:06:45 +0000https://chanhkien.org/?p=11616Tác giả: Sử Giám [Chanhkien.org] Lời nói đầu: Nhân loại đến từ đâu và rồi sẽ đi về đâu? Có lẽ dựa vào truyền thuyết và thần thoại của các quốc gia trên thế giới, các cố sự tôn giáo, cũng như lịch sử ghi lại, chúng ta có thể tìm lại được những ký […]

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (I) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sử Giám

[Chanhkien.org] Lời nói đầu:

Nhân loại đến từ đâu và rồi sẽ đi về đâu? Có lẽ dựa vào truyền thuyết và thần thoại của các quốc gia trên thế giới, các cố sự tôn giáo, cũng như lịch sử ghi lại, chúng ta có thể tìm lại được những ký ức bị thất lạc ấy. Thần thoại và truyền thuyết các nước trên thế giới đều có đề cập đến trận đại hồng thủy một cách trùng hợp, khiến người ta vô cùng kinh ngạc. Ví như thổ dân Châu Mỹ có hơn 130 thần thoại về đại hồng thủy. Thần thoại Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Australia, Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, v.v. cũng đều lưu lại những ký ức về trận đại hồng thủy khủng khiếp ấy. Ở một vùng dưới chân núi Himalaya tại Tây Tạng, người ta đã phát hiện được một bộ lạc; họ là nhân chủng rất giống với người Hy Lạp cổ, do vậy người ta cho rằng họ là những người may mắn còn sót lại sau trận đại hồng thủy.

Năm 1986, thông tấn xã nhà nước của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố đã phát hiện được một vật thể có dạng con thuyền Noah trên đỉnh núi Ararat ở độ cao 5.200 mét, và từ ảnh chụp trên không trung, người ta thấy đầu con thuyền tròn như củ hành, và chiều dài con thuyền trùng khớp với điều được mô tả trong «Thánh Kinh». Như vậy tại sao nhân loại lại gặp phải đợt tai nạn ấy? Truyền thuyết các nước đều có giải thích thống nhất về vấn đề này, đó chính là vì sự sa đọa của nhân loại; các nhà khảo cổ học Châu Âu cũng đã khai quật được những di tích thời Hy Lạp cổ cho thấy sự sa đọa của nhân loại vào thời ấy. Các vị Thần đã quyết định trừng phạt nhân loại, và thế là sau đó một trận đại hồng thủy nhấn chìm cả địa cầu,…

Hàng ngàn năm đã trôi qua, các sinh mệnh trong vòng luân hồi chuyển thế đều đã quên mất những ký ức xa xưa ấy. Đối với tương lai, họ cũng thấy mù mờ như vậy. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều lời tiên tri, và tại các quốc gia cũng lưu lại những đại dự ngôn khác nhau. Ví dụ tác phẩm nổi tiếng «Các Thế Kỷ» của Nostradamus dự đoán chính xác về rất nhiều sự kiện lớn trong lịch sử, chẳng hạn hai trận đại chiến thế giới, chiến tranh vùng Vịnh, Liên Xô giải thể, v.v. Bài thơ «Mai Hoa Thi» thời Bắc Tống tiên tri rất chính xác về sự hoán chuyển của các triều đại Trung Quốc cũng như sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Có dự ngôn tiên tri rằng hiện tại là thời kỳ người và Thần cùng tồn tại, lại cũng có dự ngôn tiên đoán về đại kiếp nạn của nhân loại, rằng năm 1999 tại Trung Quốc sẽ có một sự kiện nào đó phát sinh, tuy nhiên “ngày tận thế” năm 1999 đã không còn tồn tại nữa,…

Những thần thoại và dự ngôn này có thể khiến chúng ta có một vài suy ngẫm.

Lời cảnh tỉnh trong lịch sử

Chúng ta đều đã biết cách ghi năm theo Công nguyên bắt đầu từ đâu, ấy là để tưởng niệm năm đầu tiên Chúa Jesus bị đóng đinh trên Thập tự giá, đó là năm đầu tiên sau Công nguyên.

Khi Chúa Jesus bị những người Do Thái phản bội, người La Mã đã đóng đinh Ngài lên Thập tự giá, khi ấy có người qua đường nhìn thấy cười rằng: “Ông nói ông là con của Thượng Đế, mà lại bị đóng lên cây Thập tự rồi hạ xuống à!” “Ông đi cứu độ người khác, chứ không cứu nổi chính ông, hãy để Thượng Đế cứu ông đi, bởi vì ông nói ông là con của Thượng Đế mà.” Lúc ấy, Chúa Jesus cực kỳ đau đớn trên Thập tự giá. Khi Ngài la lên một tiếng, tất cả các bức màn trong đền thờ đều đồng loạt hạ xuống, Trái đất chao đảo, khi ấy những người chứng kiến trợn tròn mắt kinh ngạc: “A! Ông đúng là con của Thượng Đế!!“… Ba ngày sau Chúa Jesus phục sinh. Đây chính là nguồn gốc “lễ Phục Sinh” ở Tây phương.

Về sau Đế quốc La Mã hùng mạnh nhất thế giới đã bị bệnh dịch hạch bao trùm (“cái chết đen”), người dân chết một lượng lớn, xác chết chồng chất trên phố. Trải qua ba đợt dịch bệnh, chẳng còn mấy người sống sót, Đế quốc La Mã cuối cùng tiến đến bờ diệt vong. Người Do Thái từ đó cũng mất quê hương, bị các nước trên thế giới xua đuổi, lưu lạc khắp nơi. Trong chiến tranh thế giới thứ II, người Do Thái bị thảm sát thê thảm, chỉ còn một số ít người sống sót, an thân nơi hoang mạc, lại vẫn khói lửa chiến tranh liên miên. Con người ngày nay đã không còn tin vào Thần nữa, không còn tin rằng “Thiện ác hữu báo” nữa, không có cách nào lý giải tại sao vùng Trung Đông lại rối loạn không ngừng, chiến họa liên miên như vậy. Bởi vì họ đã đem vị Giác Giả cứu độ họ đóng đinh lên Thập tự giá, tạo nên tội nghiệp tày trời, mắc một món nợ khổng lồ vĩnh viễn không bồi hoàn được.

Vào lúc Chúa Jesus mang theo Thập tự giá, lảo đảo trên đường đến pháp trường, Ngài nhìn thấy trên đường có một người phụ nữ đang khóc vì Ngài, Ngài đã nói một cách từ bi và sâu sắc: “Cô ơi, xin cô hãy khóc cho các con các cháu của cô đi.” Với tư duy của con người thì không thể lý giải được câu nói xuyên thấu thời không của một Giác Giả vĩ đại, mãi cho tới ngày nay chẳng phải câu nói này vẫn ứng nghiệm hay sao?

*   *   *

Thần chính là sinh mệnh cao tầng thực sự tồn tại, hết thảy sự việc của con người đều nằm trong sự an bài của chư Thần. Lúc còn sống, thuyết vô thần của Mao Trạch Đông đã bị những người tu luyện thách thức: “Một đời của ông với 8341 là có quan hệ“. Mao không biết được vì sao, nên đã gọi bộ đội cảnh vệ của mình là “Bộ đội 8341”. Lúc lâm chung thì mới minh bạch, ấy là vì Mao thọ mệnh 83 tuổi, tại vị 41 năm (từ Đại hội Tuân Nghĩa năm 1935, Mao nắm quyền lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ, cho tới năm 1976 tạ thế)! Con người không thể thoát khỏi định số của Thần.

Từ các chủng dự ngôn có thể thấy rằng, hiện tại vũ trụ đang trong giai đoạn giao thời giữa cũ và mới. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về thời kỳ mạt pháp, mạt kiếp, chính là hôm nay. Mạt kiếp là kiếp tối hậu, mạt pháp là những phương pháp tu luyện trước đây không còn cứu được con người bại hoại ngày nay nữa. Vì thế vị Chủ của vũ trụ mới phải hạ thế, tự mình truyền Đại Pháp căn bản của vũ trụ, Pháp chính càn khôn, đồng thời cũng cứu độ hết thảy sinh mệnh bại hoại, bao gồm thế nhân.

Di Lặc hạ thế tại đâu?

Quốc sư triều Minh Lưu Bá Ôn tại quyển 2 «Thôi Bi Đồ» đã tiên tri:

Đại Giác Giả “thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.

(Trung Quốc hình như Kim Kê {con gà vàng}, “Kim Kê mục” là vị trí tỉnh Cát Lâm. Chỉ Giác Giả chuyển sinh nhân thế tại Cát Lâm, thuộc Thỏ, Mộc Tử tính, tức họ Lý. Trong tiếng Hán, “Mộc Tử” (木子) chính là chữ “Lý” (李)).

Ngoài ra, Lưu Bá Ôn và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có một đoạn đối thoại liên quan tới lịch sử ngày nay, trình bày càng rõ ràng minh bạch xuất chúng hơn nữa:

“Hoàng Đế hỏi: Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?

Bá Ôn đáp: Có thơ làm chứng rằng:

Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo
Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng
Chân Phật không ở trong tự viện
Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.”

Giải: Vào cuối thời mạt pháp, người truyền chính Pháp sẽ không phải là hòa thượng trong chùa chiền, cũng không phải là đạo sĩ trong đạo quán. “Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” ý nói người truyền chính Pháp để tóc ngắn kiểu nam tử ngày nay (đàn ông thời xưa để tóc dài), minh xác chỉ rõ: Chân Phật truyền chính Pháp không phải là người trong Phật giáo.

“Hoàng Đế hỏi: Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?

Bá Ôn đáp: Nghe thần nói đây: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc.”

Giải: Vị Chủ của vũ trụ truyền chính Pháp trong tương lai sẽ không sinh ra tại gia đình quan chức Chính phủ, không thuộc gia đình quyền quý, cũng không xuất thân tại chùa chiền hay đạo quán, mà sẽ giáng sinh trong gia đình người dân nghèo.

“Yên Nam Triệu Bắc” là chỉ vùng đất nước Yên, nước Triệu thời Chiến Quốc, tức vị trí Bắc Kinh ngày nay. “Rải vàng” là ẩn dụ Phật Pháp quý giá như vàng, truyền khắp bốn phương.

Ghi chú: Năm 1992, Đại sư Lý Hồng Chí bắt đầu hồng truyền Đại Pháp tại Bắc Kinh —tại Hội Sức khỏe Đông phương, mượn hình thức khí công để khiến người ta liễu giải được Pháp Luân Đại Pháp.

“Hoàng Đế hỏi: Khanh nói gì về Đạo thời đó?

Bá Ôn đáp: Lúc sắp kết thúc, vạn Tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát, khó thoát kiếp này, duy có mạt lai Phật hạ thế truyền Đạo, thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ, nếu không gặp con đường Kim Tuyến, khó tránh kiếp này, bị tước quả vị, sau cùng Di Lặc phong bế hết 81 kiếp.”

Giải: Vào lúc sắp kết thúc thời kỳ mạt pháp, vô số Vương, vô số Phật, Bồ Tát, La Hán, vô số Đạo, Chân Nhân khắp Trời, họ đều khó thoát khỏi kiếp nạn này. Họ đều thấy trước sẽ xuất hiện kiếp nạn này, đã biết trước về thời kỳ này, rằng “vạn vương chi Vương” của vũ trụ —vị Phật tương lai— sẽ hạ xuống nhân gian hồng truyền Đại Pháp vũ trụ. Do đó họ đều ào ào chuyển sinh đến thế gian con người, lợi dụng thân người để đồng hóa với Đại Pháp được Đức Phật Chủ hồng truyền tại nhân gian. “Thiên thượng thiên hạ chư Phật chư Tổ”, bất kể là ai, nếu không gặp được “con đường Kim Tuyến” (con đường tu luyện Đại Pháp) được so sánh là quý như vàng này, thì đều không thể thoát khỏi trường kiếp nạn.

Rất nhiều dự ngôn cổ đại toàn thế giới đều đề cập rằng: “Nếu như vào lúc giao thời thiên niên kỷ phát sinh một sự kiện đặc định nào đó, thì tất cả dự ngôn về đại tai nạn hủy diệt toàn cầu đến đó là kết thúc.” Như vậy, “sự kiện đặc định” ở đây là chỉ điều gì? Vì sự an nguy của nhân loại tương lai, rất nhiều người quan tâm đến sự việc này. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ khám phá xem «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn giải thích như thế nào về vấn đề này.

Phân tích một bộ phận «Thôi Bi Đồ»

(1) Ác ma khắp nơi, tôn giáo tiêu vong

Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Hai bộ dự ngôn này, tiên tri rất rõ ràng từ thời Thanh mạt đến hiện tại (lúc giao thời thiên niên kỷ) về những đại sự mà xã hội Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Vì độ dài bài viết có hạn, nên chúng ta chỉ tuyển chọn những phần có liên hệ mật thiết với sự kiện hiện đang phát sinh tại Trung Quốc ngày nay để giải thích:

Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni chưởng quản thiên hạ một vạn ba ngàn năm nay đã mãn, khoanh tay không có cách nào, nhìn trong chùa miếu không có hòa thượng tu Phật, Phật A Di Đà như thế nào? Thấy Cực Lạc ra sao? Ác ma khắp nơi, nhưng thiên đường Tây phương không có cửa, bách giáo đảo hướng diệt vong, …” (Quyển 1)

Giải: Đạo đức nhân loại thời mạt kiếp mười phần bại hoại, con người khắp nơi đều không có thiện niệm mà chỉ hành ác, ma tính rất lớn. Ở trong chùa miếu người chân tu càng ngày càng ít, ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không còn cách nào, chỉ có thể buông tay không quản nữa. Trăm tôn giáo (“bách giáo”) đều suy vong, đã không còn nữa.

Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới… Ta nói rằng Thượng Thượng Chủ Thánh chính là Di Lặc Phật sẽ sớm đến, …” (Quyển 2)

Giải: Trong nguyên văn, đây là câu thoại mà “Thiên Phật” hồi đáp “Tam Thanh Ngọc Đế”, đại ý là: thế giới đã đến tận cùng tối hậu rồi, thời mạt kiếp đã đến rồi, các chủng tà ác ào ào xuất hiện (như loạn tính, giải phóng tình dục, hút hít ma túy, xã hội đen, v.v.); với đạo đức bại hoại của nhân loại ngày nay thì các Thánh nhân ban sơ không còn cứu nổi nữa, tất phải đợi “Thượng Thượng Chủ Thánh” —tức Sáng Thế Chủ tới.

(“Tam Dương” chỉ ba Thánh nhân là Lão Tử, sơ phàm Ngọc Đế và Khổng Tử; chi tiết về Di Lặc Phật xin tham khảo phần dưới đây).

(2) Di Lặc hạ thế truyền “tam tự chân kinh”

Phật Di Lặc từ Thiên nói rằng: ‘Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn,… lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử vi tính.

Giải: Đoạn trên có thể giải thích như sau:

“Lúc Phật Di Lặc từ biệt sinh mệnh cao tầng trên thiên thượng nói rằng: ‘Sau khi ta tới nhân gian truyền ‘tam tự chân kinh’, nhất định sẽ quy nhất tất cả các pháp ở không gian tầng thấp nhất, dùng bộ Đại Pháp vũ trụ tối cao này để quy chính Thiên Địa,… Thi lễ xong xuyên qua Thần giới, hướng về nhân gian mà đi. Nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian họ là Lý.”

(“Mộc Tử” (木子) là cách viết của chữ “Lý” (李); quá trình từ không gian của Thần hướng về không gian con người mà chuyển sinh gọi là “thấu hư”.)

Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính.

Giải: Bản đồ Trung Quốc có dạng con gà vàng (Kim Kê), “mục” là con mắt, từ địa đồ Trung Quốc mà quan sát thì thấy “Kim Kê mục” chính là vị trí tỉnh Cát Lâm. Ở đây nói Phật Di Lặc xuất sinh tại Cát Lâm, vào năm Thỏ, tức nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian thuộc Thỏ, họ ở nhân gian là “Lý” (Mộc Tử).

Trở về hiện thực xã hội ngày nay, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí sinh ra tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, thuộc Thỏ (sinh năm Thỏ). Năm 1992, Ông Lý Hồng Chí bắt đầu truyền công pháp Phật gia —Pháp Luân Công, hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp— giảng “Chân, Thiện, Nhẫn”, tức “tam tự chân kinh”. Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà số người học người luyện lên tới hàng chục triệu người.

Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

Lúc ấy Di Lặc Phật nói: ‘Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc…’

Giải:  “Phật tam bảo” chính là “tam tự chân kinh” (“Chân, Thiện, Nhẫn”) như đã nói ở trên. “Lưỡng ngọc” là chỉ người tu luyện Pháp Luân Công, mỗi ngày luyện tập 5 bộ công pháp động công và tĩnh công, có thể khiến thân thể dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, cuối cùng trở nên thuần tịnh tựa như ngọc —tới đây người luyện công đã không còn bệnh nữa, do đó cũng không cần dùng thuốc, đạt được mục đích kéo dài thọ mệnh, trường sinh bất lão.

(3) Thiện-ác phân minh

Mà Di Lặc Phật Pháp tử, người người góp đức tích ngọc, đường đường chính chính, cùng tu Di Lặc Phật truyền tam tự, nhân kiến bất nhất, tín giả thiểu, mạ giả đa, thiện ác lưỡng phân thanh.” (Quyển 1)

Giải: Đệ tử của Phật Di Lặc (đệ tử Đại Pháp), ai ai cũng đều thủ đức thực tu, đường đường chính chính cùng tu luyện ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”) mà Phật Di Lặc truyền; còn thế nhân đối với họ có cách nhìn không giống nhau, người kiên định tín ngưỡng Đại Pháp thì ít, kẻ trách mắng Đại Pháp thì nhiều, Thiện-ác do vậy thật phân minh.

Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, thành tâm thực tiễn giả chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín.” (Quyển 2)

Giải: Đến thời điểm này, tại Trung Quốc có thiện nam tín nữ lễ bái ‘tam tự chân kinh’ (“Chân, Thiện, Nhẫn”), thực tâm kính ngưỡng, tín tâm không giảm, người thành tâm tu luyện một cách thực tiễn có thể từ phàm nhân (người thường) tu thành Thánh nhân (tức Phật, Đạo, Thần,… sinh mệnh cao cấp); người thường ở thế gian do thụ nhận ảnh hưởng của thuyết vô thần trong hàng thập niên nên không tin.

(4) Thanh ảnh tề mạ, chúng sinh bất tỉnh

«Thôi Bi Đồ» đã đề cập kỹ càng tỉ mỉ về tình huống Pháp Luân Đại Pháp bị phỉ báng và bức hại tại Trung Quốc như sau:

Đến năm người người đều biết tam tự, không cho là đúng, thanh ảnh tề mạ, Thần khóc quỷ khóc, chúng sinh không hiểu làm sao, một kéo, hai kéo, ba kéo, chúng sinh bất tỉnh.” (Quyển 2)

Giải: Vào những năm Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền, ai ai cũng biết ba chữ “Chân, Thiện, Nhẫn”, lại có kẻ dựa vào truyền thanh truyền hình mà nhất tề phỉ báng, nhục mạ; sinh mệnh cao tầng thấy thế nhân bị ác nhân đương quyền lừa dối, che giấu, do vô tri mà bị kéo theo đồng loạt công kích Phật Pháp, từ đó đi vào con đường cụt của sinh mệnh, do đó vì họ mà khóc thương. Phật Chủ Di Lặc tiếp tục kéo dài thời gian đến Pháp Chính Nhân Gian, với hy vọng chúng sinh tỉnh ngộ để tránh bị đào thải, thế nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn bất tỉnh!

(“thanh” là chỉ thứ phát ra âm thanh, tức truyền thanh; “ảnh” là chỉ thứ phát ra hình ảnh, tức truyền hình.)

Ghi chú: Vào những năm đầu trấn áp Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân lợi dụng báo chí, truyền thanh, truyền hình để tạo nên vô số lừa dối, ác độc công kích Đại Pháp, lại còn cố ý dàn dựng ra “vụ tự thiêu trên Quảng trường Thiên An Môn” để đầu độc vô vàn bách tính, khiến họ vì không biết mà thù hận Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp. Họ không ngờ rằng loại “thanh ảnh tề mạ” này lại khiến họ phải nhận hậu quả nghiêm trọng.

Chúng sinh vẫn cứ bất tín, chửi mắng, phỉ báng, hoành Thiên tảo Địa, người tin phải chịu nỗi khổ bị lưu đày giam ngục.” (Quyển 3)

Giải: Trong những năm Pháp Luân Đại Pháp bị bức hại, đệ tử Đại Pháp bị bắt giữ, kết án, thậm chí bị giết hại; tuy nhiên, chúng sinh bách tính vẫn không tin rằng Phật Pháp mà Phật Di Lặc truyền là thật, vẫn cứ phỉ báng nhục mạ Phật Pháp. Do đó, đệ tử Đại Pháp nói với thế nhân chân tướng bức hại là để giúp những người bị lừa dối và đầu độc thoát khỏi kết cục bị hủy diệt vĩnh viễn vì phỉ báng Phật Pháp.

Còn có rất nhiều điều đáng nói, tuy nhiên vì giới hạn về độ dài phần này, người viết xin được phép dừng bút tại đây. Qua phân tích dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn, chúng ta thấy rằng sự kiện trọng đại ngày hôm nay đã được an bài từ rất lâu rồi, và rằng không có việc gì xảy ra là ngẫu nhiên. Hy vọng những người hữu duyên đọc được bài viết này sẽ lý trí phân biệt rõ thị phi và lựa chọn cho mình một tương lai tươi sáng.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/3/8/31449.html

The post Dự ngôn «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn tiên tri về sự kiện trọng đại ngày hôm nay (I) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/du-ngon-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-tien-tri-ve-su-kien-trong-dai-ngay-hom-nay.html/feed0
«Lưu Bá Ôn bia ký» — Lời cảnh tỉnh về đại kiếp thời mạt pháphttps://chanhkien.org/2011/04/luu-ba-on-bia-ky-loi-canh-tinh-ve-dai-kiep-thoi-mat-phap.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/luu-ba-on-bia-ky-loi-canh-tinh-ve-dai-kiep-thoi-mat-phap.html#respondMon, 18 Apr 2011 15:01:06 +0000https://chanhkien.org/?p=11575Tác giả: Thần Bình chỉnh lý [Chanhkien.org] Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, từng phụ tá Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ, kiến lập triều Minh, là Tể tướng khai quốc triều Minh. Ông tính tình khoáng đạt chính trực, liêm khiết phụng sự việc công, không chỉ là một vị […]

The post «Lưu Bá Ôn bia ký» — Lời cảnh tỉnh về đại kiếp thời mạt pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thần Bình chỉnh lý

[Chanhkien.org] Lưu Cơ, người đời gọi là Lưu Bá Ôn, từng phụ tá Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ, kiến lập triều Minh, là Tể tướng khai quốc triều Minh. Ông tính tình khoáng đạt chính trực, liêm khiết phụng sự việc công, không chỉ là một vị tướng trong triều, mà còn là một cao nhân đắc Đạo, đã vì hậu thế mà lưu lại rất nhiều dự ngôn, bao gồm dự ngôn «Thiêu Bính Ca» được nhiều người biết. Dự ngôn của ông được người đời sau nghiệm chứng, mãi cho đến tận hiện tại, miễn là sự tình đã phát sinh thì đều vô cùng chuẩn xác. Dự ngôn của Lưu Bá Ôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, tỉnh Thiểm Tây là do một trận địa chấn mà lộ ra ngoài, nói với người ta cảnh tượng đáng sợ về những sự việc có liên quan đến đại kiếp nạn thời mạt kiếp.

Phật Thích Ca Mâu Ni lúc còn tại thế 2.500 năm trước đây đã từng dự ngôn rằng Pháp của Ngài chỉ có thể truyền được 500 năm, 500 sau là thời kỳ mạt pháp; thời kỳ mạt pháp là do nhân tâm bại hoại, Pháp của Ngài không thể độ nhân được nữa. 500 năm mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nay đã quá 2.000 năm rồi, hiện tại đã là thời kỳ mạt pháp của mạt pháp rồi. Tiên tri của nhiều dân tộc trên thế giới đều đề cập đến kỳ cuối thời mạt pháp, vào lúc giao thời giữa thế kỷ 20 và 21, nhân loại sẽ xuất hiện một trận đại kiếp nạn, đào thải rất nhiều người, chỉ lưu lại một số ít người. Trong dự ngôn trên bia đá tại núi Thái Bạch, Lưu Bá Ôn đã thấy được đại kiếp nạn sẽ phát sinh trong tương lai, đồng thời khuyên bảo thế nhân phải thoát hiểm như thế nào. Thiên cơ đã hiển lộ, chỉ còn xem người đời đối đãi như thế nào mà thôi.

Hiện tại xin thử giải như sau:

“Thiên có nhãn, Địa có nhãn, Người người cũng có một đôi nhãn.
Thiên cũng lật, Địa cũng lật, Tiêu dao tự lại lạc vô biên.”

Giải: Đạo Trời rõ ràng, sự phát triển của lịch sử nhân loại từ trước đến nay vẫn chiểu theo quy luật diễn hóa của vũ trụ mà diễn biến, chứ không hề theo ý chí của người ta mà thay đổi, hành vi của nhân loại không thể vượt qua sự phán xét của Pháp lý vũ trụ (“Thiên có nhãn, Địa có nhãn”). Do đó ai ai cũng cần phải theo tiêu chuẩn Thiện-ác của Pháp lý vũ trụ mà ước thúc chính mình, vốn có một đôi mắt để phân biệt Thiện-ác. Đặc tính tối căn bản của vũ trụ —”Chân, Thiện, Nhẫn”—  là Pháp lý tối cao của vũ trụ, tức Đại Pháp vũ trụ. Nhân loại hiện nay đạo đức trượt xuống hàng ngày, tất sẽ phát sinh biến hóa đảo Trời lật Đất, chỉ có thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, thì mới có thể “Tiêu dao tự tại lạc vô biên”.

“Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, Kẻ giàu một vạn lưu hai ba.
Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, Nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền.”

