Gian khổ tìm Pháp | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Loạt bài: Luân hồi ký sự – Gian khổ tìm Pháphttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap.htmlSun, 07 Mar 2021 08:00:11 +0000https://chanhkien.org/?p=27161Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Lời giới thiệu Làm một sinh mệnh có thể gặp được Pháp trong đời này mà nói, thì tại kiếp trước hoặc có thể là hằng bao nhiêu kiếp trước đều đã từng phải kinh qua một quá trình tìm Pháp theo nhiều […]

The post Loạt bài: Luân hồi ký sự – Gian khổ tìm Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Lời giới thiệu

Làm một sinh mệnh có thể gặp được Pháp trong đời này mà nói, thì tại kiếp trước hoặc có thể là hằng bao nhiêu kiếp trước đều đã từng phải kinh qua một quá trình tìm Pháp theo nhiều cách khác nhau. Và cũng chỉ có một kiếp này mới có thể gặp được Pháp, mới có thể đắc Pháp.

Chúng ta quay đầu nhìn lại con đường kiếm tìm Pháp đằng đẵng qua bao nhiêu kiếp, chính là để đời này có thể càng trân quý hơn cơ duyên tu luyện không dễ gặp, là để kiếp này có thể thật sự tu luyện thật tốt, thực hiện thật tốt.

Bài viết này thuộc loạt bài về luân hồi, dùng phương thức ký sự kể lại những trải nghiệm gian khổ trong quá trình tìm Pháp của các nhân vật chính trong tiền kiếp. Tại đời này họ đến từ những chủng tộc, dân tộc, địa khu khác nhau. Tại đây tôi muốn dùng phương thức “dĩ điểm đới diện” [dùng điểm mà tả diện] để hoàn thành loạt bài viết. Trải nghiệm của họ trong hành trình tìm Pháp tại một hay nhiều kiếp trước, có những sự việc mang màu sắc huyền thoại, thậm chí siêu việt đến mức khó tin.

Độc giả trong quá trình đọc cần chú ý một vấn đề: Bài viết này dù là dùng phương thức ký sự mà kể lại, nhưng suy cho cùng những điều được ghi chép cũng đều là chuyện quá khứ, chúng ta biết rằng các sự việc trong quá khứ đều do các sinh mệnh thuộc cựu vũ trụ kia an bài, căn bản không đạt tới tiêu chuẩn thuần tịnh của vũ trụ mới. Bởi vậy tại đây khẩn thiết mong các độc giả là người tu luyện nhất định đừng đặt nặng những chuyện này, nếu không sẽ bị an bài của cựu sinh mệnh chi phối. Chúng ta chỉ cần xem như là chuyện kể mà đọc là được rồi. Nắm được tinh thần chính của bài viết: Trong quá khứ đã phải nếm trải nhiều khổ cực đến thế, phải nhẫn chịu khuất nhục lớn đến vậy, cũng chỉ vì để đời này có thể đắc Pháp, cho nên đời này chúng ta đều đã đắc được Đại Pháp vạn cổ khó gặp, chính là không có lý do gì để không thực hiện cho tốt.

Cá nhân tác giả thiết nghĩ, là một bài viết về luân hồi thì điểm cốt yếu chính là nêu bật được chủ đề sinh mệnh “vì Pháp mà đến”. Từ đó mới có những sinh mệnh kiếm tìm Pháp, các sinh mệnh kết duyên cùng Sư phụ, sinh mệnh này kết duyên cùng sinh mệnh khác để tại thời điểm này có thể cùng nhau nỗ lực, cùng nhau thực hiện thật tốt.

Còn có một điểm cần làm rõ trước là người viết chưa từng gặp hay quen biết các nhân vật chính trong câu chuyện.

Cuối cùng phải nói rằng: Suy cho cùng do tầng thứ bản thân có hạn, năng lực có hạn, trí huệ cũng có hạn, vậy nên trong quá trình viết bài, khẳng định có chỗ sai sót và mang tính cuộc hạn, hy vọng độc giả có thể chỉ giáo. Xin cảm ơn trước.

 

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (1) – Bố lữ hồng trần

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (2) – Cánh rừng bao la

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (3) – Biển băng ở Bắc Cực

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (4) – Cây hồ dương trên sa mạc

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (5) – Ngao du trên bờ biển

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (6) – Ngắm cảnh nước Thục

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (7) – Ngao du Ngũ nhạc

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (8) – Vầng trăng tròn trên đảo Lưu Cầu

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (9) – Lữ khách Nam Dương

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (10) – Giấc mơ ở Mỹ La-tinh

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (11) – Bôn ba Úc Châu

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (12) – Đông Phi gai góc

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (13) – Hát trong tiếng mưa tại Paris

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (14) – Một số hiểu biết về Nam Cực

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (15)- Đi qua ngàn năm

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (16) – Đức âm nhã nhạc

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (17) – Phượng vũ thiên nhai

Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (18) – Nhật trăn hoạ cảnh

 

 

 

 

 

The post Loạt bài: Luân hồi ký sự – Gian khổ tìm Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 18) – Nhật trăn hoạ cảnhhttps://chanhkien.org/2020/12/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-18-nhat-tran-hoa-canh.htmlThu, 03 Dec 2020 15:51:13 +0000https://chanhkien.org/?p=26856Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 17 Bài viết này kể về câu chuyện tìm Pháp đời trước của một hoạ sĩ. Người họa sĩ này kiếp trước chuyển sinh ở Tô Châu vào thời nhà Minh, từ nhỏ đã thích vẽ tranh và cũng rất có thiên […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 18) – Nhật trăn hoạ cảnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 17

Bài viết này kể về câu chuyện tìm Pháp đời trước của một hoạ sĩ.

Người họa sĩ này kiếp trước chuyển sinh ở Tô Châu vào thời nhà Minh, từ nhỏ đã thích vẽ tranh và cũng rất có thiên phú, những thứ anh ấy vẽ đều sống động như thật. Người cha thấy anh là người có tài nên đưa anh đến nơi có phong cảnh đẹp để tập vẽ cảnh thực.

Anh bắt đầu vẽ những khu vườn, vẽ cảnh non nước, trong quá trình vẽ anh rất vất vả, không những phải vẽ giống cảnh thật mà quan trọng hơn là cần phải thể hiện ra được đặc điểm phong cách hội họa riêng của bản thân.

Có lần cha anh ốm nặng, khiến anh rất vất vả, lúc này những bức tranh anh vẽ đều thể hiện tâm trạng u uất, nhưng qua vài ngày sau cha anh khỏi bệnh, lúc vẽ lại những bức tranh có nội dung như trước, vì tâm thái trở nên vui vẻ nên những bức tranh sau này mang đến cho người ta cảm giác hướng đến sự lạc quan vui vẻ.

Thuận theo thời gian, anh đã trở thành một họa sĩ nổi tiếng trong vùng, nhưng anh vẫn không hài lòng với trình độ hội họa của mình hiện tại, vì vậy anh quyết định chọn một nơi có phong cảnh đặc sắc để vẽ một mình.

Anh ấy đã đến Tây Hồ, núi Nhạn Đãng, núi Vũ Di, và thậm chí cả Tung Sơn, và anh đã vẽ nên một số tác phẩm rất ý nghĩa.

Một lần, khi đang đi dạo trên phố, anh nhìn thấy một quán rượu rất đặc sắc bèn tìm một nhà nghỉ gần đó để ở lại và vẽ các khung cảnh khác nhau của quán rượu. Anh vẽ quán rượu lúc khai trương vào sáng sớm, lúc đóng cửa vào buổi tối, cảnh người đông đúc trong quán và cảnh quán rượu trong mưa, mỗi ý cảnh đều mang những dư vị khác nhau.

Bức tranh của anh được một thanh niên nhìn thấy, người thanh niên này trước tiên  thừa nhận năng khiếu hội họa của anh, sau đó nói: “Có muốn vẽ đá không?”

Anh ấy có chút khó hiểu, theo bản năng liền hỏi: “Tại sao phải vẽ đá?” Người thanh niên cười: “Nếu như vẽ đá tốt, mới có thể vẽ Thần”. Anh nghe cảm giác thấy dường như cậu thanh niên này có chút lai lịch liền gật đầu đồng ý.

Người thanh niên dẫn anh đến một lối vào của một ngọn núi sâu với một tảng đá lớn nhiều mặt. Nhìn từ các góc độ khác nhau, hình dạng của đá cũng khác nhau, ngoài ra do sự thay đổi của thời gian, dưới sự thay đổi của ánh sáng mặt trời, viên đá lớn có sự tương phản sáng tối khác nhau.

Người thanh niên nói: “Ngươi ở đây vẽ, sau mười lăm năm, nếu ngươi vẽ tốt, ta sẽ dạy ngươi vẽ Thần.”

Khi nghe điều này, anh cảm thấy rằng dù tảng đá có nhiều góc cạnh bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không cần đến 15 năm cũng có thể vẽ xong, anh ta có chút không phục, nhưng cũng không tiện nói được gì.

Anh ta ở đây chỉ để vẽ tảng đá lớn này, và ở đó mười lăm năm. Lúc đầu anh nghĩ rằng việc vẽ tảng đá lớn là một việc rất đơn giản, nhưng anh chưa bao giờ nghĩ rằng, dù là một mặt bên thì trong quá trình vẽ cũng phải rất vất vả mới có thể vẽ đẹp được. Từ khâu phác thảo đến làm sao để trở nên giống một chút cho tới giống hoàn toàn với vật mẫu, quá trình này vô cùng gian nan. Đồng thời trong quá trình vẽ tranh còn có rất nhiều can nhiễu từ các loại nhân tâm và quan niệm va chạm với nhau. Nhiều lần, anh cảm thấy rằng đã vẽ nó vô cùng hoàn mỹ, nhưng không cẩn thận làm văng một ít màu sơn lên đó mà thất bại trong gang tấc. Khi anh vẽ lại thì lại mang tâm nôn nóng, nét họa lung tung và trở nên sai chệch. Mặt này của khối đá khi trời mưa, trời âm u, trời đầy nắng sẽ như thế nào v.v.., các loại nhân tố khác nhau đều chế ước anh ấy.

Trải qua 5 năm, cuối cùng anh đã vẽ xong tất cả các mặt của tảng đá một cách hoàn hảo. Anh rất vui và cảm thấy nhiệm vụ có thể hoàn thành sớm hơn mười năm. Nhưng khi anh lại gần tảng đá, anh thấy một mảnh đã rơi ra, tuy không lớn nhưng hình dạng của tảng đá ban đầu đã bị thay đổi đồng thời tăng thêm hình dạng của khối đá nhỏ kia. Anh lại bắt đầu vẽ lại.

Sau một năm, bức tranh hoàn thành, nhưng anh thấy tảng đá bị rơi ra năm miếng nữa, và anh lại vẽ lại … Mỗi khi vẽ xong, tảng đá lại tách ra thành nhiều mảnh nhỏ hơn và anh lại phải vẽ lại.

Bây giờ anh cảm thấy người thanh niên kia không phải là người bình thường.

Cuối cùng tảng đá bị vỡ thành nhiều mảnh nhỏ, và anh vẫn hoàn thành bức tranh vào năm thứ mười lăm như lời người thanh niên đã nói trước đây.

Người thanh niên đến như đã hẹn, lúc này đã là một người đàn ông trung niên trạc bốn mươi, nhưng trông vẫn trẻ trung như 15 năm về trước.

Người thanh niên mỉm cười khi nhìn thấy anh: “Ta để ngươi vẽ một tảng đá tĩnh. Mục đích là để ngươi bắt đầu từ một mặt của tảng đá mà tùy thuận theo theo các nhân tố bên ngoài và việc bản thân tảng đá tiếp tục tách ra, ngươi sẽ học được các cách thay đổi và biến hóa khác nhau. Chỉ khi có được điều này ngươi mới có thể chấp bút vẽ nên thần vận của Thần”.

Anh nghi vấn hỏi rằng: “Tại sao lại cần vẽ Thần?”. “Thần đã ban cho con người tất cả, đương nhiên con người phải ca tụng Thần, đồng thời cũng phải để cho nhiều người hơn nữa kính ngưỡng và truy tìm Thần. Chỉ có như vậy nhân gian mới duy trì được đạo đức lâu dài.” Người thanh niên trả lời một cách nghiêm túc.

Nói xong, người thanh niên đưa anh ấy đi vào sâu bên trong một đỉnh núi không ai biết đến. Ở trong đó có một đại điện, trên đại điện có thờ cúng những vị Thần tiên bên Đạo gia.

Người thanh niên nói: “Trước tiên ngươi vẽ đại điện và các bức tượng ở bên trong, sau khi vẽ giống rồi ta sẽ đưa ngươi đi vẽ Thần.”

Anh ấy đã ở đó dùng ba năm mới vẽ xong. Lúc này anh đã cảm nhận được lực lượng (sức mạnh) của Thần.

Khi vừa vẽ xong, người thanh niên liền xuất hiện, chỉ thấy khi người thanh niên phất tay một cái, đại điện vốn có ban đầu hoàn toàn biến mất, sau đó người thanh niên rời đi. Cảnh tượng này khiến anh ấy vô cùng kinh ngạc.

Đồng thời anh cảm thấy rằng người thanh niên kia không phải là một người tầm thường, lại nghĩ: “Thần mà ta muốn vẽ đang ở đâu?”

Đang nghĩ đến đây liền có một bà lão chống gậy xuất hiện trên một bãi đất trống.

Anh thấy bà cụ đã già lắm rồi, có thể lúc trẻ ngoại hình không ưa nhìn nên càng già ngoại hình bà lão lại càng khó coi hơn. Bà lão muốn anh vẽ lại chân dung của mình và nói rằng bà muốn giữ nó làm kỷ niệm.

Trong đầu anh nảy ra ý nghĩ không muốn vẽ, nhưng nghĩ lại thì thấy không đúng, Thần là có thể biến hóa. Anh ấy nhíu mày nảy ra ý kiến hay: “Để con vẽ cho bà, có thể được, nhưng có một điều kiện. Bà phải cho con gặp được một Giác giả có thể giúp con thoát khỏi biển khổ hồng trần này.”

Bà lão tỏ ra rất ngạc nhiên liền nói: “Con muốn tu hành sao?” Anh ấy ngồi xuống và chậm rãi nói: “Qua ba năm vẽ tượng Thần và đại điện, con không chỉ phát khởi lòng tôn kính Thần, mà còn sản sinh ý muốn trở thành đệ tử của Thần, nguyện vọng cuối cùng là hướng đến Thần, vậy nên sinh ra suy nghĩ muốn tu luyện.”

Bà lão mỉm cười nhẹ nhàng đáp: “Nếu con có thể vẽ chân dung của ta vừa giống lại vừa đẹp, ta có thể nói cho con biết.”

Anh ấy nghe xong cảm thấy bà lão dường như muốn làm khó mình, bởi vì dung mạo của bà lão rất khó nhìn lại không chỉ muốn vẽ cho giống mà còn phải vẽ cho đẹp, điều này phải làm sao đây? Anh ấy vẫn không thể từ chối nên phải vừa vẽ vừa suy nghĩ, không biết làm thế nào để bà lão xấu xí này trở nên xinh đẹp.

Trong quá trình vẽ, anh ấy thấy hình dáng bên ngoài của bà lão khá xấu nhưng bên trong thì rất đẹp. Vì vậy, anh ấy đã sử dụng phương pháp vẽ nhiều lớp cảm xúc, bà lão nhìn bề ngoài là hình ảnh xấu xí mà anh ấy nhìn thấy, nhưng bên trong bà lão là một nữ thần vô cùng xinh đẹp. Các nét phác họa bên ngoài tuy khá nặng nề nhưng lớp mực bên trong lại rất trang nhã.

Sau khi vẽ xong, anh đưa bức tranh tới trước mặt bà lão, bà lão vui vẻ nói: “Con quả nhiên là người rất có ngộ tính. Thực ra từ khi con bắt đầu vẽ tảng đá lớn, Thần đã liên tục dẫn dắt con trên con đường tu luyện. Những việc sau này con gặp phải đều là Thần đang khảo nghiệm con, xem con có phải là một tài năng trên con đường tu luyện hay không. Trong tương lai, sẽ có một phương pháp tu luyện hoàn toàn mới được truyền xuất trong nhân gian, đến lúc đó rất nhiều người sẽ đến học. Như vậy sẽ có một vài người xấu và sinh mệnh bất hảo đến phá hoại, tạo thành ma nạn cho phương pháp tu luyện và người tu luyện, nếu con không sợ bị bức hại, tương lai chính là dùng nét bút của con triển hiện Thần và chính tín của người tu luyện.”

“Làm sao con có thể gặp được loại phương pháp tu luyện đó?”

“Nhật trăn họa cảnh” (日臻画境), nói xong bà lão liền biến mất.

Anh ấy suy nghĩ lời nói của bà lão, một ngày nọ chợt hiểu ra: “Chỉ cần ta dùng tâm vẽ Thần, cuối cùng nhất định sẽ được Thần rủ lòng thương, tương lai ta tự nhiên sẽ gặp được loại phương pháp tu luyện đó.”

Trong những ngày sau đó anh ấy gặp được các vị Thần dưới nhiều hình tượng khác nhau. Trong quá trình vẽ Thần tâm tính của anh ấy từng chút từng chút đạt được đề cao và thăng hoa, cuối cùng có một ngày anh ấy đã gặp vị Giác giả tương lai đến truyền Đại Pháp ở nhân gian. Vị Giác giả đó khai thị cho anh ấy rất nhiều đạo lý, đồng thời an bài cho anh ấy tương lai làm thế nào gặp được Pháp Luân Đại Pháp….

