Loạt bài Mexico | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Loạt bài Mexico 2012 (22): Nhận tổ quy tônghttps://chanhkien.org/2024/11/loat-bai-mexico-2012-22-nhan-to-quy-tong.htmlSun, 10 Nov 2024 02:14:59 +0000https://chanhkien.org/?p=34902[ChanhKien.org] Câu chuyện về vua Hosi và vua Moche Trong kho tàng sách quý hiếm tại thư viện quốc gia Chile có câu chuyện về vua Hosi (Hầu Hỉ) và vua Moche (Ma Thư). Vua Moche khét tiếng tàn bạo, ông ta đã cho thi hành một hình thức tra tấn giống như thời Ân-Thương […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (22): Nhận tổ quy tông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Câu chuyện về vua Hosi và vua Moche

Trong kho tàng sách quý hiếm tại thư viện quốc gia Chile có câu chuyện về vua Hosi (Hầu Hỉ) và vua Moche (Ma Thư). Vua Moche khét tiếng tàn bạo, ông ta đã cho thi hành một hình thức tra tấn giống như thời Ân-Thương đối với thần dân của mình: dùng sắt nung đỏ đốt da người, trên thân những người phạm tội đều có hình chữ “S”. Ngay cả trong cuốn “Bá tước Monte Cristo” của Alexandre Dumas cũng có đoạn mô tả về kiểu tra tấn “dùng sắt nung đỏ đốt da người” của những người Anh-điêng. Vua Moche đội một chiếc mũ đồng hình quạt, khi cởi mũ ra và lật ngược lại thì trở thành một chiếc rìu lớn, rất giống với chiếc “rìu” thời Trung Quốc cổ đại. Vua Moche đã sử dụng nó như một vũ khí hạng nặng để chém đầu kẻ phạm tội, thể hiện uy quyền của mình. Vào thời nhà Thương, có một bộ tộc sống ở khu vực sông Hoài, tên của bộ tộc này có âm đọc gần giống với cái tên Moche, bộ tộc này là một danh gia vọng tộc, họ có tính cách cường bạo và hung tàn giống như vua Moche vậy.

Nền văn minh Olmec trải qua hơn 1000 năm, đến năm 926 thì xảy ra một trận động đất khủng khiếp phá hủy hoàn toàn Vương quốc Mặt Trời mọc. Nền văn minh hậu Maya cũng đồng thời chịu tổn thất nghiêm trọng, khiến cho người Maya không thể xây dựng lại đất nước. Người Ân thuộc bộ tộc Phi Ưng đã chịu tổn thất nặng nề bởi một trận động đất lớn, do vậy họ đã di cư xuống phía Nam đến Peru, nương nhờ vương quốc hoàng kim của vua Moche, họ muốn cầu xin sự giúp đỡ của vua Moche để xây dựng lại quê hương. Nào ngờ, vua Moche tham lam không những không trợ giúp họ, mà còn bắt tất cả làm nô lệ hầu hạ cho vương tộc Moche. Khi tin tức truyền tới, những người gặp nạn vô cùng bàng hoàng, lúc này có một vị thầy thuốc Hosi từ dãy núi Andes xuống, ông vừa đi vừa cất tiếng hát bài ca “Vua Hosi”, “25 dân tộc anh em cùng theo Hosi đi qua đảo cầu nổi trên trời, không thể quên những gian khổ hiểm nguy trên đường, phân phát lúa mì và kê cho những người thân thiết, anh em chớ làm nhục anh em, Thiên quốc được xây dựng lại mùa đông qua đi và mùa xuân lại đến…”. Thầy thuốc Hosi hát đến tận cung điện của vua Moche, những người xung quanh đều vô cùng đau khổ. Bài hát truyền đến cung điện, vua Moche nghe xong cũng vô cùng thương xót, vừa khóc vừa nghênh tiếp thầy thuốc Hosi. Ông ta cho phóng thích nô lệ, tặng vàng bạc châu báu cho anh em bộ tộc Phi Ưng và giúp họ xây dựng lại quê hương. Rõ ràng, Hosi và Moche là tên của những bộ tộc do Du Hầu Hỉ và Ma Thư dẫn dắt người Ân-Thương tiến về phía Đông, chính vì điều này, vua Moche khi nghe được bài ca “Vua Hosi” mới vô cùng bi thương. Những người dân tị nạn đã quay trở lại quê hương và xây dựng Vương quốc Nhật Bình Đan. Chính phủ Mexico có ghi chép toàn bộ về quá trình xây dựng vương quốc này. Bài hát mà thầy thuốc Hosi hát ngay cả phát âm cũng được ghi chép lại, mỗi từ mỗi âm đều rất giống với tiếng Hán. Nội dung mà ông ấy hát hiển nhiên là về một cuộc di cư lớn trên biển vô cùng kinh tâm động phách.

Nhận tổ quy tông

Cho đến nay người Anh-điêng ở Trung Mỹ vẫn còn nhớ mình là hậu duệ của người Ân và tổ tiên của họ đến từ Trung Quốc. Họ vẫn luôn nhớ về mảnh đất Trung Thổ và lưu truyền những câu chuyện từ đời này sang đời khác.

Âu Dương Canh (1858-1941) tự là Triệu Đình, hiệu là Thiếu Bá, quê quán ở thôn Đại Lĩnh, Trương Gia Biên, thành phố Trung Sơn. Các tài liệu lịch sử mô tả ông là người nghiêm túc, cẩn trọng và chính trực. Âu Dương Canh làm quan cho triều đình nhà Thanh 39 năm và từng là nhà ngoại giao trong chính phủ Trung Hoa Dân Quốc trong 16 năm từ 1911 đến 1927, tổng cộng là 55 năm. Năm 1910, triều đình nhà Thanh cử ông làm đặc sứ đến Mexico để xử lý vụ án “311 người Hoa bị giết trong cách mạng Mexico năm 1908”, Nhiếp chính vương ra lệnh cho ông điều tra “liệu trong số những Hoa kiều đó có dấu vết của người Ân di cư về phía Đông hay không”. Một hôm, hơn 100 gia đình thuộc bộ tộc Ân Phúc Bố (INFUBU) của người Anh-điêng sống ở 17 khu vực của bang Chihuahua, Mexico (Chihuahua trong các văn bản ngoại giao lúc đó được dịch là “Trung Hoa Hoa”, và hiện nay dịch là “Mexico”) đã vây quanh đại sứ quán của triều đình nhà Thanh ở Mexico để kiến nghị rằng: “Trong cách mạng Mexico, 750 người Anh-điêng đã bị giết, những người Anh-điêng này đều là người gốc Trung Quốc, là hậu duệ của người Ân, gọi là tộc Ân Phúc Bố, họ từ Thiên quốc đến đây thông qua đảo cầu nổi trên trời vào 3000 năm trước, thỉnh cầu triều đình nhà Thanh bảo vệ”. Âu Dương Canh vui mừng khôn xiết, lập tức báo cáo sự việc lên Bộ Ngoại vụ triều đình nhà Thanh và xin chỉ thị của Nhiếp chính vương Tái Phong. Đáng tiếc là Tái Phong – tướng của nhà Thanh lại không quan tâm đến việc này, chỉ phúc đáp rằng, việc bộ tộc Ân Phúc Bố (INFUBU) người Anh-điêng tự nhận mình là người Trung Quốc là không có căn cứ, chuyện này cũng không thể giải quyết được. Tài liệu về vụ án này vẫn còn lưu giữ trong kho lưu trữ hồ sơ của Bộ Ngoại giao Đài Loan.

Năm 1922, Âu Dương Canh được bổ nhiệm làm Công sứ đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc tại Chile, ông phát hiện thấy phía sau nhà để xe ngựa của Công sứ quán có ba búp măng tre, ông thấy rất kỳ lạ bởi vì măng tre vốn là loài thực vật sống ở vùng Phúc Kiến và Quảng Đông, Trung Quốc. Nếu cắt cây tre thành hai đoạn rồi chẻ làm đôi, ghép vào có thể làm thuyền, chữ “Chu” (舟) trong giáp cốt văn chính là hình dáng chiếc thuyền tre. Ông hỏi người hầu Anh-điêng rằng những búp măng tre này từ đâu đến, người hầu nói: “Trước đây nơi vùng đất San Diago này một nửa là tre, sau đó bị chặt đi để xây dựng nhà cửa và phát triển thành phố, tre còn lại rất ít, măng là thuốc chữa vết thương ngoài da của tổ tiên người Anh-điêng truyền lại, do vua Hosi không biết từ đâu mang đến từ 3000 năm trước, hiện nay các thầy thuốc Hosi của Inca dùng măng để trị các vết thương ngoài da và lao hạch, và dùng để châm cứu chữa các bệnh nội khoa”. Âu Dương Canh nghe những lời này mà trong lòng chấn động, trong “Thần Dịch Kinh” nói măng tre có thể chữa trị lao hạch, đây là phương thuốc Trung y, những người Anh-điêng này sao có thể biết được? Vua Hosi phải chăng là Du Hầu Hỉ đã chinh phạt Đông Di cuối triều Ân? Sau khi nhà Thương diệt vong, cây tre cũng đột nhiên tuyệt chủng ở Trung Quốc.

Năm đó đại quân Ân-Thương đóng quân ở bán đảo Sơn Đông, vì Hà Nam đã bị quân Chu chiếm đóng nên họ không thể quay về phía Đông, cho nên dân chúng và quân Ân bất đắc dĩ phải vượt biển. Trước khi rời đi, họ chặt hết tre và măng để làm tàu và làm thuốc. Vùng đất mà họ hướng tới có thể là quê hương của người Ân là Liêu Đông và Triều Tiên. Nhưng sau khi hơn 100.000 quân dân đi tàu ra biển, họ đã gặp phải dòng hải lưu Kuroshio và dòng hải lưu Thái Bình Dương trường kỳ chảy về phía Đông, cuối cùng đã đến châu Mỹ. Nền văn minh Ân-Thương dần dần truyền rộng ra khắp lục địa châu Mỹ, con cháu người Ân cũng sinh sôi nảy nở ở vùng Trung và Nam Mỹ, đã trở thành bộ tộc người Anh-điêng với số lượng lớn tại nơi đó.

Những chuyện tương tự cũng đã xảy ra sau đó. Vào thế kỉ 13 khi Hốt Tất Liệt chinh phục Nhật Bản, thủy quân nhà Nguyên gặp một cơn bão ập đến, một số tàu đã trôi theo dòng hải lưu Kuroshio đến quần đảo Queen Charlotte ở lục địa Bắc Mỹ. “Nguyên sử – Thế tổ bổn ký” ghi chép: Năm Chí Nguyên thứ 11 (thời Nguyên Thế Tổ, 1274), 15.000 quân và 900 tàu chiến được phái đi tấn công Nhật Bản. Vì gặp mưa bão bất ngờ ập tới, tàu chiến va vào vách đá rồi bị lật, bại trận trở về. Năm Chí Nguyên thứ 18 (1281), 100 tàu chiến của quân Đông Lộ và 3.500 tàu chiến của quân Giang Nam được phái đến Nhật Bản lần thứ hai, gặp phải bão nên nhiều tàu chiến bị đắm. Sau đó, vào tháng hai năm sau, 1.000 tàu chiến vẫn đang được đóng ở Cam Sơn, còn có tổng cộng 3.000 tàu chiến được đóng ở Dương Châu, Bình Loan (Vĩnh Bình, Hà Bắc) và Long Hưng (Nam Xương, Giang Tây), nhằm tấn công Nhật Bản lần thứ ba. Kỵ binh Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập vào thế kỷ 13 từng càn quét khắp lục địa Á-Âu. Thủy quân cũng rất mạnh mẽ, tàu chiến Mông Cổ nhiều vô cùng, phía Đông đánh tới Nhật Bản, phía Nam đánh đến tận đảo Java của Indonesia. Người Nhật nói rằng “Thần gió” đã cứu họ. Do bị mưa bão bất ngờ tấn công, một nhóm tàn quân Mông Cổ cũng trôi dạt sang châu Mỹ và trở thành người Anh-điêng. Một học giả lịch sử tên là Mikey Way (Chủ tịch Hiệp hội Lịch sử Victoria) đã viết một cuốn sách có tên là “Chuyện cổ tích British Columbia”, trong sách đề cập rằng những người dân bản địa của quần đảo Queen Charlotte trên bờ biển phía Tây British Columbia, tổ tiên của họ phần lớn đều là người Trung Quốc. Những người bản địa này tự nhận mình là con cháu của thủy quân nhà Nguyên bại trận trong cuộc chinh phạt phía Đông nước Nhật của Hốt Tất Liệt ở thế kỉ 13, trôi dạt đến đảo này.

Vận mệnh đầy trắc trở

Các học giả tiêu biểu của “Quan điểm lịch sử về nền văn minh văn hóa mới” cho rằng: “Nền văn minh Trung Hoa rộng lớn và tinh thâm, như biển dung nạp trăm sông, dẫn dắt nhân loại trải qua hàng ngàn năm, là nguồn động lực thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh nhân loại”. Tổ tiên người Trung Quốc đã qua con đường đi qua eo biển Bering, hoặc là dòng hải lưu, hay những hòn đảo trên Thái Bình Dương từng đoàn hợp nhất với những người đi trước tập hợp thành người Anh-điêng bản địa. Họ đã góp công lớn mang ngọn lửa văn minh nhân loại lần này đến cho lục địa châu Mỹ.

Trung Quốc thời cổ đại được gọi là Thần Châu hay còn gọi là Thiên triều, là nơi được các vị Thần chăm lo bảo hộ. Sau khi rời xa mảnh đất Thần Châu, tổ tiên dân tộc Trung Hoa cũng đã rời xa sự chăm sóc của chúng Thần. Chỉ vùng đất có được sự bảo hộ của chính Thần, chính giáo mới được hưởng phúc phận. Sự phát triển của nền văn minh Anh-điêng trên lục địa châu Mỹ kém xa so với nền văn minh có hệ thống hoàn chỉnh trên vùng đất Trung Quốc. Có lẽ các vị Thần đã sắp đặt Trung Quốc mới là vũ đài chính của nền văn minh lần này, vở kịch lớn như vậy cần phải diễn ở đó. Không thể ở vùng đất châu Mỹ rộng lớn cũng xuất hiện nền văn minh có hệ thống chính Thần, chính giáo (Phật, Đạo, Nho) tương tự, từ đó hình thành can nhiễu đối với vũ đài chính. Tổ tiên người Trung Quốc (người Anh-điêng) đã mất đi sự săn sóc chu đáo của chính Thần từ đó vận mệnh trở nên đầy trắc trở.

Những hệ thống chính giáo của người da vàng như Phật, Đạo, Nho đều có Thiên quốc đối ứng trên Thiên thượng. Người Anh-điêng không có những hệ thống chính giáo này để giáo hóa người dân, do đó đã bị người ngoài hành tinh lợi dụng sơ hở này. Một số bộ lạc Anh-điêng bao gồm người Maya đã bắt đầu tiếp xúc với người ngoài hành tinh. Người ngoài hành tinh đã cố ý truyền cấp cho họ một số tri thức về toán học và thiên văn. Vì vậy người hiện đại đã phát hiện những người Anh-điêng này am hiểu thuật chiêm tinh cao thâm đến kinh ngạc, toán học và thiên văn của họ cực kỳ phát triển, thậm chí còn vượt trội hơn so với người hiện đại. Vào ngày 05 tháng 06 năm 1952, người ta đã phát hiện bức hình một phi hành gia cổ đại đang lái tàu vũ trụ trên phiến đá được khai quật lên từ đống đổ nát của ngôi đền thờ Thần ở thành phố Palenque của người Maya cổ đại. Mặc dù các hoa văn đã bị biến dạng, nhưng các cửa hút gió, ống xả, cần điều khiển, bàn đạp, bánh lái, ăng-ten, ống mềm và các bộ phận khác của tàu vũ trụ vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng. Tuy nhiên, theo nhìn nhận của văn hóa truyền thống Trung Hoa, kĩ thuật của người ngoài hành tinh chỉ là những tiểu thuật, không thể giúp con người đạt được chính quả. Theo cách nhìn nhận của văn hóa truyền thống Trung Quốc, người ngoài hành tinh phần lớn đều là những tà ma ngoại đạo không thể thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Bộ tộc người Anh-điêng đã rời xa chính Thần và còn xuất hiện hiện tượng giết người sống để hiến tế “Thần”, hơn nữa ngày càng ác liệt. Đến thời kỳ cuối, việc hiến tế người sống ngày càng trở nên phổ biến, trái tim hoặc máu của nạn nhân thường được hiến tế cho Thần Mặt Trời, hoặc “Vũ Xà Thần” Quetzalcoatl, v.v. Người Aztec tin rằng: nhất định phải dùng máu tươi của người sống để cung phụng Mặt Trời thì nó mới có sức mạnh mỗi ngày mọc lên từ phía Đông, mùa màng muốn có thu hoạch tốt phải nhờ vào hiến tế máu tươi mới được. Việc giết hàng nghìn tù binh chiến tranh trong một ngày đối với họ là chuyện thường xảy ra. Những nạn nhân này thường bị chặt đầu hoặc lột da, hoặc bị moi tim khi còn sống. Họ bị đưa lên đỉnh kim tự tháp (nơi gần Mặt Trời nhất), để máu theo bậc thang đá chảy xuống. Chiến tranh của người Maya giống như một trận thi đấu thể thao kinh hoàng. Các chiến binh sử dụng giáo và gậy làm binh khí để tấn công các thành phố khác, mục đích của họ là bắt tù binh và giao bọn họ cho các thầy tế phe mình để làm lễ vật hiến tế cho Thần. Trên vách tường các ngôi đền Thần của người Anh-điêng thông thường còn lưu lại một lớp bụi bẩn rất dày, đó là máu người, dầu mỡ, vật hiến tế và nhang khói qua thời gian lâu tích tụ lại.

Những sự việc trong lịch sử không hề xảy ra một cách ngẫu nhiên, khi tội ác gây ra đã lớn tới mức này thì nhất định sẽ bị Thần trừng phạt nghiêm khắc. Nền văn minh thời kỳ cuối của người Anh-điêng nếu như không bị diệt vong thì cũng không còn Thiên lý nữa rồi. Vậy nên người Anh-điêng mới có thể bị một số lượng rất ít thực dân Tây Ban Nha tiêu diệt một cách dễ dàng. Thực dân Tây Ban Nha lúc đó “xóa sổ một nền văn hóa, giống như người qua đường tiện tay ngắt một bông hoa hướng dương bên vệ đường”. Chỉ với vài trăm kẻ xâm lược là có thể hủy diệt cả đất nước Anh-điêng với dân số hàng chục triệu người. Tuy nhiên, những phương pháp mà thực dân Tây Ban Nha sử dụng cũng rất hung tàn và hèn hạ, bao gồm cả dụ dỗ và lừa dối.

Năm 1520, bệnh đậu mùa đã lây lan tại vùng đất người Aztec, trong vòng hai tuần, người Aztec lần lượt bị chết. Năm 1521, bệnh đậu mùa đã khiến dân số của thủ đô Aztec vốn từ 300.000 người giảm hẳn xuống còn 150.000 người, những người còn sống hầu hết đều nhiễm bệnh, cuối cùng bị thực dân đánh chiếm. Học giả người Mỹ Howard Michael trong cuốn sách “Câu chuyện về dịch bệnh” đã trích dẫn lời của Hernan Cortes rằng: “Trừ phi bạn giẫm giày lên xác một người da đỏ (người Anh-điêng), nếu không bạn không thể đi qua đường được”. Lịch sử tương tự không ngừng tái diễn, ban đầu người dân ở Vương quốc Anh-điêng thịnh vượng lần lượt bị bệnh đậu mùa và pháo súng liên tiếp tiêu diệt. Cuốn sách “Lịch sử bệnh đậu mùa” ghi chép rằng, trước khi thực dân Pizarro xâm lược đế chế Inca, bệnh đậu mùa đã hoành hành trước một bước, và còn nổ ra một cuộc nội chiến. Khi Pizarro đặt chân lên lãnh thổ của Đế chế Inca, ông đã phát hiện ra một vùng đất rộng lớn không có người ở, ngay cả các pháo đài trên núi cũng không có người canh gác, điều này đã tạo ra thuận lợi rất lớn cho đội quân thực dân của ông chỉ có hơn 100 người dựa vào cách lừa đảo mà chinh phục được đế chế Inca. Để cướp đoạt vàng bạc và tài sản, những người thực dân đã ép buộc người Anh-điêng phải di chuyển đến nơi rất xa, lao động tập trung, điều này càng góp phần làm lây lan dịch bệnh. Cuốn sách “Sự thịnh suy của đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha” có viết: “Trong suốt thời kỳ thuộc địa, thực dân Tây Ban Nha đã bòn rút/bóc lột được 2,5 triệu kg vàng và 100 triệu kg bạc từ châu Mỹ … Khoảng 8,08 triệu người Anh-điêng đã phải chôn thây trong các hầm mỏ”. Tại các khu vực khai thác mỏ, những người giám sát phân chia người Anh-điêng thành nhóm 50 hoặc 100 người, sau đó dùng dây thừng hoặc xích sắt trói toàn bộ nhóm người Anh-điêng lại với nhau. Những người thợ mỏ Anh-điêng bị đưa xuống hầm mỏ làm việc từ thứ hai đến thứ bảy mới được phép lên mặt đất, họ thường phải đứng trong nước lạnh và làm việc quá tải. Một số hầm mỏ rất sâu, thợ mỏ phải leo thang dây làm bằng da trong suốt 5-6 giờ, do sức yếu hoặc thang dây bị đứt mà bị rơi xuống giếng nhiều không kể xiết. Tỷ lệ tử vong của những người thợ mỏ này cao tới 70%. Vì vậy người Anh-điêng nào bị điều đến làm việc ở hầm mỏ thì người thân và bạn bè sẽ tổ chức đám tang trước cho anh ta. Một số phụ nữ Anh-điêng nếu sinh được bé trai sẽ giết đi để tránh sau này nó lớn lên phải vào hầm mỏ làm việc.

Những kẻ thực dân còn lấy danh nghĩa “chủ nhân” để phá hủy một số di sản văn hóa quý giá do tổ tiên nhân loại để lại. Trên khắp Trung Mỹ, bọn họ vơ vét các văn vật lịch sử, chất thành đống rồi phóng hỏa đốt sạch. Bọn họ dùng cách này để tiêu diệt nền văn hóa và kiến thức cổ xưa của người Anh-điêng một cách có hệ thống. Ví dụ, vào tháng 07 năm 1562, tại thành phố Maul nằm ở quảng trường trung tâm của vùng ngoại ô phía Nam thành phố Merida trên bán đảo Yucatan ngày nay, linh mục Fr Diego de landa đã tự tay thiêu hủy hàng nghìn hàng vạn bản chép tay, sách tranh và sách cuộn chữ tượng hình viết trên da hươu của người Maya. Bản thân ông tự thừa nhận: chúng tôi đã tra xét một lượng lớn thư tịch (toàn bộ được viết bằng chữ của người Anh-điêng). Vì trong sách ghi chép toàn là những điều mê tín và những lời dối trá của ma quỷ, nên chúng tôi đã đem chúng thiêu hủy. Những người bản địa trơ mắt đứng nhìn, cảm thấy vô cùng đau buồn. Tham gia vào việc xóa bỏ nền văn hóa truyền thống của Trung Mỹ cùng với quân chiếm đóng Tây Ban Nha còn có rất nhiều “giáo sĩ”, như Juan de Zumarraga đã đốt một đống lửa lớn ở quảng trường chợ Texcoco để thiêu sạch những văn vật quý giá mà quân chiếm đóng Tây Ban Nha đã cướp đoạt từ tay người Aztec trong 11 năm qua như tài liệu thiên văn, tranh vẽ, bản thảo và những cuộn sách chữ tượng hình.

Trong ngọn lửa bốc ngùn ngụt và tro bụi bay khắp nơi, những trang ghi chép lịch sử về tổ tiên Trung Quốc khai sáng nền văn minh châu Mỹ đã tan thành mây khói. Những văn bản ghi chép do các dân tộc ở Trung Mỹ cổ đại để lại, số lượng bản thảo và sách cuộn được bảo tồn cho đến ngày nay không đến 20 quyển.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/110224

The post Loạt bài Mexico 2012 (22): Nhận tổ quy tông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (21): Hành trình về phương Đông của người Trung Quốc cổ đại và nền văn minh Olmechttps://chanhkien.org/2024/09/loat-bai-mexico-2012-21-hanh-trinh-ve-phuong-dong-cua-nguoi-trung-quoc-co-dai-va-nen-van-minh-olmec.htmlFri, 20 Sep 2024 23:38:05 +0000https://chanhkien.org/?p=34421[ChanhKien.org] Khoa Phụ đuổi theo Mặt Trời Trung Quốc cổ đại có lưu truyền câu chuyện Khoa Phụ đuổi Mặt Trời. Trong Sơn Hải Kinh – Hải ngoại Bắc Kinh có viết: “Khoa Phụ đuổi theo Mặt Trời, khi tiến đến gần Mặt Trời thì cảm thấy khát nước và muốn uống nước, nên đã […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (21): Hành trình về phương Đông của người Trung Quốc cổ đại và nền văn minh Olmec first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Khoa Phụ đuổi theo Mặt Trời

Trung Quốc cổ đại có lưu truyền câu chuyện Khoa Phụ đuổi Mặt Trời. Trong Sơn Hải Kinh – Hải ngoại Bắc Kinh có viết: “Khoa Phụ đuổi theo Mặt Trời, khi tiến đến gần Mặt Trời thì cảm thấy khát nước và muốn uống nước, nên đã uống nước sông Hoàng và sông Vị, nhưng nước sông Hoàng và sông Vị không đủ, Khoa Phụ đi về phía bắc đến hồ lớn để uống nước. Chưa kịp đến nơi thì anh đã chết khát dọc đường. Cây gậy của anh biến thành một rừng đào”. Trong Sơn Hải Kinh – Đại hoang Bắc Kinh viết: “Ở vùng đất hoang vu xa xôi nhất có một ngọn núi tên là Thành Đô Tải Thiên. Có một người đàn ông đeo hai con rắn vàng làm khuyên tai, trong tay còn cầm hai con rắn vàng, tên là Khoa Phụ. Hậu Thổ sinh ra Tín, Tín sinh ra Khoa Phụ. Khoa Phụ không tự lượng sức mình, muốn đuổi theo Mặt Trời, cuối cùng cũng bắt kịp Mặt Trời tại vùng Ngu Cốc. Khoa Phụ vì khát nên đã uống nước sông Hoàng nhưng nước sông không đủ uống, nên anh bèn đến hồ lớn ở phía Bắc, chưa kịp đến nơi thì đã chết khát giữa đường”. Quyển sách cũng nói rằng, Ứng Long đã giết Xi Vưu, lại giết Khoa Phụ, sau đó Ứng Long đã chạy xuống miền Nam để cư ngụ, vì thế miền Nam có mưa nhiều. Trong “Liệt Tử – Đường Vấn” viết: “Khoa Phụ không tự lượng sức mình, muốn đuổi theo cái bóng Mặt Trời, lúc đuổi đến vùng Ngung Cốc thì cảm thấy khát nên muốn uống nước, liền chạy đến sông Hoàng và sông Vị để uống nước, nước sông Hoàng và sông Vị không đủ, liền đi đến hồ lớn phía Bắc uống nước. Chưa kịp đến nơi thì đã chết giữa đường. Vứt bỏ cây gậy trong tay, thi thể Khoa Phụ ngấm xuống đã phát triển thành một khu rừng rộng đến hàng ngàn dặm”.

Khi nền văn minh nhân loại lần này vừa mới bắt đầu, ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại xác thực có tồn tại bộ lạc Khoa Phụ. Thủ lĩnh của bộ lạc tên là Khoa Phụ. “Đuổi theo Mặt Trời” thực chất là một cuộc di cư đường dài của bộ tộc trong lịch sử của tổ tiên Trung Quốc. Trong mấy trăm năm, người Khoa Phụ liên tục đi về hướng Đông, đuổi theo Mặt Trời, cho đến khi lãnh thổ mở rộng đến vùng đất châu Mỹ, đây chính là câu chuyện “Khoa Phụ đuổi Mặt Trời”. Do hạn hán thiếu nước, các thủ lĩnh của bộ lạc Khoa Phụ tuy rằng đã chết một cách bi tráng trong các cuộc di cư, nhưng họ lại mang đến cho châu Mỹ ngọn lửa của nền văn minh nhân loại lần này.

Nghiên cứu của nhà sử học cổ đại Vương Đại Hữu cho biết, trong “Hải ngoại Đông Kinh”, “Đại hoang Đông Kinh” đã ghi chép lại cuộc di cư quy mô lớn của tộc người Khoa Phụ, tộc người Thiếu Hạo, người Chuyên Húc đến châu Mỹ vào khoảng 5000 – 6000 năm trước. Sau khi Viêm Hoàng đánh bại Xi Vưu (khoảng 6000 năm trước), người Khoa Phụ từ Thái Hành Sơn, Hoa Sơn tháo chạy về khu vực Hà Sáo, Âm Sơn. Sau đó lại đi theo hướng Bắc bờ Đông hồ Baikal, đảo Sakhalin, bán đảo Kamchatka, Đông Bắc Á, vùng Bắc Cực và Quần đảo Aleutian, cuối cùng đến được Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Người Di, Vu Di, Khoa Di sống ở thời nhà Hạ, Thương, Chu; nước Đại Hán ở thời kỳ Nam Bắc triều (xem “Lương Thư”, Lịch sử nhà Lương của Nam triều); cũng như người Eskimo (người Hách Triết), người Aleut, người Chavin ngày nay, họ đều là người Khoa Phụ và hậu duệ của họ. Trong “Đại hoang Đông Kinh” có viết: “Ở phía Đông Nam của vùng đất hoang vu xa xôi nhất có một ngọn núi tên là Bì Mẫu Địa Khâu”. Trong sách “Hoài Nam – Địa Hình Huấn” viết: “Phía Đông Nam có ngọn núi Ba Mẫu”. Thực ra, Ba Mẫu (âm đọc là bōmǔ), Bì Mẫu (pímǔ) và Ba Cốc (bōgǔ) đều là chỉ Peru cổ đại, còn thung lũng Virú là cái nôi của nền văn hóa Chavin ở Peru ngày nay. Động Minh Ký ghi chép là “Lặc Tất Quốc (âm đọc lèbìguó)”, còn trong “Tây Dương Tạp Trở” viết Tất Lặc Quốc (bìlèguó), mà trong Đỗ Dương Tạp Biên – quyển thượng lại viết là Di La quốc (míluóguó). Những cái tên này đều là chỉ Peru cổ đại. Người Khoa Phụ đã xây dựng Vương quốc của họ ở ba nơi của châu Mỹ, đó là Bình Khâu (Pingqiu), Bách Cốc (Baigu), núi Đào Đô (Taodu) thuộc vùng Alaska của châu Mỹ; và ở vùng Thang Cốc Phù Tang (thuộc dải đất Mexico cổ đại), nay là Trung Mỹ.

Sau đó người Thiếu Hạo đến và đã xảy ra xung đột, người Khoa Phụ di chuyển về phía Đông vùng lưu vực sông Rio Grande, sau đó di cư về phía Nam đến Peru rồi định cư ở đó, để rồi sáng tạo ra nền văn hóa Chavin. Văn hóa Chavin ra đời và phát triển vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên, tồn tại liên tục cho đến khoảng năm 500 trước Công nguyên. Khoa Phụ là con của Mặt Trời, tộc Khoa Phụ tôn sùng vật tổ Thần Mặt Trời, đuổi theo Mặt Trời từ Bắc Mỹ đến Nam Mỹ, họ tôn thờ vị Thần Mặt Trời, và vị Thần này đã trở thành tín ngưỡng tối thượng của họ.

Vương quốc Thiếu Hạo Hi Hòa

Trong “Sơn Hải Kinh – Đại hoang Đông Kinh” có viết: “Ngoài biển Đông Hải có một khe nứt lớn, đó là Vương quốc Thiếu Hạo”. Các học giả sử học cổ đại cho rằng khe nứt lớn này là chỉ thung lũng Colorado ở Hoa Kỳ, Vương quốc Thiếu Hạo là chỉ Vương quốc Thiếu Hạo Hi Hòa. Khi tộc Khoa Phụ khai hoang vùng Đông Bắc Á, lại có những người tộc Xi Vưu và tộc Thiếu Hạo lần lượt chuyển đến. Vì lực lượng chính của tộc Xi Vưu không muốn phục tùng tộc Hiên Viên do Hoàng Đế thống trị, do đó họ dời đến vùng phía Bắc, tức lưu vực sông Tùng Hoa thuộc tỉnh Hắc Long Giang ngày nay. Tiếp đó, họ lại di chuyển đến bên ngoài dãy núi Hưng An, cuối cùng lại đến vùng Đông Bắc Á. Tộc Thiếu Hạo là một nhánh của tộc Thái Hạo (Phục Hy) di chuyển đến vùng hạ lưu sông Hoàng Hà, vì để mở rộng khu vực sinh sống, họ cũng di chuyển đến Đông Bắc Á. Tộc Xi Vưu và tộc Thiếu Hạo dần dần hòa nhập vào tộc Khoa Phụ, họ cùng nhau di cư về phía Đông, tiến vào Bắc Mỹ, sau đó chuyển hướng xuống phía Nam. Tộc Xi Vưu di chuyển đến lưu vực sông Mississippi ở Bắc Mỹ, phân bố ở các bang Tennessee, Oklahoma, Arkansas, Missouri, Mississippi và những nơi khác. Tộc Thiếu Hạo sống ở miền Nam California và miền Bắc Mexico, đồng thời lập nên Vương quốc Thiếu Hạo Hi Hòa ở Trung Mỹ.

Sau khi người Thiếu Hạo đến châu Mỹ, họ vẫn thường xuyên giữ liên lạc với quê hương Trung Quốc, duy chỉ trong Sơn Hải Kinh mới có những ghi chép chuẩn xác tỉ mỉ liên quan đến Vương quốc Thiếu Hạo Hi Hòa ở châu Mỹ về núi sông, cảnh quan, khoáng sản, tập tục, thờ cúng, v.v. Vương quốc Thiếu Hạo Hi Hòa ở châu Mỹ nằm tại mũi phía Bắc đảo California, phía Tây Mexico và bang Chihuahua, phiên dịch sang tiếng Trung Quốc là 奇瓦瓦 [qíwàwà], có tổng cộng 17 khu vực bao gồm các bang, thành phố và làng mạc. Vào cuối triều Thanh, các văn kiện chính thức mà Mexico gửi cho Triều đình nhà Thanh được dịch sang tiếng Trung Quốc là “中華華”. Thời cổ đại, chữ “華” (hoa) này thực ra là chữ “和” (hòa, tức là mầm, mạ non) và chữ “和” này cũng là chỉ cây lúa (糯,稻), chúng đều là những âm bị biến đổi dần, “華夏” (Hoa Hạ) chính là từ 羲和 (Hi Hòa) bị đảo ngược. Do sự xuất hiện của người Thiếu Hạo, một bộ phận người Khoa Phụ vốn đến trước buộc phải di cư đến thung lũng Bì Mẫu, thuộc châu Nam Mỹ. Bức tường Rồng (Huaca del Dragon) ở Trujillo, Peru vô cùng nổi tiếng. Hình tượng những con rồng trên bức tường này sinh động giống như chúng đang gặp gỡ, ở giữa có một đàn tế, đó là cách thức điển hình của Trung Quốc.

Vương quốc Phù Tang thời thượng cổ là Mexico ngày nay?

Người Trung Quốc hiện đại thông thường đều cho rằng Vương quốc Phù Tang là chỉ Nhật Bản. Thật ra, Vương quốc Phù Tang thời cổ đại là nằm ở khu vực Mexico thuộc Trung Mỹ. Mà thời Trung Quốc cổ đại thường gọi Nhật Bản là nước Oa. “Lương Thư – Phù Tang Trung truyện” có ghi chép: “Nước Văn Thân cách Đông Bắc nước Oa hơn bảy ngàn dặm… Nước Đại Hán (Trung Quốc) cách phía Đông nước Văn Thân năm ngàn dặm… Nước Phù Tang cách Đông Đại Hán hai ngàn dặm, nằm ở phía Đông Trung Quốc, vùng đất này có nhiều cây phù tang, vì thế mới có tên như vậy”. Điều đó cho thấy rằng, nước Văn Thân và nước Đại Hán ở vùng Bắc Á, còn nước Phù Tang thì ở châu Mỹ, nằm “ở phía Đông Trung Quốc” là hoàn toàn chuẩn xác. Do đó, cách nói nước Phù Tang là Nhật Bản hoàn toàn không đúng.

Cuốn sách “Bằng chứng cho thấy Columbus vô danh hoặc Tuệ Thâm cùng đoàn Phật giáo người Afghanistan đã phát hiện ra châu Mỹ vào thế kỷ thứ năm” được Edward P. Vining xuất bản năm 1885, bao gồm các học thuyết quan trọng về vấn đề này kể từ năm 1761, cuốn sách dày khoảng 800 trang. Vining cho rằng nước Oa được nhắc đến trong “Lương Thư” là Nhật Bản, tuy nhiên nước Văn Thân cách nước Oa hơn 7.000 dặm về phía Đông Bắc, là nơi người Eskimo sống trên quần đảo Aleutian. Cách nước Văn Thân 5.000 dặm về phía Đông chính là vùng đất Alaska. Từ Alaska hướng về phía Đông (Đông Nam) hơn 20.000 dặm, tương đương với Vương quốc Phù Tang ở phía đông Trung Quốc (lấy Kinh Châu ở miền trung Trung Quốc làm trung tâm), bất luận là từ khoảng cách hay phương hướng mà xét, đều có thể đưa ra kết luận nơi này chính là Mexico. Ngoài ra, các phong tục và sản vật của Vương quốc Phù Tang được mô tả trong “Lương Thư” về tổng thể đều giống với ở Mexico thời cổ đại. Năm 1940, nhà xuất bản Thương Mại (của Trung Quốc) đã xuất bản cuốn “Khảo chứng Vương quốc Phù Tang” của ông Chu Khiêm Chi. Bắt đầu từ việc phân tích một cách hệ thống lịch sử đất nước Phù Tang. Căn cứ vào hệ thống chính sử, họ tin rằng nước Phù Tang chính là Mexico. Các học giả Trung Quốc như Chương Thái Viêm, Chu Khiêm Chi, Lã Tư Miễn, đặc biệt là Mã Nam Thôn (Đặng Thác), người có tầm ảnh hưởng lớn cũng ủng hộ thuyết này.

Từ Canada đến Nam Mỹ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều chữ Hán Trung Quốc, tiền đồng, y phục và trang sức, tượng điêu khắc, các đồ vật làm bằng ngọc, v.v.. Mà các loại văn vật này ở vùng đất Mexico là phong phú nhất, đặc biệt là ở bang Chihuahua và bán đảo Yucatan. Vương quốc Phù Tang trở thành vùng đất trung tâm của nền văn minh cao nhất tại châu Mỹ, là kết tinh của tinh hoa văn hóa Trung Quốc cổ đại.

Hành trình về phương Đông của người Ân và nền văn minh Olmec

Bước chân người Trung Quốc đi đến châu Mỹ chưa bao giờ dừng lại. Đến thời điểm những năm cuối triều Ân, Trụ Vương (Đế Tân) đã dốc sức xây dựng lên Đông Di, Hoài Di, Hổ Di (tức là Nhân Phương, Lâm Phương, Hổ Phương). Khoảng năm 1045 trước Công nguyên, vào tháng Giêng theo lịch Ân, Trụ Vương từ vùng Nhân Phương, Sơn Đông trở về kinh đô nước Ân là Triều Ca để ăn mừng năm mới. Vào ngày Giáp Tý, Chu Vũ Vương dẫn quân vượt qua Mạnh Tân, vì đội quân tinh nhuệ của Trụ Vương đang chinh phạt Lâm Phương mà ở lại Đông Di, lúc đó Trụ Vương hoảng sợ liền phái 700.000 lính nô lệ đi nghênh chiến ở Mục Dã. Lính nô lệ đào tẩu, Trụ Vương bị đánh bại rồi tự thiêu ở Lộc Đài.

Sau khi nhà Ân-Thương bị tiêu diệt, hơn 100.000 quân tinh nhuệ do thống soái của quân Ân là Du Hầu Hỉ đóng quân ở Đông Di và còn có 150.000 quân của các bộ lạc khác đóng ở Lâm Phương, Nhân Phương, Hổ Phương, tất cả họ đều đột nhiên biến mất, không rõ tung tích. Sự kiện này đã trở thành nghi án thiên cổ trong lịch sử nhà Ân-Thương. Gần như cùng lúc với sự biến mất của quân Ân, ở bán đảo Yucatan thuộc Trung Mỹ lại hưng khởi mạnh mẽ nền văn minh Olmec mang đậm sắc thái văn hóa của nhà Ân-Thương.

Triều đại Ân-Thương vẫn còn là thời kì sử dụng nô lệ, những tù binh bại trận hoặc những người dân mất nước đều bị bắt làm nô lệ mặc cho người khác giày xéo. Sau đó, đa số những người dân Ân-Thương bị mất đi lãnh thổ và địa vị quý tộc, buộc phải kiếm sống bằng cách buôn bán nhỏ, thậm chí bị coi thường là “thương nhân”. Cách nói “thương nhân” có nguồn gốc từ đây. Vì vậy khi triều Ân bị diệt vong, những quý tộc nhà Ân-Thương chống lại nhà Chu đều lo lắng hoảng sợ. Phía trước là đại quân truy đuổi, sau lưng là biển cả mênh mông. Để tránh khỏi số phận làm nô lệ mất nước, họ chỉ còn cách tiến về phía Đông.

Du Hầu Hỉ và vua Ma Thư (còn gọi là vua Ma Hổ) đã đưa 250.000 binh lính và thường dân Ân-Thương phân thành 25 bộ tộc, mỗi bộ tộc do một quý tộc dẫn đầu. Họ đi theo Du Hầu Hỉ về phía Đông, đi qua quần đảo Nhật Bản đến quần đảo Kuril, rồi băng qua bán đảo Kamchatka, đến quần đảo Aleutian (đảo cầu nổi trên Trời) ở Bắc Thái Bình Dương và thẳng đến Alaska. Sau đó lại xuống phía Nam. Cuộc di cư của các bộ lạc từ đất liền vượt biển với quy mô lớn như thế này vào 3000 năm trước đã trải qua vô vàn nguy hiểm trên đường đi, thật khó có thể tưởng tượng được. Lực lượng chính do Du Hầu Hỉ và vua Ma Thư chỉ huy đã đến khu vực Mexico ngày nay và xây dựng Vương quốc Mặt Trời mọc ở đó.

Tại sao Du Hầu Hỉ và Vua Ma Thư cần xây dựng đất nước ở vùng Mexico? Tôi cho rằng ở châu Mỹ vẫn còn lưu lại một số tàn tích thành phố còn sót lại của nền văn minh tiền sử lần trước từ sau trận Đại hồng thủy, đặc biệt là ở Mexico ngày nay. Chẳng hạn như Teotihuacan ở Mexico, được mệnh danh là “Thành phố của các vị Thần”, bức tượng đá khổng lồ La Venta gần Vịnh Mexico và quần thể di tích kim tự tháp của người Maya trên bán đảo Yucatan. Tất nhiên, còn phải kể đến tàn tích nổi tiếng Tiwanaku được phát hiện trên một cao nguyên cao khoảng 4.000 mét so với mực nước biển, cách hồ Titicaca khoảng 20km về phía Nam, khu vực này nằm tại ranh giới giữa Bolivia và Peru ở Nam Mỹ. Puerta del Sol (cổng Mặt Trời) là di tích cổ nổi tiếng nhất trong khu tàn tích Tiwanaku, được chạm khắc từ một tảng đá khổng lồ nặng khoảng 10 tấn, rộng 3,84 mét, cao 2,73 mét và dày 0,5 mét. Trong ngày hạ chí, Mặt Trời mọc lên từ từ men theo đường trục trung tâm của cánh cổng một cách chuẩn xác. Những bậc thềm và tường của ngôi đền trong khu di tích này được làm từ những tảng đá nặng vài tấn, thậm chí là vài chục tấn, những bức tượng đá khổng lồ, những tấm bia đá, những bức tường đá trải dài cùng với những tảng đá khổng lồ nằm rải rác khắp nơi khiến người ta liên tưởng đến một thành phố tráng lệ và phồn vinh ngày đó. Khi tổ tiên người Trung Quốc di cư về Nam Mỹ vào thời điểm hàng nghìn năm trước nhìn thấy bất kỳ di tích văn minh tiền sử nào như vậy, đều sẽ rất ngạc nhiên và thán phục. Điều này chắc chắn không phải nhân lực và kỹ thuật thời đó có thể đạt được, họ cho rằng đó là thành phố do các vị Thần lưu lại nên đã xây dựng nhà cửa tại nơi này hoặc tại khu vực xung quanh.

Nguồn ảnh: Internet

Ở một số nơi, những bộ lạc nguyên thủy có nguồn gốc từ tổ tiên người Trung Hoa và hậu duệ của những người may mắn sống sót từ thời kỳ văn minh tiền sử đã hợp lại với nhau, kế thừa một số văn hóa thời tiền sử và truyền thuyết Thần thoại, chẳng hạn như văn hóa Maya. Một học giả tên Bou de Bourbourg đã phát hiện ra rất nhiều truyền thuyết về người Maya được Giám mục Landa ghi lại cách đây 300 năm trước, hiện được lưu giữ trong thư viện của Học viện Lịch sử Hoàng gia ở Madrid, Tây Ban Nha. Tài liệu ghi chép rằng có 12 dân tộc với nền văn hóa cao đến từ “con đường Thần Thánh trên biển”, họ đã mang đến một nền văn minh tiên tiến. Mà những người Maya sống trên bán đảo Yucatan ở Trung Mỹ lại tự xưng rằng mình là “những người nông dân đến từ Thiên quốc trên một chiếc thuyền tre và đi qua các hòn đảo cầu nổi trên trời đến bờ sông Copan để trồng đậu, lúa mì, kê, túc vào 3000 năm trước”.

Các thế hệ sau lầm tưởng rằng những kiến trúc khổng lồ có tay nghề cao và những kỹ thuật đáng kinh ngạc đó là do người Anh-điêng để lại, thực ra đó là những nền văn hóa tiền sử. Tộc người khổng lồ thời tiền sử có thể hình cao lớn. Dân gian Mexico có một truyền thuyết cổ xưa như sau: Thời kỳ viễn cổ, có một dân tộc cổ xưa tên là La Venta sống trong một khu rừng nhiệt đới, thành phố của họ mỹ lệ như thế giới Thần tiên và có nền văn minh phát triển cao. Bị cuốn hút bởi sức hấp dẫn thần kỳ của truyền thuyết, vào năm 1938, Hiệp hội Khảo cổ học Mexico đã tổ chức một đội khảo cổ đi tìm kiếm dân tộc cổ xưa trong truyền thuyết này. Thật bất ngờ và vui mừng khi đoàn khảo cổ thuận lợi tìm thấy 11 bức tượng đá khổng lồ trong rừng rậm của tộc người La Venta, bức nặng nhất đạt tới 20 tấn. Sau khi thu được manh mối quý giá này, các nhà khảo cổ học tiếp tục nỗ lực, cuối cùng đã tìm thấy hai di tích ở vùng duyên hải Vịnh Mexico: Một nơi là La Venta, một nơi khác là Tres Zapotes. Hơn 20 năm sau, một địa điểm quan trọng khác là di tích San Lorenzo đã được phát hiện. Ba di tích này là nơi người Olmec ở Mexico cổ đại sinh sống.

Dưới lòng đất của khu vực trung tâm cúng tế của người Olmec thuộc di tích La Venta đã khai quật được 16 bức tượng bằng ngọc phỉ thúy. Khuôn mặt của những bức tượng này giống với người Trung Quốc, tóc được búi cao và dài. Kiểu tóc búi cao và dài này thịnh hành vào thời Ân-Thương. Trong số 16 bức tượng này, có 15 bức tượng bằng ngọc đen được sắp xếp thành các vòng tròn đồng tâm, khuôn mặt hướng về một bức tượng ngọc màu đỏ. Phía sau bức tượng ngọc đỏ có sáu miếng ngọc khuê, trên các tấm ngọc khuê có khắc chữ giống như chữ Giáp cốt và Kim văn thời Ân-Thương. Năm 1996, Giáo sư Hứa Huy của Đại học Central State ở Oklahoma đã tìm thấy hơn 200 dòng chữ Giáp cốt khắc trên các tấm ngọc khuê và tượng bằng ngọc được khai quật ở La Venta. Ông đã hai lần trở lại Trung Quốc và mang theo 146 mẫu chữ, sau đó mời nhiều chuyên gia có uy tín về chữ Hán cổ đến quan sát và giám định, cuối cùng đi đến kết luận, rằng “những chữ này là chữ viết thời tiền Tần của Trung Quốc”. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, chữ khắc trên những tấm ngọc khuê này chính là tên tổ tiên của người Ân. Khi chuyên gia về chữ Giáp cốt của Bắc Kinh là Trần Hán Bình, nhà cựu nghiên cứu lịch sử của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc đến thăm phòng trưng bày nghệ thuật ở Washington, ông đã giải mã các ký hiệu văn tự trên một miếng ngọc khuê trong văn vật số 4 được khai quật từ La Venta, nghĩa là: “Những người cai trị và thủ lĩnh đã xây dựng cơ sở của Vương quốc này”. Căn cứ vào những tài liệu đang có hiện nay, các thống soái quân đội cuối triều Ân là Du Hầu Hỉ và vua Ma Thư đã chỉ huy quân và dân triều Ân xuất phát từ biển Hoa Đông, đi qua Nhật Bản và đảo cầu nổi trên trời, vượt qua Thái Bình Dương về phía Đông, một mạch di chuyển về phía Nam rồi định cư ở La Venta, đồng thời xây dựng Thần miếu để thờ cúng tổ tiên, vì vậy mới có ngọc khuê và đồ chạm khắc bằng ngọc ở trong khu di tích La Venta.

Từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên là thời kỳ toàn thịnh của nền văn minh Olmec. Khi nền văn minh Olmec phát triển rực rỡ đến khoảng năm 100 trước Công nguyên, một trận động đất lớn không may đã xảy ra ở Trung Mỹ và Vương quốc Mặt Trời mọc Phù Tang đã bị hủy hoại trong nháy mắt. Thế hệ sau của vua Ma Thư đã dẫn đầu một bộ phận người Ân của tộc Phi Hổ di chuyển đến phía Bắc Peru và xây dựng lên Vương triều Ma Thư hoàng kim. Một bộ phận khác của người Ân là hậu duệ của Du Hầu Hỉ chuyển đến dãy núi Andes ở Chile xây dựng lên Đế quốc Inca. Bộ phận còn lại không di chuyển, họ ở tại đó xây dựng lên Vương quốc Mặt Trời mọc.

(Còn tiếp)

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/110224

The post Loạt bài Mexico 2012 (21): Hành trình về phương Đông của người Trung Quốc cổ đại và nền văn minh Olmec first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (20): Tổ tiên người Trung Hoa và nền văn minh châu Mỹhttps://chanhkien.org/2024/07/loat-bai-mexico-2012-20-to-tien-nguoi-trung-hoa-va-nen-van-minh-chau-my.htmlSun, 07 Jul 2024 23:19:40 +0000https://chanhkien.org/?p=33474Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Khi ở Mexico, gần khách sạn nơi tôi sống là công viên Chapultepec. Ở đây cây cối xanh biếc, hoa cỏ mọc khắp nơi, phong cảnh tú lệ. Ngay từ thế kỷ 16, vua Aztec Moctezuma thường tới nơi này vui chơi và săn bắn. Trong thời kỳ thực dân […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (20): Tổ tiên người Trung Hoa và nền văn minh châu Mỹ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Khi ở Mexico, gần khách sạn nơi tôi sống là công viên Chapultepec. Ở đây cây cối xanh biếc, hoa cỏ mọc khắp nơi, phong cảnh tú lệ. Ngay từ thế kỷ 16, vua Aztec Moctezuma thường tới nơi này vui chơi và săn bắn. Trong thời kỳ thực dân Tây Ban Nha thống trị Mexico, Thống đốc Tây Ban Nha đã cho xây dựng cung điện mùa hè tại đây, lấy tên là “Lâu đài Chapultepec”.