Giải: Trường đại kiếp nạn thời mạt pháp này, chủ yếu là xuất hiện đại ôn dịch. Trong trận đại ôn dịch này, trong một vạn người nghèo thì chết mất 9.000 người, lưu lại 1.000 người; còn trong một vạn người giàu thì chỉ lưu lại được 2, 3 người. Dự ngôn nổi tiếng Hàn Quốc «Cách Am Di Lục» từ thế kỷ 16 cũng nói rằng vào thời mạt pháp nếu nhân loại không tỉnh ngộ, thì sẽ bị hủy diệt trong “quái tật” (căn bệnh lạ), “mười hộ khó còn một”, quả là trùng hợp. Kẻ nghèo ở đây là chỉ người bình dân, bao quát cả các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ); kẻ giàu là chỉ quan to và quý nhân. Theo báo cáo điều tra cơ cấu nhà nước, tại Trung Quốc đa số hộ giàu đều thuộc gia đình quan chức, họ là những người được hưởng lợi ích từ chế độ ĐCSTQ. Còn có những người là tham quan ô lại trong ĐCSTQ, đương nhiên càng khó thoát khỏi kiếp nạn này. Tuy nhiên vô luận là giàu hay nghèo, chỉ cần “hồi tâm chuyển” ý, bỏ ác theo Thiện, là có thể được đắc cứu, còn nếu không thì chính là “Nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền”. Cứu cánh là điều gì, “hồi tâm chuyển” là có ý gì đây? Chuyển như thế nào?

Trung Quốc từng trải qua nền văn minh huy hoàng bậc nhất trong lịch sử nhân loại, tuy nhiên trong 50 năm dưới sự thống trị của ĐCSTQ, dân tộc Trung Hoa phải đối mặt với một đại tai nạn. Trên mảnh đất Trung Hoa đại địa, ĐCSTQ hành ác trong vòng nửa thế kỷ, tàn sát hơn 80 triệu đồng bào, hủy diệt văn hóa Trung Hoa gần như không còn, phỉ báng Thần Phật, đấu Trời đấu Đất, vô pháp vô thiên, phá hoại đạo đức lương tri của nhân loại, tàn phá hoàn cảnh sinh tồn của nhân loại, tiêu tốn 1/4 quốc lực để tiến hành cuộc bức hại mang tính diệt chủng đối với quần thể tu luyện Pháp Luân Công theo “Chân, Thiện, Nhẫn”, làm những việc tà ác nhất chưa từng có trên quả đất, như mổ cắp nội tạng từ học viên Pháp Luân Công còn sống rồi đem bán kiếm lời, v.v. ĐCSTQ tà ác hoàn toàn là tà linh phản vũ trụ, phản nhân loại; giới tu luyện có công phu chân chính đều biết rằng ĐCSTQ có biểu hiện tại không gian khác là một con ác long. Trong «Khải Huyền – Thánh Kinh» miêu tả ĐCSTQ là một con rồng đỏ, gọi nó là ma quỷ, là sa-tăng. “Con thú bắt ép người của nó, bất luận lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, bần tiện hay phú quý, để ấn ký lên trán và tay phải của họ cái dấu“, điều này là gì? Lúc gia nhập ĐCSTQ (đoàn thanh niên và đội thiếu niên cũng thế), họ phải giơ cánh tay phải lên để phát lời thề độc: nguyện đem cả mạng sống giao cấp cho ĐCSTQ. «Khải Huyền – Thánh Kinh» nói, tất cả những ai thờ phụng con thú hoặc bị nó ấn ký cuối cùng đều sẽ phải bị Thượng Đế thẩm phán, uống rượu thịnh nộ của Đức Chúa Trời, rơi vào một nơi muôn kiếp không trở lại, vĩnh viễn trầm luân trong Địa ngục. ĐCSTQ tà ác chính là đối tượng cần bị tiêu diệt của thiên thượng! Vào lúc Trời diệt ĐCSTQ, cũng tiêu diệt tất cả tổ chức tà ác và từng phần tử bị ấn ký của tổ chức. Bạn không thoái xuất khỏi tổ chức đó, một mực không thoái, thì sẽ bị đào thải cùng với nó, trả nợ cùng với nó. Tuyệt đại bộ phận người Trung Quốc vì sinh tồn và lợi ích nên đã từng gia nhập đảng, đoàn, đội; bởi vì quanh năm suốt tháng bị những tuyên truyền độc hại của nó đánh lừa, nên đã nghĩ xấu về Đại Pháp “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, trong tâm đầy thù hằn, ấy chính là phạm tội vì phản đối Đại Pháp vũ trụ (trong một dự ngôn khác, Lưu Bá Ôn nói rằng các vị Phật, Đạo, Thần khắp Trời đều cần đồng hóa với Đại Pháp, nếu không sẽ “khó thoát kiếp này, bị tước quả vị”. Như vậy có thể thấy được thế nhân phản đối Đại Pháp thì tội nghiệp nặng như thế nào). Chính vì thế toàn thể bách tính đều bị Trời khiển trách.

Hồi chuyển như thế nào? Đương nhiên là thuận theo đặc tính “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, thiện đãi Đại Pháp, thiện đãi học viên Pháp Luân Công, những người tu luyện “Chân, Thiện, Nhẫn”. Một cá nhân cho dù là kẻ nghèo đi chăng nữa, chỉ cần phỉ báng Đại Pháp, thì chính là đứng về phía ĐCSTQ tà ác phản nhân loại, nhất định nằm trong 90% bị đào thải. Còn kẻ giàu phản đối Pháp Luân Công, vì muốn bảo vệ địa vị và lợi ích của mình, trong tâm thù hận Đại Pháp hoặc phỉ báng Đại Pháp, thì nhất định nằm trong 99,9% bị đào thải. Tuy nhiên, những người này nếu có thể “hồi tâm chuyển” ý, cải biến thái độ đối với Đại Pháp, ra sức giúp đỡ Đại Pháp, thì sẽ may mắn được tồn tại trong đại kiếp nạn này. Đương nhiên, nghĩ đến “hồi tâm chuyển ý”, thì đầu tiên phải loại bỏ ấn ký của con thú đã, hướng về Thần thanh minh thoái xuất khỏi hết thảy tổ chức của ĐCSTQ, hoàn toàn thoát ly khỏi nó, ấy mới là “hồi tâm chuyển ý” chân chính. Còn nếu dấu vết con thú không tống khứ đi, con quỷ đỏ sẽ vĩnh viễn khống chế bạn, tận đến khi nó diệt vong, lúc ấy bạn cũng đi theo cùng với nó.

“Bình địa không có ngũ cốc trồng, Cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người.
Nếu hỏi ôn dịch thời nào hiện, Nên xem giữa cửu Đông tháng Mười.”

Giải: Đại ôn dịch sẽ bùng phát vào tháng 9, tháng 10 (Âm lịch) một năm nào đó. Kết quả chính là “Bình địa không có ngũ cốc trồng, Cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người”.

“Người làm việc thiện thì được thấy, Kẻ làm việc ác không được xem.
Trên đời có người hành Đại Thiện, Lây bởi kiếp này thật không đáng.”

Giải: Trận kiếp nạn này khí thế hung dữ, “kẻ làm việc ác” e rằng lúc này hối hận thì đã quá muộn rồi, lập tức bị đào thải. Còn “người hành Đại Thiện” có thể chứng kiến hết thảy. Đây là thời mạt pháp loạn thế, mà lại có người “hành Đại Thiện”, thì chỉ có thể là học viên Pháp Luân Công. Họ vì sự bình an của mọi người mà truyền rộng «Cửu Bình», giảng rõ chân tướng, có người vì thế mà bị ĐCSTQ tà ác bắt giữ phi pháp, bị bỏ tù, thậm chí bị bức hại đến chết. Họ không hề muốn gì từ các bạn, chỉ mong các bạn rời xa nguy hiểm. Có người vì danh lợi mà hùa theo ĐCSTQ, lại bị văn hóa đảng mê hoặc mà cự tuyệt chân tướng từ học viên Pháp Luân Công, không muốn thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, không chịu chùi sạch ấn ký của con thú, thì khó mà thoát khỏi kiếp nạn này.

“Còn có mười sầu ở trước mắt.
Nhất sầu thiên hạ loạn khắp nơi, Nhị sầu Đông Tây người đói chết,
Tam sầu hồ rộng gặp đại nạn, Tứ sầu các tỉnh khởi lang khói,
Ngũ sầu nhân dân không yên ổn, Lục sầu mùa Đông giữa tháng Chín tháng Mười,
Thất sầu có cơm không người ăn, Bát sầu có người không áo mặc,
Cửu sầu thi thể không người liệm, Thập sầu khó qua năm Heo Chuột.”

Giải: Trận kiếp nạn này còn khiến người ta gặp 10 việc sầu lớn: thiên hạ đại loạn, mất mùa, “hồ rộng gặp đại nạn” (khả năng chỉ thủy tai, hoặc vỡ đập thủy điện), các tỉnh khả năng đều gặp sự loạn, bách tính kinh hoàng không chịu nổi, còn có đại ôn dịch phát sinh vào tháng 9 tháng 10, ôn dịch khiến người chết nhiều đến mức “có cơm không người ăn”, “thi thể không người liệm”. “Năm Heo Chuột” là năm 2007 và 2008.

Dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc khi miêu tả đại kiếp nạn này nói: “Thây chất như núi bệnh độc tử”; “Thiên sơn lục giác chim bay tuyệt, Tám người vạn lối người tích diệt”. Trong «Kim Lăng tháp bi văn», Lưu Bá Ôn đã đề cập đến cảnh tượng trận đại ôn dịch này từ một góc độ khác: “Phụ mẫu tử, khó mai táng; Cha mẹ tử, con cháu vác; Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương”.

“Nếu được qua khỏi đại kiếp Niên, Mới tính là thế gian bất lão tiên.
Cho dù là thiết La Hán làm bằng đồng, Khó qua ngày mười ba tháng Bảy.
Cho dù bạn là Kim Cang thiết La Hán, Trừ phi thiện mới được bảo toàn.
Cẩn phòng người người gian nan qua, Giữ qua tới ngày năm Rồng Rắn.”

Giải: Cho dù bạn là thế gian phàm nhân hay Kim Cang La Hán, chỉ có tự mình thu xếp, làm theo Chân Thiện, qua ngày 13 tháng 7 một năm nào đó, tới “năm Rồng Rắn” (năm 2012 và 2013), thì mới chân chính thoát khỏi nạn này. Vì sao qua “năm Rồng Rắn” thì mới chân chính thoát khỏi nạn này? Ở đây dự ngôn của Lưu Bá Ôn và tiên đoán của người Maya 1.000 năm trước không hẹn mà trùng. Theo «Tiên tri của người Maya», người Maya cổ đại, dựa trên tính toán lịch pháp chính xác đến kinh người, đã dự đoán Thái Dương Hệ sẽ đi vào “đại chu kỳ” của Hệ Ngân Hà kéo dài 5.125 năm (từ năm 3112 TCN đến năm 2012 SCN, ngày Đông chí). Khi ấy Mặt trời cùng Hoàng đạo (Ecliptic) và Xích đạo (Equator) của Hệ Ngân Hà sẽ hình thành một điểm giao thoa hoàn toàn trùng khớp lên nhau, sau đó Địa cầu sẽ vượt khỏi phạm vi xạ tuyến của Hệ Ngân Hà để tiến nhập vào một giai đoạn mới “đồng bộ với Hệ Ngân Hà”, nhân loại sẽ tiến nhập vào một thời kỳ văn minh mới không quan hệ gì với nền văn minh hiện thời. Từ năm 1992 đến năm 2012 chính là chu kỳ diễn hóa cuối cùng của “đại chu kỳ”, người Maya gọi là “thời kỳ canh tân của Địa cầu”. Trong 20 năm canh tân Địa cầu này, Địa cầu sẽ được tịnh hóa, nhân tâm cũng được tịnh hóa, vật chất xấu hoàn toàn bị đào thải bỏ rớt đi, sự tốt đẹp và sức sống sẽ lại đến cùng “sự đồng bộ” với Hệ Ngân Hà. Từ đó có thể thấy đại kiếp nạn này chỉ là khởi đầu của sự tịnh hóa toàn diện Địa cầu, ví như nói bạn không phản đối Đại Pháp vũ trụ, lại thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, xóa đi dấu vết con thú trên thân thể, thì sẽ may mắn được tồn tại giữa trận đại kiếp nạn này.

“Trẻ nhỏ giống như Chu Hồng Võ,
Tứ Xuyên còn khổ hơn Hán Trung.
Mãnh sư gầm như Lôi, Hơn hẳn trăm cọp hung.
Tê giác hiện ra đuôi, Bình địa gặp mãnh nhược.”

Giải: Khả năng là chỉ lúc Trời diệt ĐCSTQ, tại Trung Quốc xuất hiện một nhân vật lãnh đạo mới (có thể mang họ Chu); người này như được Thần bang trợ, thế như mãnh sư, chiến thắng thế lực cũ tà ác, quản lý thiên hạ. Vào lúc này, Trời Đất còn xuất hiện dị tượng.

“Nếu hỏi năm thái bình, Dựng cầu nghênh tân chủ.
Thượng Nguyên Giáp Tử đến, Người người cười ha ha.
Hỏi bạn cười cái gì? Nghênh tiếp tân địa chủ.
Trên quản tam xích nhật, Tối không nạn trộm cướp.
Tuy là mưu vì chủ, Chủ ngồi trung ương Thổ.
Nhân dân gọi Chân Chủ.”