Đây chính là:

Nhật trăn họa cảnh lịch gian tân

Họa thạch họa Thần chủng tiền căn

Tâm hướng Thần cảnh mịch quy lộ

Kim triêu đề bút luyện chân kim! (Ghi chú)

Dịch nghĩa

Ngày ngày vẽ cảnh đẹp trải qua gian khổ

Vẽ đá vẽ Thần gieo căn nguyên tiền kiếp

Tâm hướng Thần tìm kiếm đường về

Hiện tại nâng bút luyện vàng thật!

Ghi chú: Ý của câu này là hôm nay dùng hội họa một mặt để tu luyện bản thân, mặt khác để vẽ chân dung của Thần, chính tín và chính hành của các học viên Pháp Luân Đại Pháp khi đối mặt với khổ nạn.

Trên thực tế, bản thân quá trình vẽ bất cứ cảnh vật, nhân vật nào cũng là một quá trình dung luyện, tái tạo nên người ta gọi là “luyện vàng thật”.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239562

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 18) – Nhật trăn hoạ cảnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (Phần 17) – Phượng vũ thiên nhaihttps://chanhkien.org/2020/09/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-17-phuong-vu-thien-nhai.htmlSun, 06 Sep 2020 08:57:10 +0000https://chanhkien.org/?p=26543Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [Chanhkien.org] Tiếp theo phần 16 Trong số các học viên Pháp Luân Đại Pháp, có một nhóm vũ công đang hoạt động tích cực trên sân khấu thế giới. Với diễn xuất thuần thiện thuần mỹ của mình, họ đã cống hiến cho khán giả những màn […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (Phần 17) – Phượng vũ thiên nhai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[Chanhkien.org] Tiếp theo phần 16

Trong số các học viên Pháp Luân Đại Pháp, có một nhóm vũ công đang hoạt động tích cực trên sân khấu thế giới. Với diễn xuất thuần thiện thuần mỹ của mình, họ đã cống hiến cho khán giả những màn “đại tiệc văn hoá” Thần truyền Trung Hoa chân chính.

Bây giờ chúng ta sẽ kể về câu chuyện tìm Pháp trong đời trước của một vũ công trong số họ.

Trước tiên hãy giải thích về hai từ “Phượng vũ”, đây không phải là tên của ai đó. Vậy nó là gì? Độc giả sẽ biết được sau khi đọc xong câu chuyện này.

Nhân vật trong câu chuyện của chúng ta sinh ra ở tỉnh Quảng Đông Trung Quốc vào thời nhà Nguyên. Từ nhỏ cô nàng đã rất thích ca hát, nhảy múa. Cha mẹ cô vốn là những người hết mực yêu nước thương dân, khi thấy giang sơn bị ngoại tộc chiếm đóng, họ rất đau lòng, nên đành mang cô đến vùng đảo Hải Nam xa xôi sinh sống. (Nơi này nay là thành phố Tam Á thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc).

Ở đây có những người dân tộc thiểu số như người tộc Miêu, tộc Lê….Những người này ban đầu rất bài xích gia đình cô. Nhưng thấy họ đều rất thiện lương và vui vẻ giúp đỡ mọi người, vậy nên sau một thời gian dài những người này cũng dần dần tiếp nhận gia đình cô.

Dân tộc thiểu số ở đây đều rất giỏi ca múa, người Lê còn rất khéo thêu thùa dệt vải, họ làm ra những trang phục vô cùng đẹp mắt. Trong môi trường này, cô như cá gặp nước. Trong lúc học vũ đạo của các dân tộc, cô không chỉ tiếp thụ những thứ trên bề mặt như động tác, kỹ thuật, ánh mắt, thế tay, nhịp điệu mà còn tìm tòi, khám phá sâu hơn về nguồn gốc và nội hàm ẩn sau những điệu múa ấy.

Cô đã tìm thăm rất nhiều vị trưởng lão (già làng), lắng nghe những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết cổ xưa của dân tộc họ, lần nào những điều ấy cũng đều khiến cô cảm động mà rơi nước mắt. Sau một quá trình nghiên cứu thâm sâu, cô phát hiện ra rằng điệu múa của mỗi dân tộc không đơn thuần chỉ là phương thức giải trí thông thường hay thói quen sinh hoạt của họ, mà hơn thế nữa đó còn là lời ngợi ca về các vị Thần.

Trong một lần nọ, khi cô đang tham gia nhảy múa cùng hơn 20 nam nữ thanh niên tộc Lê, bỗng nhiên cô nhìn thấy những vị Thần xuất hiện. Có vị giống như các tiên nữ đang lượn vòng trên không trung, có vị giống như các tiên đồng đang đứng trang nghiêm, có vị uy vũ giống như võ sĩ mặc áo giáp, các tiên nữ rải hoa lên đầu, lên vai của những người tham gia trong đoàn ca múa. Mọi người lúc đó dường như càng trở nên hăng say hơn. Trong từng điệu nhảy tràn ngập sự tôn kính và cảm ân sâu sắc đối với Thần.

Buổi tối về nhà, tâm ý của cô vẫn chưa nguôi, nên cô tiếp tục nhảy múa trong phòng của mình, rồi ngủ thiếp đi vì mệt. Trong giấc mộng, cô cảm giác thấy có hai vị tiên nữ nắm lấy tay cô rồi bay lên tiên cung.

Trong tiên cung lúc này đang trình diễn một đoạn vũ đạo. Một vị Thần đứng bên cạnh lo rằng cô không hiểu, bèn quay sang cô giải thích: “Bài múa này khắc họa về việc một vị giác giả (ở tầng thứ này) sau khi vũ trụ được tạo lập đã trông nom tất cả chúng sinh, từ bi với vạn vật; bảo hộ tất cả chúng sinh và vạn vật như thế nào; bảo vệ thế giới của mình trước những can nhiễu đến từ bên ngoài như thế nào; và đối với Thần ở các cảnh giới khác đến nơi này thì nghênh tiếp như thế nào.” Cô chưa bao giờ nghĩ rằng vũ đạo lại có tác dụng và ý nghĩa đến vậy. Điều này đã để lại trong cô không ít ngạc nhiên.

Khi cô nhìn lại điệu múa này, cô thấy hàng loạt tia sáng rực rỡ bảy màu phóng thẳng lên bầu trời, tất cả chúng sinh và chúng Thần đều đắm chìm trong sự tôn kính và biết ơn vô hạn đối với Thần Phật.

Lúc nhìn xuống phía dưới, cô phát hiện rằng những vũ công này không phải đang đứng trên mặt đất bằng phẳng, có một số là đang đứng trên Quỳnh đài (chú 1), một số đứng trên đỉnh núi, một số đứng trên ngọn cây đại thụ, thậm chí nhiều vũ công là đang đứng trên mặt biển lớn.

Đây thật là: “Phiên phiên khởi vũ bạn thiên lại (chú 2) Thuỵ thái vạn thiên hiển tự tại Tề thuật cảm ân Thần tí hộ Chư tiên vũ giả vân thiên ngoại” (chú 3)

Sử dụng ngôn ngữ của con người để biểu đạt sự tình nơi Thần giới quả đúng là cứng nhắc và bất lực vô cùng, vậy nên xin độc giả hãy tự mình thể nghiệm điều ấy (qua đoạn thơ trên).

Sau khi xem điệu múa này, một vị tiên nữ khác đã đưa cô đi thăm những đại điện khác và ăn một số trái cây ở đó, sau đó mang cô trở về nhà.

Trong đoạn này, tuy rằng ngòi bút của tôi biểu đạt ra không nhiều câu chữ, nhưng thực sự đối với thời gian trong mộng mà nói thì đã rất nhiều canh giờ trôi qua, đợi đến khi cô mở mắt choàng tỉnh, mới phát hiện ra đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng những cảnh tượng trong mơ vẫn còn hiện rõ trước mắt, tường tận tỉ mỉ. Từ đêm ấy cô có được thêm một tầng lý giải và nhận thức sâu sắc hơn nữa về vũ đạo.

Trong quá trình học múa sau này, cô luôn dùng trái tim của mình để cảm nhận triển hiện sự mỹ hảo và cảnh giới tốt đẹp của Thần. Tâm tính của cô bất giác từ lúc nào đã nhập vào trong “Đạo”, dần dần theo đó mà đề cao lên.

Sau này cô còn tham gia vào các hoạt động ca múa của tộc Miêu, thời gian dần trôi qua cô cũng có được những nhận thức thâm sâu đối với vũ điệu của Miêu tộc.

Một ngày kia, khi nhận thấy trình độ vũ đạo của mình đã rất thâm sâu, vào một buổi sáng sớm, cô đi dạo một mình đến một nơi phong cảnh đẹp đẽ, nán lại một lúc thì bỗng nhận thấy có tiếng nhạc từ xa vọng lại, êm ả nghe rất vui tai. Lúc đó bản năng trong cô mách bảo rằng hãy lần theo tiếng nhạc ấy. Khi tiến lại gần, cô bất ngờ nhìn thấy một nhóm tiên nữ đang nhảy múa ở đó. Đó thực sự là: “Vân trung mạn bộ hà quang bạn A na triển chuyển thần quang xán Quần bãi phi toàn tiên tư hiển Vũ biến thiên nhai thực mĩ hoán”

Dịch nghĩa: “Bước chậm trong mây theo ánh hào quang Thướt tha xoay chuyển thần quang rực rỡ Làn váy lượn vòng hiển lộ dung nhan tiên nữ Nhảy múa khắp chân trời thực sự đẹp rực rỡ”

Khi cô đang nhìn về phía các vị tiên nữ thì bỗng đâu có một con chim phượng hoàng đầy màu sắc từ trên trời chầm chậm hạ xuống. Sau khi hạ cánh xuống đất, phượng hoàng lại bắt đầu nhảy múa trong những đám mây hiền hòa. Không lâu sau, lại có rất nhiều các loại thần điểu (chim thần) khác bay đến cùng nhau nhảy múa.

Cô đứng đó xem vũ hội một cách say sưa. Không biết đã qua bao lâu, khi tiên nữ và chim thần rời đi, lúc này chim phượng hoàng liền hóa thân thành một người phụ nữ Miêu tộc trong độ tuổi trung niên bước tới cô và nói rằng: “Lần này cô đã thấy được sự bác đại tinh thâm của vũ đạo rồi chứ?”

Nghe vậy cô có chút kinh ngạc, nhưng trực giác mách bảo cô rằng người trước mặt cô lúc này chính là thần điểu phượng hoàng khi nãy, nghĩ vậy cô vội quỳ xuống tỏ ý muốn bái sư. Phượng hoàng rất vui và dắt tay cô cùng quay trở về nhà của cô.

Sau khi trở về nhà, chim phượng hoàng nói với cô rằng: “Đừng nói với ai về những điều cô đã nhìn thấy, tôi sẽ lưu lại đây một thời gian và tham gia những hoạt động ca múa ở nơi này. Đến lúc đó, cô có thể học hỏi được rất nhiều điều.” …

Cứ như vậy vài năm lại qua đi, cô đã thực sự học vũ đạo đến độ xuất thần nhập hoá, cô phát hiện ra rằng bản thân vũ đạo chính là một cách tu hành và quay trở về.

Một ngày kia, chim phượng hoàng nói với cô rằng: “Cơ duyên từ biệt của chúng ta đến rồi, đã tới lúc tôi nên rời đi. Cô còn có sự việc gì (cần hỏi) nữa không?”

Cô nói: “Thông qua học vũ đạo tôi đã hiểu ra được rất nhiều điều, có lẽ nào thông qua tu hành tôi cũng có thể trở thành tiên nữ sao?”

Phượng hoàng khẽ mỉm cười: “Xem chừng ngộ tính của cô cũng không tệ lắm, việc ta đến đây lần này trên bề mặt là để dạy cô vũ đạo, kỳ thực ta là đang giúp cô đặt nền móng cho việc tu luyện sau này. Cô vốn dĩ không phải ở tầng thứ tiên nhân, mặc dù cô cũng từng là phượng hoàng, nhưng đó không phải là hình tượng cuối cùng của cô…. Tương lai sẽ có một loại phương pháp tu luyện được truyền xuất trên thế gian có thể khiến con người chân chính đạt được hồi thăng, đến lúc đó vũ đạo của cô sẽ có đất dụng võ.”

“Vậy Ngài chẳng lẽ chỉ là chim phượng hoàng thôi sao?” Cô tò mò hỏi.

“Tôi là ai không quan trọng, quan trọng là tôi đến đây để nói cho cô biết rằng vị Thần trong tương lai mà cô sẽ gặp được là vạn cổ kỳ duyên đó.” Chim phượng hoàng không trả lời cô trực tiếp.

“Vậy thì làm sao tôi có thể gặp được vị Thần vạn cổ kỳ duyên ấy trong tương lai đây?” Cô tiếp tục hỏi.

“Vũ công phân thành bao nhiêu loại, cô hãy học hỏi và trải nghiệm nhiều hơn nữa, cô có thể gặp vị thần ấy được trong khi học tập và thể nghiệm vũ đạo ….” Chim phượng hoàng nói xong liền bay ra ngoài chín tầng trời.

Từ khi nhận được sự khai thị của Thần, cô càng dụng tâm vào việc học tập vũ đạo, đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt. Cô luôn khắc cốt ghi tâm sự ủy thác của Thần: “Nhất định không ngừng cần tìm kiếm vạn cổ kỳ duyên kia trong quá trình học tập và thể nghiệm vũ đạo.”

Trong những đời sau, cô từng chuyển sinh làm một vũ công trong cung điện nhà Minh, cô cũng tiến hành nghiên cứu về các điệu múa trong cung đình. Sau này, cô lại chuyển sinh thành một nam quân nhân trong triều đại nhà Thanh, đóng quân ở vùng biên giới Tân Cương, từ đây cô càng có lĩnh ngộ thâm sâu hơn về nội hàm dương cương trong vũ đạo….

Đây quả thực là:

“Phượng vũ thiên nhai vi tìm Pháp Nghiên tập vũ đạo Thần điểm hoá Thuyên thích kính Thần cảm ân tâm Kim triều vũ đài phóng quang hà!”

Dịch ngĩa:

“Phượng hoàng (nhảy) múa khắp chân trời để tìm Pháp Được Thần điểm hoá nghiên cứu học tập vũ đạo Vì kính thần và tâm đầy lòng cảm ân Hôm nay trên sân khấu toả ra ánh sáng rực rỡ”

Chú thích:

1. Quỳnh có thể là hoa quỳnh, hoặc một loại ngọc tên là quỳnh.

2. “Thiên lại” ở đây nói riêng về âm nhạc trên bầu trời.

3. Câu này có nghĩa là sự uyển chuyển của nhóm vũ công này đã đạt đến mức khó tin.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239561

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (Phần 17) – Phượng vũ thiên nhai first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (16) – Đức âm nhã nhạchttps://chanhkien.org/2020/07/luan-hoi-ky-su-16-duc-am-nha-nhac.htmlMon, 13 Jul 2020 12:59:58 +0000https://chanhkien.org/?p=26457Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Trong các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp có rất nhiều người sáng tác và biểu diễn âm nhạc, nghe những bản nhạc do họ sáng tác, quả thật có thể gột rửa phàm trần, tịnh hóa thân tâm, để người nghe lĩnh hội được sự […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (16) – Đức âm nhã nhạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org] Trong các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp có rất nhiều người sáng tác và biểu diễn âm nhạc, nghe những bản nhạc do họ sáng tác, quả thật có thể gột rửa phàm trần, tịnh hóa thân tâm, để người nghe lĩnh hội được sự thanh tao mỹ lệ thoát tục.

Bài này nói đến một người như vậy, vào đời trước anh ấy đã thông qua âm nhạc để tìm Pháp.

Hãy quay lại những năm thời nhà Minh, anh ấy được sinh ra trong dòng dõi gia đình có học, từ nhỏ đã cảm thấy hứng thú với sách thánh hiền, cha mẹ cũng muốn anh trở thành một người có học vấn thật sự. Bởi vì anh học rất giỏi, đạo đức tư tưởng cũng tốt, sau khi lớn lên rất nhiều người đến mong được kết thân, cha mẹ anh đều lấy lý do chưa lên kinh ứng thí để từ chối.

Qua vài năm cũng đến lúc lên kinh ứng thí, anh đến kinh thành đúng hạn, trên đường đi, anh ở một nhà trọ nhỏ, vì ánh trăng rất đẹp, anh ra ngoài dạo chơi ngắm trăng, đến một hồ sen cách đó không xa, hoa sen nở thật đẹp, anh lại gần, ngồi xuống làm bạn cùng ánh trăng và thưởng thức hoa sen.

Thư sinh thường thích lãng mạn, thích đắm chìm trong một ý cảnh nào đó, anh ấy cũng không phải ngoại lệ, lúc anh đang đắm chìm trong cảnh vật tuyệt đẹp, một khúc thanh âm từ từ vang lên, dần dần cùng phong cảnh tuyệt mỹ nơi này hòa làm một.

Vị thư sinh dường như thấy trong ca khúc này (từ góc độ âm sắc để hình dung) có các tiên tử đi lại, nhìn thấy dòng chảy trong xanh chảy róc rách, thậm chí thấy được sự vui mừng và ấm áp khi những đóa hoa sen thi nhau đua nở, thậm chí “thấy” được niềm vui và sự ấm áp của hoa sen đua nở, thậm chí “ngửi” được hương thơm từng đợt từng đợt thấm vào lòng người…

Thời gian cứ như vậy từng chút từng chút trôi qua, anh ấy hoàn toàn chìm đắm trong đó mà không hay biết, mãi đến lúc đêm càng khuya, cảm giác mát mẻ dần dần ngấm vào, thanh âm kia mới dừng lại. Anh ấy như trong cơn say mà tỉnh lại, theo bản năng tìm kiếm xung quanh nơi bắt nguồn của âm thanh kia, tìm một lúc lâu, mới phát hiện một người con gái lưng đeo chiếc đàn dần dần biến mất dưới ánh trăng. Anh đứng sững sờ một lúc, rồi trở lại quán trọ nghỉ ngơi. Những ngày sau đó, loại âm thanh mỹ diệu kia (từ góc độ tính chất âm nhạc để hình dung, cách dùng dưới đây cũng như vậy) vẫn ngân nga rất lâu trong đầu anh, không chỉ như thế, từ sau khi sự việc trải qua lần này, anh cảm thấy điều mình thật sự tìm kiếm không phải là học vấn nhiều bao nhiêu hay chức vị cao bao nhiêu, mà là một cảnh giới có thể đạt đến dung luyện cả thân lẫn tâm.