Bảo tàng Nhân chủng học quốc gia Mexico (National Museum of Anthropology) nằm trong Công viên Chapultepec là một trong những bảo tàng lớn nhất và nổi tiếng nhất ở Mỹ Latinh, đồng thời cũng là một trong những điểm tham quan du lịch chính của thành phố Mexico. Bảo tàng Nhân chủng học tập hợp nhiều văn vật cổ tinh hoa của người Anh-điêng, chiếm diện tích 125.000 m2. Bảo tàng Nhân chủng học quốc gia Mexico là nơi để tìm hiểu về lịch sử và văn hóa Mexico một cách đầy đủ nhất. Nơi đây có hơn 600.000 hiện vật về dân tộc, nghệ thuật, tôn giáo và đời sống của người Anh-điêng. Nó gồm có 23 phòng trưng bày, được phân làm hai tầng, tầng một có 12 phòng triển lãm, trưng bày các văn vật lịch sử và vật khảo cổ được khai quật trước khi người Tây Ban Nha xâm lược; phòng triển lãm ở tầng hai trưng bày quần áo, trang sức, kiến trúc nhà ở, đồ dùng hàng ngày, đồ dùng trong tôn giáo, nhạc cụ, vũ khí,…của người Anh-điêng sau khi người Tây Ban Nha xâm lược. Khi tham quan tại nơi này, tôi chú ý đến rất nhiều bức tượng gốm, đồ gốm, đồ vật làm bằng ngọc và tượng điêu khắc ở tầng một, bởi vì chúng rất giống với những văn vật được khai quật ở Trung Quốc trước Công nguyên.

Người Anh-điêng

Người Anh-điêng là cư dân lâu đời nhất của lục địa châu Mỹ. Ngoại trừ người Eskimo, tất cả người Mỹ bản xứ còn lại đều được gọi là người Anh-điêng. Người Anh-điêng sống tập trung chủ yếu ở ba khu vực: Một là người Maya ở vùng Đông Nam Mexico và Trung Mỹ (Guatemala, Honduras v.v.); hai là người Aztec, người Toltec và người Zapotec ở cao nguyên Mexico; ba là người Inca ở dãy núi Andes Nam Mỹ (bao gồm Peru, Bolivia và Ecuador). Người Anh-điêng đã sáng tạo ra nền văn minh Aztec, Inca và Maya ở ba khu vực rộng lớn này. Nhưng nền văn minh Aztec và nền văn minh Inca khác biệt rất xa so với nền văn minh Maya. Người Maya đã có những cống hiến to lớn về khoa học cho thế giới, nông nghiệp, văn hóa, nghệ thuật cùng rất nhiều phương diện khác.

Trước khi thực dân châu Âu tiến vào châu Mỹ, tổng số người Anh-điêng châu Mỹ ước chừng khoảng vài chục triệu người. Họ sử dụng khoảng hơn 100 loại ngôn ngữ và 1.200 loại thổ ngữ. Nguyên nhân chủ yếu khiến người Anh-điêng gần như tuyệt chủng là dịch bệnh. Tác phẩm dịch tễ học “lịch sử bệnh đậu mùa” của học giả người Anh Ian Jennifer Grain đã trích dẫn báo cáo của quan chức y tế công cộng đầu tiên của Anh là John Simon như sau: Kể từ khi người Tây Ban Nha bắt đầu thực dân hóa cho đến nay, dân số ở Mexico mới giảm mạnh 35 triệu người. Ngoài việc mang đến bệnh đậu mùa, quân xâm lược Tây Ban Nha còn tàn sát hàng loạt người Anh-điêng.

Phải chăng họ là dân di cư đến từ Trung Quốc?

Tôi đã hỏi một số người bạn Trung Quốc rằng người trong bức ảnh này là ai. Lúc đầu mọi người đều nói cô ấy là người Trung Quốc, có một người bạn lại nói đó là người Mông Cổ ở Trung Quốc. Quả thực, người trong bức ảnh này rất giống một người phụ nữ Mông Cổ sống ở vùng miền bắc Trung Quốc đang cõng một đứa trẻ trên lưng. Nhưng thực ra cô ấy là người Mỹ Anh-điêng được chụp vào năm 1899. Bức ảnh nổi tiếng này được sao chép từ sách điện tử M-623 của kỳ thi Quốc tịch Hoa Kỳ. Ở thành phố Mexico, tôi thường nhìn thấy một số người dòng máu Anh-điêng thuần chủng có ngoại hình đặc trưng rất giống người Trung Quốc, dường như không có chút gì khác biệt, chỉ là làn da của họ sẫm hơn.

Hình: Người phụ nữ Anh-điêng cõng đứa trẻ năm 1899 (Thư viện Quốc hội, LC-USZ62-94927).

Trước kia người ta thường cho rằng người Anh-điêng là chủng người da đỏ, sau này mới hay rằng làn da của họ bị rám nắng. Thêm vào đó, người Anh-điêng lại rất thích dùng sơn đỏ nhuộm lên mặt dễ khiến người khác hiểu lầm. Vì trên lục địa châu Mỹ từ trước đến nay vẫn chưa phát hiện được hóa thạch của loài vượn, ngay cả người vượn thì lại càng không có, chỉ có khỉ, nên những người tin theo thuyết tiến hóa cũng không cách nào giải thích được nguồn gốc của người Anh-điêng. Ngoại hình người Anh-điêng mang những nét đặc trưng của người Mông Cổ châu Á: Tóc cứng và thẳng, lông tay lông chân thưa và mỏng, xương gò má cao, khuôn mặt rộng, màu da sẫm. Các nhà di truyền học cũng đã trắc định rằng chủng tộc Mông Cổ có đầy đủ bốn loại biến thể gen của DNA ty thể, mà DNA trên người Anh-điêng châu Mỹ cũng có bốn loại gen. Cùng với việc ngày càng nhiều các nhà khảo cổ học và di truyền học phát hiện ra điều này, giới học thuật phần lớn đồng ý rằng, tổ tiên của hầu hết người Anh-điêng là người châu Á vượt eo biển Bering đến châu Mỹ, chủng người Mông Cổ ở châu Á có nguồn gốc quan hệ với tổ tiên của người châu Mỹ.

Eo biển Bering nằm ở mũi phía Đông Bắc của lục địa châu Á, đầu kia là mũi Tây Bắc của châu Mỹ. Chiều rộng trung bình của eo biển Bering hiện nay là 65 km, chỗ hẹp nhất chỉ rộng 35 km, ở giữa có hai hòn đảo nhỏ cách nhau 4 km. Eo biển Bering rất nông, có độ sâu trung bình 42 mét và nơi sâu nhất chỉ có 52 mét. Từ nghiên cứu của các nhà địa chất học cho thấy, vào một giai đoạn ở thời viễn cổ, mực nước biển thấp hơn 100 mét so với ngày nay. Nói cách khác, vào thời điểm đó, eo biển Bering để lộ ra phần đất liền, trở thành lối đi tự nhiên nối liền châu Á và châu Mỹ.

Ảnh: Eo biển Bering và quần đảo Aleut (“Đảo cầu nổi trên không”)

Ngoài ra, từ Google Map, chúng ta dễ dàng nhìn thấy biển Hoa Đông qua eo biển Triều Tiên, đến quần đảo Nhật Bản, quần đảo Kuril, qua mũi phía nam bán đảo Kamchatka, rồi lại đến quần đảo Aleut ở Bắc Thái Bình Dương, đi thẳng đến Alaska, quần đảo Aleut ở trên bản đồ giống như một hòn đảo cầu nổi kết nối giữa châu Á và châu Mỹ! Khoảng cách giữa các hòn đảo chỉ từ 10 đến 20 hải lý, nó thực sự là một cây cầu nổi trên Bắc Thái Bình Dương. Còn tại phía nam cách cây cầu nổi này không xa chính là dòng hải lưu Kuroshio và dòng biến nóng Thái Bình Dương nổi tiếng quanh năm chảy về phía đông. Từ Hokkaido – Nhật Bản, qua quần đảo Kuril, dọc theo bờ biển bán đảo Kamchatka, xuyên qua quần đảo Aleutian đến phía Tây Bắc Bắc Mỹ, đặc biệt khi thủy triều thuận lợi, ngồi thuyền nhỏ có thể đi đến đó được.

Tổ tiên Trung Hoa khám phá châu Mỹ

Một số nền văn minh lớn của nhân loại lần này như: Nền văn minh Ai Cập cổ, nền văn minh Lưỡng Hà ở Mesopotamia (nay là Iraq) về cơ bản đều là sớm nở tối tàn, không thể tồn tại lâu dài, nền văn minh Ấn Độ cũng nhiều lần bị đứt đoạn bởi sự chinh phục của các thế lực ngoại lai. Văn hóa Mexico ngày nay cũng hoàn toàn không có quan hệ truyền thừa với nền văn minh Anh-điêng cổ đại. Chỉ riêng nền văn minh Trung Hoa kéo dài được gần 10.000 năm (khoảng chừng 5000 năm). Các học giả lịch sử cổ đại Trung Hoa thời cận đại như Lương Khởi Siêu (đã qua đời), Lý Ước Cầm (sống ở Anh quốc, đã qua đời), Lý Học Cần, Robert K. G. Temple (sống ở Anh quốc), Cung Ngọc Hải, Lâm Hà (đã qua đời), Vương Đại Hữu, Đổng Lập Chương (đã qua đời), Sử Thức, Lưu Ba,v.v. đã nghiên cứu toàn diện lịch sử Trung Quốc cổ đại và lịch sử nền văn minh phương Tây hàng trăm năm nay, họ đã khai sáng và phát triển “quan điểm lịch sử văn minh văn hóa mới”. Ông Cung Ngọc Hải bắt đầu bắt tay vào giải mã cuốn sách “Sơn Hải Kinh”, trình bày một số mối quan hệ từ đầu đến cuối và ngọn nguồn giữa nền văn minh Trung Hoa và nền văn minh thế giới; ông Lâm Hà trình bày ngọn nguồn nền văn minh hơn 10.000 năm của Trung Hoa dưới góc độ của cuốn lịch sử Vu Na và ngôn ngữ dân tộc; học giả Vương Đại Hữu đã dốc sức nghiên cứu nền văn minh Trung Hoa cổ đại từ năm 1978, ông bắt tay vào phân tích các vật tổ (1), trình bày một cách hệ thống lịch sử khám phá châu Mỹ của tổ tiên Trung Hoa.

Những vị học giả này cho rằng: Tổ tiên Trung Hoa đã khai phá ra nền văn minh châu Mỹ. Họ tin rằng các ghi chép trong sách “Sơn Hải Kinh” của Trung Quốc cổ đại, rất nhiều chi tiết là có thật. “Hải Nội Kinh” ghi lại khu vực tập trung sinh sống của người Hoa do dân tộc Hoa Hạ làm chủ, là khu vực sinh sống chủ yếu của dân tộc Trung Hoa, cũng có thể xem là nơi sinh sống của “Vương Tộc”, được gọi là “Khắp dưới gầm trời, chỗ nào cũng là đất của vua”. Trong “Hải Ngoại Kinh” và “Đại Hoang Kinh” ghi lại, Mexico chính là khu vực sinh sống của một nhánh dân tộc Trung Hoa, bởi vì nó cách xa khu vực quần tụ sinh sống chủ yếu của dân tộc nên được gọi là hải ngoại. Những vùng đất này phần lớn đều vô cùng hoang vu, đất rộng người thưa, là những vùng đất mới được khai khẩn nên còn gọi là “đất hoang”. Những bộ tộc Trung Hoa này đã đến châu Mỹ, Đông Nam Á, Châu Úc, bán đảo Ấn Độ, Đông Bắc Phi, Tây Á để khai phá và xây dựng đất nước và trở thành “Tộc phụ thuộc”, thời đó gọi là “Phương Quốc”, nghĩa là “người ở khắp các nơi chân trời cuối bể, không ai không là bề tôi của vua”. Vì vậy, cho dù là Sơn Kinh, Hải Nội Hải Ngoại Kinh, Đại Hoang Kinh, thì những gì được kể lại đều là những ghi chép chân thực về cuộc sống và sự khai phá của tổ tiên dân tộc Trung Hoa cổ đại. Họ còn cho rằng “nền văn minh Trung Hoa là cội nguồn của văn minh nhân loại”, “sự phát triển của nền văn minh Trung Hoa chính là hướng đi tương lai của văn minh nhân loại”.

Người Anh-điêng và người Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng, người Anh-điêng ở Chile và những nơi khác gọi trẻ em là “búp bê”, người Anh-điêng ở Mexico gọi “bạn, tôi, anh” là “ning, nội, nông”, gọi “dòng sông” là “hà”, người Anh-điêng ở Colombia gọi thuyền là “chamban”, mà ở Trung Quốc cho đến nay vẫn gọi thuyền gỗ nhỏ nhẹ là thuyền ba lá. Những bé trai người Inuit ở vùng Alaska để búi tóc dài cũng không khác mấy với những đứa trẻ vùng Hoa Bắc (bao gồm Hà Bắc, Sơn Tây và thành phố Bắc Kinh, Thiên Tân). Trong những cổ vật ở châu Mỹ thường phát hiện thấy có chữ Trung Quốc. Thư pháp khắc trên đá còn sót lại ở châu Mỹ cổ đại cũng rất tương tự với chữ giáp cốt và kim văn (văn tự khắc trên đồng, thời nhà Ân – Chu, Tần – Hán) ở Trung Quốc. Dựa vào những “nham thạch viết” này, các cơ quan liên quan ở bắc Dakota đã từng tuyên bố với thế giới rằng: “Người Trung Quốc đã từng một lần viếng thăm Bắc Dakota”.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/110224

Ghi chú:

(1) Vật tổ là vật thể tự nhiên, nhất là động vật, được người Anh-điêng ở Bắc Mỹ coi như biểu tượng của một bộ tộc hoặc gia đình.

The post Loạt bài Mexico 2012 (20): Tổ tiên người Trung Hoa và nền văn minh châu Mỹ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (19): Màu sắc của quốc kỳ Mexico hiện diện khắp nơihttps://chanhkien.org/2024/02/loat-bai-mexico-2012-14-mau-sac-cua-quoc-ky-mexico-hien-dien-khap-noi.htmlThu, 01 Feb 2024 00:38:26 +0000https://chanhkien.org/?p=32489Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Mexico có nền văn minh lịch sử lâu đời và rực rỡ, là trung tâm văn hóa cổ đại của châu Mỹ. Khi nước Mỹ vẫn còn là một vùng hoang mạc, người Anh-điêng ở Mexico đã sáng tạo ra những nền văn minh huy hoàng như nền văn hóa […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (19): Màu sắc của quốc kỳ Mexico hiện diện khắp nơi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Mexico có nền văn minh lịch sử lâu đời và rực rỡ, là trung tâm văn hóa cổ đại của châu Mỹ. Khi nước Mỹ vẫn còn là một vùng hoang mạc, người Anh-điêng ở Mexico đã sáng tạo ra những nền văn minh huy hoàng như nền văn hóa Maya, văn hóa Olmec, văn hóa Toltec và văn hóa Aztecs nổi tiếng thế giới.

Sau năm 1521, Mexico trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha, do đó người châu Âu mới đến đây với số lượng lớn như vậy. Người Tây Ban Nha đã sát hại người Anh-điêng một cách tàn nhẫn, cướp đoạt đất đai và xóa bỏ nền văn hóa của họ. “Xóa bỏ một nền văn hóa cũng giống như người qua đường tiện tay ngắt một bông hoa hướng dương bên vệ đường”. Hiện nay người Anh-điêng thuần chủng còn lại rất ít, trong số 112 triệu người Mexico (tính đến tháng 7 năm 2010), chủng người lai Anh-điêng và Châu Âu chiếm khoảng 90%, người Anh-điêng thuần chủng chỉ chiếm khoảng 8%.

Ngày độc lập của Mexico là ngày 16 tháng 9. Ngày 16 tháng 9 năm 1810, Linh mục Miguel Hidalgo-Costilla đã phát động cuộc nổi dậy chống lại chính quyền thực dân Tây Ban Nha, bắt đầu khởi nghĩa giành độc lập. Vào tháng 1 năm 1811, Hidalgo bại trận và bị giết, để kỷ niệm cuộc khởi nghĩa này, người ta đã chọn ngày 16 tháng 9 là ngày độc lập của Mexico. Nhưng thực tế, Mexico chính thức tuyên bố độc lập vào ngày 21 tháng 8 năm 1821. Có lẽ vì trải qua nhiều tai họa trong lịch sử cận đại, nên người Mexico ngày nay rất yêu nước. Lòng yêu nước nồng nàn này thể hiện qua việc ở bất kỳ nơi đâu trên đất nước Mexico ta cũng có thể nhìn thấy sắc đỏ, trắng, xanh của quốc kỳ Mexico.

Quốc kỳ của Mexico

Quốc kỳ Mexico bao gồm các hình chữ nhật màu xanh lá cây, trắng và đỏ được sắp xếp theo chiều dọc, ở giữa quốc kỳ có hình vẽ một con đại bàng ngậm một con rắn đứng trên cây xương rồng. Một con đại bàng đực dang rộng đôi cánh, trên mỏ ngậm một con rắn, một chân giữ thân con rắn chân còn lại giẫm lên cây xương rồng mọc trên một tảng đá trong hồ. Hình vẽ này có nguồn gốc từ người Aztec, là tổ tiên của người Mexico. Tương truyền rất lâu về trước, Thần Mặt trời vì để cứu rỗi người Aztec đang lưu lạc khắp nơi, nên đã báo mộng cho họ, chỉ cần nhìn thấy chim đại bàng ngậm một con rắn đứng trên cây xương rồng ở đâu, thì họ sẽ định cư lại nơi đó. Người Aztec sống ở miền bắc Mexico, dưới sự gợi ý của Thần Mặt trời, họ đã tìm thấy một nơi được miêu tả trong hình vẽ và định cư ở đó rồi xây dựng lên thành phố Mexico. Thành phố Mexico nằm ở độ cao khoảng 2.240 mét so với mực nước biển, mùa đông không lạnh giá, mùa hè không nóng bức, hoa nở bốn mùa, xanh tốt quanh năm, xung quanh được bao bọc bởi những ngọn núi, những hồ nước xanh biếc vây quanh, đây đúng là một vùng đất mà Thần ban tặng. Cây xương rồng là quốc hoa của Mexico, nó tượng trưng cho tinh thần chiến đấu ngoan cường của dân tộc Mexico, phía dưới có nhánh cây sồi và cây nguyệt quế, tượng trưng cho sức mạnh, lòng trung thành và hòa bình. Kể từ khi tuyên bố độc lập vào năm 1821, lá cờ ba màu xanh, trắng và đỏ của Mexico vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.

Khắp mọi nơi ở thành phố Mexico đều có thể nhìn thấy quốc kỳ. Ở bãi cỏ cao cao cách khách sạn năm sao nơi tôi ở không xa có một cột cờ treo lá cờ cực lớn đang tung bay, ở khoảng cách vài km vẫn có thể nhìn thấy lá cờ này. Bãi cỏ này chính là sân bay trực thăng của căn cứ quân sự cạnh dinh tổng thống Mexico. Nghe nói rằng lá cờ lớn này dài 50 mét, rộng 28 mét và nặng 170 kg. Bên cạnh bãi cỏ là Nhà hát Quốc gia Mexico. Nhà hát Quốc gia Mexico được xây dựng vào năm 1991. Đây là nhà hát nổi tiếng nhất ở Mexico và là nhà hát có cơ sở vật chất hàng đầu thế giới. Nơi đây đã tổ chức thành công nhiều buổi biểu diễn quy mô lớn trong và ngoài nước và được bình chọn là “Sân khấu biểu diễn tốt nhất thế giới năm 2003”. Đối diện nhà hát là khu khách sạn cao cấp nơi tôi đang ở. Giao thông vô cùng thuận tiện.

Màu quốc kỳ trong ăn uống

Lòng yêu nước nồng nhiệt của người Mexico còn thẩm thấu vào trong đồ ăn thức uống, dư vị vẫn còn lưu lại giữa môi và răng. Thức ăn được phối ba màu đỏ, trắng và xanh lá hầu như đều xuất hiện trên bàn ăn của mỗi nhà hàng ở Mexico. Nhiều đồ uống còn được pha chế theo ba màu đỏ, trắng và xanh lá. Ba loại nguyên liệu chính của món “tương Mexico” nổi tiếng lần lượt là tiêu xanh, hành tây và cà chua thái hạt lựu, có vị cay xè rất ngon miệng. Nếu phân các tỉnh ăn ở Trung Quốc thành các mức độ: “không sợ cay”, “cay cũng không sợ” và “sợ không cay”, thì tôi chính là được sinh ra ở tỉnh “sợ không cay” điển hình. “Tương Mexico” rất hợp khẩu vị. Đồng nghiệp người Mỹ tóc vàng và da trắng của tôi cũng không ăn được, nếm một chút mà cay đến mức xúyt xoa, đổ mồ hôi, từ đó không dám động vào nữa.

Người ta nói rằng ớt được trồng sớm nhất bởi người Maya cổ đại ở Mexico và sau đó được người Tây Ban Nha truyền rộng sang các nơi khác trên thế giới. Người Anh-điêng cổ đại ở Mexico đặc biệt thích ăn ớt. Người ta kể rằng vào 500 năm trước, trong thực đơn của vua Aztec có rất nhiều món ăn làm từ ớt như cá nướng ớt đỏ, ếch ớt xanh, tôm hùm ớt đỏ, gà tây cay cà chua, v.v. Người Mexico hiện đại đều có thể ăn hoa quả kèm với ớt, xoài gọt vỏ đều rắc ớt bột lên trên. Ớt bột cũng có màu đỏ và màu xanh. Có kèm theo nước ớt khi uống rượu, uống một ngụm rượu, hớp một ngụm nước ớt. Biết tôi là người “sợ không cay”, người bạn Mexico rất vui và thường xuyên đưa tôi đi ăn cay. Có người bạn Mexico còn tặng cho tôi một cây ớt do anh ấy tự trồng để làm quà. Tôi đoán người Mexico cũng thuộc cấp độ “sợ không cay”.

Mexico thời cận đại và Chiến tranh Mỹ-Mexico

Sau khi giành được độc lập thì quốc lực Mexico suy bại, lãnh đạo không có năng lực. Ngày 2 tháng 3 năm 1836, nguyên vùng Texas tuyên bố độc lập khỏi Mexico và thành lập nước Cộng hòa Texas. Mỹ công nhận nước Cộng hòa Texas, nhưng Mexico không công nhận nền độc lập của Texas, đồng thời cảnh cáo nếu Mỹ can thiệp vào thì sẽ nổ ra chiến tranh giữa hai nước. Năm 1845, nước Mỹ tuyên bố rằng nếu Cộng hòa Texas đồng ý gia nhập Mỹ, Mỹ sẽ công nhận đây là một tiểu bang của nước Mỹ và lấy sông Rio Grande làm ranh giới. Cùng năm đó, Texas đã sáp nhập vào Mỹ và trở thành tiểu bang thứ 28 của nước Mỹ. Năm 1846 xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Mexico. Năm đó Mexico bại trận, buộc phải nhượng lại một nửa lãnh thổ của mình cho Mỹ, chính là phần lớn bang California, Nevada, Utah, Arizona và New Mexico, cùng với một phần Colorado và Wyoming của nước Mỹ ngày nay. Chiến tranh Mỹ-Mexico khiến Mexico mất đi khoảng 2,3 triệu km2 lãnh thổ.

Ngày nay, California đã phát triển thành một vùng đất rất giàu có và trung tâm công nghệ cao của Mỹ. Theo số liệu thống kê năm 2010, GDP của California chiếm 13,34% GDP của Mỹ, đạt 1936,4 tỷ đô la Mỹ, cao nhất nước Mỹ. Nếu là một quốc gia, California sẽ là nền kinh tế lớn thứ 9 trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Vương quốc Anh, Brazil và Ý. Texas là tiểu bang có diện tích lớn nhất nước Mỹ, nó đã phát triển thành trung tâm ngành năng lượng và hóa dầu của Mỹ. Năm 2010, GDP của Texas đạt 1153,1 tỷ USD (căn cứ theo dữ liệu từ Cục phân tích kinh tế liên bang Mỹ) chiếm 7,95% GDP của Mỹ, đứng thứ hai trong số các bang, chỉ sau California. Nếu là một quốc gia độc lập, thì sức mạnh kinh tế của Texas tương đương với cường quốc đứng thứ 13 trên thế giới (theo số liệu của ngân hàng thế giới) hoặc thứ 14 (theo số liệu của tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế IMF và cục tình báo Trung ương Mỹ CIA).

Mất đi phần lớn lãnh thổ là nỗi đau vĩnh viễn trong lòng người dân Mexico, có lẽ đây cũng là nguyên nhân chủ yếu tạo nên lòng yêu nước nồng nàn của họ ngày nay. Nhưng những sự việc trong lịch sử đều không phải ngẫu nhiên, phải nhìn nhận một cách toàn diện mới có thể hiểu hết toàn bộ. 500 năm trước người Tây Ban Nha đã dùng cách lừa dối, âm mưu quỷ kế và giết người hàng loạt để chiếm lấy vùng đất này từ tay những người Anh-điêng. Nếu chỉ đứng ở một phía mà nhìn người Mexico ngày nay thì việc mất đi những vùng đất này quả thực là một tổn thất rất lớn. Nhưng đứng từ phía những người Mỹ, người Texas năm đó đòi độc lập là tự do của họ, Mexico lúc đó đang đàn áp họ. Nếu ngày nay California, Texas và những nơi khác vẫn thuộc về Mexico, thì có thể đó vẫn là những tỉnh biên giới nghèo nàn mà sẽ không có những huy hoàng như hôm nay. Người Mỹ ngày nay có lẽ sẽ bất mãn vì có quá nhiều “người nhập cư bất hợp pháp” từ Mexico (dữ liệu gần đây cho thấy có 11,5 triệu “người nhập cư bất hợp pháp” ở Mỹ, phần lớn đến từ Mexico, theo thời điểm viết bài là năm 2012), nhưng bạn có bao giờ từng nghĩ, vùng đất rộng lớn dưới chân chúng ta hôm nay từng thuộc về tổ tiên người Mexico?

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/81550

The post Loạt bài Mexico 2012 (19): Màu sắc của quốc kỳ Mexico hiện diện khắp nơi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (18): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 2)https://chanhkien.org/2024/01/loat-bai-mexico-2012-13-hai-lan-dai-hong-thuy-huy-diet-nhan-loai-ky-2.htmlTue, 23 Jan 2024 04:41:17 +0000https://chanhkien.org/?p=32429Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Đại hồng thủy hơn 5000 năm trước Trận Đại hồng thuỷ trong “Kinh Thánh” được trích dẫn như sau: Nước lũ tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày đêm, nước dâng cao và nâng thuyền cứu nạn lên khỏi mặt đất”; theo ghi chép trong cuốn “Sáng Thế Ký”: Nơi […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (18): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Đại hồng thủy hơn 5000 năm trước

Trận Đại hồng thuỷ trong “Kinh Thánh” được trích dẫn như sau: Nước lũ tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày đêm, nước dâng cao và nâng thuyền cứu nạn lên khỏi mặt đất”; theo ghi chép trong cuốn “Sáng Thế Ký”: Nơi cập bến cuối cùng của con thuyền Noah là núi Ararat. Trong sách còn viết: “Ngày 17 tháng 7, thuyền cứu nạn cập bến trên núi Ararat”, “Trải qua bốn tháng sau, Noah đã rời con thuyền, mặt đất hoàn toàn khô ráo”, “Có thể thấy trận lũ lụt này vô cùng lớn, mực nước dâng rất cao”.

“Sử thi Gilgamesh” của người Babylon cổ đại là từ những người may mắn sống sót trong trận Đại hồng thuỷ kể lại. Ghi chép trong đó nói rằng: Lũ lụt kèm theo gió bão, gần như chỉ trong một đêm đã nhấn chìm toàn bộ đồng bằng và các vùng đồi núi thấp trên lục địa, chỉ có những người sống trên núi cao hoặc chạy trốn lên núi cao mới sống sót. Những tài liệu viết trên các tấm đất sét nung của người Sumer được ra đời trước năm 3500 trước Công nguyên viết như sau: “Tình hình đó khủng khiếp đến mức con người khó có thể chịu được, gió trong không trung gào thét đáng sợ, mọi người bán mạng chạy lên núi mà không quan tâm bất cứ điều gì khác. Mỗi người đều cho rằng chiến tranh đã bắt đầu…”. Chú ý rằng “mỗi người đều cho rằng chiến tranh đã bắt đầu”, độc giả sẽ nghĩ đến cảnh tượng các cuộc chiến tranh thời tiền sử nhất định rất lớn, nếu không tại sao người ta lại cho rằng chiến tranh đã bắt đầu nhỉ?

Khi trận Đại hồng thủy này xảy ra, Trung Quốc vào khoảng thời Vua Nghiêu. Lúc đó có không ít tổ tiên người Trung Quốc vẫn còn sống sót. Vì vậy có rất nhiều văn hóa tiền sử và những ghi chép về trận Đại hồng thủy này được lưu lại vào lúc đó. “Hoài Nam Tử – Lãm Minh Huấn” viết: “Vào thời cổ đại, bốn cây trụ chống trời bị đổ, đất đai chín châu tách vỡ ra, Trời không che kín hết đất đai, đất không chuyên chở hết vạn vật, lửa lớn bốc lên kéo dài không dập tắt được, nước lớn dâng tràn lên không ngừng”. Cuốn Hồng Hưng ghi chú: “Thông thường độ sâu của nước lũ từ 300 nhẫn (1) trở lên”. “Thượng Thư – Nghiêu Điển” ghi lại: “Thang thang hồng thủy phương cát, đãng đãng hoài sơn tương lăng, hạo hạo thao thiên”. Nghĩa là nước lũ cuồn cuộn khắp nơi làm hại dân chúng, thế nước lao nhanh bao vây các ngọn núi, nhấn chìm đồi núi, mênh mông cuồn cuộc, tràn ngập lên tận trời. Trong “Mạnh Tử – Đằng Văn Công” ghi chép: “Vào thời Nghiêu, thiên hạ vẫn chưa yên bình, lũ lụt tràn lan, ngập lụt khắp nơi”.

Trong khi giảng Pháp Đại sư Lý Hồng Chí từng nói:

“Dải đất trung tâm của chủng tộc Trung Quốc thời thượng cổ trong quá khứ không phải là lưu vực sông Hoàng Hà ngày nay, mà là thuộc dải đất Tân Cương. Thời kỳ phồn thịnh nhất của dân tộc này khi đó cũng ở tại dải đất này. Bởi vì núi Côn Luân nằm cạnh vùng này, địa thế xung quanh khá cao, trận đại thủy năm đó cao tới hơn 2.000m, đã nhấn chìm toàn bộ trái đất, có rất nhiều người khi đại thủy bùng phát đã chạy lên núi Côn Luân, sống sót được, di lưu lại một số văn hóa thời thượng cổ. Ví như ở Trung Quốc hiện nay có một số người vẫn không hiểu được, nào là Hà Đồ, Lạc Thư, Thái Cực, Tiên Thiên Bát Quái v.v., còn có một vài môn khí công cổ xưa mà ngày nay người ta đã biết”. (Giảng Pháp tại lễ thành lập Phật học hội Singapore 1996)

Nước lũ phần lớn đã rút, nhưng nhiều nơi vẫn là một vùng nước mênh mông, người dân không có nơi nào để ở. “Kinh Thư- Nghiêu Điển” nói rằng, Cổn (cha của vua Vũ nhà Hạ) mất chín năm để trị thủy. “Sử ký – Hạ Bổn ký” nói vua Vũ trị thủy hơn 13 năm, vì vậy công việc chế ngự trận Đại hồng thủy này mất ít nhất hơn 22 năm. Cổn được cử đi chế ngự nước lũ, ông dùng biện pháp ngăn chặn, trái lại làm cho nước lũ dâng cao hơn, sau chín năm không làm nên thành tựu gì (xem “Kinh Thư- Nghiêu Điển” “Chín năm công sức, không có thành tích”). Sau đó con trai của Cổn là Vũ được cử đi trị thủy. Ông đổi biện pháp ngăn chặn thành khơi thông, cuối cùng đã thành công trong việc dẫn nước lũ thoát đi.

“Sơn Hải Kinh – Hải Nội Kinh” nói: Cổn trị thủy đến Vũ Giao cũng là phía bắc Nhạn Môn của vùng Sơn Tây ngày nay thì bị giết chết. Nhạn Môn nằm ở phía bắc Sơn Tây, nằm ở độ cao trung bình 1000 mét so với mực nước biển. “Bản thảo địa lý Hán Đường” ghi: “Trên vách đá tuyệt đẹp ở Nghi Đô cao dựng đứng vài trăm trượng, có một thanh củi cháy dở, cắm vào giữa vách đá, dài đến vài thước. Điều này nói rõ, trận Đại hồng thủy thời tiền sử cũng từng kéo dài tới Nghi Đô. Nghi Đô nằm ở Chi Thành gần Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay, nó thuộc về dãy núi Vu Sơn, độ cao tiêu chuẩn trên bản đồ khoảng 1200 mét so với mực nước biển. Có một ngọn núi thuộc địa phận huyện Tiên Cư, tỉnh Chiết Giang, tên là núi Vi Khương, trên núi có một vách đá nguy hiểm có tên là Khoa Đẩu Nhai, người ta phát hiện trên vách đá có dòng chữ kỳ lạ được khắc thủ công, thường gọi là chữ Khoa Đẩu. Đến nay, chưa ai có thể đọc hiểu chữ loại này. Phía ngoài của vách đá có rất nhiều hình vẽ như Mặt Trời, Mặt Trăng, côn trùng và sinh vật biển. Nhân gian tương truyền rằng nơi đây vốn là một vùng ao hồ sông nước, năm đó khi Đại Vũ trị thủy đến nơi này, đã khắc chữ Khoa Đẩu lên vách đá này. Trong khu tự trị tộc Miêu và tộc Bố Y thuộc huyện Quan Lĩnh, thành phố An Thuận, tỉnh Quý Châu cũng có một tấm bia đá màu đỏ được gọi là “Thần Bí Thiên thư”, bên trên có khắc những chữ không ai có thể đọc hiểu. Từ những bài ca dao có thể phỏng đoán những chữ này có liên quan đến trận Đại hồng thủy. Trên đỉnh Cẩu Lũ, một trong 72 ngọn núi thuộc Nam Nhạc Hành sơn, cũng có khắc 77 chữ cổ, bút pháp kỳ quái khó phân biệt, còn gọi là bia Cẩu Lũ. Nghe nói đây là tấm bia ghi nhớ công lao Đại Vũ, xem ra cũng có liên quan đến Đại hồng thủy. Đỉnh cao nhất của Hành Sơn có độ cao là 1290 mét.

Tất cả những địa điểm này đều được ghi chép lại, phía Bắc từ Nhạn Môn, núi Long Môn, đi qua Nghi Xương, Chí Thành cho đến Hành Sơn, độ cao tiêu chuẩn đều trong khoảng 1000-2000 mét, bậc thang này đi từ Đông sang Nam, chính là một vùng đồng bằng mênh mông bát ngát, cao hơn mặt nước biển khoảng 500 mét. Phía Tây của bậc thang này chính là bậc thứ hai của Trung Quốc, về cơ bản đều cao hơn mực nước biển từ 2000 mét trở lên. Cổ nhân không thể nào có ý định lấy những chứng cứ và bia văn trị thủy sau Đại hồng thủy sắp xếp chúng ở độ cao hầu như trùng khớp như vậy. Lời giải thích hợp lý duy nhất chính là Đại hồng thủy năm đó quả thực đã ngập tới độ cao này. Đại hồng thủy thời tiền sử đã nhấn chìm hầu hết toàn bộ miền Đông Trung Quốc, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây của Trung Nguyên cùng dải đất phía Tây Nam Trung Quốc, đều bị nhấn chìm trong nước lũ.

Mà cao nguyên Mexico ở phía bên kia Trái Đất có độ cao hơn 2000 mét so với mặt nước biển, cho nên một số người Maya ở thời điểm đó (dải đất Mexico Trung Mỹ lúc đó đều được gọi là Maya), khi Đại hồng thủy ập tới những người chạy trốn lên cao nguyên Mexico đã may mắn sống sót. Văn hóa Maya có quan hệ trực tiếp với người Mông Cổ vào thời điểm đó. Trước trận Đại hồng thủy, người Maya sống ở bán đảo Yucatan, Mexico là một nhánh của người Mông Cổ, họ thực chất là chủng người da vàng. Trong lịch sử văn minh nhân loại thời kỳ trước Đại hồng thủy, tổ tiên của người Mông Cổ sống ở vùng đất châu Mỹ đã sáng tạo ra nền văn minh Maya vô cùng huy hoàng. Nền văn minh Maya từng tồn tại cùng với lục địa Mu và nền văn minh Atlantis. Trận Đại hồng thuỷ hơn 10000 năm trước đã phá huỷ hoàn toàn lục địa Mu và nền văn minh Atlantis, gây thiệt hại nặng nề tới nền văn minh Maya, mà trận Đại hồng thuỷ cách đây hơn 5000 năm lại lần nữa tàn phá nền văn minh Maya. Sau khi nước lũ rút đi, một số ít người Maya còn sống sót đã quay trở lại quê nhà, một thành phố đã hoàn toàn bị phá huỷ trên bán đảo Yucatan.

Những người Maya còn sống sót đã trở thành bộ tộc người Anh Điêng thiểu số. Tuy họ đã xây dựng lại quê hương sau khi bị lũ lụt phá huỷ, nhưng không thể đạt được mức độ cao như nền văn minh của tổ tiên. Họ chỉ nhớ được một phần của nền văn minh Maya mà họ hiểu biết, nên không thể khôi phục toàn bộ nền văn minh Maya nữa. Toàn bộ tư liệu sản xuất đều bị huỷ, con người bắt đầu lại cuộc sống xã hội nguyên thuỷ. Thuận theo việc từng thế hệ mới của người Maya được sinh ra, về sau người ta không nhớ nổi, càng không thể lý giải được tinh hoa thực sự của nền văn minh Maya thời tiền sử là gì. Sau mỗi thế hệ người Maya lại càng không thể hiểu biết về nền văn minh của tổ tiên. Mặc dù vậy, những thứ bề mặt của nền văn minh Maya còn sót lại vẫn làm cho con người hiện đại phải thán phục.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/80590

Ghi chú: (1): Nhẫn là đơn vị đo lường thời xưa, bằng 8 thước hay 7 thước.

The post Loạt bài Mexico 2012 (18): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (17): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 1)https://chanhkien.org/2024/01/loat-bai-mexico-2012-17-hai-lan-dai-hong-thuy-huy-diet-nhan-loai-ky-1.htmlMon, 22 Jan 2024 03:03:09 +0000https://chanhkien.org/?p=32414Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Nhà dân tộc học người Anh Frazer từng chỉ ra: Trong số hơn 130 chủng tộc người Anh Điêng ở châu Mỹ, không có một chủng tộc nào mà không có thần thoại về chủ đề Đại hồng thủy. Trên thực tế, chỉ cần là dân tộc lâu đời trên […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (17): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Nhà dân tộc học người Anh Frazer từng chỉ ra: Trong số hơn 130 chủng tộc người Anh Điêng ở châu Mỹ, không có một chủng tộc nào mà không có thần thoại về chủ đề Đại hồng thủy. Trên thực tế, chỉ cần là dân tộc lâu đời trên thế giới, trong những thần thoại và truyền thuyết của họ hầu như đều có những ghi chép liên quan đến Đại hồng thủy. Có khoảng hơn 600 câu chuyện truyền thuyết liên quan đến trận Đại hồng thủy được toàn thế giới biết đến. Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Lào, Thái Lan, Ấn Độ, Úc, Hy Lạp, Ai Cập và Châu Phi v.v., đều có truyền thuyết về trận Đại hồng thủy. Ở thung lũng Mexico, bất luận là về văn hóa hay là vị trí địa lý, đều bị ngăn cách khỏi phạm vi ảnh hưởng của Do Thái giáo và Kitô giáo. Tuy nhiên, từ rất lâu trước khi cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha diễn ra, người dân địa phương đã lưu truyền rất nhiều câu chuyện có liên quan đến trận Đại hồng thủy. Người dân bản địa Mexico tin rằng trận Đại hồng thủy xảy ra vào cuối thời kỳ kỷ nguyên Mặt trời thứ Tư đã nhấn chìm toàn bộ Trái Đất: “Mưa lớn trút xuống bất ngờ, lũ quét ập tới và toàn bộ mặt đất trở thành đại dương mênh mông. Núi cao bị ngập trong nước, người biến thành tôm cá…”. Mặc dù những truyền thuyết này được truyền từ các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, nhưng tình tiết câu chuyện và nhân vật điển hình lại rất giống nhau, tất cả những điều này nếu cho là ngẫu nhiên hay là trùng hợp thì hoàn toàn không thể giải thích được.

Thực ra nhân loại đã từng nhiều lần bị hủy diệt, Đại hồng thủy cũng đã nhiều lần xảy ra. Bài viết này chỉ nói về hai trận hồng thủy toàn cầu gần đây nhất thời tiền sử. Một lần xảy ra cách đây hơn 10.000 năm, khi lục địa Mu và Atlantis bị nhấn chìm. Lần khác xảy ra cách đây hơn 5.000 năm (gần 6.000 năm trước), cũng là trận Đại hồng thủy được mô tả trong Kinh Thánh. Đánh giá từ trong những truyền thuyết và ghi chép, nguyên nhân bề ngoài của hai trận Đại hồng thủy có chỗ khác nhau, trận Đại hồng thủy cách đây hơn 10.000 năm là do lục địa bị nhấn chìm dẫn tới núi lửa phun trào trên phạm vi toàn cầu, siêu động đất và siêu sóng thần gây ra. Trong “Kinh Thánh” có ghi lại trận Đại hồng thủy đó là một trận mưa cực lớn, “Ngày 17 tháng 2, cổng trời mở ra, mọi nguồn gốc của vực thẳm khổng lồ đều bị cuốn trôi. Mưa lớn kèm theo gió lốc kéo dài suốt 40 ngày đêm”.

Những ghi chép của Mexico cổ đại

Trong sách cổ của Mexico (Truyện tranh chữ Chimalpopoka) có viết: “Bầu trời sắp chạm mặt đất, trong vòng một ngày tất cả con người đều bị diệt sạch, những ngọn núi cũng bị ngập trong nước… Nham thạch bao phủ toàn bộ mặt đất, âm thanh sôi ùng ục phát ra thật đáng sợ, và những ngọn núi màu đỏ đang lượn lờ phía trên…” Đoạn văn này triển hiện cho mọi người thấy đây là một khung cảnh: Sự va chạm dữ dội của các mảng lục địa trên trái đất đã dẫn đến một trận động đất lớn, toàn thể Trái đất rung chuyển, chấn động rầm rầm. Cùng lúc đó, núi lửa bạo phát, nham thạch nóng chảy phun trào. Sụt lở và động đất đã gây ra một cơn sóng thần kinh hoàng, những con sóng lớn của đại dương giống như nước sôi cuồn cuộn dường như muốn nuốt chửng tất cả mọi thứ. Người dân tháo chạy khắp nơi, nhưng họ nếu không phải bị nước nhấn chìm thì cũng là rơi xuống hố lửa.

Theo truyền thuyết của người Aztec sống ở Mexico, Thần đã gửi đi lời cảnh báo liên quan đến đại thảm họa không thể tránh khỏi đến một cặp vợ chồng, người đàn ông tên Coxcoxtli và người phụ nữ tên Xochi Quetzal. Đại hồng thủy quả nhiên đã ập đến, người trên mặt đất đều chết hết, nhưng người đàn ông cùng vợ lại thoát được cuộc hủy diệt. Hai vợ chồng đã đóng một con thuyền lớn và lênh đênh đến một ngọn núi cao. Sau khi nước lớn rút đi, họ chui ra khỏi khoang thuyền và định cư tại nơi đó, nuôi dưỡng con cái.

Cuốn Thánh thư của người Maya “Popol Vuh” đã mô tả trận Đại hồng thủy: Trời bắt đầu đổ mưa đen suốt cả ngày và đêm… Đây là sự phá hoại lớn có tính hủy diệt. Mọi người liều mạng tháo chạy… Họ trèo lên mái nhà nhưng ngôi nhà bị đổ sập khiến họ ngã xuống đất. Thế là, họ lại leo lên ngọn cây, nhưng cây lại rung lắc khiến họ rơi xuống. Mọi người tìm được nơi trú ẩn trong hang động, nhưng vì hang động bị sập đã lấy mạng của họ. Mọi người đều chết đuối trong trận mưa nhầy nhụa từ trời giáng xuống, người Maya ở bán đảo Yucatan tin rằng một nhân vật giống như Noah và vợ ông, người Maya gọi họ là “Tổ phụ và tổ mẫu” đã thoát khỏi trận hồng thủy. Họ xây dựng lại thế giới sau thảm họa và trở trành tổ tiên của các thế hệ sau này.

Từ cuối những năm 1960 đến đầu những năm 1970, hai tàu khảo sát hải dương học của Mỹ đã tiến hành khoan thăm dò dưới đáy biển Vịnh Mexico, bất ngờ phát hiện có một số lượng lớn động vật giáp xác (trùng lỗ) trong các lớp trầm tích có niên đại hơn 10.000 năm. Trùng lỗ là những sinh vật phù du đơn bào nhỏ bé và tỷ lệ hàm lượng đồng vị oxy trong vỏ của chúng có thể biểu thị cho độ mặn của nước biển trong thời gian chúng sinh sống. Bằng cách phân tích vỏ của loài trùng lỗ trong lớp trầm tích, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng trong thời gian những con trùng lỗ này còn sống, độ mặn trong nước của vịnh Mexico rất thấp. Tình huống này cho thấy, khi đó một lượng lớn nước ngọt đổ vào vịnh Mexico làm loãng nước biển trong đại dương. Vậy thì nguồn nước ngọt này đến từ đâu? Các nhà khoa học đều cho rằng nguồn nước ngọt xuất hiện bất ngờ này chính là trận Đại hồng thuỷ xảy ra vào 10.000 năm trước.

Trận Đại hồng thuỷ 10.000 năm trước

Trong Toloano Codex có ghi chép lại truyền thuyết về người Maya, được lưu giữ tại bảo tàng Anh quốc viết như sau: “Năm Kan thứ 6, ngày Muluku 11, tháng Shaku, động đất khủng khiếp xảy ra khiến Niêm Thổ Khâu quốc đã trở thành vật hy sinh của lục địa Mu… 8060 năm sau khi sự kiện xảy ra, cuốn sách mới được hoàn thành. Trong đoạn văn, “Kan” có lẽ là tên của vị vua, “Muluku” có lẽ là ngày, còn “Shaku” có lẽ là tháng. Thông điệp vô cùng rõ ràng: năm Kan thứ 6, ngày Muluku 11, tháng Shaku, một quốc gia siêu văn minh thời viễn cổ đã bị thảm họa thiên nhiên hủy diệt một cách bất ngờ, các thuộc địa của Đế chế Mu đã mất đi tổ quốc và cũng dần suy tàn trong hàng nghìn năm sau đó, cuối cùng chỉ lưu giữ lại sự phồn vinh thịnh thế bị nghi ngờ mà hậu nhân nhớ lại được.

Không ít bạn bè độc giả vẫn còn nhớ rõ về cơn sóng thần do trận động đất ở Ấn Độ Dương gây ra. Tâm chấn của trận động đất lúc đó nằm ở đáy biển thuộc phía Bắc Sumatra của Indonesia. Đài thiên văn Hồng Kông và Trung tâm tin tức địa chấn quốc gia Hoa Kỳ đã thu được giá trị cường độ Richter lần lượt là 8,9 và 9,0. Năng lượng mà trận động đất này giải phóng ra nhiều hơn tổng mức năng lượng mà Hoa Kỳ sử dụng trong một tháng. Sóng thần ở một số khu vực cao tới 10 mét. Trận động đất gây ra sóng thần lần này đã tạo thành thương vong cực lớn ở khu vực Đông Nam Á và Nam Á, lan tới tận Oman ở vịnh Ba Tư, Somalia và Mauritius ở bờ biển phía Đông châu Phi, đảo Reunion và các quốc đảo khác. Ấn Độ có khoảng 10.000 người chết, hơn 40.000 người ở Sri Lanka gặp nạn, tổng số người chết ở Indonesia lên tới hơn 200.000 người, số người bị thương có thể lên tới hơn 30.000 người. Đây chỉ là hậu quả của một trận động đất mạnh 9 độ Richter gây ra, nếu như trên Trái Đất có một lục địa bị nhấn chìm thì hậu quả mà nó gây ra là quá đáng sợ, chắc chắn sẽ dẫn tới đại thảm hoạ mang tính toàn cầu.

Liên quan đến sự kiện Atlantis và Lemuria bị nhấn chìm, tôi đã từng thảo luận trong loạt bài “Mexico 2012: Sự biến mất của lục địa”. Trong “Tạng Kinh” của Trung Quốc cũng có những ghi chép tương tự: Vào năm 9564 trước Công nguyên (cách năm 2012 là 11576 năm), một khối lục địa lớn ở quần đảo Bahamas, Biển Caribe và Vịnh Mexico ngày nay có thể đã chìm xuống Đại Tây Dương, tạm thời không bàn đến việc người viết “Tạng Kinh” làm sao biết được sự kiện này, thời gian mà Atlantis (Đại Tây Châu) bị nhấn chìm rất giống với thời điểm lục địa trong truyền thuyết bị chìm. Trong “Sách Tử Vong” của Ai Cập cũng có ghi chép lại hình vẽ về lục địa bị chìm, đại ý là: Một khối lục địa trong đại dương, có một ngày, lửa từ bên trong đại dương phun ra, và lục địa chìm xuống biển trong thảm họa ập đến bất ngờ.

Vào cuối thế kỷ 19, nhà khoáng vật học người Mexico William Neben đã phát hiện ra một di chỉ thành cổ nằm ở độ sâu cách mặt đất khoảng 10 mét gần thành phố Mexico, có chứa các loại kim loại như sắt, vàng, đồng, bạc,… Theo thăm dò, thành phố cổ này đã bị hủy diệt khoảng 10.000 năm trước. Đồng thời, cách thành phố Mexico khoảng 8 km về phía Bắc, người ta đã đào được hơn 2500 tấm bia đá ở dưới lòng đất, trong đó bia văn số 684 có viết: Ngôi đền này tượng trưng cho vị Thần đang ngày đêm bảo vệ chúng ta, theo ý chỉ của Vua chúng ta – Ram, xây dựng khu nhập cư trên lục địa Mu, dùng để chúc phúc cho sứ giả đến từ vùng đất phương Tây – Đế quốc Mặt trời. Bên cạnh kim tự tháp UXMAL trên bán đảo Yucatan ở Mexico có một ngôi chùa đổ nát. Trên tường có bia văn khắc dòng chữ như sau: “Tòa kiến trúc này là để tưởng nhớ Mu, tức lục địa phía Tây, nó được xây dựng như một nơi xảy ra những điều thần bí trên lục địa Thần Thánh”. Rõ ràng lúc ban đầu nó được xây dựng bởi những người may mắn sống sót sau đại thảm họa.

Hình: Ngôi đền tại UXMAL trên bán đảo Yucatan ở Mexico thời đầu được tổ tiên xây dựng sau Đại hồng thủy. Bia văn trên tường có khắc dòng chữ: “Tòa kiến trúc này là để tưởng nhớ Mu, tức lục địa phía Tây, nó được xây dựng như một nơi xảy ra những điều thần bí của lục địa Thần Thánh”. ( Ảnh chụp: Vương Bân)

Cuộc chiến tranh hạt nhân kéo dài giữa lục địa Mu và Atlantis cuối cùng đã dẫn đến việc lục địa bị nhấn chìm và mang đến đại thảm họa mang tính toàn cầu. Trong thần thoại của Trung Quốc có nhắc tới trận Đại hồng thủy đầu tiên là nói về trận đại chiến giữa Cộng Công và Chúc Dung, Cộng Công bại trận, liền đâm đầu vào núi Bất Chu, ai ngờ núi Bất Chu lại là trụ chống Trời, Cộng Công đâm đầu vào làm nó bị gãy, thế là nửa bầu trời sập xuống, trên trời để lộ ra một lỗ lớn, mặt đất cũng bị nứt ra thành rãnh, nước lũ phun lên từ dưới lòng đất, sóng nước cuồn cuộn tràn ngập mặt đất, biến thành một đại dương mênh mông.

