Khám phá phong thủy | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnSat, 06 Jul 2024 22:38:31 +0000en-UShourly1Khám phá phong thủy (15): Những công trình xây dựng hủy diệt dân tộc Trung Hoahttps://chanhkien.org/2024/01/kham-pha-phong-thuy-15-nhung-cong-trinh-xay-dung-huy-diet-dan-toc-trung-hoa.htmlWed, 10 Jan 2024 00:14:55 +0000https://chanhkien.org/?p=32312[ChanhKien.org] Vào những năm 90 của thế kỷ trước, ở Đại Lục đã khởi động hai dự án công trình rất lớn mang tầm quốc tế, đó là Dự án Nam thủy Bắc điều (1) và Dự án đập Tam Hiệp. Từ góc độ phong thủy mà xem xét, hai dự án này lại chính […]

The post Khám phá phong thủy (15): Những công trình xây dựng hủy diệt dân tộc Trung Hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Vào những năm 90 của thế kỷ trước, ở Đại Lục đã khởi động hai dự án công trình rất lớn mang tầm quốc tế, đó là Dự án Nam thủy Bắc điều (1) và Dự án đập Tam Hiệp. Từ góc độ phong thủy mà xem xét, hai dự án này lại chính là những công trình phá vỡ sự hài hòa Thiên Địa, phá hoại sự ổn định trên dưới của vũ trụ này.

Dự án Nam thủy Bắc điều chia thành ba tuyến dẫn nước là Tuyến phía Đông, Tuyến Trung tâm và Tuyến phía Tây, điều nước từ hạ lưu, trung lưu và thượng lưu sông Dương Tử (còn gọi là sông Trường Giang).

Công trình Tuyến phía Đông: dẫn nước từ hạ lưu sông Dương Tử ở Giang Đô, Dương Châu, tỉnh Giang Tô, sử dụng kênh đào lớn Bắc Kinh – Hàng Châu (Kinh Hàng đại vận hà) và các kênh song song của nó để từng bước đưa nước lên phía Bắc, kết nối với các hồ có tác dụng tích trữ và điều tiết nước là hồ Hồng Trạch, Hồ Lạc Mã, hồ Nam Tư và hồ Đông Bình. Sau khi ra khỏi hồ Đông Bình thì phân thành hai đường dẫn nước, một đường hướng lên phía Bắc, thông qua đường hầm xuyên qua lòng sông Hoàng Hà, chảy qua Sơn Đông, Hà Bắc đến Thiên Tân. Tuyến vận chuyển nước chính dài 1156 km, một đường khác hướng về phía Đông, đi qua Tế Nam chuyển nước đến Yên Đài và Uy Hải, tuyến đường vận chuyển nước này dài 701 km.

Công trình Tuyến Trung tâm: Dẫn nước từ hồ chứa nước Đan Giang Khẩu được xây dựng bằng cách đắp đập ở con sông Hán Giang, một nhánh ở phía bờ Bắc vùng trung du sông Dương Tử, đi qua bốn lưu vực sông lớn là sông Dương Tử, sông Hoài, sông Hoàng Hà và sông Hải Hà, từ đây về cơ bản là có thể tự chảy đến Bắc Kinh và Thiên Tân. Tổng chiều dài của tuyến vận chuyển nước chính là 1267 km. Từ ngày 4 tháng 12 năm 2009, tuyến hạ du của Tuyến Trung tâm dự án Nam thủy Bắc điều xuyên qua đường hầm Hoàng Hà đã bước vào đoạn thi công đào khoét dưới lòng sông sông Hoàng Hà với chiều rộng dòng chảy chính trên mặt sông khoảng 600 mét, điều này cho thấy công trình tuyến giữa xuyên qua sông Hoàng Hà của dự án Nam thủy Bắc điều đã đi vào giai đoạn then chốt. Công trình vượt sông Hoàng Hà là dự án trọng điểm và mang tính kiểm soát đối với kênh chính thuộc tuyến Trung tâm của Dự án Nam thủy Bắc điều xuyên Hoàng Hà. Nhiệm vụ của nó là trung chuyển nước từ bờ Nam Hoàng Hà sang bờ Bắc Hoàng Hà, để cung cấp nước cho các khu vực phía Bắc.

Công trình Tuyến phía Tây: Xây dựng đập và hồ chứa nước trên vùng thượng du sông Thông Thiên, sông nhánh Nhã Lung ở thượng nguồn sông Trường Giang, và thượng nguồn sông Đại Độ, đào đường hầm dẫn nước xuyên qua dãy núi Ba Nhan Khách Lạp – đường phân nước giữa sông Dương Tử và Hoàng Hà. Điều chuyển nước từ Dương Tử dẫn lên vùng thượng du Hoàng Hà, bổ sung nguồn tài nguyên nước bị thiếu ở sông Hoàng Hà.

Kể từ thời hiện đại, môi trường sinh thái ở phía Bắc Trung Quốc ngày càng xấu đi, nhiều nơi đã bắt đầu bị sa mạc hóa, bão cát xảy ra thường xuyên, nước cũng càng ngày càng ít. Cho nên Dự án Nam thủy Bắc điều bắt nguồn từ việc phía Bắc bị thiếu nước, vì thế có người cho rằng phía Nam nhiều nước, phía Bắc ít nước, thì hà cớ gì không điều chuyển một chút nước từ miền Nam lên miền Bắc, giải quyết vấn đề lũ lụt hạn hán ở miền Bắc được?

Chúng tôi cho rằng, loại suy nghĩ này về cơ bản là sai lầm, và những người đưa ra ý kiến như này quả thực là những kẻ vô tri không kiến thức. Mọi người đều biết, muốn giải quyết vấn đề về cơ bản là phải hiểu nguyên nhân nảy sinh vấn đề là gì thì mới tùy bệnh bốc thuốc được. Nếu không phải từ căn bản mà giải quyết vấn đề, chỉ xử lý từ quan điểm kỹ thuật, dùng các phương pháp khoa học kỹ thuật để giải quyết, thì vào thời cổ đại đã bị những kẻ sĩ có đạo đức thóa mạ rồi, vào thời nay cũng sẽ bị những người sáng suốt minh trí bác bỏ. Như chúng tôi đã đề cập trước đây, hai chữ “Đạo Thuật” thì trước tiên là “Đạo”, sau mới đến “Thuật”. Cho nên khi xảy ra vấn đề gì, thì trước tiên phải xem xét từ “Đạo”, giải quyết triệt để vấn đề căn bản, rồi sau mới dùng “Thuật” để xử lý hiện tượng bề mặt, đó mới là “Chính Đạo”.

Mọi người lật một chút các ghi chép từ lịch sử thì có thể biết rõ, vào thời cổ đại, chẳng hạn như triều đại nhà Đường, thậm chí ngay triều đại nhà Thanh sau này, ở phương Bắc, khi đó nơi nơi đều là sơn thủy hữu tình, non xanh nước biếc, môi trường sinh thái vô cùng thuần khiết trong lành. Vậy tại sao bây giờ lại có tình trạng như này, nguyên nhân rốt cuộc là gì?

Chúng tôi tin rằng, Thiên Địa Nhân ba chiều không gian này là có quan hệ mật thiết và hài hòa cân bằng lẫn nhau, giống như ba tầng bề mặt của bánh xe Roulette (2). Theo lý luận cổ đại mà nói thì chính là “Thiên Nhân hợp nhất”, ba không gian này là “nhất thể”, và “nhất thể” này dùng bánh xe Roulette để hình dung thì ba chiều không gian này chính là một thể, cũng tức là ba tầng của bánh xe Roulette. Mà mấu chốt của việc duy trì phối hợp vận hành này chính là trục trung tâm của nó, vòng quay của trục trung tâm bánh xe Roulette chính là “Đạo đức”, lấy một ví dụ, “đạo đức” giống như động lực chuyển động của Roulette, nếu như người người đều cầu đạo trọng đức, thì kết quả tự nhiên sẽ là Thiên Nhân hợp nhất, động lực vận hành của ba chiều không gian dồi dào, triển hiện ra tràn đầy sức sống; nếu như chuẩn mực đạo đức của con người trượt dốc, thì sự phối hợp vận hành của ba chiều không gian giống như một cỗ máy lâu ngày không được bôi trơn, chuyển động khập khiễng lục cục, động lực không đủ.

Cho nên, nguyên nhân căn bản tạo nên hiện tượng phương Bắc thiếu nước như hiện nay, chính là vấn đề đạo đức ngày nay của người dân Trung Quốc. Lấy một ví dụ, mọi người có thể nghĩ một chút, với cơ cấu Đảng chính phủ là tổ chức phục vụ, ban đầu gọi là vì dân phục vụ, nhưng hiện nay xác thực là lũng đoạn độc quyền tài nguyên, chiếm đoạt lợi ích nhân dân, cướp bóc không gian sinh tồn của người dân, mà các viên chức đảng viên đại biểu cho đảng, chính phủ xác thực đều là tham ô hủ bại, người người đều là tranh quyền đoạt lợi. Trong môi trường rất rộng lớn này, chẳng phải mọi đơn vị tổ chức ở Trung Quốc đại lục, giữa người với người đều lục đục đấu đá, ai ai cũng tự tư tự lợi? Đây là điều mà mọi người đều biết đến một cách rộng rãi, người người đều xác nhận, nhưng ai ai cũng không có cách nào để giải quyết nó.

Vậy nên, điều cần làm hiện nay không phải là dùng các biện pháp khoa học kỹ thuật để xử lý hoàn cảnh môi trường tự nhiên, mà là tập trung giải quyết các vấn đề về nhân tâm, về đạo đức. Phương pháp nào có thể khiến nhân tâm hướng thiện, biện pháp nào có thể đề cao tiêu chuẩn đạo đức con người, thì hãy chọn dùng, khuếch trương rộng rãi những phương pháp đó, sau đó mới sử dụng “thuật” (các biện pháp khoa học kỹ thuật cũng có thể quy nạp vào một loại “thuật”), lúc đó hãy xem xem, những chuyển biến nào sẽ diễn ra trên mảnh đất Trung Hoa đại địa?!

Có người sẽ nói, ông nói đạo đức con người trượt dốc dẫn đến miền Bắc thiếu nước, vậy lẽ ra nên là cả phương Bắc và phương Nam đều thiếu nước, nhưng hiện nay phương Nam không hề thiếu nước, vậy là thế nào? Có phải những gì ông nói là sai không? Kỳ thực việc đạo đức suy đồi thì các vấn đề xuất hiện sẽ biểu hiện ra các loại hình thái khác nhau, nếu như miền Bắc biểu hiện thiếu nước hay bão cát sa mạc, thì biểu hiện ở miền Nam lại là hình thức khác, ví như tình trạng ô nhiễm nước, tình trạng đóng băng, v.v., hơn nữa, chiểu theo tốc độ trượt dốc của đạo đức như thế này, theo thời gian, thì miền Nam cũng sẽ có tình trạng thiếu nước như vậy, và sẽ xuất hiện hạn hán.

Từ góc độ địa lý phong thủy mà nói, mảnh đất Trung Hoa với địa thế cao ở Tây Bắc, thấp ở Đông Nam, mạch của thế núi thế nước đều thuận từ Tây hướng về Đông mà đi, thuở sơ khai khi Đại Vũ trị thủy, ông cũng là thuận theo xu thế này, chọn cách khơi thông dòng chảy để cuối cùng giải quyết được họa hại là vấn đề Đại Hồng Thủy của con người thời đó.

Địa lý đại bàn (Nền móng căn bản của Địa lý) đã được xác định, lẽ tự nhiên tất cả các Thần linh ở các chức vị, vị trí cũng đều là an bài xu hướng hình thế chung như vậy. Tự cổ chí kim, điều mà Thần có thể cho con người biết là, mảnh đất Trung Hoa đại địa đâu đâu cũng có Thành Hoàng, núi nào cũng có Sơn thần, Thổ địa. Kỳ thực là rất nhiều nơi đều có Thần ở những tầng thứ cao, cao hơn và cao hơn nữa tồn tại, đều là căn cứ theo Địa lý đại bàn này mà nhận vị trí, hình thành nên một hệ thống khổng lồ. Đổi theo cách nói mà mọi người có thể lý giải được nhưng hình dung không chính xác lắm mà nói, núi hay huyệt vị giống như nhà của các sinh mệnh cao cấp khác nhau, hiện nay bạn lại cưỡng chế giải tỏa bê mất nhà của người khác, bạn nghĩ xem những sinh mệnh cao cấp kia họ sẽ nghĩ gì?

Hiện nay, Nam thủy Bắc điều, từ Nam chí Bắc đều khoét núi đào đất, cắt đứt mạch lạc của Trung Hoa đại địa từ Tây sang Đông, phá hủy hình thế địa lý chung này, thực chất chính là phá hủy đi sự an bài của “Thần”, không phải là thuận theo Trời mà làm nữa, mà là chiến Thiên đấu Địa, kết cục sẽ thế nào, chỉ cần nhìn qua là biết rõ. Những loại dự án như Nam thủy Bắc điều này không chỉ phá hoại tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến các không gian cao tầng. Còn một điểm tương đối then chốt chính là nó đã có tác hại cắt đứt nguồn cội của dân tộc Trung Hoa, sẽ khiến toàn bộ dân tộc Trung Hoa bị tuyệt diệt ở thế gian.

Nói rằng Dân tộc Trung Hoa có “Trăm dòng họ”, chẳng hạn như Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, v.v. Nhưng trong các triều đại Hạ, Thương, Chu cho đến thời kỳ Chiến Quốc, chúng ta biết có rất nhiều tên người rất kỳ lạ, căn bản không phải nằm trong “trăm họ” này, vậy vì sao đời sau lại phát sinh tình huống này?

Từ góc độ địa lý phong thủy mà nói, chúng ta biết có những người tu đạo, vì sự sinh sôi phồn diễn nhân khẩu của dân tộc Trung Hoa, đã phụng Thiên mệnh thiết lập ra “Thế cuộc trăm họ” trên mảnh đất Thần Châu đại địa, thì mới có nguồn gốc “trăm họ” của dân tộc Trung Hoa, mới có hàng trăm dòng họ với các nhân khẩu sinh sôi không ngừng. Trong lịch sử dân tộc Trung Hoa đã từng xảy ra rất nhiều lần thảm họa diệt chủng, nhưng vẫn gìn giữ được cội nguồn, vẫn còn con người để tiếp tục sản sinh, có thể nói là cũng có công lao của “Thế cuộc trăm họ” của phong thủy trong đó.

Trong phong thủy có câu tục ngữ: “Núi quản nhân đinh, Thủy quản tài”. Nhân đinh là thế nào? Chính là con cháu các đời sau. Nếu như mạch núi của các thế hệ con cháu đời sau của dân tộc Trung Hoa sụp đổ, thì mọi người nghĩ xem, sẽ phát sinh những sự việc gì?

Nhưng như hiện nay, Nam thủy Bắc điều đã cắt đứt long mạch Trung Quốc, phá hủy đi “Thế cục trăm họ” của dân tộc Trung Hoa, tiêu diệt tận gốc khả năng tiếp tục sinh sôi nảy nở đời sau của người Trung Quốc… !!! Dân tộc Trung Hoa nếu như cứ tiếp tục như thế, không đi trên chính đạo, nhân tâm thăng hoa, thì cuối cùng sẽ đánh mất nguồn gốc dân tộc, kết cục là sẽ bị diệt vong. Khá hơn một chút thì giống như người Do Thái hay những người Digan vậy, lang thang khắp thế giới, bị người đời ức hiếp, nhưng vẫn sẽ duy trì được một chút đặc điểm bản sắc dân tộc, chờ đợi thời cơ khôi phục dân tộc quốc gia; còn kém may mắn thì, hậu quả có thể là toàn bộ dân tộc Trung Hoa sẽ bị diệt tộc biến mất, chính là giống như rất nhiều dân tộc đã hoàn toàn biến mất trong dòng sông dài lịch sử?! Hiện nay, trên mảnh đất Trung Hoa đại địa xảy ra rất nhiều thiên tai đại nạn, rất nhiều những tai nạn trong đó thì bi thảm nặng nề nhất là cái chết của những trẻ em, thậm chí có những sự việc chính là trực tiếp nhắm thẳng vào trẻ em mà đến, đó chẳng phải là điềm báo trước về việc diệt tận hay sao? Đừng cho rằng đây chỉ là lời nói mang tính nguy hiểm giật gân, cần biết rằng các dấu hiệu cảnh báo trong lịch sử nhân loại đều là từ những triển hiện tinh tế nhỏ bé kia, những dấu hiệu cảnh báo thực sự không thể được con người đương thời nhận ra.

Chúng ta lại nói một chút về dự án Tam Hiệp. Đập Tam Hiệp sông Dương Tử bắt đầu từ phía Tây huyện Phụng Tiết thành phố Trùng Khánh, đến thành phố Nghi Xương tỉnh Hồ Bắc ở phía Đông, với tổng chiều dài 192 km. Từ Tây sang Đông có ba khu vực thung lũng chính là Cù Đường Hiệp, Vu Hiệp và Tây Lăng Hiệp, vì vậy mà có tên là Tam Hiệp. Các ngọn núi ở hai bờ Tam Hiệp đứng sừng sững song song đối nhau với những vách đá dựng đứng, các đỉnh núi thường cao hơn 1.000 – 1.500 mét so với mặt nước sông. Điểm hẹp nhất chưa đến 100 mét.

Đập lớn Tam Hiệp sau khi xây dựng xong sẽ tạo thành một đập chứa nước khổng lồ dài đến 600 km, là công trình hiếm gặp trên thế giới. Đập Tam Hiệp áp dụng phương pháp trữ nước theo từng giai đoạn. Sau khi đóng cửa đập vào ngày 8 tháng 11 năm 1997, mực nước đã dâng lên 10 đến 75 mét; vào tháng 6 năm 2003, sau khi hoàn thành giai đoạn hai của dự án, mực nước đã tăng lên đến 135 mét và Đền Trương Phi ở Khu thắng cảnh Tam Hiệp bị ngập trong nước; năm 2006, mực nước sông Trường Giang (Dương Tử) tăng lên 156 mét, miếu thờ Khuất Nguyên bị ngập trong nước; sau khi hoàn thành toàn bộ Dự án Tam Hiệp vào năm 2009, mực nước dâng lên 175 mét.

Đây là tình huống trong chiều không gian này của “con người thế gian”, nhưng trong thời không khác, thì không phải là hiện tượng này. Dọc hai bờ Dương Tử có rất nhiều huyệt vị, những sinh mệnh dựa vào đó mà sinh tồn cũng rất nhiều. Nhưng công trình Tam Hiệp đã khiến cho toàn bộ hơn trăm triệu huyệt vị bị ngập, toàn bộ hơn trăm triệu Địa linh thần bị bức bách phải rời bỏ hoàn cảnh cư trú đã rất lâu dài của bản thân, theo cách nói phổ biến hiện nay là bị cưỡng chế giải tỏa (giải phóng mặt bằng), trở thành vô gia cư không chỗ nào về.

Vũ trụ cũng có pháp tắc của mình, chiểu theo quan niệm trong văn hóa cổ đại Trung Quốc, Thiên thượng cũng có luật lệ Thiên quy, không phải là không có báo ứng, chỉ là chưa tới lúc đó mà thôi, và trước khi tới lúc đó thì đang cấp cho con người cơ hội để chủ động sửa sai.

Trận động đất ở Vấn Xuyên năm 2008 và hạn hán nghiêm trọng ở Tây Nam bắt đầu từ năm 2009, lẽ nào không liên quan gì với việc xây dựng đập Tam Hiệp sao? Con người à, chính là vì đã bị mê nơi thế gian mà không nhìn ra những điều chư Thần đang cảnh báo!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126135

Chú thích:

1. Công trình Nam thủy Bắc Điều: hệ thống vận chuyển nước lớn nhất thế giới, đưa nước từ miền Nam lên miền Bắc Trung Quốc xuyên qua lòng sông Hoàng Hà, được thử nghiệm thành công ngày 25/8. Đợt thử nghiệm được tiến hành nhằm đánh giá quá trình vận hành toàn bộ 155 đơn vị và đưa toàn bộ đại dự án vào hoạt động,

2. Bánh xe Roulette: Tiếng Pháp có nghĩa là “cái bánh xe nhỏ”, sử dụng trong các trò chơi đánh bạc. Cấu trúc như sau: Mặt ngoài của khung phễu (bát) thường được làm hoàn toàn bằng gỗ khối và sơn dầu bóng sáng. Ở trung tâm của khung gỗ này là một trục chính. Trên cùng là một rãnh nhỏ xung quanh. Chính giữa bàn xoay là một đỉnh tháp, tạo nghiêng như một chiếc nón. Một tấm kim loại hình thoi cũng được lắp trên bề mặt của bàn xoay.

The post Khám phá phong thủy (15): Những công trình xây dựng hủy diệt dân tộc Trung Hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (14): Sự khác nhau giữa 坟(phần) và 墳(phần)https://chanhkien.org/2023/10/kham-pha-phong-thuy-14-su-khac-nhau-giua-phan-va-phan.htmlFri, 27 Oct 2023 02:21:06 +0000https://chanhkien.org/?p=31631[ChanhKien.org] Một số người hiện nay cho rằng chữ phần (坟) là chữ giản thể của chữ phần (墳), mà phần (坟) chính là những gò đất ở nơi núi rừng thôn quê, sau khi con người chết rồi được mai táng ở đó. Kỳ thực đây là sai lầm rất lớn. Lịch sử phát […]

The post Khám phá phong thủy (14): Sự khác nhau giữa 坟(phần) và 墳(phần) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Một số người hiện nay cho rằng chữ phần (坟) là chữ giản thể của chữ phần (墳), mà phần (坟) chính là những gò đất ở nơi núi rừng thôn quê, sau khi con người chết rồi được mai táng ở đó. Kỳ thực đây là sai lầm rất lớn. Lịch sử phát triển đến hôm nay, rất nhiều thứ đã trở nên lệch lạc và biến dị, đã mất đi nội hàm chính thống ban đầu rồi.

Khởi nguồn của “phần” (坟), bắt nguồn từ những đạo văn lưu lại từ thời Tam Hoàng thượng cổ, mặc dù không truyền lại cho hậu thế, thì những cái tên như “Tam phần ngũ điển” vẫn được lưu tồn lại về sau, trong lời mở đầu của cuốn “Thượng thư” nói: “Sách của Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, gọi là ‘Tam phần’, ở đây đều là các sách nói về Đại Đạo vậy. Sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường (Nghiêu), Ngu (Thuấn), gọi là ‘Ngũ điển’”. Tam Hoàng khai sáng, ngũ Đế phát triển, “phần” là đạo văn, “điển” phần nhiều là các chế độ, “phần” đã được liệt kê cùng lúc với “điển”, thì nó không phải là điều lệ chế độ, mà là luận đạo biết lời, đối với các vị thánh vương đại đức thời thượng cổ, thì chỗ mà họ nhận thức về Thiên đạo là đơn giản mà rõ ràng, ngắn ngọn mà dung dị, không phải là những bài viết hay báo cáo lê thê mà người đời sau đoán mò ra. Dùng cách nói của cá nhân, Tam phần chính là nhận thức đối với đạo và tâm đắc về pháp lý cai trị thiên hạ của bản thân mỗi vị trong Tam Hoàng, từ đó viết ra các chuẩn tắc trị vì thiên hạ truyền lại cho các đời sau, vì để diễn hóa đại đạo, lấy đạo chế ngự sáu phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới), trên thì nhận mệnh Trời, dưới am hiểu địa lợi, ở giữa thì hài hòa với lòng người, dẫn dắt khiến cho lòng người trở nên ngay chính, lấy bản thân trị vì thiên hạ, không phải để thiên hạ phụng sự cho bản thân mình, răn dạy dân thì dùng phương pháp chí đạo, căn cứ theo đức, dựa vào nhân từ và cả quá trình là vui vẻ, cách như vậy gọi là “chính trị”, bản thân từ chính trị, có nghĩa là giáo hóa vậy. Và chữ Chính (政) trong “chính trị” là từ chữ “(chân) Chính (正) và chữ “Văn” (文) ghép lại.

Ngày nay nội dung của “Tam phần” sớm đã không còn được biết rõ nữa, nhưng từ cuốn “Thượng thư” do Khổng Tử chỉnh lý biên soạn, đã có ghi chép về lời giao phó dặn dò của ba thời đại Nghiêu, Thuấn, Vũ truyền nối nhau, chính là những lời như sau: “Đạo tâm duy vi, nhân tâm duy nguy, duy tinh duy nhất, duẫn chấp quyết trung”. (Tạm dịch: Tâm của đạo trời vi diệu, lòng người thay đổi biến hóa; để học được đạo trời thì phải chuyên nhất, ra sức học tập thực hành, mới có thể hiểu được một cách không thiên lệch, mới có thể quản lý quốc gia cho tốt). Tuy chỉ có 16 chữ, nhưng lý lớn của của Nho gia như “đạo trời không coi riêng ai là thân thích, luôn ở bên cạnh người thiện lương”, “Trời chỉ đền đáp người có đức”, “sông núi tuy hiểm trở, bằng dựa vào đức mà trở nên mạnh mẽ”, “cẩn trọng”, “thận trọng đúng mực trong cuộc sống riêng tư”, “chân thành”, “công bằng”, “trung dung” và “nhân hậu”… đều là từ đây mà ra. Còn việc “thuật nhi bất tác” (tạm dịch: “thuật lại mà không sáng tác”) Khổng Tử làm những năm đó, chiểu theo cách nói của chúng ta ngày nay, chính là “xâu chuỗi trân châu quý báu để lại từ trong lịch sử”, văn hóa tâm pháp mà ông học tập đúc rút từ tổ tiên, kết thành điều cốt lõi nhất trong Nho gia, chính là sự kế thừa liền mạch, tổng kết và dung luyện từ lời dạy, kinh nghiệm… của các vị Tam Hoàng Ngũ Đế, Thương Thang, Chu Văn, Vũ.

Tuy nhiên, những điều này vẫn chưa giải thích rõ ràng ý tứ của “phần” (坟) là gì. Kỳ thực thì nếu như hiểu rõ bản chất Thần truyền của nền văn hóa Trung Hoa, thì “phần (坟)” chính là từ góc độ của các vị Thần nhìn những trí huệ và nền văn hiến được lưu lại ở không gian này, bởi vì Tam giới trong mắt các vị Thần chính là “Thổ”.

Còn “phần(墳)” thì sao? Nó tất là có quan hệ với những lý giải về “phần mộ” của người dân phổ thông trong dân gian. Điều này cũng có nguyên do. Ở nơi Trung Thổ này, thời cổ đại gọi là Thần Châu, đúng như tên gọi, cũng là khu vực mà chư Thần sinh sống và cư trú. Mỗi triều mỗi đại đều là do chúng Thần ở các thể hệ thiên thể khác nhau hạ thế diễn giải ra. Như vậy mỗi triều mỗi đại đều mang theo văn hóa của họ, đôi khi còn thay đổi rất nhanh, triều đại sau lại có một bộ riêng của bản thân họ chứ không sao chép theo văn hóa của triều đại trước, tư tưởng văn hóa thì có thể thông qua biên soạn lịch sử mà lưu tồn lại, văn chương sách vở cũng đã có thể được truyền lại qua các đời, nhưng những thứ như kiến ​​trúc, âm nhạc, điêu khắc, sáng tác và khoa học kỹ thuật thì thế hệ sau rất khó học theo, họ rất có thể sẽ hủy đi những thứ này để làm một bộ khác cho bản thân, như vậy, những tinh hoa văn hóa của mỗi triều đại sẽ rất khó lưu lại đến hôm nay, vậy làm sao đây? Thì phải tạo ra “mộ phần” mà bảo tồn nó lại. Cho nên, bạn nhìn thấy hoàng đế của các triều các đại, đặc biệt là những Hoàng đế có công lao to lớn, ví như Tần Thủy Hoàng, Đường Thái Tông v.v… đều cần tạo những mộ phần rất lớn, thời cổ đại gọi là Hoàng lăng hoặc Địa cung…

Các thế hệ sau này, đặc biệt là những người ngày nay đã mất đi nội hàm văn hóa truyền thống, có thái độ phê phán và phủ nhận đối với những kiến trúc lăng mộ to lớn của các hoàng đế, dưới quan điểm lịch sử của đấu tranh giai cấp, họ đều cho rằng các hoàng đế phong kiến ​​xa hoa, phung phí thế nào thế nào đó, và làm hao tốn của cải sức lực nhân dân để kiến tạo mộ phần. Chúng tôi không đánh giá đúng sai của vấn đề này, chỉ là từ một góc độ khác mà nói rõ ra cách nhìn của mình, kỳ thực tư tưởng ý thức của con người cũng là những biểu đạt của Thiên ý ở thế gian, khỏi cần nói, tư tưởng của các vị hoàng đế thời đại đó lại càng là như thế. Nhảy ra khỏi bản thân của vấn đề này mà nhìn, thì cũng chỉ có các hoàng đế mới có quyền lực và khả năng như thế, thu thập toàn bộ những biểu hiện văn hóa tinh túy nhất của triều đại đó, chôn vùi vào đất, mà hơn nữa còn chôn một cách vô cùng an toàn chu đáo, mục đích là để bảo tồn thành tựu văn hóa của triều đại đó, cũng chính là bảo tồn đặc điểm văn hóa của những thế hệ khác nhau kia, bởi vì trong tương lai khi một triều đại canh tân thì sẽ dung luyện và chắt lọc lại mới, dùng để sáng tạo ra một nền văn hóa mới.

Chính vì những thành tựu về phương diện chính trị và quân sự được kiến lập bởi các bậc hùng chủ các triều đại như Tần Hoàng – Hán Vũ, Đường Tông – Tống Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Chu Đệ, Khang Hy, Càn Long, có nội hàm mục đích sâu xa là để phổ biến rộng rãi những văn hóa của thời đó, rèn luyện những con người vùng Trung Thổ, vậy nên những thành tựu trong thời đại thịnh thế đỉnh cao của họ cần được chôn vào đất, để sau này nhân loại cho dù có xuất hiện tai họa hay chiến tranh do nghiệp lực luân báo thì cũng không thể làm tổn hại được những văn hóa chính yếu này.

Vì vậy, phần (墳), là giống như hình thù của nó, là do đắp đất tạo thành, núi non trùng điệp ẩn tàng bảo bối bên trong, còn phần(坟), thì quả thực là nói đúng như bản chất của nó, là có tác dụng bảo tồn văn hóa.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, do “phần (坟)” và “phần (墳)” là có chỗ tương đồng, nên dần dần bách tính phổ thông xem nó trở thành thông dụng. Có người nói rằng sau khi địa cung của Tần Hoàng đế được hoàn thành, được đắp đất lên làm lăng, hình dáng như ngọn núi, nên lúc đó có người gọi là “núi mộ” (phần sơn), ngày nay ở các vùng quê cũng vẫn gọi là “phần” là do cách nói như thế tồn lưu lại. Bởi vì Hoàng đế lấy bản thân để thống soái thiên hạ, nên các vương công quý tộc và bách tính phổ thông cũng nhìn vào học theo, nhưng sẽ hết sức tuân theo giáo huấn của thánh vương, tuyệt đối sẽ không chiếm dụng những mảnh ruộng phì nhiêu màu mỡ, cũng sẽ không tùy tiện tìm một nơi nào đó để chôn cất, mà sẽ thỉnh mời người có chuyên môn dùng các phương pháp chuyên môn, chính là mời các thầy phong thủy, dùng thuật phong thủy để câu thông với thiên địa, nếu không phải là người có đại công đại đức, sẽ không bao giờ dám đào đất mai táng.

Bởi vì Lễ băng Nhạc hoại (1), Khổng Tử từng có lần cảm thấy vô cùng bối rối khi nói về những khổ tâm của ông đối với “Long Lễ” (Nghi lễ long trọng, trọng thể) đương thời: Ông nói có người hỏi con người sau khi chết rồi có linh hồn hay không, nếu như ông nói có linh hồn, thì anh ta có thể không coi những việc trước mắt là quan trọng để làm hết trách nhiệm bản thân, mà sẽ dùng cái tâm lệch lạc méo mó để trao đổi mặc cả với quỷ thần, thực sự là đi sai đường rồi, đã đi vào con đường tà đạo hay tiểu đạo mất rồi; còn nếu bảo anh ta là không có linh hồn, thì đối với những đứa con hư đốn, sau khi cha mẹ chúng chết đi chúng sẽ bỏ vất vưởng nơi hoang dã chẳng quan tâm. Cả đời Khổng Tử “Chí nguyện gửi trong bộ Xuân Thu, Thi hành ở trong bộ Hiếu kinh”, quả thực là ở nơi gian nan khó khăn đó mà cứu vãn thế đạo nhân tâm, khiến cho nền tảng của con người không bị triệt để băng hoại sụp đổ, chấn hưng rộng rãi việc tư học (trường tư, lớp tư), chính là muốn quy chính giáo đạo (việc giáo dục dạy dỗ), để cứu vãn và tu chính thiên hạ, bồi dưỡng 3000 đệ tử và 72 hiền nhân, cũng chính là lập ra mô thức căn bản trong bồi dưỡng giáo dục con người cho hậu thế trong lịch sử về sau. Với quy tắc xây dựng lễ chế đối với mộ phần, cũng giống như việc đắp tượng xây tháp trong Phật giáo và Đạo giáo, vốn dĩ không phải để con người đi bái lạy và thần tượng họ, mà là để trợ giúp con người giữ gìn chính niệm, tu chính thân tâm, nhưng những người đời sau, đặc biệt là con người hiện nay đã hoàn toàn không biết nội hàm đó nữa, hành vi động tác, phần nhiều vô cùng đáng cười, mà hơn nữa việc xây mộ cũng như tạc tượng, đã lệch rời khỏi nguyên ý ban đầu của các bậc tiên thánh, trở thành những gửi gắm tình cảm của thế nhân, hoặc để phô trương công lao thanh danh của bản thân nơi thế tục.

Trong lịch sử, những người có tài có đức, yêu dân và cần mẫn trong việc trị quốc, những nhân vật có tấm lòng công minh trong sáng rất lớn, thì người dân sẽ tự nguyện chôn cất họ ở địa phương của mình, để nơi đó thấm nhuần nhân nghĩa đạo đức của vị đó, bởi vì những sinh mệnh xuất sắc này, thân thể họ cho dù chỉ là tải thể, nhưng khu vực mộ phần dung nạp họ xác thực đã trở thành biểu tượng, thành hình mẫu tiêu biểu mô phạm rồi. Bên bờ Tây Hồ (Hàng Châu) có ngôi mộ của Nhạc Phi và Vu Khiêm, người đời sau tán dương là “vì có Vu Nhạc song Thiếu bảo, nhân gian từ đây (coi) trọng Tây Hồ”, rồi xây miếu lập bia cho các ngài, vái lạy đảnh lễ, cung kính thành tâm. Trước ngôi mộ trang nghiêm của Nhạc Vũ Mục vẫn còn đôi câu đối lưu truyền từ thiên cổ đến nay “Núi xanh may mắn được mai táng xương cốt người trung nghĩa, sắt trắng vô cớ bị đem đúc ra kẻ nịnh thần”, có thể thấy với bậc chính trực nhân nghĩa, cao nhân đại đức, thì cái chết của họ vẫn luôn vang danh thiên cổ, ngay cả đất đá dùng để mai táng họ cũng được hưởng ân điển vinh diệu rất lớn, bởi vì trên thế gian điều được ngưỡng mộ nhất là nghĩa hiệp, điều được quý trọng nhất là đức hạnh!

Thật đáng cười cho con người ngày nay, cách lý giải về chữ hiếu đã biến dị đến vậy, bởi vì đã không thể liễu giải được nội hàm của chữ “phần”, tác dụng của chữ phần, nên đã làm thành lộn xộn lung tung. Đặc biệt ở các vùng nông thôn dân dã lại càng như vậy. Các gò đất khắp nơi trong rừng đã không có ích lợi gì thì khỏi nói, lại còn xuất ra những loại tử khí đen kịt, khiến con người cảm thấy vô cùng khó chịu. Kỳ thực nơi thôn quê rừng núi hiện giờ đã có không ít những loại linh tầng thấp như “bạt mị võng lượng hay yêu ma quỷ quái”. Ở khu vực nông thôn Trung Quốc, bởi vì người dân bình thường ý thức thấp kém nên hoàn cảnh sinh hoạt của họ thường ít nhiều có mang thú tính, con người rất khó có chính niệm ở mức cấp cao, các chính Thần vì thế cũng buông lỏng việc trông nom coi sóc họ, vậy nên những linh thấp kém kia có thể dùi vào sơ hở, từ đó tạo thành một số ảnh hưởng nhất định. Sau đó, những người dân quê kia trong vô tri ngu muội lại đi bái lạy những linh lạn quỷ thấp kém ấy, lại càng khiến các Thần coi thường, càng không quản họ nữa, vòng tuần hoàn ác tính này một khi hình thành, thì sinh mệnh trong đó đã trở nên thật quá đáng thương.