Giải: Đây là những sự tình phát sinh sau đại kiếp nạn. Đại kiếp nạn này quyết không phải là “ngày tận thế”, Địa cầu hủy diệt, mà là sau đó nhân loại nghênh đón thái bình thịnh thế, bắt đầu lịch sử mới của tân kỷ nguyên, ấy chính là “Thượng Nguyên Giáp Tử”. Nhân dân từ nội tâm tán tụng vị Giác Giả cứu độ họ là “Chân Chủ”.

“Tiền bạc là vật bảo, Nhìn thấu dùng không được.
Quả thực là vật bảo, Lòng đất nứt không đảo.
Bảy người một đường tẩu, Dẫn dụ đã vào khẩu.
Ba chấm cộng một câu, Bát Vương nhị thập khẩu.”

Giải: Dự ngôn đến đây rất mập mờ, bởi vì ngoài ý nghĩa bề mặt ra thì còn ẩn tàng một tầng ý nữa. Ở đây chủ yếu là phá giải “câu đố chữ” ẩn bên trong, phá giải “câu đố chữ” của dự ngôn cổ đại thì phải dùng phồn thể.

Tiền bạc là vật bảo, Nhìn thấu dùng không được. Quả thực là vật bảo, Lòng đất nứt không đảo“: là chỉ chữ “Sư” và chữ “Lý”. “Tiền bạc” là “tệ” (币), tức nửa bên phải của chữ “Sư” (師); chữ “phá” (破) trong “khán phá” (nghĩa là “nhìn thấu”) có nửa bên trái của chữ “Sư” (師); hai nửa trái phải hợp lại tạo thành một chữ “Sư” (師). Tiếp đến “Quả thực là vật bảo”, đối ứng với câu trước “Tiền bạc là vật bảo” hàm ý chữ “tệ” (币); “lòng đất nứt không đảo”, ám chỉ nửa bộ phận của chữ “垖”; hai nửa trái phải hợp nhất lại vẫn là chữ “Sư” (師). Quan trọng hơn, “Quả thực là vật bảo” ở đây chỉ vị Sư phụ mang họ “Lý”, bởi vì “quả” (果) ở đây là con của cây, tức “mộc chi tử”, chữ “Mộc” (木) đặt trên chữ “Tử” (子) chính là chữ “Lý” (李). Đoạn này rõ ràng minh thị vị Chân Chủ chính là “Lý Sư”, cụ thể là chỉ ai thì mọi người đều biết rồi.

Bảy người một đường tẩu, Dẫn dụ đã vào khẩu“: chính là chữ “Chân” (眞), viết theo tả pháp cổ đại. Chữ “Chân (眞) có thượng bộ là chữ “thất” (七), nghĩa là “bảy”; hạ bộ là do “nhân” (人) và “nhất” (一) tổ hợp mà thành, nghĩa là “một đường chạy”; đem phần “cung” (弓) của chữ “dẫn” (引) xếp đan xen vào chữ “khẩu” (口) thì tạo thành chữ “mục” (目), đây chính là phần giữa của chữ “Chân” (眞).

Ba chấm cộng một câu“: chính là chữ “Nhẫn” (忍). Trong ba chấm này, đem một chấm đan vào bộ “đao” (刀) ở nửa trên của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “nhẫn” (刃); rồi lại đem hai chấm đặt lên nửa dưới “厶” của chữ “câu” (勾) tạo thành chữ “tâm” (心); chữ “nhẫn” (刃) đặt trên chữ “tâm” (心) chính là chữ “Nhẫn” (忍).

Bát Vương nhị thập khẩu“: chính là chữ “Thiện” (善). Chữ “Thiện” (善) từ trên xuống dưới là do “bát” (八) (lật ngược), “Vương” (王), “niệm” (廿) (nghĩa là 20), và “khẩu” (口) tổ hợp thành.

Bảy người một đường tẩu, Dẫn dụ đã vào khẩu. Ba chấm cộng một câu, Bát Vương nhị thập khẩu“, liên kết lại tạo thành “Chân, Thiện, Nhẫn” (眞善忍). Cổ nhân tả thi văn rất coi trọng vận luật, đem câu trên và câu dưới hợp lại thì tự nhiên gián cách được khai mở.

“Người người đều hỷ cười, Ai ai cũng bình an.
Người người đều khả quan, Ai ai cũng khả truyền.
Có người đem tặng ấn, Chớ có lấy kim tiền.
Người hành thiện được bảo, Kẻ hành ác khó đào.
Kính trọng Trời Đất thần linh phụ mẫu, Quý tiếc giấy chữ ngũ cốc.
Xin hãy nhớ lấy.”

Giải: Ngay khi Chính Pháp tiến tới nhân gian thì Địa cầu bắt đầu tịnh hóa toàn diện. Chỉ có phù hợp với đặc tính vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn” thì mới có thể tiến nhập vị lai. Lúc này người người đều học Đại Pháp, ai ai cũng truyền tụng Pháp Luân Công.

Từ sáu trăm năm trước, Lưu Bá Ôn đã có cảnh báo với thế nhân về trận đại kiếp nạn này. Điều kỳ lạ là, dự ngôn này được ẩn kỹ trong mấy trăm năm rồi đột nhiên lộ ra cho thế gian nhờ một trận địa chấn, cũng tương tự với “tàng tự thạch” có niên đại 200 triệu năm tuổi vô tình được tìm thấy tại huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu năm 2002, trên đó ghi sáu chữ lớn “Trung Quốc Cộng sản đảng vong“, rồi dự ngôn của người Maya về “Địa cầu canh tân” bắt đầu vào năm 1992 — năm Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất v.v. Hết thảy đều không phải là ngẫu nhiên, đều là Thiên Ý, là Thần cảnh tỉnh con người, từ bi đối với con người. Đồng thời Thần cũng an bài những người “hành Đại Thiện” cứu độ con người tại thế gian. Thời gian quả thực rất hữu hạn, để trân quý sinh mệnh mình, xin các bạn đừng cự tuyệt những người “hành Đại Thiện” — các học viên Pháp Luân Công mang đến chân tướng cho các bạn, xin đừng phản đối Đại Pháp “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ, mau chóng thoát ly khỏi ĐCSTQ tà ác, xóa bỏ dấu vết con thú. Chớ đi theo “kẻ hành ác” không còn tính người, nếu không Thần cũng không cứu được các bạn đâu! Cơ duyên chỉ chớp mắt là trôi qua, đến khi chân tướng đại hiển mới hối hận thì đã muộn rồi! Cũng có người vì thụ nhận độc hại từ “thuyết vô thần” của văn hóa đảng trong một thời gian dài, nên hoàn toàn không tin sự việc như vậy là có thực, tìm mọi cách để chỉ trích những người “hành Đại Thiện”, thậm chí lấy oán báo ân, đi theo ĐCSTQ làm điều ác, ‘trợ Trụ vi ngược’, v.v. Tất nhiên Thần là từ bi với người, cứu độ người, nhưng tuyệt không phải là vì nhàn rỗi không có việc gì nên mới phải cứu người, với những ai không muốn được đắc cứu, thì ấy là Thần không cứu được.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/5/5/43675.html

The post «Lưu Bá Ôn bia ký» — Lời cảnh tỉnh về đại kiếp thời mạt pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/luu-ba-on-bia-ky-loi-canh-tinh-ve-dai-kiep-thoi-mat-phap.html/feed0
Thử giải đoạn cuối cùng «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ônhttps://chanhkien.org/2011/03/thu-giai-doan-cuoi-cung-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/thu-giai-doan-cuoi-cung-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html#respondSun, 13 Mar 2011 07:07:44 +0000https://chanhkien.org/?p=10990Tác giả: Chính Nguyên [Chanhkien.org] Đại dự ngôn «Thiêu Bính Ca» (烧饼歌) của quân sư khai quốc triều Minh Lưu Bá Ôn tiên đoán cực kỳ chính xác, bao hàm không gian và thời gian cực lớn, lưu danh hậu thế. Đối với đoạn cuối cùng của «Thiêu Bính Ca» đã có rất nhiều chú […]

The post Thử giải đoạn cuối cùng «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chính Nguyên

[Chanhkien.org] Đại dự ngôn «Thiêu Bính Ca» (烧饼歌) của quân sư khai quốc triều Minh Lưu Bá Ôn tiên đoán cực kỳ chính xác, bao hàm không gian và thời gian cực lớn, lưu danh hậu thế. Đối với đoạn cuối cùng của «Thiêu Bính Ca» đã có rất nhiều chú giải, ở đây cũng xin thử tiến hành phá giải, nếu có sai sót kính mong quý độc giả vui lòng chỉ giáo.

四大八方有文星,
品物咸亨一样形,
琴瑟和谐成古道,
左中兴帝右中兴.

Tứ đại bát phương hữu Văn Tinh,
Phẩm vật hàm hanh nhất dạng hình,
Cầm sắt hòa hài thành cổ Đạo,
Tả trung hưng Đế hữu trung hưng.

Tạm dịch:

Bốn đại tám phương có Văn Tinh,
Vật phẩm đều thuận cùng một hình,
Đàn sắt du dương thành cổ Đạo,
Trái phục hưng Đế phải trung hưng.

Giải: Hoa Hạ (Trung Quốc) tập hợp những sinh mệnh vì Pháp mà đến, đều xuất thế dưới diện mạo con cháu của Phục Hy, đồng lòng giúp nhau phục hưng văn hóa Trung Hoa, chấn hưng và phát huy nền văn hóa Hoa Hạ 5.000 năm mà Phục Hy khai sáng.

五百年间出圣君,
周流天下贤良辅,
气运南方出将臣,
圣人能化乱渊源.

Ngũ bách niên gian xuất Thánh quân,
Chu lưu thiên hạ hiền lương phụ,
Khí vận Nam phương xuất tướng thần,
Thánh nhân năng hóa loạn uyên nguyên.

Tạm dịch:

Trong năm trăm năm xuất Thánh quân,
Chảy quanh thiên hạ giúp hiền lương,
Vận khí phương Nam xuất thần tướng,
Thánh nhân hóa giải loạn uyên nguyên.

Giải: Từ lúc triều Minh khai thủy, nhân loại đã bắt đầu bại hoại trên quy mô lớn, không còn duy trì ước thúc tâm pháp mà đại Thánh nhân Lão Tử, cũng như những thủy tổ Trung Hoa là Phục Hy, Viêm Đế, Hoàng Đế và nhà Chu trao truyền cho nữa; đến năm 1992 Pháp Luân Công truyền xuất tức 500 năm sau thì Hoa Hạ cuối cùng mới xuất Thánh nhân đệ nhất —người sáng lập Pháp Luân Công— Lý Hồng Chí Tiên sinh. Đây là “Thánh quân” chứ không phải “minh quân”, ý nói Đại Thánh nhân không phải là Vua, không có khái niệm mang tính khu vực, không những ban ân cho Hoa Hạ, mà sau này còn cần truyền Pháp Luân Công cho toàn thế giới, khiến người dân toàn thế giới được thọ ích. Vào thời Lý Tiên sinh truyền Pháp các nơi tại Hoa Hạ, đâu đâu cũng có người hiền lương trợ giúp. Lúc này Đài Loan và miền Nam Trung Quốc do ân oán lịch sử nên ẩn giấu nguy cơ phát sinh đại chiến trên eo biển Đài Loan, chiến tướng đã ứng vận mà sinh; nhưng do có Đại Thánh nhân truyền Pháp, đạo đức xã hội đề cao, hóa giải ân oán trong lịch sử, nguy cơ đã được giải trừ.

八面夷人進贡临,
宫女勤针望夜月,
乾坤有象聚黄金.

Bát diện Di nhân tiến cống lâm,
Cung nữ cần châm vọng dạ nguyệt,
Càn khôn hữu tượng tụ hoàng kim.

Tạm dịch:

Tám mặt người Di đến tiến cống,
Cung nữ siêng năng ngóng trăng đêm,
Càn khôn có dạng tụ vàng kim.

Giải: Sau năm 1992, người Hoa Hạ bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công, đề cao cảnh giới tư tưởng, quy chính hành vi, Đại Thánh nhân họ Lý giảng “Vua, quan, phú, quý thảy đều từ đức mà ra“, khiến dân chúng Hoa Hạ của cải sung túc, rất nhiều công ty nước ngoài bắt đầu đầu tư vào Đại Lục. “Cung nữ” ý chỉ học viên Pháp Luân Công, chiểu theo lời dạy của Lý Đại Thánh nhân, người Hoa Hạ tu luyện Pháp Luân Công dựa vào lễ tiết Trung Quốc cổ đại là “thứ” và “nữ”. “Cung nữ siêng năng ngóng trăng đêm” là chỉ học viên Pháp Luân Công khắp nơi đi sớm về muộn, truyền bá Pháp Luân Công, khiến rất nhiều người dân Hoa Hạ được thọ ích. “Càn khôn có dạng tụ vàng kim”, là chỉ Pháp Lý của Pháp Luân Công, Phật Pháp của Phật gia thường dùng chữ “vàng kim”, ẩn dụ về sự trân quý vô hạn.

北方胡掳害生灵,
更会南军诛戮行,
匹马单骑安外国,
众君揖让留三星.

Bắc phương Hồ Lỗ hại sinh linh,
Cánh hội Nam quân tru lục hành,
Thất mã đơn kỵ an ngoại quốc,
Chúng quân ấp nhượng lưu Tam Tinh.