Năm đó núi lửa trên khắp thế giới đều phun trào, tro bụi bay ra từ núi lửa che phủ cả bầu trời. Khí ẩm trong không trung kết hợp với lượng mưa lớn tạo thành những trận mưa đen đặc sệt. Động đất đạt tới 10 độ richter, rung chuyển liên tục, sóng thần cao hơn nghìn mét. Hầu hết các nơi trên thế giới đều bị trận đại hồng thuỷ quét sạch. Năng lượng được giải phóng từ đại thảm họa lớn gấp hơn 10.000 lần sóng thần ở Ấn Độ Dương. Trong tài liệu ghi chép của không ít dân tộc về lũ lụt có nhắc tới hiện tượng đặc biệt là các khối đá trên núi cùng với mưa lớn từ trời rơi xuống, thậm chí còn nói rằng xảy ra “vận động tạo núi”. Ví dụ, theo truyền thuyết của người Anh Điêng sống ở quần đảo Amauri, Charles Lot, trước khi xảy ra đại thảm hoạ thì địa hình ở nơi đó không phải như vậy, khi đó không có một ngọn núi nào. Kể từ thế kỷ này, các nhà địa chất học từ nhiều nước đều đồng loạt phát hiện ra một lớp trầm tích dòng chảy đục dưới đáy biển khu vực Hoa Nam của Trung Quốc, Đức, Pháp và khu vực Bắc Mỹ. Các nhà khoa học khẳng định rằng: Đây là do một trận sóng thần cực lớn tạo thành, hơn nữa là một trận sóng thần lớn phạm vi toàn cầu, cách đây khoảng từ 10.000 đến 30.000 năm trước. Năng lượng giải phóng khi lục địa bị chìm xuống là quá lớn, có truyền thuyết nói rằng hàng ngàn năm sau khi lục địa Mu và Atlantis chìm xuống, Trái Đất vẫn còn “run rẩy”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/80590

The post Loạt bài Mexico 2012 (17): Hai lần Đại hồng thủy hủy diệt nhân loại (Kỳ 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (16): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.2)https://chanhkien.org/2024/01/loat-bai-mexico-2012-16-nen-van-minh-an-sau-trong-long-dat-phan-22.htmlThu, 11 Jan 2024 23:43:51 +0000https://chanhkien.org/?p=32344Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Di cư từ bề mặt xuống lòng đất Từ sau khi kết thúc thế chiến thứ 2 đến nay, niềm say mê tìm kiếm “Agharta” vẫn được tiếp diễn, những phát hiện mới về các chủng các dạng cũng ngày càng đáng khích lệ. Vào tháng 7 năm 1960, một […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (16): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Di cư từ bề mặt xuống lòng đất

Từ sau khi kết thúc thế chiến thứ 2 đến nay, niềm say mê tìm kiếm “Agharta” vẫn được tiếp diễn, những phát hiện mới về các chủng các dạng cũng ngày càng đáng khích lệ. Vào tháng 7 năm 1960, một đội khảo sát của Peru đã phát hiện một hành lang ngầm dưới lòng dãy núi Andes cách thủ đô Lima 600 km về phía đông. Hành lang dưới lòng đất dài tới 1000km thông với Chile và Colombia. Nhưng vì để bảo vệ đường hầm và chờ đợi đến khi con người tương lai nắm vững đầy đủ khoa học kỹ thuật rồi mới khám phá, chính phủ Peru đã phong tỏa lối vào đường hầm dưới lòng đất đồng thời bảo vệ nghiêm ngặt. Nơi này sau đó đã được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Sau này khi Anthony Fontos người Tây Ban Nha khảo sát ở dãy núi Andes gần Guatemala, lại tình cờ phát hiện một hành lang ngầm dài 50km. Hành lang này có cổng vòm hình nhọn từ lòng đất thông thẳng đến Mexico. Tháng 8 năm 1972, một đoàn khảo sát người Anh cũng tìm thấy một hành lang ngầm ở dãy núi Sierra Madre của Mexico thông hướng đến Guatemala. Hành lang ngầm này rất có thể chính là hành lang ngầm được Anthony Fontos ở Guatemala phát hiện ra. Theo ký ức của đội khảo sát người Anh, vào mỗi sáng sớm, có thể nghe thấy từ hành lang ngầm dưới lòng đất phát ra âm thanh như tiếng đánh trống. Tháng 5 năm 1981, nhà thám hiểm nổi tiếng Maurice đã từng từ lối vào một hang động gần Guayaquil, Ecuador mà tiến vào một hành lang ngầm. Trong hành lang ngầm, Maurice phát hiện được dấu vết khai thác nhân tạo, các bức tường của hang động rất bằng phẳng và được quét vôi bên ngoài.

Việc phát hiện ra vô số di tích hành lang ngầm dường như càng ngày càng cho thấy rõ ràng: Thời kỳ viễn cổ xác thực có tồn tại nền văn minh phát triển cao độ. Vùng đất thiên đường ở Bắc Cực Hyperborea có trình độ lâu đời vượt xa nền văn minh Lemuria và Atlantis trên bề mặt, nhưng cũng có một số người trong lòng đất là sau này lần lượt “di cư” từ mặt đất xuống thông qua các hành lang ngầm. Trong truyền thuyết của một số bộ lạc ở châu Mỹ có nói rằng tổ tiên của họ đã từng sinh sống dưới lòng đất sau một đoạn thời gian rồi lại quay trở lại mặt đất. Từ xưa đến nay cũng có rất nhiều dân tộc không bao giờ quay trở lại mặt đất nữa và trở thành một bộ phận của nền văn minh dưới lòng đất.

Thế giới dưới lòng đất bao hàm hai đặc trưng chủ yếu. Đặc trưng thứ nhất là lớp vỏ của thế giới dưới lòng đất là sự tiếp nối của lớp vỏ bề mặt Trái đất. Ở hai cực của Trái đất đều có một lối vào hoặc cửa động, có chút giống một quả táo bị khoét đi phần lõi, lớp vỏ quấn quanh men theo cửa động, bao bọc lấy lòng đất trở thành bộ phận rỗng bên trong. Lớp vỏ bên ngoài và bên trong có địa hình vô cùng giống nhau, có đại dương, lục địa, sườn núi, ao hồ và sông ngòi. Chỉ có điều lớp vỏ bên trong hướng về phía lõi Trái đất, phần lõi phát sáng và bị lớp sương mù che phủ. Loại ánh sáng này có tính khuếch tán hơn ánh sáng Mặt trời, vậy nên ánh sáng ban ngày ở thế giới dưới lòng đất nhẹ nhàng ôn hoà hơn so với thế giới bề mặt. So với bề mặt, thế giới trong lòng đất có ít hơn rất nhiều tia vũ trụ có hại đến từ không gian, nên từ một mức độ nào đó mà nói càng thích hợp hơn cho sự sinh tồn của động thực vật. Chúng sống dưới điều kiện sinh trưởng tốt, thông thường sẽ có kích thước khổng lồ. Những người di cư vào thế giới bên trong lòng đất cũng thường không muốn quay trở lại bề mặt. Đương nhiên cũng có người quay lại, ví như tổ tiên của người Hopi.

Nguyên nhân nào thúc đẩy những người này đi xuống lòng đất? Rất có thể là do đã xảy ra chiến tranh hoặc rất nhiều thảm họa ở thế giới bề mặt. Ví dụ như cuộc chiến tranh giữa hai siêu cường Atlantis – Lemuria hay như sức mạnh của vũ khí hạt nhân cuối cùng đã đánh chìm và huỷ hoại hai lục địa có nền văn minh phát triển cao độ này. Sa mạc Sahara, Gobi, vùng nội địa Úc và vùng sa mạc Mỹ chỉ là một vài ví dụ về hậu quả của việc huỷ hoại. Năm đó, thổ nhưỡng nằm sâu trong lòng đất rõ ràng đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, chỉ số nguyên tố phóng xạ vượt quá mức nghiêm trọng. Chuyên gia của Liên Xô cũ Gelbovsky đã kinh ngạc khi nghiên cứu một xác chết người cổ đại ở lưu vực sông Ấn thấy có lượng phóng xạ trong thi thể cao gấp 50 lần so với người bình thường. Một bộ phận chuyên gia và học giả đã từng đào được một số tinh thể thuỷ tinh ở địa phương, những tinh thể này vốn dĩ là nham thạch cứng, chỉ có trong điều kiện xảy ra vụ nổ hạt nhân mới có thể biến thành trạng thái như hiện nay. Những năm gần đây, không chỉ ở Ấn Độ, mà ở Babylon, sa mạc Sahara và Mông Cổ đều lần lượt phát hiện được những tàn tích tương tự như chiến tranh hạt nhân.

Chiến tranh hạt nhân thời tiền sử

“Mahabharata” (bản dịch đầu tiên của “Maha Prada”) là một bài thơ tự sự bằng tiếng Phạn cổ của Ấn Độ dịch nghĩa là “hậu duệ của vị vua Prata vĩ đại”, là một trong hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ cổ. Cuốn sách này ghi lại hai cuộc chiến khốc liệt giữa người Koravas và người Pandavas, người Vrishni và người Anhakar sống ở thượng nguồn sông Hằng ở Ấn Độ. Cuốn sách này và “Ramayana” cùng được gọi là hai bộ sử thi lớn của Ấn Độ, nó được viết vào năm 1500 trước Công nguyên, cách đây khoảng hơn 3500 năm. Mà cuốn sách ghi chép lại những sự việc xảy ra trước đó hơn 2000 năm, chính là nói những sự việc trong sách đã xảy ra cách đây khoảng hơn 5000 năm trước. Quy mô của cuộc chiến tranh trong cuốn sách là rất lớn, và mức độ khốc liệt của nó hiếm thấy trên thế giới.

Cuộc chiến tranh đầu tiên được ghi trong sách được miêu tả như thế này: “Anh hùng Atvatan ngồi vững trong Vimana (thiết bị bay giống máy bay) hạ xuống trong nước và phóng ra “Agnia”, một loại vũ khí giống như tên lửa, có thể tạo ra và phóng ra những mũi tên rực lửa dày đặc về phía quân địch, giống như một trận mưa xối xả, bao vây kẻ địch, có uy lực vô cùng. Trong nháy mắt, một bóng đen dày đặc nhanh chóng hình thành trên bầu trời Pandavas, bầu trời trở nên tối tăm, trong bóng tối mọi la bàn đều đều mất đi tác dụng, tiếp sau đó những cơn cuồng phong dữ dội bắt đầu thổi, gào thét và cuốn theo bụi đất, cát, chim chóc kêu điên cuồng….. giống như trời long đất lở.” Mặt trời dường như đang lắc lư trên không trung, loại vũ khí này tỏa ra sức nóng đáng sợ, làm rung chuyển mặt đất, trong một khu vực rộng lớn, động vật bị chết cháy và biến dạng, nước sông sôi sùng sục, toàn bộ cá tôm đều bị bỏng chết. Lúc tên lửa phát nổ âm thanh như sấm rền, thiêu đốt quân địch như thân cây bốc cháy.”

Miêu tả về cuộc chiến tranh thứ hai càng thêm rùng rợn và đáng sợ hơn: “Gurkar cưỡi chiếc Vimana bay nhanh, bắn một quả tên lửa về phía ba thành phố của kẻ thù. Tên lửa này dường như có sức mạnh của toàn vũ trụ, độ sáng của nó giống như hàng vạn Mặt trời, cột khói lửa cuộn lên bầu trời, vô cùng hùng tráng.” “Thi thể bị đốt cháy đến không thể nhận dạng, lông tóc và móng bị rụng ra, đồ gốm sứ bị nổ tung, các loài chim bay lượn bị cháy xém bởi nhiệt độ cao. Để thoát khỏi tử vong, các chiến sĩ đã nhảy xuống sông để rửa sạch bản thân và vũ khí.” Những chi tiết này hoàn toàn giống với bức xạ hạt nhân lúc bom nguyên tử phát nổ ở Nhật Bản trong thế chiến thứ 2.

Sau đó, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhiều tàn tích bị cháy xém ở thượng nguồn sông Hằng nơi xảy ra cuộc chiến. Những khối đá lớn trong tàn tích này được dính lại với nhau và có bề mặt lồi lõm không bằng phẳng. Muốn làm tan chảy đá cần nhiệt độ tối thiểu 1800 độ C. Ngọn lửa lớn thông thường không thể đạt tới được nhiệt độ này, chỉ có vụ nổ hạt nhân của bom nguyên tử mới có thể đạt đến được. Trong rừng nguyên sinh Deken, người ta còn phát hiện thêm nhiều tàn tích bị cháy xém. Bức tường của tàn tích bị kết tinh và nhẵn bóng như thủy tinh, bề mặt nội thất chế tác bằng đá trong các tòa nhà cũng bị thủy tinh hóa. Ngoài Ấn Độ ra, ở thành cổ Babylon, sa mạc Sahara, Gobi của Mông Cổ đều phát hiện được tàn tích của cuộc chiến tranh hạt nhân thời tiền sử. Những viên “đá thủy tinh” trong tàn tích giống hệt với “đá thủy tinh” ở các bãi thử nghiệm hạt nhân ngày nay.

Chiếc máy bay “Vimana” mà Gurkar sử dụng lại là cái gì? Trong bài thơ viết: “Vimana” nhờ vào thủy ngân và một luồng khí đẩy cực mạnh, xác định được tuyến đường di chuyển trong 9 ngày. Cự ly bay của nó có thể nói là vô hạn, hướng bay của nó có thể từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, còn có thể từ phía sau về phía trước.” Trong bộ sử thi này, tàu vũ trụ từng xuất hiện nhiều lần, mô tả khi người anh hùng Arjuna ngồi trên phi thuyền “bước lên phi thuyền hình Mặt trời này, Arjuna đã bay vút lên, khi bay đến nơi con người không thể nhìn thấy”, anh phát hiện thấy hàng trăm con tàu vũ trụ. Tại nơi này, Mặt trời và Mặt trăng đều không phát sáng càng không cần nói đến ngọn đuốc. Nếu không có trải nghiệm bản thân chỉ dựa vào trí tưởng tượng e rằng không cách nào viết được những chi tiết chân thực như vậy. Mà phi thuyền hình tròn chẳng phải người hiện đại thường gọi là “đĩa bay“ hay sao?

Công dụng của hành lang ngầm

Trong xã hội ngày nay, để đối phó với “ngày tận thế” có trong dự ngôn của rất nhiều dân tộc, một thương nhân bất động sản người Mỹ đã chế tạo ra “hầm ngầm ngày tận thế” cho con người. Hầm ngầm nằm sâu khoảng 9m trong lòng đất, được cho là có thể chịu được động đất mạnh cấp 10 và 500 giờ lũ lụt cùng các cuộc tấn công hạt nhân, sinh học, hóa học, cho dù ngọn lửa bên ngoài lên tới 6770C và duy trì đám cháy 10 ngày 10 đêm, chỉ cần bạn sống ở bên trong, vẫn có thể bình an vô sự. Theo mô phỏng sơ đồ dự án, hầm trú ẩn giống như một con tàu lớn được chế tạo đặc biệt, chỉ có điều nó nằm ở trong lòng đất. Hầm ngầm được trang bị các loại tiện nghi phù hợp với cuộc sống, như khu vực nghỉ ngơi, rạp chiếu phim, nhà bếp, thư viện, cơ sở y tế, dụng cụ tập gym và phòng tắm,v.v. đồng thời tích trữ các loại nhu yếu phẩm hàng ngày đủ dùng cho một năm. Anh ấy nói khi quảng cáo hầm trú ẩn của mình rằng: “Thảm họa là điều ngoài ý muốn hiếm gặp, nhưng về lâu dài, nó là điều không thể tránh khỏi. Sau khi được thông báo biết rằng một thảm họa nào đó sắp xảy ra, chỉ trong vài ngày ngắn ngủi bạn có thể trốn đi đâu đây?”

Trong thời đại văn minh tiền sử, văn minh tinh thần và kỹ thuật đều cực kỳ phát triển, có người thậm chí còn có siêu năng lực. Không khó để lý giải khi họ cũng sẽ có sự chuẩn bị trước khi “ngày tận thế” đến. Họ đã xây dựng các hành lang dưới lòng đất, kiến lập những thành phố làm nơi lánh nạn dưới lòng đất, vì để bảo lưu những ghi chép, lời dạy bảo của Thần và những khoa học kỹ thuật được ưa chuộng của nền văn minh cổ đại mà dựng lập lên một nơi trú ẩn an toàn. Nghe nói rằng nhà thám hiểm kiêm nhà văn nổi tiếng người Đức von Daniken đã từng đi vào hành lang ngầm do người Lacandons canh giữ. Trong đường hầm, ông vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy những đường thông đạo rộng và thẳng cùng những bức tường có bề mặt được phủ men sứ, nhiều cửa lớn và cổng đá ong rất tinh xảo, mái nhà được làm bằng phẳng và nhẵn bóng cùng một đại sảnh có diện tích hơn 20.000 mét vuông, còn có nhiều hầm thông gió xuất hiện cách nhau một khoảng cách nhất định với chiều dài trung bình từ 1.8 đến 3.1 mét và rộng 80 cm. Trong đường hầm còn có vô số văn vật kỳ lạ thời tiền sử. Sự chặt chẽ, hùng vĩ và thần kỳ trong đường hầm đã siêu việt khỏi trí tuệ con người hiện đại, khiến nhà văn với trí tưởng tượng táo bạo này cũng phải sửng sốt không nói lên lời. Ông cho rằng đường hầm này được đào bằng mũi khoan có nhiệt độ cực cao và bộc phá định hướng bằng chùm tia điện tử kỹ thuật cao và một số công nghệ đào hầm mà con người hiện nay vẫn chưa sở hữu.

Hành lang ngầm do người tiền sử dùng kỹ thuật siêu cấp xây dựng lên, các loại công dụng của nó nhất định vượt xa “hầm ngầm ngày tận thế” mà con người ngày nay xây dựng, tin chắc rằng nó đủ sức chống chọi với các loại thảm hoạ. Khi thảm họa xảy đến, những người trốn thoát thông qua hành lang ngầm đến thế giới trong lòng đất đã trở thành cư dân ở đó. Rất nhiều dân tộc kể từ đó không bao giờ quay lại bề mặt nữa. Một số ít người Lemuria và người Atlantis cũng trốn xuống lòng đất. Theo Sheldan Nidle, Lemuria ban đầu là một xã hội trên mặt đất của những cư dân dưới lòng đất. Thủ đô đầu tiên nằm trên một hòn đảo nào đó đã chìm xuống Thái Bình Dương khoảng 25.000 năm trước, thủ đô thứ hai nằm ở thế giới bên trong Trái đất. Sau này cũng là nơi mà Chính phủ Lemuria di cư đến sau thảm họa. Lúc đó người thống trị mới trên bề mặt của Đế chế Atlantis đã ra lệnh phong tỏa hết lối vào các đường hầm chính, chỉ đến những ngày cuối cùng của Atlantis, người Lemuria mới mở ra những cửa hầm bị khoá kín này, đã cứu rất nhiều cư dân trên bề mặt khỏi một số loại tử vong. Những cư dân trên mặt đất được cứu sống này đã quần tụ trở thành một xã hội, vào một thời kỳ nào đó sau này họ quay trở lại mặt đất, và trở thành Đế chế Rama ở miền Nam châu Á. Sau trận đại hồng thủy và đế chế Rama bị hủy diệt, người Lemuria lại lần nữa được đoàn tụ và đặt tên cho xã hội mới thành lập của họ là Agharta. Thủ đô của Agharta, Shambhala (Shangri-La), đã được chuyển đến trong một hang động, vị trí này nằm cách xa dưới lòng đất so với Lhasa của Tây Tạng ngày nay.

Nghe nói rằng nơi này đều có những lối vào bí mật dẫn đến thế giới dưới lòng đất, chúng lần lượt là: Bắc Cực, Nam Cực, Kim tự tháp Giza vĩ đại ở Ai Cập, Lối vào dãy Himalaya ở Tây Tạng (được cho là do các nhà sư bảo vệ), Hang Mommoth ở Kentucky, Thành phố Mato Grosso-Posid ở Brazil, Thác Igua, dưới bề mặt thành phố Rama- Ấn Độ, Kho báu của Vua Solomon, Núi California Shasta- Telos (thành phố Agharthean huyền thoại tồn tại trong và dưới những dãy núi), hang động Dero…v.v. Theo báo cáo của nhà địa lý Beloshinov năm 1916, trên vùng núi Altai cũng có một số hành lang ngầm, từ miền Nam Mông Cổ kéo dài đến sa mạc Gobi; Đôn Hoàng ở Trung Quốc cũng có thể là lối vào của một “Vương quốc dưới lòng đất”.

Bầu trời rộng lớn mênh mông sâu thẳm, khơi dậy vô vàn suy nghĩ, những nền văn minh trên bề mặt phong phú và đầy màu sắc cũng rất ấn tượng. Nhưng con người tồn tại bên trong Trái đất, người ta thực sự biết được bao nhiêu? Bên trong Trái đất cũng có “thế giới Thần tiên”.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/80334

The post Loạt bài Mexico 2012 (16): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (15): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.1)https://chanhkien.org/2024/01/loat-bai-mexico-2012-15-nen-van-minh-an-sau-trong-long-dat-phan-2-ky-1.htmlWed, 10 Jan 2024 00:14:40 +0000https://chanhkien.org/?p=32334Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Trong thời kỳ thế chiến lần thứ hai, một binh sĩ của quân đội Hoa Kỳ là Heber đã bị tách khỏi đồng đội và bị bỏ lại trong khu rừng rậm của Miến Điện trong khi tác chiến với quân đội Nhật ở Miến Điện. Một ngày nọ, anh […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (15): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Trong thời kỳ thế chiến lần thứ hai, một binh sĩ của quân đội Hoa Kỳ là Heber đã bị tách khỏi đồng đội và bị bỏ lại trong khu rừng rậm của Miến Điện trong khi tác chiến với quân đội Nhật ở Miến Điện. Một ngày nọ, anh ta vô ý phát hiện ra một lối vào hang động bị tảng đá khổng lồ che khuất. Heber mạo hiểm tiến vào hang động, đột nhiên phát hiện bên trong được chiếu sáng bằng nguồn sáng nhân tạo như ban ngày, giống hệt như một thành phố khổng lồ dưới lòng đất. Khi Heber vẫn đang kinh ngạc nhìn thì đột nhiên bị bắt lại và bị nhốt trong bốn năm, sau đó mới tìm được cơ hội thoát ra ngoài. Theo ông, vương quốc dưới lòng đất này có bảy đường hầm thông lên mặt đất và có lối ra vào bí mật phân bố ở các nơi khác nhau trên thế giới. Năm 1963, trong lúc hai thợ mỏ người Mỹ đang đào than đã phát hiện ra một đường hầm. Họ thuận theo đường hầm một mạch đi xuống, cuối cùng đã tìm thấy một cánh cửa khổng lồ ở cuối đường hầm. Sau khi mở cửa, họ phát hiện ra một cầu thang bằng đá cẩm thạch. Vì sợ hãi, hai người thợ mỏ này đã không dám đi xuống sâu hơn. Mà cũng vào thời kỳ đó, ở nước Anh, trong khi một vài người thợ mỏ đang khai thác một đường hầm thì nghe thấy tiếng thiết bị máy móc di chuyển dưới lòng đất vọng đến. Một thợ mỏ cho biết, họ còn phát hiện ra một cầu thang thông xuống một cái giếng ngầm, khi đến cuối cầu thang, tiếng thiết bị máy móc trở nên rõ ràng hơn. Sau đó những người này tưởng rằng mình đã nhìn thấy ma nên sợ hãi và đã bỏ chạy khỏi đường hầm. Khi họ gọi một lượng lớn công nhân đến chuẩn bị tìm hiểu xem rốt cuộc là chuyện gì thì cầu thang và cửa xuống giếng ngầm đã mất tích không dấu vết. Ngoài ra một số nhân viên thăm dò dầu khí và những nhà thám hiểm đều phát hiện thấy dưới lòng đất có người khổng lồ.

Hình tưởng tượng thế giới dưới lòng đất( Agartha)

Vương quốc dưới lòng đất Agartha

“Agharta” là một thế giới dưới lòng đất có nền văn minh cao độ trong truyền thuyết. Theo truyền thuyết, dưới lòng đất có vô số hang động, đường hầm và mạng lưới hành lang ngầm quanh co khúc khuỷu giao nhau, hơn nữa còn chôn giấu bí mật của nền văn minh cổ đại và vô số bảo tàng quý giá. Năm 1906, William Reed đã cho ra mắt cuốn “Ảo ảnh vùng cực”, trong đó ông tuyên bố rằng không ai có thể khám phá ra Bắc Cực và Nam Cực vì chúng không tồn tại và chúng là lối vào thế giới dưới lòng đất. Marshall Gardner (bút danh của nhà văn, nhà khoa học Martin Gardner) đã viết một cuốn sách vào năm 1913 có tựa đề “Hành trình vào bên trong Trái Đất”. Trong cuốn sách ông đã cam đoan rằng bên trong lõi rỗng của Trái Đất có một Mặt Trời có đường kính lên tới 600 dặm. Gardner cũng tuyên bố rằng ở hai cực của Trái Đất có những khe hở rộng.

Trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Hitler đã vô cùng thèm khát những kho báu vô tận và kỹ thuật cực kỳ tiên tiến rất có khả năng tồn tại ở thế giới dưới lòng đất. Ông ta cũng từng nhiều lần cử đội khảo sát đến Tây Tạng, Nam Bắc Cực, thậm chí trà trộn vào Mỹ. Một số thành viên Đức quốc xã còn chắc chắn rằng ai tìm ra thế giới dưới lòng đất trước thì người đó có thể nắm quyền chủ động cuộc chiến. Tại châu Mỹ, hai đội khảo sát của Mỹ và Đức đã phát động một cuộc chiến tranh đoạt, tình tiết giống hệt như trong bộ phim “Indian Jones” của đạo diễn Hollywood nổi tiếng Spielberg.

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng và sau đó Mỹ tuyên chiến với Nhật Bản, Chiến tranh Thái Bình Dương từ đó bùng nổ. Sau đó Đức cũng tuyên chiến với Mỹ. Khi trận chiến đang như nước sôi lửa bỏng, tổng thống Roosevelt đã giao cho vợ chồng David Lamb một nhiệm vụ đặc biệt, cố gắng tìm ra Vương quốc dưới lòng đất nhanh nhất có thể nhằm thu được một lượng lớn kho báu vàng v.v., từ đó giành được ưu thế dẫn đầu chiến lược. Sau khi vợ chồng David Lamb nhận được lệnh, đã dẫn đầu một đội khảo sát của Mỹ tới rừng rậm Chiapas ở Mexico để tìm lối vào hành lang dưới lòng đất. Vào tháng 3 năm 1942, vợ chồng Lamb đã được mời về Nhà Trắng để báo cáo trước Tổng thống về quá trình khảo sát của họ. Dựa theo trí nhớ của vợ chồng Lamb, khi họ đang đi xuyên qua khu rừng nhiệt đới ở địa phương, họ gặp phải những người Indian có làn da xanh trắng đang canh giữ lối vào hành lang dưới lòng đất, đồng thời phát hiện ra manh mối về lối vào bí mật. Nhưng những người Indian này đã bao vây đoàn khảo sát trong khu rừng nhiệt đới và nghiêm khắc ra hiệu cho họ lập tức rời khỏi. Người Indian dẫn đường của vợ chồng Lamb cho biết họ là hậu duệ của người Maya, là một nhánh của bộ tộc Indian, gọi là người Lacandons. Họ đã canh giữ thánh địa này qua nhiều thế hệ và đó là lối vào Vương quốc ngầm “Agharta”. Không cho phép bất kỳ ai bước vào cấm địa nửa bước. Hai vợ chồng chỉ đành thất vọng quay về. Vợ chồng Lamb không thể bước vào đường hầm dưới lòng đất do người Lacandons canh giữ.

Trên thực tế, đối với nước Đức tại thời điểm đó, hành động của nước Mỹ đã quá lỗi thời. Hitler và Tổng tư lệnh Gestapo – Himmler từ lâu đã bị hấp dẫn bởi những điều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Họ đã cử một lượng lớn những đội thám hiểm đi khắp thế giới. Đội thám hiểm của Hitler tới châu Á đã phát hiện ra một cuốn sách tiếng Phạn, trong sách ghi lại rất chi tiết câu chuyện về Vương quốc ngầm Agharta. Đồng thời nhắc đến một phương tiện được mệnh danh là “chiếc xe của Thần” có thể bay lơ lửng trong đường hầm một cách kỳ diệu. Một năm trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cũng vào năm 1938, Đức Quốc xã đã từng cử đi một đoàn thám hiểm bao gồm 82 nhà khoa học và học giả tiến xuống Nam Cực. Năm 1942, Hitler đã bí mật đưa một nhóm tăng nhân Lạt Ma Tây Tạng tới Berlin và dò hỏi các Lạt Ma chuyện liên quan đến Shangri-La.

Tìm kiếm bí mật của Đức Quốc xã

Khi Hitler nghe những câu chuyện liên quan đến Vương quốc dưới lòng đất đã được lưu truyền từ cổ đại ở Tiệp Khắc cũ, những cư dân ở đó đã làm chủ được một loại năng lượng mạnh mẽ và chưa được biết đến có tên là “Buriru”, ông ta càng nóng lòng hạ lệnh xâm lược Tiệp Khắc nhằm mục đích kết thành liên minh với cư dân của Vương quốc dưới lòng đất. Trên thực tế, khi chiến tranh gần kết thúc, Hitler đã có thể làm điều này. Nước Đức từ một quốc gia bại trận trong thế chiến thứ nhất đã trở thành một quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật cao nhất thế giới vào thời điểm đó, ngay cả hiện nay cũng có một số khoa học kỹ thuật rất khó đuổi kịp họ. Một tướng lĩnh cấp cao của quân Đồng minh cho biết: “Việc chiếm cứ các cơ sở nghiên cứu khoa học của Đức Quốc xã đã cho chúng ta thấy một sự thực, chúng ta đã lạc hậu quá xa so với họ trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu….”. Tên lửa và đạn tự hành đầu tiên là do Đức phát minh đã làm cho quân Đồng minh phải kinh hoàng khiếp sợ. Bom nguyên tử cũng là do người Đức nghiên cứu phát triển đầu tiên, sau này nước Mỹ đã đạt được thành công sau khi thu nạp nhân tài người Đức. Trong số rất nhiều tài liệu kỹ thuật mà quân đội Đức để lại, quân Đồng minh còn phát hiện một nguyên mẫu máy bay hình đĩa đã bị quân Đức phá hủy sau khi bại trận. Năm 1952, một cựu thượng úy không quân Đức kiêm chuyên gia hàng không Schrivo tuyên bố rằng đã từng vẽ một bản thiết kế máy bay hình đĩa ở gần Praha. Chiếc máy bay huyền thoại này được thiết kế với tốc độ 2600km/h, có thể xoay vuông góc 90 độ, đồng thời có thể cất cánh theo phương thẳng đứng. Tạp chí khoa học “P.M.” của Đức cũng từng đưa tin, Hitler đã ra lệnh cho các nhà khoa học Đức Quốc xã bí mật nghiên cứu phát triển đĩa bay, nghe nói rằng dự án này đã đạt được tiến triển có tính đột phá trong các thí nghiệm phá vỡ trọng lực và nguyên mẫu của dự án có thể cũng đã tiến hành qua các chuyến bay thử nghiệm. Báo chí dẫn lời những người đã chứng kiến nói rằng, vào năm 1944 họ từng nhìn thấy một chiếc đĩa bay được trang trí logo hình chữ thập bằng sắt của quân đội Đức bay ở độ cao thấp trên sông Thames. Khi quân Đức bại trận, phần lớn tài liệu về hạng mục đĩa bay hầu hết bị tiêu hủy. Tất cả dữ liệu thiết kế đã bị đốt cháy.

Karl Dönitz (1891-1980) là tổng tư lệnh hạm đội tàu ngầm Đức Quốc xã trong thế chiến thứ hai và sau này trở thành tổng tư lệnh hải quân Đức Quốc xã. Nghe nói ông đã từng nói hai câu sau đây và cho đến nay nó vẫn còn là bí ẩn. Ông nói: Những người lính tàu ngầm của tôi đã tìm thấy một Thiên đường nhân gian. Dönitz tuyên bố vào năm 1943: Hạm đội tàu ngầm Đức rất tự hào rằng, ở một nơi như Shangri-La, họ đã xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm cho Quốc trưởng ở “phía bên kia” thế giới.

Sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, ở Nam Cực và cực Nam lục địa Nam Mỹ đã lan truyền hàng loạt vụ việc có liên quan đến tàu ngầm U-boat của Đức. Ngày 18 tháng 7 năm 1945, các tờ báo lớn trên thế giới đều liên tục hướng sự chú ý đến Nam Cực. Tiêu đề lớn của New York Times có nội dung “Báo cáo về Thiên đường ở Nam Cực”, tuyên bố rằng Hitler đã đến Nam Cực. Những tiêu đề này đã gây chấn động thế giới lúc bấy giờ. Năm 1945, tổng thống Mỹ mới nhậm chức Truman tại hội nghị Potsdam đã nêu ra câu hỏi: “Hitler có thực sự chết chưa?” Stalin đã trực tiếp trả lời: “Chưa”. Sau khi quân đội của nguyên soái Zhukov chiếm được Berlin, họ đã tiến hành một cuộc điều tra triệt để, cuối cùng Zhukov nói rằng: “Chúng tôi không tìm thấy thi thể của Hitler”. Vào năm 1952, tổng thống Mỹ Eisenhower cũng từng nói: “Chúng tôi cũng không tìm thấy một chút bằng chứng nào về cái chết của Hitler. Nhiều người tin rằng Hitler đã trốn thoát khỏi Berlin”.

Trên thực tế, vào năm 1946 sau chiến tranh, quân Đồng minh đã phát hiện gần 60 tàu ngầm cùng hơn 6000 nhân viên kỹ thuật và nhà khoa học của Đức Quốc xã đã mất tích một cách bí ẩn. Khoảng 40.000 lao động nô lệ và 250.000 công dân Đức cũng mất tích một cách bí ẩn trước khi kết thúc thế chiến thứ hai. Vào mùa hè của Nam Cực năm đó, Mỹ đã tổ chức một cuộc khảo sát lớn tại Nam Cực có tên “chiến dịch nhảy cao”. Hành động lần này do Đô đốc hải quân Richard Evelyn Byrd, Jr chỉ huy. Tham gia vào “chiến dịch nhảy cao” gồm có hơn 4000 sĩ quan, 13 tàu chiến và 1 tàu sân bay, 6 trực thăng, 6 thuỷ phi cơ, 2 máy bay đa năng và 15 máy bay khác, v.v. Chính phủ cho biết mục đích của hành động lần này là thí nghiệm vật liệu mới dưới nhiệt độ khắc nghiệt ở Nam Cực. Tuy nhiên đây là mùa hè đầu tiên ở Nam Cực sau khi kết thúc thế chiến thứ 2, lúc đó kinh tế đang lâm vào tình trạng hỗn loạn, hải quân Mỹ phải cắt giảm quy mô lớn sau khi trải qua chiến tranh, rất nhiều tàu chiến phải dừng hoạt động và phần lớn nhân sự bị cắt giảm. Việc sử dụng nhiều trang thiết bị quân sự cực kỳ tốn kém như vậy tới Nam Cực, nếu chỉ để “thử nghiệm vật liệu mới” thì không thể giải thích được.

Vào ngày 5 tháng 3 năm 1947, tờ “El Mercurio” của Santiago, Chile, đã đăng tải một cuộc phỏng vấn độc quyền với tướng Baird với tiêu đề “Olympus căng buồm trong sóng gió”. Tướng quân nói: “Ngày hôm nay là một ngày trọng đại đối với nước Mỹ, chúng ta phải dốc hết toàn lực để đối phó với một khu vực thù địch”. Tướng quân tiếp tục nói rằng ông không định hù dọa bất kỳ ai mà chỉ muốn nói nước Mỹ xác thực đang phải đối mặt với một cuộc chiến mới, một thứ có thể bay từ cực này sang cực kia của Trái Đất với tốc độ đáng kinh ngạc. Tướng quân Baird lại nhắc lại quan điểm của mình tại cuộc họp báo tin tức quốc tế. Căn cứ vào trải nghiệm của ông, ông cho rằng tốc độ của loại máy bay đó là cực kỳ đáng sợ. Chuyến thám hiểm theo kế hoạch kéo dài sáu tháng đã phải huỷ bỏ chỉ sau hai tháng.

Chuyến thám hiểm Bắc Cực của Baird

Thiếu tướng Baird là nhân vật truyền kỳ của Mỹ, ông là người đầu tiên bay xuyên qua hai cực Trái Đất. Theo nhật ký thám hiểm Bắc Cực của Baird: Ông liên tục bay về hướng Bắc Cực, thực sự đã nhìn thấy một thung lũng tràn đầy cảnh mùa xuân, trong đó có những dòng suối nhỏ chảy qua, và những khu rừng rậm rạp nằm rải rác trên sườn núi. Trong kính viễn vọng ông ngạc nhiên khi phát hiện thấy loài voi Ma Mút vốn đã tuyệt chủng trên Trái Đất! Sau đó lại nhìn thấy những ngọn đồi nhấp nhô, nhiệt độ bên ngoài khoảng 27 độ C. Mặt đất càng trở nên bằng phẳng hơn, Baird phát hiện có tồn tại một thành phố mà những chiếc máy bay trên không trung dường như có sức nâng rất thần kỳ. Kết quả là máy bay của Baird bị một cỗ lực lượng vô hình khống chế và không thể điều khiển được. Sau đó động cơ máy bay ngừng hoạt động, và máy bay hạ cánh an toàn với một chấn động nhỏ, dường như được một thang máy vô hình nâng đỡ. Xuất hiện vài người có thân hình cao lớn tóc vàng, đôi mắt xanh và làn da trắng ngần, những người này không đem theo bất kỳ vũ khí nào. Baird và các phóng viên thông tấn truyền hình được họ khoản đãi nhiệt tình và được mời lên một chiếc xe ô tô không bánh và nhanh chóng lao về phía thành phố rực rỡ. Thành phố này dường như được xây dựng bằng pha lê, lấp lánh ánh sáng, toàn bộ thành phố phát ra ánh sáng như cầu vồng theo quy luật. Bước vào một căn phòng kiến trúc đồ sộ, và thưởng thức đồ uống nóng hổi có hương vị tuyệt vời. 10 phút sau, Baird tạm thời rời khỏi nhóm phóng viên, ông được đưa vào một thang máy, đi xuống trong vài phút, sau đó cửa thang máy nhẹ nhàng mở lên. Ông đi qua một hành lang trồng đầy hoa hồng đỏ và phát hiện những tia sáng phát ra từ trên bức tường. Ông dừng lại trước một cánh cửa lớn, trên cửa còn có dòng chữ rất kỳ lạ.

Chuyện sau khi ông tiến vào phòng càng chấn động hơn. Baird liên tục sử dụng những từ ngữ như “chưa từng có trước đây”, “không thể tin được”, “khó có thể hình dung” để miêu tả cảnh tượng mà ông tận mắt nhìn thấy. Căn phòng lộng lẫy tinh xảo, giọng nói của những người đó vừa êm tai lại nhiệt tình, họ nói với tướng quân rằng vì ông có phẩm chất cao quý, lại có một danh tiếng nhất định ở thế giới bề mặt, nên mới để ông vào. Những người đó còn nói với ông rằng, thế giới thần bí này có tên là “Ariani”, từ sau khi quân đội Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima, Nhật Bản, họ mới bắt đầu để ý đến thế giới bên ngoài. Đồng thời trong thời kỳ hiểm hoạ khắp nơi đó, họ đã điều động rất nhiều máy bay đến thế giới bề mặt để tiến hành điều tra. Họ cho biết, kỹ thuật và văn hoá ở thế giới dưới lòng đất phát triển hơn so với thế giới bề mặt hàng nghìn năm, ban đầu họ không có ý định muốn can thiệp vào cuộc chiến trên thế giới bề mặt, tuy nhiên vì không muốn nhìn thấy con người lại sử dụng vũ khí nguyên tử nữa, vì vậy đã phái mật sứ đến thăm hỏi các quốc gia phát triển, nhưng không nhận được sự coi trọng. Lần này mượn cơ hội mời tướng quân truyền đạt lại thông điệp rằng thế giới bề mặt có thể sẽ đi đến bước đường tự huỷ diệt. Những người mà họ cử lên trên thế giới bề mặt đã nhận được sự đối xử không thân thiện,và máy bay cử đi cũng thường gặp phải máy bay chiến đấu tấn công ác ý.

Sau cuộc gặp gỡ, Baird theo đường cũ quay trở về và hội họp cùng đám phóng viên đang lộ vẻ mặt đầy nghi ngờ. Dưới sự dẫn đường của hai chiếc máy bay, họ đã bay lên độ cao 823 mét, sau đó trở lại căn cứ an toàn. Trước khi khởi hành, radio truyền tới âm thanh “tạm biệt” bằng tiếng Đức, và hạ cánh sau 27 phút. Tháng 2 năm 1947, Baird tham dự hội nghị cố vấn của Bộ quốc phòng Mỹ, tất cả mọi phát biểu đều được ghi âm lại chi tiết, đồng thời được báo cáo lên tổng thống Truman. Hội nghị diễn ra trong 6 tiếng 40 phút, ông còn phải tiếp nhận điều tra của bộ phận an ninh cấp cao và đội y tế, sau đó ông được các lĩnh vực liên quan yêu cầu giữ kín bí mật. Sau này ông viết: “Vùng đất ở Bắc Cực, căn cứ đó là một bí ẩn lớn”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/80334

The post Loạt bài Mexico 2012 (15): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 2.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (14): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.2)https://chanhkien.org/2024/01/loat-bai-mexico-2012-14-nen-van-minh-an-sau-trong-long-dat-phan-12.htmlSat, 06 Jan 2024 00:22:01 +0000https://chanhkien.org/?p=32284Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Thiên đường phương Bắc Trong thần thoại Hy Lạp, thời viễn cổ có một dân tộc sinh sống ở vùng đất khắp nơi tràn ngập ánh sáng và ấm áp tại Bắc cực, nơi đó có tên là “Thiên đường phương Bắc” (Hyperborea), còn được gọi là Vườn cực lạc. […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (14): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Thiên đường phương Bắc

Trong thần thoại Hy Lạp, thời viễn cổ có một dân tộc sinh sống ở vùng đất khắp nơi tràn ngập ánh sáng và ấm áp tại Bắc cực, nơi đó có tên là “Thiên đường phương Bắc” (Hyperborea), còn được gọi là Vườn cực lạc. Với việc phát hiện ra những di tích về hoạt động của con người và động vật thời viễn cổ vùng Bắc Cực, con người bắt đầu tin vào sự tồn tại thực sự của “Thiên đường phương Bắc”. Vào cuối thế kỷ 19, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Boston là William Fairfield Warren (1833-1929) đã xuất bản một cuốn sách “Thiên đường tìm thấy ở Bắc Cực”. Cuốn sách này hiện nay có tổng cộng 11 phiên bản. Ông Warren phân tích một lượng lớn những câu chuyện truyền miệng và truyền thuyết liên quan đến Thiên đường này. Theo ông, tất cả những thông tin đều đến từ một nơi tốt đẹp thời cổ đại ở Bắc Cực. Gần đây, các báo cáo có uy tín cho rằng có rất nhiều UFO đến từ một hang động khổng lồ dưới Cực Bắc của Trái đất.

Hình 3: Bản đồ vòng Bắc Cực do Mercator vẽ năm 1595. Lục địa này được chia thành 4 vùng đất bởi những dòng sông sâu.

Gerardus Mercator là một người vẽ bản đồ ở thế kỷ 16. Ông tinh thông thiên văn, toán học và địa lý, sinh ngày 5 tháng 3 năm 1512 tại thành phố Flanders, Hà Lan (hiện nay gần Antwerpen, Bỉ). Từ năm 1530 đến 1532, ông theo học tại Đại học Louvain. Năm 1552 ông di cư đến Duisburg, Đức. Mercator đã vẽ một tấm bản đồ vòng Bắc Cực vào năm 1595 (hình 3). Theo tấm bản đồ này, có một lục địa rộng lớn nằm ở Bắc Cực. Lục địa này bị những con sông sâu chia thành bốn vùng đất, có những ngọn núi băng nằm trong vùng biển hình tròn bao quanh lục địa. Làm thế nào lục địa này có thể xuất hiện trên bản đồ? Vào thời trung cổ, người ta không có thông tin nào của vùng Bắc Cực, tuy vậy hải đồ của Mercator dường như được vẽ dựa theo hải đồ ở thời cổ đại. Trong đó có một tấm hải đồ từng được nhắc đến trong một bức thư của ông vào năm 1580. Hải đồ này cho thấy có một lục địa nằm ở trung tâm Bắc Băng Dương. Trên bản đồ có vẽ một số tảng băng trôi.

Từ trước tới nay, người ta luôn cho rằng Mercator đã vẽ sai, bởi vì trên mặt đất không tìm thấy lục địa này. Nhưng tôi tin rằng, lục địa được vẽ trong bản đồ vẽ vòng Bắc Cực của Mercator (Hình 3) thực tế nằm ở phía dưới bề mặt Trái đất, cũng chính là phần bên trong Trái đất. Bức hình có vùng biển hình tròn bao quanh núi (băng) chính là vùng biển nơi Bắc Cực há miệng ra (tham khảo Hình 2 ở trên, ảnh vệ tinh Apollo). Từ nơi này có thể tiến nhập vào thế giới bên trong lòng đất. Trên thực tế, từ lâu đã có người làm điều này.

Hành trình dưới lòng đất của Olaf Jansen

Năm 1908, nhà văn Mỹ Willis George Emerson xuất bản một cuốn sách có tên “The Smoky God” (Thần khói), kể rằng có một người Na Uy tên là Olaf Jansen cùng với cha mình đã từ Bắc Cực đi vào bên trong Trái đất, nơi đó có một Mặt trời nhỏ hơn một chút so với Mặt trời của chúng ta, và là nơi sinh sống của người khổng lồ cao hơn 12 feet (3,6m). Bản gốc tiếng Anh của cuốn sách này có thể tìm thấy trên mạng.

Olaf sinh ngày 27 tháng 10 năm 1811 tại Uleaborg, một thị trấn nhỏ ở Nga. Nhà của Olaf ở Stockholm và bố mẹ anh thường đến vịnh Bothnia để câu cá. Vào tháng 4 năm 1829, cha của Olaf là Jens Jansen đã đưa ông cùng đi ra biển. Ngày 23 tháng 6, họ đã đến được đảo Spitsbergen. Spitsbergen là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Svalbard ở Na Uy, gần Bắc Cực. Sau khi đi thuyền từ Spitsbergen hướng về phía bắc trong vài ngày, hai cha con Olaf bất ngờ gặp phải những cơn gió ấm và dòng biển nóng, họ cảm thấy khí hậu đã trở nên ấm hơn so với lúc khởi hành từ Na Uy. Cha của Olaf – Jens, là một người có tín ngưỡng rất kiên định vào các vị thần Bắc Âu như Odin và Thor. Trong suốt cuộc đời mình, Jens thường kể cho Olaf nghe truyền thuyết về miền Cực Lạc, phía đầu nguồn của ngọn gió phương bắc là nơi có những vị Thần cư ngụ. Niềm tin này đã kích thích sự hưng phấn để hai cha con tiếp tục cuộc thám hiểm.

Hai cha con Olaf đã phát hiện ra rất nhiều cây khô lớn trôi nổi gần một hòn đảo nhỏ vô danh. Chèo thuyền đi tiếp, họ gặp phải một trận bão tuyết và sương mù dày đặc, họ đã mạo hiểm đi xuyên qua rất nhiều khe hở của núi băng khổng lồ. Dần dần, thời tiết ngày càng trở nên ấm áp, giống như họ đang chèo thuyền về phương nam, nhưng la bàn trên thuyền của họ lại luôn chỉ về hướng bắc. Đột nhiên Olaf phát hiện ra dòng nước bắn vào người mình không ngờ lại là nước ngọt, mà phía trước lại xuất hiện một lục địa xanh. Rõ ràng họ đã đến một cửa sông lớn. Ở đường chân trời, họ còn phát hiện một “Mặt trời” hình tròn khác trông như một chấm nhỏ, chỉ có thể nói nó giống với Mặt trời. Nó có vẻ ngoài màu đồng cổ mờ ảo khi không có mây và sương mù đại dương che phủ. Nó cũng sẽ trở nên giống như một đám mây phát sáng, như thể đằng sau nó có một nguồn sáng lớn hơn. Cha con Olaf đưa ra kết luận rằng “Mặt trời” mờ ảo màu đất nung này không phải là Mặt trời, cũng không phải là phản chiếu của Mặt trời, mà là một thiên thể nào đó. Người cha Jens với kinh nghiệm phong phú của mình đã nhận ra rằng, họ thực sự đã đi qua một cánh cổng khổng lồ ở Bắc Cực, và tiến vào bên trong Trái đất. Jens đã căn cứ vào hành trình của mình để ước tính độ dày của vỏ Trái đất khoảng hơn 300 dặm Anh (~500km). Tuy nhiên so với Trái đất rộng lớn, nó chỉ là một cái vỏ.

Hai cha con tiếp tục theo đường thủy tiến vào sâu trong lòng Trái đất, họ đi qua một khu rừng rộng lớn, khắp nơi đều có quả hạch thơm ngon để ăn lót dạ. Vào đầu tháng 9 năm đó, họ gặp phải một con tàu to lớn lạ thường. Trên thuyền có 6 người khổng lồ trông thân thiện. Họ đứng thẳng lên nhưng đầu vẫn không chạm được tới eo người khổng lồ. Những người khổng lồ đã mời hai cha con Olaf đến Vương quốc của họ. Hai cha con đã sống ở đó hai năm và nhận được sự chiêu đãi rất nồng hậu.

Thế giới dưới lòng đất có rất nhiều loài động vật đã sớm bị tuyệt chủng trên mặt đất. Hình thể của động thực vật ở thế giới dưới lòng đất cũng rất lớn. Những cái cây khổng lồ trong rừng cao tới 250 đến 300 mét, đường kính thân cây khoảng 30 mét. Trái nho to như quả táo. Kích thước của rùa biển khổng lồ dài từ 7-10 mét, rộng từ 4.5 – 6 mét, cao 2 mét. Voi khổng lồ thậm chí có thể dài 30 mét và cao 22 mét. Sải cánh của chim khổng lồ là 10 mét, trứng chim dài 2 feet (0.6 mét) và đường kính hơn 1 feet (0.3 mét).

Tuổi thọ của những người khổng lồ trong thế giới này thông thường từ 600 đến 800 năm. Đàn ông thường kết hôn ở độ tuổi từ 75 đến 100. Tuổi kết hôn của phụ nữ thì nhỏ hơn một chút. Ở thế giới này, vàng là một kim loại được sử dụng phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi làm các loại đồ trang sức. Khoa học Kỹ thuật của thế giới người khổng lồ vô cùng phát triển. Họ có đủ loại phương tiện giao thông, có cả thuyền lưỡng dụng vừa đi được dưới nước vừa đi được trên cạn, sử dụng năng lượng điện từ để khống chế và điều khiển các phương tiện bay. Họ còn có thể tiến hành giao tiếp tư tưởng từ cự ly xa.

Theo hiểu biết của hai cha con, dự đoán khoảng 3/4 diện tích bên trong Trái đất là đất liền, 1/4 còn lại là nước. Thế giới dưới lòng đất có rất nhiều con sông, một số con sông lớn có chiều rộng lên tới 30 dặm (1 dặm = 1,6093 km). Khu vực có nhiệt độ cực thấp trong lòng trái đất cũng là ở hai cực Nam Bắc. Sau khi những ngọn núi băng nước ngọt khổng lồ hình thành hai cực bên trong lòng đất, dòng nước sẽ thông qua mạch chảy ra ngoài hình thành nên những ngọn núi băng nước ngọt lớn ở hai cực bề mặt Trái đất. Lời kể của Olaf có thể giải thích một cách hợp lý một ẩn đố về bề mặt trái đất khiến các nhà khoa học trên thế giới phải đau đầu từ lâu. Đó chính là: Có vô số núi băng nước ngọt khổng lồ xuất hiện và biến mất hàng năm trên bề mặt hai cực của Trái đất, vậy chúng từ đâu đến? Cho dù nước biển trong đại dương đông thành núi băng thì chúng vẫn chứa muối, mặc dù độ mặn của nó thông thường sẽ thấp hơn độ mặn của nước biển nơi nó được hình thành nhưng nhiệt độ thấp sẽ làm cho một phần muối bị phân tách ra. Nam Cực được mệnh danh là “Sa mạc trắng”. Lượng mưa trung bình hàng năm ở hầu hết các khu vực là 55mm, nơi có lượng mưa ít nhất dưới 5 mm. Lượng mưa ở Bắc Cực thường dao động từ 100 đến 250 mm. Do đó, lượng mưa trong khí quyển (tuyết) ở Bắc Cực và Nam Cực căn bản là không thể tạo ra nhiều núi băng nước ngọt mới như vậy. Nguyên nhân nào khiến núi băng không ngừng hình thành và bao phủ? Những năm gần đây, các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều giả thiết, nhưng chưa ai có thể chứng minh được cơ chế trong đó.