Khi đến kinh thành, anh gặp được rất nhiều thư sinh khác cũng đến ứng thí, sau khi cùng họ nói chuyện, anh luôn cảm thấy những người kia đều là vì danh lợi mà đến, bản thân thật sự không muốn ở cùng bọn họ.

Trước kỳ thi, anh lại nghe thấy âm thanh tương tự trong quán trọ, từ bóng dáng mà nhìn, vẫn thấy là người con gái kia. Bởi vì đêm khuya không tiện làm phiền, anh ở trong phòng trăn trở: “Nếu ngày mai ta đạt được công danh nào đó, ta sẽ không có được nhàn rỗi để đắm chìm vào âm nhạc mỹ diệu như bây giờ, suốt ngày phải bận các sự vụ, hơn nữa những việc đó cũng không phải là việc bản thân thích làm, chi bằng dứt khoát không thi, đời này cũng học âm nhạc xem thế nào? Nhưng làm như vậy có chút cô phụ sự mong đợi của cha mẹ và các vị hương thân”. Trong lúc đang ở thế khó xử, ảnh chỉ nghe thấy tiếng nhạc kia từ huy hoàng rực rỡ trở thành vắng vẻ, rồi thành thanh tịnh và mờ nhạt, cuối cùng kết thúc bằng việc đạt được sự giải thoát của sinh mệnh.

Lần này anh ấy quả thực nghe ra được nội hàm mà đức âm kia biểu đạt, ngày hôm sau anh không đi thi, mà bắt đầu quá trình đi tìm thầy dạy nhạc.

Lúc mới đầu anh nghĩ sẽ tìm người con gái đã hai lần đàn ca khúc kia, tuy vậy, mặc dù người con gái ấy luôn mang đến cho người nghe những thanh âm tuyệt diệu, lại không thể gặp người đó trong khoảng cách gần. Sau đó anh nghĩ bản thân nên tìm người khác để học những điều căn bản trước, rồi đợi lúc cơ duyên chín muồi sẽ mời cô gái kia chỉ giáo là được.

Trước sau anh đã đến tìm mười mấy thầy dạy nhạc, sau gần hai mươi năm luyện tập, cầm nghệ của anh đã đạt được một trình độ nhất định, nhưng anh vẫn luôn cảm thấy so với ca khúc anh từng nghe thì khoảng cách vẫn còn rất xa.

Một ngày nọ, anh lại lần nữa đến bên hồ sen nơi anh được nghe các khúc kia lần đầu tiên, mang đàn của mình bầu bạn cùng ánh trăng mà chậm rãi đàn. Trong quá trình diễn tấu, anh phát hiện ca khúc xuất hiện thay đổi: anh đánh ra một nốt nhạc, nhưng lại có thể nghe thành hai tiếng đàn. Trong lòng anh chấn động, cố tình khiến tiếng đàn của mình nhỏ lại, lúc này tiếng đàn kia càng rõ ràng hơn.

Anh nghe tiếng đàn của mình và đối phương, tỉ mỉ so sánh: “Hai ca khúc này giai điệu rất giống nhau, nhưng độ mạnh yếu và sự tinh khiết không giống nhau. Tiếng đàn của đối phương thật siêu phàm thoát tục, còn trình độ cao của bản thân chỉ dựa trên kỹ thuật và thủ pháp để đàn, những thành phần dung tục còn rất nhiều. Làm sao có thể như vậy được?”

Đương lúc nghĩ như vậy, anh ấy theo bản năng ngẩng đầu, thấy người con gái kia đẹp như tiên nữ, ngồi bên chiếc đàn, phát hiện anh ấy đang nhìn, cô gái và chiếc đàn nhẹ nhàng bay khỏi mặt đất, nhưng tiếng đàn vẫn không dừng lại. Dù như vậy, cô gái bay đến gần trước mặt anh dịu dàng cười, biểu hiện ra cảnh giới tuyệt mỹ của sinh mệnh (những điều này dùng ngôn ngữ của nhân loại không thể hình dung được, xin độc giả hãy tự liên tưởng). Cô gái cười, làm cho anh lập tức lĩnh ngộ được cảnh giới sinh mệnh và tiếng đàn xuất ra là có quan hệ liên đới.

Hơn nữa bản thân anh vốn là học rộng tài cao, qua sự việc lần này khiến anh hiểu ra rất nhiều người trong lịch sử, bởi vì họ biết được phương pháp đề cao cảnh giới sinh mệnh, mới có thể sâu sắc ở mọi phương diện, không giống với trình độ của những người bình thường. Ở trong tình huống này, ngôn ngữ dường như trở thành dư thừa, mọi thứ đều dùng nốt nhạc để biểu đạt là hợp lý nhất, khi anh dùng tiếng đàn thể hiện ra suy nghĩ trong tâm muốn tìm kiếm phương pháp tu hành, cô gái cũng dùng tiếng đàn đáp lại. Đàn xong cô gái nhẹ nhàng bay đi xa.

Anh từ trong tiếng đàn mà hiểu được: “Hãy tìm một nơi vắng vẻ tươi đẹp, tịnh tâm luyện đàn, trong quá trình luyện nhất định sẽ gặp phải rất nhiều can nhiễu, những thứ bên ngoài, những thứ trong tâm, lúc gặp phải dùng yêu cầu cho cảnh giới lúc đó mà làm, sau đó không ngừng đề cao tiêu chuẩn cảnh giới. Trong quá trình này không ngừng đề cao cảnh giới của sinh mệnh, tiếng đàn sẽ có được sự thay da đổi thịt, hơn nữa nhất định sẽ có một cao nhân ở phía sau đánh thức trong nom cho mình”.

Trong những ngày tháng luyện đàn sau đó, có lúc anh ấy gặp phải những can nhiễu bên ngoài như mưa to gió dữ, sấm sét vang dội, có lúc gặp phải hồng thủy mãnh thú, hay cả muỗi cắn, có lúc gặp phải can nhiễu trên thân thể (cảm thấy không thoải mái) can nhiễu trong tâm (sự xâm nhập của các loại tạp niệm, quan niệm) đây là những khảo nghiệm từ bên trong. Đối mặt với những điều này có lúc anh có xử lý tốt, có lúc xử lý không tốt. Lúc giải quyết không tốt, anh cảm nhận rõ ràng tiếng đàn trở nên dung tục, mang theo rất nhiều vật chất trong thế gian, lúc giải quyết sự việc một cách xác đáng, có thể cảm thấy tiếng đàn đang thăng hoa, ít mang theo những vật chất ở thế gian.

Cùng với sự tiến bộ không ngừng của anh trên phương diện tu luyện, cảnh giới của tiếng đàn cũng không ngừng thăng hoa… Có một ngày anh đang đàn trong đêm lạnh, người con gái kia lại đến, nhưng lần này cô ấy không mang theo đàn, tay không mà đến. Khi lại gần, nàng ngồi xuống, khẽ mở miệng nói: “Tiếng đàn của người bây giờ đã đạt được một trình độ nhất định, tương lai sẽ có rất nhiều thần ở cảnh giới cao chuyển sinh đến người thường nghe, vì vậy người cần bỏ nhiều công phu hơn ở việc này”.

Trong lòng anh cả kinh: “Tại sao nhiều thần ở cảnh giới cao lại chuyển sinh làm người?”

Nàng không đáp, vươn tay ý bảo anh mang đàn qua, trong lòng anh nghĩ cô ấy nhất định sẽ dùng âm nhạc để trả lời cho mình. Quả nhiên nàng tiếp lấy đàn, bắt đầu nhẹ nhàng đàn tấu. Anh lĩnh ngộ được: “Hóa ra ở nơi tầng thứ rất cao qua tháng năm trôi qua, một số phương diện xuất hiện bại hoại, vì để triệt để cải biến cục diện này, tương lai tại nhân gian sẽ xuất hiện một phương pháp tu luyện mới, các sinh mệnh chỉ cần chiểu theo phương pháp tu luyện này để thực tu, sẽ đắc được sự đồng hóa và quy chính thực sự. Rất nhiều chư Thần đều biết việc này, thế là đều hạ thế đến nhân gian, chính là hy vọng có thể gặp được loại phương pháp tu luyện này.” Anh ấy nghe hiểu được, liền hỏi tiếp: “Tôi làm thế nào đến lúc đó có thể đàn tấu được đức âm nhã nhạc cho họ nghe?”

Nàng lại đàn một khúc, anh từ trong đó lĩnh ngộ được: “Đồng tâm, đồng nguyện, bản thân cũng là một thành viên ở trong đó, dùng đức âm nhã nhạc để có nhiều những sinh mệnh cao tầng hạ thế hiểu được cảnh giới phi phàm tuyệt vời kia, cùng nhau tinh tấn, tu hành tốt hơn nữa. Đối với những người biết đến Pháp nhưng lại không đắc Pháp hoặc là ôm giữ những tư tưởng bất hảo, dùng đức âm nhã nhạc có thể gột rửa những điều không tốt của họ, những tư tưởng bất chính, giúp khôi phục bản tính của họ, thực sự quý trọng cơ duyên”. Cuối cùng anh hỏi một câu hỏi cuối cùng:”Tương lai tôi làm thể nào để tìm được phương pháp tu luyện này?”

Nàng vươn tay đưa lại đàn cho anh, nhẹ nhàng nói: “Hãy ở trong âm nhạc mà chờ đợi”. Sau đó nàng bay đi.

Anh nhìn theo cô gái đi xa, rồi anh lại bắt đầu đàn tấu. Trong khi đàn anh ấy hiểu được: “Bản thân chỉ cần nỗ lực tốt ở phương diện này, đến lúc đó sẽ có cơ duyên liên quan tới đức âm nhã nhạc, từ đó có thể gặp được phương pháp tu luyện sẽ hồng truyền tại thế gian. Mình chỉ cần không ngừng đề cao kỹ năng và cảnh giới của tiếng đàn, quá trình này quả thực là một quá trình ma luyện gian khổ, hơn nữa đem điều này cùng việc tìm Pháp kết hợp vào một việc, có vẻ càng thêm gian khổ, những người ở những ngành nghề khác không thể nào thực sự lý giải được”.

Bất kể gian khổ thế nào, trải qua quá trình chờ đợi và tìm kiếm đằng đẵng, đời này cuối cùng trong cơ duyên với âm nhạc, anh hoàn thành được tâm nguyện của mình: chân chính tu luyện trong Pháp Luân Đại Pháp… Thực chính là:

Đức âm nhã nhạc từ trời đến Nhẹ nhàng mờ ảo hiển tự tại Thân tâm kỳ ảo hoàn cảnh vui vẻ Tu đắc vô trần xuất thiên ngoại!

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239560?

Xem tiếp: Phần 17

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (16) – Đức âm nhã nhạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 15)- Đi qua ngàn nămhttps://chanhkien.org/2020/06/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-15-di-qua-ngan-nam.htmlWed, 24 Jun 2020 02:00:14 +0000https://chanhkien.org/?p=26431Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 14 Trong các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp có rất nhiều người là vì bệnh tật mà nhập môn (thậm chí có cả người tàn tật). Qua một thời gian tu luyện, những bệnh tật vốn có đều không […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 15)- Đi qua ngàn năm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 14

Trong các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp có rất nhiều người là vì bệnh tật mà nhập môn (thậm chí có cả người tàn tật). Qua một thời gian tu luyện, những bệnh tật vốn có đều không cánh mà bay hoặc được cải thiện một cách rõ ràng. Bài này là một câu chuyện như thế, kể về câu chuyện tìm Pháp của anh ấy ở đời trước.

Có nhiều người làm khoa học (như Emoto Masaru và Richard Baxter) phát hiện rằng nước và thực vật đều có khả năng “nhìn” và “nghe”. Trong luân hồi thường được nhắc đến trong tín ngưỡng phương Đông, thực vật có thể là đối tượng chuyển sinh của con người.

Tại Trung Quốc đại lục có rất nhiều cây cổ thụ được giữ lại từ thời cổ đại, có lịch sử từ vài trăm đến vài ngàn năm, như hiên viên bách, cây đại tướng quân v.v… Những cây cổ thụ này dù trải qua mưa gió trăm ngàn năm, nhưng vẫn sum sê tươi tốt, chứng kiến những thăng trầm của lịch sử, và cũng tạo nên màu xanh và bóng mát cho mọi người.

Nhân vật chính của bài viết này ở đời trước đã chuyển sinh thành một cái cây, được trồng vào những năm đầu thời nhà Hán. Mặc dù chỉ là một cái cây, nhưng nó đã chứng kiến rất nhiều sự kiện lớn của xã hội từ thời nhà Hán đến nay. Về những việc này, chúng ta không phải đang nghiên cứu khảo cổ nên sẽ không thể nói chi tiết từng việc.

Bởi vì nó được trồng trên một con đường cổ, những người qua lại đều có thể thấy được sự đẹp đẽ của nó.

Nó cũng nhìn thấy những người muôn hình muôn vẻ đi qua con đường cổ này. Hàng vạn con chiến mã lao nhanh, những thương đoàn trùng trùng điệp điệp, một người lững thững đi dạo, những cặp vợ chồng, bạn bè cùng nhau đồng hành, tiếng kêu đuổi giết, tiếng rao hàng, tiếng đọc sách, tiếng vui đùa ầm ĩ, tiếng thở dài,…Trong lịch sử dài đằng đẵng người này xuống đài, người kia lên đài diễn, lặp đi lặp lại…

Trong một ngàn năm, nó hiểu được những âm mưu quỷ kế và hiệp cốt lòng son ở thế gian, cũng thấy được những người lập nên sự nghiệp to lớn rồi cũng giống mây bay theo gió mà biến mất; những vương triều trải qua bao vất vả mới xây dựng được rồi cũng giống như nước chảy, biến hóa thay đổi.

Nó ở đó lặng yên quan sát, trằn trọc, dùng sinh mệnh của mình để “tiêu hóa” sự vô thường của thế gian (đại ý là sinh mệnh của nó so với con người thế gian, cả vương triều hay những phương diện khác thì đều dài hơn).

Nó từng vì thế mà đắc chí, nhưng cuộc đối thoại của hai thư sinh nghèo đã làm thay đổi suy nghĩ của nó.

Hai vị thư sinh nghèo này (một người họ Trương, một người họ Triệu), cùng nhau đến Trung Nguyên, muốn thông qua việc thi cử để cải biến vận mệnh của mình, nhưng trước lúc thi, cả hai người họ đều vì sự cố mà vắng mặt trong kỳ thi. Người họ Trương bị người khác vu cáo trộm đồ, người họ Triệu đi đường không không cẩn thận chân phải bị gai đâm, không thể đi lại. Bọn họ đều vô cùng buồn bực, qua khoảng hai tháng, oan khuất của vị họ Trương được rửa sạch, chân của vị họ Triệu cũng trở nên tốt hơn. Nhiều lần trăn trở, họ đến bên gốc cây ngồi một lát.

Bọn họ vừa uống rượu giải sầu, vừa kể lại câu chuyện bi thảm của mình. Nó nghe xong cũng rất buồn, bất giác rơi xuống vài giọt nước mắt thông cảm (trên lá cây xuất hiện những giọt nước, sau đó run rẩy, rơi xuống). Cuối cùng chỉ nghe được lời của vị họ Trương: “Xem ra chúng ta nghèo cũng là ý trời, có lẽ chúng ta trước đây đã làm điều không tốt mà tạo thành như vậy”. Người họ Triệu trầm ngâm một lúc lâu, khẽ nói: “Cho dù chúng ta nghèo, từ nay về sau nhất định cần làm nhiều việc thiện, cổ nhân nói: ‘Dù nghèo khổ không thể bị biến chất’. Ở bất kỳ thời điểm nào chúng ta cũng phải bảo trì bản tính ngay thẳng”. Vị họ Trương thở dài: “Trong xã hội này làm được như vậy không dễ dàng, nhưng chúng ta sẽ cố gắng làm được, cho dù là chết đói, cũng không thể làm việc trái với lương tâm. Còn nữa, tôi cảm thấy mọi thứ ở nhân gian đều có một kết cục, là chết đi hoặc là tái sinh chuyển thế; Cho dù là một người hưởng thụ vinh hoa phú quý (hay lâm vào bần cùng) trong thời gian bao lâu, thì cũng đều không là vĩnh hằng, hoàn cảnh cuối cùng có thể thay đổi. Hết thảy đều không phải là không biến đổi”. Người họ Triệu đáp lại: “Những điều này trong các ghi chép lịch sử quả thật quá nhiều rồi”.

Nghe cuộc đối thoại của bọn họ, nó nghĩ đến bản thân, cho dù là bản thân có thể sống được nghìn năm thậm chí dài hơn, nhưng rồi cũng đều có một kết cục, sau khi kết cục đó thì ta sẽ thế nào?” Nghĩ đến đây, rất nhiều những hạt nước lớn trên chiếc lá rơi xuống.

Hai người họ đang nói chuyện sôi nổi, bỗng nhiên cảm thấy trên đầu, trên thân người đều ướt sũng, ngẩng đầu nhìn lên, trời nắng, nhưng cây lại rơi mưa.

Vị thư sinh họ Trương nói đùa: “Có lẽ cây cổ thụ nghe được cuộc nói chuyện của chúng ta đã cảm động rồi!”