Tạm dịch:

Bắc phương Hồ Lỗ hại sinh linh,
Càng gặp Nam quân tru lục hành,
Bảy ngựa một người yên ngoại quốc,
Các Vua thi lễ nhận Tam Tinh.

Giải: Pháp Luân Công tại Hoa Hạ được truyền bá trên quy mô lớn, đến năm 1999 đã có 100 triệu người tu luyện Pháp Luân Công, đây là thiên tượng của vũ trụ, là sự tất nhiên của lịch sử; Pháp Luân Công giúp đề cao tư tưởng người Hoa Hạ, kiện khang thân thể dân Hoa Hạ, chỉ hơi có thiện niệm là đã được hoan nghênh rồi. Nhưng bất hạnh thay, lúc này Hoa Hạ có một quần thể tà linh vô thiện niệm là Trung Cộng và tập đoàn Giang, hết sức ngu muội vô tri mà cho rằng Lý Đại Thánh nhân can nhiễu quyền lực của mình, bắt đầu tiến hành trấn áp Pháp Luân Công. “Hồ Lỗ” là chỉ thú vật không xứng được xếp vào hàng cư dân Hoa Hạ thanh nhã; trong dân gian cũng lưu truyền rằng tổ chức Trung Cộng từ thời viễn cổ đã là dân Hung Nô chuyển thế, coi dân Hoa Hạ như địch, đương nhiên không phải dân Hoa Hạ. Trung Cộng được gọi là ác long màu đỏ, Giang Trạch Dân được coi là con cóc đầu thai, đều là thú vật khoác lên lớp da người; sào huyệt của Trung Cộng và Giang là Trung Nam Hải nằm ở phương Bắc của Hoa Hạ, chính là “Bắc phương Hồ Lỗ”. “Hại sinh linh” ý chỉ tàn hại người dân tu luyện Pháp Luân Công tại Hoa Hạ. “Nam quân tru lục” là chỉ Đài Loan, Đài Loan trở thành đội quân “khẩu tru bút phạt” (dùng ngòi bút làm vũ khí) lên án tội ác Trung Cộng và tập đoàn Giang. “Thất mã đơn kỵ an ngoại quốc” chỉ Đại Thánh nhân họ Lý có một thời kỳ lánh nạn ở nước ngoài. “Các Vua thi lễ nhận Tam Tinh”, chỉ học viên trong nước không sợ tà ác, kiên trì tu luyện Pháp Luân Công, đồng thời các chính phủ và dân chúng ngoại quốc cũng lên tiếng ủng hộ, các nước trao cho Pháp Luân Công cả ngàn giải thưởng các loại, văn hóa Trung Hoa được toàn thế giới tán thưởng, Pháp Luân Công là chủ thể đại diện sự phục hưng văn hóa Trung Hoa tỏa ánh hào quang khắp thế giới. “Tam Tinh” (ba ngôi sao sáng) ý chỉ Pháp Lý của Pháp Luân Công — đặc tính vũ trụ “Chân-Thiện-Nhẫn”.

上元复转气运开,
大修文武圣主栽,
上下三元无倒置,
衣冠文物一齐来.

Thượng nguyên phục chuyển khí vận khai,
Đại tu văn võ Thánh Chủ tài,
Thượng hạ tam nguyên vô đảo trí,
Y quan văn vật nhất tề lai.

Giải: Kể từ sau tháng 7 năm 1999, các học viên Pháp Luân Công khi đối diện với vu khống và hãm hại của tập đoàn Giang đã lý trí dùng phương thức hòa bình để giảng chân tướng, cảm hóa thế nhân; thiên tượng cũng phát sinh biến hóa hoàn toàn, các cựu thiên thể bị giải thể trên phạm vi lớn, những ngôi sao mới ra đời, nơi đâu cũng sinh cơ bừng bừng, đây là điều mà các nhà thiên văn học đã quan sát được. “Thượng nguyên” ý chỉ ở ngoài một phạm vi nhất định trong vũ trụ, “Thượng nguyên phục chuyển khí vận khai” ý nói canh tân trong một phạm vi nhất định ngoài vũ trụ, rạng rỡ sinh cơ bừng bừng. “Đại tu văn võ Thánh chủ tài” là nói học viên Pháp Luân Công tâm tính thăng hoa, dùng các phương thức hòa bình để giảng chân tướng, các kênh thông tấn, v.v. ào ào xuất hiện, đồng thời cũng dùng phương diện “võ” là phát chính niệm thanh trừ tà ác, tất cả đều tiến hành chiểu theo Pháp Lý chỉ đạo “Chân-Thiện-Nhẫn” của Thánh Chủ. “Thượng hạ tam nguyên vô đảo trí”: “đảo trí” ý chỉ sai lệch, điên đảo thị phi, xa rời đặc tính vũ trụ; học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng khiến chúng sinh minh bạch chân tượng, xác lập lại thái độ chính xác đối với Pháp Luân Công, đồng thời cũng khiến họ có tâm pháp thuần chính ước thúc. “Thượng hạ tam nguyên” ý nói cựu vũ trụ, cũng ngầm chỉ chúng sinh. “Y quan văn vật nhất tề lai”: sau khi chúng sinh minh bạch chân tướng về Pháp Luân Công, chính sách bức hại kinh tế của Trung Cộng và tập đoàn Giang đối với các học viên Pháp Luân Công đã triệt để phá sản, điều kiện sinh hoạt và kinh tế của các học viên khôi phục trở lại bình thường, đồng thời các chủng phương thức giảng chân tướng hòa bình cũng theo đó mà kéo đến dồn dập, muôn hình muôn vẻ.

七元无错又三元,
大开文风考对联.

Thất nguyên vô thác hựu tam nguyên,
Đại khai văn phong khảo đối liên.

Tạm dịch:

Bảy nguyên không lệch lại ba nguyên,
Mở lớn văn phong thử câu đối.

Giải: “Thất nguyên” ý chỉ ngoài hệ ngân hà của cựu vũ trụ, “tam nguyên” ở đây là chỉ hệ ngân hà. Ngoài hệ ngân hà của cựu vũ trụ được canh tân, sau khi hoàn tất, cuối cùng bắt đầu canh tân nội trong phạm vi hệ ngân hà. “Đại khai văn phong khảo đối liên”: đây là lúc xuất hiện cuốn sách Trời “Cửu Bình”, vạch trần Trung Cộng và Giang Trạch Dân, khí thế văn chương phô thiên cái địa, chúng sinh hăng hái tham gia, dân chúng Hoa Hạ đua nhau đón mừng. Kể từ đó tiến hành thoái đảng trên phạm vi toàn thế giới, rất nhiều khẩu hiệu như “Trời diệt Trung Cộng”, “Không có đảng cộng sản mới có tân Trung Quốc”, v.v. đồng loạt xuất hiện trong các lễ diễu hành.

猴子沐盘鸡逃架,
犬吠猪鸣太平年,
文武全才一戊丁,
流离散乱皆逃民.

Hầu tử mộc bàn kê đào giá,
Khuyển phệ trư minh thái bình niên,
Văn võ toàn tài nhất Mậu Đinh,
Lưu ly tán loạn giai đào dân.

Tạm dịch:

Gà kia chạy loạn khỉ lượn vòng,
Chó sủa lợn kêu năm thái bình,
Văn võ toàn tài nhất Mậu Đinh,
Lưu ly tán loạn cũng chạy dân.

Giải: “Năm thái bình” ẩn dụ là không có chiến tranh, nhưng lại phát sinh “Gà kia chạy loạn khỉ lượn vòng; Chó sủa lợn kêu”, khả năng chỉ đại ôn dịch, Trung Cộng sụp đổ. Trong giai đoạn thời gian đại ôn dịch này, đệ tử Đại Pháp công thành viên mãn, chữ “Mậu” (戊) và chữ “Đinh” (丁) hợp lại thành chữ “Thành” (成), chữ “Nhất” (一) ẩn dụ về sinh mệnh vĩ đại nhất, “văn võ toàn tài” ẩn dụ về “viên mãn”. “Văn võ toàn tài nhất Mậu Đinh” dịch thẳng ra là: viên mãn trở thành sinh mệnh vĩ đại nhất. “Lưu ly tán loạn cũng chạy dân”, lúc này bởi vì đại ôn dịch, dân chúng bỏ chạy khắp nơi, đúng là một cảnh tượng hỗn loạn.

爱民如子亲兄弟,
创立新君修旧京,
千言万语知虚实,
留与苍生作证盟.

Ái dân như tử thân huynh đệ,
Sáng lập tân quân tu cựu kinh,
Thiên ngôn vạn ngữ tri hư thật,
Lưu dữ thương sinh tác chứng minh.

Tạm dịch:

Yêu dân như con thân huynh đệ,
Sáng lập Vua mới tu cựu kinh,
Ngàn vạn lời nói biết hư thực,
Lưu cho muôn dân làm chứng minh.

Giải: Đệ tử Đại Pháp công thành viên mãn, kinh thiên động địa, thế nhân tận mắt chứng kiến, như mộng sơ tỉnh, chấn động tâm can, vô cùng cảm thán, có người cảm thấy hối hận. Nhưng dẫu cảm thụ ra sao thì đều có một điểm chung, đó là sau đó nhất định cần trọng đức hành thiện. Do đó, sau khi đại ôn dịch, đại đào thải qua đi, quan viên Hoa Hạ yêu dân như con, thân dân như huynh đệ. Dân chúng Hoa Hạ sau khi lựa chọn quan viên cho quốc gia xong sẽ kiến lập thủ đô mới ở miền Hoa Nam. “Cựu kinh” (chữ “Kinh” (京) ở đây mang nghĩa “kinh đô”) ám chỉ mảnh đất thịnh vượng nào đó ở phương Nam trong lịch sử, có thể là Nam Kinh, Trùng Khánh, v.v. Hai câu cuối cùng đã rõ ràng.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/11/17/34621.html

The post Thử giải đoạn cuối cùng «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/thu-giai-doan-cuoi-cung-thieu-binh-ca-cua-luu-ba-on.html/feed0
Giải mã «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: “Chính phủ chủ nghĩa Marx” diệt vonghttps://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chinh-phu-chu-nghia-marx-diet-vong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chinh-phu-chu-nghia-marx-diet-vong.html#respondFri, 11 Mar 2011 11:28:10 +0000https://chanhkien.org/?p=10937Tác giả: Ngô Minh [Chanhkien.org] «Thôi Bi Đồ» là do Lưu Bá Ôn sống vào triều Minh sáng tác, nguyên ban đầu là vật cống phẩm được cất giữ, mãi đến năm 1915 vì mặt đất đột nhiên nứt ra ở tỉnh Sơn Tây mà lộ ra cho thế gian. Đoạn thứ nhất nhìn thấy […]

The post Giải mã «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: “Chính phủ chủ nghĩa Marx” diệt vong first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngô Minh

[Chanhkien.org]

«Thôi Bi Đồ» là do Lưu Bá Ôn sống vào triều Minh sáng tác, nguyên ban đầu là vật cống phẩm được cất giữ, mãi đến năm 1915 vì mặt đất đột nhiên nứt ra ở tỉnh Sơn Tây mà lộ ra cho thế gian. Đoạn thứ nhất nhìn thấy mấy chữ, “Mã tri phủ bất tín…..mãn môn câu vong“, câu này là câu cuối cùng của đoạn thứ nhất. Trong đó đoạn giới thiệu viết rằng khi “Quyển Kinh” được truyền xuất lai thì “Mã tri phủ bất tín, phỉ báng, mạn mạ, tàn hại, bất quá nhật, mãn môn câu vong“, nghĩa là “Tri phủ họ Mã không tin, phỉ báng, chửi mắng, sát hại, không qua ngày, cả nhà đều chết“. Như vậy tri phủ họ Mã này rốt cuộc là thế nào?

Dựa vào đoạn thứ nhất mà có thể nhìn ra, Mã tri phủ chỉ vì không tin “Quyển Kinh” mà tiến hành phỉ báng, vu cáo, kết quả khiến cả nhà mình đều bị chết. Như vậy sự việc này ứng với điều gì? Chữ viết trên bia đá lấy sự kiện Phật Di Lặc truyền Pháp làm chủ tuyến, giới thiệu rằng khi Phật Di Lặc truyền Pháp thì “thanh ảnh tề mạ“. Có người giải rằng, “thanh” là “phát thanh”, “ảnh” là “truyền hình”, “thanh ảnh tề mạ” là các kênh phát thanh, truyền hình đồng thời vu khống, chửi mắng. Mà có thể thao túng bộ máy tuyên truyền đồ sộ như vậy thì chỉ có thể là một chính phủ, bởi vậy điều gọi là “tri phủ” này thực ra là một chính phủ!