Sau khi sống ở đó được hai năm, hai cha con Olaf muốn về nhà. Những người khổng lồ nói với họ rằng chặng đường trở về rất nguy hiểm. Nhưng hai cha con Olaf rất muốn trở về nhà. Những người khổng lồ đã chuẩn bị cho họ những vật dụng cần thiết. Họ từ biệt những người khổng lồ và bắt đầu hành trình đầy gian nan. Sau khi tính toán các mùa trên bề mặt Trái Đất, họ quyết định đi ra khỏi lòng đất từ Nam Cực, bởi vì khi đó Nam Cực đang bắt đầu vào hạ. Người cha Jens đã bỏ mạng trong một cơn sóng dữ ở Nam Cực. Olaf may mắn sống sót trên núi băng trôi, sau đó được một tàu săn cá voi cứu sống. Sau khi anh kể về những trải nghiệm của mình với thuyền trưởng Angus MacPherson, Olaf bị coi là kẻ điên và bị nhốt cho đến khi anh cư xử “bình thường” hơn. Sau 4 năm 8 tháng, Olaf mới có thể trở lại Stockholm. Ở đó, anh kể lại cho chú ruột mình nghe về trải nghiệm ly kỳ của mình, không ngờ lại bị người chú ác độc đưa đến bệnh viện tâm thần và giam giữ suốt 28 năm. Cho đến khi người chú qua đời, anh mới được thả tự do. Trong những năm cuối đời, Olaf di cư sang Mỹ. Vì lo sợ rằng mình sẽ lại bị coi là kẻ điên và chịu sự sỉ nhục vô tận, Olaf di nguyện rằng cuốn tự truyện “The Smoky God” (Thần khói) sẽ được xuất bản sau khi ông qua đời.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/79805

The post Loạt bài Mexico 2012 (14): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (13): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.1)https://chanhkien.org/2023/12/loat-bai-mexico-2012-13-nen-van-minh-an-sau-trong-long-dat-phan-11.htmlFri, 29 Dec 2023 03:09:38 +0000https://chanhkien.org/?p=32219Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Một số bộ tộc người Indian châu Mỹ kể lại rằng, tổ tiên của họ đã từng sinh sống dưới lòng đất trong một khoảng thời gian. Căn cứ theo truyền thuyết Hopi, tổ tiên của người Hopi đã từng bò qua lễ đường bốn tầng dưới lòng đất, đã […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (13): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Một số bộ tộc người Indian châu Mỹ kể lại rằng, tổ tiên của họ đã từng sinh sống dưới lòng đất trong một khoảng thời gian. Căn cứ theo truyền thuyết Hopi, tổ tiên của người Hopi đã từng bò qua lễ đường bốn tầng dưới lòng đất, đã từng sống ở rất nhiều nơi trước khi đến được nơi ở hiện tại. Các nhà khảo cổ học cho rằng: Khoảng hàng ngàn năm trước, tổ tiên của người Hopi xác thực đã từng di cư từ Mexico đến bang Arizona của Mỹ.

Rất nhiều nhà tu hành và những nhà nghiên cứu Tạng truyền Phật giáo cho rằng: Thánh địa/Miền cực lạc Shambala trong Thần thoại Tây Tạng (Shambhala, hay Shangri-La) nằm dưới lòng đất của dãy Himalaya xa xôi với lối vào vô cùng bí mật được các thế hệ đại đức Lạt Ma của Tây Tạng canh giữ. Vào năm 1938 và 1943, được sự đồng ý của Hitler, thủ lĩnh vệ quân của Đức quốc xã là Himmler đã đích thân tổ chức hai đội thám hiểm tiến sâu vào Tây Tạng để tìm kiếm “tổ tiên dân tộc Germanic (Đức và Anh)”, nhằm mục đích tiếp cận dân tộc của các vị Thần có thể thay đổi thời gian và “trục Trái đất” để tạo ra “quân đoàn bất tử”. Năm 1945, sau khi quân đội Liên Xô chiếm được Berlin, các sĩ quan của bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô (NKVD) và Ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô (tiền thân của KGB) đã phát hiện một vị Lạt Ma Tây Tạng bị bắn chết trong một căn phòng bí mật dưới tầng hầm của Tòa nhà Empire State của Đức. Những hành động bí mật của Đức quốc xã ở Tây Tạng đã trở thành một ẩn đố khó giải thích trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Năm 1946, khoa học gia người Anh Wilkins đã dựa trên kết quả khảo sát từ nhiều nước trên thế giới và đưa ra kết luận trong cuốn sách “Bí ẩn về châu Nam Mỹ cổ đại” rằng, các hành lang ngầm được những người văn minh thời tiền sử xây dựng nối tiếp nhau và có rất nhiều ngã rẽ, có thể xuyên qua mỗi từng khu vực của châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Phi, cuối cùng kết luận rằng, có tồn tại một “Vương quốc ngầm” bên trong Trái đất. Hiện nay một số nhà khoa học và tác giả có uy tín càng ngày càng tin rằng bên trong Trái đất có rất nhiều thành phố ngầm chưa được biết đến, những thành phố này là một phần của thế giới bên trong lòng đất có nền văn minh đạt trình độ cao.

Trái đất “rỗng ruột”

Nhận thức truyền thống về kết cấu của Trái đất là: Độ dày của vỏ Trái đất khoảng 81 km, độ sâu của lớp phủ là 2808 km và bán kính lõi Trái đất khoảng 3483 km. Vật chất trong lõi Trái đất được cấu thành từ sắt và niken, nhiệt độ và áp suất rất cao với mật độ cực lớn. Ước lượng tổng thể, tỷ lệ phần trăm trọng lượng của thành phần hóa học của Trái đất: Sắt 34,6%, oxy 29,5%, silic 15,2%, magie 12,7%, niken 2,4%, lưu huỳnh 1,9% và titan 0,05%.

Nhưng hiện nay, ngày càng nhiều nhà khoa học tin rằng bên trong Trái đất có tồn tại những khoảng không khổng lồ, Trái đất là rỗng. Một nguyên nhân là do diện tích Trái đất là 5,10×10^8 km2, bán kính trung bình khoảng 6371,3 km, thể tích khoảng 1,08×10^21 mét khối, nhưng trọng lượng chỉ có 5,97×10^21 tấn. Nếu như Trái đất là ‘đặc ruột’ thì trọng lượng này sẽ vượt xa hơn rất nhiều.

Vào cuối thế kỷ 17, nhà thiên văn học người Anh Edmund Halley đề xuất rằng, Trái đất được cấu tạo từ 4 vòng tròn đồng tâm, đồng thời ám chỉ rằng bên trong Trái đất có sinh mệnh đang sinh sống và được chiếu sáng bởi bầu khí quyển phát sáng”. Ông cho rằng cực quang hay ánh sáng Bắc Cực là do chất khí thoát ra thông qua lớp vỏ Trái đất ở địa cực gây ra.

Nhà vật lý người Nga Fedor Nivolin là một trong những nhà khoa học hàng đầu đã kiên định với “thuyết Trái đất rỗng”, ông nổi tiếng trong giới khoa học toàn cầu nhờ một đề xuất lý luận “Vật lý học mới”. Nivolin cho rằng khí được sinh ra từ dung nham Trái đất đã khuếch tán ra bên ngoài địa cầu, sau một thời gian dài giãn nở và khuếch tán, tâm Trái đất thực sự đã trở thành một cái “vỏ rỗng khổng lồ”. Ông Nivolin cho rằng, lối thoát chủ yếu cho sự khuếch tán chất khí quy mô lớn này là ở hai cực Nam Bắc, hiện nay những “hang động khổng lồ” ở nơi đó vẫn có thể được nhìn thấy rất rõ ràng, chúng chính là những bằng chứng địa chất rất thuyết phục. Mặc dù các nhà khoa học có danh tiếng chưa bao giờ tán đồng với quan điểm về “thuyết Trái đất rỗng”, nhưng thông qua các bức ảnh vệ tinh Trái đất được tiết lộ (hình 2) và những bằng chứng khác cho thấy, trên mặt băng của vùng Bắc Cực có tồn tại một hang động khổng lồ được nhìn thấy rất rõ ràng!

Các nhà khoa học bảo vệ quan điểm Trái đất rỗng cho rằng, nguyên nhân tạo thành hiện tượng này là do tác dụng của lực ly tâm bên trong Trái đất. Trái đất thời kỳ đầu là thể hỗn hợp giữa lửa và dung nham, trong quá trình Trái đất xoay chuyển, những vật chất nặng sẽ được ném ra lớp ngoài, khiến cho vỏ Trái đất toàn là nham thạch. Mà hai cực hầu như không chịu ảnh hưởng của lực ly tâm, vì vậy nó có thể hình thành khoảng trống mà không hình thành lớp vỏ. Lực ly tâm ảnh hưởng lớn nhất lên vùng xích đạo, nên các địa tầng ở đó bị giãn nở rồi hình thành Trái đất hình bầu dục như ngày nay. Vì vật chất nóng chảy thành bùn nhão tích tụ lại ở tâm Trái đất, nên lực ly tâm nơi đó hầu như không khởi tác dụng, thế là nó trở thành một hành tinh khác—chính là Mặt trời ở trung tâm Trái đất. “Mặt trời” này tuy rất nhỏ nhưng lại có thể phát ra đủ ánh sáng và nhiệt độ để nuôi dưỡng động thực vật, bên trong Trái đất có khí hậu dễ chịu, có các loài động thực vật độc đáo và nền văn minh đặc thù, v.v… Mặc dù nghe có vẻ khó tin, nhưng không ai có thể tuyệt đối phủ nhận nó.

Thiên đường phương Bắc

Trong thần thoại Hy Lạp, thời viễn cổ có một dân tộc sinh sống ở nơi có ánh sáng khắp nơi và ấm áp ở vùng Bắc cực, vùng đất đó có tên là “Thiên đường phương Bắc” (Hyperborea), còn được gọi là Vườn cực lạc. Với việc phát hiện ra những di tích về hoạt động của con người và động vật thời viễn cổ vùng Bắc Cực, con người bắt đầu tin vào sự tồn tại thực sự của “Thiên đường phương Bắc”. Vào cuối thế kỷ 19, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Boston là William Fairfield Warren (1833-1929) đã xuất bản một cuốn sách tên là “Thiên đường tìm thấy ở Bắc Cực”. Cuốn sách này hiện nay có tổng cộng 11 phiên bản. Ông Warren phân tích một lượng lớn những câu chuyện truyền miệng và truyền thuyết liên quan đến Thiên đường này. Theo ông, tất cả những thông tin đều đến từ một nơi tốt đẹp thời cổ đại ở Bắc Cực. Gần đây, các báo cáo có uy tín cho rằng có rất nhiều UFO đến từ một hang động khổng lồ dưới Cực Bắc của Trái đất.

Gerardus Mercator là một người vẽ bản đồ ở thế kỷ 16. Ông tinh thông thiên văn, toán học và địa lý, sinh ngày 5 tháng 3 năm 1512 tại thành phố Flanders, Hà Lan (hiện nay gần Antwerpen, Bỉ). Từ năm 1530 đến 1532, ông theo học tại Đại học Louvain. Năm 1552 ông di cư đến Duisburg, Đức. Mercator đã vẽ một tấm bản đồ vòng Bắc Cực vào năm 1595 (hình 3). Theo tấm bản đồ này, có một lục địa rộng lớn nằm ở Bắc Cực. Lục địa này được chia thành bốn vùng đất bởi những con sông sâu, có những ngọn núi băng nằm trong vùng biển hình tròn bao quanh lục địa. Làm thế nào lục địa này có thể xuất hiện trên bản đồ? Vào thời trung cổ, người ta không có thông tin nào của vùng Bắc Cực, tuy vậy hải đồ của Mercator dường như được vẽ dựa theo hải đồ ở thời cổ đại. Trong đó có một tấm hải đồ từng được nhắc đến trong một bức thư của ông vào năm 1580. Hải đồ này cho thấy có một lục địa nằm ở trung tâm Bắc Băng Dương. Trên bản đồ có vẽ một số tảng băng trôi.

Từ trước tới nay, người ta luôn cho rằng Mercator đã vẽ sai, bởi vì trên mặt đất không tìm thấy lục địa này. Nhưng tôi tin rằng, lục địa trong bản đồ vẽ vòng Bắc Cực của Mercator (Hình 3), thực tế là nó nằm ở phía sau bề mặt Trái đất, cũng chính là phần bên trong Trái đất. Bức hình có vùng biển hình tròn bao quanh núi (băng) chính là vùng biển nơi Bắc Cực há miệng ra (tham khảo Hình 2, ảnh vệ tinh Apollo). Từ nơi này có thể tiến nhập vào thế giới bên trong lòng đất. Trên thực tế, từ lâu đã có người làm điều này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/79805

The post Loạt bài Mexico 2012 (13): Nền văn minh ẩn sâu trong lòng đất (Phần 1.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (12): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.2)https://chanhkien.org/2023/12/loat-bai-mexico-2012-12-su-bien-mat-cua-luc-dia-phan-32.htmlFri, 15 Dec 2023 22:25:07 +0000https://chanhkien.org/?p=32086Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Bản đồ cổ đáng kinh ngạc của Nam Cực Nền văn minh Lưỡng Hà có thực sự đã từng tồn tại trên lục địa Nam Cực? Rốt cuộc Nam Cực đã bị đóng băng bao nhiêu năm? Có bao nhiêu bí mật ẩn giấu dưới lớp băng dày đó? Kể […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (12): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Bản đồ cổ đáng kinh ngạc của Nam Cực

Nền văn minh Lưỡng Hà có thực sự đã từng tồn tại trên lục địa Nam Cực? Rốt cuộc Nam Cực đã bị đóng băng bao nhiêu năm? Có bao nhiêu bí mật ẩn giấu dưới lớp băng dày đó? Kể từ Thế chiến thứ hai, đã có nhiều ý kiến cho rằng lục địa Nam Cực có thể đã từng tồn tại một nền văn minh tiền sử, trong đó có đưa ra một bản đồ Nam Cực cổ đáng kinh ngạc càng làm tăng sự hiếu kỳ của giới khoa học về Nam Cực.

Theo nhận thức phổ biến của người hiện đại, từ năm 1772 đến 1775, thuyền trưởng Cook người Anh lần đầu tiên đến Quần đảo Nam Shetland gần Nam Cực. Từ năm 1820 đến năm 1821, Palmer người Mỹ, Bellingshausen và Lazarev người Nga, và Bransfield người Anh đã lần lượt khám phá ra lục địa Nam Cực. Tuy nhiên, vào năm 1929, khi Halil Edhem, giám đốc Bảo tàng Quốc gia ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ khi phân loại các cuốn sách của thư viện hoàng gia Byzantine trong cung điện cũ Topkapi của Sudan, đã vô tình tìm thấy một tấm bản đồ do tướng Peary vẽ nằm trên một giá sách phủ đầy bụi. Bản đồ được vẽ vào năm 1513, sớm hơn khoảng 200-300 năm so với thời điểm lục địa Nam Cực được phát hiện. Sau khi tấm bản đồ này được công bố, lập tức gây chấn động giới khoa học.

Bản đồ này không chỉ mô tả chính xác hình dáng của hai bờ Đại Tây Dương, mà đến cả vị trí địa lý của Bắc và Nam Mỹ cũng chuẩn xác. Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là bản đồ này thậm chí còn đánh dấu eo đất đã biến mất cách đây 10.000 năm giữa châu Mỹ và Nam Cực. Năm 1949, một đội khảo sát phối hợp giữa Anh và Thụy Điển đã khoan xuyên qua lớp băng ở Nam Cực để tiến hành thăm dò địa chấn và kết luận rằng: Địa hình bề mặt được vẽ ở phần dưới bản đồ của Peary (bờ biển Nam Cực) hầu như giống hệt với dữ liệu thu được từ cuộc khảo sát địa chấn lần này. Năm 1953, Cục Thủy văn Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ này, các chuyên gia đều cùng cho rằng, tướng Peary đã sử dụng phương pháp in rập để sao lại tấm bản đồ này, nhưng dù là vậy thì sao chép dữ liệu từ bản đồ cũ sang mô hình địa cầu thì vẫn phải chỉnh sửa một số lỗi trong bản đồ hiện đại.

Bản đồ của Peary chắc chắn là bản đồ nổi tiếng nhất, nhưng không phải là duy nhất. Cuối năm 1959, Hapgood phát hiện ra một tấm bản đồ do Olonchus Fornaius vẽ trong Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, đánh dấu thời gian là năm 1531 sau công nguyên (xem hình 2). Ở bên trên đánh dấu kích thước và hình dạng của châu Nam Cực về cơ bản là giống với bản đồ mà người hiện nay vẽ. Tấm bản đồ này cho thấy, phần phía tây của lục địa Nam Cực được bao phủ bởi băng tuyết, trong khi phần phía đông vẫn là đất liền. Năm 1581, nhà vẽ bản đồ Hoàng gia Tây Ban Nha Jernimo de Chaves đã đưa một bản đồ thế giới vẽ Tây bán cầu vào tác phẩm của mình, trong đó thể hiện một phần đường viền của Nam Cực; Bản đồ thế giới do Giacomo Gastaldi vẽ năm 1546 thể hiện phần lớn đường bờ biển của Nam Cực; Bản đồ thế giới Nam bán cầu do Antonio Florian vẽ năm 1555 và bản đồ thế giới Nam bán cầu do Cornelis de Jode vẽ năm 1593, đều vẽ hình dáng của châu Nam Cực một cách hoàn chỉnh. Các nhà sử học không thể giải thích tại sao trên những tấm bản đồ của thế kỷ 16 lại xuất hiện châu Nam Cực, nơi mà tận đến thế kỷ 19 mới được phát hiện.

Một số bản đồ Nam Cực bí ẩn được vẽ vào thế kỷ 16. Chúng sớm hơn 200-300 năm so với thời điểm khám phá lục địa Nam Cực mà chúng ta công nhận hiện nay.

Các nhà khoa học cũng chú ý đến một tấm bản đồ Nam Cực khác được vẽ vào năm 1737 bởi Philippe Boucher, một thành viên chính thức của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Trên bản đồ của Pháp vào thế kỷ 18 này, Nam Cực đã không còn bị băng tuyết đóng băng, và địa hình dưới lớp băng của toàn bộ lục địa được mô tả khá chi tiết, đây là điều (địa hình) mà đến năm 1958 người ta mới hiểu.

Có người nói rằng tướng Peary cũng viết bên lề tấm bản đồ của mình: “Không ai trong thế kỷ này có bản đồ giống của tôi”. Điều này cho thấy, rất có thể trong quá trình vẽ bản đồ ông đã tham khảo nhiều bản đồ cổ quý giá từ nhiều thế kỷ trước. Phải chăng bản đồ của Peary và những bản đồ kỳ lạ khác chỉ là một tấm bản đồ thế giới cổ đại? Bản đồ gốc của những bản đồ này có thể được vẽ bởi một số người vẽ bản đồ thời cổ đại nào đó mà hiện nay chúng ta không biết, họ đều có trong tay những thiết bị vô cùng tinh vi, và bản thân họ cũng được trang bị kiến thức rất uyên thâm.

Giả thuyết về sự biến đổi trục Trái Đất và địa cực có thực sự tồn tại?

Sự biến đổi của trục Trái Đất và địa cực là giả thuyết dường như khó tin. Góc nghiêng của trục quay của Trái đất hiện đang là 23,5 độ, vị trí này không phải là cố định bất biến. Nếu sự phân bố vật chất trên bề mặt Trái đất phát sinh biến đổi lớn thì sẽ gây ra những thay đổi về góc của trục Trái đất. Các nhà khoa học của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia của Mỹ (NASA) cho rằng, trận động đất mạnh 8,8 độ richter ở Chile năm 2010 có thể đã làm nghiêng trục Trái đất, khiến trục quay của Trái đất dịch chuyển và rút ngắn thời gian một ngày của con người đi 1,26 micro giây. Landrell thuộc Phòng thí nghiệm động cơ phản lực của NASA cho biết: “Trái đất giống như một con quay đang xoay tròn. Nếu bạn tăng thêm một chút sức nặng vào một bên nào đó, góc của trục quay sẽ thay đổi đi một chút”.

Vì nhu cầu của con người không ngừng gia tăng nhanh chóng, lượng khí thải nhà kính gây ra làm đẩy nhanh hiện tượng nóng lên toàn cầu, băng ở Bắc Cực tan chảy khiến Trái đất dần mất đi sự cân bằng vốn có, các sông băng tiếp tục tan, khiến trọng lượng của Bắc Cực giảm, điều này sẽ dẫn đến trọng tâm của Trái đất bị dịch chuyển, đường xích đạo của Trái đất bắt đầu trượt xuống dưới, làm gia tăng độ nghiêng của Trái đất. Người ta phát hiện tình trạng này đã bắt đầu từ lâu. Hậu quả khi trục Trái đất dịch chuyển mang lại rất nghiêm trọng: Sự phân bố các khu vực nóng lạnh thay đổi nhanh chóng, đến mùa đông những ai không có sự chuẩn bị sẽ bị chết cóng hàng loạt. Sự phân bố thực vật hoàn toàn thay đổi, dẫn đến một nhóm người bị chết đói. Nước biển dâng lên khiến vùng duyên hải bị ngập, dân tị nạn nhiều vô số kể. Trong quá trình trục Trái đất dịch chuyển, các lực trường khác nhau của mặt đất và bầu khí quyển cũng thay đổi mạnh mẽ, do đó động đất sẽ diễn ra liên tục, sấm sét sẽ đánh liên hồi và bão tuyết thổi không ngừng. Ngoài ra, do từ trường Trái đất chịu sự kìm hãm rất lớn của từ trường của Mặt trời, nên khi cực từ của Mặt trời đảo ngược, các cực từ của Trái đất cũng có thể thay đổi theo, làm cho từ trường bắc nam của Trái đất hoán đổi cho nhau. Các sinh vật không thể thích nghi với sự biến đổi khí hậu lớn đột ngột như vậy nên sẽ chết hàng loạt.

Einstein và nhiều nhà khoa học tin chắc rằng, Nam Cực ngập tràn băng tuyết không có chút sự sống này, trước kia có thể đã từng là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại. Einstein tin rằng, vùng Bắc Cực ban đầu là nằm gần bờ biển phía bắc của Canada ngày nay và vị trí của Nam Cực trước đây nằm ở vùng ôn đới. Khi đó, lục địa Nam Cực với nhiệt độ và khí hậu thích hợp có lẽ đã từng thai nghén một nền văn minh cổ đại phát triển ở trình độ cao. Tuy nhiên, lớp vỏ Trái đất đã xảy ra một sự dịch chuyển lớn ngược chiều kim đồng hồ, dẫn đến điểm cực Bắc xoay đến vị trí hiện tại, còn điểm cực Nam xoay đến đến nơi phủ đầy băng, khí hậu đột nhiên trở nên cực lạnh, lục địa bị bao phủ bởi băng và tuyết, và nền văn minh Nam Cực cũng theo đó mà biến mất.

Ví dụ về sự tuyệt chủng của “voi ma mút” có thể là bằng chứng mạnh mẽ về sự thay đổi địa cực cuối cùng trên Trái đất.

Voi ma mút bị làm “đông lạnh nhanh”

Voi ma mút là loài voi thời cổ đại có bộ lông dài, có thể cao tới 5 mét và nặng khoảng 10 tấn. Nó sống ở phía bắc châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Hóa thạch voi ma mút cũng từng được tìm thấy ở vùng Đông Bắc, Trường Đảo tỉnh Sơn Đông, Nội Mông, Ninh Hạ và các khu vực khác ở Trung Quốc.

Voi ma mút (Ảnh: Internet)

Vào năm 1902, xác một con voi ma mút đã được phát hiện ở vùng Siberia, Berezivka thuộc nước Nga, vì khu vực này là vùng lãnh nguyên nên chú voi ma mút này được bảo quản tương đối nguyên vẹn và thậm chí trong miệng nó còn ngậm một chút hoa điệp vẫn chưa kịp nuốt xuống. Vào mùa xuân năm 2005, một thợ săn người Nga khi đang đi săn trên cánh đồng tuyết rộng lớn ở Siberia gần Vòng Cực, đã vô ý vấp phải một vật thể bị nhô lên. Khi dọn sạch băng tuyết bao phủ trên vật thể đó, thì thứ anh nhìn thấy là một chú voi ma mút nguyên vẹn bị đông cứng! Toàn bộ cơ thể của chú voi này đang ngồi trên chân sau chắc khỏe, với một chân trước giơ cao lên. Điều làm người ta ngạc nhiên là trên lưỡi của chú voi ma mút này vẫn còn lưu lại một vài hoa mao lương đang chờ được nuốt xuống và đôi mắt của nó đến nay vẫn còn trong suốt. Các nhà khoa học tin rằng cách đây hàng chục nghìn năm, chú voi này khi đang thong thả ăn cỏ thì nhiệt độ đột ngột giảm mạnh, cỏ trong miệng chưa kịp nuốt vào thì nó đã bị đóng băng vĩnh viễn trong lịch sử.

Một số loại thịt voi ma mút được đào lên từ vùng lãnh nguyên vẫn trông rất giống với thịt bò tươi mặc dù bị đông lạnh hơn 10.000 năm. Những người từng nếm thử thịt voi ma mút đều nói rằng nó vẫn còn tươi ngon, Viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ còn dùng thịt voi ma mút để chiêu đãi các vị khách quý. Tuy nhiên, các chuyên gia trong ngành thịt đông lạnh cho rằng, để thịt đông lạnh vẫn tươi ngon thì phải sử dụng phương pháp làm đông nhanh ở nhiệt độ cực thấp, khiến cho miếng thịt trong thời gian ngắn bị đông lại, sau đó mới bảo quản ở nhiệt độ thấp thông thường. Nhưng nhiệt độ nơi đó vào mùa đông chỉ tầm khoảng – 20, -30 độ C, nhiệt độ này tuy đủ để làm lạnh xác voi ma mút, nhưng không thể làm nó đông lạnh nhanh trong thời gian ngắn. Khi thịt được làm đông từ từ ở nhiệt độ thấp thông thường, các tế bào thịt sẽ xuất hiện sự kết tinh khiến cho tế bào bị nứt và lượng nước trong thịt bị mất, cuối cùng làm cho thịt không còn ngon. Họ lấy ví dụ về thịt bò đông lạnh, cho biết nếu muốn thịt bò được giữ được độ tươi ngon, sau khi giết mổ, nửa con bò cần được làm đông lạnh nhanh ở nhiệt độ âm 40 độ C trong 30 phút. Nếu muốn làm đông lạnh nhanh một con voi ma mút đang còn sống với thân hình to lớn và bộ lông dài, nhiệt độ sẽ phải giảm xuống ít nhất âm 65-75 độ C ngay lập tức. Nhưng những con voi ma mút này trước khi chết vẫn đang ăn cỏ hoặc hoa điệp, có thể cho thấy nhiệt độ lúc đó không quá thấp. Nhưng đột nhiên, những con voi ma mút này nhanh chóng bị đóng băng, đồng thời ở Siberia và Alaska, nhiều con voi ma mút cũng đều bị đóng băng đột ngột như thế. Điều này có thể giải thích rằng, chúng đột nhiên gặp phải nhiệt độ lạnh khủng khiếp khó có thể tưởng tượng.

Vậy cái lạnh khắc nghiệt đáng sợ này xuất hiện như thế nào? Khí hậu trên Trái đất mặc dù có thể thay đổi bất cứ lúc nào, nhưng thông thường sự thay đổi này thường diễn ra một cách từ từ, cho dù là kỷ Băng hà cũng vẫn như vậy. Nhưng sự thay đổi nhiệt độ đột ngột và nhanh chóng phản ánh trên thân thể của loài voi ma mút này làm người ta cảm thấy kinh ngạc. Ngoài việc thay đổi trục Trái đất và địa cực diễn ra mạnh mẽ, thật khó có thể tưởng tượng được sự kiện nào có thể khiến nhiệt độ ở khu vực đó giảm xuống dưới âm 65 độ C trong nháy mắt. Một số nhà khoa học cho rằng, cái lạnh khắc nghiệt như vậy là do sự biến động của các cực từ Trái đất. Có lẽ vì lý do nào đó đã làm cho cực bắc từ đột ngột dịch chuyển về phía khu vực Siberia. Vì thế nơi đó đã xuất hiện luồng không khí có nhiệt độ thấp như Bắc Cực, khiến voi ma mút bị chết cóng. Vậy đại thảm họa hủy diệt như vậy liệu có xảy ra lần nữa không?

Người Maya từng nói: “Trái đất không thuộc sở hữu của con người, mà con người là thuộc về Trái đất”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/79266

The post Loạt bài Mexico 2012 (12): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (11): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.1)https://chanhkien.org/2023/12/loat-bai-mexico-2012-11-su-bien-mat-cua-luc-dia-phan-31.htmlThu, 30 Nov 2023 22:33:24 +0000https://chanhkien.org/?p=31953Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Có người nói, người Hán là dân tộc sống chiểu theo truyền thống và lịch sử, còn người Maya là dân tộc sống chiểu theo dự ngôn và tương lai. Tuy nhiên, trải qua hơn 60 năm bị tẩy não bởi triết học (1) phản truyền thống, đi ngược với […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (11): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Có người nói, người Hán là dân tộc sống chiểu theo truyền thống và lịch sử, còn người Maya là dân tộc sống chiểu theo dự ngôn và tương lai. Tuy nhiên, trải qua hơn 60 năm bị tẩy não bởi triết học (1) phản truyền thống, đi ngược với âm dương, đấu Trời đấu đất của “Mác-Lê-Mao-Cộng”, tôi thấy rằng đại đa số người dân Trung Quốc ngày nay không còn sống vì truyền thống nữa, vì vậy sẽ không thể hiểu được sự siêu nhiên của người Maya.

Người Maya tin tưởng sâu sắc vào những ghi chép dự ngôn của họ, đồng thời an nhiên chấp nhận tương lai đã được định sẵn. Năm 1696, khi những người chinh phục cử các linh mục đến, thủ lĩnh của bộ tộc Maya lại nói: “Theo dự ngôn, cái ngày chúng tôi rời xa Thần vẫn chưa đến. Xin hãy quay lại sau bốn tháng nữa! Đến lúc đó, chúng tôi sẽ thực hiện dự ngôn”.

“Bốn nền văn minh tiền sử lớn” trong dự ngôn của người Maya

Theo quan điểm của người Maya, văn minh của nhân loại giống như một cái cây trong hệ Mặt Trời. Khi hệ Mặt Trời quay đến những vị trí đặc định khác nhau, nền văn minh nhân loại nhất định sẽ xuất hiện thăng trầm, thịnh suy, sự kết thúc của cái này chính là sự khởi đầu của cái khác.

Có người cho rằng, đoạn văn sau đây đã khái quát khá hình tượng quan điểm của người Maya về sự biến đổi thế giới: Trái Đất quay quanh Mặt Trời một vòng là một năm, mỗi năm đều có sự đâm chồi, nở hoa và kết trái. Vào mùa xuân, hoa nói muốn tu thành chính quả, nhưng lá không hiểu. Thế là mùa hè, nó bắt đầu kết trái. Đến mùa thu, quả bắt đầu chín, chiếc lá cảm thấy tâm ý nguội lạnh, muốn đi theo quả, nhưng chỉ có quả mới có thể sống sót được, đợi cho đến mùa xuân năm sau…….

Nền văn minh Maya hiện nay không còn được nhìn thấy nữa, nhưng những lời tiên tri của người Maya vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay và 99% những lời tiên tri của họ đã trở thành sự thật. Căn cứ theo nội dung trong dự ngôn của người Maya được cung cấp trong “Biên niên sử Tenochtitlan”, thời đại chúng ta đang sống hiện nay thuộc về kỷ nguyên Mặt Trời thứ năm trong lời dự ngôn (của người Maya), và bốn kỷ nguyên Mặt Trời trước đó đã qua đi. Khi mỗi một kỷ nguyên Mặt Trời qua đi, trên Trái Đất đều phát sinh những biến đổi to lớn kinh tâm động phách. Một số nhà nghiên cứu văn hóa Maya cho rằng: Kỷ nguyên Mặt Trời thứ nhất là Matlactil Art, nền văn minh tương ứng của nó là nền văn minh Gendaya hay nền văn minh siêu năng lực. Kỷ nguyên Mặt Trời thứ hai là Ehecatl, nền văn minh tương ứng của nó là nền văn minh Lưỡng Hà hay còn gọi là nền văn minh ẩm thực. Kỷ nguyên Mặt Trời thứ ba là Tleyquiyahuillo (nền văn minh Lemuria), còn gọi là nền văn minh năng lượng sinh vật. Kỷ nguyên Mặt Trời thứ tư là Tzontlilic (nền văn minh Atlantis), còn được gọi là nền văn minh ánh sáng.

Ở hai bài trước tôi đã giới thiệu về sự hủy diệt của nền văn minh Lemuria (Mu) và Atlantis. Rõ ràng theo cách nói của người Maya, họ không phải là nền văn minh lâu đời nhất trên Trái Đất lần này, mà có ít nhất hai nền văn minh lớn khác đã xuất hiện trước đó. Dùng phương pháp khoa học hiện đại, rất khó để xác minh hai nền văn minh cổ đại này, chỉ có thể phát hiện được một số manh mối. Nền văn minh trước đó của họ có thể đã trải qua những niên đại rất xa xưa, đến nỗi trong những ghi chép của người Maya cũng không tìm thấy.

Nền văn minh Gendaya

Nền văn minh của người Maya trong kỷ nguyên Mặt Trời thứ nhất được gọi là nền văn minh Gendaya, hay còn gọi là nền văn minh siêu năng lực. Đàn ông thời đó có con mắt thứ ba, nằm ở vị trí giữa trán, chính là ở vị trí phía trên, cách lông mày khoảng 2 centimet, có một con mắt tròn màu xanh lục như ngọc phỉ thúy, cũng có các màu khác như vàng, xanh lục, tím, đen, xám, nâu,… Màu sắc của chúng có khác nhau tùy theo mỗi dân tộc. Các dân tộc cũng có trình độ phát triển siêu năng lực khác nhau, có dân tộc có thể dự đoán, có dân tộc có tính sát thương,v.v. Con mắt thứ ba này lúc thông thường đều đóng lại, chỉ khi phát huy siêu năng lực nó mới mở ra. Nữ giới không có con mắt thứ ba. Vì thế phụ nữ rất sợ con mắt thứ ba của người đàn ông có siêu năng lực và dần trở thành người phụ thuộc. Một câu Thần thoại được lưu truyền vào cuối nền văn minh Gendaya đã chỉ ra rằng, “Thần tạo ra người nam và người nữ là bình đẳng. Bằng chứng là đàn ông được ban cho con mắt thứ ba dùng để bảo vệ bản thân và gia tộc. Phụ nữ được ban cho tử cung để gia tộc sinh sôi nảy nở”. Vào thời điểm đó, người ta tin rằng tử cung của phụ nữ cũng là một cơ quan có siêu năng lực. Bởi vì phụ nữ thông qua cơ quan siêu năng lực này (tử cung) để câu thông với các sinh linh trên thiên thượng để nhập vào tử cung, làm linh hồn của đứa bé. Vì vậy, người phụ nữ sắp làm mẹ sẽ trò chuyện nhiều với các sinh linh ở trên thiên thượng sẽ trở thành đứa bé trong bụng mình. Đợi cho đến khi hai người hợp ý nhau, thì linh hồn của đứa bé mới tiến nhập vào trong thân thể.

Vào thời điểm đó, lục địa Châu Phi và lục địa Nam Mỹ ngày nay là cùng một khối lục địa. Nền văn minh Gendaya tồn tại trên lục địa này, về sau lục địa này bị tách thành hai và bị hủy diệt. Đầu tiên, trung tâm của nền văn minh Gendaya xuất hiện vết rạn nứt từ Bắc tới Nam, hình thành một đoạn đứt gãy lớn. Nước biển bắt đầu thấm vào đoạn bị đứt gãy, tiếp đó là một trận động đất mạnh khoảng 10 độ richter ập tới. Và rồi, đoạn đứt gãy từ Bắc tới Nam mở rộng ra khoảng hàng nghìn km, cho đến khi Gendaya bị tách rời thành hai lục địa. Hàng chục nghìn năm sau, nó đã trở thành lục địa châu Phi và Nam Mỹ như ngày nay.

Truyền thuyết kể rằng người Gendaya đã biến mất cùng với lục địa Gendaya. Sau khi trở về thế giới bên kia, họ đã tạo ra thế giới tiên nhân, thế giới thiên cẩu (Tengu), thế giới ma thuật của phương Tây, v.v. Khi đó cũng có một số người may mắn sống sót và trở thành người khai sáng của nền văn minh tiếp theo.

Nền văn minh Lưỡng Hà

Nền văn minh trong kỷ nguyên Mặt Trời thứ hai của người Maya được gọi là nền văn minh Lưỡng Hà hay còn gọi là “nền văn minh ẩm thực”. Nền văn minh này phát triển trên lục địa Nam Cực và bị phá hủy bởi sự thay đổi địa cực Trái Đất, cuối cùng “thế giới này bị Phong Xà thổi bay tứ tán khắp nơi”.

Nghe nói vào cuối thời kỳ văn minh Gendaya, ở phía Đông Nam của nền văn minh này có một thành phố tên là Emina. Bộ tộc Emina sống ở trung tâm thành phố này có năng lực tiên đoán rất giỏi, trong đó có một số người đã cảm nhận được nguy hiểm đang đến gần, nên đã vượt biển chạy trốn đến “lục địa Nam Cực”. “Lục địa Nam Cực” này không phải ở vị trí Nam Cực ngày nay. Bởi vì trục quay của Trái Đất vào thời điểm đó khác hẳn so với hiện tại, nên Lục địa Mittram (tên gọi lục địa Nam Cực khi đó) không lạnh như Nam Cực ngày nay, mà là nơi có khí hậu ấm áp, các loài động thực vật và ngũ cốc phát triển rất mạnh mẽ. Mất đi những công cụ văn minh quan trọng và những con người ưu tú, họ đã trở thành một quốc gia canh tác nông nghiệp đơn thuần. Trên lục địa Nam Cực đã sinh sôi rất nhiều nền văn minh, trong đó nổi tiếng nhất là nền văn minh Mittram. Dần dần sau đó mọi người đều quên hết những chuyện trong quá khứ, con mắt thứ ba của người đàn ông bắt đầu biến mất, siêu năng lực cũng dần biến mất theo.

Theo ghi chép ở Mittram sinh hoạt ăn uống là phát triển nhất. Họ đặc biệt yêu thích đồ ăn thức uống và đã phát triển nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này. Trong thời đại này, tất cả các loại sinh hoạt ăn uống đều được trải qua nghiên cứu kỹ lưỡng. Từ việc nên ăn loại thực phẩm nào, kết hợp thế nào để có lợi nhất cho con người, cho đến mối quan hệ giữa sinh hoạt ăn uống và đời sống tinh thần của con người, mọi thứ đều được nghiên cứu kỹ lưỡng. Ăn loại thực vật nào sẽ khiến tâm tính trở lên ôn hòa? Nên ăn loại cá nào để cơ bắp có sức mạnh ngay tức thì? Một ngày uống sữa mấy lần, uống bao nhiêu và uống loại sữa nào có thể giúp con người sống thọ hơn? Loại đồ uống nào giúp kích hoạt tế bào não? Người ta cho rằng nền văn minh Mittram đã để lại một lượng nghiên cứu khổng lồ về phương diện sinh hoạt ăn uống và tính cách con người. Có nhiều môn học về sinh hoạt ăn uống, cũng có các Tiến sĩ trường thọ, Tiến sĩ sức bền, Tiến sĩ tăng cường trí nhớ, v.v. Điều khác biệt với các kỳ thi tuyển sinh thời đại hiện nay là, những người có mục tiêu làm tiến sĩ này đều phải có quyết tâm và học tập chăm chỉ từ khi còn bé mới có thể đạt được.

Nói ngoài lề một chút, một số người trong xã hội hiện đại vô cùng say mê “văn hóa ẩm thực”. Cũng có rất nhiều người là tiến sĩ và giáo sư chuyên ngành khoa học kỹ thuật nghiên cứu về thực phẩm, vv… Một số người bạn của tôi là tiến sĩ chuyên ngành thực phẩm ở trường đại học danh tiếng của Mỹ, họ đã phải mất vài năm làm luận văn tốt nghiệp chuyên nghiên cứu cách rửa rau, v.v… Tôi đoán có thể kiếp trước của họ đã từng sống ở Mittram, khi đó họ đã kết duyên cho đời này.

Họ quá chú tâm và chấp trước vào sinh hoạt ăn uống, đến mức quên mất sứ mệnh “tu hành tâm linh” ban đầu của loài người. Do đó, nền văn minh Mittram cuối cùng bị Thần bỏ rơi. Sự diệt vong của nền văn minh Mittram là do sự thay đổi đột ngột của trục Trái Đất và địa cực, lục địa Mittram đã xoay chuyển đến vị trí Nam Cực ngày nay. Vào một buổi hoàng hôn ở thời viễn cổ, người ta phát hiện trên bầu trời có ánh sáng dị thường, tất cả các ngôi sao trên bầu trời đều rơi xuống phía dưới đường chân trời. Ban đầu mọi người nghĩ rằng đó chỉ là sao băng chứ không phải các ngôi sao. Trái Đất giống như một quả cầu lăn trong nước, chỉ cần lay động nhẹ là thay đổi vị trí. Không lâu sau, tuyết bắt đầu rơi ở vùng Mittram ấm áp, cuồng phong và bão tuyết khiến mặt đất bắt đầu đóng băng. Mọi người không kịp trở tay, sau đó, từng người một đã chết. Nhưng cũng có một số người đã thoát được bằng thuyền. Đó là một phần của nền văn minh Mittram đã tiếp diễn sang lục địa kế tiếp (Lemuria).

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/79266

Ghi chú:

(1) Mác-Lê-Mao-Cộng: Là Các Mác, Lê-nin, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản (Trung Quốc)

The post Loạt bài Mexico 2012 (11): Sự biến mất của lục địa (Phần 3.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (10): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-2)https://chanhkien.org/2023/11/loat-bai-mexico-2012-10-su-bien-mat-cua-luc-dia-phan-2-2.htmlThu, 16 Nov 2023 22:20:03 +0000https://chanhkien.org/?p=31844Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Edgar Cayce nói về Atlantis Nếu như nói mô tả của vị thầy tế già Ai Cập chỉ dựa trên ghi chép lịch sử, thì một số nhà ngoại cảm trên thế giới cũng đã mang đến cho chúng ta những thông tin phong phú và sinh động hơn về […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (10): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Edgar Cayce nói về Atlantis

Nếu như nói mô tả của vị thầy tế già Ai Cập chỉ dựa trên ghi chép lịch sử, thì một số nhà ngoại cảm trên thế giới cũng đã mang đến cho chúng ta những thông tin phong phú và sinh động hơn về Atlantis, đó chính là “đích thân trải nghiệm”. Một trong số đó là Edgar Cayce nổi tiếng.

Ông Cayce được mệnh danh là “Nhà tiên tri ngủ gật”, những dự đoán của ông liên quan đến các cá nhân, đoàn thể, quốc gia, thay đổi địa lý, sự phát triển của thế giới và tương lai của nhân loại. Ông từng dự đoán chính xác hai cuộc chiến tranh thế giới, việc Ấn Độ giành độc lập, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 và dự đoán sự thành lập nhà nước Israel trước 15 năm. Ông dự đoán vấn đề chủng tộc sẽ tạo ra sự hỗn loạn ở Hoa Kỳ và hai tổng thống Hoa Kỳ sẽ qua đời trong nhiệm kỳ của họ (Roosevelt và Kennedy). Cayce qua đời vào năm 1945. Những điều mà ông dự đoán, có một số đã trở thành sự thật khi ông còn sống và một số sự việc đã xảy ra sau khi ông qua đời. Cayce được biết đến như một nhà tiên tri, nhưng trên thực tế trong số gần 15.000 lời giải thích mà ông đưa ra, chỉ có một phần nhỏ là những lời tiên đoán về tương lai. Giải thích của Cayce cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin về các nền văn minh cổ đại.

Cayce đặc biệt yêu thích Atlantis, lục địa bí ẩn bị chìm ở Đại Tây Dương trong truyền thuyết, sau khi giải thích cuộc đời của hơn 1.600 người, đã có hơn 700 người được đề cập đã từng sống ở Atlantis (Đại Tây châu) hoặc Lemuria (Lục địa Mu). Sau đó cuốn sách “Edgar Cayce on Atlantis” đã được xuất bản bởi quỹ Edgar Cayce lần đầu tiên vào năm 1988. Cuốn sách này đề cập đến lịch sử của Atlantis, được biên soạn từ hàng nghìn “lời giải thích về cuộc sống” do Cayce đưa ra trong khoảng thời gian từ 1924 đến 1944.

Cách giải thích của Cayce cho chúng ta biết, Atlantis bao phủ một khu vực rộng lớn. Vùng đất này là một lục địa rộng lớn “bắt đầu từ Vịnh Mexico/Biển Caribbean ở phía Tây đến Biển Địa Trung Hải ở phía Đông”. Ham muốn vật chất ngày càng gia tăng cùng việc lạm dụng công nghệ và tài nguyên thiên nhiên đã gây ra ba thảm họa lớn cho Atlantis. Thời kỳ huy hoàng của nó là từ năm 210.000 trước công nguyên đến năm 50.722 trước công nguyên, đây là năm mà lục địa này hứng chịu sự hủy diệt đầu tiên. Cayce cho rằng người Atlantis vốn là những “người hòa bình”, sự phát triển về thể chất và vật lý của họ rất nhanh, “họ nhận thức rằng họ chỉ là một phần của tổng thể, vì vậy, đối với những chất cần thiết cho cơ thể chỉ có thể lấy từ thiên nhiên”. Họ có thể du hành cả bằng tinh thần và cơ thể. Điều đáng ngạc nhiên là việc du hành không bị giới hạn trong không gian ba chiều của Trái Đất! Cayce cho biết, họ có thể “di chuyển thân thể của mình từ điểm này đến điểm khác trong vũ trụ”.

Cayce còn đề cập đến các tinh thạch của Atlantis – nguồn tài nguyên động lực của họ. Từ cách giải thích của Cayce, chúng ta có thể hiểu rằng người Atlantis trong lịch sử đã sử dụng tinh thạch ở nhiều phương diện khác nhau. Đầu tiên, Cayce cho biết các tinh thạch được dùng để điều chỉnh, cung cấp động lực của vũ trụ cho sinh mệnh. Sự điều chỉnh này để giúp kéo dài tuổi thọ của thân thể vật lý và giúp tư tưởng của họ liên kết với năng lượng nguyên thủy. Sau đó, giải thích nói rằng có tinh thạch TUAOI. Trong giải thích 2072-10, Cayce nói rằng hệ thống tinh thạch này được sử dụng để “dẫn dắt mọi hình thức giao thông và du lịch của người Atlantis. Vào thời kỳ này, việc đi lại trên không, đi lại trên mặt nước và dưới nước đều có phương thức điều hướng giống nhau. Khả năng này đến từ trung tâm năng lượng hay còn gọi là tinh thạch TUAOI, nó hoạt động như một chùm tia ánh sáng.”

Về sau, con người đã sử dụng công nghệ trong xây dựng này để làm vũ khí hủy diệt. Tinh thạch TUAOI — sau này được Cayce gọi là Firestone — trở thành nguồn năng lượng vũ khí. Tinh thạch phục hồi thanh xuân nay đã phát ra tia tử thần (Death Ray). Dần dần, uy lực của tinh thạch mất cân bằng, nó không chỉ giết chết kẻ thù, mà còn khuấy động môi trường trên hành tinh này và làm rung chuyển các mảnh lục địa, khiến các địa cực phát sinh chuyển động, thế là lục địa này xảy ra sự hủy diệt lần đầu. Cayce giải thích: “Kiểu bạo phát tự nhiên này xuất phát từ phần bên trong Trái Đất đang nguội dần, một phần của Atlantis đã chìm xuống đáy đại dương, là Biển Sargasso ngày nay”. Lần hủy diệt này đã chia lục địa Atlantis thành năm hòn đảo. Có 21 lời giải thích của Cayce chỉ ra rằng, nó đã có từ 50.000 năm trước.

Có 52 lời giải thích liên quan đến sự hủy diệt lục địa lần thứ hai diễn ra cách đây hơn 20.000 năm. Do vụ phun trào núi lửa, động đất và thay đổi địa cực, Atlantis chỉ còn lại ba hòn đảo: Poseidia, Aryan và Og. Những con sóng khổng lồ đã nhấn chìm những hòn đảo khác. Công nghệ tiên tiến vẫn được lưu lại sau sự tàn phá lục địa lần thứ hai. Cuộc chiến ở cấp độ vật lý và ý thức vẫn tiếp tục diễn ra, cuộc xung đột khuấy động khắp lục địa.

Thảm họa cuối cùng xảy ra vào khoảng năm 10.700 trước công nguyên, khi hòn đảo cuối cùng và lớn nhất của Atlantis là Poseidia đã chìm hoàn toàn xuống đáy Đại Tây Dương. Điều này gần như trùng khớp với thời điểm Plato đề cập đến sự biến mất cuối cùng của Atlantis.

Từ cách giải thích của Cayce, chúng ta biết được rằng trong suốt quá trình Atlantis bị hủy diệt, những người có tín ngưỡng vào Thần, tức là những người vẫn còn nhớ được ý nghĩa thực sự của cuộc đời mình, vẫn luôn bị đắm chìm trong thế giới vật chất và sự hưởng thụ của bản thân. Những kẻ tự tôn vinh mình luôn xảy ra xung đột với nhau. Nhiều người đã di cư sang các châu lục khác để tiếp tục học tập và truyền dạy tín ngưỡng của họ và đồng nhất với nguồn năng lượng ban đầu. Những người ở lại tiếp tục chiến đấu chống lại thế lực bóng tối cho đến khi tầng lớp thống trị Atlantis hoàn toàn bị kiểm soát bởi năng lượng phụ diện và dục vọng. Nhiều thầy tế lần lượt bị chìm vào bóng tối. Có ba thầy tế Atlan, Iltar và Hept-suppht nhận ra rằng thời đại Atlantis đã kết thúc. Họ thu thập và sắp xếp tất cả tài liệu rồi mang đi nhiều nơi. Iltar đi đến vùng Yucatan của Mexico, Atlan cất giữ các ghi chép tại ngôi đền Poseidia gần đảo Bimini, và Hept-suppht tới Ai Cập. Kim tự tháp Giza vĩ đại ở Ai Cập được xây dựng bởi những người di cư từ Atlantis trong khoảng thời gian 100 năm, từ năm 10.490 đến 10.390 trước công nguyên. Những người Atlantis di cư đã xây dựng “ngôi đền cất giữ tài liệu”, trong đó cất giữ lịch sử và những phát minh kỹ thuật của Atlantis, nằm trong một căn phòng kín làm bằng đá bên dưới một kim tự tháp nhỏ (sau này đã bị phá bỏ), trên con đường dẫn từ chân phải của tượng Nhân Sư đến đường hầm sông Nin. Căn phòng bí mật này được dự đoán sẽ được tìm thấy lại trong thời kỳ biến động Trái Đất sắp tới.

Cayce còn nói làn sóng khoa học kỹ thuật bắt đầu từ thế kỷ 20 là kiệt tác của một số lượng lớn linh hồn chuyển sinh từ các nền văn minh tiền sử. Ví dụ, Mitchell Hastings là một sinh viên tài năng của Đại học Harvard, đồng thời là người phát minh và đặt nền móng cho công nghệ đài FM, giải thích về cuộc đời của ông cho thấy, ông là người xây dựng và bảo vệ “hòn đá lửa” ở trung tâm năng lượng của lục địa Atlantis, ông có năng lực tiềm tàng đặc biệt cực kỳ cao. Và Mitchell đã công khai tuyên bố rằng Cayce đã giúp đỡ ông ta, đồng thời tận sức hỗ trợ Cayce.

Ingrid: Những ngày cuối cùng của Atlantis

Ingrid Bennett nhớ lại kiếp trước của mình là người Atlantis. Atlantis có một viên pha lê khổng lồ ở, được đặt trong một chiếc hộp tròn trên bệ màu đen trong mái vòm pha lê. Tác dụng của nó là cung cấp năng lượng cho thành phố. Ingrid trong kiếp trước là người học vấn uyên bác, được đề bạt làm “người bảo vệ pha lê”, hay còn gọi là nữ tế tư.