Ở vùng đất Trung Nguyên, thời kỳ văn minh này bắt đầu từ Hoàng đế, thông qua truyền bá văn hóa đạo đức, đề cao ý thức đạo đức tư tưởng của người dân từ bên trong, đồng thời những người tu đạo từ trước tới nay trong hai gia phái là Phật gia và Đạo gia cũng tận lực thanh trừ những đê linh ác vật này. Những thứ này dần dần chạy đến các vùng biên của khu vực Trung Nguyên. Chúng câu kết với nhau, trường mà chúng mang theo sẽ hình thành chướng khí, bởi vì những thứ này mật độ rất lớn, trong lịch sử đã hình thành những thế lực rất lớn, những người ở vùng khác tới đó thông thường khó mà dùng nhục thân để chống đỡ, cũng rất lo lắng, đây là lý do vì sao các bậc nhân sĩ đại phu rất sợ bị giáng chức đến các khu vực Lĩnh Nam, Tây Thục hay Vân Nam – Quý Châu…

Lấy Tây Thục làm ví dụ, năm đó vào triều đại nhà Hán, Trương Đạo Lăng Thiên sư khi đến Tây Thục đã sáng lập ra Ngũ Đấu Mễ Giáo (2), tuy đã trải qua thời kỳ Lý Băng trị thủy ở đất Thục (3), nơi đây đã hình thành thêm một vựa lúa lớn nữa của Trung Quốc ở bên ngoài vùng bình nguyên Hán Trung, nhưng phong tục dân gian vẫn rất thấp kém. Theo định kỳ họ sẽ dùng gia súc hoặc thậm chí dùng chính con người mà cúng tế những đê linh kia, cho đến ngày nay, trong lễ hội mừng nước hàng năm ở Đô Giang Yển vẫn còn lưu lại những vết tích của các phong tục liên quan, hậu quả của nó chính là trực tiếp dẫn đến việc bị khống chế cai quản bởi những tà ác ở không gian khác. Sau thời Lý Băng, chúng lấy Đô Giang Yển làm ranh giới, các lực lượng chính và những tà ác này lấy con sông này để phân chia ranh giới cai trị, nhưng vào thời điểm đó, các nhân tố chính ở không gian tầng thấp vẫn chưa đủ mạnh, cho nên trong lịch sử vẫn luôn cải tạo chúng, sau khi Thiên sư Trương Đạo Lăng ở vùng Đại Ấp, núi Hạc Minh sáng lập ra giáo phái, đã dẫn theo đồ chúng đến núi Thanh Thành, ở trong động tu hành, tận lực trục xuất những thế lực tà ma chiếm cứ ở đây, trảm sát rất nhiều, còn viết một Đạo lệnh, truy quét một lượng lớn đê linh lạn quỷ chạy thoát đến những vùng đất hiện nay như Cam Tư, A Bá và Lương Sơn (thuộc Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay), sau đó vì có những người Tạng du nhập vào địa phương này, Tạng truyền Phật giáo đã đại triển thần thông, hàng phục và tiêu diệt thêm rất nhiều nữa.

Như vậy, điều muốn nói ở đây là, bởi vì những đê linh tà ma lạn quỷ khống chế một số không gian tầng thấp nhất định, sau khi hình thành thế lực, những thứ này cũng sẽ cần thu thập thủ hạ sai khiến, thế là những người bình thường đã qua đời ở địa phương này, đặc biệt là những người không được an táng vào huyệt vị, sẽ rất dễ dàng bị những thứ này thao túng. Nếu như những người này khi còn sống hiểu được đạo lý hành thiện tích đức và chăm chỉ thực hiện, lúc hậu sự cũng thỉnh mời thầy phong thủy chiểu theo phép phong thủy mà an bài huyệt vị, thì sẽ thoát khỏi việc bị những đê linh ác vật kia nô dịch. Như chúng tôi đã nói trong bài trước, huyệt vị cũng chính là căn cứ theo phúc đức của một cá nhân mà an bài sắp đặt, cho dù là một người dân bình thường nhỏ bé, không phải những bậc đại đức chi sĩ, cả đời không có công lao gì lớn, cũng có thể an bài cho họ một nơi gọi là “bình an địa”. “Bình an địa” này chỉ không phú không quý, nhưng có thể được một đời bình an, không có cái gì gọi là đại tai đại nạn. Loại “địa” này rất nhiều, thôn quê các nơi đến đâu đều có. Vào thời cổ đại, con người thành tâm tĩnh tại tự nhiên có một cuộc sống phúc thọ vẹn toàn, có thể được hưởng loại “bình an địa” này.

Dương Quân Tùng, vị Khâm thiên giám quan triều Đường, nhân vật nổi danh bậc nhất trong các vị tông sư trường phái phong thủy, được dân gian phong tặng danh hiệu là “Tiên nhân cứu bần”. Đa phần là vì ở nhân gian ông đã giúp người dân phổ thông nhỏ bé “điểm” một lượng lớn những nơi gọi là “bình an địa”, và còn đem thuật phong thủy là loại thuật pháp được cất giữ cẩn mật của Hoàng gia truyền thụ rộng rãi ra dân gian, huấn luyện ra rất nhiều thầy phong thủy trong dân gian, tuy đại đa số không đắc được phong thủy chân truyền, nhưng có thể thông hiểu được một số đạo lý phong thủy, biết điểm những huyệt vị ở phẩm cấp thấp như “bình an địa”.

Từ biến hóa của thiên tượng đến bố cục ở con người thế gian mà nói, khi nơi con người thế gian xuất hiện lượng lớn “bình an địa”, thì từ biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất, cuối cùng sẽ hình thành một vương triều thịnh thế lớn phồn vinh ổn định, theo cách nói hiện tại chính là dân chúng quốc gia phần nhiều đều là tầng lớp trung lưu.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126134

Chú thích theo hiểu biết của người dịch:

Lễ băng Nhạc hoại: Là câu nói của Khổng Tử. Vào thời Xuân Thu, Khổng Tử than rằng nền Nhân chính của nhà Chu đã mai một, lễ nhạc không còn thuần thiện nữa. Lễ nghi phép tắc bị bãi bỏ, các chư hầu, lãnh chúa phong ấp đều đua nhau lấn chiếm đất của nhau, đánh giết nhau, ai ai cũng muốn mình làm vua làm chúa, muốn thống trị kẻ khác. Còn nhạc vũ không còn mang những âm vận hài hòa với tự nhiên, hợp với Đạo nữa, các khúc nhạc xưa bị bãi bỏ, chư hầu các nước đua nhau đặt ra các khúc nhạc riêng, đều là những khúc nhạc dâm dật và hưởng lạc…

Thiên sư Đạo (chữ Hán: 天师道), còn gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道, nghĩa là “đạo Năm Đấu Gạo”), Chính Nhất Đạo (正一道), Chính Nhất Minh Uy Chi Đạo (正一盟威之道), là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25–220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34–156) sáng lập. Ban đầu, tôn giáo này không có tên gọi chính thức, thường được gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo do khi các tín đồ nhập giáo đều phải nộp năm đấu gạo, do đó mà thành tên. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. Sau này lấy Long Hổ Sơn làm trung tâm truyền giáo thì đổi tên thành Long Hổ Tông cho đến ngày nay.

Lý Băng (李冰): Lý Băng (?—?), sinh ra ở Hà Đông (nay là Vân Thành, Sơn Tây), là một chuyên gia về kỹ thuật thủy lợi của nhà Tần thời Chiến Quốc[1]. Theo truyền thuyết, ông là người có công xây dựng Đô Giang Yển. Năm 251 TCN, Tần Chiêu Vương phong ông làm Thứ sử Thục quận (nay là Thành Đô). Trong nhiệm kỳ của mình, ông đã chủ trì thiết kế và xây dựng Đô Giang Yển ở phía Bắc Thành Đô và sử dụng nó để tưới tiêu, biến đồng bằng Thành Đô thành một vùng đất nông nghiệp trù phú.

The post Khám phá phong thủy (14): Sự khác nhau giữa 坟(phần) và 墳(phần) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (13): Lễ tiết của địa huyệthttps://chanhkien.org/2023/08/kham-pha-phong-thuy-13-le-tiet-cua-dia-huyet.htmlMon, 07 Aug 2023 03:01:53 +0000https://chanhkien.org/?p=31022[ChanhKien.org] Có nhiều người yêu thích Phong thủy hoặc là thầy Phong thủy, sau khi cảm nhận được huyệt vị, thì sẽ đắc được một số thứ, nhưng cụ thể là thứ gì thì họ cũng không biết, chỉ cảm thấy đó là năng lượng, mà hơn nữa đại đa số đều là những thứ […]

The post Khám phá phong thủy (13): Lễ tiết của địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Có nhiều người yêu thích Phong thủy hoặc là thầy Phong thủy, sau khi cảm nhận được huyệt vị, thì sẽ đắc được một số thứ, nhưng cụ thể là thứ gì thì họ cũng không biết, chỉ cảm thấy đó là năng lượng, mà hơn nữa đại đa số đều là những thứ tốt, có ích cho bản thân. Ví như khi xuống núi cảm thấy thân thể phiêu phiêu nhẹ nhàng, đi lại như bay, so với cảm giác mệt mỏi khi lên núi thì lúc này thoải mái hơn nhiều, ví như buổi tối trở về đả tọa, có thể cảm thấy rõ ràng năng lượng dâng trào; còn có những người có thể cảm nhận rõ ràng năng lực ở một phương diện nào đó được tăng cường mạnh mẽ v.v.

Có một số người cảm thấy được như vậy, nhưng lại không biết nguyên nhân vì sao, cho nên nói chung chung là đắc được linh khí gì đó, động vật trên núi đắc được linh khí này đều có thể tu thành yêu quái, cho nên con người đắc được chủng linh khí này càng dễ dàng tu đạo, dù sao cũng là những thứ tốt, nên đắc được càng nhiều càng tốt, vì vậy mà có những người thậm chí vì điều này mà sinh ra tâm chấp trước bất hảo, một lòng một dạ chỉ muốn đi đắc linh khí. Còn có người tư tâm nặng, trong tâm nghĩ rằng linh khí chỉ có một phần đó thôi, ai tìm được thì người đó đắc, nên bản thân trân quý như bí kíp, không giao lưu chia sẻ cho người khác.

Kỳ thực thì không phải sự việc như thế, những người này vì không hiểu mà tự mình đoán mò thôi. Nếu thực sự có lối nghĩ như thế mà đi làm theo cách này thì ngược lại sẽ gặp vấn đề. Nếu bạn có tâm bất chính và niệm đầu bất chính thì cái gì bạn cũng không đắc được, sẽ không cấp gì cho bạn cả. Cho dù bạn cảm giác là đắc được, thì cũng không nhất định là thứ gì đó (tốt đẹp), những thứ bất hảo trên núi rất nhiều, hiện tại cáo chồn quỷ rắn, yêu ma quỷ quái cũng khá nhiều.

Nếu như người nào đã khai phát công năng, lúc này họ sẽ nhìn được những tình huống chân thực. Cho nên nói, ngành Phong thủy học này, là cần khai mở công năng để hành nghề, không khai mở công năng thì không làm được việc. Vậy rốt cuộc là chuyện gì đây? Chúng tôi biết rằng trong địa huyệt là có Thần tồn tại, chúng tôi gọi họ là Địa linh thần. Là sinh mệnh cao cấp mà, tâm tính đương nhiên là cao. Khi có khách đến nhà, người ta tự nhiên sẽ nhiệt tình nghênh tiếp, biếu tặng chút phẩm vật nào đó coi như bày tỏ thành ý. Cũng như nhiều dân tộc thiểu số, rất là thuần phác, khi khách đến nhà, cho dù là người xa lạ thì cũng vẫn nhiệt tình chào hỏi, sắp chỗ cho bạn ở lại, rồi mang đồ ăn ngon lên, lấy những thứ quý giá mà bản thân cho là tốt, xem như món lễ vật tặng cho bạn vậy; hoặc có một ví dụ khác, giống như các thủ lĩnh của những khu vực dân tộc thiểu số vùng biên cương đến triều đình ở Trung Nguyên, hoàng đế thường ban thưởng cho rất nhiều những thứ tốt. Đây chính là lễ tiết.

Là sinh mệnh cao cấp mà, cho nên những đồ biếu tặng tự nhiên cũng là đồ quý giá, có loại là pháp khí, có loại là năng lượng, và có cả những đồ biếu tặng hữu hình, các chủng các loại đều có. Đã từng có lần, chúng tôi đến một Phật địa, người ta tặng một món pháp khí là “Vòng Kim Cương”, sau đó chúng tôi đến La hán địa, vị La Hán kia khi nhìn thấy chúng tôi đeo chiếc Vòng Kim Cương thì vội vàng hỏi mượn. Vị La Hán phụ trách trấn thủ ở đó, nhưng khu vực họ trấn thủ có rất nhiều yêu ma quỷ quái, cảm thấy có chút quá sức, vừa đúng lúc nhìn thấy chúng tôi đang đeo vòng kim cương được tặng từ Phật địa, đó là pháp khí của Phật, uy lực vô cùng, cho nên muốn hỏi mượn để dùng một chút. Vào ngày thứ 2 sau khi cho họ mượn thì bất ngờ sét đánh giữa trời quang, sấm vang chớp giật, tiếp sau đó là mưa như trút, nước từ trên trời đổ xuống như thác, trong hơn nửa giờ thì thanh lý sạch sẽ, sau khi thanh lý xong mọi thứ bắt đầu sáng sủa, bầu trời xanh ngắt như vừa được rửa, trong xanh hơn nhiều so với trước đó, và xa xa còn hiện ra chiếc cầu vồng bảy sắc uốn cong nơi chân trời.

Vì sao gọi đó là sinh mệnh cao cấp, xét từ góc độ nào đó mà nói, đó là bởi vì phẩm chất đạo đức của họ so với con người thì cao hơn, tâm tính so với con người cũng cao hơn; nếu như trong quá trình tu luyện, con người có thể đề cao tâm tính bản thân, đạo đức thăng hoa đến một mức độ nào đó, thì cũng có thể trở thành sinh mệnh cao cấp.

(Còn tiếp)

Dịch từ:

https://big5.zhengjian.org/node/126133

The post Khám phá phong thủy (13): Lễ tiết của địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (12): Phong thủy và Tu luyệnhttps://chanhkien.org/2023/07/kham-pha-phong-thuy-12-phong-thuy-va-tu-luyen.htmlWed, 19 Jul 2023 04:25:48 +0000https://chanhkien.org/?p=30856[ChanhKien.org] Như chúng tôi đã đề cập trước đây, chỉ có thầy Phong thủy mới thực sự tiến nhập được vào nghề Phong thủy và đắc được huyền cơ chân thực của Phong thủy. Mà đánh giá một người có phải là Phong thủy sư hay không, một tiêu chí quan trọng chính là xem […]

The post Khám phá phong thủy (12): Phong thủy và Tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Như chúng tôi đã đề cập trước đây, chỉ có thầy Phong thủy mới thực sự tiến nhập được vào nghề Phong thủy và đắc được huyền cơ chân thực của Phong thủy. Mà đánh giá một người có phải là Phong thủy sư hay không, một tiêu chí quan trọng chính là xem anh ta có phải là một người chân tu trong tu luyện hay không.

Vào thời cổ đại, có nhiều người tu luyện đã tu đến cảnh giới rất cao thâm, họ đã khai mở công năng, có thể biết được một số sự việc trên trái đất, dưới an bài của thiên mệnh, có thể làm được một số sự việc trong Phong thủy, nhưng họ không phải trực tiếp từ trường phái Phong thủy tu lên. Tuy Phong thủy được quy hoạch vào phạm trù tiểu đạo thế gian của Đạo gia, nhưng trường phái Phong thủy là được truyền thừa trực tiếp; có nghĩa là, trong trường phái Phong thủy cũng có chuyên tu, có thể dựa vào Phong thủy mà tu luyện lên trên và cũng có thể đạt đến một tầng thứ nhất định. Trong huyền học Võ Đang cũng có thừa truyền Phong Thủy, núi Lao Sơn (thuộc Sơn Đông, là ngọn núi ven biển cao nhất Trung Quốc và là dãy núi có đỉnh cao thứ hai ở Sơn Đông với độ cao 1.132,7 mét) cũng có Phong Thủy Kỳ Môn.

Như vậy tu luyện Phong thủy này rốt cuộc là thế nào? Chúng ta biết rằng, bất kể là tu luyện môn nào phái nào trong hai gia lớn là Phật gia và Đạo gia, đều giảng về “vượt quan”, giảng mỗi quan mỗi nạn. Trong “Tây Du Ký”, Đường Tăng đi Tây Thiên lấy kinh cũng phải trải qua chín chín tám mươi mốt nạn, cũng chính là chín chín tám mươi mốt quan. Dưới sự an bài của Sư phụ, ở nơi thế gian trải qua mỗi quan mỗi nạn đều là để trợ giúp người tu luyện tiêu trừ nghiệp lực và bỏ đi tâm chấp trước v.v… những thứ vật chất bất hảo, đồng thời tâm tính đề cao lên, cảnh giới cũng đề cao lên, đạt đến viên mãn. Đối ứng với những biến hóa trên thân thể người, có thể khi bạn ở thế gian vượt qua được một quan hay một nạn nào đó, sẽ đối ứng với một huyệt vị hay một mạch nào đó trong cơ thể bạn, khi bạn ở thế gian qua được quan nạn này, đạt được yêu cầu của Sư phụ, thì có thể là những huyệt, mạch trên thân thể của bạn đối ứng với quan nạn đó cũng được đả thông rồi, đã tu thành rồi.

Ở Trung Quốc cổ đại, trái đất được ví như thân thể người, cũng có mạch lạc và huyệt vị. Như vậy ngành tu luyện Phong thủy này chủ yếu có liên quan đến trái đất. Dưới sự an bài của sư phụ, bạn ở trên trái đất mà tìm được một huyệt vị, và làm những sự việc đối ứng liên quan, điều đó minh chứng rằng bạn đã vượt qua được quan tương ứng đó rồi. Nói thì dễ, kỳ thực rất khó khăn. Tu luyện là rất khó khăn, bất luận môn nào phái nào đều không hề dễ dàng.

Mọi người nghĩ xem, có những lúc thầy Phong thủy vì để tìm được huyệt vị, mỗi ngày đều phải lặn lội vượt núi băng rừng nơi ngoại ô hoang vu vắng vẻ, nhọc nhằn như thế nhưng mỗi đêm còn phải đả tọa nhập định, nhiều năm liên tục bôn ba, trải qua phong ba nắng cháy, mưa tuôn sấm nổ đủ thứ đủ loại v.v… vô vàn khó khăn trắc trở, đói khổ ngập đầu. Trong suốt quá trình đó, thầy Phong thủy kiên cường không chùn bước, một chút không buông lơi, dần dần không còn một chút tạp niệm thế tục nào, nhất tâm nhất niệm chỉ một mực đi tìm huyệt vị, như vậy là tâm tính cũng đề cao lên trên rồi. Có những khi vẫn sẽ trải qua một số khảo nghiệm nhân tâm, ví như trong quá trình đó bạn sẽ gặp được đồng đạo đi cùng, vị đồng đạo này cứ mãi chê bai bạn, châm chọc chế giễu đùa cợt bạn, cứ thế để (xem) bạn động tâm thế nào; hoặc giả gặp người thế gian nào đó, biết bạn là Phong thủy sư, đối xử với bạn vô cùng hậu hĩnh, mong sao bạn giúp gia đình họ điểm huyệt, có lúc họ thậm chí còn khổ sở van nài, nhưng nhà đó người đó phúc đức không đủ, không được Thiên mệnh an bài; hoặc giả gặp phải những việc phiền phức, có người coi thường bạn, đánh mắng bạn đều có cả. Chính là trong quá trình này mà tiêu bỏ đi nghiệp lực của bạn, khảo nghiệm tâm tính bạn, nếu như bạn thực sự có thể kiên trì, tâm tính bạn đã đạt được tiêu chuẩn vượt qua quan này, thì bạn cuối cùng cũng có thể tìm được huyệt vị đó. Nếu bạn là thầy Phong thủy được Thiên mệnh an bài, lúc này địa huyệt sẽ khai mở ra một số thiên cơ để bạn hiểu được, từ đó mà bố trí được một số sự việc.

Chúng tôi còn phát hiện rằng, trong các địa huyệt ở tầng thế gian, cũng chính là các cấp bậc Trung chính cửu phẩm, là phù hợp với lý luận Phong thủy lưu truyền trong dân gian, những lý luận như long, huyệt, sa (cát), thủy, hướng v.v… Nhưng khi vượt qua cấp bậc này thì không nhất định sẽ như thế nữa, mà lúc đó sẽ phải xem xét tình huống thực tế tại hiện trường. Mỗi địa huyệt sẽ có đặc điểm riêng của địa huyệt đó, cũng giống như vậy, mỗi sinh mệnh sẽ có tính khí hay tính cách riêng. Có những địa huyệt không cần đến chủng ngoại hình kia mà chỉ cần một vùng huyệt vị độc lập, có một số địa huyệt sử dụng ngoại hình hoàn mỹ để ngụy trang, nhìn thì có vẻ như ngoại hình địa thế đó phù hợp với những yêu cầu lý luận trong Phong thủy, nhưng huyệt chủ chân chính lại thường là nơi khiến con người không tài nào tưởng tượng ra, không vượt qua những ràng buộc của lý luận Phong thủy tầng thứ thấp thì căn bản không thể biết được; có những địa huyệt thậm chí đem lý luận tả thanh long, hữu bạch hổ đảo ngược lại, làm thành cách cục (địa thế) tả bạch hổ, hữu thanh long, khiến cho Âm Dương phản bối, càn khôn đảo vận (âm dương đảo chiều, vận mệnh đất trời đảo lộn). Cho nên, nếu muốn thực sự đắc được địa huyệt ở tầng thứ cao, thì điều cần thiết chính là thầy Phong thủy trong quá trình tu luyện mà trừ đi quan niệm cố hữu trong bản thân mình. Quan niệm và những cái gọi là kinh nghiệm kia càng ít thì càng tốt.

Một số người yêu thích Phong thủy qua lưu truyền cũng biết nghề Phong thủy là cần tiến nhập vào tu luyện, nên luôn muốn tìm sư phụ truyền thừa, nói không chừng có một số người sau khi xem những gì chúng tôi viết, cũng muốn đến Võ Đang hoặc Lao Sơn để tìm chân truyền. Chúng tôi nói với mọi người rằng, không cần phải đi đâu cả, ngành Phong thủy học, từ cuối triều đại nhà Thanh, kỳ thực nó đã biến mất rồi, đến thời Đại cách mạng Văn hóa thì nó đã hoàn toàn không còn gì nữa. Những người thực sự có bản sự kia, họ cũng biết biến hóa của thiên tượng, thì đều mai danh ẩn tích không xuất đầu lộ diện nữa, bạn có muốn tìm cũng tìm không được. Đây chính là do thiên tượng biến hóa tạo thành. Rất nhiều thứ trong truyền thống Trung Hoa, vào lúc này đều biến mất. Vì sao lại như vậy? Một mặt là do lòng người không còn như xưa nữa, đạo đức trượt dốc mà tạo thành; mặt khác cũng là để canh tân, tiếp đón điều mới mẻ. Sự biến hóa của vũ trụ cũng là có chu kỳ, khi biến đổi đến một mức độ nhất định từ thành, trụ, hoại, thì lúc này cũng cần phải canh tân, tất cả những thứ cũ xưa toàn bộ đều phải thu hồi, tất cả đều căn cứ theo Pháp lý mới mà được tạo ra và thành tựu lại từ đầu. Có nghĩa là, ngay cả các vị thần tầng trên, những sinh mệnh cao cấp kia cũng đối diện với tịnh hóa và tuyển chọn mới, thì tầng bên dưới tự nhiên sẽ không có chân truyền nữa, hoặc giả ngay cả khi bạn đắc được chân truyền, bạn cũng dùng không được, bạn phát hiện ra cũng không đúng nữa. Ví như nói, rất nhiều mạch núi hiện nay đã không còn linh khí, rất nhiều địa huyệt đều không còn gì nữa rồi, thần đều đã rời đi rồi, cho dù bạn có tìm được thì cũng không khởi được tác dụng được nữa.

Bất kể Đông hay Tây phương, tất cả các tôn giáo và thần thoại đều đang giảng về sự cứu rỗi cuối cùng, kỳ thực chính là vào thời khắc này, những người có cơ duyên đắc được cứu độ sẽ có cơ hội được quay về Thiên thượng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126130

The post Khám phá phong thủy (12): Phong thủy và Tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (11): Táng địa và Phá địahttps://chanhkien.org/2023/07/kham-pha-phong-thuy-11-tang-dia-va-pha-dia.htmlFri, 14 Jul 2023 02:02:42 +0000https://chanhkien.org/?p=30819[ChanhKien.org] Trong nền văn minh 5000 năm Trung Hoa, người xưa vô cùng kính trọng các vị tổ tiên đã khuất trong gia đình, nhấn mạnh rằng người qua đời nhất định phải được an táng dưới đất. Những “Tiên sư” phong thủy đắc đạo chân chính sau khi tu xuất Thần thông, nhận lệnh […]

The post Khám phá phong thủy (11): Táng địa và Phá địa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Trong nền văn minh 5000 năm Trung Hoa, người xưa vô cùng kính trọng các vị tổ tiên đã khuất trong gia đình, nhấn mạnh rằng người qua đời nhất định phải được an táng dưới đất. Những “Tiên sư” phong thủy đắc đạo chân chính sau khi tu xuất Thần thông, nhận lệnh của thiên địa đi tìm gia đình phúc chủ mà Thiên địa chỉ định. Sau khi khảo nghiệm phúc chủ, xác định phúc chủ đúng là có phúc đức sâu dày, xứng đáng được hưởng hảo địa, “Tiên sư” phong thủy sẽ ngao du nơi thế gian, nghìn dặm tầm long cản mạch (truy tìm long mạch), tìm được vị trí huyệt vị tốt đối ứng, câu thông thiên địa; được sự chấp thuận của “Địa linh thần”, tự nhiên hậu nhân của phúc chủ được thiên địa cấp cho phú quý phúc lộc. Những địa huyệt đã được sử dụng như vậy phần nhiều là ở nơi thâm sơn hoang vắng không người, “Thiên địa huyền cơ, diệu bất khả ngôn” (Huyền cơ của trời đất, ảo diệu không thể nói).

Còn có những thầy Phong thủy tìm được chủ nhà của gia tộc phúc chủ, sau khi trải qua khảo nghiệm, đưa họ đến chỗ địa huyệt, hướng về nó miêu tả cụ thể về người được an táng tại đó, thời gian bắt đầu sử dụng và một số phương pháp kỹ xảo, có khi chu kỳ sẽ là mấy năm, mấy chục năm, trên trăm năm hoặc mấy trăm năm sau mới khởi tác dụng; gia tộc phúc chủ đời đời truyền lại cho nhau cho tới khi thời điểm đến, hậu duệ tương ứng với địa huyệt đó sẽ xuất hiện. Khi thời cơ chín muồi thì mới khởi tác dụng được.

Trong dân gian còn lưu truyền cách nói “Thiên táng”. Thiên táng nói thẳng ra chính là “nhà tích đức rộng khắp tất có thiên quyến (gia quyến là Thiên nhân)”. Vào cuối triều đại nhà Thanh, có hai vợ chồng gia cảnh bần hàn nhưng tâm địa thiện lương, thường xuyên chân thành kính Phật, lấy số lương thực ít ỏi cung dưỡng tăng chúng, nên tích được rất nhiều phúc đức. Sau này hai người sinh được hai con trai, người chồng mất sớm, ba mẹ con không được nhận vào gia tộc, bị đuổi đi. Ba người trôi dạt khốn khó nhiều năm, hai con trai cũng lớn thành thiếu niên, người mẹ cuối cùng lao lực thành bệnh, rời xa nhân thế. Do gia cảnh bần hàn không có đồ đạc gì nên hai người con đành phải dùng chiếu cỏ để bọc mẫu thân, tìm nơi kín gió đào hố chôn xuống, sau đó hai người chia tay, người anh tham gia quân đội (quân đội Trung Hoa dân quốc), người em lên phố huyện học nghề. Cũng là vì nhà họ tích phúc mà được bố trí như vậy, chỗ chôn cất mẫu thân hai người chính là một nhụy hoa của “Liên hoa địa”, là vùng phúc địa tốt nhất, chỉ có thể gặp mà không thể cầu. Hai người đều giống nhau, trong cuộc sống sau này luôn cẩn thận ghi nhớ tích phúc tu thiện, cho nên người anh làm quan đến chức thiếu tướng của Quốc Dân Đảng, sau đó dời đến Đài Loan, người em trở thành bậc đại phú gia hàng đầu trong vùng. Anh em hai người đều có con cháu nối dõi, đời sau cũng rất phú quý, còn có nhiều người vì tích phúc đức mà có cơ duyên tiến nhập vào tu luyện Đại Pháp.

Còn có một ví dụ nữa: Thời Trung Quốc cổ đại, triều đại cụ thể nào thì đã không truy ra được, có một người gia đình tích phúc nhiều đời, nhưng gia cảnh bần hàn, đến đời họ thì nhà cửa chỉ còn bốn bức tường. Năm này lại gặp thiên tai, phải đem vợ con chạy nạn đến Quảng Tây, ai ngờ trên đường lại bị chia cắt, chỉ còn lại anh ta một thân một mình, đói rét khổ cực. Đêm nọ, đến một nơi hoang vắng, trời tối mịt không chốn dung thân, anh ta phát hiện phía trước không xa có mấy tảng đá lớn, vừa đúng xếp quanh thành một vòng, bèn cuộn mình dưới mấy tảng đá tránh rét. Do gia đình ly tán, tâm tình u uất buồn rầu thành bệnh, lại thêm những ngày cơ hàn đói khổ, anh ta rời xa nhân thế lúc nào không hay. Không ngờ chỗ anh ta chui vào lại là một mỹ huyệt giai địa (vị trí địa huyệt tuyệt đẹp), bốn xung quanh có vô số kiến tha đất mai táng, chỉ trong một ngày mà một ngôi mộ đất đã xuất hiện. Từ đó con cháu anh ta ở nhân gian cũng trở nên phú quý giàu sang.

Cả hai ví dụ trên đều là có phúc đức sâu dày, không cầu mà thiên địa tự cấp cho, những tình huống như thế này trong lịch sử 5000 năm Trung Hoa có rất nhiều ví dụ. Cho nên hiện nay người ta mời “thầy Phong thủy” đi khắp nơi tìm kiếm, để cầu phú quý mà đâu biết rằng phú quý đều là do “chăm chỉ hành thiện tự nhiên sẽ được, trăng đến rằm trăng sẽ tự tròn”. Hơn nữa hiện nay rất nhiều người sau khi phát đạt cúng tế tổ tiên, mà không biết rằng những ngôi mộ tổ được cúng tế đó không phải mộ phát thực sự (những ngôi mộ tổ giúp họ phát đạt). Hầu hết những ngôi mộ phát thực sự là không để con người biết được, ngay cả khi họ biết thì cũng đều sẽ cố ý không nói cho hậu nhân, bởi vì thường những ngôi mộ phát thực sự kỳ thực đều có bao hàm thiên cơ trong đó, là không thể tùy ý để con người thế gian nhìn được.

Ngày nay có chính sách gọi là không để người chết và người sống tranh giành đất đai, cho nên hiện nay ở Trung Quốc bị cưỡng chế hỏa táng, không cho chôn cất, cho dù bỏ tiền cũng phải theo quy định sắp xếp của nghĩa trang. Do ảnh hưởng của thuyết vô thần, phong thủy của nghĩa trang tốt hay xấu đã không được ai để ý. Trung Quốc có lịch sử 5000 năm, chôn cất bao nhiêu tiền nhân đều không xuất hiện vấn đề người chết người sống tranh giành đất đai, vì sao chỉ riêng thời nay lại xuất hiện vấn đề này? Đây không phải là kẻ tầm thường tự chuốc phiền toái sao?

Theo phong thủy, đã có táng địa thì sẽ có phá địa. Có rất nhiều địa huyệt sau khi được sử dụng còn chưa đến thời kỳ kết thúc thiên mệnh nhưng lại bị phá bỏ, khiến cho con cháu đời sau nhanh chóng lụn bại. Trên thế gian tuy có lưu truyền cách thức của các chủng phá địa, nhưng ngay cả những thuật sĩ giang hồ khi thế trộm danh (kẻ lừa đảo mạo danh) cũng rất thận trọng, không dám tùy ý thử nghiệm. Bởi vì phá địa là sự việc làm hao tổn âm đức rất lớn, có một số phương pháp thực hiện rất độc đáo, rất có xảo thuật nhưng cũng rất tổn hại âm đức, thậm chí cả những sự việc tổn hại đến sinh mạng cũng đều có, cho nên các thầy Phong thủy cổ đại có bản sự cả đời mấy chục năm căn bản đều không làm dù chỉ một lần, cho dù là ngẫu nhiên có một lần, cũng phải là phụng thiên thừa vận (phụng mệnh trời) mới dám đi làm, hơn nữa chỉ làm với cá biệt địa huyệt đó mà thôi. Bởi vì địa huyệt liên quan đến rất nhiều thứ khác, cho nên phương pháp phá giải cần rất cẩn thận, cần nắm bắt chắn chắn về thước đo, tỷ lệ để tránh ảnh hưởng đến những thứ không liên can.

Rất nhiều địa huyệt thường là Thiên phá, không phải do con người làm. Nguyên nhân chủ yếu nhất là do người đời sau vì danh lợi mà không biết quý tiếc, làm ra rất nhiều sự việc thương thiên hại lý, tiêu hao quá độ những phúc đức do tổ tiên tích lại, ví như hiện nay có nào là quan lại với thương nhân câu kết, cầu (tiền) tài hại mệnh, xã hội đen, hút hít ma túy, loạn tính, v.v., những việc như vậy chính là sẽ không ngừng tiêu hao phúc đức tổ tiên, phúc đức chỉ tuôn ra không vào, rất nhiều “mộ phát” chưa kịp đến thời kỳ khởi tác dụng thì đã bị phá rồi, hiện nay rất nhiều tình huống chết oan uổng có liên quan rất lớn đến những điều này.

Có một huyệt vị, phía trước huyệt có một “nguồn nước nuôi dưỡng âm (phần)” to như cánh tay, “Địa linh thần” là một con chim đại bàng lớn, huyệt vị đã bắt đầu khởi tác dụng, là một ngôi mộ đất, không có bia, cả hướng chôn hay cách chôn đều chuẩn xác, thực sự là một vị trí tốt rất khó đắc được. Ngôi cổ mộ chính là được an táng ở vị trí “đắc lực” là trên lưng chim đại bàng, các thế hệ sau tất sẽ có tiền đồ vô tận, phú quý vẹn toàn. Sau này hỏi dân làng mới biết hậu thế của ngôi cổ mộ hiện tại phú quý rất nhiều, những quan chức lớn nhất được biết đến có hai cán bộ cấp sở, tiền đồ tiến thân vẫn còn, trong huyện họ cũng là gia tộc giàu có, trong con cháu có người làm phó quận trưởng và mấy cục trưởng. Dân làng mô tả rằng gia tộc này đúng là không biết sâu xa, nên ở huyện thành làm đủ chuyện xấu xa, lũng đoạn chèn ép, dân chúng oán hận rất nhiều. Mấy năm sau, trong một lần tình cờ, chúng tôi lại đến đây một lần nữa thì phát hiện khung cảnh đã thay đổi, ngôi cổ mộ đã bị sửa chữa, được ốp bằng đá cuội và xi măng, phía trước mộ còn xây một ban thờ rất lớn, một khối bia mộ cao lớn sừng sững giữa trời, tối thiểu cũng phải cần mấy vạn nhân dân tệ mới có thể làm được đến như vậy, nhưng những hoạt động này trong Phong Thủy lại là điều đại kỵ… khi chúng tôi xem kỹ một lượt nữa thì thấy toàn bộ “Sinh khí” của huyệt vị đã phát tiết hết rồi, “Địa linh thần” cũng không ở đó nữa. Điều khiến người ta dở khóc dở cười nhất chính là chúng tôi phát hiện ra những viên đá dùng để xây mộ thực chất lại là vật liệu tại chỗ, lấy một số khối đá to lớn thẳng đứng ở vài chỗ then chốt ở chỗ “Hậu long” của huyệt vị, bị dùng thuốc nổ cho nổ vỡ ra rồi lấy đá. Huyệt vị như vậy mà bị phá hoại đến tận kiệt, thực sự chính là “đa hành bất nghĩa tất tự tễ” (dịch là: làm nhiều việc bất nghĩa tất tự rước họa vào thân). Sau này hỏi thăm ra, con cháu đời sau của ngôi mộ này hầu như đã hoàn toàn lụn bại, kẻ giàu có thì khuynh gia bại sản, kẻ làm quan thì hoặc bị song quy (1), nếu không cũng chết bất đắc kỳ tử. Xem ra thực sự là “Thiện ác hữu báo, báo ứng bất sảng”, (dịch là “Thiện ác có báo, báo ứng không sai lệch chút nào”.

Bởi vì con người hiện nay không tín Thần, cho nên trong lúc vô tình, dưới sự cổ súy của một số cái gọi là chính sách quốc gia, rất nhiều nơi đã phát sinh sự phá hoại toàn diện mang tính hủy diệt. Cách thức phá hoại thường gặp nhất chính là mở mang kiến thiết thành phố, một khu chung cư ở thành phố nào đó được xây dựng trên lưng chừng núi, khi đào móng thì đào lên rất nhiều quan tài gỗ cứ để phơi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như thế, cuối cùng đem thiêu sạch.

Có người nói “muốn làm giàu, trước tiên làm đường”, cho nên đã làm rất nhiều đường, đặc biệt là đường cao tốc và đường sắt, gặp núi mở núi hoặc đào hầm xuyên núi, từng tòa núi lớn như thế bị xén nhỏ lại hoặc là biến mất. Như vậy thì các long mạch đều bị thương tổn tới tận gân cốt, chỗ địa huyệt mà long mạch kết lại sẽ bị phá hủy, nếu những mạch chủ bị đào xới cắt đứt, nó thậm chí còn gây họa cho các địa huyệt kết huyệt cách đó hàng chục đến hàng trăm dặm. Còn có trạm lưới điện và trạm thông tin liên lạc (trạm thu phát sóng), thông thường người ta hay chọn những đỉnh núi cao mà xây dựng, như vậy sẽ làm thay đổi hình trạng tương ứng với những ngọn núi này, một số cắm ở hai bên trái phải huyệt vị, thậm chí là trực tiếp cắm thẳng trên huyệt vị, như vậy càng làm cho huyệt vị bị phá hoại hoàn toàn.