Vị thư sinh họ Triệu nói: “Chúng ta nên rời khỏi đây thôi, đừng làm cổ thụ buồn”. Nói xong hai người mang đất ở gần đó bón thêm vào gốc cây, rồi vỗ nhẹ vào cổ thụ và nói: “Ngươi phải bảo trọng, để chứng kiến ngày mà chúng ta đắc phúc báo nhờ làm việc thiện!” Cổ thụ khẽ lay thân mình như trả lời.

Thời gian trôi qua thật nhanh, lại ba trăm năm nữa trôi qua. Lúc này cổ thụ đã được tám trăm tuổi. Hai vị thư kia sau này chuyển sinh thành văn nhân, võ tướng, hoàng đế, quý tộc, đương nhiên cũng chuyển sinh thành cả tiểu thương, thợ tiểu thủ công, cho dù là bọn họ chuyển sinh thành ai, chỉ cần có thể đến thì đều đến dưới cổ thụ ngồi một lúc, hay đến thăm hỏi một chút. Rất nhiều lúc là có ý thức, cũng có nhiều lúc bất giác mà đến. Câu chuyện dưới tán cổ thụ được chôn dấu thật sâu nơi sâu thẳm sinh mệnh của họ. Mặc dù qua luân hồi chuyển sinh cũng khó có thể làm phai mờ hoàn toàn.

Khi cổ thụ gặp lại họ cũng rất nhiệt tình, dùng phương thức của nó để chào hỏi. Thật ra trong tám trăm năm lịch sử này, “người quen” của cổ thụ tính ra cũng rất nhiều.

Sau này nó gặp được một ẩn sĩ rất có học thức mang theo năm sáu đệ tử đi ngang qua đây, thấy được cây cổ thụ này, bèn dừng chân nghỉ ngơi dưới tán cây.

Lúc này, vị ẩn sỹ nói cùng các đệ tử: “Trong lịch sử quá khứ có rất nhiều người tìm cầu phương pháp trường sinh bất lão và hạnh phúc vĩnh hằng, có một số người trải qua tìm kiếm, nhờ cơ duyên mà gặp được các loại phương pháp tu hành khác nhau, cũng đắc được một số chân cơ. Nhưng những cái gọi là “chân cơ” này, có thể giải quyết một vấn đề nhất định, nhưng không giải quyết được vấn đề căn bản”.

“Vậy phải làm thế nào ạ?” Một vị đệ tử hỏi. “Ta biết được tương lai sẽ có một loại phương pháp tu luyện hoàn toàn mới được truyền ra ở nhân gian, đến lúc đó có thể không cần xuất gia, có thể vừa kinh doanh buôn bán, đi học, vừa tu hành”. Vị ẩn sỹ trả lời.

“Đến lúc đó chúng con làm thế nào tìm được loại phương pháp hoàn toàn mới ấy ạ?” Một đệ tử khác tò mò hỏi. “Đặt tu luyện ở vị trí thứ nhất…. (vị ẩn sỹ dừng lại một chút), thực ra vẫn còn rất nhiều thứ, các con yên tâm chỉ cần các con có thân người, có duyên, các con sẽ gặp được”.

Nghe được lời ấy, nó hoảng hốt, cảm thấy bản thân không có hy vọng rồi, chợt khóc òa lên. Trong lúc trời không mưa không gió, vị ẩn sỹ và đệ tử lại nghe được cây cổ thụ này phát ra âm thanh ô ô, lại có rất nhiều hạt nước rơi xuống, cũng cảm thấy rất ngạc nhiên.

Vị ẩn sỹ nhìn nó, trầm tư một lát rồi xoa xoa thân cây, nói khẽ: “Đừng buồn, đến lúc đó cũng sẽ để ngươi chuyển sinh thành người”. Lời nói nghe có vẻ kỳ lạ, sau khi vị ẩn sỹ nói xong, tiếng ô ô cũng ngừng lại, cũng không thấy nước rơi xuống. Chỉ thấy những cành lá cổ thụ đu đưa lên xuống theo quy luật. Có thể nhìn thấy cổ thụ đã vui lên.

Lại trải qua ba trăm năm, cổ thụ đã được một ngàn một trăm tuổi, trong một lần cơ hội ngẫu nhiên, cổ thụ bị đốn hạ, sinh mệnh lại bắt đầu quá trình luân hồi mới.

Khi luân hồi sau này, trong lúc vô ý nó làm một số việc xấu, cho nên đời này thân thể xuất hiện trạng thái tàn tật. Nhưng dù thế nào đời này cuối cùng sinh mệnh ấy cũng đắc được Pháp Luân Đại Pháp mà muôn đời khó gặp. Vào lúc này chỉ mong anh ấy ngày càng thêm nỗ lực trên con đường tu luyện.

Thật đúng là:

Ngàn năm cổ thụ chứng kiến nhiều

Cảm thán vô thường lệ tuôn rơi

Luân hồi chuyển thế đắc nhân thân

Đắc Pháp hồi thăng đừng bỏ lỡ.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239497

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 15)- Đi qua ngàn năm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 14) – Một số hiểu biết về Nam Cựchttps://chanhkien.org/2020/06/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-14-mot-so-hieu-biet-ve-nam-cuc.htmlFri, 19 Jun 2020 04:57:20 +0000https://chanhkien.org/?p=26424Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 13 Trong các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp hôm nay, có một bộ phận là những nhân tài đầu ngành đạt được thành tựu trong các lĩnh vực, thậm chí rất nhiều người có học vị, học hàm thạc sỹ, tiến sỹ. […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 14) – Một số hiểu biết về Nam Cực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 13

Trong các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp hôm nay, có một bộ phận là những nhân tài đầu ngành đạt được thành tựu trong các lĩnh vực, thậm chí rất nhiều người có học vị, học hàm thạc sỹ, tiến sỹ. Trong mắt người khác, mức độ nắm vững khoa học hiện đại của họ đã vượt xa những người bình thường nhưng điều này cũng không cản trở họ theo đuổi chân lý nhân sinh.

Lần này, tôi từ góc độ của họ lựa chọn một ví dụ, viết ra quá trình tìm Pháp trong quá khứ của họ. Châu Nam Cực là châu lục được phát hiện cuối cùng, trước thế kỷ thứ 18, nó chỉ tồn tại trong tưởng tượng và suy đoán của mọi người. Cho dù trong tấm bản đồ của tướng quân Thổ Nhĩ Kỳ có đánh dấu chính xác tình trạng của châu Nam Cực trước khi bị đóng băng và một số người đánh bắt cá voi đã từng đi qua nơi này, nhưng châu Nam Cực chỉ thực sự hiện ra trong tầm mắt con người từ nửa cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19. Có nhiều nhà thám hiểm đi về hướng Nam đã tìm thấy được châu lục ở phương Nam này, cho đến tận đầu thế kỷ 20, đoàn thám hiểm do nhà thám hiểm người Na Uy dẫn đầu mới đến được điểm Cực Nam thành công.

Cuộc đời tiền kiếp của anh ấy sẽ được kể từ giai đoạn thời gian này.

Từ nhỏ, anh ấy đã yêu thích thám hiểm, anh rất thích nghe những câu chuyện của các nhà thám hiểm châu Âu. Trong những câu chuyện này, điều mà anh thích nghe không phải là việc phát hiện ra bảo vật hay cổ vật gì, mà là những bài học giáo huấn và kinh nghiệm về sự thịnh suy của tín ngưỡng và nền văn minh. Anh luôn cảm thấy sinh mệnh thật đáng quý và việc làm con dân của Thần, làm sao sử dụng hợp lý tất cả những điều thiên thượng trao cho (bao gồm cả phương diện vật chất và tinh thần), là có quan hệ với sự tồn tại và mất đi của các nền văn minh.

Lúc đó, anh chỉ có một khái niệm mơ hồ như vậy, sau này khi nghe nói tới việc tiến hành khảo sát Nam Cực, anh phấn khởi tham gia.

Trước khi tham gia, đầu tiên, anh đến một nơi cách Bắc Cực không xa để tập luyện sinh tồn và huấn luyện thực tế nhằm thích nghi với khí hậu cực đoan và khắc nghiệt ở Nam Cực.

Trong một lần đi huấn luyện, anh nhìn thấy ánh sáng cực quang chói lọi, lúc đó vẫn chưa được khoa học giải thích. Anh vừa cảm thấy khả năng của Đấng tạo hóa thật phi thường, vừa vô cùng yêu mến những con người ở Bắc Cực với cuộc sống đơn điệu nhưng biểu hiện ra một cảnh giới đầy màu sắc và đa dạng.

Từ đó, anh càng thành tâm tín ngưỡng vào Thần và càng có thể đối xử một cách vô tư với người khác. Trước ngày đi xa, anh trở về nhà thăm bố mẹ, ở đó gặp được một người bà con xa, họ cùng nhau tâm sự cả đêm. Trước khi ra đi, bố mẹ nhắc nhở anh bảo trọng, người bà con đã chuẩn bị hai chiếc túi (cẩm nang) để anh mang theo bên người, ở trên viết: “Lên bờ, khó nhất” và “Cực điểm”, dặn dò anh theo gợi ý bên ngoài túi để mở, không được mở ra trước; hơn nữa nhất quyết không được nói điều này với người khác.

Sau khi thuyền của anh xuất phát, những người đưa tiễn đều rơi lệ, anh không đành lòng nhìn bố mẹ khóc nên đi vào khoang thuyền.

Bởi vì đường đi rất xa nên thuyền đi được một đoạn phải cập bờ để tiếp tế, nhiều người đi đánh bạc hoặc đến chỗ vui chơi náo nhiệt để giải sầu, còn anh lại lặng lẽ ở một chỗ để suy nghĩ về vấn đề tín ngưỡng đối với Thần.

Lúc đó, mục đích chuyến khảo sát này rất thực tế, chính là muốn tìm kiếm tài nguyên ở nước ngoài vì sự phát triển của quốc gia.

Ý tưởng của anh là: trên một đại lục hầu như chưa được biết đến, dưới sự an bài tốt đẹp của Thần, làm thế nào để sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, đồng thời thông qua mức độ hợp tác nhất định, để tư tưởng của mọi người càng thêm tin tưởng Thần và cảm ơn sự ban tặng của Thần. Cụ thể phải làm thế nào, anh vẫn chưa nghĩ ra.

Trong hành trình xa xôi, nhất định sẽ gặp phải sóng to gió lớn, suốt đường đi gian khổ không cần phải nói cũng biết, đến một ngày cuối cùng cũng đến được lục địa Nam Cực.

Sau khi lên bờ, cả đoàn mới phát hiện ra càng đi vào phía trong càng thấy các loại địa hình phức tạp, so với địa hình của Na Uy thì phức tạp hơn nhiều. Ban đầu, họ không thể thích ứng ngay.

Trưởng đoàn thấy tình huống như vậy liền quyết định trước tiên để mọi người hoạt động tự do trên bờ biển, không được đi xa, để thích ứng với môi trường ở đây.

Khi đi bộ trên bờ biển, họ thấy được những đàn chim cánh cụt dễ thương, quan sát kỹ có thể thấy chim cánh cụt cũng có vài loại, còn có cá voi to lớn.

Sau khi đoàn người đã dần quen được với nơi dừng chân, họ lại đến một không gian mênh mông không người hết sức rộng lớn, trong lòng cảm thấy một sự khác biệt hết sức to lớn so với chỗ cập bờ. Mặc dù mọi người đã có sự chuẩn bị đối với cảm giác này nhưng nhất thời vẫn không thích ứng được.

Sau khi dựng cơ sở tạm thời ở đây, họ bắt đầu cố gắng hướng đến điểm Cực Nam. Đường đi rất dài và rất gian khổ, với địa lý phức tạp và điều kiện khí hậu cực đoan như thế, chỉ cần một chút sơ ý cũng có thể mất mạng. Ở đây xin không đi sâu vào chi tiết.

Trong quá trình di chuyển, anh cùng các bạn trong đoàn thấy được những mỏ than đá lộ thiên, thậm chí họ còn lấy một ít để sưởi ấm, uống nước tan ra từ băng, khỏi phải nói cảm giác sảng khoái thế nào.

Khi tìm được than đá, anh nghĩ: “Ở đây lúc đầu không thể lạnh như thế này, có thực vật mới có thể có than đá chứ? Lẽ nào bên dưới lớp băng tuyết kia ẩn dấu một bí mật rất lớn?!”

Lúc vừa nghĩ đến vấn đề này, anh rất ngạc nhiên, trước mắt dường như xuất hiện một cảnh tượng: mảnh lục địa này được một màu xanh biếc bao trùm, cuộc sống ở đây chim bay cá nhảy tự do tự tại, thậm chí còn từng có làn khói bếp…

Khi đang mải nghĩ ngợi, anh bị bỏ rơi lại sau đoàn người khá xa lúc nào không hay biết, mọi người đều đang gấp rút lên đường và cũng không để ý gì tới việc anh bị rớt lại phía sau. Bởi vì trong lòng đang suy nghĩ sự việc, cũng không nhìn rõ đường, nên khi bất ngờ dưới chân trơn trợt, anh đã không cẩn thận rơi vào vết nứt của sông băng. Bản thân khe nứt này trông không rõ ràng, một người thường sẽ không nhìn thấy sự tồn tại của nó.

Lúc anh ngã xuống khe nứt, tư tưởng bỗng chốc không có gì nữa, hoàn toàn là trống rỗng. Đợi đến lúc anh định thần lại thì phát hiện mình đã rơi vào trong một hang động được sông băng bao phủ.

Anh nghĩ thầm rằng không lẽ hiện tại bản thân đang ở vào lúc khó khăn nhất? Từ trong túi, anh lấy ra dụng cụ đốt lửa và nhiên liệu rồi đốt lên. Một lát sau, anh phát hiện trên vách đá bên phải hang động dường như có bức bích họa, trên bức họa là cảnh thợ săn đang săn bắn. Anh lập tức hiểu rằng nhất định trước khi đại lục này bị băng bao phủ đã có nền văn minh cổ đại tồn tại ở đây.

Sau khi nhìn quanh một lúc, anh thấy đói và lấy lương khô ra làm nóng một chút, ăn xong cảm thấy tốt hơn rất nhiều. Nhìn số nhiên liệu càng dùng càng ít, anh ý thức được rằng mình nên nhanh chóng thoát ra ngoài, nếu không sẽ mất mạng ở đây.

Lúc này, nhớ đến hai chiếc túi (cẩm nang) mang bên thân, anh tò mò mở chiếc có viết dòng chữ “Lên bờ, khó nhất”, chỉ thấy bên trong có một mảnh vải, trên mảnh vải vẽ một sơ đồ, trên sơ đồ lại có một vài mũi tên làm ký hiệu, không có hướng dẫn rõ ràng.

Anh xem cả nửa ngày, anh nghĩ nếu như lấy chỗ anh đang đứng trong hang động là xuất phát điểm, như vậy theo sơ đồ sẽ là đi thẳng về trước, đi thẳng, đi thẳng, rẽ phải, xuống phía dưới. Thoạt đầu, anh nghĩ hang động này ngoài chỗ ngã vào ở miệng hang thì không có lối ra nào khác, lần này anh tìm kỹ một chút, quả nhiên phía trước có một hốc rất hẹp cho một người đi qua, anh rất vui mừng xách hành lý đi qua, “hành lang” này dài khoảng 1km, phía trước vẫn còn một hang động nhỏ, trên tường cũng có bích họa. Bức họa này là cảnh một đại gia đình đang ăn mừng, ở phía trước của hang động này lại có một miệng hang nhỏ, so với cái trước còn thấp hơn một chút, cần phải bò thấp để qua, hành lang này dài 5km. Điều làm anh tò mò là ở đây vẫn có ánh sáng, mặc dù không quá sáng, nguồn sáng ở nơi nào thì không biết được. Ở phía trước lại xuất hiện một hang động nhỏ, trên vách đá vẽ một người đội vương miện ngồi trên ngai vàng nghe các đại thần nói chuyện.

Ở phía trước hang động thứ ba lại có một cửa hang nhỏ, nếu muốn vào cửa hang nhỏ này chỉ có thể bò. Lúc đầu, anh muốn đem theo tất cả đồ đạc nhưng vì hành lang này rất hẹp, không thể đem theo toàn bộ, nên đành vứt bỏ một ít đồ, chặng đường này dài khoảng 10km.

Đi đến cuối là một lối rẽ, anh dựa theo “hướng dẫn” rẽ phải, kết quả là hành lang càng ngày càng hẹp, không còn cách nào khác, anh phải bỏ lại hầu hết tất cả hành lý để tiếp tục đi, trên thân chỉ mang theo hai chiếc cẩm nang, đồ dùng đánh lửa và nhiên liệu cùng một chút ít đồ ăn.

Lúc đi đến cuối con đường này, bên cạnh xuất hiện một vách đá, phía trên có một bức bích họa miêu tả Thần xuất hiện và muôn vạn chúng sinh đang lễ bái. Phía trước anh là một vách núi cao không thấy đáy.

Ngồi bên vách đá, anh cảm thấy rất nóng, đồng thời cảm thấy trong tâm tràn đầy sức mạnh. Nhớ lại từ lúc ngã xuống khe nứt của sông băng, sau khi vào hang động xem được một vài bức tranh trên đá, anh ngộ ra rằng đây chính là một quá trình từ hoang dã hay phải sống bôn ba thủ thực (thợ săn) từng bước từng bước hướng đến Thần, quá trình đi hướng về Thần. Con đường trong quá trình này càng ngày càng hẹp, ngày càng yêu cầu buông bỏ nhiều gánh nặng hơn, cuối cùng mới có thể nhìn thấy Thần, đi hướng về Thần.