Bà nói: Toàn bộ sự sống ở Atlantis là sự tích hợp hài hòa vô hình của tất cả các bộ phận. Mỗi người là một phần trong đó, mọi người đều biết rằng sự đóng góp của họ là cần thiết cho hoạt động chung của nền văn minh. Atlantis có máy bay giống như đĩa bay. Chúng xoay tròn khi cất cánh và hạ cánh, điều này có liên quan đến các dòng khí do năng lượng từ trường phát ra. Phương tiện giao thông này thường được sử dụng cho những chuyến đi đường dài. Đối với những chuyến đi ngắn họ sử dụng xe ròng rọc có thể chứa được hai người. Nó có một động cơ giống như tàu cánh ngầm, nguyên lý hoạt động giống như máy bay, cũng sử dụng trường năng lượng từ trường. Những hàng hóa như thực phẩm, đồ gia dụng hoặc những đồ vật lớn cũng được vận chuyển theo cách tương tự trên những chiếc xe lớn gọi là “sub-bers” (xe phụ).

Ingrid thường dùng thần giao cách cảm để “lắng nghe lời khuyên của cá heo”. Bà có thể đi lại dựa vào ý niệm của mình. Ví dụ, nếu bà muốn đi đến cánh đồng cách đó vài dặm, bà nhắm mắt lại và tập trung sự chú ý vào nơi đó. Sẽ có một tiếng vo ve rất khẽ, khi mở mắt ra thì bà đã ở đó rồi. Bà rất thích ở cùng với kỳ lân, bà cũng giao tiếp với nó bằng thần giao cách cảm. Ở phía Đông Bắc của Atlantis có những cánh đồng hoa cỏ rộng lớn. Những cánh đồng này phát ra mùi thơm thoang thoảng, Ingrid thích ngồi ở đó thiền định.

Atlantis sử dụng tàu thông tin để truyền tin tức đi nhiều nơi. Nhiều thông tin được các nhà thông thái tiếp nhận bằng thần giao cách cảm. Họ có năng lực tiếp thu đặc biệt, tương tự như các trạm thu vệ tinh. Họ vô cùng chuẩn xác và công việc của họ chỉ là ngồi đó và tiếp nhận thông tin từ nơi khác truyền đến. Trong nền văn minh này không có các căn bệnh hiểm nghèo. Thọ mệnh thông thường có thể đạt tới 200 tuổi. Các phương pháp trị liệu được sử dụng kết hợp từ rất nhiều phương pháp trị liệu. Thạch anh, liệu pháp màu sắc, âm nhạc, hương thơm và thảo dược được sử dụng kết hợp để phát huy tối đa hiệu quả trị bệnh. Bệnh nhân sẽ được yêu cầu thiền định để năng lượng chữa bệnh đi vào cơ thể.

Việc giáo dục trẻ em ở Atlantis bắt đầu từ lúc ba tuổi. Khi cơ thể và đầu óc thư giãn, kiến ​​thức sẽ được chảy thẳng vào bộ phận ghi nhớ của đại não. Những nhà thông thái sẽ xem và đánh giá tiến độ, tiến hành chỉ dạy riêng cho các em, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng những tài năng đặc biệt của chúng. Điều này đảm bảo mỗi đứa trẻ đều có cơ hội bình đẳng phát huy hết toàn bộ tiềm năng của chúng. Những suy nghĩ tích cực hướng thượng và tần số rung động là trọng tâm trong thời gian học tập này. Nó giúp linh hồn đạt được tiềm lực cao nhất. Tần số rung động của cơ thể và đầu não càng cao thì tần số rung động của linh hồn càng cao. Ý thức bên trong của bạn càng tích cực thì nó càng phản ánh ý thức bên ngoài hoặc tồn tại ý thức của bạn. Khi hai người hòa hợp nhất trí với nhau cũng sẽ mang lại một thế giới tích cực hướng thượng. Nếu hai người không thể nhất trí, người ta sẽ bị trầm mê bởi sự tham lam và quyền lực.

Vào thời đại của Ingrid, thế giới Atlantis đã đi đến điểm cuối. Nhiều người Atlantis biết điểm này, nhưng hầu hết họ đều cố ý phớt lờ hoặc không quan tâm đến nó. Nguyên tố vật chất mất đi sự cân bằng. Công nghệ vô cùng tiên tiến. Ví dụ, không khí được lọc sạch và nhiệt độ được điều chỉnh. Công nghệ phát triển cao đến mức họ bắt đầu thay đổi thành phần của nước và không khí. Điều này cuối cùng đã gây ra sự sụp đổ của Atlantis. Ingrid cho biết, con người thời điểm đó không có quan hệ hôn nhân. Nếu bạn muốn kết hợp với ai đó thì hai người sẽ cử hành nghi lễ kết hợp. Cũng có người giao phối với động vật, hoặc với sinh vật nửa người nửa thú, ví dụ như thân thể của một con ngựa lại có đầu người. Vào thời điểm đó, họ có thể thực hiện thành công việc cấy ghép lai tạo và nhiều người đã làm như vậy vì mục đích tình dục. Mọi người cực kỳ lo sợ về điều này nhưng lại không hành động gì cả. Đối với người Atlantis mà nói, năng lực kiểm soát tư tưởng người khác là một lối sống dã man, điều này không được phép, bởi vì mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm cho sự tiến bộ của tâm hồn mình. Điều này cũng ẩn chứa mối nguy hiểm đó là: Không thể cưỡng chế hoặc trừng phạt người khác.

Những ai rời xa Thần, cuối cùng sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc của Thần. Ngày đó cuối cùng cũng đến: Ngày dài nhất, ngày cuối cùng, thời khắc cuối cùng – trời sụp đất đổ, động đất, núi lửa phun trào, hoả hoạn. Ingrid nhìn thấy dung nham phun trào khắp nơi, lửa cháy nhuộm đỏ cả bầu trời. Trái đất như một ấm nước sôi khổng lồ cuồn cuộn, giống như một con thú đói khát đang cắn nuốt con mồi của nó. Ingrid bất tỉnh rồi chết đi, sau đó bay đến nơi có ánh sáng, nhìn xuống dưới thấy lục địa đang dần chìm xuống. Nước biển đã nhấn chìm lục địa rồi.

Một thời đại huy hoàng kéo dài hàng vạn năm đã kết thúc.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/79073

The post Loạt bài Mexico 2012 (10): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (9): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-1)https://chanhkien.org/2023/11/loat-bai-mexico-2012-9-su-bien-mat-cua-luc-dia-phan-2-1.htmlSun, 12 Nov 2023 03:15:14 +0000https://chanhkien.org/?p=31784Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Con người qua việc liên tục khám phá các di chỉ của nền văn minh tiền sử bị chôn vùi như thành cổ Troy, Pompeii và Herculaneum, đã dần tin vào tính chân thực của nhiều truyền thuyết trong lịch sử loài người. Atlantis là một đất nước có nền […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (9): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Con người qua việc liên tục khám phá các di chỉ của nền văn minh tiền sử bị chôn vùi như thành cổ Troy, Pompeii và Herculaneum, đã dần tin vào tính chân thực của nhiều truyền thuyết trong lịch sử loài người.

Atlantis là một đất nước có nền văn minh tiên tiến trong truyền thuyết. Nó có những cung điện và đền thờ lộng lẫy, những đàn tế Thần khổng lồ dùng để thờ cúng và vô số của cải. Nơi đó sản xuất vô số vàng bạc, cung điện được bao quanh bởi những bức tường bằng vàng và bạc. Các bức tường trong cung điện cũng được dát vàng, rất nguy nga và tráng lệ. Trình độ văn minh nơi đó khiến người ta khó mà tưởng tượng được, có bến cảng và tàu thuyền, cũng như “những vật thể bay có thể chở người”. Tuy nhiên nó đã chìm xuống đại dương chỉ sau một đêm.

Bí ẩn về chủng người Anh-điêng da trắng

Vào thế kỷ 16 khi người Tây Ban Nha xuyên qua những khu rừng nhiệt đới ở châu Mỹ, họ đã gặp rất nhiều người Anh-điêng da trắng để râu trông rất kỳ lạ. Những người Anh-điêng da trắng này nói với họ rằng họ là hậu duệ của một dân tộc cao quý và phồn thịnh. Cách đây rất nhiều niên đại, tổ tiên của họ đã sinh sống trên những hòn đảo lớn giữa đại dương. Nó đã bị hủy diệt trong một thảm họa lớn.

Vào tháng 3 năm 1942, Tổng thống Roosevelt đã dành thời gian quý báu trong lịch trình dày đặc của mình để gặp vợ chồng ông David Lamb, những người vừa trở về từ chuyến nghiên cứu khảo cổ ở bang Chiapas, Mexico. Vợ chồng ông Lamb đã mang đến một tin tức bất ngờ cho Tổng thống: Vợ chồng David Lamb từ lâu đã nghe nói rằng ở vùng nội địa Chiapas có tồn tại thành phố của người Maya bị bỏ hoang từ lâu. Dưới những thành phố này là những đường hầm được phân bố cấu thành mạng lưới và mục đích của họ trong chuyến đi này là kiểm chứng tính khả tín của tin đồn đó. Họ cuối cùng đã phát hiện ra những người Anh-điêng có màu da xanh trắng canh gác các đường hầm dưới lòng đất ở Mexico trong truyền thuyết. Những người Anh-điêng này sống cách biệt với thế giới và đã canh giữ thánh địa nơi rừng sâu qua nhiều thế hệ, đó là lối vào hành lang ngầm thông với đường hầm sâu dưới lòng đất dẫn đến nơi cất giữ kho báu. Họ yêu cầu hai vợ chồng Lamb lập tức quay trở lại theo con đường cũ.

Ngay từ thế kỷ 17, một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha cũng đã phát hiện ra một đường hầm dưới lòng đất ở Guatemala, Trung Mỹ. Từ bản đồ có thể thấy rằng, nó nằm trong lòng đất dưới dãy núi Andes và dài hơn 1.000 km. Để bảo vệ các đường hầm và đợi cho đến khi trong tương lai con người nắm vững được khoa học kỹ thuật để tham hiểm đường hầm, lối vào đường hầm đã bị chính phủ Peru đóng cửa và canh giữ nghiêm ngặt, đồng thời được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhà văn người Đức von Däniken đã từng đi vào đường hầm này, trong đường hầm, ông vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy những lối đi rộng lớn, thẳng tắp và những bức tường tráng men, nhiều cổng đá ong và cánh cửa lớn tinh xảo, những mái nhà được làm vuông vức và nhẵn bóng cùng một đại sảnh có diện tích hơn 20.000 mét vuông, còn có nhiều hầm thông gió cách nhau trung bình khoảng từ 1.8 – 3.1 mét và chiều rộng 80 cm. Bên trong đường hầm còn có vô số văn vật kỳ lạ thời tiền sử, trong đó có cuốn sách vàng được nhắc đến trong truyền thuyết thời viễn cổ của nhiều dân tộc. Đường hầm nghiêm mật, cao lớn và thần kỳ đến mức vượt qua trí tuệ của con người hiện đại; làm cho nhà văn nổi tiếng với trí tưởng tượng táo bạo này cũng phải ngạc nhiên sửng sốt. Ông cho rằng đường hầm này được đào bằng mũi khoan nhiệt độ siêu cao với kĩ thuật tiên tiến và bom định hướng chùm tia điện tử cũng như những kỹ thuật khai khoáng mà con người hiện nay chưa biết. Ông không hề nghi ngờ rằng đây là công trình vĩ đại nhất trên thế giới, cũng là bí ẩn lớn nhất, khó giải mã nhất trên thế giới.

Trong số 10 thành phố “mất tích” hàng đầu thế giới, có hai thành phố ở Peru, một là Machu Picchu nổi tiếng thế giới, hai là thành phố cổ Kuelap ở Chachapoyas. Vùng Chachapoyas nằm ở khu vực phía Bắc dãy Andes của Peru ngày nay, do sông Marañón và sông Ucubamba giao nhau tại vùng Bagua, nên làm cho vùng Chachapoyas thành một khu vực hình tam giác. Sự rộng lớn vô hạn của sông Marañón và địa hình đồi núi nơi đây đã khiến cho nơi ấy tách biệt hoàn toàn với thế gian. Từ thời Inca cổ đại, là đã có truyền thuyết về người da trắng sinh sống ở khu vực này, cái tên “Người mây” là cách gọi của người Inca đối với bộ lạc da trắng này. Cái tên này xuất phát từ việc nơi cư trú của họ là rừng mưa nhiệt đới được bao phủ bởi sương mù như mây suốt cả ngày. Bộ lạc này được thành lập bởi người da trắng, người trong bộ tộc ai cũng có làn da trắng nõn, trong đó cũng có phụ nữ và trẻ em da trắng được sắp xếp vào biên niên sử của địa phương. Vào thế kỷ 16, bộ lạc này đã bị xóa sổ do bệnh tật và chiến tranh. Pietro Hiszer de Leon, một nhà sử học ở Chachapoyas đã mô tả bộ tộc này như sau: “Họ là những người trắng trẻo và xinh đẹp nhất mà tôi từng thấy, phụ nữ vô cùng xinh đẹp và dịu dàng. Nhiều phụ nữ đã trở thành vợ của người Inca và họ được đưa đến Đền Mặt Trời. Những người phụ nữ này và chồng của họ luôn mặc quần áo lông cừu và quấn khăn lông cừu trên đầu, loại nhãn hiệu quần áo của họ nổi tiếng ở rất nhiều nơi”. “Người mây” ở Chachapoyas có nền văn hóa riêng của mình, không phải văn hóa của người Inca. Cho đến nay, người ta vẫn không cách nào tìm ra được tộc người da trắng này đến từ đâu và xuất hiện khi nào. Họ rất bí ẩn và trình độ phát triển của họ ở thời cổ đại là không thể tưởng tượng được. Bí mật của họ không tùy tiện truyền ra ngoài.

Những người Anh-điêng da trắng ít ai biết đến này sống trên lục địa châu Mỹ, tôi tin rằng họ là hậu duệ của những người Atlantis còn sống sót.​

“Đối thoại” của Plato

Nhà triết học vĩ đại người Hy Lạp Plato sống vào khoảng năm 400 trước công nguyên, ông là học trò của nhà tiên tri Socrates. cuốn “Đối thoại” nổi tiếng được Plato viết vào năm 350 trước công nguyên, dùng hình thức đối thoại mô tả lại Atlantis bí ẩn. Cuốn “Đối thoại” này ghi lại một cuộc trò chuyện giữa người thầy Socrates và ba học trò vào năm 421 trước công nguyên. Cuốn “Đối thoại” này là một trong những ghi chép có giá trị nhất về Atlantis được giới học thuật công nhận cho đến nay.

Tổ tiên của gia đình Plato là Solon (khoảng năm 638 – 559 trước công nguyên), một trong bảy nhà hiền triết của Hy Lạp cổ đại, nhà cải cách chính trị và nhà thơ nổi tiếng, sau khi mãn nhiệm kỳ chức quan chấp hành thành của thành phòng thủ Athens, trong 10 năm ông đã ra nước ngoài du lịch và ngao du qua một số nơi như Ai Cập, Đảo Síp, Tiểu Á (nay là Thổ Nhĩ Kỳ) v.v. Sau khi kết thúc chuyến du lịch trở về nhà, ông dành hết tâm huyết cho việc sáng tác, trong nhiều tác phẩm của ông có đề cập đến nước cổ đại Atlantis. Solon nổi tiếng vì tính trung thực, nên tính chân thực trong ghi chép của ông là điều không thể nghi ngờ, ngay cả Socrates cũng nói: “Điều tốt chính là ở chỗ nó là sự thật, nó còn hay hơn nhiều so với một câu chuyện hư cấu!” Mà Plato kế tục di nguyện của tổ tiên, dốc lòng mạnh mẽ cho việc tìm kiếm chuyên sâu không ngừng nghỉ về hòn đảo Atlantis. Ông cho rằng chủ đề này đã vượt qua bất kỳ thần thoại, sử thi và truyền thuyết tráng lệ nào từ trước đến nay.

Trong “Đối thoại”, Coricias, em họ của Plato đã nói trong cuộc trò chuyện rằng, Solon đã từng du lịch tới Ai Cập. Solon đã đến vùng châu thổ đồng bằng Ai Cập, cũng là nơi có con sông Nin phân nhánh, ở đó có một vùng đất gọi là Sais. Ở đó, ông được người dân địa phương đón nhận và yêu mến, nhưng ông lại phát hiện rằng bất luận là ông hay bất kỳ người Athens nào khác biết về những câu chuyện liên quan đến các vị Thần thời đó đều chẳng là gì so với người Sais.

Có một lần, Solon đã cố gắng thử giải thích cho những người Saïx (vùng thuộc Pháp) về những sự kiện phát sinh trong lịch sử của những người Hy Lạp mà ông kể có niên đại xa xưa như thế nào. Một thầy tế già đứng lên và nói: “Solon ơi Solon, những người Hy Lạp các anh chỉ là những đứa trẻ mà thôi, trong những người Hy Lạp mà anh liệt kê không có lấy một người có thể gọi là lão nhân”. Solon kìm nén sự khó chịu của mình và hỏi: “Ông nói điều này là có ý gì?”

Vị thầy tế già trả lời: “Điều tôi muốn nói là suy nghĩ của anh bây giờ vẫn còn rất non nớt; các anh không hề kế thừa được những tư tưởng cổ xưa nào từ tổ tiên của mình, cũng không có bất kỳ khoa học nào có thể xưng tụng là lịch sử lâu dài. Tôi sẽ cho anh biết nguyên nhân của tất cả điều này: Vì nhiều nguyên nhân, trên thế giới này đã từng có, và sẽ tiếp tục có nhiều nền văn minh nhân loại bị hủy diệt. Có một câu chuyện mà ngay cả các anh cũng biết, Phaethon là con trai của Thần Mặt Trời Helios, từng vì không thể điều khiển cỗ xe ngựa của vua cha, trong cơn giận dữ đã thiêu rụi toàn bộ dân chúng của mình thành tro bụi, bản thân anh ta cũng bị sét đánh chết. Mặc dù hiện nay nghe nó có vẻ giống một câu chuyện thần thoại, nhưng nó lại có thể phản ánh quá trình từ đỉnh cao hưng thịnh cho đến suy bại của một số nền văn minh trên Trái Đất hoặc trên Thiên đường. Chẳng hạn như tại một trận hoả hoạn xảy ra trên Trái Đất: Khi hỏa hoạn sắp xảy ra, những sinh vật sống ở vùng núi cao, khô hạn và dốc sẽ càng dễ bị hủy diệt hơn những sinh vật sống gần sông hoặc ven biển. Trong trận hồng thủy bùng phát ở sông Nin, Cứu Thế Chủ của tổ tiên sót lại của chúng tôi đã cứu chúng tôi ra khỏi biển nước mênh mông. Nhưng mặt khác, những người chăn nuôi cừu cả ngày sống trên núi cao lại may mắn tránh thoát khỏi trận đại hồng thủy mà chư Thần dùng để tẩy tịnh Trái Đất, còn những người sống trong thành phố đã không may bị nước lũ cuốn ra biển lớn; dù thế nào đi nữa, có một quy luật không bao giờ thay đổi, đó là bất luận vào thời điểm nào, đường đi của nước lũ từ đầu đến cuối đều là từ trên xuống dưới, luôn chảy từ nơi cao xuống đồng bằng và vùng trũng, chính vì lẽ đó, chúng ta mới có thể lưu giữ được nền văn minh cổ đại nguyên thủy nhất ở chỗ chúng ta đây. Dù cho là mùa đông giá lạnh hay mùa hè nóng bức, đều không thể phá hủy nó, nhân loại cũng cần tiếp tục sinh sôi nảy nở, mặc dù có lúc dân số phát triển mạnh, có lúc thì số lượng giảm nhanh. Vì vậy, cho dù là ở đất nước của anh hay ở chỗ chúng tôi, hoặc những nơi khác trên thế giới mà chúng ta biết, chỉ cần xảy ra sự kiện lớn hay nổi bật nào, đều được người xưa ghi chép lại, đồng thời được lưu giữ trong tế đàn của chúng tôi. Nhưng các anh và các dân tộc khác chỉ dùng hình thức viết sách và truyền miệng để truyền tải lại những câu chuyện lịch sử này. Vậy có thể hình dung được rằng, nếu một thảm họa tương tự như bệnh dịch bùng phát trên khắp đất nước, những gì còn lưu giữ cho anh sẽ chỉ là những ghi chép còn sót lại đáng thương kia; toàn bộ dân tộc của các anh sẽ phải quay trở lại giai đoạn ban đầu mông muội, biết cực kỳ ít về những sự việc đã xảy ra vào thời cổ đại, cho dù đó là những sự việc đã xảy ra ở nơi chúng tôi đây hay ở đất nước các anh. Thậm chí gia phả của tổ tiên mà anh mô tả, Solon, chúng chẳng khác gì một câu chuyện cổ tích dành cho trẻ em. Bởi vì trước hết các anh chỉ nhớ có một trận hồng thủy đã xảy ra, nhưng trên thực tế, sự việc như thế này đã xảy ra rất nhiều lần trong lịch sử; thứ hai, anh không biết rằng đã từng có bộ tộc tạo ra nền văn minh huy hoàng nhất trên mảnh đất của các anh, anh và những người khác trong toàn thành phố của các anh thực chất là hậu duệ còn lại của những nền văn minh đó. Nhưng đối với tất cả những chuyện này thì các anh hoàn toàn không biết, bởi vì hậu duệ của những người may mắn sống sót ban đầu đã qua đời từ lâu và giai đoạn lịch sử này càng trở nên khó lý giải hơn”.

Mô tả của vị thầy tế già

Vị thầy tế già nói với Solon rằng, theo ghi chép của lịch sử Ai Cập cổ đại, thời điểm Atlantis bị nhấn chìm cách đây vào khoảng hơn 9.000 năm trước. Vì năm mà Solon sống là vào khoảng năm 600 trước công nguyên, như vậy suy ra, sự hủy diệt cuối cùng của Atlantis xảy ra vào khoảng 10.000 năm trước công nguyên, cách ngày nay khoảng 12.000 năm trước.

Vị thầy tế cho biết: “Atlantis nằm ngoài khơi không xa ‘những cột chống trời của Hec Quyn’ (The Pillars of Hercules) (nay là eo biển Gibraltar). Hòn đảo này lớn hơn Libya và Tiểu Á cộng lại, là cửa ngõ duy nhất để đi qua các hòn đảo khác trên Đại Tây Dương. Vượt qua các đảo này, bạn có thể đến được một lục địa khác xung quanh Đại Tây Dương”; “Atlantis là một lục địa nhô cao giữa biển, nhưng thành phố này lại hoàn toàn là một vùng đồng bằng, ba mặt là núi, mặt còn lại hướng ra biển và địa thế thấp dần xuống, theo hướng Bắc Nam. Núi non trùng điệp bao quanh, tạo nên phong cảnh hùng vĩ và hoành tráng. Trong những ngọn núi bao quanh, có rất nhiều làng mạc nằm rải rác, những dòng sông và hồ nước mênh mông, còn có những đồng cỏ xanh trải dài ngàn dặm. Những thảm cỏ này không chỉ là nguồn cung cấp dồi dào nuôi dưỡng các loài động vật sống trên vùng đất này, mà còn chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên vật chủng quý giá”.

“Tài nguyên khoáng sản trên đảo rất phong phú, đặc biệt là một loại kim loại lấp lánh mà họ khai quật được có tên là Orichalcum. Nó quý hiếm còn hơn cả vàng, và được coi là kim loại quý nhất thế giới vào thời điểm đó. Thứ hai, trên đảo còn có tài nguyên rừng trữ lượng lớn, có đủ điều kiện tự nhiên để chăn thả và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra, trên đảo còn có đàn voi sinh sống và đa dạng các loài động thực vật. Tất cả những điều kiện tự nhiên mà ông trời ưu đãi này chính là yếu tố khách quan đã đưa Vương quốc Atlantis vươn đến đỉnh cao. Ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, người cai trị còn xây dựng đền thờ, cung điện, bến cảng và đầu mối giao thông vô cùng tráng lệ; dần dà, họ đã xây dựng đất nước này thành một siêu đế chế: Họ đã xây cầu và bến cảng để liên kết các thành phố trên các đảo thành một thể thống nhất; họ xây dựng rầm rộ, xây dựng cung điện bên trong cung điện hoàng gia dùng để thờ cúng các Thiên Thần và tổ tiên, được truyền thừa qua nhiều thế hệ, mức độ sang trọng xa hoa và quy mô kiến trúc không ngừng được đổi mới và siêu việt.

Về phương diện vận tải đường biển, họ đã đào một con kênh rộng 300 feet (1 feet = 0,3048 mét), sâu 100 feet, dài 50 dặm (1 dặm = 1,6093 km), đồng thời xây dựng cảng biển nội địa, đồng nghĩa với việc khai thông một hành lang đường thủy, thông qua kênh đào này mà tàu bè có thể lưu thông từ đất liền ra cảng biển, nó đủ rộng để những con tàu lớn nhất thời bấy giờ có thể đi qua. Họ còn dựa vào các khu thủy vực khác nhau mà phân chia thành các khu vực lục địa khác nhau, và xây cầu nối liền các lục địa với nhau, đồng thời chừa lại một khoảng rộng và cao đủ cho ít nhất một chiến hạm ba tầng đi qua.

Đá là vật liệu xây dựng chính được dùng phổ biến trên lục địa Atlantis và các đảo phụ thuộc, dù là một cung điện nguy nga hay một đền thờ trang nghiêm đều được xây dựng và trang trí bằng nhiều loại đá từ trong ra ngoài. Màu sắc của chúng cũng rất đa dạng, bao gồm màu đỏ, đen và trắng, sau khi được lựa chọn và chạm khắc tỉ mỉ, dù là ở bến cảng hay cửa ngõ đều là rường cột chạm trổ, chúng đều được sử dụng rộng rãi. Phong cách kiến ​​trúc của họ rất mộc mạc đơn giản, cũng có một số yêu cầu chạm khắc tỉ mỉ, thậm chí còn được đẽo gọt thành những đồ trang trí rực rỡ, nhỏ nhắn và tinh xảo. Ngoài ra, họ còn phủ một lớp được ví như “tường đồng vách sắt” bên ngoài bức tường đá, nhưng một số được làm bằng đồng, một số được làm bằng thiếc, và một số được làm bằng kim loại hỗn hợp đồng – kẽm, những cung điện này sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời”.

“Atlantis là một trung tâm quyền lực vô cùng hùng mạnh, nó thống trị toàn bộ hòn đảo cho đến một số khu vực xung quanh, thậm chí còn mở rộng thế lực của mình vượt qua đại dương và kéo dài đến các khu vực của lục địa. Ngoài ra, đế chế khổng lồ này còn cai trị phần lãnh thổ trải từ Libya, những cột chống trời của Hec Quyn, Ai Cập, Châu Âu cho đến một phần Địa Trung Hải. Trung tâm quyền lực khổng lồ không ngừng mở rộng và hội tụ, các bộ tộc xung quanh lần lượt bị đánh chiếm, toàn bộ eo biển đều thuộc phạm vi quản lý của Đế chế Atlantis”. Vị thầy tế già nói thêm: “Sau đó, ở Atlantis xảy ra những trận động đất dữ dội và đại hồng thủy. Chỉ trong vòng một ngày đêm, tất cả những người hiếu chiến này đều bị chôn sống, và Atlantis cũng từ đó bị chìm xuống đáy biển”.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/79073

The post Loạt bài Mexico 2012 (9): Sự biến mất của lục địa (Phần 2-1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (8): Sự biến mất của lục địa (Phần 1)https://chanhkien.org/2023/11/31722.htmlSun, 05 Nov 2023 02:43:05 +0000https://chanhkien.org/?p=31722Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Nhiều truyền thuyết trên thế gian có lẽ không giống với sự thật, nhưng có lẽ cũng không quá khác biệt với sự thật. Sở thích của tôi là tìm ra những bí mật đằng sau những truyền thuyết và di tích này. Sống ở Yucatan thần bí, tôi luôn […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (8): Sự biến mất của lục địa (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Nhiều truyền thuyết trên thế gian có lẽ không giống với sự thật, nhưng có lẽ cũng không quá khác biệt với sự thật. Sở thích của tôi là tìm ra những bí mật đằng sau những truyền thuyết và di tích này. Sống ở Yucatan thần bí, tôi luôn cảm nhận được tiếng gọi từ thời viễn cổ. Sâu thẳm trong nội tâm tôi có một sự thôi thúc mãnh liệt bất tận để tôi viết ra suy nghĩ của mình; cố gắng góp chút sức mọn của mình để viết về quá khứ của nhân loại, gợi mở cho con người tương lai giác ngộ.

Bán đảo Yucatan của Mexico là vùng đất vô cùng đặc thù tại thời văn minh cổ đại. Nó nằm ở nơi giao nhau giữa hai nền văn minh siêu cấp là Lemuria (còn gọi là Mu) và Atlantis. Một số bộ lạc Maya trọng yếu đã sống ở bán đảo Yucatan qua nhiều thế hệ. Khu rừng nhiệt đới rậm rạp đó ẩn giấu vô số bí mật thời viễn cổ.

Vị trí địa lý bán đảo Yucatan (Ảnh: Google)

Tháng 4 năm nay, tôi tranh thủ thời gian đến Yucatan và may mắn được trải nghiệm sự kỳ diệu nơi đây. Phía dưới là hai bức ảnh của kim tự tháp UXMAL. Từ thời viễn cổ đến nay, kim tự tháp này vẫn luôn được người dân bản địa gọi với cái tên “Kim tự tháp Thầy phù thủy”, đôi khi người ta còn gọi là “Nhà của những chú lùn”. Căn cứ theo truyền thuyết của người Maya, một người lùn có thần thông quảng đại đã xây dựng lên kim tự tháp này chỉ trong một đêm, nên người ta mới đặt cho nó những cái tên như vậy.

Nhiếp ảnh gia Le Plongeon (1825-1908) đã dành 12 năm ở Yucatan để hoàn thành phần lớn việc khai quật ban đầu và nghiên cứu những biểu tượng trên các di tích đó. Ông phát hiện trong UXMAL có một ngôi đền đổ nát cách “Kim tự tháp Thầy phù thủy” không xa, có dòng chữ khắc trên đá của lục địa “Mu” đã bị chìm xuống đại dương, và còn có những dòng chữ như “ở phía Tây của lục địa, là nơi mà chúng ta đến”. Người ta phát hiện rằng kim tự tháp khắc dòng chữ ở phía Tây Nam thành phố Mexico kia là được xây dựng để kỷ niệm “lục địa phía Tây bị hủy diệt”. Đáng tiếc là chúng tôi không thể phân biệt được những chữ này, nếu không tôi sẽ chụp lại những “dòng chữ” này cho bạn bè, độc giả xem.

“Kim tự tháp Thầy phù thủy”. Tương truyền rằng một người lùn thần thông quảng đại đã xây dựng lên kim tự tháp này chỉ trong một đêm. (Ảnh: Vương Bân)

Ghi chép của người Maya

Theo truyền thuyết Đế chế Lemuria (Mu) là một nền văn minh vô cùng cổ xưa đã phát triển cách đây ít nhất 800.000 năm. Con người đã sáng tạo ra nền văn hóa rực rỡ trên mảnh lục địa này. Ngành hàng hải và xây dựng của họ khá phát triển. Người dân lục địa Mu từ lâu đã liên hệ với các hành tinh khác. Những chiếc phi thuyền do họ phát minh ra thường đi đến nhiều nơi, mang theo đủ loại vật phẩm quý hiếm và vàng bạc đá quý. Atlantis là một nền văn minh siêu cổ đại phát triển ở thời kỳ cuối của nền văn minh Mu. Đế chế Atlantis và Đế chế Mu có một giai đoạn là cùng tồn tại. Giữa hai nền văn minh còn từng xảy ra cuộc đại chiến. Đầu tiên, Đế chế Mu bị phá hủy một phần và sau đó bị chìm hoàn toàn. Atlantis cuối cùng đã chìm cách đây 12.000 năm. Mà nơi giao nhau giữa hai bên là bán đảo Yucatan của Mexico cho đến nay vẫn là đất liền, vậy nên đây là một nơi tuyệt vời để nghiên cứu văn minh tiền sử của loài người, và là nơi vô cùng thích hợp để truy tìm nguồn gốc của nền văn minh nhân loại lần này.

Năm 1863, học giả người Pháp là Augustus Le Plongeon đã phát hiện ra bản thảo “Nghiên cứu về sự vật ở Yucatan” được viết bởi linh mục Diego de Landa trong thời kỳ Tây Ban Nha chinh phục Trung Mỹ lưu trữ ở thư viện của hiệp hội Lịch sử Quốc gia ở Madrid, ông căn cứ vào bản phác thảo chữ tượng hình của người Maya ghi chép trong bản thảo, ông đã đọc “Bản chép tay Troano”, một tài liệu lịch sử của người Maya hiện đang được cất giữ ở Tây Ban Nha. Ông phát hiện trong đó có hai chỗ ghi lại sự biến mất của lục địa Lemuria hay còn gọi là Mu là do siêu núi lửa phun trào.

Trong tài liệu lịch sử của người Maya cũng có ghi chép về việc lục địa Atlantis chìm xuống đại dương. Trong câu chuyện được truyền miệng bởi người Maya sống trên bán đảo Yucatan, ở đại dương phía Đông (Đại Tây Dương) từng có một hòn đảo khổng lồ, có những người da trắng thân hình cao lớn sống trên đảo, họ có một nền văn hóa, thiên văn, kiến trúc và nông nghiệp vô cùng tiên tiến. Nhưng lục địa này đã bị nhấn chìm chỉ sau một đêm.

Những sự kiện này xảy ra rất lâu trước nền văn minh nhân loại lần này, là những sự việc xảy ra hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn năm trước. Vậy tổ tiên người Maya biết về chúng như thế nào?​​

Vốn dĩ chúng ta có thể có nhiều cơ hội hơn để giải khai những chỗ mê này. Đáng tiếc là khi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha xâm lược, họ đã đốt gần như toàn bộ sách và tài liệu lịch sử của nền văn minh Maya. Chỉ có bốn bản chép tay của người Maya may mắn thoát nạn do bị lưu lạc ra nước ngoài. Đó là Codex Madrid, Codex Dresden, Codex Paris, Codex Maya Mexico (trước đây gọi là Codex Grolier). Vào tháng 7 năm 1562, tại quảng trường trung tâm thành phố Mani, linh mục người Tây Ban Nha Diego De Landa đã đích thân đốt hàng ngàn bản chép tay các sách cổ, sách hình và sách cuộn chữ tượng hình viết trên da hươu của người Maya. Ngoài ra, ông còn đập phá vô số tượng Thần và tế đàn. Lý do các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đốt sách rất đơn giản, họ cho rằng chúng là của các giáo đồ dị giáo và đáng bị tiêu hủy.

Ngọn lửa này không chỉ thiêu rụi nền văn hóa Maya huy hoàng. Tôi đã viết trong “Loạt bài Mexico 2012 (05): Thuyết tiến hóa, lời nói dối thế kỷ“: “Thế sự phức tạp như một bàn cờ, mọi thứ tựa hồ như không có sắp đặt nhưng tất cả đều có an bài. Có sự sắp đặt của chính Thần, cũng có kế hoạch của ma quỷ”. Nếu như một lượng lớn sách vở mô tả nền văn minh siêu cấp tiền sử của người Maya vẫn còn được lưu lại, thì chắc chắn một số lượng lớn bí mật của các nền văn minh tiền sử sẽ được tiết lộ, như thế thuyết tiến hóa làm sao có thể cơ hội phổ biến trên thế giới và dẫn dắt nhân loại vào con đường lầm lạc của chủ nghĩa duy vật vô thần luận?! Những sự sắp đặt mang tính phá hoại như vậy chắc chắn đến từ các thế lực phụ diện trong vũ trụ.

“Đế chế Mu” dưới ngòi bút của James Churchward

Vào thế kỷ 20, xuất hiện một số lượng lớn các tác phẩm nghiên cứu liên quan đến lục địa Mu, trong đó có ảnh hưởng nhất là tác phẩm của James Churchward. Năm 1868, Thượng úy trẻ người Anh James Churchward lần đầu tiên đặt chân đến Ấn Độ. Anh ấy cư xử thân thiện và hiếu học nên đã giành được lòng tin của người dân địa phương. Một ngày nọ, khi đang đi dạo trong một ngôi chùa hoang, anh vô tình phát hiện ra một vài khối đất sét và bắt đầu có hứng thú với những biểu tượng kỳ lạ được khắc trên đó. Một vị cao tăng trong chùa tiết lộ rằng: Những khối đất sét này là những thánh vật cổ xưa mà họ đã bảo vệ qua nhiều thế hệ. Trong mật thất của ngôi chùa còn có rất nhiều những tấm văn bia cổ đại. Ông ấy nói rằng, văn tự được viết trên đó giống hệt với văn tự mà ông ấy đang học. Người ta nói rằng thứ được khắc trên đó đều là “chữ Niga.Maya” đã thất truyền từ lâu, lúc đó ngoài vị cao tăng này ra, ở Ấn Độ chỉ có hai người khác có thể xem hiểu chữ này. Trên văn bia kể về câu chuyện tạo ra Trái Đất và loài người trên lục địa Mu. Vị cao tăng này gọi chúng với cái tên “văn bia Naik’ar”. Những ghi chép ở trên là thông tin cổ xưa về lục địa bị biến mất. Theo cách giải thích của James Churchward, tác giả của những tấm đất sét này có tên là “Huynh đệ Thần Thánh Nagar”. Lý do tạo ra những tấm sách này là để tưởng nhớ quê hương đã mất, lục địa Mu. Sau khi lục địa Mu bị nhấn chìm, số ít người sống sót đã đến được Ấn Độ và trở thành tầng lớp tinh anh của Bà La Môn giáo. Những người khác chạy trốn đến Bắc và Nam Mỹ (bao gồm bán đảo Yucatan ở Mexico ngày nay), châu Phi v.v. Điều đáng nói là nhà khảo cổ học William Niven còn phát hiện 2.500 tấm bia đá của người Maya ở Mexico có khắc chữ giống với những văn bia ở Naik’ar.

Sau chuyến đi đến Ấn Độ, James Churchward đã đi vòng quanh Thái Bình Dương để tìm kiếm di tích của lục địa Mu và tiến hành sắp xếp chúng lại. Một loạt chuyên đề như “Lục địa biến mất”, “Hậu duệ của lục địa Mu”, “Ký hiệu khắc họa thần thánh của lục địa Mu”, “Sức mạnh vũ trụ của lục địa Mu” của ông sau khi được xuất bản ra, đã trở thành những cuốn sách bán chạy chấn động một thời gian. James Churchward cũng trích dẫn một số lượng lớn các tài liệu cổ để minh chứng cho sự tồn tại và diệt vong của lục địa Mu, như bộ tài liệu thuật chiêm tinh “Hồ sơ Lhasa” được ghi cách đây 4.000 năm trước được cất giữ trong một tu viện ở Tây Tạng, cho đến các tài liệu cổ như “Troano Codex”, “Dresden Codex”, “Persian Codex”, “Cotesia Codex” của người Maya. Ông cũng mô tả lại bản đồ các tuyến đường di cư của một số người may mắn sống sót sau vụ siêu núi lửa phun trào.

Bản đồ theo sự liên tưởng của James Churchward về lục địa Lemuria (Mu) và Atlantis cùng con đường di cư của những người sống sót đến châu Mỹ và châu Phi khi lục địa Mu bị chìm.

Bản đồ liên tưởng về lục địa Lemuria của Vua David Kalâkaua

Căn cứ theo nghiên cứu của James Churchward, lục địa Mu chiếm phần lớn diện tích Nam Thái Bình Dương, phía Nam bắt đầu từ đảo Tahiti, phía Bắc vượt qua quần đảo Hawaii, phía Đông dài đến đảo Phục Sinh của Chile và phía Tây vượt qua quần đảo Mariana, với chiều dài từ Đông sang Tây khoảng 7.000 km, chiều rộng từ Bắc xuống Nam khoảng 5.000 km, với tổng diện tích khoảng 35 triệu km2. Lục địa Mu lúc bấy giờ có dân số khoảng 64 triệu người. Cư dân quần đảo Polynesia, quần đảo Melanesia và quần đảo Micronesia hiện tại được cho là hậu duệ của những người di cư từ lục địa Mu.

Về những tàn tích còn sót lại của thành phố sau sự biến mất của lục địa Mu, James Churchward tin rằng ở trên nhiều hòn đảo tại Thái Bình Dương khắp nơi đều có. Quần đảo Hawaii là đỉnh núi của lục địa Mu khi đó. Đảo Phục Sinh cũng may mắn thoát khỏi thảm họa này. Trên đảo Phục Sinh có phân bố rải rác gần một nghìn bức tượng đá hình người khổng lồ, chúng nằm trên các sườn núi hoang sơ hoặc nằm trên bờ biển. Trong đó có hàng chục bức tượng được dựng thẳng đứng trên các bệ nhân tạo cạnh bờ biển, đứng riêng lẻ hoặc kết thành đội ngũ mặt hướng ra biển, ngẩng đầu nhìn về phía xa. Một số tượng đá còn đội mũ đá màu đỏ trên đầu. Những bức tượng đá này được người dân địa phương gọi là “Moai”, được chạm khắc từ đá bazan và đá thạch anh đen, một số còn dùng vỏ sò để khảm thành mắt có thần sắc sáng ngời.

Những bức tượng đá lớn trên đảo Phục Sinh, Chile (Ảnh: Internet)

Các di tích kiến ​​trúc trên hòn đảo nhỏ Nan Madol gần đảo Pohnpei tập trung ở “Đảo Thần Điện”, nơi có lăng mộ vua chúa, có tổng cộng hơn 90 hòn đảo nhân tạo. Trên mỗi đảo đều có tường thành, chính cung, thần điện và nhà ở được xây dựng bằng đá bazan, giữa các đảo được nối với nhau bằng kênh đào. Sự phồn hoa xưa giờ chỉ còn là đống đổ nát. Những cánh cổng đá tuyệt đẹp trên đảo Tapu, những cột đá trên đảo Diani, những đồng tiền đá khổng lồ trên đảo Yabu, những bức tượng đá trên đảo Nuuksio, v.v. Những di tích trên những hòn đảo nhỏ cách nhau rất xa này lại có những điểm tương đồng rất rõ ràng, mà mỗi đảo đều có truyền thuyết về sự kiện chìm đảo lớn. Điều đáng nói là trên quần đảo Tuyamatu có một tế đàn rất giống với kim tự tháp của người Maya.

Có rất nhiều dấu vết cho thấy tinh hoa văn hóa của người Maya còn sót lại từ thời kỳ văn minh tiền sử là một nền văn hóa tiền sử. Về sau, người Maya trong thời kỳ văn minh nhân loại lần này đã tiếp xúc với người ngoài hành tinh và học được một số tri ​​thức từ họ, tôi không cho rằng đó là văn hóa Maya thực sự.

Lời kể của Sheldan Nidle

Sheldan Nidle, nhà ngoại cảm nổi tiếng người Mỹ, từ khi còn nhỏ đã bắt đầu tiếp xúc với người ngoài hành tinh và UFO dưới nhiều hình thức. Trong sách của ông có viết: Trong cuộc đại chiến các hành tinh để tranh đoạt hệ Mặt Trời thời tiền sử giữa Liên minh tinh tế mà dẫn đầu là các sinh vật có trí tuệ hình người với các sinh vật khủng long/loài bò sát, thì hành tinh Maldek bị nổ tung, bởi vì lúc đó hành tinh này đã trở thành cứ điểm quan trọng của các sinh vật khủng long/loài bò sát ở trong hệ Mặt Trời. Những mảnh vỡ còn lại của hành tinh Maldek đã trở thành vành đai tiểu hành tinh của chúng ta hiện nay (vui lòng xem “Loạt bài Mexico 2012 (07): Người ngoài hành tinh thèm khát thân thể người“). Các sinh mệnh hình người đã giành lại hệ Mặt Trời và một số người đã di cư đến Trái Đất vào 900.000 năm trước công nguyên.

Khoảng 850.000 năm trước công nguyên, Đế chế Lemurian (Mu) đã được xây dựng trên Trái Đất. Khoảng 500.000 năm trước công nguyên, Lemuria đã thành lập một tiểu thuộc địa. Chủ yếu là các thuộc địa Atlantis, Yu và Libya/Ai Cập. Yu bao gồm Kazakhstan ngày nay, phần lớn khu vực Trung Quốc và Tây Tạng v.v. Khoảng 100.000 năm trước công nguyên, Atlantis, Yu và các thuộc địa Libya/Ai Cập lần lượt thành lập các tiểu đế chế. Trong cuốn “Bạn đang trở thành người vũ trụ” (You Are Become A Galactic Human, trang 107), Sheldan Nidle đã vẽ vùng miền Tây Hoa Kỳ ngày nay, cùng với Mexico và các quốc gia Trung Mỹ khác ở thời kỳ Lemuria và Atlantis đều thuộc về “Mayam” (Maya).

Sau đó, mâu thuẫn giữa Atlantis và Lemuria ngày càng gay gắt. Atlantis bắt đầu thành lập liên minh với người Pleiades và người bò sát Alpha Centaurians, làm kỹ thuật của họ tiến thêm một bước. Vào 25.000 năm trước công nguyên, Atlantis kết hợp với sự giúp đỡ của người Pleiades và người bò sát Alpha Centaurian, đã tấn công Đế chế Lemurian. Họ di chuyển quỹ đạo của một vệ tinh mặt trăng (Trái Đất trong thời gian đó có hai vệ tinh Mặt Trăng). Khi đến gần Lemuria, Mặt Trăng đó bị phá hủy, gây ra trận mưa sao băng tai hại bi thảm. Đồng thời, chúng còn khiến tầng khí dưới cấu tạo lớp vỏ địa chất Lemuria phát nổ khiến phần lớn lục địa Lemuria bị chìm xuống. Đế chế Yu vì không chịu đầu hàng Atlantis nên buộc phải chạy trốn dưới lòng đất. Ngày nay họ được gọi là Vương quốc Agartha hay Shamballah. Sau này, nhiều hoạt động dưới lòng đất nhằm hồi sinh Lemuria đã dẫn khởi nhiều cuộc chiến tranh ở các quốc gia. Những cuộc chiến này đã gây ra thiệt hại vô cùng lớn, bao gồm cả việc đánh chìm lục địa Atlantis.

Cậu bé Sao Hỏa chứng kiến lục địa ​​Lemuria bị chìm

Những năm gần đây, nhiều phương tiện truyền thông uy tín của Nga đã tiết lộ một bí mật gây sốc: Một cậu bé bí ẩn ở khu vực phía Bắc Volgograd, Nga, tự nhận mình đến từ Sao Hỏa, cậu ấy có tài năng thiên phú và phi thường. Có lúc cậu ngồi xếp bằng và đĩnh đạc nói về những thứ bên kia. Cậu ấy thích nói về Sao Hỏa, các hệ hành tinh và các nền văn minh xa xôi. Một số ngôn luận gây sốc của cậu lập tức thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học và Thần học hàng đầu thế giới.

Cậu bé bí ẩn Boriska này sinh ngày 11/1/1996 tại một bệnh viện nông thôn hẻo lánh ở thị trấn Volzhsky, Nga. Cha mẹ của Boriska dường như là những người dân thành thật và lương thiện. Mẹ cậu là Nadezda, là bác sĩ da liễu tại một bệnh viện công, còn bố cậu là một sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu. Họ nói: “Chúng tôi quả thực không thể tin vào tai mình”. Từ khi hai tuổi, cậu bé đã nói về vũ trụ, những câu chuyện bất tận về các thế giới khác và vũ trụ vô biên như tụng kinh mỗi ngày.

Boriska liên tục nói với bố mẹ rằng cậu trước kia từng sống trên Sao Hỏa. Vào thời điểm đó, trên Sao Hỏa có người sinh sống, do phát sinh một đại tai họa mang tính hủy diệt, bầu khí quyển trên Sao Hỏa dần dần biến mất, nên cư dân Sao Hỏa giờ đây buộc phải sống trong các thành phố dưới lòng đất. Kể từ đó, cậu ấy thường xuyên đến thăm Trái Đất để buôn bán và vì các mục đích nghiên cứu khác, hơn nữa, cậu ấy đã một mình lái con tàu vũ trụ đến đây. Tàu vũ trụ của họ cất cánh từ Sao Hỏa và hạ cánh xuống Trái đất gần như chỉ trong nháy mắt. Tất cả điều này đã xảy ra trong thời kỳ văn minh Lemuria. Khi đó cậu có một người bạn tốt ở Lemuria, nhưng người bạn này đã chết ngay trước mặt cậu. Boriska nhớ lại: “Vào thời điểm đó, trên Trái Đất đã xảy ra một đại thảm họa và một lục địa vô cùng lớn đã bị cơn thịnh nộ của đại dương nuốt chửng. Đột nhiên, một tảng đá rất lớn rơi trúng một tòa nhà, đúng lúc bạn tôi có mặt ở đó và tôi không kịp cứu anh ấy”. Cậu bé miêu tả toàn bộ cảnh Lemuria mất tích mọt cách sinh động như thể nó mới xảy ra vào ngày hôm qua. Khi nói về nền văn minh Maya, Boriska tỏ ra vô cùng hào hứng, cậu nói rằng người hiện đại biết rất ít về văn hóa Maya và con người Maya.​

Điều đáng ngạc nhiên là Boriska còn kể về những tình tiết ở Trung Quốc vô cùng đặc biệt. Khi được một tuổi rưỡi, cậu đã có thể đọc hiểu các tiêu đề báo chí và cầm bút viết chữ Hán. Boriska cho biết mục đích cậu đến Trái Đất là để tìm một người dẫn đường tâm linh vĩ đại sinh ra ở Trung Quốc, nhưng cụ thể sứ mệnh đó là gì thì cậu nói không nhớ rõ lắm. Phóng viên Carlos của tờ “Pravda” hỏi: “Người dẫn đường tâm linh vĩ đại sinh ra ở Trung Quốc mà bạn nói là ai?” Boriska nhìn xung quanh và nói: “Tôi không thể nói ra Ngài ấy là ai, Ngài ấy đang làm một số việc vô cùng ý nghĩa, tôi không phải là người duy nhất theo Ngài ấy luân hồi mà còn có rất nhiều vị Thần khác cùng luân hồi chuyển sinh theo”. Cậu còn nói: “Trên Trái Đất sẽ xảy ra một sự việc trọng đại, bởi vì chúng Thần của các Thiên quốc sẽ tham dự nhằm canh tân tất cả những ô uế của Trái Đất, người dẫn đường tâm linh sẽ vì các thần quốc vĩ đại mà quét sạch mọi chướng ngại, để cho con người ở các quốc gia không có tín ngưỡng nhận được sự cảm hóa của người dẫn đường tâm linh vĩ đại”. Boriska nói: “Tôi không biết tại sao mình lại sinh ra ở nơi này trên Trái Đất (Nga), nhưng tôi tin rằng mình có sứ mệnh riêng giống như người dẫn đường tâm linh vĩ đại. Xin đừng lo lắng, Trung Quốc là quốc gia được các Thiên quốc lựa chọn để các vị Thần trong chuyển sinh gánh vác sứ mệnh của mình, có thân phận lịch sử đặc biệt, giống như lịch sử của các bạn đã nói, Trung Quốc giống như một chú sư tử mạnh mẽ ngủ say đang dần thức tỉnh.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/78834

The post Loạt bài Mexico 2012 (8): Sự biến mất của lục địa (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (07): Người ngoài hành tinh thèm khát thân thể ngườihttps://chanhkien.org/2023/10/loat-bai-mexico-2012-07-nguoi-ngoai-hanh-tinh-them-khat-than-the-nguoi.htmlFri, 20 Oct 2023 04:28:44 +0000https://chanhkien.org/?p=31569Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Trong tam giới có rất nhiều sinh mệnh có trí huệ, có sinh mệnh là hình người, giống hình người, cũng có sinh mệnh không giống hình người. Có người sinh sống ở không gian khác, cũng có người sống trên tinh cầu khác trong không gian vật chất của […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (07): Người ngoài hành tinh thèm khát thân thể người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Trong tam giới có rất nhiều sinh mệnh có trí huệ, có sinh mệnh là hình người, giống hình người, cũng có sinh mệnh không giống hình người. Có người sinh sống ở không gian khác, cũng có người sống trên tinh cầu khác trong không gian vật chất của con người. Người hiện đại ngày nay gọi chung những sinh mệnh có trí tuệ và năng lực ghé thăm Trái Đất là “người ngoài hành tinh”. Thực ra, trong số họ có một số đã đến Trái Đất từ trước nền văn minh sớm nhất của nhân loại và là dân bản địa của Trái Đất.