Chúng tôi biết có hai thầy Phong thủy ẩn dật trong nhân gian, họ đã đạt đến cảnh giới có thể tùy ý câu thông với Địa linh thần. Hai vị thường đến một sơn cốc do mạch của mấy ngọn núi vây lại tạo thành (thung lũng), bởi vì đó là chỗ hạ xuống của mấy đạo long mạch, cho nên từ sơn cốc lên đến các đỉnh núi xung quanh lớn nhỏ có đến hơn trăm địa huyệt, cũng chính là có hơn trăm vị “Địa linh thần” trú ngụ ở đây. Bởi vì hai thầy Phong thủy thường xuyên tới đây cho nên cũng đã tương đối thân thuộc với các Địa Linh Thần, xem như bằng hữu. Một ngày năm 1994, chúng tôi theo hai thầy phong thủy du ngoạn đến đây, vừa ngồi xuống nghỉ ngơi thì một vị trong đó đã nhập định, trong định nhìn thấy nhiều địa huyệt đang nhao nhao thỉnh cầu thầy Phong thủy cứu mạng. Thầy Phong thủy thất kinh, tại sao lại như vậy? Thì ra là một xí nghiệp hóa chất quốc doanh đã quy hoạch nơi này thành nơi đổ xỉ thải công nghiệp, toàn bộ các địa huyệt vây quanh đây sẽ không còn, họ hy vọng sẽ được hai thầy Phong thủy thu nhận.

Thầy Phong thủy sau khi hiểu ra sự việc cũng thấy ngạc nhiên, liền hỏi: Các ông có thể trở về vị trí ban đầu của mình hoặc đi tìm một nơi khác, vì cớ gì muốn theo chúng tôi? Địa linh thần trả lời: “Hiện nay con người thế gian đạo đức tiêu vong, thiên địa nhân gian đều đang ở trong kiếp số, hai vị Phong thủy sư sẽ sớm gặp được vị thầy của Đại Pháp đức cao, chỉ khi hai vị công thành viên mãn thì chúng tôi mới được tính là thực sự được đắc cứu”. Hai vị thầy Phong thủy tuy không hiểu ý tứ kia nhưng họ cũng đồng ý thu nhận các vị Địa linh thần này. Mấy tháng sau, ở chỗ cửa ra của thung lũng, một con đập cao mấy chục mét, dài hơn 300 mét được xây dựng để chặn cửa thung lũng, một ống thép to bằng chiếc xô ngày đêm không ngừng chảy nước thải công nghiệp ra ngoài, bốc hơi nghi ngút, đọng lại cặn tro xỉ lấp đầy thung lũng, chôn vùi trong sơn cốc mấy trăm ngôi mộ và hơn trăm địa huyệt. Sau khi việc này xảy ra, vị “Địa mạch Long thần” được phân cai quản long mạch này đã rất phẫn nộ, lập tức báo cáo lên trên, các vị Thần đã ghi chép lại tất cả những người có liên quan tham dự vào sự việc này, những người phúc đức sâu dày thì bị tiêu mất phúc phận nên có rồi chờ đợi ngày xuống địa ngục xử lý, người phúc đức ít lập tức bị lấy đi dương thọ, đả nhập địa ngục, chịu đựng thống khổ dày vò. Kết quả là những người liên quan đến việc này lần lượt xảy ra việc bị bệnh mà chết, bị tai nạn xe cộ, bị bắt vì tội tham nhũng, v.v., chỉ là con người thế gian đều trong mê, nên chỉ coi những việc này là sự việc ngẫu nhiên không liên can, cho nên vẫn trong vô tri mà tiếp tục làm nhiều việc xấu.

Hiện nay nghiêm trọng nhất và cũng là phá hoại triệt để nhất chính là công trình đập chứa nước (đập thủy điện hoặc đập thủy lợi). Trong Phong thủy, yếu tố then chốt nhất chính là “nước”, nguồn gốc, xu hướng, lớn nhỏ v.v… của nước đều là những bộ phận then chốt cấu thành nên ngoại hình cách cục của địa huyệt. Nếu như xây lên một đập chứa nước lớn thì toàn bộ dòng chảy sẽ hoàn toàn bị chặn lại, vùng nước thượng du cũng sẽ bị thay đổi rất lớn. Các con sông giống như kinh lạc của trái đất, như vậy nếu trên kinh lạc này mà xây dựng các con đập lớn, sẽ làm trở ngại sự tuần hoàn của năng lượng, kết quả là khiến cơ thể trái đất xuất hiện hiện tượng giống như trong Trung Y miêu tả là khí huyết không thông, mạch ứ tắc, hậu quả sẽ dẫn đến bệnh tật, như vậy ở đây sẽ xuất hiện bệnh tật của Trái Đất, trên biểu hiện là biến đổi khí hậu, hạn hán, mưa bão các loại.

Hiện nay có một số người được gọi là thầy Phong thủy, họ nói thế nào? Nói rằng cách cục biến đổi rồi thì sẽ có cách cục mới xuất hiện; đập nước có thể tích trữ nước, và nước là tài nguyên, ngược lại mà nói vậy là càng tốt. Kỳ thực đây đều là những vọng tưởng vô tri. Họ đâu biết rằng nguyên nhân căn bản khiến địa huyệt có thể khởi tác dụng chính là có sự tồn tại của “Địa linh thần” ở đó hay không chứ không phải địa hình như thế nào. Nếu như có thể tùy ý thay đổi cách cục, vậy nhân loại không phải là có thể đào đá tạo núi một cách vô độ, con người tạo ra địa huyệt, há chẳng phải nơi nơi đều là đại địa, nhà nhà đều có hoàng đế sao? Hiện nay có những thầy Phong thủy điểm địa nhưng không có thần thông, làm sao biết được long mạch chỗ này có bị phá hay không? Vẫn còn có Địa linh thần hay không?

Đại địa cũng giống như cơ thể con người, cây cối là da lông, bùn đất là máu thịt, núi đá là xương cốt, sông suối là huyết quản. Nếu như một cá nhân bị lột sạch da lông, cắt rời huyết quản, xẻo đi máu thịt, bẻ gãy gân cốt, vậy người đó còn có thể sống được không? Có người sẽ nói, tự cổ đến nay quốc gia đều chủ trương xây dựng thủy lợi, gia tăng diện tích tưới tiêu, hiện tại xây dựng đập nước cũng là vì bách tính muôn dân thôi. Ở đây có vấn đề về khái niệm, cần biết rằng xây dựng thủy lợi không giống như xây đập nước, xây dựng công trình thủy lợi có hai mục đích là chống lũ vào mùa mưa và tưới tiêu vào mùa khô, hơn nữa lấy dẫn hướng, lưu thông (mạch nước) làm chủ đạo, chú trọng hài hòa giữa con người và tự nhiên, đại đa số đều sẽ không làm những thứ như phá hoại tự nhiên, một ví dụ về một công trình thủy lợi tốt chính là công trình thủy lợi Đô Giang Yển ở Tứ Xuyên (2).

Đại địa dùng đức dày cưu mang muôn loài, nuôi dưỡng vạn vật, cũng bao gồm cả nhân loại, là sinh mệnh thông minh nhất trong vạn vật. Tổ tiên người Trung Quốc kính thiên kính địa, đời đời canh tác và làm ăn sinh sống ở Trung Hoa đại địa, ngay cả việc xây dựng các công trình thủy lợi cũng được thực hiện theo cách có thể lấy nước mà không phải ngăn chặn dòng chảy, như Đô Giang Yển, năm nghìn năm nay đã nuôi dưỡng không biết bao nhiêu thế hệ, nhưng hoàn cảnh tự nhiên về cơ bản không bị phá hoại, nó vẫn thích hợp để nhân loại tiếp nối sinh tồn. Mấy chục năm gần đây, con người không có chút đức nào để báo đáp thiên địa, mà ngược lại còn không ngừng chiếm đoạt và phá hoại, khi thiên địa nổi giận, thiên tai, địa hãm, nhân họa của nhân loại sẽ càng ngày càng nhiều. Các công trình thủy lợi ngày nay phần nhiều là những tác phẩm “Chiến thiên đấu địa, cải thiên hoán địa”, chẳng những không đạt được hiệu quả lợi nước lợi dân mà ngược lại xác thực là còn làm diện tích đất canh tác giảm thiểu, đất đai bị sa mạc hóa hoặc khô cằn sỏi đá, dẫn đến việc ở những vùng sản xuất lương thực cũng bị lũ lụt nặng vào mùa mưa, hạn hán nghiêm trọng vào mùa khô. Và mục đích theo đuổi ban đầu trên bề mặt là lợi ích về phát điện, tưới tiêu… cũng đã nhanh chóng bị mất đi vì lượng phù sa bồi lắng ứ đọng trong lòng các đập nước, khiến cho những lợi ích tạo ra ít hơn rất nhiều so với khoản đầu tư cần thiết để cải thiện hoàn cảnh môi trường tự nhiên. Hạn hán nghiêm trọng ở Tây Nam Trung Quốc và lũ lụt nặng nề ở miền nam Trung Quốc sau những năm 2010 khi đập Tam Hiệp hoàn thành chính là những ví dụ điển hình nhất.

Trong thống kê chưa đầy đủ của Chính phủ Trung Quốc, toàn Trung Quốc có hơn 90.000 đập nước lớn nhỏ! Nếu một thung lũng nhỏ bị vùi lấp, là trực tiếp phá hủy hơn một trăm địa huyệt. Hiện tại, các đập thủy điện của Trung Quốc đều cố hết sức xây lớn, càng lớn càng phản ánh thành tích của chính quyền. Chỉ mới một con đập Tam Hiệp đã phá hàng trăm triệu địa huyệt! Còn khiến cho gần triệu người nơi đó phải di dời, trời và người đều phẫn nộ!

Nói đến đây, chúng tôi còn muốn nói về thiên cơ chân thực của Phong Thủy, điều mà trước đây không ai được biết. Như chúng tôi đã từng nói, đại địa cũng có mạch lạc và địa huyệt, thông thường, mỗi triều đại hoặc thời kỳ nào đó đều có liên quan đến mạch lạc hay địa huyệt nào đó. Nhưng từ thời nhà Thanh trị vì sau này cho đến thời cận đại, đặc biệt là mạch lạc và huyệt vị của đại địa thời ĐCSTQ, là Thiên thượng đã hữu ý tạo ra một mạch giả, các huyệt vị trên mạch đó đều là huyệt giả, cũng có nghĩa là các đời lãnh đạo của ĐCSTQ có những cái gọi là nhân vật trọng yếu thì đều là từ huyệt vị giả kia mà đối ứng ra.

Vũ trụ đã xoay chuyển đến bước cuối cùng rồi, vì để làm sự việc này, từ trên xuống dưới đều tạo ra một hệ thống giả mạo. Từ Thiên mạch Thiên huyệt cho đến Long mạch Địa huyệt trên mặt đất, cho đến hình thế và những nhân vật xuất hiện tại nhân gian, tất cả đều là bị cách ly phân khai ra khỏi sự vận hành bình thường của vũ trụ, thậm chí trong cơ thể con người cũng được đặt một bộ hệ thống giả. Chúng ta biết rằng các mạch lạc và huyệt vị bình thường, cho dù là Thiên, Địa hay Nhân, đều là phải nương theo Đạo mà lưu chuyển vận hành, dựa vào Đức mà bảo hộ những cơ chế trong đó.

Nhưng bộ hệ thống này thì khác. Bố cục của hệ thống này trong thế gian con người, là bắt đầu từ những năm Hồng Vũ thời kỳ sơ khai nhà Minh. Lợi dụng thời cơ Nam Can Long bắt đầu khởi vận, ở trong mạch lạc đó tách riêng ra một khu vực rồi tiến hành sắp xếp. Bản thân Nam Can Long ngũ hành thuộc Hỏa, là con Hồng long (rồng đỏ), tính khí bạo ngược, cho nên người xuất ra từ đó so với các nhân vật cổ xưa thì tính khí đều tương đối hung ác, tính háo sát rất mạnh; mà đoạn mạch này lại là do mạch giả cố ý tạo ra, không phải dựa vào đạo đức lưu chuyển thúc đẩy tạo ra; cho nên người từ đó xuất ra cũng dễ mang đặc tính “giả” trong đó.

Địa huyệt trong bộ hệ thống này cũng không phải lấy đạo đức làm tiêu chuẩn đo lường, chỉ cần cá nhân đó cần thiết cho việc tuyển chọn, cho dù đạo đức bại hoại, không có phúc phận, thì cũng sẽ có sinh mệnh cao cấp hơn trong hệ thống lấy phúc đức của bản thân tiêu hao đi mà bù đắp cho.

Vậy làm những sự việc này để làm gì đây? Đó là sự cứu rỗi. Tất cả các dân tộc ở phương Đông và phương Tây đều có liên quan đến truyền thuyết về sự hủy diệt thế giới bởi trận đại hồng thủy mấy nghìn năm trước, và cũng đều có truyền thuyết về sự cứu rỗi cuối cùng. Phương Tây gọi là Cứu thế chủ My Tát Á (Messiah), phương Đông gọi là Di Lặc (tiếng Phạn gọi là “Maitreya”). Trong “Kinh thánh” nói rằng, con người trên thế giới đã từng nói cùng một ngôn ngữ, sau này nó bị phá hoại trong quá trình nhân loại lưu lạc bốn phương, từ đó bắt đầu sử dụng các loại ngôn ngữ khác nhau. Đó có phải là báo hiệu rằng nhân loại địa cầu thời kỳ đầu đã từng có ngôn ngữ tương đồng hay không? Có một số học giả sau khi nghiên cứu đã phát hiện rằng, cách phát âm từ “Messiah” ở phương Tây cực kỳ giống với cách phát âm từ “Di lặc/ Maitreya/Metteyya” trong ngôn ngữ cổ Ấn Độ ở phương Đông. Ý tứ thực sự trong đó chính là “Lý lai”, cũng có hàm nghĩa là “đến vì bạn”. Báo hiệu Cứu Thế Chủ sẽ lấy họ là “Lý”, phát ra hồng đại chí nguyện (niệm cứu độ chúng sinh) vì các vị (chúng sinh) mà đến đây.

Chú thích theo hiểu biết của người dịch:

(1) Song quy: Là một công cụ chống tham nhũng của ĐCSTQ. Theo quy trình “song quy” này, cơ quan điều tra của đảng CSTQ có quyền chỉ định cả thời gian và địa điểm để thẩm vấn các đảng viên bị nghi ngờ dính líu đến tham nhũng và các hành vi vi phạm khác. Điều gì xảy ra với các quan chức khi bị Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương “sờ gáy” và bắt giữ vẫn là một câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp. Khi bị “Song quy”, các quan chức ĐCSTQ bị cáo buộc tham nhũng hoặc vi phạm kỷ luật bị cách ly với thế giới bên ngoài nhiều tháng trời, bị thẩm vấn, bị buộc tội mà không có bất cứ một văn bản nào hay tuân thủ một quy trình pháp lý nào. Theo các chuyên gia pháp lý, hệ thống “song quy” của Trung Quốc không chịu bất cứ sự giám sát nào của các cơ quan tư pháp và cũng không bị điều chỉnh bởi quy định nào của pháp luật. Trong các biện pháp chống tham nhũng hiện nay ở Trung Quốc, không có điều gì khiến đám quan tham khiếp sợ và căm thù như “song quy”.

(2) Công trình thủy lợi Đô Giang Yển (都江堰) ở Tứ Xuyên: Là di sản văn hóa thế giới Đô Giang Yển, là công trình thuỷ lợi cổ đại lớn nhất và duy nhất không cần đập thủy lợi tồn tại trên thế giới, nằm ở thành phố Đô Giang Yển (trước đây là huyện Quán), Thành Đô, Tứ Xuyên. Công trình này được xây dựng vào năm 256 TCN dưới thời nhà Tần nhằm kiểm soát lũ lụt và tưới tiêu. Công trình này nằm trên sông Dân (Dân giang), là nhánh dài nhất của sông Dương Tử. Khu vực này ở phía tây của đồng bằng Thành Đô, giữa Bồn địa Tứ Xuyên và Cao nguyên Thanh Tạng. Sông Dân chảy từ dãy núi Dân (tiếng Trung: 岷山) và đột ngột chững lại khi đến đồng bằng Thành Đô, với lượng nước lớn cùng với bùn đất khiến đây trở thành khu vực rất dễ bị lũ lụt. Lý Băng là khâm sai của nhà Tần cùng với con trai ông đứng đầu việc khảo sát khu vực này để xây dựng công trình thủy lợi với việc sử dụng phương pháp phân chia dòng nước thay vì chỉ đơn giản là làm một con đập trị thủy. Công trình vẫn được sử dụng cho đến tận ngày nay để tưới tiêu cho khu vực có diện tích trên 5.300 km vuông đất khu vực. Đô Giang Yển cùng với Kênh Trịnh Quốc ở Thiểm Tây và kênh Linh Cừ ở Quảng Tây được biết đến là “ba dự án kỹ thuật thủy lợi lớn của nhà Tần”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126131

The post Khám phá phong thủy (11): Táng địa và Phá địa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (10): Tạnghttps://chanhkien.org/2023/05/kham-pha-phong-thuy-9-tang.htmlSat, 27 May 2023 07:38:00 +0000https://chanhkien.org/?p=30227[ChanhKien.org] Chữ 藏 đọc là “tàng”, cũng đọc là “tạng”. Các thầy phong thủy chân chính trong giới phong thủy đều biết: chữ 葬 (táng, chôn cất) cũng liên thông với chữ 藏 (tạng, tàng). Vì sao kinh điển Phật gia được gọi là Đại Tạng Kinh, và kinh điển Đạo gia gọi là Đạo […]

The post Khám phá phong thủy (10): Tạng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Chữ 藏 đọc là “tàng”, cũng đọc là “tạng”. Các thầy phong thủy chân chính trong giới phong thủy đều biết: chữ 葬 (táng, chôn cất) cũng liên thông với chữ 藏 (tạng, tàng). Vì sao kinh điển Phật gia được gọi là Đại Tạng Kinh, và kinh điển Đạo gia gọi là Đạo Tạng? Chữ Tạng này, là có bao nhiêu bí mật được ẩn tàng (ẩn giấu) phía sau?

Y học hiện đại phát hiện rằng, bộ não con người chỉ được khai thác sử dụng đâu đó khoảng 5%, ngay cả một vĩ nhân như Einstein cũng chỉ khai thác đến 10%, còn lại 90% bộ não luôn ở trạng thái ngủ đông, bộ phận đại não này ẩn chứa bao nhiêu bí mật mà người đời không ai biết rõ? Khoa học nhân thể ra đời và phát triển từ những năm 80 thế kỷ trước, đã phát hiện và thừa nhận rằng con người có ít nhất sáu loại năng lực tiềm tại (ẩn giấu bên trong). Thuật thôi miên cổ xưa có thể khiến một bộ phận đại não của con người bình thường ở trạng thái ngủ đông hoạt động trở lại, có những người trong trạng thái thôi miên có thể nhìn thấy cảnh tượng thời thơ ấu của mình, và những trải nghiệm kiếp trước. Bộ não giống như cái tủ lưu trữ để cất giữ đồ, mỗi tầng lại có một khoảng ngăn cách gọi là “sự lãng quên”, những kinh nghiệm và ký ức đời đời kiếp kiếp của con người đều được lắng đọng, đóng kín lại và lưu giữ ở các tầng trong chiếc tủ này. Vì vậy mà tự ngã thực sự của con người bị phủ bụi lên một cách tầng tầng lớp lớp.

Nếu mỗi người chúng ta đều có thể đem trí huệ được ẩn tàng (cất giấu) trong đại não hoặc trong thân thể khai phát ra, “quan sát” được những ghi chép chân thực trong lịch sử đã được “ẩn tàng” kia, như vậy thế giới sẽ ra sao?!

Trung Quốc có câu ngạn ngữ này: “Diêm Vương bảo anh canh ba chết thì sẽ không lưu anh lại đến canh năm”, cũng chính là nói, mỗi người sống đến bao nhiêu tuổi, và họ sẽ ra đi (chết) theo phương thức nào, đều là có an bài trong đó cả, là định số từ Thiên thượng rồi. Khi một đoạn tiến trình sinh mệnh được Thiên mệnh an bài kết thúc, đem nó chôn xuống, chính là tương đương với đem hết thảy những sự việc liên quan đến sinh mệnh này chôn vùi đi, đồng thời được dùng như là để lưu giữ lại một loại ký ức lịch sử của người đó.

Chúng tôi đã phát hiện một tình huống, vào lúc chôn cất cuối cùng của sinh mệnh con người thế gian, ở không gian rất thâm sâu đối ứng với chỗ địa huyệt được dùng để an táng, thì hình tượng sinh mệnh này sẽ được bảo tồn ở đó, giống như một tác phẩm điêu khắc được chôn trong không gian thâm sâu đó. Tác phẩm điêu khắc này có chút giống với những bức tượng đất nung được chôn trong cung điện dưới lòng đất của Tần Thủy Hoàng. Nếu như bạn có năng lực đánh thức những bức tượng đất nung kia, thì bạn cơ bản là có thể liễu giải được hết thảy mọi thứ trong tiến trình sinh mệnh lần đó của sinh mệnh này, điều tốt, điều xấu, những việc làm hàng ngày, và toàn bộ những trải nghiệm trong cuộc đời của người này.

Chúng ta biết rằng, một người A nào đó trong rất nhiều không gian đều có một người A đó, cùng với người đó đồng thời sinh ra, đồng thời mất đi, làm các việc đại thể là tương đồng. Đạo gia còn giảng, con người có nhục thân, còn có thức thần, nguyên thần, cho đến các chủng các dạng sinh mệnh thể tồn tại. Nghĩa là quá trình tạo thành sinh mệnh là tương đối phức tạp.

Từ một tầng thứ nào đó mà nhìn, một vị thầy phong thủy thực sự có bản sự, thì loại năng lực đó rất mạnh mẽ, và năng lượng cũng rất lớn, họ có thể đánh thức được những bức tượng đất nung kia. (Lưu ý: Đây là dùng cách nói mà mọi người có thể hiểu được để biểu đạt, chứ tình huống thực tế còn phức tạp hơn rất nhiều). Khoa học hiện đại đã phát hiện ra, một người có công năng đặc dị, trên thân thể họ có năng lượng và tính phóng xạ rất mạnh mẽ, là không giống như vật lý cao năng lượng mà con người biết hiện nay, những năng lượng và tính phóng xạ này có thể căn cứ theo ý chí của bản thân người đó mà thu phóng tự do như ý. Bản thân những người có năng lượng này đã có sẵn sức sống mạnh mẽ, hoặc là có sẵn nhân tố sự sống bên trong, cho nên nó có thể giúp chữa lành bệnh tật cho con người, chúng ta có thể hình dung một chút, nếu các vị Thần là những khí công sư có cảnh giới tầng thứ cao hơn nữa, và năng lượng lớn hơn, như vậy họ rất có thể khiến cơ thể con người vốn được tạo ra bằng vật chất ấy, thông qua việc được quán thâu những năng lượng kia mà trở thành cơ thể có sinh mệnh. Những người có năng lực rất mạnh lấy năng lượng cường đại kéo lên thân những bức tượng đất nung kia thì sẽ chuyển chúng thành những cơ thể sống. Nó chính là giống như chiếc xe hơi, nếu thêm xăng vào thì có thể hoạt động, có thể chạy được vậy.

Mỗi người đều có một chủ nguyên thần, đó chính là chủ thể của sinh mệnh, nắm giữ và chủ quản hết thảy sinh mệnh của họ, bao gồm cả lịch sử quá khứ. Cho nên nói rằng người tu luyện thông qua “quan sát” đối với bản thân, từ đó cũng có thể biết về vũ trụ, thời không, cho đến một số sự việc trong lịch sử. Cái gì mà “biết những việc cách đây một ngàn năm, biết các việc xảy ra năm trăm năm sau này” thực ra cũng không phải là mê tín, là thực sự có thể làm được vậy.

Tạng (ẩn tàng), cũng liên thông với tạng (tạng phủ), là các cơ quan bên trong, được ẩn tàng bên trong. Trung y giảng về lục phủ ngũ tạng, thậm chí là ở lục phủ ngũ tạng mỗi bộ phận đều có các vị Thần tồn tại. Như trước đây chúng ta đã biết, thân thể con người là có mối quan hệ đối ứng với đại địa. Vậy rất nhiều người có thể nói, có phải hay không rằng đây chỉ là phỏng đoán và suy luận của các ông, có cơ sở thực tế hay không?

Trên thực tế, phát hiện của một số người hiện đại thật trùng hợp có thể chứng minh được điểm này, ví dụ như có người kiểm tra tỉ mỉ lớp vỏ lục địa và sơ đồ hình vẽ các cơ quan nội tạng của cơ thể người, rồi tiến hành so sánh, sau đó phát hiện: châu Nam Cực và bộ não người không những ngoại hình giống nhau, hơn nữa còn vô cùng tương đồng: châu Tây Nam Cực là đại não, châu Đông Nam Cực là tiểu não và bán đảo từ châu Đông Nam Cực kéo dài đến châu Nam Mỹ là thân não. Tiếp theo là đến ngũ tạng: châu Úc là Tâm tạng (trái tim), châu Phi và châu Nam Mỹ là Phế tạng (lá phổi), lục địa Á-Âu là Can tạng (lá gan), tiểu lục địa Nam Á là Đảm nang (túi mật) dưới gan, dãy núi Ural là dây chằng phân chia trái phải và cố định vị trí của lá gan, phần đại lục Bắc Mỹ là Tỳ tạng (lá lách) và đảo Greenland là Thận tạng (quả thận).

Ngoại trừ việc lục địa Á-Âu và Can tạng (lá gan) ở hướng ngược nhau ra, thì toàn bộ vị trí của các lục địa trên địa cầu đều tương quan đối ứng với các vị trí của ngũ tạng trong thân thể. Sự trùng hợp khéo léo này không phải là một sự gợi ý rõ ràng về mối liên quan giữa địa cầu và thân thể người hay sao ?

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126130

The post Khám phá phong thủy (10): Tạng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (9): La bànhttps://chanhkien.org/2023/05/kham-pha-phong-thuy-8-la-ban.htmlTue, 02 May 2023 02:18:16 +0000https://chanhkien.org/?p=30013[ChanhKien.org] Trong giới phong thủy có câu nói, gọi là: Nhất lưu tiên sinh quan tinh khoa (Bậc thầy hạng nhất quan sát tinh tú, còn gọi là thuật Chiêm tinh, là việc quan sát hình thái và cách vận hành của các ngôi sao trên bầu trời mà dự đoán sự việc xảy ra […]

The post Khám phá phong thủy (9): La bàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Trong giới phong thủy có câu nói, gọi là: Nhất lưu tiên sinh quan tinh khoa (Bậc thầy hạng nhất quan sát tinh tú, còn gọi là thuật Chiêm tinh, là việc quan sát hình thái và cách vận hành của các ngôi sao trên bầu trời mà dự đoán sự việc xảy ra nơi Trái Đất), nhị lưu tiên sinh xem thủy khẩu (dòng chảy lưu thông vào ra của nước/gió), tam lưu tiên sinh lưng đeo la bàn đi khắp núi non.

La bàn là một công cụ hình đĩa tròn được các thầy phong thủy sử dụng trong hoạt động phong thủy để xác định phương hướng và các việc cát hung. La bàn thời nhà Hán có hình dáng một cái đĩa trên tròn dưới vuông, chủ yếu được dùng trong bói toán của Kỳ môn độn giáp, không có quan hệ nhiều với phong thủy; đến thời Dương Quân Tùng triều đại nhà Đường, phong thủy bắt đầu được phổ cập rộng rãi trong dân gian, bởi vì một số người học căn cơ không đủ, không thể đắc Pháp tu luyện, nhập Đạo tu tập, cho nên Dương Quân Tùng thiết kế ra loại la bàn này, để cho người học có thể căn cứ vào những kinh nghiệm tổng kết các biểu hiện của phong thủy do tiền nhân lưu lại, lợi dụng la bàn mà y hồ họa biều (dựa theo hình quả bầu mà vẽ ra cái gáo), tiến hành suy đoán; sau này truyền nhân hậu bối của Dương Quân Tùng là Lại Văn Tuấn triều Tống, dân gian gọi là Lại Bố Y, trên cơ sở này làm phong phú thêm những thứ đó; đến triều đại Minh Thanh có một số người đã liên tục thay đổi nó, cuối cùng cơ bản là định hình lại những chủng loại, dạng thức như chúng ta đã thấy hiện nay.

La bàn là có tác dụng hay không, là có tác dụng, nhưng chúng tôi nói phương pháp này bản thân nó là việc làm miễn cưỡng, mà hơn nữa còn bị người đời sau làm cho phức tạp thêm, kỳ thực là bất kể là chủng loại la bàn nào thì cũng cần thiết phải lợi dụng tác dụng của hai cực từ trường Nam – Bắc của Trái Đất, dựa vào hướng chỉ của kim để xác định phương hướng. Trong vật lý học hiện đại, chúng ta có thể biết rằng các ngôi sao trong các thiên thể đang xoay chuyển, địa từ trường trên Trái Đất cũng đang xao động, cực địa từ cũng đang từ từ di động, mà hiện nay còn có các loại như mỏ khai khoáng, đường dây điện cao thế hay các nhà máy phát điện ở khắp nơi, cho dù đó là một vùng rộng lớn hay một khu vực nhỏ cục bộ thì rất nhiều nơi đều đã hỗn loạn không chuẩn nữa rồi.

Rất nhiều thầy phong thủy dựa vào la bàn chỉ là những người yêu thích phong thủy, họ chưa tiến nhập vào tu luyện, không hiểu được chân cơ của phong thủy, cũng chưa được khai mở công năng, chỉ có thể có tác dụng là công cụ hỗ trợ, rập khuôn theo tiền nhân hoặc giả là những khẩu quyết lưu truyền lại trong sách vở, căn cứ vào một số tổng kết hiện tượng được lưu truyền bên ngoài mà suy đoán, cho đến cuối cùng thì có thể khởi tác dụng hay không, hay vì sao mà khởi tác dụng thì họ căn bản là hoàn toàn không biết.

Đại địa chân chính, căn cứ vào các huyệt vị, hướng núi, án sơn, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, chỗ dựa phía sau… để đặt định thiết lập hoàn cảnh tứ phía, phương hướng của địa huyệt đều rất cố định, không có sai lệch. Đây còn được gọi là Thiên công Địa tạo (tạo hóa tự nhiên). Người có kinh nghiệm khi họ đứng ở chỗ huyệt vị thì sẽ tự nhiên biết được là hướng nào.

Nếu như tầng thứ của thầy phong thủy mà đủ, và có năng lượng lớn, thì ngay cả huyệt vị ứng với triều sơn (núi chầu) nào cũng đều có thể căn cứ theo lời của họ mà định ra. Phía trước huyệt vị thông thường sẽ có rất nhiều núi chầu, mỗi huyệt vị sẽ đối ứng với các núi chầu khác nhau, sẽ khởi tác dụng và hiệu quả khác nhau, nếu như cấp bậc của bản thân địa huyệt không đủ thì không thể đối ứng được với những núi chầu tốt hơn. Những điều này đã xảy ra nhiều lần trong trải nghiệm của chúng tôi, tùy theo việc bạn chỉ định ngọn núi chầu nào đó cho địa huyệt thì sau đó địa huyệt sẽ vô cùng cảm tạ, bởi vì dựa vào cấp bậc và năng lượng của bản thân địa huyệt, nó không thể tương ứng đến mức đó, do lời nói của người tu luyện là có năng lượng, thậm chí là những người tu luyện có uy đức lớn ở những tầng thứ cao thì những lời nói ra đều là có hình trạng, nhờ vào năng lượng trong lời nói, khiến địa vị và cấp bậc của họ (địa huyệt) ngay lập tức được nâng lên, và họ có thể tương ứng với những núi chầu cao hơn, cho nên sẽ biểu thị sự cảm tạ đối với bạn.

Trung Quốc cổ đại gọi điều này là “ngôn xuất pháp tùy”, tạm hiểu là “lời nói ra là pháp luật đi theo sau”, ví dụ này đưa ra cũng không quá phù hợp, giống như một vị Hoàng đế, ông nếu muốn thăng chức cho người nào đó, thì giống như chỉ cần nói một câu, gọi là “kim khẩu ngọc ngôn” (miệng vàng lời ngọc), “đồng diệp phong đệ” (1) của vua Thành Vương triều Chu chính là một ví dụ điển hình.

Cho nên nói dùng la bàn mà suy đoán các núi chầu đối ứng với địa huyệt thì chỉ có thể nói là một loại phương pháp tham khảo chứ khẳng định là không tuyệt đối đúng được.

Phong thủy lưu truyền trong dân gian phần nhiều là lấy những khẩu quyết tổng kết kinh nghiệm bề ngoài của các thầy phong thủy trước đây, tuy những khẩu quyết này có một số đạo lý nhất định, nhưng nếu như không thực sự tiến nhập vào tu luyện phong thủy thì cũng chỉ biết hiện tượng nó thế mà không biết vì sao nó lại như thế. Ví như câu khẩu quyết “khe đất kẹp giữa hai ngọn núi, đời đời đều có người xuất sinh làm Hoàng đế”. Khe đất giữa hai núi này ám chỉ rằng hai ngọn núi ở phía sau “Đế hoàng địa” liên kết lại với nhau, tạo thành triển cáo (2), là một trong những biểu tượng của Đế Hoàng địa trong phong thủy, tương tự như bức bình phong phía sau Hoàng đế thời cổ đại. Nhưng là “kẹp” thế nào, vùng lõm này lớn bao nhiêu, sẽ xuất sinh ra bao nhiêu đời Hoàng đế, triều đại nào sẽ xuất hiện, kéo dài bao nhiêu năm? Nếu như chỉ dựa vào ngoại hình mà suy đoán thì rất khó để biết được những điều này.

Ví dụ về triển cáo

(Quý độc giả có thể dùng từ khóa tiếng Trung 展诰 để tìm kiếm các hình ảnh thực tế của triển cáo)

Còn nữa, trong phong thủy lưu truyền ở dân gian, núi chầu ý chỉ về việc triều bái (hành lễ bái lạy) huyệt chủ, núi chầu càng nhiều thì biểu thị là người ủng hộ huyệt chủ càng nhiều, chính là giống như bề tôi dưới trướng Hoàng đế triều bái vậy. Nhưng có một lần, khi chúng tôi đến một vùng đất, Địa Linh Thần nói chúng tôi phóng tầm mắt nhìn ra xa, phía đối diện có thể nhìn thấy bao nhiêu ngọn núi, chính là có thể thừa truyền bấy nhiêu thời đại, cũng chính là nói, ở đây khái niệm “triều” đã không phải là khái niệm triều bái kia trong phong thủy nơi dân gian nữa, mà là khái niệm biểu thị rằng một triều thì sẽ có bao nhiêu “đại (đời)” truyền nhau.

Cho nên rất nhiều điều được ghi chép trong sách hoặc lưu truyền trong dân gian đều là những đúc kết kinh nghiệm, nhưng đối với những thầy phong thủy tu luyện thực sự mà nói thì có lẽ đây là một loại mê hoặc và chướng ngại, trở thành nhân tố và trở ngại mà họ cần đột phá trong tu luyện. Chỉ có không bám chặt vào những ghi chép trong sách hoặc những khẩu quyết lưu truyền trong dân gian mới có thể nhìn được những “địa” tốt hơn.

Thủy khẩu (dòng lưu thông khí/nước) là một danh từ chuyên dùng trong phong thủy, dùng để chỉ nơi dòng nước/khí lưu thông vào ra ở một khu vực nhất định. Khu vực nhất định ở đây thường chuyên chỉ về phạm vi bao phủ của địa huyệt. Phong thủy dân gian gọi dòng nước chảy vào là thiên môn, dòng nước chảy ra là địa hộ. Vì thủy khẩu tượng trưng cho huyết mạch của rồng, chủ quản nguồn tài nguyên, cho nên hình thế ngọn núi chỗ có thủy khẩu tất phải uốn lượn quanh co, trở ngại trùng trùng. Hình thế của thiên môn phải có thế rộng mở, mới có thể chảy mãi lâu dài vô cùng tận, dự báo sẽ sinh khí thịnh vượng, tài nguyên dồi dào không bao giờ cạn. Hình thế của địa hộ cần ở trạng thái quan bế (đóng lại), có nhiều cát sỏi ngăn trở, để dòng nước chảy có hình chữ chi “之” hoặc chữ huyền “玄”, như vậy mới lưu giữ tích tụ được sinh khí dày đặc tầng tầng, mới tụ khí tàng tài (lưu tồn tàng trữ của cải). Dòng nước nếu không thể được ngăn trở mà cứ chảy vào ra thẳng tuột thì chính là sẽ bị khí tán tài vong (sinh khí tán đi, tiền tài tiêu mất).

Trong phong thủy dân gian, người có thể nhìn được thủy khẩu thì năng lực của họ đã mạnh hơn so với người dùng công cụ la bàn hỗ trợ rồi. Lấy một ví dụ, cũng chưa thực sự quá tương thích, thủy khẩu đối với địa huyệt mà nói cũng giống như cổng lớn (cổng chính) của một hộ gia đình. Cổng vào cao lớn có phẩm vị thì chứng tỏ gia đình này là một hộ gia đình lớn, và cấp bậc của địa huyệt cũng cao; nếu cổng chính bình thường, thì hộ gia đình này cũng thuộc loại bình thường, và địa huyệt cũng bình thường. Phạm vi thuận theo thủy khẩu hướng về phía trước, chính là thuộc phạm vi địa huyệt, ngược lại là nằm bên ngoài thủy khẩu không thuộc phạm vi địa huyệt, thuộc về bên ngoài cổng. Đây là dùng khái niệm mà người bình thường có thể hiểu được, thực tế thì tình huống còn phức tạp hơn.