Cũng chỉ sự kiện này, văn tự trên bia đá viết khi Phật Di Lặc truyền Pháp là “truyền tam tự” theo “họ Mộc Tử“. Chữ “Mộc” (木) đặt trên chữ “Tử” (子) chính là chữ “Lý” (李). Về địa điểm xuất sinh, văn bia viết “….trung thiên Trung Quốc Kim Kê mục“. Chúng ta đều biết rằng nước Trung Quốc có hình dáng như con gà vàng (Kim Kê), đầu con gà vàng là ba tỉnh vùng Đông Bắc, như vậy mắt con gà vàng (Kim Kê mục) chính là tỉnh Cát Lâm. Văn viết tiếp: “Thỏ chi niên đáo trung thiên“, năm 1951 chính là năm Thỏ. Phật Di Lặc mang những đặc trưng hoàn toàn phù hợp với người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Lý Hồng Chí Đại sư. Lý Đại sư sinh năm Thỏ, truyền “tam tự” là ba chữ Chân-Thiện-Nhẫn, đặc tính vũ trụ. Thế nhân hiện nay cũng dần dần biết được rằng trường bức hại đối với Pháp Luân Đại Pháp là hoàn toàn dựa trên sự lừa dối, cố ý bịa đặt sai sự thật, “Mã tri phủ” này ứng với chính quyền của đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) – chính phủ chủ nghĩa Marx. “Mã” là “Mã Khắc Tư” tức Karl Marx, “tri phủ” là “chính phủ”.

Đặc biệt đáng chú ý chính là phần văn tự bên dưới, có thể bởi vì Mã tri phủ phỉ báng, mọi người không còn tin Phật Pháp của Phật Di Lặc nữa. Văn viết: “Tín giả thiểu, mạ giả đa” – “Người tin thì ít, người mạ thì nhiều“, “Trung thiên Trung Quốc” xuất hiện một trận đại ôn dịch “nhất vạn chi trung tử cửu thiên” – “trong một vạn người chết chín ngàn người“. Như vậy số người bị đào thải ở Trung Quốc phải lên đến hàng trăm triệu người, số lượng kinh người! Mà nếu chỉ là một tri phủ họ Mã như vậy, cả nhà nhiều nhất được mấy chục khẩu, cần gì phải đưa vào đoạn giới thiệu “Long trọng” như vậy? Mà thông thường phần mở đầu của bài văn là khái quát đại ý toàn văn, như vậy có thể thấy “cả nhà đều chết” trong phần mở đầu và “trong một vạn người chết chín ngàn người” ở đoạn bên dưới là giống nhau.

Như vậy “cả nhà” Mã tri phủ ở đây không chỉ là một mình chính đảng ĐCSTQ, mà bao gồm toàn gia – chính là những người bị nó lôi kéo, hướng vào nó mà phát lời thề độc, thề vĩnh viễn đi theo nó, gồm cả các đoàn viên.

Dự ngôn này cùng với “đá diệt cộng” (tảng tàng tự thạch 200 triệu năm tuổi mang dòng chữ “Trung Quốc cộng sản đảng vong” được tìm thấy ở huyện Bình Đường, tỉnh Quý Châu năm 2002) là bổ sung bằng chứng cho nhau. Tuy nhiên dự ngôn này trực tiếp nêu rõ nguyên nhân của sự diệt vong – bức hại Phật Pháp. Đồng thời dự ngôn còn nói với người ta rằng đối tượng diệt vong không chỉ là đảng viên của ĐCSTQ, mà bao gồm cả đoàn viên, thậm chí đội viên.

“Đá diệt cộng”, cũng còn gọi là tàng tự thạch, đã có người biết. Đây là tảng đá do thiên nhiên hình thành mang dòng chữ “Trung Quốc cộng sản đảng vong“, khiến người đời thất kinh. Rất nhiều người sau khi chứng kiến tàng tự thạch đã thoái xuất khỏi đảng, đoàn, đội để không phải làm con dê thế tội. Tuy rằng các nhà khoa học xác định rằng tảng đá này do tự nhiên hình thành, nhưng có người đã biết mà vẫn không tin, bỏ ngoài tai lời cảnh tỉnh của Thần. Còn nếu có người cho rằng tàng tự thạch chỉ đơn thuần là một kiệt tác của tự nhiên, thì xin hãy xem cho mau đoạn đầu tiên của «Thôi Bi Đồ».

Điều này cùng với «Khải Huyền» của «Thánh Kinh», chương 13 là hoàn toàn phù hợp. Chương đó nói đến lúc nào đó sẽ xuất hiện một con “thú”, miệng tiết đầy chất độc; con thú này là vô thần, “nó cưỡng bức người của nó, bất kể lớn bé, phải đóng lên trán và tay phải cái dấu ấn của nó“. Ở đây hoàn toàn tương hợp với ĐCSTQ, bởi vì chỉ ĐCSTQ mới bắt người ta từ nhỏ đã phải gia nhập đoàn, đội, lớn lên nhập đảng, lúc tuyên thệ giơ cánh tay phải lên để nó ấn ký vào đó. Cuối cùng Thần Chủ phải tiêu diệt con thú này. “Tất cả những ai mang theo dấu ấn của nó rồi sẽ bị đọa vào hồ diêm sinh“.

Những người già trong quá khứ nói với chúng ta rằng, không nên tùy tiện tuyên thệ, bởi vì lời thề sau khi phát ra rồi cuối cùng sẽ được thực hiện. Nếu bạn thề cống hiến hết thảy những gì của bạn cho nó – hết thảy bao gồm cả sinh mệnh và vị lai – khi nó diệt vong, tất cả các tế bào cấu thành nên bạn cũng diệt vong.

Như vậy chúng ta thoát hiểm như thế nào?

Mạng Đại Kỷ Nguyên cho phép người ta thanh minh thoái đảng, đoàn, đội mà họ đã từng phát lời thề độc khi gia nhập, xóa bỏ dấu ấn con thú, bảo vệ bình an, không cần dùng tên thật mà biệt danh cũng được. Có người không tin vì sao một khi lên tiếng thanh minh thì liền bình an? Người xưa có câu rằng “Con người làm, Trời đang xem“. Nhân tâm vừa động một cái là đã có Thần quản rồi.

Mạng lưới thoái đảng của Đại Kỷ Nguyên mở đầu rằng: “Trung Cộng đối với chúng sinh, đối với Thần Phật đã phạm phải đại tội tày trời….” Dựa theo những gì «Thôi Bi Đồ» viết, thì chính là như vậy! Tổ tiên chúng ta đã sớm nhắc nhở chúng ta: Kính Trời, kính Đất, kính Thần linh. Mà tà linh đến từ phương Tây và tên hề ngang ngược tàn ác lại dám nói với chúng ta rằng phải đấu với Trời, đấu với Đất, đấu với Thần. Chẳng lẽ chúng ta quên mất lời dạy của tổ tiên để đi theo tên hề hay sao?

Trải qua nhiều cuộc vận động, đấu với người, đấu với Thần, “thật sướng vô cùng”, ĐCSTQ đã bức hại đến chết 80 triệu nhân mạng, làm sao hoàn trả đây? “Thiện ác hữu báo” chính là Thiên Lý, ai có thể trốn thoát được?

Cũng không có ai nghĩ tới tại sao “trong một vạn người chết chín ngàn người“? Bởi vì tại Trung Quốc trong một vạn người, có chín ngàn người hiện đang là đảng, đoàn, đội viên hoặc đã từng là đội viên, đoàn viên. Trời diệt Trung Cộng, tam thoái bình an, thoái rồi là được đắc cứu.

Tất cả các dự ngôn đều nói rằng đại kiếp đã đến, vở kịch lớn 5.000 năm đã đến vĩ thanh cuối cùng rồi, khúc cao trào sắp đến. “Hồng hoa khai quá hoàng hoa khai” – “Hoa đỏ qua rồi sẽ khai nở hoa vàng” («Kim Lăng tháp bi văn»). Vì sao có người đang mạo hiểm cả tính mạng chỉ để nói với bạn chân tướng cuộc bức hại Pháp Luân Đại Pháp? Ấy là bởi vì chỉ có liễu giải chân tướng, nhận thức được bản chất “thú”, “tàn bạo, nói dối, bức hại người khác” của ĐCSTQ, thoát khỏi nó từ trong nội tâm, mới có thể có tương lai.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2010/6/15/66734.html

The post Giải mã «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn: “Chính phủ chủ nghĩa Marx” diệt vong first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/03/giai-ma-thoi-bi-do-cua-luu-ba-on-chinh-phu-chu-nghia-marx-diet-vong.html/feed0
Lời tiên tri của Lưu Cơ thời nhà Minh, Trung Quốchttps://chanhkien.org/2010/05/loi-tien-tri-cua-luu-co-thoi-nha-minh-trung-quoc.htmlhttps://chanhkien.org/2010/05/loi-tien-tri-cua-luu-co-thoi-nha-minh-trung-quoc.html#respondThu, 27 May 2010 03:45:34 +0000http://chanhkien.org/?p=6132Tác giả: Dung Pháp [Chanhkien.org] Số đầu tiên của tạp chí Time trong thiên niên kỷ mới này đã xếp hạng những nhân vật có ảnh hưởng nhất mọi thời đại trong lịch sử nhân loại. Một trong những nhân vật đó là Chu Nguyên Chương (còn được biết đến với tên Chu Hồng Võ), […]

The post Lời tiên tri của Lưu Cơ thời nhà Minh, Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Dung Pháp

[Chanhkien.org] Số đầu tiên của tạp chí Time trong thiên niên kỷ mới này đã xếp hạng những nhân vật có ảnh hưởng nhất mọi thời đại trong lịch sử nhân loại. Một trong những nhân vật đó là Chu Nguyên Chương (còn được biết đến với tên Chu Hồng Võ), vốn xuất thân khiêm nhường (một người vô gia cư), là người đã “đánh đuổi con cháu Thành Cát Tư Hãn và trở thành vị vua đầu tiên của triều đại nhà Minh ở Trung Quốc”. Theo tạp chí Time, những thành tựu khác của Minh Thái Tổ còn bao gồm những chính sách dẫn đến “năng suất nông nghiệp cao”, khiến cho “người dân Trung Quốc tầm thường… trở thành những cư dân giàu có nhất trên trái đất”. Thành công của ông phần lớn là nhờ sự phò tá của quan tham mưu trưởng Lưu Cơ (hay còn được biết đến với tên gọi Lưu Bá Ôn). Ông là một huyền thoại khác ở Trung Quốc nổi tiếng bởi sự thông thái và tài tiên tri của mình. Sau đây là bản dịch đặc biệt của một cuộc đối thoại giữa Minh Thái Tổ và Lưu Bá Ôn. Cuộc nói chuyện này được ghi chép trong kho lưu trữ Hoàng gia của triều đại nhà Minh.

Vua: Hãy nói cho ta biết, ai sẽ truyền Đạo trong thời mạt kiếp?

Lưu Cơ: Có một câu thơ tiết lộ bí mật này: Không phải Tăng cũng không phải Đạo, đầu đội “mũ lông cừu nặng 4 lạng” [1], vị chân Phật ấy không ở trong chùa chiền. Ông ấy là Di Lặc sẽ đứng đầu để giáo hóa tất cả.

Vua: Vậy, đức Di Lặc sẽ giáng sinh ở đâu?

Lưu Cơ: Nghe thần nói đây: Khi vị giáo chủ tương lai hạ thế, Ngài sẽ không ở trong những nhà quyền quý, không ở trong cung làm Thái Tử. Ngài không ở trong chùa chiền và đạo viện, mà Ngài sẽ giáng sinh trong một gia đình nghèo khó. Ngài sẽ chu du “Yên Nam Triệu Bắc” và rải vàng trên đường Ngài đi.

Vua: Vì con cháu của chúng ta, ngươi hãy nói rõ điều gì sẽ xảy ra sau triều đại nhà Thanh [2]?

Lưu Cơ: Thần không dám nói hết ngọn ngành. Nhưng chắc chắn rằng thời nhà Thanh sẽ còn vững bền trước khi mở cửa đường biển với bên ngoài. Nhưng chiến tranh sẽ xảy ra sau khi khai mở. Nếu thời vận lại tới cho việc mở cửa với bên ngoài lần nữa, thậm chí trên diện rất rộng, thì khi đó là “Lão Thủy” [3] cai trị ở kinh đô.

Vua: “Lão Thủy” có làm thay đổi gì không?

Lưu Cơ: Có có có. Vô số Đạo sẽ nhường chỗ cho một phương pháp tu luyện. Lớn sẽ thành nhỏ, già biến thành trẻ. Đó là thời mà các hòa thượng muốn cặp kè với giai nhân, một thời kỳ đáng nực cười, thời mà các tăng nhân lấy vợ.

Vua: Khanh có gì để nói về Đạo thời đó?

Lưu Cơ: Vào cuối thời Mạt Kiếp, hàng vạn Giác Giả sẽ hạ thế, hàng ngàn vị Phật giáng trần. Vô số Đạo, Thần, Bồ Tát, La Hán, Chân Nhân … khắp bầu trời … sẽ khó thoát khỏi tai ương này. Không có ai khác ngoài vị Phật tương lai, sẽ truyền Pháp ở dưới thế gian. Tất cả chư Phật chư Đạo chư Thần, dù trên Thiên thượng hay dưới Thiên hạ, nếu không được đi trên con đường Kim Tuyến duy nhất này, thì quả vị của họ sẽ bị tước bỏ. Sau thời mạt Pháp này, Di Lặc sẽ kết thúc toàn bộ 81 tai họa.