Khi nghĩ đến đây, anh đột nhiên nhớ ra hướng dẫn cuối cùng của cẩm nang kia: “đi xuống dưới”. Anh nghĩ có lẽ là một loại khảo nghiệm đối với mình, sống và chết ở trong lòng mình đã không còn quan trọng nữa, mình đã tìm thấy bằng chứng về nền văn minh tồn tại trước đây ở châu Nam Cực, hơn nữa thể ngộ được điểm hóa của Thần, nếu như vậy, người bà con xa ấy chẳng lẽ là Thần? Hay là Thần phái tới để điểm hóa cho mình? Anh không dám nghĩ tiếp nữa.

Đã đi tới cuối đường, anh không thể lùi bước, chỉ có thể tiến về phía trước, tâm thái của anh bây giờ là đã hiểu rõ ý nghĩa của sinh mệnh nên anh nhẹ nhàng nhảy xuống. Lúc rơi xuống chạm đất, anh lại không ngờ rằng rơi vào một hố chứa toàn những quả lê trăm tuổi. Quả lê ở đây da mỏng thịt dày và vì không có người cắt hái nên năm này qua năm khác rơi xuống hố tạo thành một hố lê.

Anh thấy rằng mình không chết, tuy rằng toàn thân bị dính nước lê, nhưng anh không thấy khó chịu, trong lòng thầm cảm tạ ân đức của Thần.

Anh từ trong đống lê bò ra, nhanh chóng tìm được một cái hồ nước sạch do những dòng suối hội tụ hợp thành, anh liền rửa sạch cả người và quần áo, sau đó lại nếm thử rất nhiều hoa quả ở đây. Lúc này, anh có cảm giác “vui quên cả trời đất”, ở nơi băng tuyết tràn ngập như vậy vẫn còn một chỗ tiêu diêu tự tại như thế này, thật sự là khó được.

Anh ở lại đây khoảng ba đến năm ngày, đột nhiên nhớ ra vẫn còn một chiếc cẩm nang phải đến điểm Cực Nam mới được mở, anh ấy tự nghĩ bây giờ không biết bản thân đang ở nơi nào, đến đâu để tìm điểm Cực Nam? Không biết cả đội thế nào rồi.

Lúc nghĩ đến đây, anh dùng cách của bản thân mình để cầu nguyện với Thần, nói ra những nghi ngờ trong lòng.

Buổi tối, anh có một giấc mộng, mơ thấy bản thân dường như được một vị Thần nhân giáp vàng khiêng đi một đoạn rồi ném ra ngoài, rồi anh lại thấy mình ở trên nền tuyết của núi cao.

Sáng sớm hôm sau, anh đi dọc theo dòng suối nhỏ về phía trước, đột nhiên một khúc gỗ ước chừng 4m nằm ngang từ phía sau vút vút lao tới, theo phản ứng bản năng anh tránh qua, không ngờ khúc gỗ cũng dừng lại, dựng nghiêng ở đó, anh nghĩ lại giấc mơ tối qua, thế là ôm lấy khúc gỗ, khúc gỗ lại vun vút lao đi, anh đành phải nhắm mắt lại, mặc cho khúc gỗ lao đi.

Chờ đến lúc hết tiếng gió, anh mở mắt ra thì thấy mình đã ở lưng chừng của một ngọn núi. Lúc đi dọc theo sườn núi, lại thấy được một ít khói, anh rất vui mừng, cảm thấy lần này được cứu rồi.

Đầu tiên, anh quỳ xuống hướng lên trời bái lạy để biểu đạt lòng biết ơn đối với Thần, sau đó chạy nhanh về hướng của nơi có khói.

Chạy không được bao lâu, anh lại ngã quỵ. Lần này không phải ngã vào khe nứt của sông băng, mà lại ngã vào một sơn cốc nhỏ, anh đứng dậy nhìn chung quanh, phát hiện phía trước hình như có vài dòng chữ: “Giữ lại bí mật, đợi tương lai tu hành”.

Anh ngồi im lặng một hồi, tâm tình yên tĩnh trở lại, quyết định sẽ không nói với ai về bí mật này.

Lúc tìm thấy nơi có khói kia, anh phát hiện ra chính là lều của đoàn khảo sát. Mọi người thấy anh trở về đều vô cùng vui mừng. Đội trưởng nói: “Hôm đó phát hiện ra bạn mất tích, mọi người tìm quanh một hồi đều không tìm thấy, mọi người cảm thấy bạn không có hy vọng sống sót rồi”.

Anh nói: “Lúc đó tôi ngã vào khe nứt của sông băng, sau đó phát hiện được một con đường khác, mới có thể thoát khỏi nguy hiểm và gặp lại các bạn”.

Cả đoàn ở đó dưỡng sức mấy ngày rồi cùng nhau xuất phát hướng về điểm Cực Nam, trong hành trình này phải vượt qua rất nhiều khó khăn, cuối cùng cũng tới được điểm Cực Nam.

Khi đến nơi, anh len lén tìm một nơi để mở chiếc cẩm nang thứ hai, chỉ thấy trong đó viết: “Đại lục bị đóng băng, huy hoàng bị lãng quên, mang theo lòng biết ơn đối với Thần, tấm lòng rộng rãi, mới có thể vượt qua chướng ngại để thấy điều chân thực, đối vối chân lý cũng vậy, đối với phương pháp tu luyện được truyền trong tương lai cũng như vậy”.

Khi xem xong, anh vô thức nhìn lên trời, thấy một vị Thần ở đó đang mỉm cười nhìn anh, một lúc rồi biến mất.

Lúc này, bạn của anh chạy đến nói: “Chúng tôi ở đây thấy một đám mây kỳ lạ, anh có thấy không?” Anh cười mà không đáp…

Tóm lại, chờ đến lúc họ kết thúc hành trình khảo sát, trở về quê hương, anh lập tức nhờ bố mẹ tìm người bà con xa kia, nhưng bố mẹ nói rằng người bà con kia sớm đã rời đi, không biết ở đâu, anh cảm thấy thật đáng tiếc. Mặc dù không được gặp vị bà con kia lần thứ hai để hỏi cụ thể sự việc nhưng nghĩ sau này nếu bản thân thực sự có thể gia nhập môn pháp tu luyện kia, nói không chừng những ẩn đố trong tâm này có thể được giải đáp…

Thật chính là:

Khảo sát Nam Cực lạc sơn động

Từ bước giải đố bỏ gánh nặng

May mắn ngộ tính theo lên kịp

Hôm nay đắc Pháp tu ung dung!

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239496

Xem tiếp: Phần 15

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 14) – Một số hiểu biết về Nam Cực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 13) – Hát trong tiếng mưa tại Parishttps://chanhkien.org/2020/06/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-13-hat-trong-tieng-mua-tai-paris.htmlSun, 07 Jun 2020 00:52:30 +0000https://chanhkien.org/?p=26376Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 12 Bài này nói về câu chuyện tìm Pháp của một học viên da trắng ở châu Âu. Đời trước của cô ấy (những năm 70 của thế kỷ 19, thời kỳ nước Pháp đệ tam cộng hòa) là […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 13) – Hát trong tiếng mưa tại Paris first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 12

Bài này nói về câu chuyện tìm Pháp của một học viên da trắng ở châu Âu.

Đời trước của cô ấy (những năm 70 của thế kỷ 19, thời kỳ nước Pháp đệ tam cộng hòa) là một ca sỹ dân gian, gia đình giàu có. Lúc nhỏ khi chơi ở nhà ông bà tại nông thôn, cô thường chơi cùng các bạn cùng trang lứa khác ở xung quanh. Khi chơi đùa không tránh khỏi một số ma sát, nhưng con của những gia đình giàu có luôn bắt nạt con của những gia đình nghèo, thậm chí còn có người lớn ở bên cạnh “trợ giúp”. Sau một thời gian trong tâm hồn trẻ thơ của cô sinh ra tư tưởng đồng cảm với những người nghèo khổ.

Cô sinh ra được trời ban cho một giọng hát tuyệt vời, dù ca hát ở đâu cô cũng được yêu thích. Khi cô được khoảng 18 tuổi, rất nhiều người có địa vị đều mời cô đến hát, nhờ đó cô cũng quen biết được rất nhiều bạn bè, nhưng đồng thời cô cũng thấy được mặt giả dối, bất chính của rất nhiều người. Điều này làm cô cảm thấy rất buồn. Sau này cô nghĩ ra được một biện pháp “vẹn toàn”: cô sẽ hát ở trên đường phố lớn hoặc quảng trường, ở những nơi mà quần chúng phổ thông đều có thể đến; còn những nơi chỉ những người ở tầng lớp cao mới có thể tới, thì cô ấy cũng đến nhưng sẽ không hát.

Lúc cô mới bắt đầu làm vậy, nhiều người không lý giải được, cảm thấy cô thật ngốc, đánh mất cơ hội bước vào xã hội thượng lưu. Nhiều lần khuyên nhủ, nhưng cô vẫn giữ nguyên cách làm như vậy.

Qua một thời gian, cô nhận được sự yêu mến của rất nhiều quần chúng ở Paris, thêm vào đó với khí chất xuất chúng, mọi người đều thân mật gọi cô là “thiên sứ” hoặc là “tiểu thiên sứ”.

Lại có một số người đàn ông thuộc tầng lớp cao, vì yêu thích bài hát của cô, mà cố ý cải trang thành bộ dạng nghèo khổ đến nghe cô hát.

Thời gian trôi qua, cô cũng đến tuổi kết hôn, có nhiều người đàn ông tầng lớp cao theo đuổi cô, cố ý ăn mặc thành bộ dạng nghèo khổ để đến gần cô. Cô cũng từng gặp được vài người ở tầng lớp cao cùng lứa tuổi, nhưng sau khi tìm hiểu sâu hơn, lại phát hiện những người kia trước mặt cô đều là giả dối, trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày họ rất dối trá thậm chí rất đáng sợ, họ không có sự cảm thông.

Thất vọng một thời gian khiến cô không phấn chấn lên được. Cô nghĩ: “Bản thân mình chỉ hát cho quần chúng phổ thông, an ủi tâm hồn của mọi người, nhưng cũng không giải quyết được vấn đề căn bản! Con người dù có phân biệt giàu nghèo, phân biệt giai tầng, nhưng giữa người và người với nhau nên bình đẳng, không nên có hiện tượng bắt nạt người khác”.

Mang theo những thắc mắc ấy, cô thường đến viện bảo tàng Louvre xem các tác phẩm nghệ thuật; đến một số giáo đường hay đi ngắm phong cảnh bên bờ sông Seine, khi xem hết những điều của tôn giáo, của các nhà nghệ thuật và cảnh đẹp thiên nhiên, những thắc mắc trong tâm cô vẫn không được giải khai, trong lòng lại trở nên trống trải hơn, cô cảm thấy nếu trong tâm một người thật sự tín ngưỡng, thì sẽ tràn đầy sức mạnh của Thiện, sự cảm tạ Thần và lòng biết ơn tự nhiên, sẽ không xuất hiện những sự việc không hài hòa giữa người và người.

Năm 27 tuổi, cô kết hôn với một binh lính bình thường, hai năm sau lại sinh được một con gái. Vốn dĩ gia đình sẽ yên ấm vui vẻ. Nhưng số phận luôn trêu đùa cô: năm năm sau, khi đang làm việc xây dựng trong quân đội, chồng cô bị bức tường đổ sập đè chết, vài ngày sau con gái lại bị bọn lưu manh bắt nhầm (vốn phải bắt cóc một đứa trẻ khác), rồi sau lại bị giết chết.

Cú sốc này là quá lớn với cô, sự nghiệp biểu diễn của cô cũng không thể tiếp tục, cả ngày chìm đắm trong nỗi nhớ chồng và con gái mà không thế thoát ra được.

May thay, mẹ chồng của cô là một tín đồ tín ngưỡng vào tôn giáo, khuyên nhủ cô nên nghĩ thoáng một chút.

Sau đó cô lại nghĩ: “Có lẽ là do mình ngày trước đã làm điều gì không tốt mà gây ra”.

Lúc này có rất nhiều dân chúng bình thường thích nghe cô hát đến thăm hỏi hoặc dùng nhiều cách thức để an ủi cô. Cô cũng từ đó mà thấy được sức mạnh của Thiện. Cảm thấy bản thân đã không phó xuất uổng phí cho họ.

Ba năm lại trôi đi, cô vẫn hay đứng ở tháp Eiffel để biểu diễn cho dân chúng.

Chỉ mới một lát, trời đổ mưa, cô đành phải tuyên bố lần biểu diễn này kết thúc sớm. Bởi vì mưa bất thình lình, mọi người đều không mang ô, cô khuyên mọi người mau chóng rời đi. Mọi người cũng bảo cô đi sớm để tránh bị mưa làm ướt.

Lúc này trong lòng cô chợt dâng lên một niềm bi thương khó hiểu, cô cảm thấy nếu đầm mình trong mưa, thì có thể giảm bớt phần bi thương kia.

Khi mọi người lần lượt rời đi, “Thiên sứ” của họ lại muốn bị mưa dội xuống, thì một vị Thần nhân áo trắng (không hoàn toàn biểu hiện ra trạng thái của Thần, cũng có hiển hiện ra một chút Thần tích, nhưng vẫn có biểu hiện của con người, nên dùng từ ‘Thần nhân’), mang theo một chiếc dù lụa vàng thong thả từ phía xa tiến đến trước mắt cô, dừng lại ở chỗ cách cô khoảng ba mét, chiếc dù lụa vàng bay qua, cô đón lấy, bất chấp trời mưa, cô ngẩng mặt nhìn vị thần nhân.

Thần nhân nói: “Ta toàn thân đều là quần áo trắng, là thay mặt cho vị Thần cai quản các ngươi đến nói với các ngươi, tương lai ở đây sẽ một loại tín ngưỡng lấy màu vàng làm đại biểu (chỉ Phật gia) được truyền ra, tín ngưỡng kia đến từ phương Đông, rất đặc biệt, hơn nữa không thuộc về tôn giáo, là công pháp thích hợp cho tất cả mọi người, chỉ cần đến lúc đó các ngươi thực sự tín ngưỡng, chẳng những có thể đắc được sự an ủi về tâm hồn, thậm chí còn có thể thăng hoa và cải biến thân thể và sinh mệnh. Hãy nhớ kỹ thời gian: giữa những năm 90 (năm 95) sẽ bắt đầu”.

“Như vậy vẫn cần đợi một thời gian rất lâu (lúc đó đang là những năm đầu của thế kỷ hai mươi), tôi có sống được đến lúc đó không?” – Cô thắc mắc.

“Ta nói đến lúc đó sẽ có thì nhất định sẽ có. Cô và những người khác (chỉ một số người đã đi xa và một số ít người chưa kịp đi xa) đến lúc đó đừng bỏ qua cơ duyên là được”. Nói xong Thần nhân liền biến mất.

Cô cầm dù lụa vàng cẩn thận nhìn kỹ, chỉ thấy trên khung đỡ của dù có rất nhiều vòng tròn nhỏ, có nơi còn có hình vẽ cá âm dương và hai chữ “S” (một đứng, một ngang) giao nhau. Cô cầm chiếc dù lụa vàng đứng sững sờ trong mưa, mặc cho mưa rơi tầm tã.

Về đến nhà, cô bọc kỹ chiếc dù lụa vàng, đặt ở nơi cao nhất, để bày tỏ sự tôn kính.

Cô cảm thấy mình quả thật rất may mắn, có thể gặp được “kỳ duyên” này, cô chia sẻ câu chuyện này với bạn bè, có người đến nhà cô, cô đem chiếc dù lụa vàng ra, để làm “chứng cứ”. Sau này một số người tầng lớp thượng lưu nghe được, cùng đến xem chiếc dù lụa vàng, khi cô lấy chiếc bọc đặt ở nơi cao nhất ra, thì không thấy chiếc dù đâu nữa, phía trên chỉ có mấy chữ: “Giữa những năm 90 sẽ thấy”.

Có người không xem được chiếc dù lụa vàng, liền nói cô bịa chuyện; có người khi xem được những chữ kia, trong tâm cảm thấy đến giữa những năm 90 sẽ hiểu. Đến lúc đó nếu có phương pháp tu luyện màu vàng kia (Phật gia), chính mình cũng sẽ trân quý. Có người vừa không cảm thấy cô ấy đang lừa người, cũng không tin cô thật sự gặp được Thần nhân, chỉ cảm thấy tất cả đều là nguyện vọng tốt đẹp của cô, rất thông cảm cho cô.

Bởi vì sự biến mất của chiếc dù vàng kia, khiến cô cảm thấy rất hoang mang, cũng rất mất mặt.

Tối hôm đó, cô mơ một giấc mơ, mơ đến vị Thần nhân kia, cô hỏi thăm rằng: “Dù vàng tại sao lại mất?”

Thần nhân nói: “Tín ngưỡng cần ngộ tính, đồng thời cũng cần thăng hoa trong khi không ngừng đề cao tâm tính”.

Một câu nói làm cô tỉnh ngộ, cô lập tức hiểu được: “(Sự biến mất của chiếc dù vàng) hóa ra là khảo nghiệm xem con người có thể thực sự tin lời của vị Thần nhân không”.

Bởi đã hiểu được, nên trong những năm còn lại cô luôn tin tưởng lời của Thần nhân, ngay cả có những chỗ không hiểu, nhưng cô vẫn tin tưởng như lúc đầu. Đến cả lúc lâm chung, cô cũng không hề dao động….

Thật chính là:

Paris thiển xướng vì đại chúng

An ủi nghèo khổ tâm đau xót

Thiện tâm chung quy cảm thiên địa

Thần nhân lạc tán thị kỳ công! [*]

 

Chú thích:

[*] Nghĩa của câu này là thần nhân đánh rơi chiếc dù vàng, đồng thời khai thị tương lai sẽ có một công pháp Phật gia thần kỳ được truyền xuất ra.