Bản thân địa huyệt không quá lớn, nhưng nó có phạm vi bao phủ, tương đối mà nói thì tầng thứ càng cao phạm vi bao phủ càng rộng. Thủy khẩu là ở cạnh phạm vi này, thủy tức là dòng nước, khẩu ý chỉ là cái miệng. Mọi người đều biết trong các ngôi chùa Phật giáo có một vị Thần giữ cổng tên là Vi Đà, cổng Nam Thiên Môn của Thiên đình cũng có thần tướng Tứ Đại Thiên Vương phụ trách trấn thủ, vào thời cổ đại, cổng vào chính của hoàng cung cũng có thị vệ trấn thủ, những gia đình cao môn đại viện (cổng cao sân lớn) có chút cấp bậc cũng có người gác cổng, đương nhiên người gác cổng của các gia đình giàu có này thì cấp bậc là không so được với những trường hợp đã nêu ở trên. Thủy khẩu cũng là có tầng ý tứ như thế bên trong nó, khi một thầy phong thủy dạn dày kinh nghiệm đến vị trí của thủy khẩu, dựa vào địa thế núi non khu vực lân cận thủy khẩu, họ cơ bản là đã biết được phương vị và cự ly của địa huyệt, và cả việc địa huyệt cấp bậc thế nào, đây vẫn là từ kinh nghiệm về ngoại hình mà suy đoán. Nếu là một thầy phong thủy có công năng, thông thường còn có thể câu thông (nói chuyện) với địa huyệt ở đây, bởi vì họ đã tiến nhập vào bên trong phạm vi bao phủ của địa huyệt, cũng giống như bạn tiến đến cổng nhà người khác, tự nhiên vị chủ nhà nhiệt tình hiếu khách sẽ nghênh tiếp và chuyện trò hỏi thăm bạn vậy.

“Nhất lưu tiên sinh quan tinh khoa”, khái niệm này đối với giới phong thủy mà nói đều là tương đối mơ hồ, mỗi người nói một cách, mỗi người đều có cách lý giải riêng của bản thân, đặc biệt là ở thời hiện đại, sau khi toàn bộ mạch của phong thủy dần dần tiêu vong, thì lại càng có nhiều ý kiến lao xao. Phong thủy còn gọi là kham dư, vào thời cổ đại, “kham” chính là quan sát bầu trời, dùng công năng câu thông với Thiên Thần, hoặc dùng công năng để hiểu các sự việc của Thiên thượng. Cổ nhân quen dùng các ngôi sao biểu thị cho Thiên thượng, biểu thị Thần của Thiên thượng. Quan tinh khoa (quan sát các ngôi sao), chính là quan sát quy luật vận hành của Thiên thể, thuận theo Thiên ý mà bố trí (các sự việc) trên Trái Đất.

Kể từ triều đại Minh Thanh đến nay, cơn sốt phong thủy dâng cao, phong thủy được phổ cập rộng rãi trong dân gian. Vị thế của la bàn được những người yêu thích phong thủy đẩy lên rất cao, thậm chí nó còn trở thành vật tiêu biểu bậc nhất trong công việc phong thủy, kỳ thực, thầy phong thủy chân chính không cần dựa vào những công cụ này.

Người cổ đại ban đêm quan sát Thiên tượng, theo ghi chép quan sát tìm được tổng cộng 1.464 ngôi sao, căn cứ vào quan hệ đối ứng tương quan giữa những ngôi sao này mà chia thành “283 tinh quan”. Trên cơ sở này làm đơn giản hóa thêm, quy thành “Tam viên (3), Nhị thập bát tú” (4). Khái niệm “tinh quan” trong thiên văn học cổ đại Trung Quốc cũng tương tự như khái niệm “tinh tòa (chòm sao)” trong thiên văn học phương Tây hiện nay.

Vì trục của Trái Đất khi quay hướng về Sao Bắc Cực, cho nên từ Trái Đất mà nhìn thì các ngôi sao trên bầu trời đều xoay quanh Sao Bắc Cực, đông thăng hạ giáng (mọc ở hướng Đông, lặn ở hướng Tây). Do đó, người xưa lấy Sao Bắc Cực (Trung Quốc cổ đại gọi là Sao Tử Vi) làm trung tâm, từ đó phân chia các khu vực xung quanh thành “tam viên”, thượng viên là “Thái vi viên”, hạ viên là “Thiên thị viên”, còn trung viên là “Tử vi viên”. Bắc Cực và Bắc Đẩu thuộc về trung viên. Sau đó lại lấy chòm sao ở bốn hướng Đông Nam Tây Bắc gần hoàng đạo quy thành “tứ tượng” (5), hướng Đông Thanh Long, hướng Tây Bạch Hổ, hướng Nam Chu Tước, hướng Bắc Huyền Vũ. Mỗi “tượng” trong “tứ tượng” bao gồm bảy tinh tú (chòm sao ở phạm vi nhỏ hơn tinh quan), vì vậy tổng cộng lại có Nhị thập bát tú (28 tinh tú).

Người Trung Quốc cổ đại gọi năm hành tinh lớn là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong Thái Dương hệ, thêm vào Mặt Trời và Mặt Trăng, là thất tinh (bảy ngôi sao), thất diệu (vì Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, Minh Vương Tinh/Diêm Vương Tinh, mắt thịt của con người quan sát không thấy, cho nên không bao gồm bên trong). Tam viên, tứ tượng, thất diệu là cách phân loại trong thời Trung Quốc cổ đại đối với những tinh tượng (6) mà mắt người có thể nhìn thấy được. Quan tinh khoa, ý tứ bề mặt tức là quan sát quần tinh khắp bầu trời, nhưng cũng lại là lấy Sao Bắc Đẩu làm tọa độ thiên văn chính yếu để quan sát hệ quần tinh khắp bầu trời.

Vậy còn có thể tiếp tục chia nhỏ hơn nữa không? Có thể. Cũng có thể lấy Thái Dương hệ làm chỉ giới, đem tất cả các ngôi sao này quy tụ lại thành lưỡng bàn là nội, ngoại. Cần nói rõ rằng, có một số người định nghĩa thành hai tượng trong, ngoài. Nhưng trong bài viết này, suy xét về các mối quan hệ với bài trước và bài sau, tôi định nghĩa nó thành nội, ngoại lưỡng bàn. Kỳ thực gọi là “tượng” cũng được mà gọi là “bàn” cũng được, chỉ là bề mặt tên gọi không giống nhau còn thực chất thì nội hàm của nó là như nhau.

Bên ngoài Thái Dương hệ có tam viên tứ tượng, đây là ngoại bàn (bên ngoài đĩa). Đứng từ Trái Đất mà quan sát, các ngôi sao bên ngoài đĩa đều quay xung quanh Sao Bắc Cực, mỗi ngày đêm quay một vòng, thiên văn học hiện đại ngày nay gọi là chu kỳ chuyển động. Các hành tinh bên ngoài đĩa dù chuyển động đông thăng hạ giáng (mọc hướng Đông lặn hướng Tây) ở quanh Sao Bắc Cực nhưng vị trí tương đối của chúng là không thay đổi, giống như vạch chia độ của la bàn, mặc dù mặt số của la bàn đang quay nhưng tỷ lệ vạch chia trên đó là hằng định bất biến, vậy nên các ngôi sao bên ngoài đĩa được người Trung Quốc xưa gọi là “tú” (túc) hoặc “xá” hoặc “cung”, cũng chính là ý tứ chỉ về không gian cố định, cũng giống như một cung điện cố định được xây trên Thiên thượng, vì vậy phần bên ngoài đĩa bất biến là tĩnh, lấy Bắc Cực làm tôn chỉ. Trong các tiểu thuyết thần thoại, chúng ta thấy Ngọc Hoàng đại đế có cung nào đó, điện nào đó, thì chính là ý tứ như thế.

Thất diệu (bảy hành tinh gồm Sao Kim, Sao Mộc, Sao Thủy, Sao Hỏa, Sao Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng) trong hệ Mặt Trời, đứng ở Trái Đất mà quan sát thì thấy chúng không ngừng chuyển động. Vị trí giữa chúng không ngừng thay đổi, mỗi giây mỗi phút đều đang thay đổi, đang di động. Do đó phần nội bàn (phần bên trong của la bàn) (7) luôn thay đổi, là động.

Các nghiên cứu đã phát hiện rằng, Thái Âm tinh (Mặt Trăng) quay quanh Trái Đất một vòng 360 độ, khoảng chừng 28 ngày, cho nên 28 ngày là một chu thiên (chu kỳ hoặc vòng tuần hoàn vận chuyển) của Thái Âm (Mặt Trăng). Mà tứ tượng nhị thập bát tú ở bên ngoài Thái Dương hệ, nếu như giống với mặt đồng hồ (mặt la bàn) có 28 vạch chia, thì Mặt Trăng mỗi ngày đêm sẽ di chuyển một vạch, tức là Mặt Trăng mỗi đêm sẽ tiến nhập vào một tú (Hán tự: 宿, đọc là tú, túc, chòm sao, cũng có nghĩa là chỗ nghỉ ngơi, tá túc, chỗ dừng chân…), cho nên trong quá khứ gọi một đêm là một túc (cùng cách viết, khác cách đọc với tú).

Ngoài ra, Trấn Tinh (Thổ Tinh) quay quanh Mặt Trời một vòng mất khoảng 28 năm, cho nên một chu thiên của nó là 28 năm, mỗi năm tiến vào một tú. Mà Tuế Tinh (Sao Mộc) quay quanh Mặt Trời một vòng là 12 năm, cho nên một chu thiên của Tuế Tinh là 12 năm. Người xưa lấy 12 năm là một “kỷ”, tương ứng với 12 “địa chi” (12 con giáp) và 12 “sinh tiêu” (cung hoàng đạo). Vì vậy mà cổ nhân chia cung hoàng đạo thành 12 ô, lấy 28 tú đối ứng với danh sách 12 ô kia, gọi là 12 tinh thứ (8), đặt tên theo thứ tự là Tinh Kỉ, Nguyên Hiệu, Tưu Ty, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hoả, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hoả, Tích Mộ. Do đó, Tuế Tinh mỗi năm tiến nhập vào một tinh thứ, 12 năm là một kỷ hoặc một luân (một vòng). Sau đó, theo vị trí của Mặt Trời mà đi vào vị trí 12 tinh thứ, rồi lại lấy một năm phân thành 24 tiết khí.

Những phân chia này nhìn bề mặt thì khác nhau, kỳ thực trên căn bản là giống nhau, chỉ là phân chia vạch khắc khác nhau. Cũng giống như mặt số của chiếc đồng hồ, lúc chia vạch giờ, thì chia thành 12 ô, khi chia vạch phút, lại chia thành 60 ô. Cho dù chia thế nào, thì chỉ là biểu hiện thay đổi trên bề mặt, còn cơ chế bên trong nó là không đổi. Có nghĩa là, bất kể mặt đồng hồ được chia thành bao nhiêu ô, thì mối quan hệ đối ứng giữa các bánh răng bên trong nó vẫn không thay đổi.

Trên đây chỉ liệt kê đơn giản vòng tuần hoàn chu thiên vận chuyển của một số ngôi sao. Tương ứng với việc sử dụng la bàn của các thầy phong thủy, kỳ thực thì tinh tượng còn phức tạp hơn gấp bội, hình thức la bàn chỉ là biểu tượng, then chốt là nội hàm to lớn ẩn chứa phía sau mỗi vị trí, mỗi vạch chia cho đến mỗi lần vận chuyển của mặt la bàn, những nội hàm này là đại biểu cho thiên cơ, cho đến ảnh hưởng của những biến đổi vi tiểu nhưng lại khó thăm dò suy đoán. Đây chính là nội hàm của “quan tinh khoa”.

Phần ngoại bàn (7) không thay đổi, hình thức biểu hiện là tĩnh, mọi vị trí trên la bàn đều đại biểu cho nội hàm và Thiên ý của nó. Nội bàn chủ về “biến”, biểu hiện là động, tương đương với kim chỉ la bàn, mỗi kim chỉ đều có đối ứng của nó, ví như năm đại hành tinh là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, ở một ý nghĩa nào đó nó là đối ứng với Ngũ hành, đại biểu cho sự biến đổi của Ngũ hành sinh – khắc, còn Mặt Trời và Mặt Trăng ở một ý nghĩa nào đó là đại biểu cho sự phát triển và biến hóa của âm dương v.v.

Đương nhiên, đứng ở các góc độ và tầng thứ khác nhau, những tinh thần (tinh tú, ngôi sao) này đại biểu cho các nội hàm khác nhau, giống như trên cùng một chiếc đồng hồ, lấy ý nghĩa của vạch chia và kim chỉ thay đổi một chút, thì nó có thể được sử dụng như một chiếc đồng hồ thông thường để xác định thời gian, và cũng có thể được sử dụng để xác định phương hướng khi đi dã ngoại, hoặc có thể được sử dụng làm thời khóa biểu v.v… Vậy nên, Kỳ môn độn giáp và Tử vi khoa số sắp xếp các “bàn” theo cách khác nhau, bởi vì chúng đứng ở các góc độ và tầng thứ khác nhau, việc chọn lựa tinh tượng cũng khác nhau, ý nghĩa đại biểu của tinh tượng cũng không tương đồng, nhưng do cơ chế đằng sau nó không thay đổi, nên nếu như tính toán được chính xác, thì kết quả đại thể là giống nhau.

Cho nên “quan tinh khoa”, lớn, có thể nhìn thấy toàn bộ sự phát triển của xã hội, có thể nhìn thấy sự biến đổi của mấy trăm mấy nghìn năm sau; nhỏ, có thể nhìn được tình huống đường đời của mỗi cá nhân, có thể nhìn được vận mệnh của một đời người.

Những điều chứa đựng trong toàn bộ tinh tượng mà những tinh đẩu này hiển hiện có nội hàm to lớn, mà mỗi ngôi sao tự bản thân nó cũng có những nội hàm khác nhau, đối ứng với các thần vị khác nhau, đại biểu cho Thiên ý khác nhau; đối ứng với các địa huyệt và long mạch khác nhau trên mặt đất; cũng như có đối ứng với mạch lạc và huyệt vị trên thân thể con người.

Nói rộng hơn chút, những thay đổi bên ngoài như hành vi và tư tưởng của nhân loại chúng ta sẽ dẫn đến lục phủ ngũ tạng bên trong thân thể biến đổi tương ứng, đồng thời sẽ khiến cho mỗi tế bào bên trong thân thể sinh ra một số biến hóa vi tiểu. Bởi vì cơ thể người là một chỉnh thể hoàn chỉnh, giữa các bộ phận của thân thể có một mối quan hệ đối ứng tinh vi phức tạp, và có thể ảnh hưởng lẫn nhau.

Cũng giống như vậy, nếu vũ trụ này của chúng ta là một cơ thể sống, vậy thì “Ông” (chỉ vũ trụ) sẽ là một vị Thần cự đại, và “ý” của Ông cũng là ý của Thần, cũng chính là Thiên ý. Vậy những biến đổi trong tư tưởng của Ông cũng sẽ dẫn động sự biến đổi của tinh hệ (thiên hà) trong vũ trụ này, đồng thời cũng sẽ dẫn động những biến đổi của hệ Mặt Trời và nhân loại trên Trái Đất, bởi vì chúng ta đều là một bộ phận của Ông, là một chỉnh thể, có mối quan hệ đối ứng nội tại vô cùng tinh vi phức tạp với vũ trụ. Cho nên cổ nhân mới gọi thân thể người là một tiểu vũ trụ.

Toàn bộ các hành tinh, thiên hà hoặc cụm thiên hà địa phương (9), và các siêu cụm thiên hà (10) v.v., đều đang không ngừng tự chuyển động và xoay chuyển. Quỹ tích xoay chuyển của chúng được khoa học hiện đại gọi là quỹ đạo, còn Đạo gia của Trung Quốc gọi là chu thiên, nghĩa là mỗi tinh cầu đều có vận hành chu thiên riêng của nó.

Kỳ thực thì quỹ đạo này chính là một mạch lạc. Mạch lạc là mắt người nhìn không thấy nhưng nó vẫn đang tồn tại khách quan. Thân thể người có vô số mạch lạc, vô cùng rắc rối phức tạp, ví như khi đả thông hai mạch nhâm đốc thì chính là tuần hoàn tiểu chu thiên. Trên địa cầu cũng có vô số mạch lạc, gọi là long mạch, thủy mạch, cũng có tuần hoàn chu thiên. Vũ trụ giống như thế có vô số mạch lạc, kết nối tất cả các hành tinh và thiên hà với nhau, vô cùng rắc rối phức tạp và lại tinh vi vô tỉ, khiến các vị Thần cũng phải tán dương.

Có một mối liên hệ nội tại giữa các hành tinh trong vũ trụ, đó là phương ngang của mạch lạc chu thiên; chính là giống như giữa những dãy núi trên Trái Đất, giữa các cách cục (địa thế/bố cục khu vực) khác nhau có mối liên hệ ngang bằng bình đẳng như nhau, giống như giữa con người với con người trong xã hội nhân loại cũng có mối quan hệ bình đẳng như thế, loại quan hệ bình đẳng này trong con người được người hiện đại mở rộng ra gọi là “nhân mạch” (11), tính là một ý nghĩa khác của “nhân mạch”. Mà thiên hà trong vũ trụ cùng với long mạch trên Trái Đất, cho đến thân thể con người thế gian có một quan hệ đối ứng, loại quan hệ đối ứng này kỳ thực cũng là một chủng mạch lạc chu thiên, chẳng qua chúng chỉ là ẩn hình (vô hình) theo hướng dọc. Đương nhiên ở đây nói vô hình là dựa trên cơ điểm (cơ sở nhận thức quan điểm) của người thường để nói, đối với người tu luyện, đặc biệt là người đắc Đạo ở tầng thứ cao thì có lẽ là rất rõ ràng.

Huyệt vị chính là những nút thắt then chốt của mạch lạc, là nơi dòng năng lượng của mạch lạc vào ra, chủ trì việc vận hành năng lượng và công năng của một đoạn mạch lạc nào đó.

Cổ nhân giảng, Thiên Địa Nhân tam tài hợp nhất, là đối ứng một một với nhau. Thân thể người có mạch lạc, có huyệt vị, có lục phủ ngũ tạng, có tuần hoàn chu thiên, những điều này đối ứng với “đất”, trên đất cũng có mạch lạc (các loại long mạch và thủy mạch, v.v…), có tuần hoàn chu thiên, cũng có huyệt vị cho đến các vùng phong thủy bảo địa (vùng đất mà giới phong thủy coi như bảo vật, cũng gọi là vùng đất quý), cũng có lục phủ ngũ tạng. Lại đối ứng với Thiên thượng, cũng có Thiên mạch và Thiên huyệt, Thiên mạch chính là các chu thiên khác nhau, còn Thiên huyệt thì chính là các tinh vị (vị trí của các tinh cầu/ngôi sao) quan trọng trong đó, các tinh vị khác nhau đại biểu cho các Thần vị khác nhau. Nói một cách đơn giản, các Thiên mạch, Thiên huyệt khác nhau liên kết đối ứng với các ngôi sao, các chòm sao khác nhau, đối ứng với các Thần linh, Thần vị khác nhau, đại biểu cho Thần ý và Thiên ý; đồng thời đối ứng với long mạch, địa huyệt khác nhau, và nhân mạch, huyệt vị khác nhau. Cho nên, sự vận hành của Thiên tượng có ảnh hưởng đối ứng với những vận hành trên Trái Đất, và cũng ảnh hưởng đối ứng đến sự biến đổi của nhân loại. Các loại đối ứng hợp nhất theo hướng ngang, hướng dọc, hữu hình, vô hình này chính là tạo thành bộ phận phối hợp chuyển động hoàn chỉnh của toàn vũ trụ.

Con người hiện nay có một cách nói gọi là “địa vị”, dùng để chỉ vị trí của một người trong xã hội. Khi đề cập đến “nhân mạch” ở bên trên chúng tôi đã nói, mối liên hệ ngang hàng giữa người với người hình thành một quần thể cộng sinh, cũng chính là cái mà chúng ta hiện nay nói là “xã hội”. Xã hội cũng có mạch lạc, và “duyên” là một loại mạch lạc như vậy, được gọi chung là nhân mạch. Mỗi cá nhân có thể được coi là “xã hội”, là một điểm, một phần tử, một tế bào trong nhân mạch phức tạp này.

Còn những nhân vật quan trọng, những nhân vật lớn có ảnh hưởng xã hội, chính là một huyệt vị khác nhau trên nhân mạch này. Họ đối ứng với các địa huyệt có cấp bậc khác nhau, đồng thời có đối ứng với “Thiên thượng”, cho nên cũng đối ứng với các Thiên huyệt khác nhau, tức là các tinh vị khác nhau. Vậy nên trong quá khứ cổ nhân thường nói là người này là ngôi sao nào đó từ Thiên thượng hạ thế xuống đây, là Sao Văn Khúc hạ thế v.v…, là cũng có tầng ý nghĩa này ở bên trong.

Cho nên trong phong thủy có câu nói “Nhất lưu tiên sinh quan tinh khoa”, cũng tức là quan sát Thiên tượng có thể dự đoán được sự phát triển của xã hội, thấy được sự biến đổi của nhân loại mấy trăm mấy nghìn năm sau, đây là loại trí huệ cao hơn, siêu việt rất xa nhận thức của khoa học hiện đại, kỳ thực là cổ nhân có trí huệ cao hơn rất nhiều so với con người hiện nay. Trong giới khoa học có cách nói, gọi là “khởi điểm chính là tối cao điểm” (tạm dịch rằng: điểm bắt đầu chính là điểm cao nhất), ý tứ là thế nào đây? Nói đơn giản là: Văn minh nhân loại thời kỳ sơ khai nhất chính là thời kỳ có trình độ khoa học và đạo đức ở mức cao nhất, càng về sau càng trượt xuống. Người cổ đại không có phi cơ, nhưng họ có thể trực tiếp từ đả tọa mà nâng người lên, và bay bất cứ nơi nào họ muốn; người cổ đại không có điện thoại di động, nhưng họ có thể trực tiếp từ truyền cảm tư duy mà tiếp nhận được, bất kể là cách xa bao nhiêu, thậm chí là không ở trong cùng một thời không cũng vẫn có thể truyền đạt được, khoa học hiện đại có làm được không?

Bởi vì việc quan trắc tinh tượng và người quan trắc trong khu vực đó là có mối liên quan với nhau, đứng ở phương Tây và đứng ở vùng đất Trung Hoa đại địa, thì bầu trời sao nhìn được hoàn toàn không giống nhau, ví như bầu trời sao ở khu vực Nam Cực thì người ở khu vực Trung Hoa là vĩnh viễn nhìn không thấy, nhưng người ở khu vực Nam bán cầu lại có thể nhìn thấy được, cho nên “tinh tượng” kia là không có liên quan với chúng ta, là thuộc về những thể hệ khác nhau.

Chú thích theo hiểu biết của người dịch:

(1) Chu Thành Vương (周成王); 1065-1020 TCN, là vị Thiên tử thứ hai của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 21 năm, từ năm 1042 TCN đến năm 1021 TCN. Thành Vương kế vị khi mới 13 tuổi, Chu Công Đán được Chu Vũ Vương Cơ Phát phó thác làm nhiếp chính giúp Thành Vương lên ngôi trị quốc. Có một câu chuyện xảy ra trong cuộc đời Chu Thành Vương, khiến ông ghi nhớ kỹ suốt đời như sau: Thuở còn nhỏ, một lần, Chu Thành Vương cùng em trai Thúc Ngu chơi ở dưới gốc cây ngô đồng (cây vông) sau hoàng cung. Chu Thành Vương cắt một chiếc lá ngô đồng thành hình viên ngọc và đưa cho em trai, nói: “Anh dùng cái này phong tước cho em”. Chu Công nghe thấy lời ấy, liền tiến đến bái kiến và nói: “Đại vương phong tước cho em trai, thật là việc tốt!” Chu Thành Vương nói: “Ta chẳng qua chỉ là đang chơi đùa một chút với em mà thôi!” Chu Công nghiêm túc nói: “Thiên tử không thể nói đùa, Thiên tử nói gì, người chép sử ghi lại thế ấy, nhạc công hát thế ấy, đại thần truyền bá thế ấy. Thiên tử đã nói là nhất định phải làm”. Vì thế, Chu Thành Vương đã phong cho em trai làm Ứng hầu. Sự việc này thực sự đã làm cho Chu Thành Vương ghi nhớ suốt đời. Cho đến tận lúc băng hà, Chu Thành Vương cũng vẫn nhớ kỹ: Trước khi nói lời phải suy ngẫm kỹ càng, lời nói của vua là không thể bông đùa, phải thực sự nghiêm túc, có trách nhiệm với lời nói của mình, nói lời phải giữ chữ tín. Đây cũng là điển cố nổi tiếng “Đồng diệp phong đệ”.

(2) Triển cáo: Chỉ về các tài liệu được chỉ định hoặc ban tặng bởi các vị Hoàng đế. Vì vậy, triển cáo giống như một dạng chiếu chỉ do các Hoàng đế cổ đại ban ra và được các hoạn quan mở ra đọc cho ai được ban triển cáo. Đó là một loại ân sủng của Hoàng đế. Nhìn thấy phía sau huyệt vị là hai ngọn núi lớn giao nhau dự báo là điềm lành vậy, giống như được “tiếp chỉ”, tiếp thu pháp tắc, có thể được phong tước, trở thành Chúa cai trị một vùng nào đó, vinh dự vô cùng. Nếu nhìn tổng thể một khu vực nơi hai ngọn núi sát nhau, ở giữa có vùng lõm mà bằng phẳng, đó là triển cáo lớn, rất có giá trị. Núi đó làm long tổ thì tôn quý. Núi đó là núi chầu tất có quan cao, hưởng lộc.

(3) Tam viên (三垣): tinh (星) chỉ tinh tú, ngôi sao; tinh quan (星官): chòm sao. Người cổ đại chia các ngôi sao trên bầu trời rộng lớn thành ba khu vực, chữ Viên (垣), trong Hán tự nghĩa là bức tường thành quây lại, các ngôi sao trong một khu vực chụm lại với nhau gọi là một viên, mỗi viên có nhiều chòm sao gồm: Tử vi viên (39 tinh quan), Thái vi viên (24 tinh quan) và Thiên thị viên (19 tinh quan), mỗi tinh quan có từ một đến hơn một chục ngôi sao.

(4) Nhị thập bát tú (二十八宿)): Thống kê này được cho là ra đời từ thời Chiến Quốc, năm 400 TCN. Người xưa quan sát sự di chuyển của các chòm sao, khi Mặt Trăng chuyển động ban đêm và Mặt Trời chuyển động ban ngày theo một quỹ đạo nhất định, dải nằm giữa con đường này tạo thành một hệ thống 28 chòm sao. Tú (宿): Hán tự chỉ về ngôi nhà, chỗ ở, chỗ trú ngụ… vậy nên, mỗi chòm sao quây tụ lại một khu nhất định gọi là một tú (宿).

(5) Tứ tượng (四象): Hay còn gọi là Thiên chi Tứ Linh, Tứ Thần, Tứ Thánh, gồm bốn chòm sao được đặt tên theo bốn thần thú Thanh Long (hướng Đông), Bạch Hổ (hướng Tây), Chu Tước (hướng Nam), Huyền Vũ (hướng Bắc), mỗi thần thú gắn liền với một phương, một màu sắc chính, và đại diện cho một mùa trong năm… Ngọn núi có thế triều bái, tạm hiểu là núi chầu.

(6) Tinh tượng: các hiện tượng, hình thái vận hành biến thiên của các ngôi sao. Nội bàn và ngoại bàn (của la bàn): Nội bàn là bộ phận chính cấu thành nên la bàn, là mặt của la bàn, có hình tròn, được phân thành nhiều vòng và khắc những nội dung của la bàn. Nội bàn có thể chuyển động. Ngoại bàn: Là bộ phận bao quanh bên ngoài nội bàn, có tác dụng như một khay đỡ và bảo vệ nội bàn, có hình vuông. Trên ngoại bàn không có chữ, đặc điểm này khác với loại thức bàn đời nhà Hán. Có một số loại la bàn không có ngoại bàn, nhất là những chiếc la bàn sản xuất trong nội địa Trung Quốc. Phần lớn những chiếc la bàn có bộ phận ngoại bàn đều là la bàn cận hiện đại được sản xuất ở Đài Loan và Hồng Kông.

(7) Tinh thứ: Còn gọi là Nguyệt tướng, là thứ tự, vị trí của các ngôi sao trong cung hoàng đạo, có 12 Thần cai quản 12 tháng trong năm (theo Lục Nhâm Đại Độn). Nguyệt tướng dựa vào tiết khí và vị trí của Mặt Trăng. Nhật triền là chỉ sự vận hành của Mặt Trời. Trong đó:

Hợi là Thú Tử, hay còn gọi là Tưu Ty sau Vũ thủy. Tháng 1.

Tuất là Giáng Lâu sau Xuân phân. Tháng 2.

Dậu là Đại Lương sau Cốc vũ. Tháng 3.

Thân là Thực Trầm sau Tiểu mãn. Tháng 4.

Mùi là Thuần Thủ sau Hạ chí, Tháng 5.

Ngọ là Thuần Hỏa sau Đại thử. Tháng 6.

Tỵ là Thuần Vỹ sau Xử thử. Tháng 7.

Thìn là Thọ Tinh sau Thu phân. Tháng 8.

Mão là Đại Hỏa sau Sương giáng. Tháng 9.

Dần là Tích Mộc sau Tiểu tuyết. Tháng 10.

Sửu là Tinh Kỷ sau Đông chí. Tháng 11.

Tý là Huyền Hiêu hay còn gọi là Nguyên Hiêu sau Đại hàn. Tháng 12.

(8) Quần tụ thiên hà địa phương hay còn gọi là cụm thiên hà địa phương, nơi có dải Ngân Hà trong đó có địa cầu mà chúng ta đang trú ngụ, là một tập hợp của nhiều thiên hà gần nhau, là cấu trúc liên kết hấp dẫn lớn nhất được biết đến trong vũ trụ cho đến thập niên 1980, trước khi siêu cụm thiên hà được phát hiện. Kích thước của quần tụ thiên hà có thể từ năm triệu năm đến hàng tỉ năm ánh sáng. Quần tụ thiên hà địa phương này của chúng ta gồm ba thiên hà xoắn ốc là Ngân Hà, thiên hà Andromeda (thiên hà Tiên Nữ M31) và thiên hà M33. Dải Ngân Hà của chúng ta (thiên hà Milky Way) có khoảng 100 tỉ ngôi sao. Mỗi quần tụ thiên hà chứa từ 100 – 1000 thiên hà.

(9) Siêu cụm thiên hà: còn gọi là “phức hợp siêu thiên hà” hay “siêu đám thiên hà”, là những cấu trúc khổng lồ bao gồm các quần tụ thiên hà và các nhóm thiên hà trong cấu trúc vũ trụ quy mô lớn. Với kích thước khổng lồ của siêu đám, các thành viên trong đó không phải liên kết ràng buộc với nhau bằng lực hấp dẫn.

(10) Siêu cụm thiên hà trải rộng trong khoảng ít nhất 10 tỉ năm đến 91 tỉ năm ánh sáng (tính ra km thì quãng đường của một năm ánh sáng khoảng một vạn tỉ km). Các nhà khoa học ước tính có khoảng 10 triệu cụm siêu thiên hà như vậy tương đương khoảng 200.000 tỉ tỉ ngôi sao trên toàn vũ trụ này. Thậm chí con số này vẫn còn quá nhỏ, bởi chúng ta sẽ còn phát hiện thêm nhiều thiên hà nữa nếu công nghệ thám không phát triển hơn trong tương lai.

(*) Trong tiếng Trung là chỉ các mối quan hệ xã hội của con người, ví dụ một người có các mối quan hệ xã hội rất rộng thì họ gọi là người này có “nhân mạch” rất rộng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/282801

The post Khám phá phong thủy (9): La bàn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (8): Đặc điểm ngoại hình của phú quý địa và các chủng loại địa huyệthttps://chanhkien.org/2023/04/kham-pha-phong-thuy-7-dac-diem-ngoai-hinh-cua-phu-quy-dia-va-cac-chung-loai-dia-huyet.htmlMon, 10 Apr 2023 04:44:41 +0000https://chanhkien.org/?p=29869[ChanhKien.org] Phú Trước đây chúng tôi đã từng đề cập rằng địa huyệt thực sự cũng là phải có “hình”, “thần” đầy đủ, trong phần này chúng tôi sẽ tập trung thảo luận về đặc điểm ngoại hình của các loại địa huyệt. Con người hiện đại, đặc biệt là những người ở Trung Quốc […]

The post Khám phá phong thủy (8): Đặc điểm ngoại hình của phú quý địa và các chủng loại địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Phú

Trước đây chúng tôi đã từng đề cập rằng địa huyệt thực sự cũng là phải có “hình”, “thần” đầy đủ, trong phần này chúng tôi sẽ tập trung thảo luận về đặc điểm ngoại hình của các loại địa huyệt.

Con người hiện đại, đặc biệt là những người ở Trung Quốc đại lục, dưới sự dẫn dắt có chủ đích của ĐCSTQ, ai ai cũng nhìn vào tiền, không có tiền thì không còn gì là thực tế nữa, cái gì cũng không quan trọng bằng tiền. Vậy chúng tôi sẽ từ góc độ phong thủy mà giảng một chút về phú quý của con người.

Như chúng tôi đã đề cập trước đây, “phú” và “quý” là những khái niệm khác nhau và trong phong thủy, nó cũng có sự khác biệt. Trong phong thủy, một huyệt vị có thể dẫn đến việc hậu nhân phát “phú” hay không thì then chốt là xem về “thủy”, tục ngữ có câu: “Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài” (tạm dịch: “Núi quản về con người (nhân lực có dồi dào hay không), nước quản về tiền tài gia sản). Nước đầu nguồn mà bản thân huyệt chỗ ngọn núi mang theo, sông suối ao hồ trong Minh Đường (1), mực nước lớn nhỏ, vào ra, trong đục cho đến ngọt chát, v.v. Trong phong thủy có một cách nói gọi là “thuỷ pháp”, ý tứ là thông qua thủy mà tầm long điểm huyệt, để xác định tình huống của huyệt vị. Có một kinh nghiệm ở đây, huyệt vị ở trên long mạch thông thường đều ở phạm vi hình tròn đường kính 100 mét ở chỗ nước xuất ra ở đầu nguồn nước, 100 mét này là chỉ cự ly theo đường thẳng.

Nước đầu nguồn thông thường là đại biểu cho gia sản được thừa kế từ gia tộc, hoặc gia sản thông qua thế lực của gia tộc mà thu được; các phép tắc của “thủy” như sông suối ao hồ trong “cách cục” là đại biểu cho tài phú một đời thu được của người xuất ra từ chỗ huyệt vị đó, thủy càng lớn càng nhiều đại biểu cho việc kiểm soát nắm giữ tài phú càng nhiều; thủy thanh lương thuần khiết đại biểu rằng nguồn gốc của tài sản là chính đáng, là do bản thân nỗ lực vất vả mà kiếm được; thủy vẩn đục tất là đại biểu rằng nguồn gốc tài sản của cải là bất chính, ví như thu nhập mờ ám, tham ô hủ bại, v.v… loại tài phú này sẽ nhanh chóng tiêu hao phúc đức bản thân để trao đổi, phúc đức tiêu hao cạn kiệt rồi thì của cải tài phú cũng tự nhiên tiêu tán hết; nước có vị ngọt, đặc biệt là nước đầu nguồn là nước ngọt, chứng tỏ người này tấm lòng thiện lương thuần tịnh, sẵn sàng giúp đỡ người khác; nước có vị chát cho thấy người này có đặc điểm hơi keo kiệt, khó buông xả tiền tài…

Quý

“Quý” thì phải xem ở núi. Núi Tổ (núi chính, tổ tiên) cao lớn dựa vào được, Lai Long (long mạch chính) uốn lượn nhấp nhô, nó đại biểu rằng thế lực của gia tộc này hùng mạnh; có một ngọn án sơn(2) trong Minh Đường, hình dạng giống cái bàn dài, cái giá bút hoặc cái ấn (triện), ý chỉ về quyền thế; ngoại đường cục (bố cục bên ngoài) có rất nhiều triều sơn (ngọn núi có hình thế triều bái, tạm hiểu là núi chầu), hơn nữa còn là nhiều chủng loại, ý chỉ thủ hạ có các loại nhân tài; nội đường cục (bố cục bên trong) có những tảng đá lớn hoặc tảng đá hình thù kỳ quái, hình dạng giống trạng thái hộ vệ, ý chỉ là bên thân có những người thân cận, địa vị không nhất định cao nhưng là người đắc lực (đảm đương các việc quan trọng, là người được việc) và giữ vị trí trọng yếu, còn phải có thanh long bạch hổ cũng cần phù hợp với phương pháp của phong thủy. Bên trái huyệt vị có nhiều ngọn núi tạo thành thanh long linh hoạt nhào lộn, ám chỉ văn thần (quan văn); bên phải có nhiều ngọn núi tạo thành bạch hổ ám chỉ võ tướng. Bạch hổ so với thanh long cần thấp hơn, mà hơn nữa cần phải đầu quay hướng về phía huyệt vị, bằng không sẽ có tướng phản nghịch trong đó… Đây là lấy “quý” làm đặc điểm để phân tích ví dụ cho toàn bộ cách cục của huyệt vị, huyệt vị có đặc điểm khác nhau thì các cách cục được nêu ở trên sẽ có ngụ ý chỉ khác nhau.

Căn cứ theo kinh nghiệm cá nhân, những huyệt vị đại biểu cho “quý”, đặc biệt là loại “địa (huyệt)” Thiên tử, sản sinh ra đại địa Hoàng đế của một Hoàng triều, khi bạn đứng chỗ huyệt vị đó dùng tâm cảm thụ, hướng mắt quan sát tứ phương, mới cảm thụ được cảm giác của sức sống mạnh mẽ, cao quý và mênh mang của nó. Đây là một loại cảm giác vô hình, đồng thời cũng là một trường do đặc điểm bên ngoài của huyệt vị xung phát ra tạo thành, giống như mỗi người đều có khí chất riêng của mình vậy, có một số người mà chỉ cần nhìn qua ngôn đàm cử chỉ của họ là bạn đã cảm nhận được họ có xuất thân cao quý.