Trong xã hội nhân loại hiện nay, có rất nhiều người giữ liên lạc với với người ngoài hành tinh. Có rất nhiều bài báo và ấn phẩm đã được xuất bản về vấn đề này. Trong các sách báo, báo cáo và thông tin trên internet, họ đều đứng tại lập trường của bản thân mình để nói về các chủng người ngoài hành tinh khác nhau. Cho dù là trong thật có giả, trong giả lại có thật, nhưng từ một lượng lớn thông tin đó, những người có trí huệ sẽ thấy rõ được ba thông tin quan trọng sau: 1) Trái Đất vào giờ phút này đã trở thành tiêu điểm của toàn vũ trụ; 2)Thân thể con người là hoàn mỹ, là mấu chốt để sinh mệnh dựa vào đó đề thăng lên những hình thức sinh mệnh cao hơn; 3) Người ngoài hành tinh rất thèm muốn thân thể người, một bộ phận người ngoài hành tinh tà ác đang nỗ lực đánh cắp thân thể con người.

Sinh vật có năng lực và trí tuệ có mặt ở khắp nơi

Chiểu theo “lục đạo luân hồi” để phân chia, một bộ phận “người ngoài hành tinh” thuộc về đạo “A tu la”. Có người dùng “UFO” làm phương tiện di chuyển, cũng có một số người tầng thứ cao hoàn toàn không cần dùng phương tiện nào cả. Trong sử sách và một số cổ thư văn hiến đã sớm có ghi chép về UFO hoặc những hiện tượng kỳ bí. Như vào thời nhà Hạ (năm 1914 TCN) có cuốn “Trúc Thư Kỷ Niên” ghi lại rằng: “Vào năm thứ tám, trên trời xuất hiện dị vật, 10 Mặt Trời xuất hiện”. Thời Đế Tân nhà Thương năm 48 “xuất hiện trong hai ngày”. Trong cuốn “Thập Di Kỷ” quyển 41 có ghi chép: “Có người dân Uyển Cừ, cưỡi thuyền ốc đến. Thuyền hình vỏ ốc, có thể lặn xuống đáy biển mà nước không chảy vào, thuyền ốc này còn được gọi là thuyền Luân Ba. Người Uyển Cừ cao 10 trượng, bện lông chim da thú che thân. Thủy Hoàng đàm luận với người Uyển Cừ, nói đến những chuyện trời đất thủa sơ khai, người đó nói ra như thể là tận mắt nhìn thấy vậy”. 3500 năm trước, dưới thời kỳ trị vì của vua Thutmosis đệ tam, UFO hình cầu được người dân mô tả là vòng lửa đã từng ghé thăm Ai Cập. Căn cứ vào những ghi chép trên giấy cói cổ đại, UFO hình cầu từng lượn lờ trên bầu trời vài ngày.

Sheldan Nidle đến từ Hoa Kỳ đã nhận được bằng thạc sĩ của đại học Buffalo và đại học Ohio. Vào những năm 70, ông là phó chủ tịch của công ty Syntar, chịu trách nhiệm sản xuất các chương trình khoa học. Từ khi còn nhỏ ông đã bắt đầu có nhiều hình thức tiếp xúc với người ngoài hành tinh và UFO. Trong ấn phẩm của mình, Sheldan Nidle đã tuyên bố rằng phân bố khắp các chiều không gian có trên 200.000 thành viên thiên hà tạo nên một liên minh. Trong đó có khoảng 40% “người ngoài hành tinh” là sinh vật hình người, số còn lại là các chủng hình thái động vật khác nhau, bao gồm hình dáng bò sát, côn trùng, lưỡng cư, gấu, ngựa, sư tử, rùa,v.v… Những nội dung này được công bố vào năm 2005 trong cuốn sách “Your Galactic Neighbor” (Hàng xóm giữa các vì sao của bạn). Trong cuốn sách khác của ông, “You Are Become A Galactic Human” (Bạn đang trở thành một người vũ trụ) nói rằng từ hàng chục triệu năm trước, “Đấng Sáng Thế” (Creator) đã quyết định trên Trái Đất hiện nay cần bắt đầu xuất hiện nền văn minh, “Thần Thời Gian” (Time Lord) sẽ đến thực hiện kế hoạch này. Sau đó trên Trái Đất xuất hiện đồng thời ba nền văn minh của sinh vật có trí huệ, một loại là “tộc người Khủng Long”, một loại là “tộc người Bò Sát”, loại thứ ba là “tộc người Cá Voi” có vú. “Tộc người Khủng Long” từ chòm sao Orion di cư đến đây. “Tộc người Bò Sát” còn được gọi là “người Thằn Lằn” từ chòm sao Nhân Mã di cư đến Trái Đất, ba chủng sinh vật được mô tả đều không phải hình người. Nhưng khoa học kỹ thuật của họ cực kỳ phát triển, và họ đi theo một con đường khác với khoa học kĩ thuật của nhân loại hiện nay, bởi vì họ đều biết vận dụng sức mạnh của “tinh thần”, thậm chí có thể phát triển vũ khí “tinh thần” để hủy diệt nền văn minh của đối phương.

Hệ Mặt Trời là tâm điểm bị tranh đoạt

Sheldan Nidle trong trang 30-36 của tác phẩm “Your first contact” (Liên hệ đầu tiên của bạn) còn đề cập đến sinh mệnh chính phụ trong vũ trụ viễn cổ đã từng phát sinh vô số cuộc chiến tranh tàn khốc. Giống như sự việc trong bức ảnh “Đại chiến tinh cầu”, có lúc một tinh cầu trong nháy mắt bị hủy diệt. Thần của hai bên chính phụ đều tuyên bố với chúng sinh của họ lời dự ngôn về “Ngày tận thế” (End-Time Prophecies). Lời tiên tri nói rằng, thế giới nước ở biên duyên của cánh tay chòm sao Orion của hệ Ngân Hà là nơi cuối cùng kết thúc chiến tranh trong vũ trụ, là chìa khóa để tiến tới hòa bình. Thế rồi rất nhanh, cả sinh mệnh chính và phụ đều phái hạm đội của mình đi tìm kiếm “Thánh địa” trong lời tiên tri. Khi các Thiên Sứ gỡ bỏ cái lồng bảo hộ được tạo thành từ ánh sáng, một hệ Mặt Trời mới đã hiện ra. Các vị Thần cũng xác nhận với chúng sinh trong thể hệ của mình rằng đây chính là địa điểm trong dự ngôn. Vậy là các sinh mệnh của cả hai phe chính – phụ đã phát động cuộc tranh giành hệ Mặt Trời. Phe phụ được đại diện bởi chủng tộc “người Thằn Lằn” và các sinh vật không phải hình người, còn phe chính cũng có rất nhiều chủng tộc do sinh vật có hình người làm đại diện. Hệ Mặt Trời vào thời viễn cổ có bốn thế giới nước (hành tinh): Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa và Maldek. Truyền thuyết kể rằng Maldek là hành tinh nằm giữa sao Hỏa và sao Mộc, ban đầu là hành tinh thứ năm trong hệ Mặt Trời, sau đó nó bị phát nổ trong cuộc chiến giữa các vì sao mà hình thành nên vành đai tiểu hành tinh như hiện nay. Chiến tranh còn phá hủy bầu khí quyển trên Sao Hỏa và làm nước trên Sao Kim bốc hơi cạn. Đến nay, chỉ còn bề mặt Trái Đất là thích hợp cho con người sinh sống.

Tại đây cần nói rõ một chút, có thể những sự việc trong vũ trụ mà Sheldan Nidle và sinh mệnh trí huệ mà ông ấy tiếp xúc biết được cũng rất có hạn. Trong sách của ông ấy cũng không nói rõ hệ Mặt Trời tại sao lại trở thành tiêu điểm tranh đoạt của sinh mệnh chính – phụ? Nguyên nhân phía sau là gì? Từ góc độ của giới tu luyện có lẽ những dự ngôn trong sách cổ thần thánh của Trung Quốc và Tây Phương là: Trên Trái Đất sắp xảy ra một sự kiện vô cùng đặc biệt, đây là hy vọng được đắc cứu của chúng sinh vũ trụ, đây là hy vọng của vũ trụ, cho nên chúng sinh các giới đều muốn đặt một chân vào đây. Trong tam giới có lý tương sinh tương khắc, trong chính có tà, trong tà cũng sẽ có chính, trong cùng một sinh mệnh đều có chính và phụ này. Vậy nên sẽ tạo thành một cục diện cực kỳ phức tạp.

Hành tinh Maldek thần bí

Ngay từ ngày 7 tháng 4 năm 1960, Tiến sĩ George King đã truyền tải một thông điệp đến từ người ngoài hành tinh, người ngoài hành tinh này (Mars Sector Six) nói rằng hành tinh Maldek bị hủy diệt là do người tiền sử đã phạm phải tội ác lớn nhất. Stwart A. Swerdlow trong cuốn sách “Xung đột và sáng tạo” của mình cũng nói rằng hành tinh Maldek đã bị nổ tung trong cuộc chiến giữa người tiền sử và “người Thằn Lằn”.

Giả thuyết về hành tinh Maldek dường như liên tục được chứng minh. Năm 1766, một nhà thiên văn học người Đức J.Titius đã tình cờ phát hiện ra một dãy số: (n+4)/10, có thể cho ra khá chính xác bán kính quỹ đạo của các hành tinh đã biết tại thời điểm đó. Khi chúng ta thay thế n = 0, 3, 6, 12, 24, 48, 96 và 192, kết quả là 0.4, 0.7, 1.0, 1.6, 2.8, 5.2, 10.0 và 19.6. Những con số này vừa vặn chính là số đơn vị thiên văn từ các hành tinh đến Mặt Trời. Một đơn vị thiên văn (AU) được định nghĩa là khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, xấp xỉ 93.000.000 dặm. Năm 1972, giám đốc đài thiên văn Berlin là J.Bode sau khi biết được đã đem nó công bố cho giới thiên văn. Vào năm 1781, sau khi phát hiện ra Sao Thiên Vương, đã tiến thêm một bước chứng minh rằng công thức này là đúng. Ông Bode đã đề xuất rằng ở giữa quỹ đạo của Sao Hoả và Sao Mộc có thể vẫn còn một hành tinh khác. Bởi vì công thức suy luận này chỉ duy nhất xuất hiện ngoại lệ ở vị trí 2,8 đơn vị thiên văn. Nếu chiểu theo công thức này thì ở vị trí đó đáng lẽ phải có một hành tinh, nhưng đến nay ở đó xuất hiện rất nhiều tiểu hành tinh và những mảnh vỡ thiên thạch tạo thành.

Giáo sư Michael Ovenden, nhà thiên văn học tại khoa Địa vật lý và thiên văn học và Viện khoa học thiên văn vũ trụ tại Đại học British Colombia ở Vancouver – Canada đã dành 25 năm để xây dựng lên một số bằng chứng thuyết phục chứng minh rằng, vành đai tiểu hành tinh trong hệ Mặt Trời xác thực là do một hành tinh nổ tung tạo thành. 1) Những tiểu hành tinh và thiên thạch này nhất định phải đến từ một thể hoàn chỉnh lớn, bởi vì chúng hình thành một dạng kết cấu tinh thể rất phức tạp, loại tinh thể này chỉ có trong quá trình làm lạnh cực kì chậm qua hàng triệu năm mới có thể hình thành. Đường kính tổng thể lớn này ít nhất phải từ vài trăm đến vài nghìn dặm. 2) Nhiều thiên thạch bị từ hoá, như thể chúng bị làm lạnh bởi từ trường của hành tinh lớn đang quay. 3) Hầu hết các thiên thạch có chứa sắt đều cho thấy đã từng hấp thụ tia bức xạ vũ trụ gấp hàng chục lần, rõ ràng là chúng được hình thành từ bức xạ nhiệt hạch của vụ nổ hành tinh. 4) Chỉ có vụ nổ nhiệt hạch mới có thể tạo ra nhiệt độ cực cao để tạo thành rất nhiều nham thạch nóng chảy hình dạng thủy tinh và quả cầu kim loại trên bề mặt của các tiểu hành tinh và thiên thạch. Nói cách khác, những sinh vật có trí huệ đã gây ra vụ nổ của hành tinh này.

“Người Thằn Lằn” đã từng thống trị Trái Đất?

Nếu giả thuyết hành tinh Maldek là có bằng chứng, thì giả thuyết về “người Thằn Lằn” cũng không phải là vô căn cứ. Ở Mỹ, nhiều người nói rằng đã tận mắt nhìn thấy “người Thằn Lằn”. Người ta từng chứng kiến “người Thằn Lằn” nửa người nửa thú tại khu vực đầm lầy ngoại ô Beeville, Nam Carolina, Mỹ; có ít nhất 12 bản ghi chép về vấn đề này. Chúng cao hai mét, khắp người có những đốm xanh, mỗi bàn tay chỉ có ba ngón, còn mọc ra một cái đuôi dài, cuối phần đuôi giống như ống tiêm, dáng đi thẳng đứng, rất khỏe, có thể dễ dàng lật nhào một chiếc ô tô, chúng chạy nhanh hơn cả ô tô. Dấu chân của chúng dài khoảng 35 đến 45 cm, in rất rõ ràng trên nền đất cát cứng. Đài phát thanh WCOS của Nam Carolina đã treo giải thưởng trị giá 1 triệu USD cho dũng sĩ bắt sống “người Thằn Lằn”, nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai bắt được.

Stwart A. Swerdlow đến từ Mỹ đã tiết lộ rằng, ông đã từng làm việc tại căn cứ bí mật của Dự án Montauk ở New York. Ông nói rằng toàn bộ phạm vi công việc của Montauk bao gồm hợp tác với người ngoài hành tinh, đường hầm thời gian, truyền tải tức thời, thí nghiệm kiểm soát ý thức, v.v… Sau khi dự án này kết thúc, hầu hết các nhân viên đều bị “tẩy não” hoặc “trừ khử”, chỉ có một số ít người trốn thoát thành công và bắt đầu công khai kể lại cuộc sống của mình. Stwart A. Swerdlow kể rằng, vào những niên đại vô cùng xa xưa, thiên hà Draco là nơi sinh sống của một chủng sinh vật trí tuệ cao – Reptilian (“sinh vật giống loài Bò Sát” hay còn gọi là “người Thằn Lằn”). Stwart cho biết, trong thời gian làm việc ở Montauk, ông đã từng thông qua phương tiện kỹ thuật cao để tiến hành “giao tiếp cảm ứng tâm linh” với “người Thằn Lằn” ở thiên hà Draco. Ông cho rằng ở một mức độ nào đó, “người Thằn Lằn” hay “người Bò Sát” là những sinh vật sớm nhất đến Trái Đất trước con người.

David Icke là nhà văn người Anh, có người coi ông là kẻ điên. Trong bộ phim, khi David đến thăm một thầy tế ở Nam Phi tên là Mutwa, Mutwa tiết lộ rằng Châu Phi cổ đại từng bị người Thằn Lằn thống trị, chính anh ấy cũng đã từng bị bắt cóc. Trong phim, Mutwa đã lấy ra một bức tranh vẽ thứ mà anh ấy gọi là người Thằn Lằn. Những đồ vật trong bức tranh cũng không phải hiếm thấy. Trong đền thờ Thần Hathor ở Dandarah, Ai Cập, cũng có bức tranh tương tự trông giống người Thằn Lằn đang đứng cạnh Pharaon.

Truyền thuyết về Điểu Xà Thần xuất hiện trên khắp thế giới. Theo truyền thuyết cổ xưa của Mexico, “Điểu Xà Thần” đã ban tri thức cho người Trung Mỹ. Nền văn hiến Yucatan nói với người dân khu vực bản địa về “Anh diêng” rằng tên thật của họ có nghĩa là “Truyền nhân của rắn”, tên người cai trị của họ là “Itzamna”, có nghĩa là “Thằn Lằn”, và được khắc họa với hình tượng nửa người nửa rắn. Hãy xem những bức bích họa của người Maya trên internet.

“Người ngoài hành tinh” thèm khát thân thể người

Cho dù người ta từng coi nền văn minh cực kỳ phát triển của “người Thằn Lằn” là “thần thánh”. Nhưng “người Thằn Lằn” dường như lại rất thèm muốn thân thể người. Gần đây trên mạng lưu truyền “Cuộc phỏng vấn người Thằn Lằn” bí ẩn. “Người Thằn Lằn” nói với người phỏng vấn: “Nếu các bạn có thể tiến thêm một bước nữa, thì loài người các bạn không cần dựa vào phương thức khoa học kỹ thuật vẫn có thể đạt được một ‘Bình Nguyên’, đến mức thân thể các bạn được cấu thành từ vật chất chưa được biết tới, vậy thì các bạn có thể trở thành sinh mệnh mạnh mẽ nhất mà các bạn nghĩ đến”. Họ còn chỉ ra rằng: Có những sinh mệnh cực kỳ cao cấp đang phát triển bên ngoài “Bình Nguyên” này, họ chỉ cần dựa vào ý niệm là có thể tiêu diệt tất cả mọi thứ của “người Thằn Lằn”. “Người Thằn Lằn” từ trước tới nay, chỉ có ba lần cơ hội tiếp xúc với loại sinh mệnh cao cấp này. Nhưng những sinh mệnh cao cấp này đối với “người Thằn Lằn” và con người là tuyệt đối vô hại, bởi vì sở thích của họ là khác biệt. Cá nhân tôi lý giải, thì những lời này cũng giống với câu “nhảy ra ngoài tam giới, không ở trong ngũ hành” của giới tu luyện. Vật chất trong tam giới được cho là cấu thành từ “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ”. Khi tầng thứ tu luyện của thân thể người vượt qua khỏi tam giới, thân thể vật chất này hoàn toàn được vật chất cao năng lượng thay thế. Lúc đó con người sẽ trở thành sinh mệnh cao cấp ngoài tam giới, thần thông quảng đại.

Một bộ phận người ngoài hành tinh tà ác ở không gian tầng thấp chỉ muốn chiếm đoạt thân thể người hoặc tinh hoa của thân thể người. Trong các sách cổ của Trung Quốc có rất nhiều câu chuyện về yêu ma quỷ quái ăn thịt người, ăn tim người. Trong “Tây Du Ký” rất nhiều yêu quái chỉ muốn ăn thịt Đường Tăng, họ tin rằng ăn thịt Đường Tăng có thể trường sinh. Trong câu chuyện “Họa Bì” có kể về một con quỷ muốn ăn tim của một thư sinh.

Đặc điểm chung của một số “thần minh” mà các bộ lạc ở Trung Mỹ cung phụng đều là yêu cầu cúng tế người sống. Lấy Quetzalcoatl còn gọi là “Điểu Xà Thần” (con rắn lớn thân dài có lông màu xanh) làm ví dụ, nó lấy trái tim của tù binh và đặt tù binh lên Kim Tự Tháp của người Maya, do vị Chủ Tế tư mổ lấy tim của tù binh làm tế phẩm (Hình 2). Người Aztec ở Mexico cũng đối xử với tù binh như vậy. Trên một bức bích họa cổ khác vẽ người Aztec đang cúng tế trước Kim Tự Tháp lớn thờ Thần Mặt Trời ở phía đông bắc thành phố Mexico (ảnh 3). David Icke, cũng trong cuốn sách “The Biggest Secret” (Bí mật lớn nhất) và “Tales from the Time Loop” (Những câu chuyện từ vòng lặp thời gian), đã miêu tả một nghi lễ quan trọng trong văn hóa Babylon và văn hóa Trung Mỹ – hiến tế máu. Trong truyền thuyết của người Babylon, người Sumer sống ở Iraq cổ đại đã đem những đứa trẻ làm tế phẩm hiến cho “thần minh” đến từ các vì sao.

Tại sao lại dùng người sống để hiến tế cho “thần minh”? Người Trung Quốc thường nói: “Ăn gì bổ nấy”. Có lẽ trong cơ thể con người có những vật chất mà bọn yêu ma quỷ này muốn. Nhà ngoại cảm người Mỹ Stewart A. Swerdlow tiết lộ rằng: Một loại người Thằn Lằn đột biến chỉ có thể duy trì ngoại hình cơ thể con người bằng cách thường xuyên hấp thu hooc-môn, máu và thịt của con người. Nhưng chúng lo ngại rằng hành động này sẽ dẫn đến tâm lý phản kháng của con người, vậy nên thường lợi dụng các nghi thức tôn giáo dưới hình thức hiến tế thân người để đáp ứng được nhu cầu này.

Thế gian có bao nhiêu người có thể hiểu được hàm nghĩa thực sự của câu “Thân người khó đắc, Phật Pháp khó nghe thấy”? Rất nhiều người không biết quý trọng thân thể của mình, nào là ma túy rượu chè, hạ thấp bản thân, trong khi người ngoài hành tinh vì để đắc được thân người mà hao tận tâm trí. Một số “người ngoài hành tinh” rất say mê với thí nghiệm di truyền. Các nơi trên thế giới đều có báo cáo về sự mất tích bí ẩn của người và động vật, có người bị cắt đi phôi thai một cách bí ẩn. Nhưng thân thể người từ hồng quan đến vi quan đều do chúng Thần tạo ra, cho đến cực vi quan cực vi quan là hoàn mỹ như thế, đây đâu phải là điều mà kỹ thuật của người ngoài hành tinh có thể đạt được? Tôi hiểu rằng những dân tộc và cá nhân thực sự tín ngưỡng vào chính Pháp, chính giáo thì người ngoài hành tinh không dám động đến. Để cắt đứt mối liên hệ giữa con người và các Chính Thần, họ đã sử dụng hai thủ đoạn hèn hạ: Một là cấp cho con người “thuyết tiến hóa” và khoa học cực kì nông cạn, hai là làm hỗn tạp nhân chủng. Mexico là vùng đất thảm họa với nhân chủng hỗn tạp vào thời cận đại, đây có thể là một nguyên nhân khiến người ngoài hành tinh “yêu” Mexico đến vậy.

Bất luận là người ngoài hành tinh hay con người mà muốn đóng vai “Thần” hay “Thượng Đế”, thì nhất định sẽ chịu sự trừng phạt nghiêm khắc của chúng Thần. “Atlantis” là một nền văn minh tiền sử cực kỳ tiên tiến trên Trái Đất, thời hậu kỳ của nó cũng xuất hiện một số lượng lớn thí nghiệm di truyền để “tạo ra” vật chủng. Vì con người đã đóng vai diễn của “Thần”, do đó toàn bộ lục địa đã chìm xuống đáy biển.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/78525

The post Loạt bài Mexico 2012 (07): Người ngoài hành tinh thèm khát thân thể người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (6): Tam giới và “con người”https://chanhkien.org/2023/10/loat-bai-mexico-2012-6-tam-gioi-va-con-nguoi.htmlSun, 15 Oct 2023 02:30:29 +0000https://chanhkien.org/?p=31539Tác giả: Vương Bân [ChanhKien.org] Người Mỹ có một câu nói nổi tiếng đó là: “God Bless America!” (Chúa phù hộ nước Mỹ) và câu “In God We Trust” (Chúng ta tin vào Thượng đế) được in trên đồng đô la Mỹ với nhiều mệnh giá khác nhau. Đến Mexico tôi chợt nhớ ra một […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (6): Tam giới và “con người” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vương Bân

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế. Tranh Thiên Quốc: hoạ sĩ Jonathan Wiltshire, Tháp Chichen Itza chụp bởi Dennis Jarvis

Người Mỹ có một câu nói nổi tiếng đó là: “God Bless America!” (Chúa phù hộ nước Mỹ) và câu “In God We Trust” (Chúng ta tin vào Thượng đế) được in trên đồng đô la Mỹ với nhiều mệnh giá khác nhau. Đến Mexico tôi chợt nhớ ra một câu nói: “Ailen Love Mexico!” (Người ngoài hành tinh yêu Mexico). Quả đúng như vậy, Mexico là vùng đất được người ngoài hành tinh yêu thích. Có rất nhiều sự kiện đã được đưa tin, những sự kiện chưa được đưa tin lại càng nhiều hơn. Tôi đã từng hỏi một vài người bạn Mexico, hầu hết bọn họ đã tận mắt nhìn thấy UFO.

Truyền thuyết kể rằng tổ tiên của người Maya đến từ chòm sao cụm sao phân tán M45 (Pleiades), hay còn gọi là “chòm sao bảy chị em” (Ảnh: NASA)

Một trong những vụ người ngoài hành tinh nổi tiếng nhất thế giới gần đây là: Tại một nông trại ở Mexico, người ta đã phát hiện một “đứa bé ngoài hành tinh” vẫn còn sống bị mắc vào bẫy thú! Khi đó người phát hiện là Marao Lopez đã rất sợ hãi, ông muốn dìm chết “đứa bé ngoài hành tinh” đang còn sống này. Phải mất vài giờ đồng hồ, sau ba lần thử, Ông Lopez mới dìm chết được nó. Vài tháng sau, ông ấy cũng chết một cách bí ẩn. Người ta phát hiện Lopez bị thiêu sống trong xe ô tô của ông ấy bởi nhiệt độ cực cao, thi thể bị đốt cháy hoàn toàn thành tro. Đến nay. cảnh sát vẫn chưa tìm ra nguyên nhân. Không còn nghi ngờ gì nữa, Mexico là nơi được người ngoài hành tinh “yêu rồi”.

Họ có phải là “con người” không?

Thế giới rộng lớn, không chuyện kỳ lạ nào là không có. Từ căn phòng khách sạn cao hàng chục tầng ở thành phố Mexico nhìn xuống, người đi trên đường trông giống như đàn kiến. Trong đêm tối, tôi đang trầm tư suy nghĩ bên cửa sổ, tôi nghĩ: Trên thế giới này có bao nhiêu “người” nhìn bề ngoài thì là người, nhưng thực chất không phải là con người? Bằng huệ nhãn của người tu luyện có thể phân biệt được. Thậm chí còn có “người” ngay cả dùng mắt thường mà nhìn cũng không phải là người! Năm 1994, thành phố Mexico công bố một tin tức gây chấn động. Đường phố của thành phố này do một lần bị sụt lở bất ngờ, đã phát hiện ba “người chuột chù” trong ống cống nước thải dưới lòng đất. Ba “người chuột chù” này đã bị đè chết do đất sụt. Những người chuột chù này đều có thân hình nhỏ bé, ước chừng chỉ cao khoảng 3 feet (gần 0.9 mét), nhưng chân tay tứ chi đều hoàn chỉnh.

Suy nghĩ của tôi quay trở về 11-12 năm trước, không lâu sau khi Trung Cộng bắt đầu đàn áp tàn khốc Pháp Luân Công. Rất nhiều nơi ở thành phố Bắc Kinh tràn ngập ma khí, hoảng loạn. Rất nhiều người bạn đều nói về việc thậm chí chỉ ngồi trong xe đi một vòng quanh Trung Nam Hải hoặc Thiên An Môn, thân thể đã không tự chủ được mà phát run, phát lạnh, chân đứng không vững. Chín năm sau, tôi may mắn được trực tiếp thỉnh giáo một vị giác giả vĩ đại về hiện tượng năm đó, từ đó mới biết được vào thời điểm đó, tà ác và nghiệp lực của toàn vũ trụ đều bị ép xuống dưới, thân thể của chúng ta đương nhiên sẽ có phản ứng. Cũng tại thời điểm đó, vào một buổi chiều, tôi và một học viên Pháp Luân Đại Pháp đang đi bộ trên đường phố Bắc Kinh để đến thăm một vị đồng tu Pháp Luân Đại Pháp khác (nhân tiện nói một câu, việc này vào thời điểm đó bị coi là “phạm pháp” và đủ để bị lao động cải tạo). Nhìn thấy trước mặt có một “người” tiến đến, tôi định thần lại, trời ạ, đây đâu phải là người. Có vẻ như “cô ấy” là “nữ”, trông giống cơ thể của người nhưng lại có khuôn mặt của lợn. Khuôn mặt quái vật đó còn xấu hơn cả Trư Bát Giới trong Tây Du Ký. Nếu so với “người mặt lợn” này, thì Trư Bát Giới trên tivi cũng giống như tướng mạo của đại mỹ nam Phan An (thời Tây Tấn). Tôi lúc đó lập tức ngẩn người chết lặng, sửng sốt. Lại nhìn đồng tu bên cạnh mình, cô ấy đã sống đến ngoài 40 tuổi rồi chắc cũng chưa gặp qua loại “người” này, cô cũng sững người, lắc đầu môt cái rồi quay sang một bên. “Người” đó cũng nhìn thấy chúng tôi liền nhanh chóng bỏ đi. Sau khi đi qua một quãng đường dài, tôi và đồng tu dừng lại, trong tâm cảm thấy rất khó chịu. Thực sự buồn nôn. Phật gia giảng khi nghiệp lực của con người lớn rồi thì thứ xấu xí nào trên thế giới cũng đều xuất hiện. Sau khi bình tĩnh lại, tôi nói với người đồng tu bên cạnh: “Người đó phải tạo biết bao nhiêu nghiệp mới biến thành thế này, (chúng ta) đúng là nhân thân nan đắc!”

UFO và người Maya

Vào ngày 11 tháng 7 năm 1991, thành phố Mexico đã xảy ra một sự kiện UFO rất trọng đại. Ở khu siêu đô thị và các vùng lân cận, có trên một triệu người đã tận mắt chứng kiến sự kiện này. Có 17 máy ảnh ở nhiều địa điểm khác nhau đã đồng thời ghi lại cảnh tượng lúc đó, hơn nữa giữa các nhiếp ảnh gia cũng không hề quen biết nhau. Tiếp theo đó giới truyền thông Mexico rất bận rộn, thậm chí có đài truyền hình rất nổi tiếng còn sản xuất một chương trình kéo dài 10 tiếng để thảo luận về việc này.

Ngày 11 tháng 7 năm 1991 là một ngày vô cùng đặc biệt, năm 755, các thầy tế của người Maya cách đây hơn 1200 năm đã dự đoán rằng nhật thực toàn phần sẽ xảy ra vào ngày này, đánh dấu sự khởi đầu cho sự thức tỉnh của con người về “nhận thức đối với vũ trụ” và sự thay đổi của trái đất (thời kỳ canh tân) sắp bắt đầu. Ngày hôm đó, hàng ngàn hàng vạn cặp mắt nhìn lên bầu trời. Kết quả là sau 1:00 chiều ngày 11 tháng 7 năm 1991, những dự ngôn của người Maya dường như đã bắt đầu được triển hiện. Khi nhật thực toàn phần xảy ra, thành phố Mexico dần dần chìm vào bóng tối. Lúc này, một chiếc đĩa bay màu bạc xuất hiện trên bầu trời thành phố Mexico, trong video ghi lại được đĩa bay này xuất hiện trong thời gian khoảng 23 phút. Trong cuốn “Dresden Codex”, người Maya nói rằng: “Trong thời đại (kỷ nguyên mới) của kỷ mặt trời thứ sáu, những gì bị che giấu sẽ được phát hiện lần nữa, và chân tướng sẽ trở thành hạt giống của sinh mệnh. Những con dân của kỷ mặt trời thứ sáu sẽ là những người du hành giữa các vì sao”.

Một trong những bộ lịch bí ẩn của người Maya (Ảnh: Vương Bân)

Trong truyền thuyết, các trưởng lão của người Maya cho rằng người Maya thuở sơ khai đến từ chòm sao Pleiades. Từ chòm sao Pleiades này có thể nhìn thấy bảy ngôi sao sáng, giống như bảy vị Tiên nữ bước đi trong không gian vũ trụ. Vì vậy chòm sao Pleiades còn có tên gọi khác là “chòm sao bảy chị em”. Trong thần thoại Trung Quốc cổ đại cũng có bảy vị Tiên nữ hạ phàm thành thân với Đổng Vĩnh, đã biểu diễn một đoạn câu chuyện “Thiên Tiên phối” (Tiên nữ kết đôi). Trong Chuyển Pháp Luân, quyển 2 có nói: “Người trên thiên thượng là có thân thể, họ bay qua đây thì giống như chúng ta. Dưới đáy [những] núi lớn ở Trung Quốc là có chôn người trời; họ chết đi thì có [người] được chôn dưới núi”. Trong truyền thuyết, những sinh mệnh cao cấp đến từ chòm sao Pleiades trong thời kì văn minh Lemuria và Altans đã luôn duy trì mối liên hệ với người Maya, đồng thời trợ giúp họ khai sáng ra nền văn hóa Maya phát triển ở mức độ cao.

Những bản ghi chép của người Maya cổ và rất nhiều bằng chứng khảo cổ đã chứng minh người Maya đã biết về việc tu hành. Trên đồ gốm sứ và tác phẩm điêu khắc của họ đã mô tả lại các tư thế, thủ ấn và đả tọa lúc con người tu hành, v.v… Có thể khẳng định rằng, vào thời kỳ đầu người Maya phổ biến tu hành các pháp môn của Phật gia. Đến cuối thời kỳ Maya, điều họ tin là “yêu ma quỷ quái” hoàn toàn không có hình tượng người. Cuối thời kỳ Maya đã phổ biến chọn dùng việc hiến tế người sống đầy máu tanh, tim của người sống bị móc ra hiến tế cho “Thần” mà họ tin. Không chỉ người Maya, trong thời kỳ văn minh này, rất nhiều bộ lạc Indian châu Mỹ đều dùng người sống để hiến tế. Người Maya thời kỳ cuối khi cầu cũng là mong mưa thuận gió hòa, ngũ cốc bội thu, sớm đã quên mất ý nghĩa của đời người. Chỉ có tu luyện Đại Pháp mới có thể nhảy ra khỏi tam giới, thoát khỏi sinh tử, đến được Thiên quốc vĩnh hằng.

Vũ trụ viễn cổ

Tại một thời kỳ rất lâu rất lâu về trước, khi vũ trụ vẫn chưa có tam giới, trong đại khung khắp nơi đều là những thế giới của Thần Phật thánh khiết. Mỗi một thế giới đều có Vương hoặc Chủ của mình. Hướng lên các tầng trên thì, các hạt vật chất của thế giới càng cao thì càng vi tế, càng đạm hóa, càng mỹ hảo. Sinh mệnh cũng là càng lên cao càng tuấn mỹ, năng lượng càng lớn, niệm lực càng nhanh. Rất nhiều Thần Phật tuy rằng có hình tượng của con người (con người chính là chúng Thần dựa theo hình tượng bản thân mình tạo ra), nhưng lại mỹ diệu đến mức không thể nào dùng ngôn ngữ của con người để hình dung được. Còn có nhiều Thần có hình tượng khác nữa. Trong thế giới của Thần cũng có thực vật, động vật, như táo, chuối, quýt, sư tử, hổ và các loại thần thú, chúng tuy rằng là sinh vật của cảnh giới đó nhưng lại có thể hệ độc lập của riêng mình. Lại hướng lên tầng tầng, tầng cao nhất chính là vương của chủng sinh vật đó, Táo Vương, Chuối Vương, Sư Tử Vương, Hổ Vương, vv… Con người hiện đại biến đổi gen, lấy gen của hai loại sinh vật kết hợp lại với nhau, tạo ra chủng động thực vật mới. Ví dụ, nào là sư tử hổ, ngựa vằn la,v.v… Trên thực tế là làm việc xấu, việc lai tạp gen của hai chủng sinh vật sẽ cắt đứt mối liên hệ của sinh vật và thể hệ của chúng, không còn gốc rễ nữa. Loại sinh vật hỗn tạp này thì Thần không thừa nhận. Một khi chúng được sinh ra sẽ có rất nhiều khiếm khuyết về sinh lý, cả một đời thống khổ. Chỉ là người thường không biết.

Sau khi đến cảnh giới rất cao, hình tượng thân thể cũng không có nữa, hình thức của sinh mệnh là ánh sáng và năng lượng. Hạt vật chất vi tế có thể xuyên thấu hạt vật chất thô tháo. Sinh mệnh ở trên một tầng đối với sinh mệnh của cảnh giới thấp hơn là thần thông quảng đại tuyệt đối, một niệm là tạo thành thế giới.

“Một hạt cát, một thế giới, một chiếc lá, một cây bồ đề”

Vậy thì thế giới của Thần Phật nhiều như vậy ở nơi nào? Cổ nhân nói: “Một hạt cát, một thế giới, một chiếc lá, một cây bồ đề”. Các nhà vật lý hiện đại hiện nay nhận thức đến được “các hạt cơ bản nhất” cấu thành nên thế giới vật chất này của chúng ta có 12 loại, gồm có sáu loại hạt quark, ba loại lepton tích điện và ba loại neutrino. Bên dưới chúng là gì, khoa học hiện đại vẫn chưa nhận thức đến được. Nhưng theo cách nhìn của Phật gia, có vô số thế giới được cấu thành từ các lạp tử vi quan và vi quan hơn nữa. Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói rằng, trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới, hạt cát ở bên trong tam thiên đại thiên thế giới của hạt cát kia lại có tam thiên đại thiên thế giới, vô cùng vô tận. Các nhà khoa học hiện đại đã phát hiện rằng lực xuyên thấu của neutrino là cực mạnh, có thể dễ dàng xuyên qua hàng chục triệu trái đất mà không gặp trở ngại nào. Đôi mắt của người thường là do phân tử cấu thành, nên không nhìn thấy được thế giới cấu thành từ vật chất vi quan hơn. Sinh mệnh thấp hơn một tầng cũng không nhìn thấy được thế giới ở tầng cao hơn. Nhưng con người thông qua tu luyện có thể nhìn thấy được sự việc phát sinh ở thế giới vi quan (Thiên thượng).

Thời gian của thế giới cấu thành từ lạp tử vi quan so với thời gian của không gian nơi con người sai biệt cực lớn. Thuyết tương đối của Einstein cho rằng khi tốc độ của vật thể đạt đến tốc độ ánh sáng thì nó sẽ cảm nhận được thời gian sẽ ngừng trôi, nếu vượt qua tốc độ ánh sáng sẽ xuất hiện “đảo ngược thời gian”. Người ta luôn tin rằng không có tốc độ của bất kì vật thể nào có thể nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên vào ngày 22 tháng 9 năm 2011, các nhà nghiên cứu của dự án “Opera” thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Gran Sasso của Ý công bố một kết quả nghiên cứu làm chấn động nền vật lý hiện đại. Họ̣ đã sử dụng một bộ thiết bị thu được chùm tia neutrino phóng ra từ trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu cách đó 730km và phát hiện rằng neutrino đã đến sớm hơn photon 60 nano giây (1 nano giây bằng 1/1.000.000.000 giây), tốc độ bay của chúng nhanh hơn tốc độ ánh sáng 2,47/100.000, tức là “chạy” nhiều hơn 7,4km mỗi giây. Thông thường, các hiện tượng mới trong vật lý hạt đạt đến 4 lần độ lệch tiêu chuẩn có thể được xác nhận, mà kết quả này đạt được đến 6 lần, xác suất lên đến 99.9999998%. Nhóm thí nghiệm MINOS của Mỹ vào năm 2007 từng đưa ra kết luận gần tương tự, phương pháp áp dụng của hai nhóm thí nghiệm gần như hoàn toàn tương đồng. Người Trung Quốc xưa thường nói: Trên trời mới một ngày, mà dưới đất đã qua nghìn năm. Khi thân thể bạn thu nhỏ lại, nhỏ đến mức mà đứng trên hạt neutrino cũng giống như bây giờ bạn đang đứng trên trái đất vậy, khi đó bạn sẽ thấy rằng thời gian và không gian của thế giới đó là một khái niệm hoàn toàn khác. Trong thế giới đơn nguyên của Thần Phật không có sự di động của thời gian, sinh mệnh cũng sẽ không bị già hay chết đi. Một năm mà Thần Phật nói cũng không phải là một năm mà con người nghĩ.

Những thứ được cấu thành từ các hạt vật chất càng vi quan thì càng vững chắc, muốn phân tách chúng cần dùng năng lượng càng lớn. Các nhà vật lý cần phải sử dụng máy gia tốc hạt cực dài để thu được các chùm hạt năng lượng cực cao mới có thể làm nổ tung nguyên tử, từ đó mới phát hiện được thành phần cấu tạo bên trong của nó. Mà muốn phân tách hạt quark, neutrino và các hạt vi quan hơn, thì khoa học hiện đại không thể làm được. Thế giới Thiên quốc và Phật quốc được cấu thành từ các hạt cực kỳ vi quan, đối với con người mà nói gần như là tồn tại vĩnh hằng.

Tam giới thuở sơ khai

Sau khi trải qua những năm tháng lâu dài, một số sinh mệnh trong vũ trụ xuất hiện “tự tư”. Lúc mới đầu con số không nhiều, từ cao tầng mà nhìn thì vật chất và tinh thần là nhất tính, “tự tư” làm cho thân thể những sinh mệnh này dần dần nặng hơn, chỉ có thể rớt xuống. Những sinh mệnh từ thế giới vô cùng mỹ hảo này từng tầng từng tầng rớt xuống tầng đáy của vũ trụ, nếu lại rớt xuống nữa sẽ bị tiêu hủy. Chúng Thần Phật đã xuất tâm từ bi mà sáng tạo ra tam giới, lần nữa cấp cho sinh mệnh một lần cơ hội cuối cùng. Tất cả vật chất trong tam giới đều cấu thành từ ngũ hành. Sinh mệnh có một thân thể vật chất hóa thì sẽ tồn tại sinh, lão, bệnh, tử, chịu cái khổ của luân hồi. Trong tam giới có chín tầng trời lớn (33 tầng trời nhỏ), sau đó lại sáng tạo ra con người hiện nay trong thế giới vật chất này, cùng với địa ngục gọi là tam giới. Tam giới thời kỳ đầu vốn không có con người, trên trái đất cũng không có con người. Những sinh vật “ngoài hành tinh” hình thù quái dị khi đó thực ra mới là chủ của địa cầu này. Gần đây trên mạng lan truyền “dân bản địa của trái đất – ghi âm phỏng vấn với người thằn lằn”, có những tình tiết trong đó là sự thật.

Phật gia giảng lục đạo luân hồi. “Lục đạo” là chỉ con người, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Tất cả sinh vật trong tam giới đều phải trải qua lục đạo luân hồi. Kinh Phật nói: “Vì có tình nên luân hồi mới sinh ra lục đạo, giống như bánh xe không có điểm cuối cùng và bắt đầu”. Tam giới tuy có khổ, nhưng có thể tu luyện và đề cao. Sinh mệnh trong tam giới, không thể xuất khỏi tam giới, trừ khi tu luyện đạt được tiêu chuẩn.

Mỗi một dân tộc trên trái đất, đều có một nguồn gốc đối ứng trên Thiên thượng. Mỗi tế bào của thân thể người, mỗi một kinh mạch đều được liên kết chặt chẽ với thế giới mà mình đã rời đi tại vi quan. Thời đầu lúc sáng tạo tam giới, trời định ra các chúng Thần Phật tự chịu trách nhiệm giáo hóa các chúng sinh trong thế giới của mình bị rớt xuống. Người bình thường rất khó lý giải chính xác được tại sao Thượng Đế (thần Giehova) trong Kinh Thánh không cho phép người Israel tín phụng Thần khác, Ông nói với vua Solomon rằng: “Nếu không tuân thủ những điều răn và luật lệ mà ta ban cho các ngươi mà đi phụng sự, kính bái Thần khác thì ta sẽ trục xuất người dân Israel khỏi vùng đất mà ta đã ban cho họ, thậm chí cả tòa thánh điện này mang tên ta, ta cũng sẽ vứt bỏ ngay trước mặt không quan tâm, làm cho người Israel trở thành đối tượng bị cười nhạo và châm biếm trong vạn tộc”. Cũng rất ít người thực sự hiểu được tại sao Thượng Đế nghiêm cấm Vua Solomon cưới người phụ nữ của chủng tộc khác về làm vợ. Khi Vua Solomon làm như vậy, ngài Giehova nói rằng: “Ta sẽ lấy Vương quốc của ngươi và ban quốc gia cho một trong các hạ thần của ngươi”. Thực ra khi con người không tin vào Thần của mình thì sẽ không còn hy vọng quay về Trời nữa. Và khi con người làm hỗn tạp nhân chủng, thì cơ sở để quay về Trời cũng không còn nữa.

Sau đó vì để giáo hóa chúng sinh trên trái đất, trong tam giới lại xuất hiện một chủng sinh mệnh khác, họ hoàn toàn vì để cứu độ chúng sinh trong thế giới của mình mà đến. Họ rất vĩ đại, khi chuyển sinh đến thế gian là không có tội. Tuy nhiên, bất kể là ai đến chuyển sinh đều bị xóa ký ức, mất đi tất cả những gì trước đây. Đến nơi này thì đều trở thành sinh mệnh giống với con người, đây là quy định của tam giới. Rất nhiều Thần Phật đã đến theo cách như thế cũng không quay về được. Càng đáng sợ hơn là trong những năm tháng dài đằng đẵng đó, cái “tự tư” này đã thẩm thấu đến tầng rất cao của vũ trụ. Dần dần đến mức sinh mệnh các tầng đều không cảm nhận được loại biến hóa này. Trong vũ trụ viễn cổ đã từng lưu truyền một dự ngôn rằng, chỉ có “Pháp Luân Thánh Vương” mới có thể triệt để giải quyết vấn đề này. Phật Thích Ca Mâu Ni năm đó cũng từng nói với chúng đệ tử của ông về chuyện của “Pháp Luân Thánh Vương”.

Trong tập tiếp theo tôi sẽ dùng nhận thức của mình giới thiệu với độc giả về sinh mệnh trong tam giới và trái đất thời viễn cổ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/78314

The post Loạt bài Mexico 2012 (6): Tam giới và “con người” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (05): Thuyết tiến hóa, lời nói dối thế kỷhttps://chanhkien.org/2023/10/loat-bai-mexico-2012-05-thuyet-tien-hoa-loi-noi-doi-the-ky.htmlMon, 09 Oct 2023 04:41:13 +0000https://chanhkien.org/?p=31483Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Thế sự phức tạp như một bàn cờ, mọi thứ tựa hồ như không có sắp đặt nhưng tất cả đều có an bài. Có sự sắp đặt của chính Thần, cũng có kế hoạch của ma quỷ. Nếu tĩnh tâm quan sát, nghiêm túc suy nghĩ thì người có […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (05): Thuyết tiến hóa, lời nói dối thế kỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Thế sự phức tạp như một bàn cờ, mọi thứ tựa hồ như không có sắp đặt nhưng tất cả đều có an bài. Có sự sắp đặt của chính Thần, cũng có kế hoạch của ma quỷ. Nếu tĩnh tâm quan sát, nghiêm túc suy nghĩ thì người có trí huệ có thể nhìn rất rõ. Người thường chỉ biết tìm kiếm cái mới lạ, hiền nhân có thể biết được ý nghĩa sâu xa, thánh nhân có thể hiểu rõ nhân quả.

Ảnh internet: Darwin ape

Darwin, sứ giả của ma quỷ

Sinh tiền Darwin nguyền rủa Thượng Đế, nguyền rủa giáo lý của Cơ Đốc giáo, đồng thời tự gọi mình là “Mục sư của quỷ”. Bản thân tôi rất đồng ý với xưng hiệu của ông ta đặt cho mình, nhưng từ “mục sư” thường được dùng trong Cơ Đốc giáo, nên đổi thành “sứ giả của ma quỷ” có vẻ thích hợp hơn. Sự xuất hiện của thuyết tiến hóa đã làm lung lay nghiêm trọng tín ngưỡng của con người đối với Thần, khiến con người coi tôn giáo và đạo đức thiện ác là sự lừa dối. Thuyết tiến hóa nói với con người rằng con người và loài vật không gì khác biệt, kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, kẻ mạnh sinh tồn là quy luật của tự nhiên. Tư tưởng của thuyết tiến hóa đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của con người, khiến cho đạo đức của con người xuống cấp nhanh chóng.

Darwin cùng với Marx và Engels là những người cùng thời đại. Sự xuất hiện của thuyết tiến hóa đã nhanh chóng nhận được sự chú ý của Marx và Engels và đã trở thành một trong “ba nền tảng của khoa học tự nhiên” của chủ nghĩa Marx. Trong hơn 100 năm sau đó, những thảm họa mà chủ nghĩa Marx mang đến cho nhân loại là quá rõ ràng. Ở tất cả các nước cộng sản trên thế giới, sinh mệnh con người bị coi như loài sâu kiến. Nơi ít thì số người bị tàn sát là hàng vạn, nơi nhiều thì lên đến hàng triệu. Tất cả các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đều tôn sùng thuyết tiến hóa. Thuyết tiến hóa đã được ghi vào trong sách giáo khoa của các quốc gia này, trở thành “chân lý tiêu chuẩn không thể phá hủy ở năm châu bốn biển”. Ở Trung Quốc, thuyết tiến hóa được giảng dạy như một sự thật không thể thay đổi. Có người nói đùa rằng người Trung Quốc tiến hóa tốt nhất trong thế kỷ 20, bởi vì hầu hết mọi người đều bị bỏ đói, bị giết và bị bức hại đến chết, còn lại chính là “kẻ chiến thắng”.

Mắt xích trung gian bị mất

Thuyết tiến hóa hoàn toàn phủ định sự sáng tạo của Thần, dùng lời của Darwin mà nói thì đại đột biến cũng tương đương với phép màu, vì vậy Darwin tuyên dương rằng sinh vật dần dần biến đổi, “tiến hóa” mà không dựa vào sự dẫn dắt của Thần linh hoặc sức sống bí mật. Do đó, ông ta phải đối mặt với một thách thức rất lớn đó là không tìm được hóa thạch của quá trình “mắt xích trung gian” của sinh vật tiến hóa.

Giới học thuật đương đại cho rằng dòng thời gian tiến hóa của loài người là: người vượn cổ (Dryopithecus, 14-8 triệu năm trước), vượn người phương Nam (Australopithecus, 4-1,9 triệu năm trước), vượn người (Hominin, 1,7 triệu – 200 nghìn năm trước). Từ điểm này mà xét, thiếu hụt khoảng cách 4 triệu năm giữa người vượn cổ và người vượn phương Nam (tức khoảng từ 8-4 triệu năm trước), và khoảng cách 200 ngàn năm giữa người vượn phương Nam và vượn người, trong “giai đoạn tiến hóa quan trọng này”, cho đến nay vẫn chưa tìm thấy được hóa thạch nào của các chủng loài chuyển tiếp. Vì vậy một số “nhà khoa học” đã đưa ra “thuyết vượn biển”. Nói thẳng ra là tất cả những “con khỉ” đều đi xuống biển và ở lại biển suốt 4 triệu năm. Nhưng mãi cho đến nay trong số lượng lớn hóa thạch sinh vật biển chúng ta đã phát hiện được vẫn chưa tìm thấy hóa thạch “vượn biển”. Đáng tiếc vào thời điểm năm 1960, tôi vẫn chưa được sinh ra. Nếu không tôi thực sự muốn hỏi nhà “nhân chủng học” người Anh quốc Alister Hardy, tuy rằng ngoài biển rất đẹp, những chú khỉ này đã bằng lòng sống trên 4 triệu năm, vậy tại sao “loài khỉ” ngày nay không ra biển? Một con cũng không thấy.

Các sinh vật được tìm thấy trong giới tự nhiên đều có chủng loại rõ ràng, trong toàn bộ hồ sơ hóa thạch cũng không có bất cứ điểm nào thể hiện rõ rằng sinh vật biến đổi từ loài này sang loài khác, đồng thời từ trong hồ sơ hóa thạch về những loài biến mất một triệu năm về trước thì cơ bản không có bất kỳ biến đổi nào. Nhiều loài được coi là tổ tiên vậy mà lại tồn tại đồng thời cùng với “hậu duệ”. Darwin ngụy biện với việc thiếu các mắt xích trung gian như: người khai quật hóa thạch quá ít nên không thu được nhiều hóa thạch.

Đầy rẫy ngụy biện và logic sai lầm

Những người theo chủ nghĩa Darwin thường nhận định võ đoán rằng thuyết tiến hóa chắc chắn là chân lí, họ cho rằng hoàn toàn không cần thiết phải kiểm chứng học thuyết của Darwin. Sau đó họ nêu ra lý do rằng nếu chúng tôi đúng thì quan điểm của bạn sai, và vì bạn sai nên chúng tôi đúng. Năm đó, Thomas H Huxley đã tự gọi mình là “con chó hung ác của Darwin”. Ông ta đưa ra thách thức đối với tất cả những người hoài nghi, ông ta đưa ra “câu hỏi khó” là “bạn còn lựa chọn nào khác đây?”