1. Nguồn gốc.

Những lời tiên tri trên đã tiết lộ rõ ràng nguồn gốc, sự khởi đầu và truyền rộng của Pháp Luân Đại Pháp. Câu “Đội một chiếc mũ lông cừu 4 lạng” đã miêu tả kiểu tóc của đàn ông thời nay. Đàn ông thời nhà Minh thường có tóc rất dài, đội một chiếc mũ có viền và búi tóc khá nặng nề. “Chiếc mũ 4 lạng” là nói đến kiểu tóc ngắn thường thấy của đàn ông thời nay, chỉ nặng đúng bằng khoảng đó thôi. Câu “Không phải Tăng cũng không phải Đạo, đầu đội “mũ lông cừu 4 lạng”, vị chân Phật ấy không ở trong chùa chiền. Ông ấy là Di Lặc sẽ đứng đầu để giáo hóa tất cả.” đã nói rõ rằng, đức Di Lặc đã không giáng sinh trong Phật giáo, mà là giáng sinh trong một nhà nghèo khổ bình dân. Câu văn cũng nói rõ rằng Pháp Luân Đại Pháp không phải là Phật giáo hay là bất kỳ tôn giáo nào cả; và người sáng lập, Sư Phụ Lý Hồng Chí, lớn lên trong một gia đình nghèo khó.

2. Nơi giáng sinh và nơi truyền Pháp.

“Vua: Vậy, đức Di Lặc sẽ giáng sinh ở đâu?

Lưu Cơ: Nghe thần nói đây: Khi vị giáo chủ tương lai hạ thế, … … đã nói rõ thân thế của Ngài.

Câu cuối, địa điểm được mệnh danh là “Yên Nam Triệu Bắc” – phía Nam nước Yên và phía Bắc nước Triệu – rõ ràng là Bắc Kinh. Nước “Triệu” và nước “Yên” trong Trung Quốc thời cổ đại nay là tỉnh Hà Bắc bao quanh thành phố Bắc Kinh hiện nay. Cũng đáng lưu ý rằng Lưu Cơ miêu tả việc Sư Phụ bắt đầu giới thiệu Phật Pháp vào năm 1992 để độ nhân là “bả kim tán” nghĩa là “rải vàng”. Phật Pháp so với vàng còn trân quý hơn. “Ngài sẽ chu du “Yên Nam Triệu Bắc” và rải vàng trên đường Ngài đi”, chính nghĩa là: năm 1992 Sư Phụ bắt đầu truyền rộng Đại Pháp tại Bắc Kinh (tại Hội Sức khỏe Đông phương để mọi người biết đến).

3. Thời gian

“Một lần nữa mở cửa ra ngoài, thậm chí còn trên diện rộng hơn” là để nói tới chương trình liên tục “mở cửa và cải cách” ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, Lưu Cơ còn là tác giả của “Thiêu Bính Ca” (”Bài ca bánh nướng”), đoán rất đúng sự hưng thịnh và diệt vong của những triều đại Trung Quốc kế tiếp từ thời của ông trở về sau. Đoạn đối thoại về thời nhà Thanh hoàn toàn thống nhất với những ghi chép thời nay. Ví dụ, cuộc chiến tranh Nha Phiến vào năm 1840, buộc Trung Quốc mở cửa cho các thế lực lớn trên thế giới vào, cầm đầu là nước Anh, đã đẩy Trung Quốc vào các cuộc chiến tranh trong một thời kỳ lịch sử đen tối kéo dài 100 năm.

4. Hơn thế nữa

Cuộc đối thoại này cũng nói về hiệu quả của Pháp Luân Đại Pháp đối với sức khỏe con người, ví dụ như làm người ta trẻ hơn so với tuổi. Phần cuối cùng đã khắc họa rất cụ thể quá trình Chính Pháp, với tất cả Thần, Phật, Đạo, cùng con người, đi qua khảo nghiệm sau cùng. Như Sư Phụ Lý Hồng Chí đã giảng, chúng sinh không qua được khảo nghiệm sẽ mãi mãi mất đi cơ hội. Luật này thậm chí còn áp dụng cho các vị Phật, “nếu giữ mình không vững cũng sẽ rớt xuống” (trích Chuyển Pháp Luân). Trong đó, điều đáng chú ý là vị Phật xuống để cứu độ con người được mệnh danh là “Vị Phật tương lai”, hay còn được người đời gọi là Phật Di Lặc.

________________________________________
[1] Một lạng: gần bằng 38 gam
[2] Nhà Minh (1368-1644] và nhà Thanh (1644-1911) là hai triều đại kế tiếp nhau ở Trung Quốc.
[3] “Lão” có nghĩa là “già, nhiều”, và “Thủy” có nghĩa là “nước”. Đề cập đến Lão Thủy ở đây có phần thú vị bởi nó đồng nghĩa với tên của vị lãnh đạo bạo ngược đương thời Trung Quốc Giang Trạch Dân. “Giang” trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là sông; “Trạch Dân”, dịch nôm na là giúp người dân bằng cách liên tục cung cấp nước cho họ. “Giang” là nước mà “Trạch” cũng là nước, là rất nhiều nước. Trớ trêu là, trong suốt mùa hè năm 1990, năm đầu tiên Giang lên làm lãnh đạo nhà nước, Trung Quốc chứng kiến một phần lớn lãnh thổ bị lũ lụt nghiêm trọng, con số người chết lên đến hàng ngàn. Điều này cũng được lưu truyền rộng rãi trong giới “mê tín” là lũ lụt có lẽ liên quan đến cái tên của vị lãnh đạo của họ. Tuy nhiên, kể từ năm đó, hàng năm đều có những trận lũ lụt nghiêm trọng xảy ra ở Trung Quốc.

Dịch từ:

http://www.minghui.cc/gb/0001/Oct/26/liubowen_yuyan_102600_shishi.html
http://aaa.clearwisdom.net/html/articles/2000/11/3/6308.html

The post Lời tiên tri của Lưu Cơ thời nhà Minh, Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/05/loi-tien-tri-cua-luu-co-thoi-nha-minh-trung-quoc.html/feed0
Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiệnhttps://chanhkien.org/2009/11/giai-nghia-du-ngon-cua-luu-ba-on-trieu-minh-bia-van-tren-thap-kim-lang-canh-bao-the-nhan-khuyen-thien.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/giai-nghia-du-ngon-cua-luu-ba-on-trieu-minh-bia-van-tren-thap-kim-lang-canh-bao-the-nhan-khuyen-thien.html#respondMon, 30 Nov 2009 22:18:57 +0000https://chanhkien.org/?p=4158[Chanhkien.org] Thông tin thêm cho những độc giả không phải người Hoa: Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế […]

The post Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

Thông tin thêm cho những độc giả không phải người Hoa:

Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ 20 dưới mệnh lệnh của Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch, và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Những văn tự này được viết theo hình thức thơ Trung Hoa, với những câu nói bóng gió dự báo trước những sự kiện sẽ xảy đến trong 500-600 năm sau triều Minh.

Sau đây là phần giải nghĩa:

Chữ trong dấu ngoặc vuông [ ] là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ trong dấu ngoặc đơn ( ) là chú thích của người dịch sang tiếng Việt, chỉ có tác dụng tham khảo.

[Kim Lăng tháp, Kim Lăng tháp]
(Tháp Kim Lăng, Tháp Kim Lăng)

Giải: Tháp Kim Lăng ở Nam Kinh, Trung Quốc.

[Lưu Cơ kiến, Giới Thạch sách]
(Lưu Cơ xây, Giới Thạch phá)

Giải: Lưu Cơ tức là Lưu Bá Ôn, Giới Thạch là chỉ Tưởng Giới Thạch.

[Sách liễu Kim Lăng tháp, Quân dân tự kỷ sát]
(Tháp Kim Lăng phá rồi, Quân dân tự giết hại lẫn nhau)

Giải: Đến thời tháp bị hủy, nội chiến Quốc-Cộng gây ra họa binh đao.

[Thảo đầu tương đối thảo đầu nhân]
(Đầu cỏ đối đầu với người đầu cỏ)

Giải: “Thảo đầu” ở đây (草头) là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản; “thảo đầu nhân” (草头人) là chữ “Tưởng” (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch.

[Đáo vĩ chỉ thị bán súc quy, Hồng thủy hoành lưu thành Trạch quốc, Lộ thượng hành nhân bối hướng Tây]
(Đến đuôi chỉ là rùa co lại một nửa, Dòng nước lớn chảy tràn thành ngập lụt, Người đi trên đường quay lưng về hướng Tây)

Giải: Chữ “quy” (龟) co đuôi rùa lại một nửa chính là chữ “Mao” (毛). Hai câu sau có chữ “Trạch” (泽) và chữ “Đông” (东), ghép lại thành Mao Trạch Đông.

[Nhật xuất Đông, Nhật một Tây]
(Mặt trời mọc phía Đông, Mặt trời lặn phía Tây)

Giải: Nhật Bản xâm lược Trung Quốc (ở phương Đông) và bị Anh-Mỹ đánh bại (quân Đồng Minh).

[Gia gia hộ hộ thụ thảm thê]
(Mỗi nhà mỗi hộ đều chịu thảm thương)

Giải: Bách tính Trung Quốc bị quân Nhật tàn hại.

[Đức tiêu diêu, Ý tiêu diêu, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu]
(“Đức” tiêu diêu’ , “Ý” tiêu diêu, Bao nhiêu phồn hoa như giấc mộng tiêu)

Giải: Phát xít Đức và Ý bị chiến bại và phải đầu hàng.

[Hồng đầu kỳ, Đại đầu tinh]
(Cờ màu đỏ, Ngôi sao lớn)

Giải: Lá cờ màu đỏ và ngôi sao năm cánh của Trung Cộng được giương lên.

[Gia gia hộ hộ điếu linh đình]
(Mỗi nhà mỗi hộ đều không nơi nương tựa)

Giải: Nhân dân Trung Quốc vẫn phải sống trong cảnh nghèo đói.

[Tam sơn nan lập túc, Ngũ tử tề vinh thăng]
(Ba ngọn núi khó đứng vững, Năm đứa con được vinh danh)

Giải: Văn hóa truyền thống bị phá bỏ và những kẻ có mối quan hệ được thăng tiến.

[Tâm mang mang, Ý mang mang, Thanh phong kiều sách tẩu như cuồng]
(Tâm bận rộn, ý bận rộn, Phong cách thanh liêm bị hủy đi như cuồng)

Giải: Những người được thăng tiến bận rộn vì tư lợi, ban đầu thì thanh liêm nhưng sau thì hủ hóa.

[Nhĩ nhất đảng thờì ngã nhất đảng]
(Ngươi có đảng thì ta cũng có đảng)

Giải: Nội bộ kết bè kết đảng vì tư lợi.

[Tọa cao đường, Thực cao lương,Toàn bất kế cập tha nhân tang]
(Ngồi nơi hội trường lớn, Ăn thức ăn cao cấp, Hoàn toàn không màng tới tính mạng người khác)

Giải: Thực ra chỉ quan tâm cho quyền lực ích kỷ mà không màng tới xã hội.

[Niệm bát nhân, Phu chúng vọng, Cư nhiên ương châm thắng đao thương]
(Hai mươi tám người, Được quần chúng tín nhiệm, Mặc nhiên gieo mầm mống thắng cả vũ khí)

[Tiểu tinh quang, Tế tinh quang, Niệm tướng nhị nhân tẩu Bắc phương]
(Sao nhỏ tỏa sáng, Che lấp ánh sao, Hai mươi tướng và hai người đi về phương Bắc)

Giải: Trong tiếng Trung, “niệm” (廿) và “bát” (八) hợp thành chữ “cộng” (共), Đảng Cộng sản đoạt chính quyền bằng cách lừa gạt và lợi dụng tín tâm của nhân dân, từ một nhóm nhỏ trở thành một băng đảng lớn, rồi thâu đoạt chính quyền.

[Khứ gia Mộc, Lộ bàng hoàng, Đáo xứ bôn ba nhân giai báng]
(Rời nhà gỗ, Đường bàng hoàng, Bôn ba khắp nơi đều bị người phỉ báng)

Giải: Một Giác Giả (thuộc Mộc) độ nhân và đệ tử của Ngài bị phỉ báng, khứ quốc (rời bỏ nước) ly gia (bỏ nhà). Sư Phụ phải bôn ba, đệ tử của Ngài trở nên khốn khổ và lưu lạc không nhà cửa.

[Đại hải lạc môn soan, Hà quảng vị vi quảng]
(Biển lớn bị chặn bởi then cửa, Sông rộng mà lại không thành rộng)

Giải: Quốc gia của Trung Cộng ở trong trạng thái bị phong bế.

[Lương điền vạn khoảnh vô nam canh, Đại hảo tàm ti vô nữ phưởng]
(Ruộng tốt hàng vạn không có đàn ông canh tác, tơ tằm rất tốt không có đàn bà xe sợi)

Giải: Những cuộc vận động chính trị của Trung Cộng làm nền kinh tế tiêu điều.

[Lệ nhân thiên ái tương, Nhĩ ngã hỗ tương bang]
(Phụ nữ đẹp thì được thiên vị, ngươi và ta cùng bang trợ lẫn nhau)

[Tứ thủy hạnh mộc nhật, Tam hổ sính hào cường]
(Bốn Thủy hạnh phúc ngày Mộc, Ba hổ khoe khoang ngang tàng)

Giải: Chữ “hạnh” (幸) ghép với bộ Thủy (氵) thành chữ “Trạch” (泽), chữ “nhật” (日) ghép với bộ “Mộc” (木) thành chữ “Đông” (东); “tam hổ” (三虎) là chữ “Bưu” (彪). Đây là chỉ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu.