Bất kể là Đông hay Tây phương, thời cổ đại đều có quý tộc, có những tước vị như “Bá tước công hầu”… Vì sao gọi là quý tộc? Đây không phải là giống như tư tưởng danh lợi quyền thế biến dị của con người hiện đại nhận thức về khái niệm thứ bậc đẳng cấp, đó là cách nói khuấy động nhân tâm dưới sự dẫn dắt của lý luận tạo phản, lý luận cách mạng. Kỳ thực, nguyên nhân căn bản nhất là để chỉ cá nhân này có tố chất đạo đức cao, tâm hồn cao quý, làm người, làm việc đều chiểu theo tiêu chuẩn cao quý mà làm. Ví như người Trung Quốc hiện đại rất quen thuộc với các hiệp sĩ phương Tây, họ chính là quý tộc và chiểu theo các quy tắc hiệp sĩ của vua Arthur mà hành xử:

Tôi đặt thanh kiếm của mình trước Chúa, tôi lấy sinh mệnh và linh hồn của tôi phát thệ

Tôi sẽ ghi nhớ: khiêm nhường, danh dự, hy sinh, dũng cảm, nhân từ, tinh thần, trung thực, công chính

Khiêm nhường(Humility)

Nếu bạn là một hiệp sĩ, khi đối diện với người không mang ác ý thì đều phải nên khiêm hòa lễ độ.

Danh dự (Honor)

Mọi người chú ý đến bạn, các vị Thần cũng như vậy, là hiệp sĩ, bạn không được lười biếng dù chỉ là một chút. Trân trọng và hơn nữa cần giữ gìn danh dự của bạn!

Sự hy sinh (Sacrifice)

Hãy để chúng tôi bày tỏ sự kính trọng đến những dũng sĩ kia. Bày tỏ lễ nghi và lòng kính trọng đối với tinh thần sẵn sàng hy sinh bản thân kia của họ.

Dũng cảm (Valor)

Không còn nghi ngờ gì, những kẻ hèn nhát không xứng đáng với danh hiệu hiệp sĩ cao quý. Kẻ không có dũng khí căn bản là không cách nào vượt qua bài khảo thí của một hiệp sĩ. Một trong những phẩm đức cần thiết của hiệp sĩ là sự dũng cảm, không sợ hãi khi tuyên chiến với tà ác, vào những thời khắc then chốt dám đứng lên bảo vệ kẻ yếu nhất định không chịu lùi bước.

Nhân từ (Compassion)

Đối với những đối thủ dũng cảm hy sinh, trong tâm các hiệp sĩ tràn đầy tình cảm tôn kính, điều này khiến họ dám chống lại vương lệnh. Có cách nói “Anh hùng quý tiếc anh hùng”, trong lúc hai người bị bức bách bởi thế cuộc mà bất đắc dĩ trở thành đối thủ nhưng tình hữu nghị của họ còn lớn hơn lòng thù hận.

Tinh thần (Spirituality)

Mọi người biết rằng hiệp sĩ và tín ngưỡng có mối quan hệ không thể tách rời, đối với lựa chọn công việc của hiệp sĩ, thì những lĩnh hội đối với tín ngưỡng và chỉ dụ của Thần đều không thể xao nhãng một điểm nào.

Trung thực(Honesty)

Hiệp sĩ, nếu muốn giành được sự tín nhiệm từ người khác thì phải thành thật, trung thực. Thản nhiên đối diện với tâm hồn của bản thân, cần phải trải qua được những thẩm vấn của Thần.

Sự công chính(Justice)

Công chính vô tư, giữ nghiêm luật pháp, chiểu theo các quy tắc khi làm việc.

Tôi thề sẽ thiện đãi kẻ yếu đuối

Tôi thề sẽ dũng cảm chống lại cường bạo

Tôi thề sẽ chiến đấu chống lại mọi sai trái

Tôi thề sẽ chiến đấu cho những người tay không tấc sắt (người không có khả năng tự vệ)

Tôi thề sẽ trợ giúp bất cứ ai nhờ tôi giúp đỡ

Tôi thề sẽ không làm tổn thương bất kỳ người phụ nữ nào

Tôi thề sẽ trợ giúp anh em hiệp sĩ của tôi

Tôi thề sẽ chân thành đối đãi với bằng hữu của tôi

Tôi thề sẽ không thay đổi đối với tình yêu của mình cho đến chết

Mọi người thử nghĩ xem, nếu như một người có thể chiểu theo những tiêu chuẩn này mà hành xử, thì người đó có phải là quý tộc không? Vô luận là anh ta có được phong tặng tước vị thế gian hay không thì anh ta vẫn là một nhà quý tộc. Ngược lại, nếu bạn không đáp ứng được những tiêu chuẩn này, thì cho dù bạn có bất kỳ danh xưng tước vị nào, bạn cũng không xứng đáng là một nhà quý tộc.

Ở Trung Quốc cổ đại cũng có những tiêu chuẩn tương ứng, chẳng hạn như người quân tử được giảng trong Nho giáo, đó chính là một tiêu chuẩn. Người quân tử phải có đầy đủ các đức hạnh phù hợp là Trí Nhân Dũng, chỗ gọi là “Nhân giả bất ưu (kẻ hhân nghĩa không lo âu), trí giả bất hoặc (kẻ trí không còn nghi hoặc), dũng giả bất cụ (kẻ dũng cảm không sợ hãi)”, đây là tiêu chuẩn được định ra bởi Khổng Tử và Nho gia. Trong thời đại Hạ, Thương, Chu thì tiêu chuẩn người quân tử này thậm chí còn yêu cầu cao hơn, một người quân tử cần phải không ngừng tu chính bản thân để luôn luôn đáp ứng được các yêu cầu đạo lý của các tầng trời cao hơn nữa, chỗ mà gọi là “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, tạm dịch rằng: “Trời vận động mạnh mẽ, người quân tử nên phải cố gắng không ngừng nghỉ”.

Chúng tôi trước đây cũng đã đề cập về các triều đại của Trung Quốc đã có rất nhiều triều đại đã sử dụng các bộ phận của thể hệ thiên địa, cho nên đối với việc phong tước cho quý tộc cũng không phải là việc có thể làm tùy tiện, đó là căn cứ theo phẩm chất đạo đức và công lao thành tích để đo lường. Thông thường mà nói, chỉ người có phẩm chất đạo đức cao, chỉ những người có tư cách đạo đức cao mới có thể lập được những công lao thành tựu to lớn hữu ích cho nước cho dân, và mới có thể được phong là quý tộc.

Huyệt động

Thường khi chúng tôi ra những vùng ngoại ô du ngoạn, nhìn thấy rất nhiều các chủng loại sơn động trên những ngọn núi lớn. Nói về sơn động, Trung Quốc thực sự là một quốc gia giàu văn hóa hang động. Chúng ta thường thấy khái niệm về “động phủ” (nhà ở trong hang động, là nơi ở của những người tu luyện hoặc những vị Tiên) trong tiểu thuyết hoặc trong văn hóa cổ đại Trung Quốc.

Trước đây đã từng nói về phúc địa thiên động, đó là sự thực, người tu Đạo dù đi đến động nào, thông thường là khi tu luyện trong sơn động nào đó từ lưng chừng cho đến đỉnh núi thì họ sẽ quanh năm suốt tháng ở tại đó, tùy theo tầng thứ và công phu tu luyện đề cao thì dần dần chỗ mà không gian khác đối ứng với sơn động đó sẽ liên thông với nhau, sẽ có thể tiến nhập vào chỗ đối ứng với sơn động đó ở không gian khác, đó là một thế giới khác, cho nên chỗ đó được gọi là phúc địa thiên động. Trong Phong Thần Diễn Nghĩa có nói về vị Tiên nào ở động nào thuộc núi nào đó có thể chính là những khái niệm dạng này.

Thông thường, những người tu luyện này đi đến động nào đều là đã có an bài rồi, ví như có sư phụ nói cho biết hoặc có dấu hiệu dự báo, đến đó thì họ có thể biết, ồ, đây chính là nơi tôi muốn tu luyện đây, từ cao tầng hơn mà giảng, hoặc có lẽ bản nguyên tiên thiên của người tu luyện này chính là sinh mệnh tại không gian cao tầng mà cái huyệt vị kia đối ứng, và anh ta chỉ bất quá là đến đúng chỗ vốn là một thể hệ cư ngụ của chính bản thân mình mà thôi.

Rất nhiều người tu Đạo sau khi tu xuất ra công phu cao, họ đã dùng công năng để phong bế sơn động lại, người ngoài không thể nhìn ra sự khác thường. Có những người công phu cao lúc đi trên đường, họ có thể dùng một loại như công năng truyền cảm tư duy để chào bạn, kết nối với bạn. Bởi vì một người có phải tu Đạo hay không, có công phu hay không, thì nhìn là biết, ví dụ như nhìn ánh sáng trên thân thể bạn, đỏ cam vàng lục lam chàm tím, vừa nhìn màu sắc ánh sáng phát ra trên thân thể bạn thì liền biết được tầng thứ của bạn ở đâu.

Ví như có một lần chúng tôi đi vào một ngọn núi lớn để du ngoạn, gần đỉnh ngọn núi có một vách đá trắng lớn, sau đó từ vách đá kia truyền đến một tín tức, là dùng sóng tư duy truyền cảm qua để giao lưu cùng chúng tôi. Hóa ra trên vách đá trắng đó có một cái sơn động, vào thời nhà Minh, đệ tử của Lưu Bá Ôn tu luyện trong đó, ông ấy dùng công năng phong bế sơn động lại, cho nên người thông thường căn bản là không nhìn thấy sơn động, chỉ có thể nhìn thấy một vách đá trắng.

Khi chúng tôi đi ngang qua phía bên dưới, ông ấy khi nhìn thấy chúng tôi là những người tu luyện chính pháp môn và có đạo hạnh nhất định thì rất cao hứng, vì vậy ông ấy đã chào đón và trò chuyện với chúng tôi, đồng thời còn kể cho chúng tôi rất nhiều sự việc lúc đương thời của Lưu Bá Ôn. Ví dụ như Lưu Bá Ôn biết triều Minh là đối ứng với thiên tượng mà xuất hiện, mà hơn nữa trong tất cả các anh hùng trong thiên hạ thì chỉ có Chu Nguyên Chương mới là chân mệnh thiên tử, vì vậy nên lúc đó Chu Nguyên Chương đã mời ông ấy dẫn theo đệ tử xuống núi để hiệp trợ cho. Ngoài việc Chu Nguyên Chương phái các đại tướng đi chinh phạt thì Lưu Bá Ôn cũng sẽ phái xuất các đệ tử tương ứng của mình đi theo, ở trong con người thế gian khi hai đội quân đang giao chiến thì các đệ tử của Lưu Bá Ôn cũng sẽ sử dụng công năng thần thông để hiệp trợ cho, cả hai bên thực sự là thi triển các loại bản sự, đấu pháp, thông thường là đấu pháp giữa những người tu Đạo hai bên sẽ phân định thắng thua trước, sau đó cuộc đối đầu giữa quân đội hai bên trong con người thế gian mới có thể phân định ra thắng thua tương ứng.

Sau này, sau khi nhà Minh thành lập, Lưu Bá Ôn cũng không phải là bị bức hại chết, khi cuộc đàn áp đến, Lưu Bá Ôn biết rằng những sự việc bản thân cần làm nơi con người thế gian đã hoàn thành, gọi là công đức viên mãn, nên là lợi dụng cơ hội này, lấy cách nói trong Đạo gia gọi là “giả chết” để rời khỏi thế gian con người. Với toàn bộ các đệ tử thì trước khi giải tán ông đều để họ tự mình tìm nơi tu hành, và không tái xuất ở thế gian nữa.

Những gì vừa nói đến là những sơn động từ lưng chừng núi trở lên hoặc trên đỉnh núi, còn những sơn động xuất hiện dưới chân núi những ngọn núi lớn thì rất nhiều là những động phủ mà yêu ma cư trú, yêu ma thích cư trú ở những nơi âm ám ẩm thấp, và tầng thứ cũng thấp, căn bản là chúng không cách nào so sánh với những người tu Đạo tu luyện chính pháp môn, cho nên thường cư trú trong những động ở dưới chân những ngọn núi. Ở khu vực Tây Nam của Vân Nam – Quý Châu những động phủ yêu ma loại này có tương đối nhiều.

Là huyệt động dưới góc độ phong thủy mà nói, thì không lớn như các động phủ dùng để cư trú. Hơn nữa, lúc “điểm huyệt” (chỉ điểm huyệt mộ) để an táng, có một số là ở ngay miệng huyệt động, cho nên không thể hoàn toàn đem huyệt động phong bế lại, việc này sẽ làm cản trở sự lưu thông của “khí”, một số cần được đặt sâu trong huyệt động, thậm chí là những nơi mà con người căn bản không đi vào được. Nơi đối ứng với Tưởng Giới Thạch mà chúng tôi tiếp xúc chính là một huyệt động ở núi Quy Hình (núi hình con rùa), vừa đúng nằm ở miệng con rùa, miệng động rất nhỏ, con người căn bản không đi vào được, nhưng vị trí huyệt này ở trong sơn phúc (phần bụng núi), mà hơn nữa “khí” lại là từ huyệt động ở miệng rùa mà lưu thông. Vậy làm thế nào mà đặt được vào điểm huyệt này? Thông qua công năng nhìn được thì đại khái là một đệ tử của Trương Tam Phong vào những năm hồng thế Minh triều (những năm thịnh vượng của nhà Minh), vì đắc được chân truyền phong thủy Võ Đang của một người tu Đạo nên đã dùng công năng thần thông “kêu” ra được Địa Linh Thần là một con rùa lớn, do đó mà kéo được vật táng tiến nhập vào bụng của sơn động.

Uy lực của con rùa thần này rất mạnh mẽ, đặc điểm bản thân của con rùa bí ẩn này là có khả năng gánh vác sức nặng mạnh mẽ, vì cớ đó mà lực lượng của nó rất thâm hậu và lâu dài, điều này khiến cho Tưởng Giới Thạch dù cả đời trải qua trùng trùng ngăn trở và ma nạn, lại có thể ở trong thời cuộc chiến tranh hỗn loạn mà đánh bại quần hùng, thống nhất Trung Quốc, mà hơn nữa lúc đó còn có khả năng chống cự đội quân xâm lược Nhật Bản hùng mạnh và cuối cùng đánh bại Nhật Bản. Rùa thần rất không chịu phục khi đội quân của Tưởng Giới Thạch bị Trung Cộng đánh bại và rút lui về Đài Loan. Cho rằng bản thân có hai huyệt vị lớn ở miệng rùa và lưng rùa, chỉ vì Thiên ý an bài, nên chỉ có thể dùng lực lượng huyệt động ở miệng rùa, cho nên sau khi tiêu hao để thống nhất Trung Quốc và đánh bại Nhật Bản xâm lược, thì lực lượng đã suy yếu nghiêm trọng không đủ mạnh nữa, cho nên không thể đủ sức đối phó với Trung Cộng khi ấy đang được Liên Xô toàn lực giúp đỡ, bằng không thì Trung Cộng cũng không thể xoay chuyển được ý trời. Mặc dù như vậy, do đặc điểm của con rùa bí ẩn này mà cuối cùng cũng đã có thể thoái về thủ giữ Đài Loan, an hưởng tuổi già, lưu lại môi trường để giữ gìn văn hóa truyền thống Trung Hoa.

Khi ấy rùa thần nói:

Lưng rùa tuy có thể chống đỡ cả thiên hạ

Miệng rùa cũng có thể nuốt trọn tám phương

Nếu như cả hai huyệt vị cùng khởi xuất

Càn khôn sẽ được toạ định (đứng yên) mà không thể bị đảo lộn rồi

Trong đại kiếp nạn năm 1999, rùa thần cũng bị thế lực tà ác bức hại, đối ứng với thế gian con người là việc những ngọn núi bị đào bới. Sau đó nhờ chúng tôi cứu trợ, vì trong lịch sử nó có thành tích đối kháng Trung Cộng, quan trọng hơn là đã có lựa chọn đúng đắn trong thời kỳ Chính Pháp, cho nên chúng tôi đã đồng ý thu nhận và bảo vệ.

Huyệt động này cũng phù hợp với các yêu cầu của phong thủy, đứng ở cửa động mà nhìn có thể thấy các loại cách cục như thanh long, bạch hổ, chu tước, huyền vũ, triều, án… là có ngoại hình phù hợp yêu cầu (phong thủy).

Huyệt động không thể tùy tiện mà “điểm” được, huyệt động trong dân gian mà nói, thông thường đều là đại địa, mà hơn nữa chứa đầy sát khí (khí dữ), nếu không phải là Thiên mệnh an bài, hay người phúc đức chưa tới thì không thể ở đó mà “điểm huyệt”, bằng không thì thầy phong thủy sẽ gặp vấn đề. Đương nhiên, thông thường khi một thầy phong thủy có thể “điểm” ra huyệt động thì phần đa đều là những người tu Đạo trong lịch sử, đều có công năng khai mở, có trình độ như vậy mới có thể biết được những sự việc mà Thiên mệnh an bài.

Phúc địa

Con người hiện nay cho rằng “phúc” không phải chỉ là có tiền có quyền, mà còn là khái niệm về phú quý, nhưng theo chúng tôi nhìn thì không phải cách lý giải như vậy, đây là quan niệm nhận thức biến dị của con người hiện nay, cho dù là những người bình thường trong thế gian, những người chưa bước vào tu luyện mà nói thì cũng không phải cách lý giải như vậy.

Từ góc độ phong thủy đối với bách tính phổ thông mà nói, phúc địa là chỉ sự sinh sôi lâu dài của các thế hệ con cháu đời sau, đời đời đều bình an vô sự, không có đại tai đại nạn, gia thế tuy không phải đại phú đại quý nhưng năm này qua năm khác đều dư dả; con cháu đời sau đều chăm chỉ làm ăn, hiểu được đạo lý làm người cần tích đức hành thiện; không có trí huệ to lớn nhưng cũng không ngốc nghếch; những người này bẩm sinh gần gũi Thần Phật, tuy không nhất định sẽ bước vào con đường tu luyện nhưng xác thực là cũng sẽ không vì lợi ích danh vọng mà tranh đấu với người ta; những người như vậy tuy không tu Đạo nhưng trạng thái là đã ở trong Đạo rồi. Ở Trung Quốc, trường hợp điển hình của loại “phúc địa” này chính là “địa” của gia tộc họ Khổng.

Rất nhiều phúc địa là mang theo nhân tố tu luyện bên trong, xem có khởi được tác dụng hay không, nếu bộ phận này khởi tác dụng thì đời sau sẽ xuất hiện người tu Đạo. Đối với cá nhân tôi mà nói, trải qua bao năm kinh nghiệm, phúc địa yêu thích nhất của chúng tôi chính là “Liên hoa địa” của Phật gia. Đứng ở vị trí huyệt vị mà nhìn tứ phía, thì hình dáng tứ phía của núi chính là giống như một đóa hoa, mà hơn nữa là sơn thủy hữu tình (chú ý: thuật ngữ này của phong thủy có nghĩa là sông núi đều lấy huyệt vị làm trung tâm mà xoay quanh, nhìn hướng về huyệt vị), không có sơ hở hoặc thiếu sót lớn.

Từ quan điểm của người bình thường mà nhìn, chỗ đại phú đại quý kia không nhất định là được yêu thích. Những người thực sự đại phú đại quý, thông thường đều có Thiên mệnh và mang một loại trách nhiệm nào đó, và vì rèn giũa người này để có thể gánh vác trách nhiệm, đều sẽ làm các loại ma luyện để trợ giúp người đó thành thục lên. Cho nên cổ nhân có câu: “Cố thiên tương giáng đại nhậm vu tư nhân dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngã kỳ thể phu, không phạp kỳ thân, hành phất loạn kỳ sở vi, sở dĩ động tâm nhẫn tính, tằng ích kỳ sở bất năng”. (Tạm dịch: Vì cớ ông Trời sẽ giáng người này xuống gánh nhận trách nhiệm lớn lao, tất là trước tiên phải để người ấy khổ cái tâm chí, nhọc cái gân cốt, đói cái cơ thể, nghèo túng cái thân, khiến cho họ làm các việc không lúc nào được thuận lợi, chấn động vào cái tâm của họ, khiến cho tính tình của họ được nhẫn nại, phát triển cho tài năng của họ tốt hơn).

Người bình thường phúc đức mỏng, lực chịu đựng nhỏ, không muốn trải qua ma nạn này, ôm cái cách nghĩ là tôi không cầu có công tích gì vì có cầu cũng không được. Kỳ thực như vậy cũng được, trong vũ trụ này bất kỳ sinh mệnh nào cũng đều là bản thân tự do lựa chọn, còn hơn là họ vì không chịu nổi sự ma luyện này mà thực sự có thể bị hủy rớt xuống, từ đó mà đi về phía phản diện. Cho nên nói con người tự biết rõ bản thân (khả năng đến đâu) cũng là điều tốt, cũng là có trí huệ rồi.

Trong Phật giáo giảng lục đạo luân hồi, khi bạn không làm được là một vị Thần, không trở thành được một sinh mệnh cao cấp, thì cũng có thể làm người, chí ít còn tốt hơn làm súc sinh, hoặc là rơi vào địa ngục làm ngạ quỷ.

Hung sát địa

Hung sát địa là chỉ nơi thầy phong thủy sau khi điểm địa, là nơi không biết tại sao sau khi làm sự việc đó lại dẫn đến rắc rối hoặc thậm chí tử vong cho thầy phong thủy. Những hiện tượng này bộc phát nhanh, phản ứng cũng nhanh, như tai họa bất ngờ, đại nạn lâm đầu, phát sinh chết thảm, bệnh tật cấp phát không thể trị, v.v.; cũng có loại khởi phát chậm phản ứng chậm, ví như lúc đó cảm giác không rõ ràng, cũng không có biểu hiện hung hiểm quá lớn, nhưng lại giống như bệnh tật mãn tính từ từ phát tác, vận khí (vận may) từng bước không thuận, bệnh tật liên miên, vận nhà sa sút, hoặc hao tổn bản thân, hoặc hao tổn người nhà v.v., nơi mà trực tiếp dẫn đến sự tử vong của thầy phong thủy gọi là “sát địa”, thông thường, thầy phong thủy khi đàm luận về nơi này liền biến sắc, xem như cấm kỵ, lo sợ bản thân gặp phải những chỗ như vậy, rất nhiều người vì thế mà không dám giúp người khác “điểm địa”, thậm chí là vì điều này mà không dám đi sâu vào phong thủy. Loại hung sát địa này có hay không? Có. Nhưng cũng không đến nỗi đáng sợ như thế.

Hung sát địa thông thường là để chỉ ở một số điểm trọng yếu như long, huyệt, sa (cát), thủy v.v… có sai lệch lớn, ví như lấy long mạch làm ví dụ: Lai Long của núi chính có sát khí mạnh, nói theo khái niệm mà người dân trăm họ có thể hiểu được thì chính là ngọn chủ sơn mà huyệt vị dựa vào phía sau có Lai Long hiểm trở lại không có nhấp nhô, cũng không quanh co uốn lượn, tương đối cứng nhắc thẳng đờ, trên núi, đặc biệt là ở hai bên trái phải xương sống có nhiều vách đá trắng; hoặc giả là long mạch phía sau huyệt vị có hố vũng, ác thạch hoặc những thứ khác. Loại hung sát địa này không những mang đến cho hậu thế gia tộc của huyệt vị đó trùng trùng tai họa, mà đến cả thầy phong thủy có liên quan cũng phải gánh chịu loại sát khí này, dẫn đến tai họa thậm chí là tử vong.

Tại sao lại bị như thế này? Như chúng tôi đã đề cập trong phần trước về “Địa huyệt”, “Địa huyệt” là được phân thành cấp bậc, mà đối với người tu luyện thì căn cứ vào tiêu chuẩn đạo đức tâm tính của bạn, cũng có sự phân chia tầng thứ. Ví như nói khi tầng thứ tu luyện của thầy phong thủy tương đương với cấp Ngũ phẩm của Địa huyệt, bạn giúp người ta “điểm địa” ở cấp Nhị phẩm, vậy chẳng phải là bạn đã đi làm cái việc vượt quá tầng thứ của bạn rồi không? Chính là giống như một Thị trưởng (chủ tịch thành phố), bản thân lại đi làm việc của một Phó Thủ tướng, bạn nghĩ xem sẽ có hậu quả thế nào, bạn có bị gặp rắc rối hay không? Khẳng định là có. Đây là phạm thượng, không tuân thủ quy chế, thời cổ đại sẽ bị xử trảm, giống như ngày nay, nếu tình tiết nghiêm trọng thì sẽ bị phán tử hình. Trên Địa huyệt có Thần, họ cũng có tính khí, tính cách khác nhau. Nói đùa một chút, một số nơi trong Phật giáo có đề cập đến hộ pháp hàng phục yêu ma, cũng có những Kim cương hộ pháp, họ là không có tình cảm (con người), có thể “đi cửa sau” giống như con người, không có chuyện đó, mà chính là dựa vào Pháp tắc mà làm việc, nên xử lý thế nào thì sẽ xử lý thế đó.

Thầy phong thủy nếu muốn “điểm địa” cho một gia đình, nhất định cần nghiêm khắc khảo sát dựa trên cơ sở phúc phận của gia đình này mà quyết định. Có những thầy phong thủy bản sự lớn, thậm chí biết đi khắp nơi trên trời dưới đất điều tra tình huống đời này đời trước, tổ tiên tiền bối của gia đình kia, sau đó mới giúp họ “điểm địa”, làm một số an bài sao cho phù hợp với quy luật vận hành của Thiên Địa. Hiện nay, mặc dù rất nhiều địa huyệt đã bị con người tìm được, thì cũng đều có cảm giác là ở đó sinh khí không đủ. Vì sao vậy? Vì Thần ở đó đã rời đi rồi. Thầy phong thủy nếu muốn khởi dùng Địa huyệt này, thì tất phải có tầng thứ cao, có đầy đủ năng lực lớn như thế, có chính niệm câu thông với Địa Linh Thần, hiệp trợ cùng nhau để sử dụng. Tầng thứ tu luyện của thầy phong thủy là cần đạt đến hoặc vượt qua cấp bậc của Địa huyệt thì mới có thể có tư cách “điểm” được “địa” này. Thông thường mà nói, nếu bạn tu luyện chưa đạt đến mức đó thì cũng nhìn không được “địa” kia, tự nhiên cũng “điểm” không được huyệt vị. Cũng chính là nói, tầng thứ tu luyện của thầy phong thủy là cần đạt đến hoặc vượt qua đẳng cấp của Địa huyệt thì mới có thể có tư cách đi “điểm” cái “địa” này. Cho dù là bạn có tư cách, thì bạn còn phải thuận theo Thiên mệnh, không có Thiên mệnh này mà cưỡng chế làm bừa thì đó chính là vi phạm vào Thiên luật, ha ha.

Nói đến đây, một số người đam mê phong thủy sẽ cảm thấy lo lắng, quy tắc nghiêm túc như thế, thì cho dù mình có tiến nhập tu luyện, không biết cấp bậc của huyệt vị, lỡ may điểm sai, vô ý phạm vào nội quy, há chẳng phải là quá tệ rồi? Kỳ thực, thông thường mà nói, nếu bạn tu luyện không đến mức độ đó, bạn cũng sẽ nhìn không ra “địa” đó, thì tự nhiên cũng “điểm” không được huyệt vị này. Đương nhiên, rất nhiều sự việc cũng không quá tuyệt đối, đặc biệt là ở thế gian con người, cho nên ở tình huống thông thường, mọi người cũng biết cái lý này, không đắc được Thiên mệnh, cho dù có biết thuật phong thủy thì cũng không dễ dàng vận dụng, nếu có cơ duyên nhìn thấy “hảo địa” thì cũng gần gần giống như việc chiêm ngưỡng bảo bối trong viện bảo tàng, chỉ nhìn mà không lấy được. Còn nếu đắc nhận được Thiên mệnh, tự bản thân anh ta sẽ biết nên hay không nên làm và làm như thế nào. Thầy phong thủy chân chính là không dễ dàng “điểm địa” cho người khác, và “điểm địa” xong thông thường cũng sẽ không thu tiền. Những sự việc loại này không phải là dùng tiền nơi thế gian là có thể mua được. Những kẻ thu tiền kia, đặc biệt là thu nhiều tiền, về cơ bản đều là thầy phong thủy giả, là những thuật sĩ giang hồ chuyên lừa người.

Văn địa và võ địa

Giới phong thủy có sự phân chia đơn giản đối với người Trung Quốc các nơi, rất nhiều người đam mê phong thủy đều biết, ví như dải đất Giang Nam dễ dàng sinh xuất ra văn nhân hoặc phú thương, dải đất Quảng Tây dễ dàng sinh xuất ra võ nhân binh tướng. Loại phân chia này rất có đạo lý, và đã được lịch sử chứng minh, vậy nó căn cứ vào cái gì để phân chia như thế?

Hình dáng những ngọn núi ở Giang Nam phổ biến là nhỏ nhắn tinh xảo, toàn bộ bề mặt những ngọn núi trong cách cục được phủ bởi một lớp cỏ nên đá không bị lộ ra ngoài, đặc biệt là Tả Thanh Long trông hoạt bát linh động, ở phía trước thì án sơn rất nhiều hình dáng là giống cái giá bút, cho nên nơi đây đã sinh xuất ra không ít văn nhân và phẩm cấp cũng tương đối cao, lại thêm dòng nước xanh biếc bao quanh, nên cũng dễ dàng sinh ra những phú ông giàu có.

Dãy núi vùng Quảng Tây cảnh tượng giống như măng đá, không có lớp cỏ phủ bên ngoài, hơn nữa còn xếp xếp lại giống như đang bày binh bố trận, cho nên nơi này sẽ sinh ra võ nhân nhưng phẩm cấp không cao, tức là nhiều binh lính. Nơi thực sự sinh xuất ra tướng soái là có liên quan đến “quý”, toàn bộ quần thể những ngọn núi trong cách cục phần nhiều là lộ đá hoặc thậm chí là trơ vách đá trắng, đặc biệt là bạch hổ hùng tráng, sát khí lộ ra bên phải, cũng tức là hình thành rất nhiều những ngọn núi hình bạch hổ, bao phủ một vùng rộng lớn, trên bạch hổ có lộ ra đá, hơn nữa còn liên kết thành một vách đá trắng. Chúng tôi thấy thời cổ đại có ghi chép rằng nơi trọng yếu binh bộ quân cơ của triều đình thường được gọi là “bạch hổ đường”, cũng có cách nói là đại tướng quân nào đó chính là bạch hổ tinh chuyển thế hạ phàm v.v… cũng từ đây mà ra. Ngoài ra, còn có các lại địa Phật gia, địa Đạo gia, cho đến những nơi tu luyện, v.v., đến đây xin phép sẽ không nói tiếp nữa.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh một vấn đề, trong phong thủy học có những tổng kết kinh nghiệm, cũng được rất nhiều người biết đến, đó là ngay cạnh đại địa là hố lửa. Điều đó có ý nghĩa gì? Là nói nơi hảo địa, đại địa chân chính thì ở gần đó đều có chỗ rất giống huyệt vị, khi bạn đứng ở đó nhìn, đại thể ngoại hình cũng phù hợp với yêu cầu của phong thủy học. Nhưng nơi này được tạo ra là để lừa người, hoặc nó là dùng để bảo vệ huyệt vị chân chính, không phải là người ta không biết cách che giấu, để nó hiển hiện rồi bị tìm thấy.

Ngày nay rất nhiều người, đặc biệt là những người có tiền, có quyền, muốn tìm đến các thầy phong thủy để giúp họ tầm địa (tìm vị trí tốt), cho đến việc có thể trợ giúp cho sự thăng tiến trong công việc của họ. Nói đùa thế này, nếu như tìm được một thầy phong thủy giả, tùy tiện tìm được một nơi vô hại nhẹ nhàng để lừa anh ta thì còn tạm được. Còn nếu thầy phong thủy kia thuộc loại lơ mơ nửa hiểu nửa không, có thể tìm ra vị trí đại khái của huyệt vị, nhưng lại “điểm” không chuẩn, điểm đúng cái hố lửa ở gần chân huyệt, thì gia đình này đúng là gặp phải xui xẻo lớn, chính là chờ đợi họ là gia đạo lụn bại hoặc gia phá nhân vong (người mất nhà tan) rồi.

Chú thích:

Minh Đường: Trong văn hóa cổ xưa, Minh Đường chính là nơi Thiên tử coi việc triều chính cũng như là nơi trăm quan chầu vua. Hiện nay, Minh Đường trong phong thủy chính là chỗ đất trước huyệt, các núi tụ quanh và các mạch đổ về; là nơi hội tụ của sinh khí cát tường.

Án Sơn: Núi có hình giống chiếc bàn dài như án thờ dùng trong thờ cúng tế lễ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126128

The post Khám phá phong thủy (8): Đặc điểm ngoại hình của phú quý địa và các chủng loại địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (7): Tầm long điểm huyệthttps://chanhkien.org/2023/03/kham-pha-phong-thuy-6-tam-long-diem-huyet.htmlWed, 22 Mar 2023 01:52:17 +0000https://chanhkien.org/?p=29804[ChanhKien.org] Tầm long có nghĩa là tìm kiếm long mạch. Còn điểm huyệt tức là tìm được chân huyệt ở trên long mạch đó. Có chỗ có cách nói gọi là “Ba năm tầm long mười năm điểm huyệt”. Trong thuật phong thủy lưu truyền trong dân gian về cơ bản đều là từ những […]

The post Khám phá phong thủy (7): Tầm long điểm huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Tầm long có nghĩa là tìm kiếm long mạch. Còn điểm huyệt tức là tìm được chân huyệt ở trên long mạch đó. Có chỗ có cách nói gọi là “Ba năm tầm long mười năm điểm huyệt”. Trong thuật phong thủy lưu truyền trong dân gian về cơ bản đều là từ những thứ hình thức bề ngoài mà giảng. Những kiến thức bề ngoài này là những kiến ​​thức cơ bản của phong thủy, cũng là những kỹ thuật cơ bản mà các thầy phong thủy cần nắm vững, tuy nhiên trong quá trình truyền thừa mấy nghìn năm, những kiến ​​thức cơ bản bề ngoài này cũng đã bị làm cho càng ngày càng loạn bậy, quy củ phép tắc càng ngày càng nhiều, tiểu tiết càng ngày càng nhiều, biểu hiện bề mặt thì giống như thuật phong thủy càng ngày càng phong phú nhưng trên thực tế là đang “xả bổn trục mạt”, tức là bỏ đi những điều chính yếu để theo đuổi những thứ vụn vặt không đáng.

Trong dân gian có nhiều chỗ gọi là “mật yếu tầm long” (bí mật trọng yếu trong việc tìm long mạch), nhưng trong thực tế không nhiều chỗ dùng. Ví dụ như trong dân gian có cách nói là từ núi Thái tổ đến núi Phụ mẫu, ở giữa Ngũ hành tương sinh thì đó mới là Chân Long, ý tứ là năm tòa núi ở giữa lần lượt là Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, đồng thời chiểu theo Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Ngũ hành được sắp xếp theo trình tự tương sinh. Nhưng trên thực tế, rất nhiều long mạch trải dài mấy chục dặm, trên trăm dặm thậm chí là dài hơn, mà ở giữa nó, các ngọn núi kéo dài mấy chục tòa, trên trăm toà thậm chí còn nhiều hơn, căn cứ vào hình dáng bề ngoài của các ngọn núi này có thể tìm ra điểm tương sinh, cũng có thể tìm ra điểm tương khắc, căn bản là không cách nào dùng cách nói Ngũ hành tương sinh đơn giản kia mà xác định được.

Tầm long điểm huyệt đều là cần phải có công năng mới được. Tùy theo công năng khai mở lớn nhỏ mà phạm vi nhìn được sẽ khác nhau, nếu công năng khai mở tốt thì có thể vào lúc nhập tĩnh sẽ nhìn được đại khái địa hình và huyệt vị, loại địa hình này không chỉ là hình dạng của mạch núi ở không gian này của con người, rất nhiều trong đó là sẽ nhìn được hình tượng Địa Linh Thần đối ứng với mạch núi ở không gian khác, có rất nhiều thầy phong thủy công phu cao, vừa liếc nhìn một cái thì đã nhìn được toàn bộ tất cả long mạch và huyệt vị trên đó. Có người có thể nhìn được những chỗ rất xa, trong khi có những người chỉ có thể nhìn được phạm vi khu vực nào đó xung quanh bản thân. Có người mở mắt cũng có thể nhìn được, có người cần phải nhắm mắt lại, kỳ thực mở mắt hay nhắm mắt cũng không có vấn đề gì lắm, chỉ là do thói quen mà thôi, cảm thấy nhắm mắt nhập tĩnh thì tinh thần tập trung càng tốt hơn.

Có những người thì trong lúc đả tọa nhập tĩnh nhìn thấy hình ảnh, đây chính là có những hạn chế nhất định, bạn nhất định phải đả tọa, mà hơn nữa cần “định” đến một trình độ nhất định mới được. Còn trạng thái đả tọa không tốt thì nhìn không được. Cũng có những trường hợp phải ở trong giấc ngủ, thông qua hình thức nằm mộng mà “mộng” thấy, loại hình thức này cũng được phân thành mấy chủng loại, một loại sẽ là trực tiếp nói cho bạn biết địa điểm đại khái, rồi bạn cứ theo địa điểm đó mà đi tìm là được; một loại là không nói cho bạn biết địa điểm đại khái, bạn chỉ có cách dò tìm cơ hội, có thể vào lúc nào đó đi đến một địa phương nào đó, vừa nhìn một cái, ồ, chỗ này tôi đã từng nằm mơ thấy, địa hình là như thế nào, huyệt vị đại khái trong đó, có sự việc như thế nào đó xảy ra, v.v. Rất nhiều người đam mê phong thủy đều có những thể hội và trải nghiệm về phương diện này, nhưng thông thường chỉ là những triển hiện bị động ngẫu nhiên mà thôi.