 

Xem tiếp phần 14

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239284

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 13) – Hát trong tiếng mưa tại Paris first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 12) – Đông Phi gai góchttps://chanhkien.org/2020/05/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-12-dong-phi-gai-goc.htmlWed, 27 May 2020 00:51:12 +0000https://chanhkien.org/?p=26335Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 11 Bài này viết về câu chuyện tìm Pháp đời trước của một người tu luyện da đen. Trong đời trước vào giữa thế kỷ thứ 18, cô ấy được sinh ra tại vùng lưu vực sông Zambazi, ở […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 12) – Đông Phi gai góc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 11

Bài này viết về câu chuyện tìm Pháp đời trước của một người tu luyện da đen.

Trong đời trước vào giữa thế kỷ thứ 18, cô ấy được sinh ra tại vùng lưu vực sông Zambazi, ở Mozambique Châu Phi, từ nhỏ đã bị nghèo khổ và đói kém vây quanh. Khi lớn đến khoảng 11, 12 tuổi, có một lần bởi vì trong lúc chơi đùa không cẩn thận đã làm hỏng một số đồ vật có giá trị trong nhà, cha mẹ đánh cô ấy một trận, cô chạy trốn vào sâu trong thâm cốc (một phần của thung lũng Great Rift), vì quá sợ nên không dám về nhà, dứt khoát đi về phía Bắc của thâm cốc.

Thâm cốc rất sâu, nhưng bên trong ngoài cây cối sinh trưởng còn có một số động vật, đáy thâm cốc khắp nơi đều là bụi gai và bùn lầy. Cô rất dũng cảm, đã quen với việc đi lại trên sông và trong rừng. Lúc đói, cô ấy góp nhặt một ít quả dại ăn cho đỡ đói, lúc mệt thì tìm một nơi khô ráo nằm xuống liền ngủ. Ở đây hầu như không có người qua lại, chỉ có thể nhìn thấy chim chóc và dã thú.

Có một lần trời mưa to, cô ấy tìm được một mỏm núi đá có thể trú mưa rồi ngồi xuống nghỉ tạm. Cô nghe thấy trong vách đá dường như có tiếng đi đi lại lại, sau đó lại xuất hiện một giọng nói: “Con gái, con đến rồi?”

Cô chưa hề chuẩn bị tâm lý cho tình huống nghe được câu nói kia, bị dọa đến hôn mê bất tỉnh (thêm vào đó là do mệt nhọc thời gian dài). Đợi đến lúc cô tỉnh lại, trước mặt cô xuất hiện một người đàn ông khoảng 35–36 tuổi, đang hòa ái nhìn cô.

Ông nhìn cô, mỉm cười rồi đem thức ăn ra cho cô ăn. Sau khi ăn ngốn ngấu, mới hỏi: “Ông là ai, tại sao lại ở đây?”

Ông ấy nói: “Ta ở đây đợi con”

“Đợi tôi? Vì sao?” – Cô thắc mắc hỏi.

Ông ấy vẫn cười: “Bần cùng đói khát không phải không thể thay đổi, bởi vì ban đầu ở đây (chỉ khu vực Châu Phi) xuất hiện một việc đặc biệt, Thần đã khiến cho phần lớn dân chúng ở đây ở trong trạng thái bần cùng và đói khát.

Bởi vì con đã làm việc sai, bị cha mẹ trách phạt mà tới đây. Mọi thứ ở đây không làm khó cho con. Nên ta mới ở đây đợi con”.

“Ngài vẫn chưa trả lời con, ngài là ai, vì sao ở đây đợi con?” – Cô vẫn hỏi như cũ.

Ông ân cần nói: “Ta là ai không quan trọng, điều quan trọng là ta biết quá khứ và tương lai của con người. Ở đây đợi con, là bởi vì từ trước con đã để ta đợi con.”

Cuộc nói chuyện làm cô ấy nghi ngờ về tính chân thực, nhưng lại nghĩ: “Ông ấy không cần phải lừa mình, cũng không có vẻ đang lừa mình”.

Không đợi cô hỏi, ông tiếp tục nói: “Sinh mệnh nguyên vốn là ở trên Thiên thượng tuyệt đẹp, ở đó có thể tự do bay lượn, cũng không có bần cùng và đói khát, cũng không vì làm việc sai mà bị đánh. Quan hệ giữa người và người rất hòa hợp. Nhưng qua thời gian dài, giữa sinh mệnh với nhau có những thứ bất thuần, khiến cho một số sinh mệnh không thể ở trên đó được nữa. Con chính là một trong số đó. Lúc đó con nói với ta, con muốn trở về, hy vọng ta cứu con. Ta lúc đó cũng đã nói, vậy chúng ta hãy ở thâm cốc kết duyên. Con cũng đồng ý”. Ông ấy nói xong liền dùng thần lực đả khai những sự việc có liên quan tiền kiếp trong ký ức của cô (chỉ khai mở một bộ phận, vẫn chưa mở ra hoàn toàn), cô cũng muốn nhớ lại những sự việc trước đây giữa mình và ông ấy.

Sau khi biết được, cô quỳ rạp xuống đất, vừa khóc vừa nói: “Bây giờ con nên làm gì?”

Ông ấy nói:”Tội của con còn chưa trả hết, còn cần chịu chút khổ nữa”.

Từ đây con cứ đi thẳng về hướng Bắc, đi qua hồ Malawi, hướng về phía Bắc, ở nơi phân nhánh hướng về phía Tây đi qua hồ Tanganyika (ngày nay ở vào chỗ giao giới giữa nước Cộng hòa Dân chủ Công-gô và Tanzania). Cuối cùng tìm đến hồ Turkana (thuộc về Kenya) từ đây rời khỏi thâm cốc đi về phía Đông, đến cao nguyên, rồi lại đến thành phố Mogadishu của Somali. Đến đây sẽ có người giao cho con một đồ vật đến từ một quốc gia rất xa xôi”.

Nói xong, người đàn ông mang ra một bộ quần áo và giày, ân cần nói: “Trên đường sẽ có rất nhiều bụi gai, quần áo và giày có thể bị cũ rách, nhưng sẽ không rách nát, thời gian không còn sớm, hãy mau lên đường đi”.

Cô ấy thay quần áo và giày, rồi lên đường. Trên đường đi gió thổi mưa sa thì khỏi phải nói, có lúc gặp phải núi lửa phun trào hay nước lũ lênh láng, chỉ có thể vượt qua, gặp phải thú dữ phải nghĩ cách ẩn núp, có lúc giả chết, có lúc quả thực không thể tránh được, trong lúc chờ chết, lại phát hiện thú dữ đã bỏ đi. 

Quần áo và giày trên suốt đường đi đã rách nhiều lỗ, nhưng vẫn có thể mặc, dù là như vậy, nhưng trên người của cô, trên chân cô đã có rất nhiều chỗ rách rồi.

Dù vậy, cô ấy vẫn dựa vào nghị lực mà đi tới Mogadishu. Ở đây có rất nhiều người, cô ấy đi tới đâu cũng thấy mới mẻ, sau khi đi được hai ngày, cô cảm thấy đói bụng, đến trước cửa một nhà xin cơm. Người nhà kia thấy cô áo quần tả tơi, mặt đầy bùn nhơ, liền xua đuổi đi.

Rơi vào đường cùng, cô bước trên đường một cách không định hướng. Đang đi, đột nhiên nghe thấy có người gọi: “Mau đến đây xem, ở đây tôi có một chồng tranh, ai xem hiểu được, tôi xin tặng không”. Cô cũng tiến đến góp vui, vừa xem liền nghĩ lẽ nào đây là điều mà người gặp trong cốc nói, mang một thứ từ đất nước rất xa xôi đến giao cho cô, cô lật qua lật lại rồi nói, đây có phải là sách về việc tu hành từ ngoại quốc. Có phải trước đây các bạn đã đi sang nước ngoài?

Lúc đó có một bà lão nói: “Tổ tiên của chúng tôi nói rằng, từng có một đội thuyền ngoại quốc rất lớn đến chỗ chúng tôi. Da của những người đó màu vàng, quốc gia dường như rất hùng mạnh. Dẫn đầu hình như là…”

Một bà lão khác nhanh chóng tiếp lời: “Nghe nói là người ở trong cung, tại quốc gia của họ, ở trong cung chỉ có Hoàng đế và Hoàng tử là đàn ông, những người khác đều có diện mạo là đàn ông, nhưng không phải đàn ông (hoạn quan hay thái giám).

Cô nghe mà cái hiểu cái không, lúc này bụng lại kêu ọc ọc, lại thấy có người lớn tiếng gọi cô đến, cô sợ hãi nói: “Tôi đã nói được lai lịch và cách dùng của chồng tranh này, có thể đưa tranh cho tôi không? Người kia thoải mái xoay người, đưa chồng tranh cho cô, sau đó xem dáng vẻ nghèo túng của cô, lại đem rất nhiều thức ăn đưa cô, để cô mang theo.

Giải thích rõ câu chuyện, chồng tranh này là năm đó vào thời Minh Thành Tổ, thái giám Tam Bảo, Trịnh Hòa đi “Tây Dương” dừng chân tại đây, người nhà Minh thời đó rất thích tu Đạo, thuật luyện đan, cả binh sỹ cũng thích xem sách vở loại này, vì đi đường dài, thời gian nhàn rỗi, mang theo sách từ nhà Minh lên thuyền, sau khi lên đất liền ở đây, vì nhiều nguyên nhân mà để lại bộ tranh tại đây (có thể là trao đổi với người địa phương, có thể là để quên, cũng có thể là muốn vứt bỏ, v.v…)

Cô ấy tìm một căn nhà không có người ở tại một nơi hẻo lánh, xem hết chồng tranh kia. Trong khi xem có thể cảm nhận được sức mạnh của tranh.

Ở trong tranh là nói về quá trình tu Đạo, mỗi bước đi như thế nào, làm thế nào, đều được miêu tả chi tiết.

Cô cảm thấy có thể đến đây, có thể nhận được chồng tranh này thật may mắn, liền quyết định ở lại đây một thời gian. Buổi sáng ra ngoài xin cơm, lúc trở về thì xem tranh, buổi chiều và buổi tối đều chiểu theo những điều ở trong tranh mà luyện.

Trải qua ba đến bốn năm như vậy, có một lần khi đang chiểu theo yêu cầu trong tranh để luyện, đột nhiên cô thấy vị Đạo trưởng trong tranh xuất hiện ngay trước mặt.

Cô mau chóng quỳ xuống hành lễ, Đạo trưởng nói: “Ngươi gặp được những bức tranh này là để kết duyên, tương lai người sẽ đắc được phương pháp tu luyện còn tốt hơn. Tương lai ngươi chuyển sinh đến Nam Phi chờ là được”. Nói xong Đạo trưởng liền biến mất.

Cô vừa nghe liền đứng dậy rời khỏi Mogadishu, theo đường cũ trở về Mozambique, ở đó tiện thể thăm hỏi cha mẹ, rồi đi đến Nam Phi, định cư gần mũi Hảo Vọng.

Mặc dù cô ấy không có khái niệm chuyển sinh, nhưng cô nghĩ: “Ta đời này đợi ở đây, bất kể ta có hay không có ‘tương lai’ (chỉ việc có thể tiếp tục chuyển sinh thành người hay không), ít nhất ta đã tận lực rồi, ta sẽ không hối hận…”

Thật chính là:

Tiến vào thâm cốc vì trốn chạy

Bụi gai kỳ ngộ thần không quên

Phá mê sách đạo Đại Minh tới

Thiên tải Pháp duyên trần gian đọc.

 

Xem tiếp phần 13

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239283

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 12) – Đông Phi gai góc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 11) – Bôn ba Úc Châuhttps://chanhkien.org/2020/05/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-11-bon-ba-uc-chau.htmlTue, 19 May 2020 00:32:56 +0000https://chanhkien.org/?p=26310Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 10 Bài này viết về câu chuyện tìm Pháp trong tiền kiếp của một nhân viên truyền thông. Vị này là hậu duệ của binh lính người Anh, lúc bấy giờ (những năm 80 của thế kỷ 18) là […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 11) – Bôn ba Úc Châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 10

Bài này viết về câu chuyện tìm Pháp trong tiền kiếp của một nhân viên truyền thông.

Vị này là hậu duệ của binh lính người Anh, lúc bấy giờ (những năm 80 của thế kỷ 18) là khi Anh Quốc bắt đầu xây dựng chế độ thuộc địa tại châu Úc thì biến nơi này thành nơi lưu đày tù nhân.

Lúc mới khai phá, ở đây rất khó khăn, cả tù nhân và người canh giữ đều trú tại vùng bình nguyên duyên hải phía đông nam châu Úc, lưng dựa vào dãy Great Dividing, trước mặt là biển Tasman, gió bão từ Thái Bình Dương đổ thẳng vào đây (bang New South Wales ngày nay). Do vừa mới khai phá, lương thực rất eo hẹp, nên cần vận chuyển từ Nam Phi hoặc Indonesia đến, bởi vì đều là vận chuyển đường biển, nếu thời tiết không thuận lợi (gió thổi mưa sa) thì có thể sẽ đến muộn một chút. Do đó những lúc lương thực thiếu thốn, con người phải trải qua những ngày tháng rất gian khổ. Sau này ở đây phát hiện mỏ vàng chứa rất nhiều tài nguyên, dân di cư từ các nước Anh, Pháp và Trung Quốc mới đổ đến đây một lượng lớn.

Vào ngày đầu tiên của thế kỷ 20, Úc mới trở thành một nhà nước liên bang, câu chuyện của chúng ta sẽ bắt đầu kể từ đây.

Lúc còn nhỏ, cha mẹ thường kể cho anh ấy tổ tiên đã đến nơi này như thế nào và những khó khăn khi gây dựng sự nghiệp ở đây.

Anh ấy có lúc kết hợp lời kể của cha mẹ và những người lớn tuổi xung quanh, trong đầu hiện ra một hình ảnh đầy gian nan và khó khăn…

Lúc đó một người lớn tuổi nói với anh: “Sinh tồn là bản năng của con người, trong quá trình đấu tranh sinh tồn, chọn lựa như thế nào là điều rất then chốt. Trong thời điểm gian nan, nếu bản thân chỉ còn lại một chút thức ăn, mà người khác lại đến xin, bạn đưa cho người kia, thì bản thân có thể sẽ chết vì đói; nếu không đưa thì lại cắn rứt lương tâm. Mỗi người một ít thì ai cũng không được no. Ở trong mâu thuẫn này, những người khác nhau sẽ có lựa chọn khác nhau, cho nên kết quả đương nhiên sẽ không giống nhau”.

Anh ấy tự nhiên nghĩ đến, nhưng không nói ra: “Như thế khẳng định sẽ có người không chia thức ăn cho người khác để bản thân được sống, có người sẽ đưa thức ăn cho người kia mà tự mình đói chết”. Người lớn kia nhìn anh, cười nói: “Ta biết con đang nghĩ điều gì, nhưng chỉ đến lúc con gặp phải loại hoàn cảnh này, con mới biết được cái gọi là ‘kết quả không giống nhau’”.

Sau khi lớn lên, anh ấy bắt đầu có hứng thú với việc thăm dò địa chất địa mạo của Úc.

Anh ấy mang theo 20 người từ Sydney vượt qua dãy núi Great Dividing, đến vùng bình nguyên trung bộ, rồi đi đến cao nguyên phía Tây, từ đó xuyên qua sa mạc Great Sandy, đến vùng phía Tây, ven theo bờ biển đi về phía Bắc, trở lại Sydney.

Sau đó, từ Sydney xuất phát men theo bờ biển đi về phía Nam, qua bang Tasmania đến thành phố Perth rồi trở về.

Trên đường đi bọn họ quả thực đã gặp phải tình huống mà vị kia đã nói. Anh ấy lựa chọn đưa một chút thức ăn còn lại mà mình có cho người khác. Nhưng anh ấy không chết đói mà được thổ dân địa phương cứu sống.

Vị thổ dân kia nói: “Tổ tiên của chúng tôi bị những người ngoại lai các anh đuổi đến vùng Trung Tây xa xôi, đáng lẽ trong tâm chúng tôi luôn cảm thấy đau khổ, thấy các người đến đây, chúng tôi hận không thể giết chết các anh để thỏa mối căm giận trong tâm, nhưng vì rất tò mò, cho nên vài người chúng tôi lặng lẽ đi theo, quan sát lời nói và việc làm của các anh. Cuối cùng phát hiện, trong lúc thiếu thốn lương thực, anh vẫn lấy một chút đồ còn lại của mình đưa cho người khác. Đây không phải là điều một người bình thường có thể làm được. Chúng tôi cũng sẽ không hại các anh. Không chỉ như thế, tổ tiên chúng tôi từng nói: nếu gặp được người có thể đem một ít thức ăn mình có đưa cho người khác, nhất định phải nói cho người ấy một bí mật”.

“Bí mật gì?” Mọi người đều rất tò mò.

“Ở trên một ngọn núi nơi tổ tiên chúng tôi từng ở (bang New South Wales) có một người tu hành rất nhiều năm, người này biết rất nhiều sự việc, kể cả việc tổ tiên chúng tôi bị xua đuổi, đại lục này sẽ bị những người ngoại lai thống trị. Những người thổ dân chúng tôi sẽ nghèo khó trong một thời gian rất dài, v.v. Nhưng những điều đó không phải là trọng điểm, điều quan trọng là ông ấy nói rằng tương lai ở đây sẽ có một người vô cùng đặc biệt, người này sẽ đem đến cho đại lục này một loại phương pháp tu luyện vô cùng tốt đẹp, bình hòa, vô tư mà lại hoàn toàn mới mẻ. Đến lúc đó sẽ có rất nhiều người vì tu luyện mà đến đây và các nơi khác (các châu lục và đảo khác) được gọi  là ‘sứ giả của Thần’”.