Nghiên cứu tỉ mỉ một chút về thuyết tiến hoá, bạn sẽ phát hiện rằng nó có đầy rẫy những kiểu lập luận vòng vo và ngụy biện logic. Nhưng mọi người đã nhắm mắt làm ngơ, căn bản không hề cân nhắc kỹ lưỡng về điều này. Ví dụ: “Nếu con người là từ vượn tiến hóa thành thì người và vượn sẽ có nhiều đặc điểm giống nhau; vì con người và vượn có nhiều điểm tương đồng nên con người tiến hoá từ vượn”. Một ví dụ khác, là một ví dụ nổi tiếng về chiếc đuôi công. Có người thách thức thuyết tiến hoá, hỏi tại sao chiếc đuôi tuyệt đẹp của con công đực lại là trở ngại khi chạy trốn kẻ thù, tại sao con công lại “tiến hóa” thành chiếc đuôi như vậy? Các nhà tiến hoá nói: Chiếc đuôi tuyệt đẹp của con công đực có thể dùng để thu hút con công cái và tăng cơ hội sinh sản. Nói cứ như thể bản thân anh ta cũng là một con công cái vậy, nếu không thì làm sao anh ta biết con công cái cảm thấy thích cái đuôi tuyệt đẹp mà không phải là đôi cánh cơ bắp to vạm vỡ hoặc là cái đầu to đẹp trai? Một ví dụ khác vào thế kỉ 19, Haeckel của nước Đức đã đưa ra một giả thuyết gọi là “Định luật phát sinh sinh vật”, cho rằng sự phát triển phôi thai của sinh vật bậc cao sẽ tái hiện lại quá trình tiến hoá của loài đó. Giả thuyết này ngay khi được đưa ra đã trở thành bằng chứng quan trọng cho thuyết tiến hoá: nếu tiến hoá tồn tại, thì “hiện tượng phát sinh sinh vật” của phôi thai rất giống với sự phản ánh của quá trình tiến hoá; vì có hiện tượng phát sinh sinh vật nên tiến hoá là tồn tại. Kỳ thực không ai hiểu được giữa “hiện tượng phát sinh sinh vật” và tiến hoá có quan hệ gì, và họ khẳng định rằng đó là mối quan hệ nhân quả.

Người của thuyết tiến hoá đả kích thậm tệ những người bất đồng chính kiến

Cách mà người của thuyết tiến hoá đả kích những người bất đồng chính kiến gần như bất chấp đạo lý.

Vào những năm 1960, ở phía Đông Nam thành phố Mexico đã khai quật được các công cụ bằng đá tinh xảo, ở khu vực gần El Houno cũng khai quật được một số công cụ bằng đá thô sơ. Mỹ đã cử một đoàn khảo sát đến để giám định. Ba nhà địa chất đã dùng bốn phương pháp độc lập: 1) phương pháp xác định niên đại uranium hàng loạt, 2) phương pháp truy tìm phân rã chất đồng vị, 3) phương pháp hydrat hóa tro núi lửa, 4) phương pháp xâm thực khoáng chất. Cả bốn phương pháp đều cho ra một kết quả niên đại khổng lồ — 25 vạn năm! Từ đó đã dấy lên một trận sóng to gió lớn. Nếu con số này được chấp nhận thì toàn bộ thuyết tiến hoá đều phải sửa đổi. Họ vì vậy mà bị những người bảo vệ thuyết tiến hoá đàn áp trong suốt hơn một thập kỷ. Được gọi là những nhà đầu cơ, những người chuyên lấy lòng người khác rút kinh phí nghiên cứu khoa học, thất nghiệp, bị từ chối tuyển dụng trong các lĩnh vực liên quan, mất hết danh dự, v.v. Nhà khảo cổ học quá cố Ameta cũng chịu số phận tương tự. Ở Mexico ông đã phát hiện được một mũi giáo sắt 260.000 năm tuổi ở trong xương hàm của một con động vật thời tiền sử, sự nghiệp của ông từ đó cũng bị dập tắt.

Miller, giám đốc viện bảo tàng đại học Imperial Valley ở Hoa Kỳ đã đào được sáu hóa thạch voi ma mút ở sa mạc Anza- Borrego thuộc bang California, bên trên chúng có những vết dao rất rõ ràng, Cơ quan địa chất Hoa Kỳ đã dùng phương pháp phân rã uranium đo ra được niên đại 300.000 năm, từ phương pháp đo niên đại cổ địa từ và mẫu vật núi lửa cho thấy niên đại của nó là 750.000 năm. Một học giả nổi tiếng nói rằng phát hiện của Miller giống như một con quái thú và hoang đường như việc phát hiện một con voi ma mút còn sống ở Siberia. Miller nói: “Những người này không hy vọng bằng chứng về con người bị phát hiện sớm như vậy, bởi vì như vậy thì thành tựu cả đời của họ sẽ bị đổ bể”.

Tính khả phủ chứng của thuyết tiến hóa, “đá” chứng minh thành núi

(Tính khả phủ chứng là khả năng để phát biểu, lý thuyết hoặc giả thuyết nào đó bị mâu thuẫn với bằng chứng)

Thuyết tiến hóa không tìm thấy hóa thạch trung gian nhưng lại tìm thấy vô số hóa thạch có thể lật đổ hoàn toàn thuyết tiến hóa. Từ năm 1944 đến năm 1952 người ta tìm thấy vô số những hóa thạch như thế. Ở ngôi làng Acambaro của Mexico, đội nhóm của thương nhân Waldemar Jules đã khai quật được tổng cộng 335.000 tác phẩm chạm khắc. Khi vị thương nhân này bắt đầu xem xét kỹ lưỡng những tác phẩm chạm khắc cổ xưa này, ông đã rất ngạc nhiên: Ngoài rất nhiều, đa dạng những bức điêu khắc tương tự như của người châu Âu hoặc người Eskimo, còn có rất nhiều tạo hình các loại “quái thú” chạy nhảy vui đùa, có cái là các loài khủng long, có người khổng lồ cưỡi khủng long khổng lồ, có phụ nữ cho khủng long con ăn. Hình dáng bên ngoài của rất nhiều tượng khủng long phù hợp với các chủng loại khủng long mà các nhà khoa học hiện đại đã biết và chúng vô cùng sống động. Rất nhiều nhà khảo cổ học cũng ngưỡng mộ đến thăm. Phần đông đều cho rằng từ hàng chục triệu năm trước khủng long đã bị tuyệt chủng, vì vậy khi họ nhìn thấy rất nhiều những hình dạng động vật đều là khủng long thì rất ngạc nhiên. Những nhà khoa học này cảm thấy không cách nào giải thích được nên đã từ bỏ nghiên cứu sâu hơn. Nhưng vào năm 1954, một nhóm nhỏ chuyên gia Mexico gồm bốn nhà khảo cổ học đã đến địa điểm khai quật và tiến hành khảo sát. Quá trình khai quật của họ diễn ra hoàn toàn bình thường, họ xác định rằng những tác phẩm chạm khắc trên đá không phải giả mạo, hơn nữa những người dân bản địa căn bản không hiểu khủng long là gì. Nhưng các nhà khảo cổ học này cho rằng chuyện “con người và khủng long từng tồn tại cùng thời đại” là quá kỳ lạ, không thể nào giải thích được, vì vậy vẫn kiên trì thái độ của mình đối với bên ngoài.

Càng kỳ lạ hơn nữa là cách đó hàng nghìn km, tại một ngôi làng nhỏ tên là Ica ở phía Bắc đồng bằng Nazca ở Peru, người ta cũng đã phát hiện một số lượng lớn những viên đá tương tự như ở ngôi làng Acambaro. Những viên đá được chạm khắc hình họa này được người ta bắt đầu phát hiện số lượng lớn khi sông Ica bị vỡ bờ. Chúng chính là những viên đá Ica nổi tiếng mà chúng ta biết hiện nay. Những viên đá này được phủ một lớp oxit. Theo giám định của các nhà khoa học Đức, những hình khắc trên đá có lịch sử vô cùng lâu đời. Một lượng lớn hóa thạch sinh vật được phát hiện gần đó đều có niên đại ít nhất trên vài triệu năm tuổi. Người dân địa phương đã xây dựng một bảo tàng đá, trong đó trưng bày hơn 10.000 viên đá được khắc hoa văn thần bí, từ những hình họa khắc trên đá cho thấy họ có một nền văn minh cực kỳ tiên tiến. Những viên đá chạm khắc mô tả các ca phẫu thuật cấy ghép nội tạng, truyền máu, kính viễn vọng, thiết bị y tế, người đuổi khủng long v.v. trong đó có bốn viên đá được trải qua các nhà địa chất tính toán chứng thực đã vẽ ra bản đồ Trái Đất cách đây 13 triệu năm, hơn nữa kết quả tính toán vô cùng đáng tin. Một số chuyên gia cho rằng những vùng đất được mô tả trên bản đồ này chính là lục địa Atlantis và lục địa Lemuria đến nay vẫn là những lục địa cổ xưa bí ẩn.

Đá Ica “người và khủng long”, hãy chú ý đến tỉ lệ thể hình giữa người và khủng long tại thời điểm đó (Ảnh internet)

Đá Ica và nhà sưu tập chúng – Tiến sĩ Javier Cabrera

Đá Ica, một người đang dùng kính viễn vọng quan sát bầu trời (Ảnh internet)

Di tích người khổng lồ (Ảnh internet)

Hình bên trên là các tác phẩm điêu khắc trên đá của người Sumer cổ đại, những người khổng lồ được người Sumer gọi là “những vị Thần đến từ Thiên quốc”. Bức chạm khắc này ít nhất có 7300 năm lịch sử; hình bên dưới được cho là một nhà địa chất ẩn danh chụp từ một mỏ dầu ở Ả Rập Xê Út.

Những bức chạm khắc trên đá cổ xưa ở làng Acambaro của Mexico và những bức chạm khắc trên đá Ica ở Peru rất có khả năng được lưu lại từ cùng một thời kỳ văn minh cổ đại. Thời kỳ đó những người khổng lồ có nền văn minh cao sống cùng với khủng long. Một số phát hiện của người hiện đại ở các khu vực khác nhau cũng đã xác nhận bằng chứng cho thấy những người khổng lồ cổ đại đã từng tồn tại ở trên địa cầu. Từ hình số 5, bạn có thể nhìn thấy những người khổng lồ trong các tác phẩm khắc trên đá của những người Sumer cổ đại và những bộ xương khổng lồ được các nhà địa chất ẩn danh chụp được từ một mỏ dầu ở Ả Rập Xê Út. Đại sư Lý Hồng Chí trong Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ đã nói rằng:

“Như vậy giảng đến đây tôi chỉ rõ về hai ẩn đố trong lịch sử. Con người không giải được kim tự tháp đã được tạo ra thế nào. Khối đá lớn thế hỏi con người vận chuyển làm sao? Vài người cao năm mét là có thể vận chuyển, cũng như con người ngày nay vận chuyển tảng đá lớn mà thôi. Tạo thành kim tự tháp ấy, thì [với] người cao năm mét cũng như làm nhà lầu lớn đối với chúng ta hiện nay vậy. Một ẩn đố nữa là tại sao có những động vật to lớn như khủng long? Kỳ thực đó là chuẩn bị để cấp cho đại nhân. Người cao năm mét nhìn động vật lớn cỡ khủng long cũng như chúng ta con người hiện nay nhìn con bò vậy. Các [chủng] người khác nhau cần phải chuẩn bị cho họ các vật chủng khác nhau, hết thảy những thứ trên Trái Đất đều là vì con người mà tạo nên, vì con người mà hình thành”.

Cuộc phản công lớn

Người Maya dự ngôn rằng hiện nay thời kỳ này là thời kỳ canh tân của Trái Đất, tất cả đều được tịnh hoá. Mọi thứ càng ngày càng trở nên khó khăn đối với thuyết tiến hoá. Nhà di truyền học người New Zealand – Michael Denton đã thẳng thắn tuyên bố trong cuốn sách “Thuyết tiến hóa: Lý luận đang trong khủng hoảng” (Evolution: A Theory in Crisis) của mình rằng: “Thuyết tiến hoá của Darwin là lời nói dối lớn nhất của thế kỷ 20”.

Năm 2005, sự kiện “Darwin được đem ra xét xử” (Darwin on Trial), chỉ có luật sư, mà không có nhân chứng. Lý do là vì hội đồng giáo dục bang Kansas của nước Mỹ đã tổ chức một phiên điều trần về việc làm sao để cải cách giáo dục thuyết tiến hoá. Theo tờ New York Time đưa tin, phe ủng hộ Darwin một mặt quyết định rằng sẽ không cử các nhà khoa học ra làm chứng tại phiên điều trần mà chỉ mời một vị luật sư thẩm vấn vị chuyên gia làm chứng của đối phương. Không có nhà khoa học nào đứng ra làm chứng cho Darwin, làm lung lay niềm tin của mọi người vào thuyết tiến hoá. Người ta cho rằng “họ sợ bị thẩm vấn, sợ phải bảo vệ lý thuyết của mình”.

Năm 2016, 514 nhà khoa học Mỹ cùng nhau ký tên phản đối thuyết tiến hóa của Darwin. Trong thư phản đối do các nhà khoa học cùng nhau ký tên nêu: “Chúng tôi bày tỏ sự hoài nghi sâu sắc đối với lý luận tiến hóa của Darwin, với cương vị là nhà khoa học, chúng tôi có trách nhiệm yêu cầu giới khoa học các lĩnh vực tiến hành một loạt nghiên cứu sâu hơn, để xác định rằng thuyết tiến hóa của Darwin có hợp lý hay không”. Trong số các nhà khoa học Mỹ ký tên vào bài phản đối này thì có 154 nhà sinh vật học, 76 nhà hóa học, 63 nhà vật lý, còn lại là chuyên gia của các ngành khoa học liên quan. Năm 2008, bộ phim tài liệu quy mô lớn “Trục xuất thuyết tiến hóa” (Expelled: No Intelligence Allowed) đã được phát sóng liên tục ở Mỹ. Ngày nay, ngày càng có nhiều lời chất vấn về Darwin.

Vô số nền văn minh huy hoàng đã xuất hiện và biến mất trên Trái Đất. Tất cả những gì còn lại chỉ là đống phế tích hoang tàn, để kể cho chúng ta những huy hoàng của quá khứ. Không có bất kỳ triều đại nào là mãi mãi, không có ai có thể bảo vệ được mãi mãi lợi ích của mình, không có lời nói dối nào có thể lừa dối mãi mãi. Nhưng con người nói những gì, làm những gì thì nhất định phải hoàn trả, đây là thiên lý. Những người có được lợi ích từ thuyết tiến hóa hãy nghĩ xem bạn đang lừa dối ai, hãy nghĩ về tương lai của bạn. “Làm loạn thì luôn phải trả giá!”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/78114

The post Loạt bài Mexico 2012 (05): Thuyết tiến hóa, lời nói dối thế kỷ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (04): Truyền thuyết Sáng thếhttps://chanhkien.org/2023/09/loat-bai-mexico-2012-4-truyen-thuyet-sang-the.htmlWed, 27 Sep 2023 00:27:46 +0000https://chanhkien.org/?p=31378Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Du ngoạn trên đất khách quê người, nếu chỉ là ngắm nghía thăm thú cho biết mà không hiểu được văn hóa dân tộc của địa phương cùng nội hàm đằng sau nó, thì chẳng có gì là ý nghĩa cả. Cuối tuần trước, sau khi viết xong bài về […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (04): Truyền thuyết Sáng thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Du ngoạn trên đất khách quê người, nếu chỉ là ngắm nghía thăm thú cho biết mà không hiểu được văn hóa dân tộc của địa phương cùng nội hàm đằng sau nó, thì chẳng có gì là ý nghĩa cả. Cuối tuần trước, sau khi viết xong bài về di tích Maya của Chichen Itza, thì tôi dự định tuần này sẽ viết một bài để cùng độc giả bàn luận về người Maya cùng văn hóa Maya hoặc thậm chí là về nguồn gốc của người Ấn Độ châu Mỹ. Nhưng vừa đặt bút, thì chủ đề và nội dung đã thay đổi hoàn toàn, chủ đề được viết tới vô cùng lớn lao, đó chính là – “Sáng thế”. Dù bản thân hiểu biết có hạn, nhưng nghĩ đến chủ đề “Sáng thế” này dường như đã chiếm vị trí hàng đầu trong thần thoại mỗi dân tộc, độc giả tự nhiên cũng sẽ muốn hiểu một chút về câu chuyện Sáng thế xa xưa của vùng Trung Nam Mỹ, vậy nên cũng thuận bút mà viết ra. Một số điều cá nhân hiểu biết không nhất định là đúng, chỉ là cung cấp cho độc giả tham khảo.

Sáng thế, chủ đề muôn thuở của nhân loại

Tôi sinh ra ở mảnh đất non xanh nước biếc, còn nhớ thuở nhỏ, buổi tối thường ngắm nhìn trời sao bao phủ trên rặng núi rồi nghĩ: “Trên những vì sao kia là gì nhỉ?” Thời thiếu niên tôi đã từng hỏi cô giáo: “Vũ trụ có biên không?” Cô giáo đáp rằng: “Vũ trụ là vô biên”. Tôi lại hỏi cô làm sao biết vũ trụ vô biên? Cô không biết trả lời làm sao. Vào những năm 80 khi khí công Trung Quốc lên cao trào, ở Trung Quốc xuất hiện rất nhiều kỳ nhân kỳ sự. Tôi thời thiếu niên cái gì cũng thấy hiếu kỳ, một hôm tôi quyết định trải nghiệm một chút “điện”, cảm thấy điều đó có thể kích phát “công năng đặc dị”, từ đó tăng thêm hiểu biết về sinh mệnh và vũ trụ. Dó đó tôi lấy cái kéo sắt cắm vào ổ cắm điện, lần thứ nhất cắm không vào. Lại thử lại lần nữa, kết quả tôi bị điện giật suýt chết, rất lâu sau đó cứ thấy ổ cắm điện là tôi thấy sợ.

Tin rằng chỉ trừ những người sống một cách vô tri vô giác trên thế gian, thì ai cũng đều sẽ từng nghĩ qua một vấn đề như nhau là: “Thế giới này do đâu mà sinh? Nó được hình thành như thế nào? Vì sao như vậy? Rồi sẽ đi về đâu? Ta là ai? Vì sao đến nơi này?” Khuất Nguyên, thi nhân trường phái lãng mạn của Trung Quốc, đã từng hỏi trong tuyệt tác “Sở Từ – Thiên Vấn” như sau: “Toại cổ chi sơ, thuỳ truyền đạo chi? Thượng hạ vị hình, hà do khảo chi? Minh chiêu mông ám, thuỳ năng cực chi? Phùng dực duy tượng, hà dĩ thức chi? Minh minh ám ám, duy thì hà vi? Âm dương tam hợp, hà bản hà hoá? Viên tắc cửu trùng, thục doanh độ chi? Duy tư hà công? Thục sơ tác chi?” (Diễn nghĩa: Từ thuở sơ khai, ai truyền ra Đạo? Trời Đất chưa thành, tra đâu cho được? Tối sáng mờ mịt, ai xét cho thấu? Vũ trụ hỗn độn, làm sao biết rõ? Sáng tối tối sáng, ai biết khi nao? Âm dương hợp hóa, đâu cội đâu hóa? Trời phân chín tầng, ai người phân chia? To lớn nhường này, ai người khởi tác?) Đây đều là những câu hỏi muôn thuở của toàn nhân loại.

Khai thiên tịch địa

Ở Trung Mỹ có lưu truyền một truyền thuyết rằng, vị Thần Sáng thế vĩ đại lúc đầu ở trong một quả trứng vũ trụ, sau đó phá vỡ quả trứng, một nửa quả trứng trở thành bầu trời, nửa còn lại trở thành mặt đất. Truyền thuyết này khá tương đồng với câu chuyện Bàn Cổ khai thiên tịch địa được lưu truyền trong các dân tộc ở Trung Quốc. Từ Chỉnh, người thời Tam Quốc, đã viết câu chuyện về Bàn Cổ trong Tam Ngũ Lục Kỷ như sau: “Thiên địa hỗn độn như trứng gà, Bàn Cổ sinh ra trong đó, một vạn tám ngàn tuổi, thiên đại khai mở, khí dương trong là Trời, khí âm đục là Đất, Bàn Cổ ở trong đó, một ngày thay đổi chín lần, Thần với Trời, Thánh với đất, Trời cao một trượng Đất dày một trượng, Bàn Cổ cao một trượng. Cứ thế một vạn tám ngàn tuổi, Trời cao vô kể, Đất dày vô kể, Bàn Cổ cao vô kể. Trời và Đất cách cả chín vạn dặm. Sau còn có Tam Hoàng”.

Thần thoại Ai Cập kể rằng thế giới ban đầu chỉ toàn nước biển, bên trên có một quả trứng phát sáng, thần Ra sinh ra trong đó. Ông tạo ra chúng thần trước, sau đó để Thiên Hậu Nut với Thần đất Jebel nổi lên khỏi nước, lại để con trai là Thần Gió nhấc Nut lên, hình thành bầu trời, còn Jebel nằm bên dưới hình thành mặt đất. Tiếp đó ông dùng bùn đất nặn con người. Ấn Độ có truyền thuyết Phạm Thiên Sáng Thế, vị Thần hỗn độn dùng ý niệm tạo ra nước trước, rồi lấy chủng tử của mình bỏ vào trong nước, chủng tử ấy liền biến thành một quả trứng vàng, trong trứng sinh ra Phạm Thiên. Do ở trong trứng quá lâu, Phạm Thiên giơ tay đẩy nửa phần trên quả trứng vàng lên trên, trở thành Thiên đường sau đó; lại dẫm chân dẫm nửa phần dưới của trứng vàng xuống, biến thành mặt đất dày rộng bao la; ở giữa thì hình thành bầu trời thênh thang mênh mông. Tiếp đó, Phạm Thiên lại xác định phương vị, phân biệt ngày, tháng, năm, sáng tạo ngôn ngữ. Trong thần thoại Hy Lạp, thuở sơ khai của vũ trụ do Thần Hỗn Độn làm chủ, sau đó con trai ông là Thần Hắc Ám thay thế, rồi kết hợp với nữ Thần Bóng Đêm, sinh ra một quả trứng lớn, trong trứng sinh ra Thần Tình Yêu Eros, vỏ trứng vỡ ra thành Trời và Đất. Thần Tình Yêu lấy mũi tên sinh mệnh bắn vào mặt đất lạnh lẽo, do đó trên mặt đất có cây cỏ hoa trái và muông thú. Trong sử thi Kalevala của Phần Lan có nói: “Nữ Thần Khí Quyển giáng xuống biển, chim biển làm tổ ấp trứng trên đầu gối nàng, sau đó trứng rớt xuống nước vỡ ra, nữa trên vỏ trứng biến thành Trời, nửa dưới thành Đất, lòng đỏ thành Mặt Trời, lòng trắng thành Mặt Trăng, đốm nhỏ trong trứng thành tinh tú”.

Người Maya ở Trung Mỹ cổ đại lại cho rằng có chín thế giới, khái niệm thời gian và không gian của mỗi tầng thế giới đều không giống nhau, rất giống với quan niệm “Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất” của người Trung Quốc. Chín thế giới này tự mình đại biểu cho mức độ giác ngộ không giống nhau và các giai đoạn thời gian khác nhau trong lịch Maya. Cho nên họ có một chu kỳ được kiến lập hoàn chỉnh có tính hệ thống, giống như “Đại chu kỳ” vậy. Do đó “Sáng thế” có thể được xem là do chín “Sáng thế” hợp thành, cái này ở trên cái kia, mỗi “Sáng thế” đều là khác nhau, hình thành kết cấu Kim tự tháp. Mà “Đại chu kỳ” trong những chu kỳ này chỉ là một trong số đó. Điều này đại khái là giải thích vì sao những Kim tự tháp Maya quan trọng nhất ấy đều được xây dựng có kết cấu tầng cấp với chín bậc.

Cá nhân tôi hiểu rằng những gì được miêu tả trong truyền thuyết Maya cổ đại là những sự tình xảy ra trong các cảnh giới khác nhau trong các không gian khác nhau. Mặc dù hiểu biết của họ cũng rất có hạn, nhưng Sáng thế xác thực đã từng xảy ra rất nhiều lần rồi. Đại sư Lý Hồng Chí của Pháp Luân Đại Pháp đã nói trong cuốn Giảng Pháp tại Pháp hội miền đông Mỹ quốc 1999 như sau:

“Mọi người có thể đã nghe chuyện xưa, rằng Bàn Cổ cuối cùng đã lấy thân thể của mình, trong chốc lát, hóa thành Trời, Đất, núi, sông và sao của Thiên thượng. Giảng thế nào đi nữa, tôi bảo chư vị rằng, tại các tầng thứ khác nhau, bất kể [chư vị] là Thần của tầng thứ nào, thì chư vị cũng không thể biết được những sự tình ở bên trên. Trong những năm tháng quá khứ dài đằng đẵng từ sớm đã lệch khỏi Pháp, thậm chí rất nhiều sinh mệnh đối với Pháp căn bản đã không còn biết nữa, đã quên mất rồi. Vì sao quên? Bởi vì tất cả sinh mệnh trong chu kỳ văn minh lần này, bất kể là chư vị cao đến đâu, phần lớn là sản sinh ra trong chu kỳ thứ chín. Trước lần thứ chín này Pháp là gì, mọi người đều không biết.”

Đại sư Lý Hồng Chí còn nói:

“…..Trên thực tế vũ trụ này của chúng ta, tức là tiểu vũ trụ mà tôi vẫn thường nói, tiểu vũ trụ này gọi là gì? Chính là Bàn Cổ mà trong truyền thuyết của Trung Quốc đã kể là khai thiên tịch địa đó. Ông ta không phải là người Trung Quốc, Ông ta cũng không phải người thuộc một dân tộc nào khác trên Trái Đất, Ông ta là Thần trên Thiên thượng, Ông là vũ trụ. Bàn Cổ khai thiên tịch địa tức là vào lúc tiểu vũ trụ thời kỳ trước bị huỷ rồi trong quá trình tái tạo tiểu vũ trụ mà sinh thành. Thân thể của Ông chính là quá trình “thành trụ hoại diệt” của tiểu vũ trụ này, nhưng sinh mệnh của Ông thì không phải.” (Giảng Pháp ở Pháp hội tại Vùng đô thị New York năm 2013)

“Thực ra phạm vi to lớn hơn của Tam giới lại đối ứng với toàn thể tiểu vũ trụ này; Ông Bàn Cổ trong truyền thuyết thực ra chính là khai [mở] bộ phận thiên địa này.” (Giảng Pháp ở Pháp hội quốc tế Miền Tây Mỹ quốc năm 2013)

Thần tạo con người

Trong “Thánh Kinh” – Popol Vuh của người Maya có ghi chép rằng sau khi Thượng Đế tạo ra mặt đất, thì chư Thần trên Thiên Đình đã tạo ra động vật trước, sau lại ba lần tạo con người, chỉ đến lần sau cùng mới tạo ra được “con người” vừa ý. “Con người” được tạo ra vẻ ngoài đẹp đẽ, khả năng lãnh ngộ sự việc rất cao, cực kỳ trí huệ. Họ sinh ra đã có bổn năng “Thiên lý nhãn”, có thể nhìn thấu bên kia của bầu trời; bất luận họ ở nơi đâu, đều có thể trong nháy mắt nắm bắt được các biến động của vũ trụ. Do đó, tầm nhìn của họ là vô biên vô tế, có thể bao quát hết thảy. Tuy nhiên, Tạo vật chủ (Chúa sáng thế) và chư Thần không hài lòng với sự phát triển của việc này về sau, bởi vì thứ họ muốn tạo ra là con người, chứ không phải là Thần. Mức độ sáng suốt của những “con người” này chẳng thua kém gì thần minh, đối với nguyên lý cơ chế diễn hóa của vũ trụ rõ như lòng bàn tay. Do vậy họ chẳng hứng thú gì với việc sản sinh đời sau, bởi vì họ biết rõ những con cháu này chẳng có chút “quan hệ huyết duyên” nào cả, chỉ là để linh hồn của thiên giới tìm đường thoát mà thôi. Do đó Thượng đế và chư Thần đã luận bàn, Tạo vật chủ huơ tay một cái, một đám mây mù thổi vào trong con ngươi của loài người, thiên mục của họ liền mất đi. Sau này những người phàm này liền trên mặt đất sản sinh ra con cháu đời sau.

Trong rất nhiều dân tộc trên toàn thế giới đều có câu chuyện về các vị Thần dựa theo hình tượng của bản thân dùng “bùn đất” tạo con người. Trong đó nổi tiếng là Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc và Thượng đế dùng bùn đất tạo con người được ghi chép trong Sáng Thế Ký của kinh Cựu Ước.

Sau khi Bàn Cổ khai mở thiên địa, không biết là trải qua bao nhiêu năm, trong trời đất đã xuất hiện Nữ Oa. Nữ Oa cảm thấy cô đơn trong trời đất hoang vu, một hôm, bà bốc bùn đất, trộn với nước; dựa theo hình thể của bản thân nặn ra tượng đất, đặt trên mặt đất, thổi một cái liền biến thành “con người”. Ban đầu Nữ Oa không ngừng tạo từng người từng người một, nhưng tốc độ chậm rãi, sau đó bà bẻ cành mây, nhúng vào bùn nhão rồi vẩy ra rất nhiều giọt bùn, những giọt bùn này rớt trên mặt đất, gió thoảng thổi qua một cái, đều biến thành người.

Trong Thánh Kinh giảng rằng Thượng đế đã dùng thời gian năm ngày để tạo ra vạn vật trên mặt đất, đến ngày thứ sáu Ngài nói rằng: “Chúng ta cần chiểu theo hình tượng của mình, dựa vào hình dáng của bản thân mà tạo con người…”, thế nên Ngài dùng bụi đất trên mặt đất tạo con người, sau khi thổi một luồng sinh khí vào mũi người, liền biến thành một nam nhân đầy sức sống, lấy tên là Adam. Không lâu sau thì lấy một chiếc xương sườn của Adam, tạo ra một nữ nhân, Adam nói rằng: “Đây là xương được hình thành bởi xương tôi và thịt được hình thành bởi phần thịt của tôi… Người này sẽ được gọi là người nữ”.

Thần thoại của người Sumer (cư dân thời Thượng cổ của Iraq ngày nay) có liên quan với những câu chuyện trong Thánh Kinh. Họ cũng nói rằng loài người là được nặn thành từ đất sét. Thần thoại New Zealand kể rằng con người là do thiên thần TIKI dùng đất đỏ và máu của mình tạo nên, người Melanesia cũng nói như vậy. Thần thoại Hy Lạp kể rằng Thần đã lấy đất và lửa từ bên trong Trái Đất, rồi cử hai anh em là Thần Prometheus và Epimetheus lần lượt tạo ra động vật và loài người. Người Ấn Độ thuộc tộc người Maidu ở phía Tây của Bắc Mỹ cho rằng ban đầu sau khi “Đấng sáng tạo Trái Đất” tạo ra cây cối, chim, muông thú, đã nói rằng “ta muốn tạo con người”. Bèn lấy một ít bùn đất màu đỏ sẫm trộn với nước, làm thành một nam một nữ.

Người đứng tại góc độ của người thường thì rất khó hiểu được ý nghĩa to lớn của Phật Pháp thần thông mà các vị Thần triển hiện. Hơn nữa các truyền thuyết thần thoại được lưu truyền trong những năm tháng dài đằng đẵng, ít nhiều cũng sẽ có những sai sót, người ta cũng sẽ sửa đổi theo cách lý giải của bản thân, nên càng khó lý giải ý nghĩa chân thực trong đó. Con người hiện đại nhìn chung không ai cho rằng cơ thể mình là do bùn đất cấu thành cả. Nhưng đối với các Phật Đạo Thần ở nơi rất cao rất lớn mà nói, toàn bộ Tam giới đều là bùn đất cấu thành.

“Con người chúng ta xem đất là đất, nhưng Thần xem tất cả phân tử, tức là các phân tử trong Tam giới đều là đất cả, là vật chất thô tháo nhất, vật chất dơ bẩn nhất, họ xem đó chính là đất, chính xác là đất”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998])

“Ông nói đất bùn tạo con người; [nhưng] người thường nghĩ rằng thân thể chúng ta đây không phải là đất bùn. Do đó, [có thể] nói đất bùn ở tầng thứ cao hơn cao hơn nữa, thì còn tốt hơn so với nhục thân này của chúng ta, càng lên cao càng tốt. (Chuyển Pháp Luân – quyển II)

“Vườn Eden” (Vườn địa đàng) ở đâu?

Trong thần thoại của rất nhiều dân tộc đều kể rằng tổ tiên của họ sống ở lạc viên tịnh thổ vô cùng hạnh phúc, thậm chí còn có các loại thần thông. Theo ghi chép trong “Thánh Kinh”, lục địa ban đầu chỉ có một mảng hoàn chỉnh và một đại dương. Trong “Thánh Kinh” giảng rằng: “Thượng đế đã tạo một khu vườn cho Adam và Eva ở phía Đông Eden. Mặt đất nơi đó rải đầy vàng, trân châu, mã não đỏ, các loài cây mọc lên từ trong đất, nở ra các loại kỳ hoa dị thảo, đẹp vô cùng; quả trên cây còn có thể làm thức ăn. Trong khu vườn có cây sự sống và cây thiện ác. Còn có bốn dòng sông bao quanh vườn Eden, trong khu vườn nước chảy róc rách, tưới mát cả vùng đất: con sông thứ nhất là Bi-sôn (Pishon) chảy quanh toàn bộ xứ Ha-vi-la (Havilah), nó được tạo dựng phỏng theo “dòng sông có nước không đổi màu” trong lạc viên trên Thiên đàng. Nơi đó có vàng, vàng xứ này rất tốt, ở đó còn có trân châu và mã não; con sông thứ hai là Ghi-hôn (Gichon), chảy quanh xứ Cu-sơ (Kush), nó được tạo dựng phỏng theo “dòng sông sữa không đổi vị” trong lạc viên trên Thiên đàng; con sông thứ ba là Hi-đê-ke (Chidekel), chảy qua từ bờ A-si-ri (Assyria), nó được tạo phỏng theo “dòng sông rượu mạnh” ở lạc viên trên Thiên đàng; dòng sông thứ tư là Ơ-phơ-rát (Perat), nó được tạo phỏng theo “dòng sông mật thuần tịnh” trong lạc viên trên Thiên đàng”.

Trong các văn tự hình chêm của người Sumer cũng có những từ như “Eden” và “Adam”, chữ trước có nghĩa là “mảnh đất nguyên sơ”, chữ sau có nghĩa là “cư dân vùng hoang dã”. Trong thần thoại của người Sumer cũng có một vùng tịnh thổ tươi sáng, ở lạc viên không có bệnh tật và cái chết này, Thủy Thần Ea (Enki) và nữ Thần Đất Ninhursag đã yêu nhau và sống một cuộc sống đầm ấm hạnh phúc.

Có rất nhiều nhà khảo cổ học và các học giả Thánh Kinh trên toàn thế giới đều đang tìm kiếm xem “Vườn Eden” trong Thánh Kinh nằm ở đâu? Tuy nhiên cho dù có tìm đến đâu cũng không khớp với mô tả trong Thánh Kinh. Có người cho rằng Vườn Eden nằm ở vùng Kurdistan vùng Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, khu vực bắt nguồn của sông Tigris và Euphrates. Cũng có người cho rằng nó ở vùng cách Basra, thành phố lớn thứ hai của Iraq hiện nay, 74 km về phía Bắc. Tuy nhiên hai nơi này đều không có bốn dòng sông, huống chi là các loại hoa cỏ kỳ lạ. Còn có người đề xuất cho là Vườn Eden nằm ở Khotan cổ vùng Hotan, Tân Cương, Trung Quốc, lý do là vì nơi đây có bốn con sông. Thế nhưng có vẻ ở đó là nơi người Tây Vực cổ đại của Trung Quốc sinh sống, thân hình, tướng mạo, màu da so với Adam và Eva khác biệt rất lớn, không phải là cùng một chủng người.

Vậy Vườn Eden ở đâu? Thực ra con người được tạo ra đầu tiên (cũng có thể được coi là thiên nhân) không sống ở không gian tầng thấp này của con người, về căn bản là không ở trên Trái Đất này, mà ở tại không gian khá cao trong Tam giới.

“Vào thời hết sức xa xưa khi mà chưa có con người ở tầng thấp này, ở trên kia đã tạo ra con người ở không gian khác”. (Chuyển Pháp Luân – quyển II)

Cho nên lạc viên nơi tổ tiên loài người sinh sống ban đầu, cũng phải ở trong không gian cao tầng trong Tam giới, nơi đó vô cùng đẹp đẽ và hạnh phúc. Do đó các vị Thần đã dựa theo hình tượng của bản thân tạo con người, tạo ra các chủng người khác nhau, tôi nghĩ trên thực tế phải có nhiều lạc viên tương tự như “Vườn Eden”. Không gian mà con người chúng ta đang sống hiện nay là sau khi con người sa ngã (trở nên xấu) mới có, cũng là đã rất không tốt rồi.

Cách mà Thần xem xét sự việc và cách con người xem xét sự việc là không như nhau. Đối với chư Thần cao ngoài Tam giới mà xét, dù là ở cao tầng trong Tam giới hay là tại không gian mà con người đang sống hiện nay, đều là trên Đất mà thôi. Thần xem người ở trên trời và người ở trên mặt đất đều là “người”. “Phương Đông” của Thượng đế được nhắc đến trong Thánh Kinh cũng không phải là phương Đông mà con người biết đến. Cứ như chúng ta nhìn một con kiến rất nhỏ bò trên một quả bóng lớn, phương Đông phương Tây của nó có thể là cùng một phương Đông phương Tây của chúng ta sao?

Phật Thích Ca Mâu Ni cũng từng giảng về khởi nguyên và sự sa đọa của loài người, được ghi chép rất chi tiết trong Kinh Chang Agama (Kinh A Hàm). Vào thời tối hậu của thành, trụ, hoại, không, tại tầng thứ nhất định trong Tam giới trở xuống hết thảy không gian đều bị biến thành “nước” (cá nhân tôi hiểu là vật chất bản nguyên), không còn ánh sáng của Nhật, Nguyệt, Tinh tú nữa. Cũng không có ngày tháng năm nữa, chỉ có bóng tối. Lúc đó, những người mà sinh mệnh bị kết thúc trong đại kiếp đều được tái sinh đến “Quang Âm Thiên”. Ở tại không gian tầng ấy, thân thể người đều phát sáng, có thể tự do bay lượn, vô cùng tự tại, muốn đi đâu liền đến đó. Sau đó, hết thảy các không gian tầng thấp khác bao gồm cả trời đất trong không gian tầng này mà con người chúng ta đang sống hiện giờ được sáng tạo lại từ trong “nước”, những người ở “Quang Âm Thiên” khi phúc tận mệnh chung, liền tầng tầng đi xuống tái sinh đến nhân gian trở thành con người của tầng này. Con người thời thượng cổ tuy đến nhân gian vẫn còn thần thông, có thể đi lại như Thần, thân thể phát ra ánh sáng. Tuổi thọ của họ rất dài, đẹp đẽ vô cùng. Nhưng một bộ phận con người bắt đầu có chấp trước ngày càng nặng vào đồ ăn thức uống, thì thần thông ít đi, thân thể cũng không còn tốt như thế nữa. Sau một khoảng thời gian lâu dài, dần dần các chủng chấp trước, tư tâm và tham niệm của những người này càng ngày càng nhiều, cũng phân ra đẹp xấu. Người đoan chính thì sinh tâm ngạo mạn, coi thường người xấu xí, người xấu xí lại sinh tâm tật đố, ghen ghét người có dung mạo đoan chính. Giữa chúng sinh với nhau khởi tranh chấp thù hận. Thần thông hoàn toàn mất hết, đã mất đi dung mạo đẹp đẽ của thiên nhân, tuổi thọ đã thế càng ngày càng ngắn lại. Càng về sau, hoàn cảnh sống cũng càng xấu đi, cuối cùng con người chỉ có thể thông qua lao động cực nhọc mới tồn tại được.

Có lẽ có người sẽ nói rằng, chẳng phải sách giáo khoa luôn nói rằng con người là do sinh vật cấp thấp tiến hóa mà thành sao? Thực ra thuyết tiến hóa, thuyết khỉ biến thành người ấy chính là sự sỉ nhục lớn nhất của nhân loại lần này. Tôi sẽ thảo luận về điều này trong bài viết tiếp theo của mình.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77912

The post Loạt bài Mexico 2012 (04): Truyền thuyết Sáng thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (03): Tân Hoa Xã “đại ban vận” Kim tự tháphttps://chanhkien.org/2023/09/loat-bai-mexico-2012-03-tan-hoa-xa-dai-ban-van-kim-tu-thap.htmlMon, 18 Sep 2023 02:34:22 +0000https://chanhkien.org/?p=31315Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Các bài viết trước tôi đã giới thiệu đến bạn đọc về cổ thành Teotihuacan cùng Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng. Có lần tôi lên mạng tình cờ lướt xem một bài viết của Tân Hoa Net, có liên quan đến Kim tự tháp […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (03): Tân Hoa Xã “đại ban vận” Kim tự tháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Các bài viết trước tôi đã giới thiệu đến bạn đọc về cổ thành Teotihuacan cùng Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng. Có lần tôi lên mạng tình cờ lướt xem một bài viết của Tân Hoa Net, có liên quan đến Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng ở Teotihuacan, thật khiến người ta cười ra nước mắt.

Tân Hoa Net trực thuộc Tân Hoa Xã là cơ quan ngôn luận của đảng, là “miệng lưỡi của đảng”, được mệnh danh là trung tâm thu thập và công bố, phát hành thông tin lớn nhất của Trung Quốc. Mặc dù sớm đã biết về khả năng “cắt ghép đánh tráo” vi diệu của Tân Hoa Xã, có thể sánh với “Mộ Dung Gia” trong tiểu thuyết Kim Dung, nhưng đâu ngờ được rằng, đến cả hai Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng nặng 3,5 triệu tấn ở Mexico cũng dám “di chuyển” và “hoán đổi”.

1. “Đại ban vận công” của Tân Hoa Xã

Bản thân tôi vốn định trong lúc nhàn rỗi đem bài viết này của họ ra tán gẫu đôi chút, xem như tiêu khiển mà thôi. Tuy nhiên chẳng ngờ lại nhìn thấy hai bài trọng điểm được đăng vào mấy hôm trước là ngày 30 tháng 9 và ngày 1 tháng 10 năm 2011 của Tân Hoa Net với nội dung như sau:

Một bài là: Bài nói chuyện của người phụ trách cục Thông tin tuyên truyền mạng thuộc Văn phòng Thông tin Internet Quốc gia đăng ngày 30.

“Kiên quyết ngăn chặn hành vi bịa đặt sự thật, biên tạo dối trá để phát tán trên Internet”.

Một bài khác là: “Cư dân mạng ủng hộ nỗ lực kiên quyết ngăn chặn việc phát tán tin nhảm và bịa đặt trên Internet”.

“Bắc Kinh ngày 1 tháng 10 Tân Hoa Net đưa tin cuộc nói chuyện liên quan đến việc kiên quyết ngăn chặn việc bịa đặt sự thật, biên tạo dối trá để phát tán trên mạng ngày 30 tháng 9 của người phụ trách cục Thông tin tuyên truyền mạng thuộc Văn phòng Thông tin Internet Quốc gia, đang gây xôn xao trong cộng đồng mạng. Giới truyền thông chủ đạo của địa phương và trung ương rầm rộ hưởng ứng, rất nhiều cư dân mạng bày tỏ ủng hộ, mọi tầng lớp xã hội đều tán thành việc kiên quyết ngăn chặn tin nhảm trên mạng…” v.v…

Vì vậy tôi cũng quyết định cùng với đông đảo cư dân mạng “kiên quyết hưởng ứng khẩu hiệu của văn phòng Thông tin Internet Quốc gia, kiên quyết ngăn chặn bịa đặt sự thật, biên tạo tin nhảm”. Tôi viết ra sự việc kỳ lạ về “Ban vận Kim tự tháp” này để nghiêm chính lại đồng thời cùng độc giả giải khuây.

Bức ảnh bên dưới là ảnh chụp màn hình bài viết của Tân Hoa Net, bài viết nói về Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng ở Teotihuacan cách thành phố Mexico 40 km về phía Đông Bắc, nhưng toàn bộ ảnh chụp được sử dụng và hai đoạn văn lớn miêu tả trong đó trên thực tế lại là thông tin về Kim tự tháp Kukulkan của người Maya cùng các di tích khác ở Chichen Itza cách Teotihuacan 1450 km.

Ảnh chụp màn hình bài viết của Tân Hoa Net. Những bức ảnh này là Kim tự tháp Kukulkan của người Maya cùng các di tích khác ở Chichen Itza trên bán đảo Yucatan cách Teotihuacan 1450 km chứ không phải là Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng ở thành cổ Teotihuacan.

Bài giới thiệu về Kim tự tháp Mặt Trời và Mặt Trăng, độc giả nếu quan tâm có thể xem bài viết trước của tôi đã được đăng trên Chánh Kiến Net – Thành phố của những vị Thần. Đồng thời cũng có thể tìm bài giới thiệu về các di tích Maya ở Chichen Itza trên Wikipedia

Xin hãy xem ảnh chụp bản đồ Google bên dưới, khoảng cách từ Chichen Itza đến Teotihuacan là 1447 km, phải mất hơn 16 giờ lái xe. Tân Hoa Xã sử dụng đâu phải là “ban vận công” thông thường chứ, rõ ràng là sắp đạt đến “Càn Khôn Na Di Đại Pháp” (công pháp vận chuyển Càn Khôn của Minh Giáo) rồi. Nhằm lưu lại công lao to lớn “Ngu Công dời tháp” của Tân Hoa Xã, tôi đặc biệt có lòng sao chép lại nguyên văn bài viết trên Tân Hoa Net, đăng vào phía sau bài viết này.

Bản đồ đường đi từ Chichen Itza đến Teotihuacan (Google)

2. Chichen Itza

Trên bán đảo Yucatan của Mexico, có rất nhiều Kim tự tháp Maya nguy nga hoành tráng. Chúng giống như chị em sinh đôi vậy, và hoàn toàn có thể sánh với các Kim tự tháp của Ai Cập. Trên bán đảo Yucatan di chỉ Maya nổi danh nhất thuộc về Chichen Itza, quy mô kiến trúc ở đây hùng vĩ, kết cấu tinh xảo, quang cảnh thần bí, hàng năm thu hút hàng triệu du khách nước ngoài đến tham quan. Năm 1988 Chichen Itza được đưa vào Danh sách Di sản Thế giới. Năm 2007 có gần 100 triệu người trên toàn thế giới đã bình chọn qua mạng, và nó được chọn là một trong Bảy kỳ quan thế giới mới.

Hai đoạn văn mô tả dưới đây trong bài viết của Tân Hoa Xã thực ra là Kim tự tháp Kukulkan ở Chichen Itza, còn được gọi là Kim tự tháp El Castillo:

“…..kỹ thuật xây dựng tháp cao siêu cũng khiến người ta kinh ngạc, từ dưới lên trên tầng tầng chồng lên nhau rồi dần dần thu nhỏ lại, giống như chiếc bánh kem sinh nhật nhiều tầng lung linh tinh tế mà lại to lớn không gì sánh được. Bốn mặt của tháp có 91 bậc thang, thẳng lên đến đỉnh. Bốn mặt tổng cộng có 364 bậc, lại cộng thêm mặt bằng trên đỉnh tháp thì vừa hay 365 bậc, điều này cũng vừa khớp với số ngày trong một năm. Cầu thang của tòa tháp chín tầng lại được phân thành 18 phần. Đây lại vừa đúng là số tháng trong một năm theo lịch Maya.

Người Maya tôn thờ Thần Mặt Trời, họ cho rằng Kukulkan (tức rắn có lông vũ) là hóa thân của Thần Mặt Trời. Trên bậc thang phía Bắc của đền Thần Kukulkan người ta tinh tế khắc lên đó một con rắn có lông vũ, đầu rắn há miệng thè lưỡi, trông như thật, thân rắn lại ẩn trên mặt cắt của cầu thang, chỉ đến buổi chiều ngày xuân phân và thu phân hàng năm, khi Mặt Trời từ từ lặn xuống ở phía Tây, ánh sáng chiếu vào các phần của mặt Bắc, các góc cạnh dần dần lộ rõ, những đường kẻ thẳng tắp ấy cũng từ trên xuống dưới, giao thoa thành hình những con sóng, như thể một con rắn lớn đang bay lượn từ trên trời xuống, uốn lượn thong dong, như bay như nhảy, cảnh tượng ấy luôn khiến cho người Maya phấn khích tột độ. Kỳ quan tương tự cũng xuất hiện ở khu vực rừng rậm Nam Mỹ. Loại nghệ thuật ảo giác được tạo thành từ sự kết hợp kiến thức thiên văn, kiến thức vật lý, kiến thức xây dựng này, cho dù sử dụng trình độ hiện đại đi mô phỏng cũng khó lòng mà làm được. Các nhà khoa học đang tìm cách thăm dò kết cấu bên trong của những Kim tự tháp này, điều khiến người ta khó hiểu là cùng một thời điểm trong ngày, cùng một thiết bị sử dụng, cùng một vị trí bên trong Kim tự tháp khi tiến hành thăm dò bằng tia X (chụp tia phóng xạ), thì hình ảnh thu được đều không giống nhau”.

Có thể nói Kim tự tháp Kukulkan là sự kết hợp hoàn hảo và thể hiện tuyệt vời kiến thức hình học xây dựng và kiến thức thiên văn học mà người Maya nắm giữ. Cảnh tượng thần bí xuất hiện vào thời điểm Mặt Trời lặn trong hai ngày xuân phân và thu phân hàng năm này được gọi là “Quang cảnh bóng rắn”. Mỗi lần ảo tượng này đều kéo dài vừa đúng 3 giờ 22 phút, không lệch một giây.

Người Maya hết sức xem trọng thiên văn học, trong các kiến trúc xây dựng của họ nơi đâu cũng đều là những dữ liệu liên quan quy đến luật vận động của thiên thể. Mà Đài thiên văn học bên cạnh Kim tự tháp Kukulkan càng thể hiện ra một cách tinh tế trọn vẹn kiến thức thiên văn và hình học cao siêu này. Nhìn theo đường chéo được tạo thành từ bức tường cửa sổ có độ dày ba mét ở mặt Bắc tầng trên Đài thiên văn này, người ta có thể nhìn thấy hình bán nguyệt của hoàng hôn ngày xuân phân và thu phân; trong khi đường chéo của cửa sổ mặt Nam lại vừa hay chỉ về cực Nam và cực Bắc của Trái Đất. Cửa sổ quan sát của Đài thiên văn không phải là nhắm đến các vì sao sáng nhất trên bầu trời đêm, mà nhắm đến sao Thiên Vương và sao Hải Vương về cơ bản mắt thịt của chúng ta không cách nào quan sát thấy. Hàng trăm ngàn năm trước, người Maya làm sao biết được sự tồn tại của chúng chứ? Mà những dân tộc sống trong rừng rậm, vì sao phải bỏ ra công sức lớn đến vậy để xây nên mạng lưới quan trắc thiên văn? Lại còn những khối đá khổng lồ mấy chục tấn đó làm sao cắt gọt, vận chuyển đến tận sâu trong rừng rậm, lại từng khối từng khối chất lên độ cao 70 mét? Những thiết kế xây dựng và hiệu quả mà chúng có thể đạt đến trong văn hóa Maya thì những kiến trúc sư ngày nay cũng khó mà với tới được.

Theo báo cáo của nhiều đài truyền hình trong những năm gần đây, vào lúc 2 giờ 41 phút chiều ngày 24 tháng 7 năm 2009, một du khách đã vô tình chụp được một cột ánh sáng khổng lồ từ Kim tự tháp Kukulkan xông lên trời bằng điện thoại di động. Lúc đó mây đen dày đặc, người du khách này đang ở cùng với vợ và hai con gái. Trong bức ảnh có vẻ còn có một vật thể bay không xác định đang ẩn hiện giữa tầng mây và cột ánh sáng được chụp lại một cách rõ nét. Cột ánh sáng trên bức ảnh rõ ràng là không có hiện tượng khuếch tán, chỉ giống như một chùm tia laze khổng lồ. Sau đó bức ảnh được đưa đi thẩm định, toàn bộ chi tiết đều được xác minh: bao gồm ngày tháng, thời gian, thời gian phơi sáng, độ phân giải, kích thước ảnh chụp, tọa độ địa điểm, thông tin của điện thoại, v.v. Cuối cùng các chuyên gia đã nhận định bức ảnh chụp bằng điện thoại di động này là thật. Một người dẫn chương trình của đài truyền hình của Mexico cho biết: bức ảnh này chính là bằng chứng cho thấy người Maya cổ đại rất có thể đã tiếp xúc với nền văn minh siêu cấp. Còn một số cư dân mạng thì cho rằng, chức năng của Kim tự tháp này đang được người ngoài hành tinh kích hoạt. Sự việc này chắc chắn đã làm tăng thêm vẻ thần bí cho người Maya”.