Rất nhiều những giấc mơ mà chúng ta nói đến, kỳ thực là do nguyên thần của con người rời thân thể, rồi trải nghiệm ở không gian khác, hoặc là thiên mục của bạn khai mở, nhưng do các loại nguyên nhân khác nhau mà bạn không nhìn thấy nó vào lúc thanh thiên bạch nhật, chỉ có ban đêm sau khi đi ngủ mới để bạn nhìn được những tình huống kia. Còn có cách thuận tiện hơn chính là câu thông trực tiếp, các thầy phong thủy tu luyện đắc Đạo có thể trực tiếp câu thông với những sinh mệnh đối ứng với chỗ có huyệt vị, họ sẽ nói cho bạn biết huyệt vị ở đâu, nên đi theo hướng nào, đi bao xa thì đến được, v.v. Tầng thứ của sinh mệnh cao cấp càng cao thì ngôn ngữ của họ càng ưu mỹ, lời nói của họ thường giống như thơ vậy, cho nên rất nhiều lúc họ đều là hết bài thơ này sang bài thơ khác, lời nói giống như trong khi dùng thơ nói chuyện với bạn vậy.

Đã có một lần tôi đến một ngọn núi, nhận được lời mời đến các huyệt vị trên núi để giao lưu câu thông với họ. Ở trên núi tìm tứ xứ, cảm thấy chắc là chỉ quanh đây, nhưng đi qua lại tới lui vẫn tìm không thấy được huyệt vị ở đâu. Vị Đại Thần (Tiên) đó thấy tình huống này thì cười ha ha và nói: “Tẩu quá lộ quá bất thức Lư Sơn chân diện mục”, tạm dịch là “Đi qua đường, qua đường rồi mà không nhận ra diện mạo chân thực của Lư Sơn”. Tôi thể ngộ ngẫm kỹ câu này, sau đó nhanh chóng nhìn xuống chân mình, thì giật mình đại ngộ, thì ra huyệt vị chính là ở ngay dưới chân, chỉ có điều là những chủng loại này so với huyệt vị khác thì không phải hiển hiện rất rõ ràng, chỉ có một vòng đá mờ mờ xếp quây thành một vòng xung quanh, đá thì chôn trong đất, biểu hiện bề mặt chỉ là những chấm nhỏ nổi trên mặt đường mà nếu không chú ý thì sẽ nhìn không được rõ ràng. Còn có một lần khác, sinh mệnh ở chỗ có huyệt vị thậm chí còn trực tiếp nói là bạn đi xuống theo hướng vách núi, khoảng 50 mét, lúc đó tôi căn bản là không quá tin tưởng, trong tâm nghĩ là sườn dốc của đỉnh núi như này làm thế nào có thể đi xuống, lúc sau sinh mệnh đó lại nói là chếch bên sườn dốc có một con đường nhỏ không quá rõ ràng bạn có thể theo đó đi xuống được, căn cứ theo đề xuất chỉ dẫn đó mà tìm, quả nhiên là tìm được một đường mòn nho nhỏ nơi sườn dốc đó mà đi xuống, ở đó quả nhiên là có một khu đại địa, có điều địa huyệt này đã được Thượng thiên an bài sử dụng, cũng là do một người tu luyện thời cổ đại nhận được thiên mệnh, khi bay đến đây để rơi một giọt máu, và được dùng trong bố cục này.

Phong thủy trước đây được gọi là thuật phong thủy, kỳ thực là có đạo lý nhất định. Nó là vận dụng một chủng thuật loại. Chúng ta biết rằng một thầy phong thủy chân chính là cần phải nhập Đạo tu luyện, tiến nhập vào Đạo của phong thủy. Cho nên trong tu luyện sẽ tu xuất ra một số năng lực đặc thù và một số những thứ thuật loại tương quan với đại địa, với phong thủy, vận dụng trong các hoạt động liên quan đến phong thủy như tầm long điểm huyệt.

Tất cả các ngành các nghề trong xã hội Trung Quốc cổ đại đều có công năng đối ứng, ví dụ như Trung y, chính là sẽ có công năng ứng dụng đối ứng với Trung y, người tu luyện tiến nhập vào con đường Trung y thì thiên mục của họ giống như là cắt lớp vậy, từng lớp từng lớp mà nhìn thân thể. Rất nhiều bệnh đều có công năng đối ứng để trị, nếu thay thế bằng các công năng khác không tương ứng thì có thể còn không trị được bệnh kia.

Chỉ có công năng thôi vẫn chưa đủ, còn phải được Thượng thiên cho phép thì bạn mới có thể làm những nghề nghiệp này. Chính là giống như chứng nhận tư cách trong xã hội hiện nay, chẳng hạn như chứng chỉ hành nghề kế toán, chứng chỉ hành nghề giáo viên, chứng chỉ hành nghề bác sĩ, v.v., chỉ có điều đây là chứng chỉ giữa con người với con người. Còn ở Trung Quốc cổ đại, những ngành nghề này là sự xác nhận của Thượng thiên đối với con người. Cho nên nói rằng văn hóa truyền thống Trung Quốc còn được gọi văn hóa Thần truyền là rất có đạo lý.

Những chỗ mà con người thế gian nhận định là vị trí (huyệt vị) có thể làm quan lớn, long huyệt có thể làm hoàng đế, v.v.. kỳ thực là trong mắt các thầy phong thủy bước vào tu luyện mà đã đắc được chân truyền, đó là thuộc về những huyệt vị ở tầng thứ thấp, rất dễ dàng tìm được, nhưng nhìn chung các thầy phong thủy thông thường khi đạt đến cấp bậc ấy thì họ đã minh bạch được đạo lý: Không được nhận thiên mệnh thì sẽ không đi giúp người điểm huyệt hay sử dụng những huyệt vị này.

Do sự phức tạp của không gian nên việc điểm huyệt cũng rất phức tạp, liên quan đến rất nhiều phương diện mà có lúc bạn căn bản còn không biết bản thân đã động chạm vào phương diện nào. Ví dụ, một lần tôi đến huyệt Kim Long (Rồng Vàng), tiếp xúc trực tiếp với một con Rồng Vàng, là vị Thần linh ở huyệt vị này. Khi quay lại thì phát hiện có một con Ngân Long (Rồng Bạc) đang đi theo, nó đang trong tâm trạng bực tức, muốn gây chuyện với tôi. Hỏi nó nguyên do, hóa ra nó cũng để ý cái huyệt này và đã ở đây lâu rồi, nghĩ là cuối cùng sẽ giành lấy để dùng. May mắn là cuối cùng tôi đã thỏa hiệp được với con Rồng Bạc này và sự việc này đã được thiện giải. Nếu vấn đề nhân – quả này không được thiện giải thì ngoài việc con Rồng Bạc này sẽ gây phiền phức ra, sau này, nếu huyệt vị này xuất thế, thì gia tộc mà đối ứng với chỗ huyệt vị này sẽ xảy ra sự việc huynh đệ xích mích bất hòa, và người chủ trì gánh vác trách nhiệm trong gia tộc sẽ gặp phải sự chống đối của người anh em nào đó trong nội bộ gia tộc. Đương nhiên, do thiên mệnh an bài, những sự việc dạng phản ngược lại này đều sẽ không thành công mà sẽ chỉ làm tăng thêm ma nạn và thất bại.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126122

The post Khám phá phong thủy (7): Tầm long điểm huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (6): Hát hìnhhttps://chanhkien.org/2023/03/kham-pha-phong-thuy-5-hat-hinh.htmlThu, 16 Mar 2023 01:45:01 +0000https://chanhkien.org/?p=29780[ChanhKien.org] “Hát hình” (Hình thức kêu gọi: kêu lớn, hô lớn, gọi ra… tên của thứ gì đó) là nói về thầy phong thủy xem huyệt vị cho nhà ai đó, gọi ra tên của huyệt vị này, chẳng hạn như “Song sư đoạt bảo”, “Song long hí châu”, “Tê giác vọng nguyệt” , “Mãnh […]

The post Khám phá phong thủy (6): Hát hình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

“Hát hình” (Hình thức kêu gọi: kêu lớn, hô lớn, gọi ra… tên của thứ gì đó) là nói về thầy phong thủy xem huyệt vị cho nhà ai đó, gọi ra tên của huyệt vị này, chẳng hạn như “Song sư đoạt bảo”, “Song long hí châu”, “Tê giác vọng nguyệt” , “Mãnh hổ hạ sơn”, v.v., và đôi khi lưu lại một bài thơ, lưu truyền trong dân gian. Bản thân “hát hình” chính là có thể phản ánh công lực nông sâu của thầy phong thủy, nếu hát hình chuẩn xác thì ở việc chọn ngày giờ, điểm huyệt, phương thức chôn cất đều sẽ có lực độ trợ giúp.

Vào cuối thời nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, có một thầy phong thủy tên là Bất Quá Ngũ, tên thật của ông vẫn chưa được xác minh, một lượng lớn các bài thơ phong thủy của ông được lưu truyền khắp nơi, vì mỗi bài thơ của ông đều chỉ có năm câu cho nên người ta gọi ông là Bất Quá Ngũ. Do thơ của ông thông tục dễ hiểu nên vì thế mà được lưu truyền rất rộng rãi trong dân gian. Kỳ thực những bài thơ của ông chính là đối ứng với “hát hình” của một cách cục (bố cục/ địa thế) phong thủy nào đó.

Hát hình của các thầy phong thủy thông thường là gọi ra hình thế của núi và sông, một số “hình núi” giống như động vật trên cạn, chẳng hạn như sư tử, hổ, gấu, v.v., có một số là động vật dưới nước, chẳng hạn như các loại cá, tôm, cua, trai, hến, v.v. ; còn có các loài chim bay như hạc, đại bàng, diều hâu, v.v.; cũng có thể là thực vật như hoa đào, hoa mai, hoa sen, v.v.; cũng có thể là các vật phẩm thường dùng hàng ngày như trống, dao, kiếm, v.v., và còn có “Thiên Thư Huyệt”. Có một số huyệt vị không phải là chủng vật ở nhân gian, chẳng hạn như hình rồng, hình phượng và hình đài sen, v.v.

Tuy nhiên, huyệt vị chỉ có hình thức thôi thì chưa đủ, muốn “Hình Thần kiêm bị” (có đủ hình hài và thần thức) thì tất phải có Địa Linh Thần trú đóng, chính là giống như hình thức con người chuyển đến nhà mới vậy. Địa Linh Thần là một loại tên gọi chung của Thần vị, bất luận là vị Thần đó lúc đầu ở nơi nào, chỉ cần đến địa huyệt trú đóng, đều có thể xưng là Địa Linh Thần, nhưng để phù hợp với pháp tắc Thiên Địa, Địa Linh Thần khi triển hiện tầng thứ ở gần nhân gian nhất thông thường sẽ biến thành vị Thần đối ứng với “hình dạng” của địa huyệt, nghĩa là, nếu như địa huyệt được Thiên Địa “định” là hình “sư tử” thì dù ai đến làm Địa Linh Thần thì vị ấy cũng đều triển hiện ra hình sư tử. Ví như trong nhân gian thường sẽ có một số truyền thuyết như nói địa phương nào đó có “vùng đất tê ngưu” thì có người trong lúc hoàng hôn nhìn thấy ba con tê giác trắng từ trong núi bay ra, đây chính là hình tượng của Địa Linh Thần triển hiện ở nhân gian. Trong Sơn Hải Kinh có ghi chép rằng: “Tây Vương Mẫu có “hình người”, lại có đuôi giống đuôi báo, răng giống răng hổ, rất giỏi thổi sáo, mái tóc bồng bềnh, đầu đội khôi giáp, là vị Thần thay trời triển hiện uy mãnh nghiêm khắc và có thể giáng xuống năm loại hình phạt là thiên tai họa hại khác nhau”. Tuy nhiên, trong Mục Thiên Tử truyện [1], Tây Vương Mẫu là một người cai trị dịu dàng và nho nhã, còn Hán Vũ Đế nội truyện miêu tả bà là một nữ Thần có dung mạo tuyệt thế. Kỳ thực, đây chỉ là những hình tượng triển hiện khác nhau của Tây Vương Mẫu mà thôi.

Đối với “hát hình”, tất cả các trường phái phong thủy đều đã có kinh nghiệm tích lũy, nhưng chỉ dựa vào kinh nghiệm thôi thì không thể đạt đến chuẩn xác hoàn toàn. Với một ngọn núi hay một dãy núi có ngoại hình giống sư tử hay lão hổ thì căn bản là không thể phân biệt được vì rất khó để chính xác đến mức độ ấy; hoặc ngoại hình của những ngọn núi này là hình chim muông, thì đó là phượng hay là hạc trắng? Chúng đều có hình chữ ‘Phẩm 品’, mặt trước một ngọn núi, mặt sau hai ngọn núi, cho nên nhìn từ góc độ tổ thành quần thể núi đó mà nói thì rất khó phân biệt. Đương nhiên, cũng có những dãy có thể phân biệt rất rõ ràng, hiện nay trên mạng có rất nhiều bức hình núi non được chụp ra, quả thực là rất giống nhau, có những tấm không những giống về ngoại hình mà còn rất giống thần thái, kể cả đó là bức ảnh chụp ra được từ góc rất cao rất rộng. Là một phong thủy tiên sinh, nếu như bạn không có thần thông bay lên trời, hoặc là khai thiên mục để nhìn được hình tượng của mạch núi ở không gian khác thì bạn căn bản là sẽ không cách nào biết được.

Nếu như một địa huyệt nhìn bề ngoài giống sư tử nhưng Địa Linh Thần là lão hổ thì nó chỉ có thể là hình lão hổ mà thôi, bất kể phong thủy tiên sinh kia có “kêu” nó là sư tử thế nào đi chăng nữa, thì lão hổ cũng không thể biến thành sư tử được. Cho nên, từ xưa đến nay, cái gọi là phong thủy tiên sinh đi “hát hình” (kêu ra hình dáng) đều là không chuẩn xác nếu như không thể nhìn được chính xác Địa Linh Thần, chính là không thể nhìn ra cái hình thực sự một cách chuẩn xác. Có những lúc bạn “kêu” không ra được “hình (dáng)” thực sự, thì liệu người ta có tin tưởng bạn không? Họ cảm thấy trình độ của bạn không đủ. Ngay cả khi bạn tìm ra huyệt vị rồi, họ cũng không nhất định đồng ý để bạn dùng. Nếu không được sự đồng ý mà bạn vẫn cố gắng sử dụng huyệt vị này, lại không có Địa Linh Thần hỗ trợ, chỉ có “hình” đó mà vô thần thì cũng không khởi được tác dụng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/154818

[1] Theo hiểu biết của người dịch, còn gọi là Chu vương du hành (周王遊行), không rõ tác giả, đoán rằng sách được hoàn thành vào thời Chiến Quốc

The post Khám phá phong thủy (6): Hát hình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (5): Long mạch Trung Hoahttps://chanhkien.org/2023/03/kham-pha-phong-thuy-long-mach-trung-hoa.htmlThu, 09 Mar 2023 04:36:12 +0000https://chanhkien.org/?p=29753[ChanhKien.org] Phần 4: Long mạch Mảnh đất Thần Châu đại địa nơi đã nuôi dưỡng dân tộc Trung Hoa là một vùng đất “Phong thủy bảo địa”. Trên vùng bảo địa này, trong 5000 năm mưa mưa gió gió các triều đại nối tiếp nhau thay đổi, thai nghén ra nền văn minh Trung Hoa […]

The post Khám phá phong thủy (5): Long mạch Trung Hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Phần 4: Long mạch

Mảnh đất Thần Châu đại địa nơi đã nuôi dưỡng dân tộc Trung Hoa là một vùng đất “Phong thủy bảo địa”. Trên vùng bảo địa này, trong 5000 năm mưa mưa gió gió các triều đại nối tiếp nhau thay đổi, thai nghén ra nền văn minh Trung Hoa 5000 năm rực rỡ huy hoàng. Theo truyền thuyết, một gia tộc nào đó nếu tìm Long mạch, đắc được Long huyệt trên Long mạch đó thì sẽ làm Vua thống trị thiên hạ. Vậy Long mạch này rốt cuộc là thế nào?

Trong《Địa lý Đại Thành-Sơn Pháp toàn thư》viết rằng: “Long là gì? Là mạch của núi. Đất là thịt của Rồng, đá là xương của Rồng, và cỏ là lông của Rồng. “Không phải tất cả các mạch núi đều có thể gọi là Long mạch, ngọn núi chỗ có Long mạch phải có thủy có chung, có gốc có nguồn, có sinh khí chạy khắp bên trong, ngoại hình của những mạch núi kiểu này thường là quanh co uốn lượn và tràn đầy sức sống. Đương nhiên, muốn phân biệt ra được Long mạch cũng không phải chuyện dễ dàng, cần phải thông qua trường kỳ tu luyện, cho nên có câu “biết núi thì dễ, biết mạch mới khó”. Thành ngữ Trung Quốc có câu “Lai Long khứ mạch” (1) là có nguồn gốc từ Phong Thủy học. Ngay cả những người Trung Quốc không hiểu về Phong Thủy cũng đã ít nhiều nghe nói đến thành ngữ này.

Giới Phong thủy đều công nhận rằng tất cả Long mạch của Trung Hoa đại địa đều bắt nguồn từ dãy núi Côn Luân. Núi Côn Luân được mệnh danh là “Vạn Sơn chi Tông”, “Long mạch chi tổ”, “Tây Sơn Kinh” của “Sơn Hải Kinh” gọi nó là “Thực duy đế chi hạ đô”, tạm dịch là Kinh đô dưới hạ giới của Thiên đế, địa mạch vươn đi tám phương, có tám Thiên long vươn đi các phương, trong đó có 3 đại Long mạch ở Trung Quốc ngày nay, được gọi bằng các tên lần lượt là: 1.Bắc Can Long: đi đến khu vực rộng lớn phía bắc sông Hoàng Hà; 2.Trung Can Long: đi về phía nam sông Hoàng Hà và phía bắc sông Trường Giang; 3.Nam Can Long: Đó là vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang. Ba đại Can Long này trên tổng thể đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc và chảy hướng về Đông Nam. Hình thành địa hình Trung Quốc với địa thế cao ở phía Tây Bắc và thấp ở phía Đông Nam.

Mảnh đất Trung Hoa đại địa được chia thành ba khu vực chủ yếu bởi bốn thủy vực lớn là Nam Hải, Trường Giang, Hoàng Hà và sông Áp lục, mạch núi của ba khu vực lớn này được gọi là Tam Đại Can Long. Ba Long mạch chính này sinh ra các mạch nhánh, và các mạch nhánh lại sinh ra các mạch nhánh nữa, giống như huyết quản và kinh lạc của thân thể người, phân bố khắp Trung Hoa đại địa.

Bắc Can Long: Khí mạch của Bắc Long bắt nguồn từ núi Kỳ Mạn Tháp Cách, xuôi theo sông Hoàng Hà đi qua các khu vực phía bắc Thanh Hải, Cam Túc, Sơn Tây, Hà Bắc và ba tỉnh phía đông, và kéo dài đến Bán đảo Triều Tiên. Trên thực tế thì Bắc Long không phải kết thúc ở Triều Tiên mà nó được tiếp nối với núi Bạch Đầu ở Triều Tiên. Cũng chính là nói Long mạch của Triều Tiên bắt nguồn từ núi Bạch đầu, nhưng nó không dừng lại ở đó, nó chỉ là ẩn nhập vào trong biển, và cuối cùng liên kết với quần đảo Nhật Bản. Bắc Kinh, Thiên Tân… là các thành phố nằm ở phía trên Bắc Long.

Trung Can Long: Khí của Trung Long bắt đầu từ núi A Nê Mã Khanh, đi qua khu vực giữa sông Hoàng Hà và Trường Giang, bao gồm cả Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hà Bắc, Hồ Bắc, An Huy, Sơn Đông và kết thúc ở biển Bột Hải; Tây An, Lạc Dương, Tế Nam, v.v. đều là nơi linh khí của Trung Long tụ hội.

Nam Can Long: Khí của Nam Long bắt nguồn từ bên trong núi Khả Khả Tây, người đời sau gọi là núi Ông, xuôi theo Trường Giang đến các khu vực phía nam của Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô, v.v. và đi ra biển mới dừng lại, thường thì các thành phố như Hương Cảng, Quảng Châu, Phúc Châu, Nam Kinh, Thượng Hải được phân vào phạm vi của Nam Long.

Đối với mấy nhánh Can Long khác, trong lịch sử, cổ nhân cho rằng nó có nguồn gốc từ dãy núi Côn Luân, nhưng không tiết lộ phương hướng các mạch khí của chúng. Một số học giả đã xác minh được mỗi hướng Tây Bắc, Đông Bắc có một nhánh Can Long, chúng tôi không biết trong nghiên cứu đó có đúng hay không, nhưng chúng tôi cũng liệt kê ra đây cùng quý độc giả:

Con Rồng Tây Bắc: Khí của núi Côn Luân bắt đầu biến hóa là ở phía Bắc dãy núi Thiên Sơn (2) vùng Tân Cương ngày nay. Ở phía Tây Bắc dãy Thiên Sơn sinh xuất ra hai dãy núi là Mộ Sỹ Tháp Cách Sơn (tiếng Uyghur là Muztagh, cao 7.546 m) và Công Cách Nhĩ Sơn (tiếng Uyghur là Kongur Tagh, cao 7.649 m). Hai dòng khí này nhập vào Tajikistan, sinh ra hai núi mà Liên Xô trước đây gọi là Đỉnh Cộng sản chủ nghĩa và Đỉnh Lê-nin, qua dãy núi Alai (3), lại sinh ra dãy kyrgyzstan (thuộc dãy Thiên Sơn), rồi lại sinh tiếp dãy núi Chu Yili (4). Sau khi tràn đến Kazakhstan và Turkmenistan thì hình thành dãy Caucasus (Kavkaz). Mạch núi này đi vào Romania sinh ra núi Karpat (Carpat) (5), rồi từ dãy Karpat vắt qua dãy Anpơ thuộc Pháp, Thụy Sĩ, Áo, cho đến các nước châu Âu, nhánh Can Long này cuối cùng đi qua Anh quốc đến Tây Ban Nha mới dừng lại.

Con rồng Đông Bắc: Theo hướng Đông Bắc của dãy Thiên Sơn, có dãy núi Beita (6) ở Mông Cổ, từ những ngọn núi này sinh ra dãy núi Khan Huhe (7) và dãy núi Hangai, sau khi nhập vào Liên Xô (nước Nga), dãy núi Đường nữ (8) và dãy núi Sayan (9) ra đời. Nhánh mạch khí này đi qua Ulan Bato sinh ra Núi Yablonov (10), rồi lại sinh ra núi Stanov (11), rồi sinh núi Thượng Yansk (12) và núi Chersky (13). Khí này đi qua eo biển Bering đến Hoa Kỳ và tạo ra dãy núi Alaska (14), đi vào Canada tạo ra dãy núi Duyên Hải (15) và dãy núi Rocky (16); tiếp tục kéo dài đến Mexico để tạo ra dãy núi Mã Đức Tuyết Sơn (17), rồi theo Panama đến Châu Nam Mỹ, bao trùm toàn bộ các mạch núi lớn của Nam Mỹ.

Nói đến Long mạch Trung Hoa, chúng ta cần làm rõ hai vấn đề ở đây: một là tại sao núi Côn Luân lại là ngọn núi tổ tiên của tất cả các Long mạch? Thứ hai, tại sao các mạch do núi hình thành lại được gọi là Long mạch mà không phải là phượng mạch hay các loại mạch gì đó khác? Không biết có ai đã từng nghĩ đến hai nghi vấn này hay không, nhưng từ xưa đến nay, chưa từng có ai công khai giải thích nguyên nhân, bạn hãy lật qua những sách cổ liên quan đến Phong Thủy, đều là vòng vo loanh quanh mà không là trực tiếp giải thích minh bạch được.

Đạo gia Trung Quốc tin rằng vũ trụ là một nhân thể to lớn và vũ trụ này được Bàn Cổ khai Thiên tịch địa, cho nên vũ trụ 15 tỷ năm ánh sáng mà khoa học kỹ thuật của chúng ta trắc định được hiện nay được gọi là Bàn Cổ. Căn cứ theo lý luận của Đạo gia, chúng ta hãy liên tưởng một chút xem Dải Ngân hà kia có phải là một hạt, phần tử trong vũ trụ của Bàn Cổ hay không, Hệ Mặt Trời có phải là một tế bào nhỏ bên trong của Bàn Cổ hay không và Địa cầu lại là tế bào nhỏ hơn nữa bên trong Thái Dương Hệ. Mà cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, cho nên khi chúng ta đang tu luyện, chúng ta có một công năng, gọi là Nội thị công năng, chính là tình huống bạn có thể nhìn thấy bên trong thân thể của chính mình, và bạn chính là nhìn được thân thể mình lớn lên, lớn lên, … lớn đến kích thước của địa cầu, lại phát triển lớn hơn nữa… lớn đến kích thước của hệ Ngân hà… và thân thể của bạn phình to đến một vũ trụ 15 tỷ năm ánh sáng, và bạn chính là đã tu đến tầng thứ của vũ trụ này. Đương nhiên, đây là biến hóa thân thể ở không gian khác, không phải ở không gian này nơi con người sinh sống. Bạn sẽ phát hiện thấy thân thể của bạn có nhiều tầng tế bào, phân tử, nguyên tử, v.v.; bạn sẽ nhìn rõ những tình huống thực tế của Thiên Thượng và kinh lạc; bạn sẽ nhìn được trong thân thể của bạn có núi, nước và có con người; tùy theo sự tu luyện của bạn, bạn còn sẽ phát hiện ra các chủng các dạng sinh mệnh thể được sinh ra bên trong thân thể. Cho nên vũ trụ chính là một Đại Nhân thể, và thân thể người chính là tiểu vũ trụ. Lý luận này mà Đạo gia giảng là hết sức rõ ràng. Nếu bạn tiến nhập vào tu luyện mà cái gì cũng đều nhìn được như vậy, thì không cần phải nói dài dòng đến thế. Đây là nét đặc sắc của văn hóa Trung Quốc.

Trong quá trình tu luyện sẽ xuất hiện các loại sinh mệnh thể như Nguyên anh, Anh hài, bạn sẽ phát hiện lục phủ ngũ tạng của mình có Thần, bạn sẽ phát hiện trên huyệt vị của bạn cũng có thần, con người còn có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, v.v. Như vậy mạch lạc của bạn phải chăng cũng có Thần? Đúng là vậy, mạch lạc tu thành rồi cũng có triển hiện của Thần. Có người trong quá trình tu luyện phát hiện trong thân thể mình tu xuất ra một con Rồng, rồi dần dần càng ngày càng nhiều Rồng, nhìn thấy đó là do một mạch lạc nào đó trong thân thể cùng với một mạch lạc khác tu xuất ra được, họ cho rằng triển hiện của sinh mệnh thể do mạch lạc tu xuất ra chính là triển hiện của sinh mệnh hình Rồng (Chú thích: đây có thể là do tầng thứ nhận thức của cá nhân có hạn), lúc vừa bắt đầu có thể là một con Rồng nhỏ, tùy theo tầng thứ tu luyện của bạn đề thăng lên, năng lượng được tăng cường, bạn sẽ phát hiện con Rồng nhỏ kia sẽ biến đổi càng ngày càng lớn, biến thành một con Rồng lớn, mà hơn nữa tùy theo việc bạn tu xuất ra càng nhiều kinh mạch, thì Rồng trong thân thể của bạn tu xuất ra cũng càng ngày càng nhiều, đồng thời còn có rất nhiều màu sắc, có Thanh long, Bạch long, Hoàng long, v.v., ngũ nhan lục sắc các chủng các dạng vô cùng đẹp mắt.

Trong thân thể người tu luyện tu xuất ra mạch hình Rồng, cho nên gọi nó là Long mạch, mà Thiên địa nhân tam tài hợp nhất, Đại địa cũng là một sinh mệnh, cũng tương tự như khái niệm về nhân thể, bên trên cũng có kinh lạc huyệt vị, cho nên mạch lạc trên đại địa cũng được gọi là Long mạch. Đây là nguồn gốc của từ Long mạch, người chưa chân chính bước vào tu luyện thì không biết được.

Vấn đề này đã được giảng rõ ràng rồi, vậy nếu giảng về việc vì sao nói ngọn núi Côn Luân là ngọn núi tổ tông của tất cả các ngọn núi, và là ngọn núi tổ tông của tất cả các Long mạch là đã dễ dàng hơn nhiều rồi. Tương tự như vậy, vũ trụ là một Đại Nhân thể, vậy mỗi thiên hà, mỗi hành tinh phải chăng đều là một lạp tử nhỏ bé trong đó, và Địa cầu cũng là một lạp tử như vậy. Nếu như vũ trụ là một Đại Nhân thể, vậy phải chăng Vũ trụ cũng có Chu thiên? Đúng là vậy, Vũ trụ cũng có một vòng tuần hoàn Chu thiên, mà dãy núi Côn Luân trên địa cầu chính là một điểm trong vòng tuần hoàn Chu thiên đó. Thông qua năng lượng vũ trụ mà đang xoay chuyển các Chu thiên mạch lạc của vũ trụ, thông qua núi Côn Luân đem năng lượng lưu thông xoay chuyển đến tất cả các mạch núi và huyệt vị trên địa cầu, cho nên dãy núi Côn Luân chính là tổ sơn của tất cả các Long mạch, chuyện là như vậy.

Trong thần thoại Trung Quốc, núi Côn Luân là nơi các vị thần cư trú, thông qua núi Côn Luân có thể đi lên Thiên thượng, xác thực là như vậy, tuy nhiên nó không phải là những khái niệm theo các giải thích của con người. Khi dùng tư duy khái niệm của con người hiện đại để giải thích, thì tức là các không gian khác đối ứng với núi Côn Luân không phải một tầng mà có nhiều tầng. Chỗ mà không gian khác đối ứng với núi Côn Luân có một tầng mà con người thế gian biết được, gọi là Thiên đình, giống như Trường An thủ đô của nhà Đường và Washington là thủ đô của Hoa Kỳ vậy.

Người cổ đại có đạo đức cao cho nên bản năng triển hiện nhiều, tức là công năng thần thông lớn, họ có thể tự do như ý xuyên thấu các vách chắn không gian, qua lại giữa nhân gian thiên thượng. Sau này, theo sự trượt dốc của đạo đức, con người thế gian chỉ có thể thông qua tu luyện, quay trở về bản tính tiên thiên của bản thân mới có thể xuất ra được bản năng tiên thiên, đột phá vách chắn không gian và tiến nhập vào thời không khác. Khái niệm về thời không tương đối phức tạp, ở đây cũng chỉ có thể dùng khái niệm thời không khác là chỗ tồn tại đồng thời đồng địa (cùng lúc cùng chỗ) mà giải thích, nhưng còn có những tình huống khác trong đó nữa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/126122.

Chú thích của người dịch (tham khảo):

1. Vốn dĩ chỉ hướng đi của mạch núi, hiện giờ cũng dùng để chỉ đầu đuôi của sự việc.

2. Dãy Thiên Sơn: tiếng Uyghur: ەڭىاغ Tengri Tagh, là dãy núi lớn nhất Trung Á, trải dài qua trung tâm của Tân Cương, Kyrgyzstan và Uzbekistan, kéo sang Kazakhstan và bốn quốc gia khác ở phía tây. Tên cổ là Bạch sơn hay núi tuyết vì có tuyết quanh năm. Người Hung Nô gọi là Thiên Sơn, nhà Hán gọi Bắc Sơn, nhà Đường gọi Lạc Mãn sơn… Dãy Thiên Sơn dài khoảng 2500 km, rộng 250-300 km, độ cao trung bình khoảng 5000m. Ba con sông lớn ở Trung Á là sông Syr Darya, sông Chu và sông Yili đều bắt nguồn từ ngọn núi này.

3. Dãy Alai: trải dài 200 km trên lãnh thổ Trung Quốc. Vùng núi này cao như bức tường sừng sững bao quanh thung lũng Alai).

4. Dãy Chu Yili: thuộc một nhánh của dãy Thiên Sơn hùng vĩ, kéo dài về phía Tây Bắc cho đến thung lũng Kazakhstan).

5. Karpat (Carpat): Là một dãy núi lớn nhất Châu Âu, dãy núi này tạo thành hình vòng cung dài khoảng 1500km ngang qua Trung Âu và Đông Âu).

6. Dãy Beita (còn gọi là Núi Bayidak Bogda hay núi Baikda, là ngọn núi cao duy nhất ở phía Đông lưu vực sông Junggar, nằm ở biên giới giữa Trung Quốc và Mông Cổ phía Đông Bắc huyện Kỳ Đài, Tân Cương. Núi Beita là mạch phía Đông Nam của núi Altai, ở độ cao 2700-3100 mét. Ngọn núi dài 90 km và rộng 25 km) và dãy núi Altai là một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan, và là thượng nguồn của các con sông lớn như Irtysh, Obi và Enisei).

7. Dãy Khan Huhe: Còn gọi là Khan Tengri, là ngọn núi cao thứ 2 thuộc dãy Thiên Sơn. Nằm trên đường biên giới Trung Quốc; Kyrgyzstan; Kazakhstan, phía đông hồ Issyk Kul. Núi cao 6.995 m nhưng nắp băng của nó nâng lên tới độ cao 7.010 m. “Khan Tengri” tiếng Kazakh nghĩa là “Vua Trời”.

8. Dãy Đường nữ: Cao 2.000 đến 2.900 mét so với mực nước biển, được bao phủ bởi lớp tuyết không tan quanh năm. Dãy núi Tannu nằm giữa khu vực hồ Khovd và rừng taiga Siberia của lưu vực thượng lưu sông Yenisei.

9. Dãy núi Sayan: Tiếng Nga: Саяны, núi nằm giữa tây bắc Mông Cổ và miền nam Siberi, Nga. Dãy Đông Sayan trải dài 1,000 km từ sông Enisei đến cực tây nam của hồ Baikal. Dãy Tây Sayan tạo thành phần mở rộng phía đông của dãy núi Altai, trải dài 500 km đến giữa dãy Đông Sayan.

10. Dãy Yablonov: Tiếng Nga Яблоновый хребет, dãy núi nằm ở vùng ngoại Baikal, Siberia, Nga và chủ yếu nằm trên địa giới của tỉnh Chita. Dãy núi chạy theo hướng đông bắc từ Mông Cổ, qua phía đông hồ Baikal. Đỉnh cao nhất là Sokhondo với cao độ 2.500 mét.

11. Dãy Stanov: Tiếng Nga: Станово́й хребе́т, tiếng Trung: Ngoại Hưng An Lĩnh, là một dãy núi nằm ở phía đông nam của Viễn Đông Nga. Dãy núi chạy từ tây nam đến đông bắc với chiều dài khoảng 900 km, từ sông Olyokma ở phía tây, đến sông Uchur ở phía đông gần đến biển Okhotsk. Đỉnh cao nhất là Skalisty với cao độ 2.482 mét có nhiều sông băng bao quanh.

12. Núi Thượng Yansk, còn gọi là Verkhoyansk (tiếng Nga: Верхоянский хребет, là một dãy núi ở Cộng hòa Sakha, Nga, là một phần của Dãy núi Đông Siberi. Dãy núi này nằm ở phía tây, ranh giới của mảng kiến tạo Á-Âu và Bắc Mỹ. Nó được bao phủ bởi các sông băng hình thành trong kỷ Băng Hà.

13.Dãy Chersky: Cao 2.572 m, là đỉnh cao nhất thuộc dãy Baikal, nằm trên bờ tây bắc của hồ Baikal ở miền nam Siberia, Nga.

14. Dãy Alaska: Là một dãy núi dài 650 km tương đối hẹp trong khu vực Nam trung bộ tiểu bang Alaska, từ hồ Clark ở cuối phía tây nam của nó đến sông White tại Lãnh thổ Yukon Canada về phía đông nam. Ngọn núi cao nhất Bắc Mỹ, Denali, nằm trong dãy Alaska. Đây là dãy núi cao nhất thế giới ngoài châu Á và dãy núi Andes.

15. Dãy núi Duyên hải Thái Bình Dương (tiếng Anh: Pacific Coast Ranges) thuộc Hoa Kỳ, là chuỗi các dãy núi trải dài dọc theo Bờ Tây của Bắc Mỹ từ Alaska ở phía nam đến Bắc và Trung Mexico. Dãy Duyên Hải này là một phần của Cordillera Bắc Mỹ, bao gồm Rocky Mountains, núi Columbia, núi nội địa, cao nguyên nội thất, núi Sierra Nevada, các dãy núi Great Basin, và các dãy núi khác và các cao nguyên và lưu vực khác nhau.

16. Dãy núi Rocky: Còn gọi là Rockies hay rặng Thạch Sơn, là dãy núi khá rộng ở miền Tây Bắc Mỹ. Dãy Rocky trải dài hơn 4.800 km từ cực bắc British Columbia (Canada) đến New Mexico (Hoa Kỳ). Đỉnh cao nhất là Núi Elbert ở Colorado cao 4.401m trên mực nước biển. Núi Robson ở British Columbia có độ cao 3.954 m là đỉnh cao nhất của Dãy núi Rocky phần phía Canada.

17. Mã Đức Tuyết Sơn: Latinh: Sierra Madre Occidental hay còn được người dân địa phương gọi là Sierra Nevada (Dãy Núi Tuyết) do một số đỉnh núi cao nhất ở đây phủ tuyết quanh năm, là vành đai núi lửa hoặc còn được gọi là vòng cung núi lửa xuyên Mexico. Dãy núi này trải dài 1.500 km, rộng 240 km kéo dài qua miền Trung-Nam Mexico từ Thái Bình Dương đến Vịnh Mêhicô, nằm trên mép phía Nam của lục địa Bắc Mỹ, dọc theo Vịnh California.