“Vậy đến lúc đó chúng ta làm sao tìm được Ngài? nhưng mà…. vấn đề là người ta chết rồi không phải xuống Địa ngục hoặc lên Thiên đường sao, sẽ không có cách nào lại làm người nữa? (Chú thích: trong văn hóa Cơ Đốc giáo ở phương Tây có cách nói như vậy, ‘luân hồi’ là danh từ trong văn hóa Đông phương)” Mọi người đều có thắc mắc giống nhau.

Vị thổ dân kia cười nói: “Đó là trong cái khuôn tư tưởng của các anh mà nghĩ, nơi tổ tiên các anh sinh sống ta cũng chưa từng thấy các loài động vật như ở đây (ám chỉ loài chuột túi, v.v..) phải không? Rất nhiều việc không nên nhìn nhận một cách cố định….”

Nói xong vị thổ dân mang ra những thức ăn ngon nhất chiêu đãi bọn họ một bữa. Trong tâm họ trào dâng một loại khát vọng (đến lúc đó sẽ được gặp người truyền bá phương pháp tu luyện kia) và một suy nghĩ chưa giải thích được (lẽ nào con người thật sự có thể lại chuyển sinh thành người).

Lần khảo sát này mang lại cho họ thu hoạch thật lớn, thông qua lần gặp mặt kia, cả 20 người đều minh bạch một đạo lý: vào những lúc bản thân thống khổ nhất, nếu có thể nghĩ đến người khác, thì bản thân có thể thoát khỏi khổ nạn.

Sau khi trở về Sydney, anh ấy lại mang theo một số người đến nơi mà sau này được gọi là: “Cột đá mười hai sứ đồ”, lúc nhìn thấy những cột đá vôi bị nước biển tàn phá mạnh mẽ, trong tâm anh ấy dâng lên một cảm giác tang thương đặc biệt: “Tất cả những gì không vượt qua được khảo nghiệm của tự nhiên sẽ theo thời gian trôi qua mà biến mất không còn dấu vết. Nếu đến tương lai bản thân vẫn có thể làm người, thì tốt nhất là có thể gặp được phương pháp tu luyện giúp người ta trải qua ma luyện mà trở nên không biến đổi kia”.

Lúc đó bỗng nghe được một người độc thoại: “Nếu mong muốn một phương pháp tu luyện để vượt qua được ma luyện, bản thân cần bảo trì tâm thái vô tư”.

Anh ấy ngẩng đầu nhìn lại chỉ thấy một nhóm người đang chơi trên bờ biển rất vui vẻ. Không biết câu nói kia rốt cuộc là do ai nói.

Anh ấy cẩn thận cân nhắc những lời này, cảm thấy xác thực rất có đạo lý, về sau trong cuộc sống, anh ấy làm bất cứ điều gì đều giữ tính vô tư, rất nhiều người trở thành bạn tốt của anh, cũng được tính là kết được nhiều thiện duyên.

Mỗi khi anh ấy nghĩ về điều người thổ dân kia nói về những lời của người tu hành trên núi ấy, anh ấy càng cảm thấy rất tò mò. Cuối cùng anh dứt khoát đem theo ba bốn người đến vùng lân cận ngọn núi, lại đến dãy Great Dividing tìm người kia.

Tìm suốt hai ba năm vẫn không tìm thấy, điều duy nhất thấy được là, trong một lần đi đến gần một hang động, phát hiện trong hang động phóng ra ánh sáng màu tím. Nhưng lúc đến gần, lại phát hiện miệng hang cực nhỏ, căn bản là con người không thể vào được, hỏi thăm những người xung quanh, mọi người cũng nói ở đây thường xuất hiện ánh sáng tím, có lúc miệng hang rất to, có đi vào cũng không phát hiện điều gì đặc biệt.

Bọn họ ở trước miệng hang đợi vài ngày, ngoài ánh sáng tím cũng không phát hiện điều gì đặc biệt.

Trong quá trình đi đến những nơi khác, có người nói: “Có lẽ người tu hành nhiều năm kia biết chúng ta đến, nhưng không muốn gặp chúng ta và cố ý ẩn nấp rồi”.

“Cũng có thể vậy….” Anh ấy không xác định được, chỉ trả lời một cách mơ hồ.

Nếu một người mang trong tâm mâu thuẫn giữa “khát vọng” và “nghi ngờ” mà sống qua ngày, như vậy tinh thần sẽ rất mệt mỏi. Anh ấy mang theo điều ấy trong tâm cho đến cuối đời, lúc lâm chung còn có một nguyện vọng: nếu tương lai có thể gặp được người hồng truyền phương pháp tu luyện hoàn toàn mới mẻ, mình nhất định sẽ trợ giúp hồng truyền, để tránh cho người khác phải như mình chịu đựng nỗi khổ chờ đợi và dày vò.

Thật đúng là:

Bạt thiệp Úc Châu ngộ thổ trứ

Cáo tri tương hữu Pháp truyền xuất

Bảo đãi vô tư thế trung đẳng

Triển truyền tích duyên mạc di ngộ

 

Tạm dịch:

Gian nan châu Úc gặp thổ dân

Tương lai sẽ có Pháp truyền ra

Bảo trì vô tư trong thế gian

Trăn trở tiếc duyên không làm lỡ

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239282

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 11) – Bôn ba Úc Châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 10) – Giấc mơ ở Mỹ La-tinhhttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-10-giac-mo-o-my-latinh.htmlSat, 18 Apr 2020 02:28:39 +0000https://chanhkien.org/?p=26200Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại Lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 9 Trong xã hội ngày nay có một số lượng người nhất định mang ấn tượng rất tốt về Đại Pháp, rất sẵn lòng trợ giúp người tu luyện, lại cũng thích xem những tài liệu về tu luyện, […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 10) – Giấc mơ ở Mỹ La-tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại Lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 9

Trong xã hội ngày nay có một số lượng người nhất định mang ấn tượng rất tốt về Đại Pháp, rất sẵn lòng trợ giúp người tu luyện, lại cũng thích xem những tài liệu về tu luyện, nhưng muốn để họ chân chính tiến nhập vào hàng ngũ tu luyện thì họ lại viện đủ các loại lý do để né tránh.

Bài viết này lấy ra một ví dụ, kể một chút về tình huống tìm Pháp trong tiền kiếp của nhân vật chính với mục đích là hy vọng tất cả những người có hảo cảm với Đại Pháp đều có thể mau chóng chân chính đắc Pháp, không lưu lại ân hận cho bản thân.

Vào thế cuối thế kỷ 19, cậu chuyển sinh vào một gia đình giàu có tại nước Mỹ, cha cậu điều hành một công ty gia đình cỡ lớn. Cậu nghe người ta nói rằng ở Châu Mỹ La-tinh có rất nhiều của báu vật lạ.

Bởi vì cậu thanh niên trẻ thích thám hiểm, cha mẹ cũng muốn để cậu đi ra bên ngoài nhìn ngắm thế giới, bèn giúp cậu thu xếp hành trang lên đường.

Suốt dọc đường, đi đến đâu cậu cũng hỏi thăm những chuyện liên quan đến kho báu, cũng đã lý giải được một số loại tình huống văn minh cổ đại.

Khi cậu đi đến những địa danh như thành phố Mexico, Trung Mỹ, Ecuador, Peru,v.v. ở mỗi nơi cậu đều tìm hỏi về một số di tích văn minh cổ của các thời kỳ khác nhau.

Cậu đã chấn động sâu sắc khi nhìn thấy những di tích văn minh này, cảm thấy mặc dù mỗi nền văn minh đều trải qua những năm tháng dài ngắn khác nhau từ khi kiến lập, phát triển cho đến lúc phồn thịnh rồi tiêu vong, nhưng cuối cùng những gì được lưu lại cho đến ngày hôm nay chỉ là tàn tích với những bức tường đổ nát để chứng minh rằng chúng đã từng tồn tại.

Thậm chí đến cả một nền văn minh mà còn như vậy, thì một cá nhân phải làm được sự nghiệp vĩ đại gì mới có thể trường tồn cùng thiên địa đây?

Khi cậu đang tìm hiểu về nền văn minh May-a thì bị ngã bệnh. Trong ba ngày ba đêm hôn mê, cậu phảng phất mơ thấy một vị trưởng lão của nền văn minh May-a, vị trưởng lão nói với cậu: “Vì sao nền văn minh của chúng tôi đi đến suy bại? Là vì chúng tôi đã làm ra rất nhiều chuyện xấu xa, khinh nhờn Thần, vì Thiên thượng muốn nghiêm phạt chúng tôi nên mới để cho nền văn minh này lụi tàn. Của cải và vinh diệu là do Thần ban cấp, nếu như con người có được những thứ này rồi, mà lại làm ra những chuyện bất kính với Thần thì Thần sẽ thu hồi lại những thứ ấy, hơn nữa còn khiêm khắc trừng phạt họ”.

“Tại sao lại nói với tôi những điều này?” – cậu không hiểu bèn hỏi lại.

“Của cải không chỉ là biểu tượng của hạnh phúc, mà cũng là đường thông đạo dẫn người ta đến tội ác. Chính là xem con người dùng nó như thế nào” – trưởng lão gián tiếp trả lời câu hỏi của cậu.

“Vậy… (cậu trầm tư trong một tích tắc) mục đích tôi đi lần này là để tìm kho báu, nếu như tôi từ bỏ, vậy chẳng phải là đi cũng như không hay sao?” – cậu vẫn chưa buông ý nghĩ tìm kiếm báu vật.

Trưởng lão thấy cậu vẫn còn chưa ngộ, bèn nói thẳng ra: “Nếu như lần này cậu tìm được một ‘kho báu’ khác thì chẳng phải còn tốt hơn hay sao?”

“Một kho báu khác? Xin ngài hãy nói tường tận cho tôi biết” – cậu truy hỏi.

Trưởng lão mỉm cười: “Tìm ra cảnh giới vĩnh hằng mà có thể nhìn thấy những hưng suy hoại diệt của nền văn minh cổ của chúng tôi, đó có phải là một loại ‘kho báu’ khác hay không?”

Cậu bất giác cảm thấy chuyện này dường như có chút liên quan đến tín ngưỡng, vừa muốn hỏi thêm nữa thì trưởng lão đã cười một cách bí ẩn rồi rời đi mất.

Cậu giật mình tỉnh mộng. Sau giấc mơ ấy, bệnh tình của cậu cũng thuyên giảm quá nửa, chỉ là thân thể còn chút yếu nhược.

Cậu nghỉ ngơi thêm khoảng bảy ngày nữa rồi quay lại cuộc hành trình tìm kiếm của mình. Trong quá trình tìm hỏi sau đó, cậu chủ yếu nghiên cứu sâu hơn về bộ phận có liên quan đến tín ngưỡng trong văn minh May-a, cậu muốn tìm ra phương pháp làm thế nào khiến bản thân có thể được vĩnh hằng cùng thiên địa.

Thế nhưng do niên đại cách quá xa, văn minh xuất hiện rất nhiều nhân tố đứt đoạn, cậu chỉ có thể tìm ra được duy nhất một manh mối: Trên lịch pháp của người May-a có viết rằng trong tương lai sẽ có một thời kỳ vũ trụ canh tân. Những điều khác đều tìm không ra dấu vết.

Cậu không mất hy vọng, lại tiếp tục tìm kiếm trong văn hóa của những nền văn minh cổ khác.

Bởi vì ngoại trừ văn minh cổ của vùng gần Trung Mỹ là tương đối tập trung, các di tích của văn minh cổ tại Nam Mỹ đều khá phân tán, cậu bèn đi theo con đường dọc dãy núi Andes, cuối cùng đến được cao nguyên Patagonia. Tại đây có một người bảo cậu hãy đến vùng đảo Tierra del Fuego ở tận cùng phía Nam, xem xem có thể đắc được khai thị nào đó hay không.

Cậu vượt qua eo biển Magellan đến được đảo Tierra del Fuego. Tại đây cậu đi vòng quanh khắp nơi nhưng cũng không gặp được chuyện gì đặc biệt, đúng vào lúc cảm thấy thất vọng thì cậu nhìn thấy một vòng tròn vẽ bằng bột màu trên một khu đất trống nhỏ, điểm bắt đầu và kết thúc ở cùng một chỗ (được đánh dấu bằng hai chữ cái tiếng Anh đầu tiên của hai từ này), tại trung tâm của vòng tròn có viết một chữ “trung” (chữ cái đầu tiên của từ “trung tâm” trong tiếng Anh). Ngoài ra không còn gì khác.

Cậu lại đợi thêm khoảng một tháng nữa, nhưng cũng không có thêm khai thị nào, đành lên đường quay về.

Dọc đường về cậu tự nhiên gặp phải rất nhiều nguy hiểm và gian nan, những chuyện này không nhắc đến nữa. Chúng ta có thể nói tóm lại rằng, thời điểm cậu về đến nhà thì đã sáu năm trôi qua rồi.

Không lâu sau khi tiễn cậu đi, cha mẹ bắt đầu lo lắng cho an nguy của cậu. Mới đầu họ còn nhận được một chút tin tức, về sau một mẩu tin cũng chẳng có, lúc ấy cha mẹ cậu vô cùng lo lắng, phái người đi khắp nơi tìm, nhưng mấy năm không có kết quả gì.

Đến khi cậu trở về, cha mẹ quả thực là mừng phát khóc. Cậu đem những chuyện mắt thấy tai nghe dọc đường kể lại cho cha mẹ và bạn bè.

Lúc cậu đề cập đến vòng tròn có điểm khởi đầu và kết thúc cùng một chỗ, ở giữa có một chữ “trung”, một vị họ hàng lớn tuổi nói: “Ban đầu cháu khởi hành từ nước Mỹ là để đi tìm kho báu, sau đó mục đích đã đổi thành tìm kiếm phương pháp tu luyện vĩnh hằng. Vậy phải chăng là vào thời kỳ vũ trụ canh tân trong tương lai, tại vị trí của chúng ta bây giờ (bang Pennsylvania) có thể gặp được loại phương pháp ấy! Bởi vì chỉ có như vậy thì điểm khởi đầu và kết thúc mới có thể ở cùng một vị trí!”. Nghe ông nói như vậy, mọi người đều cảm thấy rất có lý.

Có người không hiểu: “Chữ ‘trung’ bên trong hình tròn thì giải thích thế nào đây?”.

“Theo tôi thấy thì ý nghĩa của chữ ‘trung’ này là loại phương pháp ấy sẽ từ ‘trung tâm’ mà truyền trộng ra bốn phương, ‘trung’ phải chăng là chỉ một vùng đất hoặc quốc gia nào đó.” – vị trưởng lão bổ sung thêm.

Lúc này, một vị có học thức cao tiến đến nói: “Tôi nghe người khác nói rằng tại một nơi cách chỗ chúng ta rất xa, có một đất nước được gọi là ‘Hoa Hạ’ hay ‘Trung Quốc’. Đó là một quốc gia cổ đại đã có mấy ngàn năm văn minh lịch sử. Nghe nói rằng tại đó có rất nhiều loại phương pháp tu hành mà thậm chí vào thời kỳ hưng thịnh thì cả những người đứng đầu trong xã hội cũng đều tham gia. Nơi này còn có rất nhiều chuyện thần bí. Nếu vào thời kỳ vũ trụ canh tân trong tương lai thật sự có một loại phương pháp tu hành được truyền xuất ra, tôi thấy có lẽ là sẽ bắt đầu từ nơi ấy”.

Mọi người nghe xong ánh mắt chợt sáng lên hy vọng, trong tâm đều kỳ vọng tương lai vào thời kỳ vũ trụ canh tân có thể đắc được thân người, có thể gặp được loại phương pháp tu hành ấy.
……….

Lúc này cậu kể lại đầu đuôi câu chuyện lúc đổ bệnh đã mơ thấy gặp trưởng lão người May-a, đặc biệt là lời cảnh báo của trưởng lão. Cậu căn dặn mọi người: “Đối với chúng ta mà nói, bất kể lúc nào cũng đều phải khiêm tốn, phải biết cảm ân, phải thật tâm thành kính Thần và Thiên thượng, nếu không Thần sẽ giáng tội để nghiêm phạt chúng ta. Chúng ta cảm thấy tất cả những điều huy hoàng mà bản thân kiến lập thật là tài giỏi, nhưng thực ra dưới con mắt của Thần thì hủy đi những điều ấy thật quá dễ dàng. Chúng ta tuyệt đối không nên dẫm lên vết xe đổ của những nền văn minh cổ đại, chúng ta cần tự mình khởi tạo và phát triển tuân theo ý chỉ của Thần. Chỉ có như vậy nền văn minh của chúng ta mới có thể lâu dài, Thần mới để cho chúng ta tìm được Pháp có thể chân chính đạt đến vĩnh hằng”. Những lời này nói ra khiến mọi người không ngớt gật đầu đồng tình, cũng khắc ghi trong tâm ân điển của Thần, và hy vọng có thể được Thần chiếu cố, để tương lai đắc được phương pháp tu hành có thể khiến sinh mệnh vĩnh hằng.

Đây chính là:

Vi liễu tầm bảo phó lạp mĩ
Ngộ đáo cổ tích đa tao hủy
Tư tác văn minh nhân hà suy
Xảo ngộ trường lão mộng trung hối
Tham niệm dã man nhân thành phỉ
Tiết độc thượng thiên thần tựu hủy
Đoạn bích tàn viên lưu kim triêu
Tố thuyết thần phạt nhượng nhân úy
Vọng đoạn thương mang ngã thị thùy
Bách niên nhân sinh như mộng tùy
Thính văn Đại Pháp nhân trung truyền
Khoái tích pháp duyên vĩnh hằng quy!