Bản đính kèm: Nguyên gốc bài viết của Tân Hoa Net

Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng của Mexico

“Teotihuacan” trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là “Thành phố của những vị Thần”, di tích thành phố của những vị thần này nằm giữa thung lũng núi lửa Popocatepetl và Iztaccihuatl cách thành phố Mexico 40 km về phía Đông Bắc, có diện tích hơn 20 km2. Nó là thánh địa tôn giáo và trung tâm kinh tế của người Toltec, một nhánh của người Maya Ấn Độ cổ. Từ năm 1 đến năm 150, người Toltec ở nơi đây đã xây dựng thành phố có dân số 50.000 người, năm 450 vào lúc phát triển nhất của thành phố, dân số đạt hơn 200.000 người. Nhiều kiến trúc hùng vĩ được dựng lên khiến nó trở thành thành phố lớn nhất ở Trung Mỹ lúc bấy giờ. Bao gồm Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng, Đền Thần Rắn lông vũ và “Đại lộ Tử thần” kéo dài từ Bắc chí Nam lừng danh.

Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng đều là tế đàn cử hành các nghi thức tôn giáo. Kim tự tháp Mặt Trời là nơi người Ấn Độ cổ tế thờ Thần Mặt Trời, với kiến trúc hùng vĩ, có hình thang, quay mặt về hướng Tây, mặt trước có hàng trăm bậc thang thẳng lên đến đỉnh. Chiều dài đáy tháp là 225 mét, rộng 222 mét, chiều cao 66 mét, tổng cộng có năm tầng, thể tích lên tới 1 triệu m3. Tương đương với Kim tự tháp Khufu của Ai Cập, về cơ bản là có hình vuông, hơn nữa lại hướng về đúng bốn phía Đông, Nam, Tây, Bắc. Bốn phía của tháp cũng đều là hình tam giác giống chữ Kim “金”, tỷ lệ cạnh đáy và chiều cao của tháp vừa hay cũng bằng tỷ lệ chu vi và bán kính. Bên trong được xây đắp bằng bùn đất và đá cát, từ dưới lên trên, mặt ngoài mỗi bậc thang đều được ốp những phiến đá lớn, trên các phiến đá lại chạm khắc những hoa văn đầy màu sắc rực rỡ. Men theo bậc thang lên đến đỉnh tháp là đền thần Mặt Trời, giờ đã bị phá hủy, theo bằng chứng khảo cổ của các nhà lịch sử học Tây Ban Nha thế kỷ 18, ngôi đền này lúc đầu rất nguy nga lộng lẫy, bức tượng Thần Mặt Trời cao lớn đứng ngay trung tâm Thần đàn, mặt hướng về phía Đông, dáng vẻ trang nghiêm, trước ngực đeo đầy vật trang sức bằng vàng bạc châu báu, lúc ánh Mặt Trời chiếu vào trong điện, quanh thân bức tượng tỏa ra ánh hào quang sáng chói, khiến người ta phải cung kính nể phục, lúc bấy giờ việc giết người sẽ được thực hiện ở đây để tế Thần Mặt Trời.

Vị trí thiên văn của nó thật khiến người ta kinh ngạc: ánh sáng của sao Thiên Lang, xuyên qua đường thông hơi trên bức tường phía Nam, có thể chiếu thẳng đến phần đầu của người chết đặt trong sảnh ở tầng trên; và ánh sáng của sao Bắc Cực, xuyên qua đường thông hơi trên bức tường phía Bắc, có thể chiếu thẳng đến sảnh phòng tầng bên dưới. Kỹ thuật xây dựng tháp cao siêu cũng khiến người ta kinh ngạc, từ dưới lên trên tầng tầng chồng lên nhau lại dần dần thu nhỏ lại, giống như chiếc bánh kem sinh nhật nhiều tầng lung linh tinh tế mà lại to lớn không gì sánh được. Bốn mặt của tháp có 91 bậc thang, thẳng lên đến đỉnh. Bốn mặt tổng cộng có 364 bậc, lại cộng thêm mặt bằng trên đỉnh tháp thì vừa hay 365 bậc, điều này cũng vừa khớp với số ngày trong một năm. Cầu thang của tòa tháp chín tầng lại được phân thành 18 phần. Đây lại vừa đúng là số tháng trong một năm theo lịch Maya.

Người Maya tôn thờ Thần Mặt Trời, họ cho rằng Kukulkan (tức rắn có lông vũ) là hóa thân của Thần Mặt Trời. Trên bậc thang phía Bắc của đền thần Kukulkan người ta tinh tế khắc lên đó một con rắn có lông vũ, đầu rắn há miệng thè lưỡi, trông như thật, thân rắn lại ẩn trên mặt cắt của cầu thang, chỉ đến buổi chiều ngày xuân phân và thu phân hàng năm, khi Mặt Trời từ từ lặn xuống ở phía Tây, ánh sáng chiếu vào các phần của mặt Bắc, các góc cạnh dần dần lộ rõ, những đường kẻ thẳng tắp ấy cũng từ trên xuống dưới, giao thoa thành hình những con sóng, như thể một con rắn lớn đang bay lượn từ trên trời xuống, uốn lượn thong dong, như bay như nhảy, cảnh tượng ấy luôn khiến cho người Maya phấn khích tột độ. Kỳ quan tương tự cũng xuất hiện ở khu vực rừng rậm Nam Mỹ. Loại nghệ thuật ảo giác được tạo thành từ sự kết hợp kiến thức thiên văn, kiến thức vật lý, kiến thức xây dựng này, cho dù sử dụng trình độ hiện đại đi mô phỏng cũng khó lòng mà làm được. Các nhà khoa học đang tìm cách thăm dò kết cấu bên trong của những Kim tự tháp này, điều khiến người ta khó hiểu là cùng một thời điểm trong ngày, cùng một thiết bị sử dụng, cùng một vị trí bên trong Kim tự tháp khi tiến hành thăm dò bằng tia X (chụp tia phóng xạ), thì hình ảnh thu được đều không giống nhau”.

Bên cạnh Kim tự tháp Mặt Trời là Kim tự tháp Mặt Trăng, tọa lạc tại phía Bắc thành cổ, là nơi tế thờ Thần Mặt Trăng. Phong cách kiến trúc của nó giống với Kim tự tháp Mặt Trời, chỉ là quy mô nhỏ hơn mà thôi, lại được xây dựng muộn hơn Kim tự tháp Mặt Trời 200 năm. Mặt tháp hướng về phía Nam, chiều dài đáy 150 mét, chiều rộng 120 mét, chiều cao 46 mét, cũng phân thành năm tầng, những phiến đá lớn được ốp ở mặt ngoài của tháp có nhiều bích họa với hoa văn đặc sắc, quảng trường rộng lớn phía trước Kim tự tháp có sức chứa hơn vạn người.

Đại lộ Tử thần có chiều dài chừng 2,5 km, chiều rộng 40 mét, phía Nam Đại lộ nối với di tích thành lũy hình chữ nhật. Phía sau thành lũy có đền Thần rắn lông vũ, người Ấn Độ cổ gọi nó là đền Kesir Quart. Truyền thuyết kể rằng Kesir Quart là tên vị vua đầu tiên của người Toltec, được người Toltec tôn thờ như vị Thần của nước và không khí. Việc xây dựng đền được thực hiện muộn hơn nhiều so với Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng, quy mô cũng nhỏ hơn, tuy nhiên tạo hình tinh xảo, bề ngoài tráng lệ, lát đá cầu kỳ tinh tế. Bề mặt những bậc thang còn sót lại cho thấy từng tầng từng tầng là dùng đá xây ghép thành, mỗi tầng đều được trang trí những chiếc đầu rắn với vòng tròn lông vũ và mặt nạ tượng trưng cho Thần Mưa được ghép từ lõi ngô. Truyền thuyết kể rằng Kesir Quart là một vị Thần rộng lượng, nhân từ, cũng là một vị quân vương thông thái, dưới sự trị vì của ông người Toltec ngày càng hưng thịnh, nhưng về sau ông bị đánh bại trong cuộc chiến giữa các bộ lạc, và bị đẩy lùi về phía Đông, trước khi rời đi ông thề sẽ quay trở lại. Đầu thế kỷ 16, thực dân Tây Ban Nha đã mượn thần thoại này để biến việc xâm lược của mình nói thành là sự trở về của Kesir Quart.

Phía Nam của Kim tự tháp Mặt Trăng có cung Hồ Điệp, là nơi ở của các bậc chức sắc quyền quý và giới thượng tầng trong tôn giáo, cũng là nơi phồn hoa nhất toàn thành phố. Trên các cột trụ được khắc hình mình chim cánh bướm cực kỳ tinh tế, màu sắc rực rỡ vẫn còn cho đến ngày nay. Bên dưới cung điện hiện nay lại khai quật được một đền Thần ốc lông được trang trí lộng lẫy. Dưới ngôi đền này có hệ thống thoát nước ngang dọc đan xen, chặt chẽ như mạng nhện.

Từ các di tích của Teotihuacan trên có thể nhìn thấy các bức bích họa, điêu khắc và đồ gốm sứ màu rất tinh xảo của nó, đây là những báu vật trong văn hóa của người Ấn Độ cổ đại. Trên bức tường đổ nát của “Đền Thần Nông” phác họa khung cảnh tế lễ tôn giáo long trọng, các nhân vật trong bức họa mang các dáng vẻ khác nhau, xếp thành bảy hàng, từ trong miệng mỗi nhân vật nhả ra các hoa văn, theo lời các nhà lịch sử học thì đây có thể là các ký hiệu văn tự tượng hình của người Toltec. Hiện nay đã khai quật được tượng điêu khắc Thần Nước sinh động như thật. Họ đã dùng mấy khối đá lớn xây ghép một cách cẩn thận. Trên đầu Thần Nước đội vương miện, hai tai đeo khuyên, vẻ mặt nghiêm trang, hai mắt nhìn thẳng, thân hình cường tráng, trên áo bào khắc hoa văn hình học, các bình sứ màu có ba chân vững chắc được khai quật trông giống bình sứ của Trung Quốc thời cổ đại.

Trong khoảng thời gian từ năm 650 đến 700, Teotihuacan gặp phải sự xâm lược của ngoại tộc, các kiến trúc vốn có của thành cổ gần như bị phá hủy hết, người dân đành phải rời bỏ “Thành phố của những vị Thần” này. Rất nhiều những kiến trúc mà chúng ta trông thấy ngày nay, đều là đã trải qua tu sửa sau này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77727

The post Loạt bài Mexico 2012 (03): Tân Hoa Xã “đại ban vận” Kim tự tháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (02): Teotihuacan “Thành phố của những vị Thần”https://chanhkien.org/2023/09/loat-bai-mexico-2012-02-teotihuacan-thanh-pho-cua-nhung-vi-than.htmlSat, 09 Sep 2023 02:26:49 +0000https://chanhkien.org/?p=31248Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Năm ngoái khi lần đầu đến thành phố Mexico, tôi đã tán thán không thôi khí hậu nơi đây thật tuyệt. Nằm ở độ cao hơn 2000 mét so với mực nước biển, thành phố Mexico tọa lạc trên một thung lũng rộng lớn được bao quanh bởi các ngọn […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (02): Teotihuacan “Thành phố của những vị Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Năm ngoái khi lần đầu đến thành phố Mexico, tôi đã tán thán không thôi khí hậu nơi đây thật tuyệt. Nằm ở độ cao hơn 2000 mét so với mực nước biển, thành phố Mexico tọa lạc trên một thung lũng rộng lớn được bao quanh bởi các ngọn núi. Nhiệt độ trung bình cả năm rơi vào khoảng 12°C đến 16°C, không nóng cũng không lạnh lại có độ ẩm thấp, tôi cảm thấy khí hậu ở đây còn tốt hơn cả California của Mỹ. Chả trách nơi đây tập trung 22 triệu đến 25 triệu người sinh sống, tương đương với dân số của Đài Loan. Tôi đã nói với những người bạn Mexico của mình rằng nơi đây đúng là mảnh đất Thần ban cho các bạn!

Cũng giống như đến Bắc Kinh thì phải đi thăm Trường Thành và Tử Cấm Thành, vì vậy, một khi đã đến thành phố Mexico nhất định phải đến thăm thành cổ Teotihuacan cách đó 40 km về phía Đông Bắc. Bởi vì mặt trời chiếu gay gắt trên cao nguyên Mexico, nên để tránh cái nắng chói chang vào ban trưa, chúng tôi đã xuất phát từ rất sớm, đến được Teotihuacan là vào khoảng 10 giờ ngày 10 tháng 10 năm 2010, thật là một con số thú vị, cũng có thể là một sắp đặt sâu xa nào đó cũng nên.

“Thành phố của những vị Thần”

Cái tên ban đầu của Teotihuacan đã không còn ai biết đến nữa. Vào thế kỷ 14 khi người Aztec phát hiện ra chốn tàn tích rộng lớn này, họ đã đặt tên nó là “Teotihuacan” cũng có nghĩa là “Thành phố của những vị Thần”. Khi người Aztec đến đây, thành cổ này đã bị bỏ hoang mấy trăm năm rồi. Theo kết quả nghiên cứu khảo cổ, trước khi người Aztec đến đây, nơi đây từng là chốn đô hội cổ đại phồn hoa bắt đầu từ năm 200 TCN, nhưng vào khoảng năm 750 thì đột nhiên bị phá hủy, vào lúc phát triển nhất dân số có khoảng 200 nghìn (ở đây tạm gọi là người Teotihuacan). Thành phố này vào thời điểm đó có thể được xem là một trong những thành phố lớn trên thế giới, tương đương với Trường An của Trung Quốc cổ đại. Nhưng người Teotihuacan có phải là người đầu tiên kiến tạo ra nơi đây không? Vì sao lại đột nhiên bị phá hủy? Điều này không ai có thể biết chính xác được.

Dựa theo những chứng cứ khảo cổ được phát hiện, đời sống nhân loại của một thời kỳ khác đã lưu lại nơi đây một số di tích. Điều này đã khiến những nhà khảo cổ học đương đại bối rối. Rất khó để phân biệt những thứ ấy cái nào là do ai đã kiến tạo ra. Có học giả đã căn cứ theo các tài liệu địa chất, xác định thời gian mà Teotihuacan được kiến tạo ban đầu là trước năm 4000 TCN. Cũng chính là thời kỳ nền văn minh nhân loại lần trước, trước cả trận đại hồng thủy vào khoảng 6000 năm về trước. (Liên quan đến phần văn minh tiền sử, tôi sẽ phân tích rõ ra trong các loạt bài sau).

Quần thể kiến trúc của Teotihuacan hết sức đồ sộ, đặc biệt là Kim tự tháp Mặt Trăng và Kim tự tháp Mặt Trời. Đến cả người Aztec hung hãn hiếu chiến cũng phải bội phục. Có lẽ người Aztec cho rằng chỉ có Thần mới có thể kiến tạo được những kiến trúc hùng vĩ như thế thôi. Vì vậy mới đặt tên nơi đây là Thành phố của những vị Thần. Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng cũng là những cái tên do người Aztec đặt cho.

Kim tự tháp Mặt Trời của thành cổ Teotihuacan, Mexico. Thể tích 1.200.00 m³, ước tính nặng khoảng 2.500.000 tấn. Được xem là Kim tự tháp lớn thứ ba đã được phát hiện.

Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự tháp Mặt Trăng

Kim tự tháp Mặt Trời đồ sộ nhất trong thành cổ Teotihuacan (có chiều dài cạnh đáy 225 mét) được cho là đứng vị trí thứ ba trong số những Kim tự tháp lớn đã được phát hiện trên thế giới. Kim tự tháp Mặt Trời đứng sừng sững ở phía Đông của Đại lộ Tử thần, có chiều cao 63 mét (chiều cao ban đầu khi chưa bị tàn phá là 75 mét), với thể tích 1.200.000 m³. Ước tính phải dùng đến 2.500.000 tấn đá và bùn đất để xây dựng nên. Kim tự tháp Mặt Trăng nhỏ hơn Kim tự tháp Mặt Trời, ước tính đã dùng 1.000.000 tấn đá và bùn đất. Cũng có nghĩa là, lượng bùn đất và đá được dùng để xây dựng hai Kim tự tháp này gộp lại tổng cộng là 3.500.000 tấn. Có người từng tính toán ra rằng, nếu căn cứ theo kỹ thuật và công cụ lao động thời cổ đại thì phải cần đến 15.000 nhân công làm việc liên tục không ngừng nghỉ trong suốt 30 năm mới có thể hoàn thành được công trình đồ sộ như vậy. Thật khó để tưởng tượng rằng một thành phố với dân số 200.000 người lại có thể có đủ khả năng gánh vác việc này.

Kim tự tháp Mặt Trăng với trọng lượng ước tính khoảng 1.000.000 tấn

Những người xây dựng Kim tự tháp thời viễn cổ chắc hẳn đã nắm được tri thức số học tiên tiến. Tỷ lệ giữa chu vi cạnh đáy của Kim tự tháp Mặt Trời với chiều cao của tháp là 4π, tỷ lệ giữa chu vi cạnh đáy của Đại kim tự tháp Ai Cập với chiều cao của tháp là 2π. Một điểm tương đồng khác là đều thông qua thiết kế công phu mà làm tăng thêm hiệu quả đặc biệt. Kim tự tháp Mặt Trời giống như chiếc đồng hồ vĩnh cửu. Cứ vào thời gian mùa xuân và mùa thu hằng năm (ngày 20 tháng 3; ngày 22 tháng 9): tầng thấp nhất mặt phía Tây của Kim tự tháp sẽ xuất hiện một cái bóng đổ thẳng và lan rộng dần. Thời gian để chuyển từ bóng tối hoàn toàn đến lúc Mặt Trời chiếu sáng toàn bộ thì luôn mất 66.6 giây, chính xác không kém một ly.

Cách mặt phía Tây của Kim tự tháp Mặt Trời 300 mét về phía Nam, người ta còn phát hiện được một tầng hầm, sau này được gọi là Đền thờ Mica. Trong tầng hầm có rất nhiều căn phòng bằng đá, bên dưới mặt nền bằng đá trong mỗi căn phòng đều được phủ một cách cẩn thận hai lớp đá mica được cắt gọt tỉ mỉ với độ dày 15mm, diện tích mỗi tấm là 90 feet vuông. Có điều những tấm mica này đều được đặt ở vị trí không thể nhìn thấy, hiển nhiên là không phải dùng để làm vật trang trí rồi. Chúng ta biết rằng mica là vật liệu cần thiết để chế tạo trụ điện, là một loại cách nhiệt cách điện cực tốt. Trong các lò phản ứng hạt nhân, mica được dùng làm chất giảm tốc, có tác dụng điều chỉnh tốc độ nhanh của neutron. Thế thì rốt cuộc nó được đặt ở đây nhằm có tác dụng gì chứ? Thành phần của mica là không cố định, mica được tìm thấy ở các tầng nham thạch khác nhau có kim loại vi lượng khác nhau bao gồm kali và nhôm, sắt đen ( Fe2+), sắt (Fe3+), magiê, kali, mangan, titan, v.v. nghiên cứu cho thấy tấm mica khổng lồ ở Teotihuacan là đến từ Brazil cách đó hơn 2000 dặm Anh. Người Teotihuacan cổ đại làm sao có thể biết được tính năng và nguồn gốc của mica, lại còn ngàn dặm xa xôi vận chuyển về đây được chứ? Hay cơ bản không phải là người Teotihuacan đã vận chuyển chúng?

Những bậc đá cao trên Kim tự tháp có chiều cao gấp hai đến ba lần các bậc đá thông thường, có vẻ chúng không được thiết kế dành cho người bình thường.

Điều thú vị là, mỗi bậc thang trên Kim tự tháp đều rất cao, chiều cao ít nhất phải gấp hai lần bậc đá thông thường, vì vậy trong bức ảnh này (Ảnh 3), mọi người đều phải vịn mà lên xuống rất khó khăn. Tôi đoán phải những người cao trên 2.5 mét dùng bậc thang thế này sẽ thấy thoải mái hơn, nhưng bất kể là người Teotihuacan hay người Aztec đều có chiều cao trung bình. Lẽ nào người Teotihuacan thời viễn cổ có thân hình cao lớn hơn chúng ta? Hay là có mục đích khác ?

Đứng trên Kim tự tháp Mặt Trăng ngắm nhìn Quảng trường Mặt Trăng và Đại lộ Tử thần. Trước đây người Aztec dùng người sống để tế “Thần” ở đây. Người sống được dẫn đến Đài tế lễ bên dưới Kim tự tháp Mặt Trăng từ Đại lộ Tử thần. Do vậy mà có cái tên Đại lộ Tử thần này.

Hình dáng Kim tự tháp Mặt Trăng cũng tương tự Kim tự tháp Mặt Trời, nhưng quy mô thì nhỏ hơn, chiều dài cạnh đáy là 150 mét, chiều cao 43 mét. Quảng trường Mặt Trăng ở phía trước là nơi cử hành các nghi thức tôn giáo thời bấy giờ, sức chứa cả vạn người. Cung Hồ Điệp ở phía Tây quảng trường là nơi ở của thầy tế và người có địa vị chức sắc thượng tầng, và đây cũng là nơi hoa lệ nhất toàn thành. Ngõ phía Nam của Đại lộ Tử thần còn có một Kim tự tháp nhỏ (Kim tự tháp Rắn lông vũ) và Đền Thần Rắn lông vũ (Temple of the Feathered Serpent), bên ngoài là một thành lũy bao quanh. Theo các ghi chép thì Kim tự tháp Mặt Trời và Kim tự Tháp Mặt Trăng khi ấy rất nguy nga tráng lệ, các đền Thần bên trong tháp thờ Thần Mặt Trời và Thần Mặt Trăng riêng biệt. Khi Mặt Trời xuất hiện ở phía Đông chiếu lên tượng Thần được chạm khắc trên các bức phù điêu bằng vàng bạc, liền phóng ra ánh hào quang rực rỡ. Theo các bằng chứng khảo cổ, Teotihuacan trong mấy trăm năm tồn tại, Kim tự tháp Mặt Trăng này đã trải qua ít nhất sáu lần đổi mới, mỗi lần xây mới đều to lớn hơn cái trước, và bao phủ lên bên ngoài địa điểm cũ. Nhưng điều này vẫn còn may mắn hơn nhiều so với những gì đã xảy ra với Kim tự tháp Mặt Trời.

Mặc dù hàng nghìn năm trôi qua cũng không thể phá hủy nổi Kim tự tháp Mặt Trời, vậy mà nó lại bị tàn phá nghiêm trọng trong một tai họa lớn đầu thế kỷ 20. Theo ghi chép thì vào những năm 1905 – 1910, chính phủ Mexico đã giao cho Leopoldo Batres chủ trì việc trùng tu Kim tự tháp. Người được gọi là chuyên gia trùng tu di tích cổ này đã “tu sửa” một cách thô bạo đối với cả lớp ngoài của Kim tự tháp Mặt Trời, ông ta còn đào bới các khối đá, bùn vữa và thạch cao lớp ngoài của mặt phía Bắc, phía Đông và phía Nam của Kim tự tháp vào sâu 20 feet. Mỗi năm vào khi trời mưa lớn, gạch bùn dưới đáy tháp liền tan trong nước mưa rồi trôi theo dòng nước, kéo theo một lượng lớn đất đá bị trôi đi. Dù cho cơ quan đương quyền có biện pháp khắc phục, nhưng diện mạo của nó đã bị thay đổi hoàn toàn. Leopoldo Batres còn cưỡng ép thêm vào một tầng giữa tầng thứ tư và tầng thứ năm ban đầu, khiến nó chẳng còn ra hình thù gì nữa, diện mạo khác hẳn. Điều đáng nói là vào năm 1906 khi trùng tu Kim tự tháp Mặt Trời thành cổ Teotihuacan, ở giữa hai tầng trên đầu đỉnh tháp cũng từng phát hiện được một tấm mica rộng lớn, rắn chắc. Nhưng ngay sau khi khai quật ra liền bị đánh cắp. Nghe nói người đánh cắp và bán tấm mica này cũng chính là Leopoldo. Ban đầu tấm mica lớn này được lắp ở bộ phận nào của Kim tự tháp Mặt Trời, chúng ta đã không còn cách nào xác định được. Còn tác dụng của nó là gì giờ đây chúng ta càng không thể nào phán đoán được nữa rồi. Bất luận là hình trạng hay quy mô của nó mà nói, Kim tự tháp Mặt Trời đã không còn như trước nữa. Người đời sau đã không còn cơ duyên biết đến những chữ khắc, phù điêu, văn vật trên lớp vỏ ngoài của Kim tự tháp cùng những thông điệp quan trọng mà nó truyền tải cho các thế hệ sau nữa.

Phát hiện gây chấn động

Teotihuacan lấy Đại lộ Tử thần làm tuyến trung tâm, cả thành phố toát lên vẻ oai nghiêm, trung tâm nổi bật, toàn bộ thành phố được cấu thành từ các kiến trúc hình học đồ sộ. Đại lộ Tử thần nối thành cổ từ Nam chí Bắc, chiều dài chừng ba dặm, rộng 45 mét, các kiến trúc hai bên đan xen chằng chịt. Cứ cách vài mét thì xây một bậc thang có sáu bậc và đỉnh bằng phẳng. Kiến trúc sư người Mỹ Hugh Harleston Jr. đã đánh giá về những kiến trúc của Teotihuacan như sau: “Khi họ (những người xây dựng Teotihuacan) vẽ ra một đường thẳng, họ đang cho bạn biết về một mặt phẳng. Khi họ vẽ ra một bề mặt, thì họ đang cho bạn biết về thể tích. Khi họ đưa ra thể tích, họ đã cho bạn biết về thời gian”.

Sau khi Harleston cẩn thận nghiên cứu về quy hoạch và bố cục của Teotihuacan đã công bố một phát hiện chấn động: Dữ liệu thiết kế của thành phố này lại là hình ảnh thu nhỏ của quỹ đạo hệ Mặt Trời mà chúng ta đang sống. Harleston cho biết những người xây dựng Teotihuacan đã ép nhập toàn bộ các dữ liệu quỹ đạo như hình dáng, kích thước, cách thức chuyển động của Trái Đất và các hành tinh trong hệ Mặt Trời vào trong bố cục của thành phố Teotihuacan.

Hình ảnh giản lược của hệ Mặt Trời

Hình ảnh mô hình sau phục dựng của Teotihuacan, ở giữa là Đại lộ Tử thần, phía trước ở đằng xa là Kim tự tháp Mặt Trăng, bên phải là Kim tự tháp Mặt Trời

Harleston đã định nghĩa một “đơn vị Teotihuacan tiêu chuẩn” là 1.0594 mét. Khoảng cách giữa các di tích trên Đại lộ Tử thần, vừa hay là dữ liệu quỹ đạo của các hành tinh trong hệ Mặt Trời. Sao Thủy là 36, sao Kim là 72, khoảng cách của Trái Đất và Mặt Trời là 96 “đơn vị”, sao Hỏa là 144. Phía sau thành lũy của “Đại lộ Tử thần” có một con kênh do người Teotihuacan đào, khoảng cách từ con kênh đến đường trục trung tâm của thành lũy là 288 “đơn vị”, là khoảng cách từ tiểu hành tinh giữa sao Hỏa và sao Mộc đến Mặt Trời. Vị trí cách đường trục 520 “đơn vị” có tàn tích của một đền Thần vô danh, tương đương với khoảng cách từ Mặt Trời đến sao Mộc. Lại đi tiếp 945 “đơn vị”, lại có di chỉ của một đền Thần khác, đây là khoảng cách từ sao Thổ đến Mặt Trời, lại đi tiếp 1845 “đơn vị” thì đến được trung tâm của Kim tự tháp Mặt Trăng ở cuối “Đại lộ Hoàng Tuyền” (Đường đến địa ngục), đây lại vừa vặn là dữ liệu quỹ đạo của sao Thiên Vương. Nếu kéo dài theo đường thẳng Đại lộ Hoàng Tuyền, thì đến được đỉnh núi Serova Gordo, ở đó có một đền Thần nhỏ và một tòa tháp, phần móng của tháp nay vẫn còn đó. Mỗi khoảng cách tương ứng 2880 và 3780 “đơn vị”, chính là khoảng cách của quỹ đạo sao Hải Vương và sao Diêm Vương (Tài liệu tham khảo cho các kết luận trên: Hugh Harleston, Jr.,2006, “MAYAN TREASURE: Space and Time Unified at Teotihuacan RESEARCH SUMMARY NO.5: 1971―2006”).

Nếu cho rằng hết thảy những điều này đều là sự trùng hợp ngẫu nhiên, thế thì xác suất này có thể tương đương với việc cơn bão Irene vào tháng 8 năm nay đã vô tình hoàn thành việc lắp ráp một chiếc trực thăng ở New York vậy. Nếu cho rằng đây là do những người xây dựng cố ý sắp xếp vậy, chắc hẳn những nhà thiết kế của Teotihuacan từ lâu đã hiểu rõ cách thức vận hành của các hành tinh trong hệ Mặt Trời, và còn nắm được những dữ liệu quỹ đạo giữa các hành tinh và Mặt Trời. Thế nhưng, năm 1781 nhân loại mới phát hiện ra sao Thiên Vương, năm 1845 mới phát hiện ra sao Hải Vương, năm 1930 mới phát hiện sao Diêm Vương (cách ngày nay còn chưa đến 100 năm). Thế thì trong thời đại hồng hoang tiền sử, những người Teotihuacan làm sao biết được, hay họ được ai đó hướng dẫn để xây dựng được nơi này đây?

Truyền thuyết “Thần rắn lông vũ”

Trong nền văn minh Trung Mỹ thời cổ đại, Thần rắn lông vũ được thờ phụng rộng rãi, đặc biệt ở người Maya không có “Thần điêu” nào quan trọng hơn Thần rắn lông vũ. Truyền thuyết kể rằng Thần rắn lông vũ cai quản sao Mai, sáng tạo ra sách, lập pháp, và còn đưa đến cho con người bắp ngô. Thần rắn lông vũ còn đại diện cho cái chết và sự tái sinh, cũng là “vị Thần” bảo hộ của các thầy tế. Hãy để ý rằng, Thần rắn lông vũ quan trọng như thế nhưng họ lại không hề đề cập đến việc Thần rắn lông vũ có thể cứu độ con người đến bến bờ hạnh phúc (thế giới Thiên quốc hay thế giới Phật quốc).

Đi về phía Nam dọc theo Đại lộ Tử thần, một điểm cuối khác của Đại lộ chính là một Kim tự tháp nhỏ Quetzalcoatl (Thần rắn lông vũ). Bốn bề của nó điêu khắc tổng cộng 366 chân dung Thần rắn lông vũ, tất cả đều có đầu hình rắn (hình rắn mối) nhô ra, với cái miệng há lớn. Còn có vật thể kiến trúc mang dấu ấn – Thành lũy. Trong thành lũy có đền thờ, dinh thự, quảng trường và 15 bậc thang hình Kim tự tháp xung quanh, “đền thờ Quetzalcoatl” nổi tiếng nằm ngay trung tâm quảng trường. Đền thờ Quetzalcoatl là cái tên được các nhà khảo cổ học sau này đặt tên. Ở hai bên Đại lộ Tử thần và gần các Tế đàn người ta đều khai quật được không ít bộ xương người, rất nhiều trong số đó là bị trói tay sau lưng, cho thấy đây là tế phẩm khi đó. Rất nhiều bộ lạc ở Trung Nam Mỹ đều dùng người sống để tế “Thần”, phương thức cúng tế người sống này đã được thực hiện từ các buổi đầu của một số nền văn minh. Mà “Thần” của họ rất nhiều đều không mang hình dạng con người, có “Thần” thiện một chút, cũng có “Thần” là ác.

Tôi hiểu được rằng chính Thần chân chính thì tuyệt đối không thể chấp nhận việc dùng người sống cúng tế. Đồng thời, các dân tộc khác nhau đều có những truyền thuyết tương tự rằng: Thần là dựa theo hình tượng của bản thân mà tạo ra con người. Chính Thần cứu độ con người trong các chính giáo lớn ở nhân loại cũng đều là xuất hiện dưới hình tượng con người. Những “vị Thần” được thờ cúng bởi các bộ lạc Trung Nam Mỹ này dường như là các chủng loại sinh vật ngoài hành tinh khác nhau có văn minh trình độ cao. Chúng không coi con người là đồng loại, đương nhiên là trong số đó cũng có thể có một vài chủng loại sinh vật ngoài hành tinh trên bề mặt có thể là đối với con người có chút thiện. Các sinh vật ngoài hành tinh được trang bị “Pháp lực” nhất định này cũng rất giống với “yêu ma quỷ quái” trên các vùng đất hoang vu trên biển được miêu tả trong «Sơn Hải Kinh» và các sách cổ khác của Trung Quốc. Bởi vì rất nhiều cổ nhân Trung Quốc đều có thần thông khai mở thiên mục, cho nên trong rất nhiều cuốn sách cổ của Trung Quốc đều có nói về các chuyện trong Tam giới, mà không chỉ là giới hạn riêng về Trái Đất không thôi. Bởi vì sinh vật ngoài hành tinh thể hiện ra bản sự rất lớn, nên những người thổ dân thời điểm đó rất dễ tôn họ thành Thần. Đương nhiên chúng cũng sẽ giúp đỡ con người có mục đích ở mức độ nào đó, truyền thụ kiến thức cho con người nhưng chúng vĩnh viễn không thể làm được những gì mà các bậc Giác Giả chính giác chính Pháp làm: đó là giúp con người thật sự thăng hoa trở thành sinh mệnh cao cấp, thậm chí là Phật, Đạo, Thần.

“Thần rắn lông vũ” được thờ phụng phổ biến trong các bộ lạc Trung Mỹ có đầu mang hình dạng của rắn, có thân thể giống như rắn được phủ một lớp lông vũ. Thần rắn lông vũ trong truyền thuyết là một vị “Thần linh” khá thiện, đến từ vũ trụ xa xôi, ông thậm chí còn mang áo bào trắng, có chòm râu dài, giáng lâm xuống Teotihuacan. Ông đã truyền thụ cho con người các loại tri thức và luật pháp. Sau khi ông dạy con người biết những tri thức này xong liền lên một chiếc phi thuyền quay trở về tinh không (bầu trời sao) thần bí. Người Maya hàng ngàn năm trước đã biết Trái Đất là hình tròn, trong cuốn sách Popol Vuh của họ cũng nói đến những “vị Thần” như: Hunahpu, Xbalanque, và Quetzalcoatl “Thần rắn lông vũ là vương của các vị Thần”. Sau khi họ kết thúc cuộc sống trên Trái Đất liền trở về các vì sao xa xôi.

Trên mảnh đất Teotihuacan, dấu ấn của nền văn minh tiền sử [1], văn minh ngoài hành tinh, văn minh Ấn Độ cổ và người hiện đại đan xen lẫn nhau. Nó cũng đã lưu lại cho chúng ta vô vàn những điều bí ẩn, chờ đợi chúng ta đi suy ngẫm, khám phá và thưởng thức…

[1] Ghi chú: Về văn minh tiền sử có liên quan, đã được kiến giải sâu sắc trong cuốn Chuyển Pháp Luân cùng nhiều tác phẩm khác của Pháp Luân Đại Pháp. Các độc giả nên đọc tham khảo.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77598

The post Loạt bài Mexico 2012 (02): Teotihuacan “Thành phố của những vị Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôihttps://chanhkien.org/2023/08/loat-bai-mexico-2012-01-duyen-phan-voi-mexico-cua-toi.htmlSun, 27 Aug 2023 06:03:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31190Tác giả: Ngọc Bân [ChanhKien.org] Di tích thành cổ Teotihuacan và Kim tự tháp Thần Mặt Trời cách thành phố Mexico 40 dặm Trước nay tôi chưa hề muốn đến Mexico, nhưng một năm trở lại đây vì lý do công tác tôi đã đi Mexico tám lần. Lần đi đầu tiên rất miễn cưỡng, […]

The post Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngọc Bân

[ChanhKien.org]

Di tích thành cổ Teotihuacan và Kim tự tháp Thần Mặt Trời cách thành phố Mexico 40 dặm

Trước nay tôi chưa hề muốn đến Mexico, nhưng một năm trở lại đây vì lý do công tác tôi đã đi Mexico tám lần. Lần đi đầu tiên rất miễn cưỡng, sau đó thì lại yêu thích không thôi mảnh đất thần bí cổ xưa này…

1. Duyên khởi

Vào tháng 7 năm ngoái, vì thay đổi tính chất công việc, công ty cần cử tôi đến một công ty khác ở Mexico thực hiện một dự án. Hạng mục hợp tác này đã thực hiện được mấy tháng rồi. Các kỹ sư có chút thâm niên của công ty tôi lần lượt thay nhau đi. Các đồng nghiệp quanh tôi đều đã đi mấy lượt, đi thấy ngán luôn rồi, rất cần thêm người, cho nên tôi vừa mới vào, công ty lập tức quyết định cử tôi đi Mexico ngay. Thời gian đầu đến Mexico công tác tôi thật không thoải mái lắm, tuy nhiên đây là công việc của tôi, tôi quả thực không có lý do gì để từ chối. Công ty của Mỹ không như công ty của Trung Quốc, vị trí chơi nhiều làm ít quá ít ỏi. Nếu bạn ở vị trí này, người khác cũng phải xem cống hiến của bạn như thế nào, bạn mang lại được gì cho công ty.

2. Hai nguyên nhân chủ yếu khiến tôi không muốn đi Mexico

Đương nhiên là những tin tức tiêu cực về Mexico như các tập đoàn buôn ma túy trắng trợn, rất nhiều vụ bạo lực bắn giết mà báo đài thường xuyên đăng tải đều có ảnh hưởng đến tâm lý của tôi. Bạn bè tôi cũng đều nói với tôi rằng: “Anh đi đến đó làm gì, đáng sợ lắm”. Có điều may là công ty sắp xếp cho chúng tôi ở lâu dài tại khách sạn tốt nhất, trong khu vực an toàn nhất của thành phố Mexico, quả thực cũng rất an toàn. Tôi ban đầu không muốn đi chủ yếu còn có hai nguyên nhân sau:

Thị thực du lịch của Cục di dân Mỹ quốc cấp cho người không có hộ chiếu hoặc không có quốc tịch

Một là tôi xưa nay vẫn làm không được hộ chiếu Trung Quốc hợp lệ.

Hơn 10 năm trước, tôi ở trong nước luyện Pháp Luân Công bị liệt vào danh sách đen của Trung Cộng. Vừa mới tốt nghiệp không lâu, vì tiết lộ các việc Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công mà bị đưa vào nhà tù làm lao động khổ sai. Sau khi ra khỏi tù, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, tôi đến được nước Mỹ cũng thật không dễ dàng gì. Không có hộ chiếu Trung Quốc, muốn đi ra nước ngoài du lịch quả là rất rắc rối. Cho nên tôi bình thường không muốn đi khỏi nước Mỹ. Trước hết, mỗi lần ra khỏi Mỹ đều phải chi tiền gửi đến cục di dân xin cấp một cuốn sổ màu xanh gọi là Thị thực du lịch (Ảnh 2). Thời gian chờ đợi xin cấp Thị thực có khi đến mấy tháng. Mà thời hạn hiệu lực của loại thị thực du lịch này chỉ có một năm. Trên thực tế chỉ có thể dùng được nửa năm thôi, bởi vì đa phần nhập cảnh các nước đều yêu cầu hộ chiếu có hiệu lực nửa năm trở lên. Vì vậy hơn một năm trở lại đây tôi không thể không làm Thị thực du lịch thế này đến hai lần.

Ngoài ra, cho dù lấy được cuốn sổ xanh này rồi, rắc rối cũng vẫn còn không ít. Bởi vì rất nhiều người chưa được thấy cuốn sổ này bao giờ. Có người còn không biết cuốn sổ này có thể dùng thay cho hộ chiếu. Cho nên rất nhiều lần, khi tôi đi máy bay, xuất nhập cảnh hải quan, đều sẽ có một đống câu hỏi vặn vẹo tôi.

Có lần tôi đi từ Mexico về lại Mỹ, chỉ vì mang cuốn sổ xanh hiếm thấy này mà bị vặn hỏi đến bốn lần. Đầu tiên là tại sân bay Mexico dùng cuốn sổ này dò không ra thẻ lên máy bay. Sau khi giải thích hồi lâu với nhân viên công tác của công ty vận tải hàng không, nhân viên sân bay nói với tôi rằng, Mexico là quốc gia dân chủ, sẽ không làm ra cái chuyện như Trung Cộng làm, cô ấy giúp tôi lấy được thẻ lên máy bay. Bắt đầu đến đoạn kiểm tra an toàn, sau khi kiểm tra an toàn xong, một cảnh sát sân bay ngăn tôi lại kiểm tra hộ chiếu, tôi kính cẩn đưa cuốn sổ xanh ra. Cảnh sát nhìn thấy, trừng mắt nói: “Trò đùa gì đây?” Tôi giải thích cho anh ta cũng không ích gì. Anh ta gọi một cảnh sát khác đến, sau một hồi lại gọi một nhân viên sân bay đến. Tôi đem trải nghiệm bị Trung Cộng bức hại thế nào, quá trình lấy không được hộ chiếu ra sao nói một lượt bằng tiếng Anh (bởi mỗi lần ra nước ngoài đều phải nói cái này, tôi sớm đã học thuộc lòng như cháo chảy rồi). Do đó ba người họ tụm lại với nhau, chi li cha la nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi cũng không biết là họ đã nói gì, trong lòng có chút lo lắng, nhưng chớ có giữ tôi lại đây. Không lâu sau, viên cảnh sát ban đầu hỏi tôi mấy giờ máy bay cất cánh. Tôi nói 6 giờ sáng hơn cất cánh, anh ta thấy thời gian cũng không còn nhiều nữa. Do dự một lúc, anh ta trả lại tôi cuốn sổ xanh, khua tay để tôi đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Sau đó xem tin tức trong ngày tôi mới biết, tối ngày hôm trước tập đoàn buôn ma túy thành phố Mexico và phía quân đội Mexico xảy ra cuộc đọ súng. Phía quân đội Mexico đã bắn chết tên cầm đầu của tập đoàn buôn ma túy. Cho nên, hai ngày liên tiếp sau đó, tình hình bên cảng khẩu sân bay đều rất căng thẳng. Chắc là viên cảnh sát đó lo rằng tôi và phần tử buôn ma túy cùng một hội. Cầm lại được thị thực du lịch, tôi mừng lắm, hồ hởi bước lên máy bay, kết quả khi lên máy bay lại bị nhân viên an ninh hỏi lại lần nữa. Cuối cùng lúc nhập cảnh hải quan Mỹ lại bị vặn hỏi lần nữa. Ài, trong một ngày bị vặn hỏi bốn lần, hỏi đến mức tôi hôm đó quả là gặp ai liền muốn nói là bị Cộng phỉ bức hại.

Lý do thứ hai tôi không muốn đi Mexico là mẹ của tôi phải làm sao đây.

Khi ấy mẹ tôi vừa mới từ Trung Quốc đại lục xa xôi vạn dặm lặn lội đến thăm tôi. Đây là lần thứ hai bà qua đây, lần thứ nhất bà qua đây cùng với bố. Vào lần thứ nhất qua, bố mẹ tính ở chỗ tôi nửa năm, nhưng sau lại chỉ ở một tháng rồi đi. Bởi khác biệt ngôn ngữ, xem ti vi không hiểu, không dám nhận điện thoại ở nhà, cũng không biết lái xe. Hằng ngày sau khi tôi đi làm, họ chỉ ở nhà chăm chăm mong tôi về nhà. Niềm vui lớn nhất chính là nghe thấy âm thanh tôi bước lên lầu sau khi tan ca về nhà. Cuối tuần tôi dẫn họ ra ngoài đi chơi một hai lần, bố mẹ rất thích nước Mỹ. Cảm thấy môi trường sống cũng tốt, con người cũng rất tốt, chỉ là quá cô đơn thôi.

Lần thứ hai này chỉ có mình mẹ qua, để bà một mình trong nhà trên đất Mỹ, bà sẽ sống sao đây? Lần trước còn có bố bên cạnh, lần này chỉ có mỗi mình bà, sẽ càng thêm khó khăn. Mắt của mẹ không được tốt lắm, vì những năm trước đây tôi bị Trung Cộng nhốt trong nhà tù, bà đã khóc gần mù mắt rồi. Nhưng mẹ tôi lại là một người phụ nữ Trung Quốc truyền thống, một lòng muốn hỗ trợ con trai mình làm tốt công việc. Tôi nói với bà về chuyện đi công tác này, bà không biết phải làm sao, tuy nhiên vẫn ủng hộ tôi đi Mexico. Tôi đã nhờ cậy mấy đồng tu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đến chăm sóc bà, khi tủ lạnh không còn đồ ăn thì lái xe đưa bà đi siêu thị mua đồ. Kết quả, mẹ lại sợ làm phiền người khác, hơn một tuần không nhờ đến họ, đến lúc cầm cự không được nữa mới phải đi siêu thị.

Mặc dù phiền phức nhiều như vậy, nhưng tôi vẫn phải đi Mexico. Vận mệnh con người thật không thể tự mình có thể chi phối được. Có câu nói: “Người trong giang hồ, thân bất do kỷ”. Đi Mexico một lần, hai lần, rồi ba lần… tôi đã dần dần yêu thích đất nước này. Trong giai đoạn này, mẹ tôi nhờ sự giúp đỡ của các đồng tu luyện Pháp Luân Công cũng có nhiều thụ ích, còn có cơ hội xem được Shen Yun (Thần Vận), sau đó còn hay nhìn thấy biểu tượng chữ Vạn “卍” xoay chuyển nữa. Những chuyện này đều là ngoài dự liệu của tôi. Rất nhiều sách thánh hiền của phương Đông phương Tây đều nói với chúng ta rằng đừng dùng quan niệm cố hữu để xem xét người và sự việc. Đừng phán đoán trước người khác, vạn sự tùy kỳ tự nhiên, tùy ngộ nhi an v.v.. Bởi vì điều con người nhìn thấy chỉ là bề mặt. Quả đúng như vậy đấy, tái ông mất ngựa (1), đâu biết được là họa hay phúc chứ.

3. Mexico, một đất nước thần kỳ

Mexico cũng có chỗ hấp dẫn tôi. Từ lâu đã nghe đến Mexico là trung tâm của nền văn minh cổ xưa rực rỡ trên khối đại lục châu Mỹ, văn minh Olmec, văn minh Maya trứ danh mà vô cùng thần bí trải rộng trên bán đảo Yucatan, còn có nền văn minh Toltec và văn minh Aztec đều lưu lại nơi đây dấu ấn đậm đà. Đồng thời cũng còn rất nhiều di tích mà rất có thể là của thời kỳ trước của nền văn minh nhân loại lần này, cũng chính là trước trận Đại hồng thủy của 6000 năm về trước, những gì lưu lại siêu việt cả văn minh hiện đại.

Đương nhiên chẳng liên quan gì với nền văn minh Maya được xem là thần bí nhất trong lịch sử văn minh nhân loại lần này. Nó có vẻ là đến từ Thiên thượng, vào lúc được xem là phồn thịnh huy hoàng nhất, lại bỗng dưng chấm dứt. Để lại cho thế giới mối nghi hoặc to lớn. Mà hậu duệ của người Maya hiện đại sớm đã mất đi trí huệ của tổ tiên. Lịch pháp Maya (Dương lịch) lấy một năm bằng 18 tháng, họ tính toán một năm trên Trái Đất là 365,2420 ngày, người hiện đại tính thành 365,2422 ngày, sai lệch chỉ 0,0002 ngày, chính là nói sai số của 5000 năm mới chỉ có một ngày. Năm Kim Tinh được tính toán trong lịch Kim Tinh của người Maya là 584 ngày, sai lệch trong 5000 năm chỉ có 700 giây (tức 11,6 phút) so với cách tính của người hiện đại. Trong cách tính giờ, người Maya có một thứ gọi là đơn vị thời gian Alautun tương đương 23040000000 ngày (tức hơn 63 triệu năm). Một đơn vị Alautun tương đương 20 Kalabtun cũng là 1152000000 ngày, mà một Kalabtun bằng 20 Pictun tức 57600000 ngày. Những đơn vị thời gian cự đại thế này, chỉ khi đo lường cự ly giữa các vì sao và hành trình di chuyển giữa các vì sao mới có thể cần dùng đến thôi.

Người Maya còn có một loại là “Lịch Tzolkin”. Loại lịch pháp này từ đâu mà đến, quả thực khiến người ta không giải thích nổi. Lịch phân một năm thành 13 tháng, mỗi tháng có 20 ngày. Loại lịch pháp này không phải là dựa theo sự vận hành của một thiên thể nào đó được quan sát thấy từ Trái Đất. Có người cho rằng, lịch pháp Tzolkin là do tổ tiên của người Maya căn cứ dựa theo phương pháp được định ra bởi một tinh cầu khác mà chúng ta cho đến nay vẫn chưa biết đến. Trong lịch pháp này ghi chép quy luật vận hành của “mùa Ngân Hà”, dựa theo lịch pháp Tzolkin thì Trái Đất của chúng ta hiện giờ đã ở trong kỷ Mặt Trời thứ 5, đây cũng là kỷ Mặt Trời cuối cùng. Trong giai đoạn thời kỳ của mùa Ngân Hà này, hệ Mặt Trời của chúng ta đang trong “Đại chu kỳ” đã diễn ra hơn 5100 năm rồi. Thời gian tính từ năm 3113 TCN cho đến năm 2012. Trong “Đại chu kỳ” này, Trái Đất cùng hệ Mặt Trời đang di chuyển qua một chùm tia Ngân Hà phát ra từ trung tâm của hệ Ngân Hà. Mà Trái Đất cần mất 5125 năm để đi qua hết chùm tia này. Đến hôm nay thì đã rất gần đến điểm kết thúc rồi. Trong khoảng thời gian 20 năm từ năm 1992 đến năm 2012, Trái Đất của chúng ta đã tiến vào thời kỳ cuối cùng của giai đoạn sau cùng của “Đại chu kỳ”. Người Maya cho rằng đây là thời kỳ vô cùng quan trọng trước khi “đồng hóa hệ Ngân Hà”. Họ gọi đây là “Kỳ canh tân của Trái Đất”. Trong thời kỳ này, Trái Đất cần đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn. Mà sau “Kỳ canh tân” này Trái Đất sẽ đi ra khỏi chùm tia Ngân Hà và tiến nhập vào giai đoạn mới của “Đồng hóa hệ Ngân Hà”.

Người Maya còn dự ngôn rằng Thần sẽ còn quay lại. Dựa theo dự ngôn này của người Maya, khoảng chừng vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày kết thúc của văn minh nhân loại lần này. Sau đó, nhân loại sẽ tiến vào một nền văn minh hoàn toàn mới không có liên quan gì với nền văn minh lần này cả…

Ảnh chụp Mexico lúc hoàng hôn từ trên máy bay

Tôi nhìn xuống vùng đất Mexico trong ánh hoàng hôn từ trên máy bay, cái cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng xa xăm khiến tôi quên đi sự huyên náo của thế tục. Tôi thích sự tĩnh lặng như thế này. Không gian rộng lớn, màn đêm tĩnh mịch mang đến cho tôi linh cảm vô hạn. Được biết biểu diễn Thần Vận năm 2012 sẽ lần đầu ghé thăm Mexico, tôi muốn đem đặc điểm địa lý, phong tục tập quán con người, nền văn minh tiền sử của Mexico cùng tất cả những gì tôi nhìn thấy, nghe thấy, và những tâm tư suy nghĩ của mình, viết nên loạt bài “Mexico 2012” để tặng cho độc giả cùng bạn bè khắp nơi đến du lịch Mexico.

Nhớ đến lời của Rùa Đại Tiên trong bộ phim “Công phu Panda”: “Chẳng có chuyện gì là ngẫu nhiên cả. Tôi nghĩ số lượng người Hoa ở Mexico rất ít ỏi, nên đây có lẽ chính là sứ mệnh của tôi…”

(Còn tiếp)

Chú thích của người dịch:

(1)Tái ông mất ngựa: họa phúc khôn lường. Một ông già ở vùng biên giới bị mất ngựa, mọi người đến an ủi ông, ông bảo rằng: “Làm sao biết đó không phải là cái phúc?” Ít lâu sau, con ngựa của ông quay trở về kéo thêm một con ngựa nữa. Mọi người đến chúc mừng, ông bảo biết đâu đó lại là hoạ. Quả vậy, con trai ông vì cưỡi tuấn mã bị ngã què chân. Mọi người đến an ủi, ông bảo không chừng thế lại là phúc. Chẳng bao lâu, có giặc, trai tráng phải ra trận, riêng con ông vì tàn tật được ở nhà sống sót. Ví với chuyện không hay trong một hoàn cảnh nào đó có thể biến thành chuyện tốt.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77479

The post Loạt bài Mexico 2012 (01): Duyên phận với Mexico của tôi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>