The post Khám phá phong thủy (5): Long mạch Trung Hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (4): Địa huyệthttps://chanhkien.org/2023/02/kham-pha-phong-thuy-dia-huyet.htmlFri, 17 Feb 2023 03:12:24 +0000https://chanhkien.org/?p=29679[ChanhKien.org] Đạo Đức Kinh thuyết rằng: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên” (Tạm dịch: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời”). Đạo gia coi thân thể con người là tiểu vũ trụ, như vậy, vũ trụ cũng được xem như một cơ thể lớn. Cũng tương tự, Trái Đất là một sinh mệnh. Kết […]

The post Khám phá phong thủy (4): Địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Đạo Đức Kinh thuyết rằng: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên” (Tạm dịch: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời”). Đạo gia coi thân thể con người là tiểu vũ trụ, như vậy, vũ trụ cũng được xem như một cơ thể lớn. Cũng tương tự, Trái Đất là một sinh mệnh. Kết cấu cơ thể người mang theo tín tức kết cấu của Thiên Địa, có đại tiểu chu thiên, có mạch lạc và huyệt vị, Trái Đất cũng là như vậy, cũng có mạch lạc, được gọi là long mạch, có huyệt vị, gọi là địa huyệt. Trên long mạch có Thần, huyệt vị cũng có Thần. Thần căn cứ theo quy luật vận hành của trời đất, chiểu theo ý chỉ của trời đất, dùng huyệt vị của đại địa mà hình thành nên cục diện hoàn chỉnh “Thiên Địa Nhân”, đả thông đường thông đạo trên dưới “Thiên Địa Nhân”, lấy điều này để tam tài Thiên Địa Nhân hiệp đồng vận chuyển. Học thuyết “Thiên Nhân hợp nhất” cũng từ đây mà ra, nói chính xác hơn thì nên gọi là “Thiên Địa Nhân hợp nhất”.

Huyệt vị tốt nhất được gọi là “phong thủy bảo địa”, trên địa hình đó có những đặc điểm nhất định, thông thường huyệt vị làm trung tâm, kết cấu bố trí thể hiện là sau lưng là núi, trước mặt là nước, tả hữu hộ vệ vây quanh, thuật ngữ chuyên môn gọi là tựa núi đón rồng, cũng gọi là Huyền Vũ, bên trái có núi hộ vệ vây quanh là Thanh Long, bên phải cũng có núi vây quanh là Bạch Hổ, bình địa bố cục của bản thân huyệt vị là “nội đường cục” [1], bên ngoài huyệt vị là “đại đường cục”, bên trong “đại đường cục” nên có một dòng sông uốn lượn chảy qua, ở gần phía trước huyệt vị có gò nhỏ án sơn (núi án ngữ), xa xa có đỉnh núi cao là triều sơn (núi chầu). Như hình sau:

“Núi Thái tổ” là chỉ chỗ ngọn núi phát nguyên (bắt nguồn) của long mạch ở phía sau nơi kết huyệt, thông thường là đỉnh núi cao nhất ở xung quanh đó, hướng xuống còn có cách nói về ngọn “thiếu tổ sơn”. “Phụ mẫu sơn” là một tòa sơn thể (là bộ phận chủ thể của một ngọn núi) đi tới bằng cách thuận theo long mạch từ ngọn núi kết huyệt mà đi ra phía phía sau. “Huyệt tinh” thông thường là chỉ ngọn núi kết huyệt, chính là sơn thể của huyệt vị trong địa huyệt. “Thanh long sa” là chỉ dãy núi hoặc sơn thể ở bên trái huyệt vị, “Bạch hổ sa” là chỉ dãy núi hoặc sơn thể ở bên phải huyệt vị, đương nhiên còn có cách nói là “Thủy khẩu sa”, “Hạ thủ sa”. “Án” là chỉ sơn thể (các ngọn núi) ở gần phía trước huyệt vị, thông thường thể hiện hình dáng cái giá bút hoặc hình dáng yên ngựa, “triều” chỉ nhiều ngọn núi ở xa xa phía trước huyệt vị, nói chung triều sơn nằm phía sau án sơn. “Cách cục” (kết cấu bố cục) cũng gọi là “Đường cục”, chỉ việc một số ngọn núi nói ở trên hình thành nên một chỉnh thể, nhìn một cách thống nhất thì mỗi “huyệt vị” bản thân nó đã có cục thế (hình thế cục diện), cục thế lớn nhỏ, tốt xấu trực tiếp dẫn đến phẩm cấp cao thấp của huyệt vị. Một huyệt vị ít nhất cũng cần nhập phẩm (cấp độ, đẳng cấp) thì mới có thể có “cách cục”, cũng chính là người đời sau ít nhất cũng phải có phú quý phúc phận tương đương quan huyện thất phẩm thì mới được tính là “nhập cách cục”. Đương nhiên, một cục thế không phải chỉ tạo ra một huyệt vị, có thể sẽ có một số chỗ kết huyệt. Mỗi “cách cục” có thể rộng tới mấy chục dặm, trên trăm dặm hoặc rộng hơn, nhỏ thì có thể chỉ có mấy ngọn núi thậm chí một ngọn núi, mà hơn nữa có thể trong cách cục lớn có cách cục nhỏ, trong cách cục nhỏ có cách cục nhỏ hơn.

Địa huyệt là có phân thành đẳng cấp, nhiều người đều biết điều này. Nó có hai tầng thứ lớn: một là tầng thế gian; hai là tầng xuất thế gian. Tu luyện Phật gia và Đạo gia trong truyền thống Trung Quốc có đề cập đến hai khái niệm, tu luyện thế gian pháp và xuất thế gian pháp, nói một cách đơn giản thì một cái là thăng hoa cảnh giới tinh thần trong thế gian con người, một cái là thăng hoa cảnh giới tinh thần siêu xuất phạm vi thế gian con người, cũng có thể so sánh với việc trong Phật giáo giảng về La Hán, Bồ Tát, Phật tổ đều là những vị siêu xuất thế gian con người, nhưng cũng có uy đức và tiêu chuẩn ngộ đạo khác nhau. Trong phong thủy cũng giống như vậy, tồn tại ranh giới cấp bậc lớn giữa tầng thế gian và tầng xuất thế gian. Đương nhiên tầng thế gian và tầng xuất thế gian này không giống với khái niệm thế gian pháp và xuất thế gian pháp nêu trên.

Tầng thế gian sai khác không nhiều so với sự phân chia đẳng cấp vị trí quan lại trong triều đình thời Trung Quốc cổ đại, cũng phân chia theo đặc điểm văn, võ, trung chính cửu phẩm (chín thứ bậc quan lại trong hành chính trung ương). Thời Trung Quốc cổ, rất nhiều đại thần phụ tá cho Hoàng đế đều là người tu Đạo, biết sự việc của trời đất cho nên đã đem bộ phận thể hệ trời đất lấy đến dùng ở nhân gian, sự phân chia đẳng cấp vị trí của quan lại là như vậy. Ở trên có nói đến việc “thất phẩm” mới tính là nhập cách cục, đó là bởi vì “thất phẩm huyện lệnh” đã là có thể độc lập quản lý một phương, độc lập làm chủ rồi, còn bát phẩm, cửu phẩm chưa có yêu cầu quản lý độc lập một phương, chỉ thuộc vào hàng bổ trợ cho thất phẩm, cho nên không cần thiết phải có cách cục riêng.

Địa huyệt ngoài đặc điểm văn võ khác nhau ra, sự phân chia đẳng cấp chủ yếu lấy đạo đức làm tiêu chuẩn đo lường. Ở Trung Quốc cổ đại ngoài chế độ khoa cử ra thì việc tuyển chọn đề bạt quan lại còn một con đường nữa gọi là “hiếu liêm”, ví như nói rằng địa phương nào có người rất hiếu thuận đối với cha mẹ, nhân phẩm cũng rất liêm khiết, bách tính nơi đó đều xưng tán ca ngợi thì quan viên địa phương đó sẽ tiến cử anh ta, sau khi Hoàng đế phái người đến khảo sát, nếu xác thực đúng như vậy thì sẽ đề bạt anh ta làm quan. Hiếu thuận liêm khiết là một loại biểu hiện bề ngoài của người có đạo đức, ngày xưa triều đình lấy điều này làm tiêu chuẩn đo lường khảo hạch quan lại. Phương thức này đã từng là phương pháp tuyển chọn đề bạt quan viên chủ yếu thường dùng trong hoàng triều hùng mạnh của nhà Hán.

Tầng xuất thế gian kỳ thực đã không thể gọi là phong thủy nữa, nói chuẩn xác hơn một chút thì không phải là khái niệm phong thủy được người dân trăm họ trong dân gian lý giải, hàm nghĩa đó (phong thủy) đã bao quát không nổi nội hàm rộng lớn trong đó (xuất thế gian). Thậm chí rất nhiều cái tên đều không gọi là huyệt nữa mà gọi là “vị” hoặc “tòa”, những khái niệm như là Phật tòa, liên đài v.v. đó là những tên thường được Tiên, Phật, Thánh nhân dùng, đã không có liên quan gì đến con người nữa.

Giữa tầng thế gian và tầng xuất thế gian còn có một số phẩm cấp đặc thù. Trên nhất phẩm, cao nhất trong cửu phẩm là “Đế hoàng đại địa”, cũng gọi là “Thiên tử địa”. Đế hoàng đại địa là có liên quan tới thiên hạ cách cục, chịu sự sắp đặt nghiêm mật của thượng thiên, nếu không phải là người hoặc gia tộc lãnh nhận Thiên mệnh, thọ nhận sứ mệnh với Trời thì căn bản không thể đắc được như thế. Tương truyền rất nhiều Hoàng đế đều là an bài Thiên Thần hạ phàm mà làm, cho nên Hoàng đế ngày xưa gọi là Thiên tử. Vô luận là Đế hoàng đại địa hay Thiên tử địa cũng vậy, đều là cách gọi của bách tính phổ thông, kỳ thực danh xưng thực sự không phải gọi như thế, sinh mệnh cao cấp ở không gian khác gọi cái “địa” ở cấp bậc và loại hình này là “Càn Khôn địa”. Nơi ra đời một Hoàng đế hay triều đại gọi là “Càn Khôn địa”. Tự cổ chí kim, có thể để cho con người biết cũng chỉ nhiều đến thế mà thôi.

Trung Hoa 5000 năm nay, từ Hạ Thương Chu cho đến Thanh triều, có thể xưng là triều đại thì cũng chỉ lưa thưa khoảng mười dòng họ, khoảng giữa là trạng thái chia năm xẻ bảy, như Tam quốc, Ngũ đại thập quốc v.v.

Chữ “triều (朝)” này trong Giáp cốt văn gồm hai cây cỏ nhỏ, nhật nguyệt mọc lặn tự nhiên, ẩn ý chỉ thời gian lâu dài, thuận theo Thiên ý mà vận hành; chữ “đại (代)” gồm bộ nhân (人) + bộ dặc (弋), thời cổ đại “dặc” chỉ chiếc gậy gỗ trên cây giáo (戈), mũi kim loại trên cây giáo, có bộ 刀 không bị bỏ đi mà chiếc gậy gỗ thì phải thay thế thường xuyên, cho nên dùng “đại” ngụ ý là thay người, “triều” thì rất dài, trong đó Hoàng đế thì mỗi thời đại mỗi thời đại lại thay đổi người khác; “quốc (國)” là trong một vùng đất có một người cầm cây giáo giơ lên, chỉ phạm vi biên cương lãnh thổ mà người ta dùng vũ lực chinh phục được. Lấy Thiên ý và phạm trù đạo đức mà đánh giá thì “triều” cao hơn “đại” và “quốc”. Quân chủ của “triều” được xưng là “hoàng (皇)”, mà quân chủ của “quốc” được xưng là “vương (王)”. Trên mảnh đất Thần Châu đại địa, phàm xưng là “quốc” thì thời gian tồn tại đều không dài.

Ở tầng thế gian còn có một số tồn tại đặc biệt, chúng không hề sai kém so với Càn Khôn địa, đối ứng với thế gian con người, chúng ta có thể biết ở thế gian con người có rất nhiều gia tộc lớn có thời gian kéo dài rất lâu, thậm chí vượt qua cả các gia tộc đế hoàng như Lý Đường, Triệu Tống v.v., ví như gia tộc họ Khổng kéo dài hơn 2000 năm, vì Khổng Tử truyền bá Nho học chấn hưng giáo dục, tích đức rất lớn cho nên phúc kéo dài tới con cháu đời sau; còn có gia tộc Trương Thiên Sư không những kéo dài hơn một ngàn năm mà còn có rất nhiều người tu luyện, đó chính là điều rất khác thường.

Cách nói Càn Khôn địa là lấy “quý” làm đặc điểm chủ yếu mà phân biệt triển hiện ra. Gia thế họ Khổng tất là lấy “phúc” làm đặc điểm chủ yếu để triển hiện, còn gia tộc Trương Thiên Sư là triển hiện của “tu luyện địa”, lại là một tình huống khác. Cho nên lấy “quý” làm đặc điểm chủ yếu của tiêu chuẩn phân biệt thực sự không thể gom hết thảy thành hàm nghĩa chung chung để đánh giá địa huyệt nào tốt, địa huyệt nào không tốt. Đương nhiên, chúng ta biết rằng, rất nhiều địa huyệt vừa có “quý” vừa có “phú“, hoặc những đặc điểm khác. Ví như một địa huyệt nào đó, nó báo hiệu đặc điểm là “phú quý linh tiên”, như vậy địa huyệt này rất có thể sẽ cho ra đời bốn chi phái, trong đó một chi phát “phú”, một chi phát “quý”, một chi phát “linh”, nghĩa là tương đối linh thông, tựa như một loại tình huống của các thuật sĩ giang hồ, còn có một chi tất sẽ xuất sinh ra những người tu luyện; cũng có thể địa huyệt đó sẽ xuất sinh ra một chi hoặc một người nào đó đồng thời có đầy đủ cả bốn đặc điểm “phú quý linh tiên”.

Có người nói phú quý, phú quý, có phú thì có quý, có quý thì có phú, đó chẳng phải cùng là một sao? Kỳ thực không phải, nếu thượng thiên xác định bạn “phú, quý” đều có, thì bạn xác thực đã phú lại còn quý; nếu như thượng thiên xác định bạn chỉ có một đặc điểm, ví như nói là “quý”, vậy bạn thực sự chỉ có quý mà thôi. Chúng ta biết rằng Trung Quốc cổ đại có rất nhiều thanh quan, nhiều trong đó là quan ở những vị trí tối cao, thậm chí làm quan đến cực phẩm, nhưng rõ ràng là thanh bần sạch sẽ, nhà chỉ bốn bức vách, sử sách ghi chép tới lúc chết ngay cả cái quan tài tốt một chút cũng mua không nổi.

Phú cũng vậy, quý cũng vậy, là do thượng thiên an bài, trong mệnh của bạn nên có thì sẽ có, là không thể cưỡng cầu được. Nên là của bạn, bạn cứ đường đường chính chính thông qua gian khổ phó xuất, thuận theo tự nhiên đó mà có thể đạt được. Dựa vào thân phận, địa vị của những vị thanh quan kia trong lịch sử, họ nếu muốn phát tài chẳng phải là việc rất dễ dàng sao? Nhưng họ chính là làm việc theo lẽ công bằng, chỉ nhận bổng lộc nhà nước ban cho, cũng chính là chỗ ngày nay gọi là “tiền lương”, thu nhập quang minh đường hoàng. Đây là do họ đã làm việc hết trách nhiệm, sau khi thông qua công tác gian khổ phó xuất mà đắc được thu nhập chính đáng, là không có bất cứ vấn đề gì. Có một số người vừa phú vừa quý vì đã lập được công trạng lớn lao, được Hoàng đế hoặc triều đình đặc biệt tưởng thưởng, đó là “phú quý” chính đáng.

Hiện nay có những người làm quan trong mệnh chỉ có quý nhưng họ xuất phát từ tác dụng của nhân tâm và dục vọng, lợi dụng chức quyền mưu cầu tư lợi, hiện tại gọi là thu nhập mờ ám, nhờ đó phát phú, đây là thu nhập không chính đáng, Vậy phải dùng phúc đức của bản thân mà hoán đổi, thông qua tiêu hao phúc đức của tự thân để đổi lấy thu nhập không chính đáng này, phúc đức kia một khi tiêu hao đến một mức độ nhất định nào đó thì sẽ có chuyện xảy ra, hoặc sự việc bại lộ bị bắt, hoặc bị chết thì đời sau phải trả. Bạn xem người ăn mày ngoài phố, đừng thấy anh ta hiện tại thê thảm thế này, rất nhiều đời trước đều là quý nhân quan chức hiển đạt, sinh sống trong nhung lụa ngọc ngà, xa hoa dâm đãng. Cho nên cổ nhân thường giảng phải hành thiện tích đức để đời sau đầu thai có được cuộc sống tốt đẹp, thực là có đạo lý. Nhưng cho dù là lấy đặc điểm nào đó mà phân chia đẳng cấp tầng thứ thì tiêu chuẩn đo lường căn bản nhất vẫn là đạo đức, người có chuẩn mực đạo đức càng cao thì phúc phận càng lớn, gia tộc của họ hưng vượng kéo dài nhiều năm, thời gian gia tộc hưng thịnh theo đó kéo tương ứng càng dài. Ở vùng Tây Nam Trung Quốc có một gia tộc Thổ Ty, tổ tiên là Dương Đoan đời Đường từ Thái Nguyên chuyển đến Bá Châu khu vực Tây Nam (Trung Quốc). Gia tộc đó được trời định thống trị 600 năm, cho tới thời kỳ đầu dựng lập triều đại nhà Minh, vì gia tộc đó bao nhiêu đời đã tích đức hành thiện, phúc trạch một phương. Cháu đời thứ 13 của Dương Đoan là Dương Xán cũng là công trạng xuất chúng, không những mở mang cương thổ mà còn giáo hóa bách tính. Sử sách chép rằng: “Tính ông hiếu thảo cha mẹ, hòa thuận anh em, an nhiên khiêm hòa, điều hành chính sự khoan hòa đơn giản, dân chúng được lợi vậy”. Ông cai quản vùng Bá Châu “Thổ ty đại biến” , “trang nghiêm tề chỉnh sánh cùng văn vật Trung thổ”. Thiên thượng cảm động trước việc tích lũy công đức của gia tộc ông nên đã tưởng thưởng gia tộc đó, để gia tộc đó kéo dài hơn một trăm năm nữa. Liên tục cho tới những năm Vạn Lịch triều Minh, rồi người thừa kế cuối cùng của gia tộc đó là Dương Ứng Long tạo phản, bị triều đình nhà Minh phái đại tướng Lý Hóa Long mang quân tiêu diệt mới kết thúc, trước sau tổng cộng tới hơn 700 năm.

Rất nhiều thầy phong thủy tu luyện đắc Đạo thường có thể tiếp xúc với huyệt vị có cấp bậc cao, địa linh thần sẽ cho biết huyệt vị này có thể chủ quản một triều đại bảy, tám trăm năm, hơn một ngàn năm, mấy ngàn năm, thậm chí hơn vạn năm. Điều này thật kỳ lạ, phải biết rằng, trong lịch sử Trung Quốc nhà Chu là triều đại dài nhất cai trị thiên hạ bất quá cũng chỉ tám trăm năm, vậy thì những huyệt vị vừa nói đến là thế nào? Chẳng lẽ thời gian huyệt vị chủ quản triều đại càng ngắn thì tầng thứ và năng lực của nó cũng theo đó mà càng thấp sao? Kỳ thực cũng không nhất định. Về mặt này còn động chạm đến vấn đề thiên mệnh, ví dụ một địa huyệt chủ quản của triều đại nào đó trong lịch sử Trung Hoa, không nhất thiết là tầng thứ huyệt vị đó không đủ, năng lực không đủ, mà là thiên mệnh an bài chỉ có bằng ấy năm, vậy họ chỉ có thể chỉ dùng một bộ phận tầng thứ và năng lực đối ứng trong đó để khởi tác dụng, bộ phận dư thừa thì bảo lưu lại không dùng nữa mà thôi.

Còn một nguyên nhân nữa chính là xã hội loài người có tồn tại những chu kỳ văn minh khác nhau, giới khoa học chúng ta ngày nay gọi nó là “văn minh tiền sử”. Ngày nay nhiều phát hiện khảo cổ đã chứng thực sự tồn tại nền văn minh tiền sử của nhân loại, mà hơn nữa còn không chỉ một lần, sau nhiều lần nền văn minh bị hủy diệt, lưu lại một số ít người và lại sáng tạo ra nền văn minh mới. Từ góc độ phong thủy mà nhìn sự thực này, đem tầng địa này gọi nó là “đại Càn Khôn địa”, cái ở trên “Càn Khôn địa”, dẫn dắt một thời kỳ văn minh, thì gọi là “đại Càn Khôn địa”. Có một số nền văn minh tiền sử có thể đã tồn tại thời gian rất dài rất dài, trong đó có thể có những triều đại tồn tại hơn một ngàn năm, mấy ngàn năm, thậm chí hơn vạn năm. Đại Càn Khôn địa mà người viết bài này biết được cho đến hiện nay là 50 vạn năm. Cũng có nghĩa là, thời kỳ văn minh nhân loại mà đại Càn Khôn địa đối ứng tối thiểu cũng là năm mươi vạn năm.

Trung Hoa đến nay có nền văn minh 5000 năm, điều đó có nghĩa là, cái “địa” mà dẫn dắt nền văn minh Trung Hoa tối thiểu cũng đã quản đến 5000 năm. Hoàng đế khai sáng văn minh Trung Hoa được gọi là “nhân văn sơ tổ”, cũng chính là nói huyệt vị có liên quan đến Hoàng đế có thể là huyệt vị dẫn dắt văn minh Trung Hoa.

Nói tới đại Càn Khôn địa cho đến văn minh tiền sử, chúng tôi nói một chút về thời kỳ văn minh lần trước, chính là tình huống của thời kỳ văn minh trước thời kỳ văn minh này của chúng ta. Giữa châu Mỹ và châu Âu hiện nay có một khối lục địa gọi là “Atlantis”, đó là địa điểm mà văn minh phương Tây lần trước phát triển nhất. Ban đầu họ tín ngưỡng Thần cho nên văn minh rất phát triển. Những người đạo đức cao thượng đều có thể bay, không phải bay cao mà là kiểu bay cách mặt đất tương đối gần. Đại khái là thời kỳ 9000 năm trước, khoa học của họ đã phát triển tới trình độ như thế nào, năng lượng mà họ sử dụng là nguồn năng lượng được chế tạo trong không khí, không ô nhiễm. Về cơ bản họ không dùng nhiên liệu một lần như than đá và dầu lửa. Họ thậm chí còn có kỹ thuật có thể chế tạo Mặt Trăng (theo các điều tra nghiên cứu khoa học khám phá Mặt Trăng, giới khoa học suy đoán Mặt Trăng có thể là rỗng, không phải hành tinh, mà là vật thể bay giống loại ở Trái Đất, chỉ là bề mặt được bao phủ một lớp đá rất dày), họ có thể tạo ra rất nhiều vật thể bay cỡ lớn, chu du trong một phạm vi nhất định bên ngoài hệ Ngân Hà.

Vậy ở phương Đông thì sao, cũng tức là trung tâm của lần văn minh trước xuất hiện ở Trung Hoa đại địa ngày nay, là cách nay khoảng hai vạn năm thôi, phạm vi bao phủ cả dãy núi Côn Luân, Tân Cương, Cam Túc, Sơn Tây, Thiểm Tây các nơi vùng trung thượng du Hoàng Hà, Trường Giang, bao gồm cả một dải Mông Cổ v.v. Đường hướng nghiên cứu khoa học của văn minh phương Đông lần trước nên nói là con đường nghiên cứu khoa học nhân thể, cũng chính là bắt đầu trực tiếp từ đạo đức con người, nâng cao văn minh của bản thân. Từ kẻ cầm quyền cho đến những người dân phổ thông, đạo đức đều rất cao thượng. Có thể nói là cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn Ngũ thường của nền văn minh lần này. Do vậy mà trình độ văn minh của họ rất cao, cho nên con người sống tới ba trăm, năm trăm tuổi cũng không phải là chuyện quá hiếm hoi ly kỳ! Nền văn minh lần này của chúng ta mọi người đều biết Kinh dịch, Hà đồ, Lạc thư, Hoàng đế nội kinh v.v., đó là những thứ mà chúng ta trong văn minh lần này suy xét tìm tòi còn chưa thấu, kỳ thực đây chỉ là Thần hữu ý lưu lại cho con người một chút ít văn minh lần trước mà thôi.

[1] Đường cục: chỉ khu vực, địa thế bằng phẳng trong hoặc ngoài huyệt vị

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/154818

The post Khám phá phong thủy (4): Địa huyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (3): Thầy phong thủyhttps://chanhkien.org/2023/01/kham-pha-phong-thuy-thay-phong-thuy.htmlSat, 28 Jan 2023 03:08:18 +0000https://chanhkien.org/?p=29608[ChanhKien.org] Trong lịch sử, Trương Tam Phong được gọi là Thái cực tông sư, trong võ thuật, là Chân nhân tu luyện Đạo gia, đồng thời ông cũng là một bậc thầy phong thủy. Trong Thiên Kham dư – Thiên Khẩu Thiên – Trương Tam Phong toàn tập, Trương Tam Phong nói rằng: “Duy thiên […]

The post Khám phá phong thủy (3): Thầy phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Trong lịch sử, Trương Tam Phong được gọi là Thái cực tông sư, trong võ thuật, là Chân nhân tu luyện Đạo gia, đồng thời ông cũng là một bậc thầy phong thủy. Trong Thiên Kham dư – Thiên Khẩu Thiên – Trương Tam Phong toàn tập, Trương Tam Phong nói rằng: “Duy thiên phúc thiện ác, duy địa tải thiện ác, duy tiên sư vị thiên địa mai tàng thiện ác. Thiên vô tư phúc, địa vô tư tải, tiên sư vô tư ân. Nhân hữu tư dục, tắc kiến lý bất minh. Địa lý giả, thiên lý dã. Ký hữu thiên lý, tức vô nhân dục, cố thử đạo duy thông minh chính trực thánh nhân hiền sĩ nãi khắc ngôn chi”. Tạm dịch: “Chỉ có Trời che phủ thiện ác, chỉ có Đất mang tải thiện ác, chỉ có Tiên sư (các vị Thần Tiên) vì trời đất mà chôn giấu thiện ác. Thiên không che phủ vì cái tư, Địa không mang tải vì cái tư, các vị Tiên sư không có cái ân tư tình dành riêng cho ai, con người vì có dục vọng riêng tư của bản thân, thì thấy đạo lý mà không thể minh bạch. Lý của đất, cũng là lý của trời vậy. Vừa có thiên lý, vừa không có dục vọng con người, vì cớ đó mà Đạo duy chỉ có các bậc thánh nhân hiền sĩ thông minh chính trực mới có thể nói đến”. Do vậy mà có thể biết tác dụng của các thầy phong thủy là thế thiên hành đạo, là có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính, khiến cho Đại Đạo Trương Tam Phong cũng phải kính trọng họ ba phần, và gọi họ là “Tiên sư” (bậc thầy bất tử).

Những thầy phong thủy tất phải được sư phụ chân truyền, đắc được năng lực thần thông, bổ sung thêm năng lực quan sát đối với “hình (thế)”. Tại Trung Quốc cổ đại có những thầy phong thủy sau khi tu luyện đến một trình độ nhất định, nhục thân của họ đều sẽ phát sinh những biến hóa rất lớn. Những cao nhân đó không ngại gì lạnh nóng, mùa hè nóng nực không đổ mồ hôi, mùa đông mặc một bộ y phục cũng không cảm thấy lạnh, một số người còn có thể bay, mọi người đều có thể tận mắt nhìn thấy; còn có những người có thể trực tiếp tiến nhập vào không gian khác, cho nên có người đang ở trước mắt người kia “soạt” một cái liền biến mất. Các thầy phong thủy thường hành tẩu ở những vùng ngoại ô nông thôn hay rừng núi, một bước chân có thể dài đến mấy trăm mét, ở nơi rừng núi bay qua bay lại, trong Thi Kinh: Đại nhã – Công Lưu các cụm từ như “trắc cương”, “giáng nguyên ”, “thệ thuỷ”, “quan kinh” (xin xem “Khám phá phong thủy – Thiển đàm về phong thủy“) đều có miêu tả lại những việc này, vì vậy một số người gọi thầy phong thủy là “Địa tiên” .

Trong dân gian, người ta cho rằng thầy phong thủy chính là người xem hiểu phong thủy, được xưng gọi là âm dương tiên sinh hay phong thủy tiên sinh. Từ xưa đến nay, có rất nhiều thuật sĩ giang hồ học được một chút vỏ ngoài của phong thủy rồi giả mạo danh nghĩa của phong thủy để kiếm sống trong xã hội. Thầy phong thủy và các giang hồ thuật sĩ là có sự khác biệt rõ rệt. Thuật sĩ giang hồ không tu luyện, họ chẳng qua là so với người bình thường có hiểu biết hơn về các phương pháp xảo thuật, kỹ thuật mà thôi, họ xem đất về cơ bản là xem “hình (thế)”, căn cứ vào các đúc kết kinh nghiệm phong thủy của tiền nhân mà dẫn dắt, và lấy những thuật loại này làm thủ đoạn mưu sinh. Họ chủ yếu là đại khái lựa chọn địa điểm, xem thời gian thích hợp một chút cho bách tính phổ thông.

Tuy rằng trình độ giữa các thuật sĩ giang hồ và thầy phong thủy có một khoảng cách sai biệt rất lớn, nhưng tự cổ đến nay, trong xã hội Trung Quốc vẫn luôn tồn tại các thuật sĩ giang hồ. Vì sao vậy? Người ta được phân chia thành các giai tầng, bách tính phổ thông có căn cơ nông cạn, thì năng lực của những thuật sĩ kia là cũng đủ dùng rồi. Trong tình huống bình thường, trong vòng một trăm dặm, tất có dị nhân, có thể biết phong thủy, hoặc hiểu Dịch lý, biết toán quái (xem bói), xem bát nước, v.v., năng lực lớn nhỏ khác nhau; các thuật sĩ tuy không hiểu rõ đạo lý nhưng cũng có trợ giúp thầy phong thủy chân truyền tuyên dương tích đức hành thiện, cho mọi người biết đạo lý cần thuận theo thiên thời địa lợi, mấy đời người tích phúc mới có thể đắc được một chỗ địa huyệt tốt để tạo phúc cho hậu nhân v.v., tất cả những điều trên đây đều là khởi được tác dụng chính diện tích cực nhất định đối với việc duy hộ đạo đức xã hội.

Bởi vì toàn bộ tiêu chuẩn đạo đức thời cổ đại là tuân theo quy tắc của các thánh hiền, mọi người đều có xu hướng tích đức, hoặc chí ít là phải thủ đức, vì vậy, một số thuật sĩ giang hồ tuy không có sư phụ truyền thụ và dẫn dắt nhưng vẫn có thói quen tĩnh tâm điều tức, nhắm mắt đả tọa, đối với bản thân họ là có chỗ tốt. Nếu như thực sự thành tâm, còn có thể cảm động trời xanh, khiến các vị sư phụ chân chính điểm hóa và truyền đạo cho họ. Chẳng qua là cũng có những thuật sĩ giang hồ cầu danh cầu lợi mà có cáo chồn quỷ rắn thao túng sau lưng, đặc biệt là có rất nhiều giang hồ thuật sĩ hiện đại xem phong thủy, toán mệnh (xem bói vận mệnh) lại càng là như vậy, họ chắc chắn không phải đều vì có suy nghĩ muốn có năng lực này của cáo chồn quỷ rắn, mà là vì coi trọng tiền bạc, xem nhẹ đức hạnh mà chiêu mời chúng đến, thật đáng bi thương.

Một số người đã liễu giải được những tác dụng của việc xem phong thủy thời cổ đại, bởi vì phong thủy trong quần chúng xã hội đã bị thất truyền nhiều năm, cho nên cũng không minh bạch được đạo lý, thường tìm đến một số thuật sĩ giang hồ có danh nghĩa là thầy phong thủy nhờ giúp bản thân xem này xem kia, nhưng thường là sẽ bị lừa gạt. Có những người đi giang hồ thậm chí còn niêm yết giá, chỗ nào chỗ nào bao nhiêu tiền, từ mấy vạn đồng đến mấy trăm vạn đồng đều có, đây chẳng phải là lấy cả “Thần thổ địa” đem bán hay sao? Như thế có thể nhìn được chỗ chân thật không?

Trương Tam Phong từng nói: “Kim nhữ thế nhân vọng đàm phong thuỷ, mạo độc sơn linh, cử thân hài dĩ cầu phúc lộc, đối thời sư dĩ luận ương tường, hoặc đại sưu cầu, hoặc tự tầm mịch, trám nhân hoá tài, yếu nhân khoa hảo, như thử nhân tâm, an tri thiên lý? Thập cá kham dư cửu cá cùng, hà túc quái dã!”; tạm dịch: “Người đời nay lớn miệng đàm luận về phong thủy, báng bổ Thần núi, dùng hài cốt của người thân để cầu lấy phúc lộc, tranh tài cao thấp trong quần thể những thầy phong thủy, không những truy cầu nơi phong thủy tốt cho người thân, mà còn tìm điều tốt cho mình, tranh giành tiền tài của người khác, rồi lại muốn được người khác tâng bốc ca ngợi, nhân tâm như vậy, làm sao biết được thiên lý? Mười người xem phong thủy thì chín kẻ khốn cùng! Chuyện này không kỳ lạ sao!” Một bậc thanh tịnh Chân nhân như Trương Tam Phong, có thể dùng những lời như thế mà phê bình, đủ để thấy sự coi thường của ông đối với những loại khi thế đạo danh (lừa đảo thế nhân, trộm cắp danh tiếng) này, những loại hành vi lừa người lấy tiền tài.

Đẳng cấp của huyệt mộ là có liên quan đến đạo đức, có thể điểm trúng huyệt tốt hay không, điểm vào huyệt mộ như thế nào, thì đều có quan hệ mật thiết với đức hạnh của thầy phong thủy, nếu không có đạo hạnh cao như vậy thì làm không nổi những sự việc thực chất. Rất nhiều thuật sĩ giang hồ lợi dụng vỏ ngoài của thuật phong thủy cũng trà trộn vào hàng ngũ của thầy phong thủy để lừa đảo. Họ có thể lừa được tiền, kỳ thực là họ đã dùi vào chỗ sơ hở của những người ăn xổi ở thì, muốn thành công nhanh chóng. Người cầu thầy phong thủy đều hy vọng nhận được sự trợ giúp của phong thủy mà làm đại quan phát đại tài, thậm chí nguyện ý trả rất nhiều tiền để tìm một vị trí đất tốt, kỳ thực bất quá cũng chỉ là leo cây tìm cá mà thôi. Tự cổ đến nay, sự hưng thịnh của một người hay một gia tộc đều do phúc đức tạo nên, rất nhiều trong số đó còn có liên quan đến việc tổ tiên tích phúc đức mà tạo nên, không phải nhất thời cầu mà được, là một loại quy luật vận hành tự nhiên của thiên địa. Kẻ không phúc đức thì cho dù được chỗ đất tốt cũng sẽ bị ông trời phá bỏ.

Những kẻ lấy tiền mua đất bằng, phần nhiều là kẻ giàu có hoặc quan chức cấp cao, hiện nay tham nhũng đã thành phong trào, đạo đức tiêu vong, trong những người giàu có một số là phát tài bất chính, đầu cơ tích trữ, chà đạp lên luật pháp, bắt nạt kẻ thiện lương. Với người không có chính niệm và thiện niệm làm sao có thể để họ đắc được chỗ đất tốt đây? Còn có một thiên lý, rằng người có phúc đức cho dù được chỗ đất tốt mà hậu nhân của họ nếu nguy hại cho thế gian thì chỗ đất tốt đó cũng sẽ bị phá bỏ trước khi có vận may cuối cùng. Cho nên hiện tại những chỗ đất mua từ các thuật sĩ giang hồ như vậy thì phần nhiều đều là đất bị phá hỏng rồi, sẽ rất nhanh chóng tiêu hao hết chỗ phúc phận tích lũy được, sẽ rơi vào cục diện người và tiền đều không còn.

Các thầy phong thủy chân chính là thiện tâm giúp người, không kể danh lợi, không cầu tiền tài, họ dựa theo thiên mệnh mà hành sự, những địa điểm mà họ chọn được thông thường là có quan hệ rất lớn với sự hưng suy của triều đại, sự biến thiên của lịch sử, vì vậy thường không phải là chọn một mảnh đất, mà là mở ra một bố cục. Bởi vì là người đắc Đạo, trên thân có năng lượng cho nên có năng lực “định (ấn định)” sự việc, mà các thuật sĩ giang hồ tất làm không nổi. Đương nhiên, loại “định” này cũng là căn cứ vào nhiều nhân tố bao gồm biến hóa của thiên tượng và phúc đức để mà tổng hợp xem xét.

Có những người thế gian không tin phong thủy, họ thường rất hay dùng những cách nói thoái thác kiểu như: “Phong thủy nếu đã lợi hại như vậy, vậy vì sao các thầy phong thủy vẫn bần cùng khốn khổ, không có mấy người gia thế phát tài?” Những người có cách nghĩ như vậy trong chúng ta, kỳ thực chính là không biết được chân tướng mà thôi. Trong những thầy phong thủy có tên tuổi trong làng phong thủy, rất nhiều người trong số họ là đời sau trong gia tộc đã được phú quý hưng vượng, thậm chí là trị vì thiên hạ, ví dụ như dòng họ Cơ triều đại nhà Chu, qua các thời đại đều có người là những cao nhân tinh thông thuật loại. Trong bao nhiêu năm trước đây thì chính họ là những người đã đặt bố cục phong thủy, đã đặt định cơ nghiệp 800 năm nhà Chu sau này. Đương nhiên, có thể làm điều này cũng đều là nhận lãnh thiên mệnh, gia tộc đó cũng là được thượng thiên công nhận và tuyển định rồi.

Nhân loại chúng ta là một bộ phận trong hệ thống sinh thái tuần hoàn ở địa cầu, là một tế bào của đại tự nhiên. Mà Trái Đất lại là một lạp tử tinh cầu trong hệ Mặt Trời, hệ Mặt Trời lại là một bộ phận tổ thành của hệ Ngân Hà, có thể nói là một lạp tử của hệ Ngân Hà, mà hệ Ngân Hà lại là một bộ phận trong các thiên hà trong vũ trụ, cho nên có thể nói Trái Đất là một tế bào trong sự vận hành của quần thể các hành tinh. Điều này cũng rất tương tự với di truyền học trong sinh vật học hiện đại: mỗi tiểu tế bào trong cơ thể con người đều bao hàm toàn bộ tín tức thân thể, mỗi tế bào đều có tính đối ứng một một với toàn bộ thân thể. Cho nên căn cứ theo quan hệ này, có thể từ nhỏ mà thấy lớn, và có thể từ cục bộ mà biết được tổng thể vậy.