[Bạch nhân thành uy vũ, Nhân tâm hoa điểu hoảng, Trục thủy khứ nam hãn, Ngoại nhân quy mẫu bang]
(Người da trắng thành lực lượng lớn, Nhân tâm hoảng sợ như tranh hoa và chim, Đuổi nước về đất phía Nam, Con ở ngoài quy về mẫu quốc)

Giải: Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc.

[Doanh hư nguyên hữu số, Thịnh suy dã hữu vô]
(Đầy hay trống nguyên đã có số phận, Thịnh suy cũng như là có hay không)

Giải: “Doanh” chỉ đầy đủ, phong phú, “hư” chỉ  ‘trống rỗng, thiếu, suy nhược’, “thịnh suy”, “hữu vô” đều ám chỉ rằng đã có số phận, đã định.

[Linh Sơn tao hạo kiếp, Liệt hỏa đảo phù đào]
(Linh Sơn gặp nạn lớn, Lửa cháy như sóng gầm)

[Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm đào bất thoát]
(Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm chạy không thoát)

Giải: “Linh Sơn” là danh từ trong Phật giáo dùng để chỉ một ngọn núi lớn trong vũ trụ, là nơi mà các chư Phật, Đạo và Thần tụ hội. Chính Pháp trong vũ trụ vô cùng mạnh mẽ để thanh lý, đồng hóa và trùng tân vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Nó bao gồm cả ngọn núi “Linh Sơn”, thần tiên trên thiên thượng và người phàm đều không thể trốn thoát.

[Đông phong xuy tống thảo mộc ai]
(Gió Đông thổi đi thảo mộc bi ai)

Giải: Đảng Cộng sản (Trung Quốc) thường tự ví mình là “Đông phong” (ngọn gió Đông). Trong quá trình Chính Pháp, cựu thế lực đã sử dụng Đảng Cộng sản để bức hại Đại Pháp và thế nhân. Đảng Cộng sản coi người như cỏ rác (thảo “mộc”). Đồng thời, chữ “Mộc” còn dùng để chỉ người thuộc Mộc (Sư phụ của Pháp Luân Công). Trong cuộc bức hại tà ác, Trung Cộng đã sử dụng những thủ đoạn lừa dối để dân chúng phạm tội với Phật Pháp. Thật là bi ai! Giác Giả độ nhân thuộc Mộc cảm thấy bi ai khi nhìn thế nhân và chúng sinh các giới phạm tội với Đại Pháp.

[Hồng thủy thao thiên trục nhật lai]
(Dòng nước lớn cuộn trời hàng ngày tới)

Giải: Tà ác bức hại Đại Pháp tựa như hồng thủy mãnh thú, phô thiên cái địa hòng trấn áp những người tu luyện Pháp Luân Công. Chúng rất hung dữ và tàn bạo, nhưng vẫn không thể che khuất bầu trời và mặt trời.

[Lục căn vị tịnh tùy ba khứ]
(Sáu căn không tịnh thì tùy theo sóng mà cuốn trôi)

Giải: Những học viên với tâm chấp trước mạnh mẽ hay không tinh tấn học Pháp sẽ không được coi là người tu luyện chân chính; họ chỉ có thể bị cuốn đi trong khảo nghiệm.

[Chính quả năng tu vãng thiên đài]
(Có thể tu thành chính quả thì lên đài trên trời)

Giải: Chỉ những đệ tử Đại Pháp kiên định mới có thể thượng thiên, đạt viên mãn và đắc chính quả.

[Nhị tứ bát, Tam thất cửu]
(248, 379)

Giải: “2” cộng với “4” chỉ  “6”, theo Âm Lịch là chỉ ngày Mùng 8 tháng 6. Cuộc bức hại bắt đầu vào ngày 20/7/1999 (Ngày Mùng 8 tháng 6 năm 1999 Âm Lịch) cho tới mùa xuân của một năm nào đó. “397” có khả năng chỉ ngày 16 tháng 3 Âm Lịch.

[Họa nguyên chủng kỷ cửu]
(Căn nguyên của thảm họa là từ vạn cổ)

Giải: Điều này có thể chỉ: (1) quy luật vũ trụ “thành-trụ-hoại-diệt”; (2) nhân loại đã bị bại hoại theo thời gian và mất đi tiêu chuẩn đạo đức. Từ quan điểm này, ta thấy Đại Pháp vũ trụ bị can nhiễu, bức hại và chúng sinh đối mặt với nguy cơ bị đào thải.

[Dân tam dân thập dân tam thất, Cẩm tú hà sơn hoán nhất sắc]
(Dân ba dân mười dân ba bảy, Giang sơn gấm vóc đổi một màu)

Giải: Chỉ người tốt, người xấu và người được tiến nhập vị lai; Đại Pháp sẽ cấp cho nhân loại một nền văn hóa chân chính.

[Mã bất điểm đầu thạch trầm để, Hồng hoa khai tận bạch (hoàng) hoa khai, Tử kim sơn thượng mỹ nhân lai]
(Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy, Hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở, Mỹ nhân đến nơi ngọn núi tía)

Giải: Nếu cuộc bức hại Pháp Luân Công không kết thúc vào năm Ngựa, hòn đá màu đỏ sẽ trầm xuống. ‘Hồng hoa khai tận’ chỉ Đảng Cộng sản sẽ chết mà không thể hồi sinh. “Hoàng hoa khai” chỉ các học viên Pháp Luân Công thường mặc bộ quần áo sắc vàng của Phật gia. Pháp Luân Đại Pháp sẽ mang đến cho nhân loại sự phồn vinh và nền văn hóa mới. “Tử kim sơn” là chỉ Bắc Kinh và “mỹ nhân lai” có nghĩa ai đó đến từ Mỹ quốc.

[Nhất tai hoán nhất tai, Nhất hại hoán nhất hại]
(Hết tai họa này đến tai họa khác, hết bất hạnh này đến bất hạnh khác)

Giải: Đảng Cộng sản sẽ phải nhận quả báo, cái này nối tiếp cái khác để trả giá cho tất cả các cuộc vận động chính trị từ trước đến nay, bao gồm cả cuộc bức hại Pháp Luân Công.

[Thập cửu giai nhân ngũ ngũ tuế, Địa linh nhân kiệt sản tân quý]
(19 giai nhân tuổi 55, đất linh sinh hào kiệt mới)

[Anh hùng bạt tận thạch trung mao, Huyết lưu tiêu can vạn nhân hào]
(Anh hùng nhổ sạch lông trong đá, Máu chảy cọc tiêu vạn người gào)

[Đầu sinh giác, nhãn sinh quang. Thứ dân bất dụng hoảng]
(Đầu mọc sừng, mắt phóng quang; Dân đen không cần hoảng sợ)

[Quốc vận hưng long thời nhật đáo, Tứ thời hạ chủng thái bình lương]
(Ngày mà vận nước hưng vượng đã tới, Bốn mùa gieo hạt lương thực thái bình)

Giải: Những sự tình sẽ phát sinh trong tương lai.

[Nhất khí sát nhân thiên thiên vạn, Đại dương tàn bạo quá sài lang]
(Một khí giết người nghìn nghìn vạn, Dê lớn tàn bạo hơn lang sói)

Giải: “Đại dương” là chỉ năm 2003 (năm con dê). “Nhất khí” là chỉ một bệnh dịch, không nhìn thấy nhưng liên quan đến đường hô hấp. Bệnh dịch có thể cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người (dịch bệnh SARS năm 2003).

[Khinh khí động sơn nhạc, Nhất tuyến thiết nan đương]
(Khí nhẹ chấn động cả núi cao, Một sợi dây sắt cũng khó mà chịu nổi)

Giải: Bệnh dịch di chuyển trong không khí, làm Trung Quốc (và cả thế giới) rung chuyển và khiếp hãi, tình hình dịch bệnh là rất nghiêm trọng. ‘Nhất tuyến thiết nan đương’, không có cách nào để phòng ngừa.

[Nhân phùng mãnh hổ nan huýnh tị, Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang]
(Người gặp hổ dữ thì khó mà tránh được, Người có phúc phận thì sống ở sơn trang)

[Phồn hoa thị, Biến uông dương]
(Đô thị phồn hoa chìm trong biển nước mênh mông)

[Cao lâu các, Biến nê cương]
(Nhà lầu cao trở thành đống đổ nát trong bùn lầy)

Giải: “Mãnh hổ” ở đây là để chỉ Giang Trạch Dân, người sinh năm Hổ, với bản tính tàn bạo và trí trá. Cuộc bức hại Pháp Luân Công của Giang gây ra tai ương và thảm họa cho con người. Sự bạo ngược cũng như con hổ, quan chức không hành thiện và nhân dân chịu khổ. “Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang” ám chỉ những người lương thiện, chính trực sẽ không chịu hùa vào với chế độ của Giang.

“Phồn hoa thị”, “cao lâu các” tượng trưng cho đất nước Trung Quốc hiện đại bao phủ bởi cái vỏ phồn vinh giả tạo. “Biến uông dương”, “biến nê cương” làm chúng ta nhớ lại điều được mô tả trong sách Khải Huyền của Thánh Kinh về sự sụp đổ của thành Babylon lớn. “Thành Babylon lớn” ám chỉ Bắc Kinh với vẻ phồn vinh hư giả.

[Phụ mẫu tử, Nan mai táng]
(Phụ mẫu chết, khó mai táng)

[Đa nương tử, Nhân tôn giang]
(Cha mẹ chết, con cháu khiêng)

[Vạn vật đồng tao kiếp, Trùng nghĩ diệc tao ương]
(Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương)

Giải: Khi Pháp Chính Nhân Gian, những kẻ tội lỗi sẽ bị hủy diệt bởi ôn dịch, lũ lụt, lửa và nhiều tai ương khác. Đó sẽ là một cảnh tượng vô cùng đau khổ.

[Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ, Điểu phi dương tẩu phản gia bang]
(May được hai cành gỗ lớn chống đỡ cho lâu đài, Dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà)

[Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, Trạch cập quần sinh lạc thả khang]
(May gặp Mộc Thỏ thì được thọ, Chúng sinh vui mừng mà khỏe mạnh)

[Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, Phú quý vinh hoa bách thế xương]
(Ai biết được ý tứ ở trong đó thì phú quý vinh hoa thịnh vượng trăm đời)

Giải: “Đại mộc lưỡng điều” hợp thành một chữ “lâm” (林), đồng thời có xuất hiện “Mộc” (木), tức “Mộc” trong Ngũ Hành; mà “Mộc Thỏ”, cũng thuộc Ngũ Hành. “Mộc”, chỉ năm Thỏ xuất sinh Đại Giác Giả độ nhân. Điểm này nhiều dự ngôn đã có đề cập rồi. Như dự ngôn của Bộ Hư Đại Sư tiên tri về vị Thánh nhân giáng thế thời mạt pháp là “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng” (Thỏ Ngọc dần dần thăng lên từ phương Đông); trong dự ngôn “Cách Am Di Lục” của Hàn Quốc nói: “Thế mạt Thánh quân Mộc nhân”  (Thánh nhân thuộc Mộc thời mạt thế), “Hà Mộc thượng cú mưu kiến tự” (Nhìn thấy chữ ‘Mộc’ ở câu trên hãy lo tính), “Dục tri sinh mệnh xứ tâm giác” (Muốn hiểu biết về sinh mệnh hãy lo tỉnh giác), “Kim cưu Mộc Thỏ ” (Chim cưu vàng Thỏ Mộc); trong “Trịnh Giám Lục” (một cuốn sách tiên tri nổi tiếng khác của Hàn Quốc) xác minh: “Ký ngữ thế gian Độc Giác sĩ, Tu tùng bạch Thỏ tẩu thanh lâm” (Lời nhắn để lại cho thế gian bởi Giác Giả tự ngộ, bám theo Thỏ trắng mà bước vào rừng xanh); “thanh lâm”, đối ứng “đại Mộc lưỡng điều” ở trên, ở đây chỉ tu luyện. Tất cả những điều này đều tiên tri về ông Lý Hồng Chí truyền xuất Pháp Luân Đại Pháp, Đại Pháp Đại Đạo cứu độ chúng sinh. Người thường không tu luyện, nếu thiện đãi với Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp, cũng sẽ được phúc báo.

[Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, Xa thủy mã long cánh tịch hiêu]
(Nhà lầu chọc trời lớp lớp tới tận mây xanh, Giao thông nhộn nhịp càng ầm ĩ về đêm)

[Thiển thủy lý ngư chung hữu nạn, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu]
(Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

Giải: Chỉ sự phồn hoa bề ngoài của Trung Cộng thực ra chỉ là giả tạo và không thể trường cửu. Một khi phán xét cuối cùng ập tới, tất cả lừa dối và giả tượng sẽ bị quét sạch. Những người thiện lương sẽ tiến nhập vào thời đại mới.

Xem thêm:

>> Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2003/6/19/22142.html
http://www.pureinsight.org/node/1764

The post Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/giai-nghia-du-ngon-cua-luu-ba-on-trieu-minh-bia-van-tren-thap-kim-lang-canh-bao-the-nhan-khuyen-thien.html/feed0