Ví dụ, một thầy phong thủy, vì tu luyện có Đạo cho nên nhục thể của ông ấy có chu thiên mạch lạc, có năng lượng lưu chuyển; Trái Đất cũng như thân thể, cũng có mạch lạc gọi là long mạch, cũng có năng lượng vận chuyển, tương tự như vậy, các thiên hà trong vũ trụ cũng có chu thiên mạch lạc, cũng có năng lượng vận chuyển. Loại chu thiên mạch lạc này không chỉ có một loại mà có rất nhiều. Chúng ta biết rằng các hành tinh trong hệ Mặt Trời quay xung quanh Mặt Trời rất có quy luật, mà hệ Mặt Trời cũng là đang chiểu theo quy luật vốn có mà chuyển động, hệ Ngân Hà cũng đang vận chuyển. Sự biến đổi và vận hành giữa các hành tinh và thiên hà cho đến một số khí tượng đặc biệt nào đó được các nhà khoa học phát hiện ra là rất tinh vi, Newton cho rằng chỉ có Thượng đế mới có thể tạo ra những thứ này. Ở Trung Quốc cổ đại người ta gọi loại hoạt động tổng thể này là “thiên tượng” biến hóa và những chủng biến hóa này đại biểu cho thiên ý. Nếu như nói có Thượng đế, có Thần và có các sinh mệnh cao cấp, thì điều này đúng là có thể đại biểu cho ý tứ của họ.

Vào những thời điểm khác nhau, các thiên hà trong vũ trụ sẽ sản sinh ra những thay đổi vận chuyển khác nhau, đại biểu cho thiên ý khác nhau. Mà thiên ý trong những không gian khác nhau là cần những vận chuyển dẫn động khác nhau. Lấy một ví dụ, thiên tượng biến hóa đến thời khắc cần cải triều hoán đại, thì ở bên dưới một gia tộc hoặc một người nào đó đã tích đức hành thiện, phúc đức sâu dày sẽ trở thành hoàng đế, khi đó có thầy phong thủy có thể câu thông với thiên địa, lãnh nhận Pháp chỉ mà tìm ra gia tộc này, rồi lại vì gia tộc ấy mà đi tứ xứ tìm kiếm long mạch và huyệt vị, và để cho tổ tiên của họ được an táng trên các chân huyệt. “Nhân” và “Địa” tương hợp, đối ứng với “Thiên”, thiên thượng sẽ an bài Thiên Thần (hoặc những người tu luyện đã tích lũy uy đức cự đại) chuyển sinh vào gia tộc này và sau đó trở thành hoàng đế, tam tài hợp nhất như vậy, là để đảm bảo thiên ý được thành công.

Trên thực tế, chúng tôi đã phát hiện ra rằng gia tộc như vậy có thể được tuyển chọn thì rất nhiều tổ tiên của họ đều có người tu luyện, mà hơn nữa còn thành công trong tu luyện (đắc Đạo), rất nhiều người trong số họ cuối cùng còn thông hiểu phong thủy, có thể dùng công năng hoặc thần thông mà tìm được huyệt vị.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/154818

The post Khám phá phong thủy (3): Thầy phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (2) – Thiển đàm về phong thủyhttps://chanhkien.org/2023/01/kham-pha-phong-thuy-thien-dam-ve-phong-thuy.htmlThu, 19 Jan 2023 07:29:25 +0000https://chanhkien.org/?p=29574[ChanhKien.org] Nhắc đến phong thủy, khẳng định là có rất nhiều người có nhiều nghi vấn, ví như phong thủy rốt cuộc là gì, phong thủy khởi tác dụng như thế nào, cho đến nguồn gốc của phong thủy, v.v. Những vấn đề cơ bản này nếu không được giải thích rõ ràng, sẽ là […]

The post Khám phá phong thủy (2) – Thiển đàm về phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nhắc đến phong thủy, khẳng định là có rất nhiều người có nhiều nghi vấn, ví như phong thủy rốt cuộc là gì, phong thủy khởi tác dụng như thế nào, cho đến nguồn gốc của phong thủy, v.v. Những vấn đề cơ bản này nếu không được giải thích rõ ràng, sẽ là chướng ngại cho nhận thức về phong thủy của nhiều người, đặc biệt là những người ở Trung Quốc đại lục sẽ đơn giản là quy nạp thành mê tín rồi từ đó mà bài xích nó. Vậy chúng tôi sẽ từng bước từng bước một, trước tiên từ nguồn gốc bề mặt của thuật ngữ “phong thủy” này mà giải thích một chút.

1. Nguồn gốc của phong thủy

Thuật ngữ “phong thủy” bắt đầu xuất hiện trong Táng thư được viết bởi Quách Phác (tự Cảnh Thuần, sinh năm 276, mất năm 234, là sử gia, thi gia, văn học gia, Đạo gia và phong thủy gia) vào thời Đông Tấn. Trong sách, Quách Phác định nghĩa “phong thủy” là “an táng giả (kẻ được an táng), ẩn tàng vậy, phải dựa vào sinh khí”… “Khí” nương theo gió tất sẽ tản ra, ở trong nước tất sẽ đình chỉ (ngừng vận hành), người xưa tìm cách khiến nó tụ lại không tán, khiến nó vận hành chứ không đình chỉ, vì cớ đó gọi nó là phong thủy. Quách Phác đưa ra khái niệm “khí”, hơn nữa trích lược cô đọng tối đa diện mạo ngoại hình của hai nguyên tố “gió” và “nước” để hiểu rõ nguồn gốc của “khí” và điểm quy tụ của nó. Bởi vì ông đề cập đến từ “phong thủy” lần đầu tiên trong cuốn Táng thư và đặt định cấu trúc lý luận cho phong thủy, nên ông được xưng tôn là thủy tổ của phong thủy giới.

Kỳ thực, lịch sử của lĩnh vực phong thủy này so với lịch sử của Táng thư còn dài hơn nhiều. Các học giả phong thủy đời sau cho rằng trong “Thi Kinh: Đại nhã – Công Lưu” có những mô tả liên quan đến các hoạt động phong thủy:

“Công Lưu trung hậu, quan sát xem xét vùng đất này định chỗ cho dân ở, tài nguyên nhiều và phong phú… tìm lên đến tận núi cao, rồi lại xuống đến bình nguyên.

Công Lưu trung hậu, đi đến trăm con suối, cánh đồng mênh mông ngẩng mặt lên trông xa tít tắp, lại leo lên ngọn đồi phía Nam, là đứng đó có thể quan sát về vùng đất kinh thành. Rồi làm nhà ở quanh nơi kinh thành, cư ngụ từng đoàn từng đoàn khách lữ, nói nói cười cười vô cùng vui vẻ.

Công Lưu trung hậu, cương thổ vừa rộng vừa dài, leo lên gò cao quan sát bóng Mặt Trời, xem xét âm dương, quan sát tới nguồn của con suối…… xem xét đánh giá chỗ đầm trũng và vùng bình nguyên… xem xét phía Tây của các ngọn đồi”.

Từ những miêu tả đầy đủ nhất về mấy đoạn thi tình họa ý đẹp đẽ thơ mộng này, chúng ta dường như phảng phất thấy cổ nhân vì để “tư vũ” (xem xét không gian) mà có lúc “trắc cương” (leo lên đồi), có lúc thì “giáng nguyên”, có khi thì “thệ thủy” (đi đến các con suối), cũng có khi “quan kinh” (quan sát nơi kinh thành). Quá trình đó là có những nét tương đồng với những nhà phong thủy học hậu thế với bốn bộ khúc (bốn điểm) gồm: Mịch long, Sát sa, Quan thủy, Điểm huyệt.

Trong bài “Đại nhã – Miên” trong Thi Kinh cũng có mô tả tương đồng: “Cổ Công Đản Phụ, sáng sớm đã xuất hành, lĩnh suất con cháu đi dọc bờ sông về phía Tây, đến dưới chân núi Kỳ (thuộc Thiểm Tây, Trung Quốc). Sau đó lấy cô gái người Khương làm vợ, cùng nhau xem xét non nước và nơi ở”. Cổ Công Đản Phụ, là cha của Quý Lịch, ông nội của Chu Văn Vương, người lĩnh suất dân tộc chuyển dời đến Kỳ Sơn. Ý tứ của từ “tư vũ” trong bài thơ nghĩa là “thẩm thị” (suy nghĩ đánh giá) và “tương khán” (xem xét lẫn nhau).

Những hoạt động phong thủy này được người thời bấy giờ gọi là “tương địa” hay “hình pháp” (là hệ thống lý luận phong thủy do trường phái Giang Tây đưa ra). Phong thủy còn được gọi là “kham dư” (tên gọi chung cho khái niệm trời đất), vậy cách nói “kham dư” này nguồn gốc là từ đâu? Thuật ngữ “kham dư” xuất hiện sớm nhất vào thời Tây Hán do Hoài Nam Vương Lưu An chủ trì môn khách biên soạn cuốn sách thứ ba Thuận thiên văn trong bộ sách Hoài Nam tử, nó mang hàm nghĩa về đạo lý vận hành của Thiên Địa. Hứa Thận (sinh năm 30, mất năm 124, thọ 95 tuổi, là Kinh học gia, văn tự học gia, ngữ ngôn học gia) thời Đông Hán đã nói: “Kham là Thiên đạo (trời); Dư là Địa đạo (đất) vậy!”

Phong thủy còn có cách gọi là “địa lý”. Địa lý xuất hiện sớm nhất trong Hệ từ (là một cuốn sách nghiên cứu về Dịch, thường đề cập đến Dịch truyện, Hệ từ truyện hoặc Chu dịch Hệ từ) của Chu dịch: “Dịch là Thiên Địa chuẩn (chuẩn mực của trời đất): cố nhiên có thể dễ dàng trợ yên trời đất. Ngẩng lên quan sát thiên văn, cúi xuống quan sát địa lý, chính là đã biết rõ ràng chốn u minh”.

Đến khi Quách Phác viết Táng thư, kỳ thực là ông đã đứng trên vai những người khổng lồ, ngoại trừ việc chỉnh lý một số lý luận phong thủy ra, ông chủ yếu là làm rõ thêm thuật ngữ “phong thủy” này. Cũng giống như thuật ngữ “khí công” của người đời sau, nếu không đi nghiên cứu thì sẽ rất khó từ ý tứ bề mặt của chữ “phong thủy” này mà đoán biết được Thiên ý cũng như thăm dò được nội hàm của Thiên Địa là thế nào.

Bất kể là khí công hay là phong thủy đều giảng về “khí”, hiện nay rất nhiều người lý giải nó là dòng khí, kỳ thực không phải vậy. Hán ngữ hiện đại (chữ giản thể) bị đơn giản hóa quá nhiều, rất nhiều chữ bị loại bỏ không dùng, từ đó mà tạo thành một số lý giải mơ hồ khác nghĩa. Khí ở đây được giải thích là “炁”(khí) (không có lửa) sẽ chuẩn xác hơn một chút, đây là nguồn gốc từ văn hóa Đạo gia cổ đại của Trung Quốc, là đại biểu cho năng lượng.

Phong thủy được phổ cập rộng rãi trong quần chúng hiện nay, chính là bắt đầu từ sự phổ biến phong thủy của triều đại Minh, Thanh đến nay, trên thế giới là truyền bá những thứ vỏ ngoài, lưu truyền một chủng thuật loại, hình thành ra rất nhiều các môn phái khác biệt của phong thủy như “Huyền không”, “Lục hào”, “Lý khí”… Hiện tại có thể thấy được có hai loại trước tác phong thủy chính yếu, một là Hình pháp và một là Lý khí. Hình pháp chủ yếu đề cập đến năm yếu quyết là Loan đầu (mỏm núi), Long, Huyệt, Sa (cát nhỏ), nước và hướng, còn Lý khí là ở trên cơ sở này mà thêm vào các thứ của lý luận Dịch học như Cửu cung Bát quái, Âm dương Ngũ hành. Kỳ thực chúng chẳng qua là từ các đại sư phong thủy qua các thời đại đã từ một số kinh nghiệm bản thân mà tổng kết ra, nếu không đắc được chân truyền thì chỉ là dựa vào kinh nghiệm để suy đoán rồi tổng kết lại những kinh nghiệm đó mà thôi. Chính là họ chỉ biết “hình” mà không biết “thần”, chỉ là loanh quanh ở “ngoại hình”, thậm chí còn gây ra tranh đấu ồn ào với các trường phái phong thủy khác.

Ví như ở cùng một nơi, phái Huyền không nói có đất, có thể an táng (chôn cất), phái Lý khí nói không được, hễ chôn cất xong xác thực có phát tán ra; ở một nơi khác, phái Lý khí nói có thể, Huyền không nói không được, hễ chôn cất xong giống như sẽ bị phát tán ra. Vậy Huyền không đúng hay Lý khí đúng đây?

Trong hoạt động thực tiễn của phong thủy, chúng tôi phát hiện rằng có một nơi phải chăng là “chân huyệt” (huyện đạo chân chính), đó là lý do quyết định huyệt vị đó có hay không có “Thần”, chúng tôi gọi vị Thần trấn giữ huyệt vị này là “Địa Linh Thần”, đồng thời còn dựa vào việc thầy phong thủy có uy đức hay không mới có thể câu thông được với Địa Linh Thần mà khởi tác dụng, chứ không chỉ là hoàn toàn dựa vào xem hình thế của đất.

Có người cho rằng học vấn về phong thủy này là con người trong trường kỳ tích lũy kinh nghiệm về thăm dò trắc định hình thế địa chất mà hình thành nên môn học này. Nếu thực sự là như thế, vậy thì với trình độ hiện đại hóa của khoa học kỹ thuật hiện nay, ai muốn làm Hoàng đế chính là có thể dùng máy móc cơ giới hiện đại, ở nơi địa hình đã được tổng kết đúc rút kinh nghiệm kia mà làm địa huyệt (lăng mộ) cho bản thân là có thể thành công rồi sao? Tại sao điều đó không thể được? Đó là vì con người có thể phỏng theo mô hình phong thủy mà tạo địa hình, nhưng quả thực là không cách nào sắp đặt được cho vị Địa Linh Thần kia trú ngụ ở đó.

Phong thủy được quy về tiểu đạo thế gian của Đạo gia, văn hóa Đạo gia cho rằng căn nguyên (nguồn gốc) sinh mệnh con người là ở Thiên thượng, mục đích của sinh mệnh là thông qua tu luyện dần dần tiếp cận và cuối cùng và đồng hóa với bản tính tiên thiên của bản thân, gọi là phản bổn quy chân. Con đường tu luyện của các thầy phong thủy là quá trình quay trở về bản tính tiên thiên của bản thân, dần dần tiếp cận được năng lực của Thần linh, và xuất hiện công năng đặc dị, có thể nhìn được “khí” trên địa huyệt (chỗ an táng), có những ánh sáng là do huyệt vị kia đối ứng với chỗ mang năng lượng trên thân của Địa Linh Thần mà hiển hiện ra, những vị có công năng cao thậm chí có thể trực tiếp nhìn được ở chỗ huyệt vị đó có hình tượng của Địa Linh Thần. Địa Linh Thần đối ứng với huyệt vị nếu khởi tác dụng càng lớn thì huyệt vị càng tốt. Vậy phong thủy thực chất có thể khởi tác dụng có nguyên nhân là do tác dụng của Thần ở phía sau hình thức bề ngoài.

Văn hóa truyền thống Trung Hoa là văn hóa sùng bái Thần, rất nhiều thư tịch cổ cùng với truyền thuyết cổ xưa ghi chép lại và lưu truyền rằng ở vùng đất Thần Châu Đại địa của chúng ta vào thời cổ đại đã tồn tại một thời kỳ nhân Thần đồng tại, lúc đó, các vị Thần Tiên thường hiển hiện trong thế gian con người để truyền bá cho tổ tiên nguyên thủy các chủng loại văn hóa và kỹ nghệ (kỹ thuật, nghệ thuật). Mọi người có thể không cần gieo quẻ coi bói mà trực tiếp câu thông với các vị Thần để liễu giải Thiên ý.

Tương truyền, một số nhân vật có đức hạnh đều là thông qua Thần Tiên trực tiếp chỉ điểm dạy bảo mà trở thành thầy phong thủy. Trong truyền thuyết dân gian thời đại nhà Đường, bậc thầy phong thủy Dương Quân Tùng (1), đã gặp được Cửu thiên Huyền nữ, đắc được thụ giáo nên mới tinh thông phong thủy, trở thành Nhất đại Đại gia (nhà phong thủy lớn nhất của một thời đại), cho nên phong thủy chân truyền của môn nhân họ Dương là một môn phái, họ cúng phụng tổ sư là Cửu thiên Huyền nữ. Mà trong giới phong thủy còn có ghi chép lại tên tuổi thầy phong thủy sớm nhất là Thanh Ô Tử, cũng có ghi chép nói là đại thần của thời kỳ Hoàng đế, trong lưu truyền của dân gian, thì những mô tả sớm nhất về phong thủy của nền văn minh phương Đông lần này cũng là từ thời điểm đó mà bắt đầu.

2. Vì sao phong thủy lại khởi được tác dụng?

Hiện nay không ít người cho rằng phong thủy là mê tín. Ví như việc tìm kiếm một địa điểm tốt để an táng di hài tổ tiên có thể ảnh hưởng đến họa phúc của đời sau, mặc dù trong lịch sử ghi chép lại không thiếu những sự việc như vậy nhưng rất nhiều người hiện đại trong tư tưởng cảm thấy phi lý lạ thường, không biết nguyên do từ đâu, vì vậy mà cảm thấy điều này là không thể. Kỳ thực vật lý học hiện đại đã phát hiện rằng giữa vật chất với nhau có một mối liên hệ xuyên việt thời gian và không gian, trong vật lý lượng tử gọi là liên kết lượng tử.

Nói ra thì rất dài, tại phương Tây, khoa học hiện đại ra đời tại phương Tây đối lập về hình thức bề mặt với tôn giáo, triết học và giả kim thuật của Tây phương, nhưng xác thực là chúng có mối liên hệ nội tại không thể tách rời. Kinh thánh nói rằng Thượng Đế tạo ra vũ trụ, vào ngày đầu tiên là có ánh sáng, và thế là có ánh sáng, rồi sau đó là vì con người mà Thượng Đế tạo ra vạn sự vạn vật trên thế giới này, chuẩn bị thật tốt một hoàn cảnh sinh sống cho con người rồi cuối cùng tạo ra con người vào ngày thứ sáu. Ngày thứ bảy, Thượng Đế tạm nghỉ ngơi, kỳ thực, Ngài cũng là vì con người mà tạo ra việc nghỉ ngơi, để con người tận hưởng phúc lành trong việc nghỉ ngơi. Con người đã được Thượng Đế sáng tạo cho họ một hoàn cảnh sinh tồn như vậy một mạch cho đến bây giờ.

Thuận theo sự phát triển của khoa học hiện đại, con người có sự hiểu biết càng ngày càng nhiều đối với vũ trụ này, con người được sinh ra vào ngày thứ sáu ấy, họ đã bắt đầu nghiên cứu xem ánh sáng được tạo ra vào ngày đầu tiên là thứ gì, từ đó một loại vật lý học rất kỳ quái đã ra đời, gọi là vật lý lượng tử. Và nó có tác động to lớn đến giới vật lý, triết học và tôn giáo hiện nay.

Căn cứ theo cách giải thích của vật lý lượng tử, ánh sáng là một chủng vừa là sóng vừa là hạt, đặc tính này trong cơ học lượng tử được gọi là lưỡng tính sóng hạt, mà hơn nữa thứ ánh sáng này còn có tính không xác định, cũng chính là bạn xác định được vị trí của nó thì cũng không có cách nào xác định được tốc độ của nó và ngược lại, nếu xác định được tốc độ của nó thì cũng không cách nào xác định được vị trí của nó. Các nhà khoa học từ góc độ của vật lý học truyền thống đã nhìn thứ giống lừa mà không phải lừa, giống ngựa mà không phải ngựa này là lượng tử. Vì để nghiên cứu nó, các nhà khoa học đã cho ra đời một môn khoa học mới, gọi là vật lý học lượng tử.

Giới vật lý học lượng tử đã xuất hiện rất nhiều cao nhân, và những cuộc đàm luận vô cùng ly kỳ của họ khiến người ta càng ngày càng không cách nào phân biệt được ai là khoa học gia hay ai là triết gia… Ví dụ, nhà khoa học người Anh Penrose đã đưa ra thuyết “Đa vũ trụ”, ông tuyên bố rằng vũ trụ mà chúng ta đang sinh sống này sẽ không ngừng phân chia, mỗi lần quan sát của chúng ta (đây là một từ xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm) thì nó sẽ phân chia một lần, toàn bộ các vũ trụ phân chia đều tồn tại cân bằng, vì vậy tất cả các khả năng đều đồng thời tồn tại; nhưng chúng ta chỉ sinh sống ở một trong số các vũ trụ đó nên không cách nào cảm nhận được sự tồn tại của các vũ trụ khác. Ở một vũ trụ khác, Hitler có thể đã chế tạo ra bom nguyên tử trước cả nước Mỹ; J.F. Kennedy có thể vẫn chưa bị ám sát; bố mẹ bạn có thể chưa kết tinh tình yêu, và bạn thậm chí có thể là không tồn tại…

Trong vật lý học lượng tử có một hiện tượng thu hút sự chú ý rất lớn đối với nhiều người, gọi là hiện tượng vướng mắc lượng tử hay vướng víu lượng tử. Các nhà vật lý học nói: Có những mối liên quan mạnh mẽ giữa hai hay nhiều hơn thế các hệ thống lượng tử phi định hướng, phi kinh điển. Nói một cách đơn giản, chính là sẽ có hiện tượng bất kể khoảng cách giữa hai lạp tử có cự ly bao xa thì một lạp tử cũng đều sẽ ảnh hưởng đến lạp tử kia, nghĩa là, hai hạt bất luận dù cách xa nhau đến đâu cũng không bị ảnh hưởng bởi thời gian và không gian, mà cũng không cần bất kỳ kết nối nào, chúng đều có thể “tâm tâm tương ứng”. Đây đơn giản giống như điều viển vông nên khó trách nhà khoa học lượng tử Pauli đã nói rằng vật lý học lượng tử là “ngành khoa học thoát thai từ giả kim thuật, và bây giờ nó có vẻ còn thần bí hơn cả thuật giả kim”.

Những lý thuyết kỳ lạ tưởng chừng như hoang đường phi lý trên đây lại đều là những thành tựu khoa học kỹ thuật hết sức thực tại, mà hơn nữa rất nhiều người đã đạt giải Nobel cho những lý thuyết kỳ quái nêu trên. Đọc đến đây có thể bạn vẫn chưa ra nhận ra ý vị của những lý thuyết này là gì, nói thẳng ra, nếu như hiện tượng “vướng mắc lượng tử” hiện nay thực sự được nghiên cứu thấu triệt, như vậy con người chúng ta hôm nay có thể thông qua sự việc nào đó của hôm nay, mà xuyên việt thời không để cải biến lịch sử của quá khứ hoặc tương lai… Cho nên, từ góc độ của thuyết lượng tử, phép màu của các vị Thần Tiên thuật sĩ cổ đại cũng không kỳ lạ chút nào.

Ở nước ngoài vẫn có những học giả tiến hành một số nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến phong thủy, phong thủy học cho rằng, thân thể con người là sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ, có mối liên hệ tiềm tại sẵn có với những người trong huyết thống trực hệ với người đó. Nghe nói có một thực nghiệm là lấy tinh trùng của một người, đặt cách người đó một khoảng cách rất xa, sau đó từ sau lưng người tham gia làm thí nghiệm này đánh một cú rất mạnh khiến anh ta giật mình, kết quả là trong phòng thí nghiệm đặt ở chỗ rất xa kia, tinh trùng của người này cũng biểu hiện ra phản ứng sợ hãi tương tự như thế.

Thí nghiệm này đều đã được phát sóng trên các phương tiện truyền thông chính thống ở nước ngoài, rất nhiều người đã xem, nó đã đột phá rất nhiều rào cản, bất luận là từ lý thuyết hay là từ thực nghiệm thực tế, nó đã từ góc độ khoa học mà có thể chứng minh được phong thủy là có thể khởi được tác dụng thực tế trong thực tiễn cuộc sống.

Văn hóa chính thống Trung Quốc đi theo một con đường khoa học khác, là trực tiếp nhắm thẳng vào vũ trụ, thân thể người, thời không mà nghiên cứu, hơn nữa là từ góc độ đả tọa tu luyện, khai phá tiềm năng thân thể người mà phát triển khoa học, điều này là khác với con đường khoa học thực chứng được truyền ra từ phương Tây. Mặc dù như thế, dùng lý thuyết của khoa học thực chứng phương Tây hiện nay cùng với các thí nghiệm của nó cũng có thể kiểm chứng được tính chính xác của văn hóa Trung Quốc.

Các nhà hiền triết Trung Quốc đã có rất nhiều luận thuật sâu sắc về thiên nhiên kỳ diệu và vũ trụ huyền ảo. Ví như trong Kinh dịch viết: “Không có xa gần sâu kín, mà biết được việc tương lai. Nếu không phải là vật tinh vi nhất trong thiên hạ thì làm sao được như thế?” Nói về thuật bói toán, tử vi, bất luận thời gian hay vị trí xa gần, đều có thể biết rõ sự việc tương lai. Con người hiện nay tán thán tinh anh chí cao của Dịch đạo, tán thán Đại đạo của Thánh hiền.

“Dịch là vô tư (tạm hiểu là không suy tư), là vô vi vậy, tịch nhiên bất động, thấu cảm mà hài hòa với mọi việc trong thiên hạ. Không phải là Thần trong thiên hạ thì làm sao có thể được như thế”. Dịch là vô phương hướng vậy. Nhược bằng có niệm hữu vi, tất mới có phương hướng vậy, thì cũng không phải là Dịch. Thấu cảm là từ trái tim đến trái tim, do vậy mà trái tim đó thông suốt với tâm của thiên địa vạn vật. Vật có mấy phần động tĩnh, cho đến Thần, chỗ này gọi là mọi “động” khởi ra đều là tự nhiên vậy. Từ đó có thể thấy lý thuyết vật lý lượng tử của nghiên cứu khoa học hàng đầu hiện nay cùng với chỗ mê của Kinh dịch mấy nghìn năm trước đây của Trung Quốc đã vô tình trùng khớp, quy luật vận động của lượng tử cùng với quy luật được mô tả trong Kinh dịch đã là hoàn toàn tương đồng rồi.

3. Vậy phong thủy rốt cuộc là như thế nào?

Đạo gia cho rằng vũ trụ này giống như Thái cực, cũng do Âm và Dương tạo thành. Tam giới chỉ là một phạm vi cục bộ của vũ trụ, do Ngũ hành cấu thành. Cho nên vũ trụ diễn hóa ra tam giới, do Âm Dương diễn hóa mà thành Ngũ hành. Ngũ hành chỉ phù hợp với phạm vi trong tầng thứ này của tam giới, những nhận thức siêu việt ngoài phạm vi này chính là phải dùng đạo lý của Âm Dương chứ không thể dùng đạo lý của Ngũ hành mà dẫn dắt được. Giống như những sinh mệnh sinh sống trên địa cầu cần có “trọng lực” (lực hấp dẫn), nhưng những hiểu biết của khoa học cũng chỉ có thể là đúng, là chân lý trong phạm vi địa cầu này mà thôi, siêu việt qua địa cầu mà tiến nhập vào phạm vi của Thái Dương hệ (hệ Mặt Trời) thì nó sẽ trở thành lý luận sai lầm rồi. Con người khi tiến vào không gian, đi đến các hành tinh khác thì sẽ có trạng thái không trọng lực, và sẽ lơ lửng bay lên.

Phong thủy học ở Trung Quốc còn được gọi là Âm Dương học, phong thủy tiên sinh trong dân gian còn được gọi là Âm Dương tiên sinh, vậy liệu chúng ta có thể từ những điều này suy đoán ra phong thủy có nguồn gốc rất cao hay không, và đạo lý của nó ít nhất có thể phù hợp áp dụng cho vũ trụ này?

Thích Ca Mâu Ni nói rằng đất, nước, lửa, gió là “tứ đại”, và cho rằng vạn sự vạn vật trong thế giới vật chất này đều do tứ đại cấu thành. Lấy “con người” làm ẩn dụ: xương cốt thân thể là “đất”, mang tải toàn bộ toàn bộ nền tảng cơ bản của sinh mệnh; chất lỏng là máu chảy trong thân thể, là “nước”; nhiệt độ cơ thể người được khéo léo sắp đặt ở mức 37 độ C, còn hơn một độ kém một độ đều cảm thấy không ổn, đó chính là “lửa” và con người cần hô hấp mới có thể sống thì hô hấp chính là “gió”.

Từ nhận thức bề mặt không gian này của thế gian con người, phong thủy cũng có liên quan với ba nhân tố lớn là gió, nước và đất. Cho nên từ phạm vi nhận thức của Thích Ca Mâu Ni đối với vũ trụ mà nói, phong thủy cũng rất cao rồi, tối thiểu cũng chiếm ba nhân tố, cũng chính là nói nguồn gốc của phong thủy rất cao, chí ít cũng phù hợp với nhận thức của Thích Ca Mâu Ni về phạm vi rất lớn của vũ trụ này.

Vô luận là Đạo gia hay là Thích Ca Mâu Ni đều giảng về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Phong thủy ở Trung Quốc được xếp vào tiểu đạo thế gian của Đạo gia. Tu luyện Đạo gia giảng “chu thiên”, giảng “huyệt vị”, còn giảng thân thể con người là tiểu vũ trụ, rất nhiều người dù ít dù nhiều đều biết một số tri thức nhất định về mối liên quan giữa chu thiên và huyệt vị của thân thể người, nhưng thân thể con người chính xác là tồn tại các loại hình thức khác nhau của chu thiên, kinh mạch cùng rất nhiều huyệt vị, là điều mà một người bình thường rất khó để có hiểu biết rõ ràng, bởi vì những điều này trước nay đều là những bí mật mà giới tu luyện luôn không dễ dàng công khai.

Trung Quốc cổ đại luôn nghiên cứu những bí ẩn giữa trời và đất, đưa ra học thuyết “Thiên nhân hợp nhất”, cũng chính là nói Thiên, Địa và nhân, tam tài đối ứng nhau. Đạo Đức Kinh nói: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời…”, như vậy mọi người nghĩ xem, nếu là như thế mà nói, trên Trời có phải cũng là có chu thiên và huyệt vị hay không? Chỉ là lúc này, huyệt vị không còn gọi là huyệt vị nữa mà gọi là Thần vị rồi, cũng chính là điều mà Đạo gia thường gọi Chu thiên ty chức Thần (Thần cai quản chu thiên), cũng có một số cách nói nào đó cho rằng có 365 vị, họ lần lượt nó đối ứng với 365 huyệt bên trong cơ thể người. Bề mặt chữ của chu thiên ý tứ là chỉ sự tuần hoàn giữa Trời và Đất, cơ thể người có chu thiên, vậy Trời Đất tự nhiên cũng sẽ có chu thiên tồn tại.

Tương tự như thế, vậy Đất có phải cũng là một thể hệ vũ trụ hay không, Đất có phải cũng là một sinh mệnh sống, và Đất cũng có mạch lạc, chu thiên và huyệt vị? Kỳ thực, nói thẳng ra, từ góc độ nào đó mà nhận thức, Đất cũng là Trời, cũng là người. Trời cũng là Đất, cũng là người. Con người cũng giống như vậy, là Đất, cũng là Trời. Ví như lý luận bề mặt của Trung y (y học Trung Quốc cổ đại), chính là cho rằng cơ thể người đồng thời có đầy đủ ba phần Thiên, Địa, nhân, phần bên dưới của cơ thể người là Địa, phần giữa cơ thể người là nhân, và phần trên của cơ thể người là Thiên.

Nếu như những lý luận trên đây là đúng đắn, vậy liệu chúng ta có thể nói rằng – phong thủy, tìm tòi khám phá ra thì chính là hoạt động bí ẩn huyền diệu của thể hệ Địa này? Bất luận có gọi là kham dư, gọi là địa lý, gọi là hình pháp hay gọi là phong thủy gì gì đó, tuy cách gọi có khác nhau nhưng bản chất vẫn là không thay đổi, về cơ bản mà nói, chính là quá trình lấy “Địa” làm tọa độ tham chiếu chính để tìm tòi khám phá bí ẩn huyền diệu của Trời và Đất. Người ta đem các học thuyết lý luận được phát triển theo cách này gọi là phong thủy học; mà trong quá trình sử dụng các phương pháp cụ thể được gọi là thuật phong thủy. Dẫn dắt rộng hơn mà nói, quá trình này kết hợp cùng với hoạt động tu luyện để phản bổn quy chân của sinh mệnh, cho nên quá trình này cũng là một quá trình tu luyện đề cao của sinh mệnh. Những thứ thuật loại hoặc năng lực có liên quan đến hoạt động phong thủy hoặc thể hệ Địa, được tu xuất ra trong quá trình tu luyện, thì gọi là thuật phong thủy

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/154818

Chú thích:

(1): 楊 筠 松, còn gọi là Dương Công. Ông tên Ích, tự Thúc Mậu, hiệu Quân Tùng, sinh năm 834, mất năm 906 thời nhà Đường, sinh ra ở vùng Đậu Châu, ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Ông được tôn xưng là phong thủy Đại Tông Sư, là người khai phát hoằng dương thuật phong thủy.

The post Khám phá phong thủy (2) – Thiển đàm về phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầuhttps://chanhkien.org/2023/01/kham-pha-phong-thuy-loi-mo-dau.htmlThu, 12 Jan 2023 07:45:49 +0000https://chanhkien.org/?p=29526[ChanhKien.org] LỜI MỞ ĐẦU Ở các nước châu Á, có rất nhiều người yêu thích phong thủy. Họ đã học được một số lý luận phong thủy từ sự lưu truyền và từ những thư tịch cổ, trải qua nhiều năm miệt mài theo đuổi và chứng nghiệm, họ phát hiện rằng phong thủy xác […]

The post Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

LỜI MỞ ĐẦU

Ở các nước châu Á, có rất nhiều người yêu thích phong thủy. Họ đã học được một số lý luận phong thủy từ sự lưu truyền và từ những thư tịch cổ, trải qua nhiều năm miệt mài theo đuổi và chứng nghiệm, họ phát hiện rằng phong thủy xác thực có thể khởi được một số vai trò nhất định. Các nhà khoa học phương Tây cũng đã phát hiện rằng Trái Đất có hiện tượng năng lượng luân chuyển và dòng địa điện (dòng điện dưới lòng đất), điều này trùng hợp với lý luận phong thủy. Rất nhiều công ty lớn của phương Tây và giới nhà giàu Đông Nam Á thậm chí với mỗi sự việc đều thỉnh mời thầy phong thủy về tư vấn hỏi han.

Nguồn gốc của phong thủy là từ Trung Quốc, điều này đã được công nhận rồi. Có một câu nói dân gian ở Trung Quốc: “Một là mệnh, hai là vận, ba là phong thủy, bốn là tích lũy âm đức, và năm là đọc sách”. Ba điều đầu tiên là Thiên định, hai điều sau là do con người. Tác dụng của phong thủy được quy vào Thiên định, vượt xa cách nói đọc sách có thể thay đổi số mệnh.

Trong lịch sử 5000 năm Trung Hoa, phong thủy đã thâm nhập vào cuộc sống sinh hoạt của con người và trở thành một phần trọng yếu. Từ đế vương, tướng lĩnh cho đến bách tính bình dân, từ hoàng cung đại viện cho đến đường phố làng mạc, hầu như ai ai cũng đã từng tiếp xúc với phong thủy. Cho dù là tuyển chọn địa điểm bố trí kinh đô, thiết kế xây dựng thành phố, hay là định hướng âm trạch dương trạch (âm trạch là mộ, dương trạch là nhà ở), bài trí đồ đạc trong nhà, v.v., đều muốn tìm người xem phong thủy, bói toán vận mệnh, để đạt được Thiên nhân hợp nhất, cầu lành lánh dữ.

Thuận theo vận động công nghiệp hóa trong hàng trăm năm qua, phong thủy cùng với văn hóa truyền thống Trung Hoa dường như càng ngày càng rời xa chúng ta, và trong tiềm thức con người xem điều đó giống như là “lạc hậu”. Nhưng thực sự có phải như vậy hay không? Mong bạn nhất định hãy đọc một chút bài viết này của chúng tôi, tin rằng nó có thể cung cấp cho bạn những cảm thụ và nhận thức khác.

Phong trào văn nghệ Phục hưng thịnh hành ở châu Âu vào thế kỷ 16 trong ánh hào quang của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại đã thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hiện đại và cả nền văn minh hiện đại, đồng thời mang đến cho chúng ta một xã hội hiện đại với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Chúng tôi tin rằng sự trở lại của văn hóa truyền thống Trung Hoa cũng sẽ mang đến cho con cháu Hoa Hạ một tương lai tươi sáng. Chúng tôi hy vọng rằng có thể tiến hành một số nghiên cứu và thảo luận với đông đảo những người yêu thích phong thủy, thảo luận về “phong thủy” của văn hóa truyền thống Trung Hoa ở phương diện nhất định, dựa vào đó để thúc đẩy sự phục hưng và phồn thịnh của văn hóa Trung Hoa, mang phúc âm đến cho dân chúng các nước trên thế giới.

Những gì được mô tả trong bài viết này cũng chỉ là trong một phạm vi Thiên Địa nhất định và cũng là do giới hạn của tầng thứ tu luyện của chúng tôi, nếu có chỗ thiếu sót hoặc hiểu lầm, mong được lượng thứ. Nếu có thể giao lưu chỉ ra chỗ thiếu sót, xin chân thành cảm ơn. Bài viết này được nhiều người trong cùng lĩnh vực góp ý và trích dẫn, tại đây, xin biểu thị lòng cảm tạ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/154818

The post Khám phá phong thủy (1) – Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>