Tạm dịch nghĩa:

Đến Mỹ La Tinh vì tìm bảo vật
Gặp bao tích cổ bị tiêu hủy
Ngẫm nghĩ xem vì sao mà văn minh suy bại
Vừa hay gặp được lời giáo huấn của trưởng lão trong mơ[1]
Niệm tham lam biến người man di thành thổ phỉ
Khinh nhờn thiên thượng, thần sẽ hủy
Hoang tàn đổ nát lưu lại đến hôm nay
Kể chuyện Thần phạt để con người biết sợ
Mong mỏi phá tan mờ mịt (để biết) ta là ai
Trăm năm đời người như giấc mộng trôi[2]
Nghe được Đại Pháp truyền tại nhân gian
Mau trân quý Pháp duyên trở về với vĩnh hằng[3]

 

Chú giải:

[1] Ý nghĩa của câu này là trong mộng đắc được giáo huấn từ trưởng lão người May-a.
[2] Ý nghĩa của câu này là trăm năm đời người giống như giấc mộng không chân thực, theo gió mà tàn.
[3] Ý nghĩa của câu này là hãy mau chóng trân quý Pháp duyên, tu luyện quay về trong cảnh giới vĩnh hằng và mỹ hảo.

 

Xem tiếp phần 11
Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239281

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 10) – Giấc mơ ở Mỹ La-tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 9) – Lữ khách Nam Dươnghttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-9-lu-khach-nam-duong.htmlWed, 15 Apr 2020 13:44:12 +0000https://chanhkien.org/?p=26183Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 8 Trong quần thể những người tu luyện Đại Pháp, có một số người cá biệt gây tác dụng can nhiễu và đảo loạn, biểu hiện tại đời này của họ bất hảo, nhưng ở đời trước họ đã […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 9) – Lữ khách Nam Dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 8

Trong quần thể những người tu luyện Đại Pháp, có một số người cá biệt gây tác dụng can nhiễu và đảo loạn, biểu hiện tại đời này của họ bất hảo, nhưng ở đời trước họ đã từng trải qua quá trình tìm Pháp gian khổ đằng đẵng. Tại đây xin chọn một trường hợp để viết ra, hy vọng những người này có thể trong mê biết quay đầu, trân quý bản thân, trân quý cơ duyên lịch sử sẽ qua đi trong chớp mắt này.

Những cụm từ như “xuống Nam Dương”,  “vượt Quan Đông”, “đi Tây Khẩu” đều là để chỉ những làn sóng di dân trong lịch sử Trung Quốc, trong số những người “xuống Nam Dương”, nhìn chung có khá nhiều là cư trú tại vùng duyên hải Đông Nam.

Những năm đầu thời Mãn Thanh thường hay xảy ra chiến loạn, rất nhiều người dân tộc Hán bất mãn vì bị dị tộc thống trị nhưng lại không thể kháng cự nên đành chọn cách ra hải ngoại.

Có một người cũng nằm trong số ấy, nơi đầu tiên anh đặt chân đến là Malaysia, ban đầu anh trồng mía cho dân bản địa ở đây. 

Bởi vì lúc ấy Malaysia vẫn còn trong thời kỳ khai phá nên hoàn cảnh lao động tương đối vất vả, hơn nữa còn có các loại mãnh thú như hổ Mã Lai,…

Trong những người cùng đến với anh, có người do không hợp thủy thổ mà đổ bệnh, có người chết vì lao lực quá độ, còn có người thì bị hổ ăn thịt, mới có một năm mà 20 người đồng hành với anh giờ chỉ còn lại tám người. 

Trong khó khăn khổ cực, anh nghĩ bản thân mình vì tránh quốc nạn mà đến đây, nhất định phải sống cho ra sống, mới có thể không làm bản thân và phụ lão ở quê nhà phải thất vọng, nghĩ vậy trong tâm cũng tràn trề sức lực. 

Anh làm tại đây suốt năm năm liên tục, một lần nọ trời mưa to gió lớn, anh cứu được con gái của một ông chủ nông trường bị trượt chân ngã xuống mương. Để cảm tạ, ông chủ bèn để cho anh quản lý người làm, anh không cần phải vất vả như trước nữa, tiền công cũng được nhiều hơn người khác một chút. 

Anh vốn đang làm ở đây khá tốt, thế nhưng chẳng ngờ trời nổi phong vân, có một lần vì điều kiện làm việc quá khổ cực nên “Hoa công” ở đây (người từ Đại lục đến đây làm công) mâu thuẫn với nhau rồi phát sinh tranh chấp nội bộ. Ông chủ ra mặt giải quyết, kết quả trong đám đông kích động phẫn nộ có một Hoa công lỡ tay đánh chết ông chủ. Lần này gây chuyện rồi, anh làm người quản lý Hoa công cũng biết rõ mình khó tránh liên lụy, bèn nhân lúc tối trời đào thoát đến Tứ Thủy (Surabaya thuộc địa phận Indonesia ngày nay).  Anh ở lại nơi này sống mai danh ẩn tích. 

Ban đầu anh cũng đi làm công cho người ta, sau một thời gian lâu, anh gặp mấy người Hoa từ Tuyền Châu, Phúc Kiến đào thoát đến đây, họ mang theo tín ngưỡng vào “Tứ Châu Phật Tổ” và “Nam Tương Quan Âm” của người Mân Nam bản địa đến nơi này (nghe nói cái tên Tứ Thủy của mảnh đất này cũng từ đó mà ra) để bảo vệ người dân nơi này khỏi bị cá sấu cá mập làm hại. 

Bởi vì cuộc sống rất khổ cực, cần có một sức mạnh tinh thần trợ giúp, nên dần dần anh cũng tiếp thu loại tín ngưỡng này. 

Trong quá trình ấy, anh đã hiểu được rằng: Đối với những người tín phụng Thần chân chính, Thần sẽ phù trợ cho họ vào thời khắc gặp nguy nan. Lúc này anh rất thành kính vào tín ngưỡng đối với Thần. 

Năm tháng dần trôi, anh thanh niên cũng dần dần trở thành một người đàn ông xấp xỉ 50 tuổi. Trong những lúc nhàn hạ, hồi tưởng lại những gì đã gặp phải trong hơn nửa cuộc đời, ông cảm thấy Thiên thượng thật là bất công với mình. Vừa lúc nghĩ đến đây, ông chợt có một ý nghĩ: “Liệu mình có khả năng tìm ra được một Pháp tu để cũng có thể tự tại giống như Thần Tiên không nhỉ?”. Sau khi nảy ra suy nghĩ này, ông chợt nhớ đến truyền thuyết Hiên Viên hoàng đế tại núi Hoàng Sơn đã cưỡi rồng bay lên trời; còn rất nhiều câu chuyện tu luyện của các nhân vật trong lịch sử. “Cái khổ hiện tại quả thực là chịu không thấu” ông tự lẩm bẩm một mình. 

Gần hai tháng sau, đúng lúc ông đang ở nhà nghỉ ngơi thì có một người mới quen đến nhờ ông giúp chút việc gấp. Ông cũng không nghĩ ngợi nhiều bèn đi ngay. Hai người đi qua một đoạn đường rất xa mới tới nơi. Thì ra chỗ này đang lúc xây nhà, ông ở lại đó làm năm ngày thì nhà mới xây ổn thỏa. Xây xong rồi, chủ nhà ra cảm tạ ông, lại mời ông cùng ăn cơm. Trên bàn rượu ông uống xong mấy ly rồi, bèn đem hết nỗi khổ trong lòng ra giãi bày, nhất là chuyện bản thân ông đã chịu khổ cực cả hơn nửa đời người mà đến bây giờ vẫn chỉ có một thân một mình, nói đến nỗi xót xa trong lòng, ông cũng không cầm được nước mắt. 

Chủ nhà yên lặng lắng nghe, cuối cùng nói một cách đồng cảm: “Đời người tại thế gian khó tránh gặp phải rất nhiều chuyện không như ý, gian nan khổ cực bây giờ chính là vì để sau này tu phúc đức!”. “Cũng chỉ có thể coi là như vậy, nếu không thì giữa lúc ngập chìm trong thống khổ, kẻ khó sống qua ngày vẫn là bản thân mình” – ông chẳng cam tâm nhưng cũng đành đáp lại.

Trên đường quay về, ông nhặt được một cuốn sách, trong sách viết (đại ý): “Rất nhiều phương pháp tu hành đang có hiện tại cũng chỉ là để trải đường cho Đại Pháp truyền tại nhân gian trong tương lai. Đến khi ấy sẽ có rất nhiều người tới học, hơn nữa lại không cần xuất gia, bất kể giai tầng như thế nào cũng đều có thể học”. Đọc được những nội dung này ông rất vui mừng, nhưng một ý niệm khác cũng theo đó mà khởi lên: “Tới khi ấy, trong tu luyện không phân biệt giai tầng, vậy mình có thể thẳng lưng ưỡn ngực, diễu võ dương oai trước mặt mấy người chủ kia rồi”.

Mặc dù không biết rõ tương lai Đại Pháp sẽ được hồng truyền tại nhân gian vào thời điểm cụ thể nào, nhưng đó vẫn là một sự khích lệ rất lớn đối với bản thân ông khi lâm vào khổ nạn. Từ đó về sau trong khi đi làm thuê cho người ta, cho dù gặp phải chuyện khổ cực thế nào, khó khăn ra sao, ông đều nghĩ: “Mình nhất định phải đợi đến khi Đại Pháp hồng truyền để tu luyện”. Đây là chính niệm chính giác của một sinh mệnh muốn quay trở về. Tuy nhiên trong lời nói của ông còn ẩn chứa một cách nghĩ vì danh vì khẩu khí: “Đến lúc đó ta có thể nở mày nở mặt rồi!”. Có thể đây chính là nguyên nhân khiến cho kiểu người này về sau bị các sinh mệnh bất hảo kia lợi dụng, đến khi Đại Pháp hồng truyền tại nhân gian bèn khởi tác dụng đảo loạn và can nhiễu trong nội bộ. 

Dù sao chăng nữa, sau khi ông có được động lực cho con đường tương lai, những ngày tháng về sau của cuộc đời cũng trôi qua nhẹ nhõm hơn một chút. Năm 65 tuổi, ông vẫn cưới về một người vợ và nhận nuôi hai đứa con, vợ con đối xử với ông rất tốt. 

Trong những năm cuối đời, ông vô cùng nhớ nhà, nhớ cha mẹ và những người đồng hương đã sớm qua đời, nhớ nền văn hóa cổ đại của Trung Quốc, lại càng mong ngóng đến ngày Đại Pháp hồng truyền tại nhân gian, bản thân có thể sống nở mày nở mặt một chút. 

Một ngày nọ, ông một mình ra bờ biển tản bộ dạo chơi, tại đó ông gặp được một cậu thanh niên trẻ, cậu thanh niên kia nhìn thấy ông liền nói một cách ân cần: “Có phải bác rất muốn quay về quê nhà Trung Hoa không?”. Ông thong thả trả lời: “Quê nhà bị dị tộc (dân tộc Mãn) chiếm rồi, cha mẹ ta cũng đã sớm qua đời, ta lưu lạc tại Nam Dương đã mấy mươi năm, làm ra vô số tội lỗi, giờ đây đã đi đến cuối cuộc đời, tất cả những gì có thể làm được chỉ là ngồi ngắm bình minh và hoàng hôn trên biển mà thôi”, nói đoạn ông chợt khóc nấc lên.

“Xem ra bác đã nếm trải rất nhiều khổ cực, cháu biết rằng thật ra con người vốn có thể sống tự tại hơn một chút, nhưng vì người ta đã làm ra quá nhiều chuyện bất hảo nên mới bị phạt đến nhân gian chịu tội. Nếu như trong quá trình chịu tội ở nhân gian, một người có thể bảo trì được tâm thiện lương và tinh thần lạc quan, vậy có thể tương lai người ấy sẽ gặp được phương pháp tu hành có thể hồi thiên” – cậu thanh niên đáp lại.

“Ta phải tìm được một loại phương pháp tu luyện có thể giải thoát khổ nạn và khiến sinh mệnh chân chính quay trở về. Đợi đến lúc đó, ta sẽ hoàn trả nguyên dạng tất cả những khổ nạn và khuất nhục mà ta đã phải chịu đựng cho những người đã đối xử không tốt với ta” – ông nói.

“Bất kể loại phương pháp tu hành nào cũng sẽ có yêu cầu nhất định đối với người tham gia, sẽ không thể theo cách nghĩ của con người muốn như thế nào thì thành ra như thế” – cậu thanh niên nghiêm túc nói. 

“Tới lúc đó ta sẽ cho những người từng đối xử không tốt với ta biết tay” – ông nhấn mạnh một câu.

Người thanh niên nghe những lời này cũng không nói thêm nhiều nữa, lẳng lặng rời đi.

Những ngày tháng sau đó, một mặt ông mong muốn sớm ngày đắc được Đại Pháp, mặt khác vẫn luôn ôm giữ cách nghĩ không đúng đắn kia. Liên tục mấy lần chuyển sinh liên tiếp đều ôm giữ quan niệm này không buông. Cuối cùng vào thời điểm hiện tại khi Đại Pháp hồng truyền, ông cũng tu luyện trong Đại Pháp, nhưng vì mục đích căn bản của tu luyện đã bao gồm cả nhân tâm muốn cao hơn người khác một cái đầu, vậy nên trong quá trình tu luyện ông đã khởi tác dụng can nhiễu phá hoại đối với quần thể tu luyện. 

Dù sao đi nữa, tu luyện vẫn chưa kết thúc, cũng hy vọng những người này có trách nhiệm với bản thân, nếu không kết cục cuối cùng sẽ rất thảm thương. Đã có quá nhiều giáo huấn trong lịch sử rồi, phản đồ Judas của Jesus chính là một ví dụ trong số đó. 

Đây chính là:

Luân lạc nam dương lịch gian tân    

Ki thập quang âm khổ truy tầm  

Tu hành sam tạp bất chánh niệm    

Khuyến quân tỉnh ngộ tích đương kim! 

 

Dịch nghĩa: 

Lưu lạc Nam Dương trải qua gian khổ cay đắng

Thời gian mấy mươi năm gian khổ truy tìm

Tu hành trộn lẫn tâm bất chính

Khuyên người tỉnh ngộ trân quý những ngày tháng này

 

Xem tiếp phần 10

Dich từ: http://big5.zhengjian.org/node/239189

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 9) – Lữ khách Nam Dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 8) – Vầng trăng tròn trên đảo Lưu Cầuhttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-8-vang-trang-tron-tren-dao-luu-cau.htmlWed, 15 Apr 2020 13:26:54 +0000https://chanhkien.org/?p=26181Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 7 Bài viết này kể lại câu chuyện tìm Pháp trong tiền kiếp của một vị đồng tu người Đài Loan. Thời kỳ triều Minh, cô chuyển sinh tại quần đảo Lưu Cầu (Ryukyu), giống như những người bản […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 8) – Vầng trăng tròn trên đảo Lưu Cầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 7

Bài viết này kể lại câu chuyện tìm Pháp trong tiền kiếp của một vị đồng tu người Đài Loan.

Thời kỳ triều Minh, cô chuyển sinh tại quần đảo Lưu Cầu (Ryukyu), giống như những người bản xứ nơi này, cô cũng ngày ngày lặng lẽ làm công việc của mình.

Sau đó cô trưởng thành, lập gia đình, sinh con, cuộc sống trôi qua rất êm đềm.

Bởi vì đảo Lưu Cầu có vị trí địa lý rất đẹp nên thời điểm ấy buôn bán mậu dịch nơi này vô cùng nhộn nhịp, người ta cũng thường hay qua lại giữa triều Minh và Nhật Bản.

Con trai cô lớn lên cũng đi đến triều Minh học tập, thời gian này cô đổ bệnh do trường kỳ làm việc vất vả. Ốm một trận kéo dài ba năm, chồng cô mời rất nhiều thầy thuốc đến khám cũng không khỏi.

Sau đó, nghe nói trong số những người đến đây từ triều Minh có một vị mang theo bên thân một tuyệt kỹ gia truyền, chồng cô bèn mời người này đến, người ấy khám một hồi lâu mới nói: “Gia truyền nhà tôi có một phương thuốc dân gian, uống vào ắt có thể khỏi”. Cô liền uống hết thang thuốc ấy, qua bảy ngày, quả nhiên bệnh của cô đã khỏi hoàn toàn.

Việc lần này khiến cô giật mình không ít.

Vài ngày sau, con trai cô trở về nhà, đem những chuyện mắt thấy tai nghe ở triều Minh kể lại cho cô.

Đặc biệt là cậu đã hiểu được rất nhiều điều về phương diện y thuật Trung Hoa, trong quá trình mấy nghìn năm truyền thừa y thuật, có không ít câu chuyện thần kỳ, cũng đã xuất hiện các đại y học gia như Biển Thước, Hoa Đà, Trương Trung Cảnh,…

Khi cô nghe được những chuyện này, lại kết hợp với trải nghiệm tự thân của mình, liền nhớ đến nền văn hóa Trung Hoa ngập tràn những điều thần bí và lịch sử uyên nguyên. Nếu bản thân mình có thể được trải nghiệm những điều ấy nhiều hơn một chút thì tốt biết bao!

Sau này con trai cô cưới về một nàng dâu đến từ thành phố Tuyền Châu của Đại Minh, nàng dâu này đặc biệt thích đọc sách, khi còn ở nhà mẹ đẻ đã thuộc lòng thơ của những nhà thơ như Khuất Nguyên, Lý Bạch, Tô Đông Pha v.v., sau thời gian lâu cô cũng nảy sinh hứng thú, càng cảm thấy văn hóa Trung Quốc thật là bác đại tinh thâm.

Một lần nọ, con trai cô muốn đưa con dâu về Tuyền Châu, lúc này lại vừa đúng đêm trăng rằm, cô buột miệng ngâm lên mấy câu thơ của Tô Đông Pha: “Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên” (Ước nguyện cho người sống trường cửu, ngàn dặm cùng người ngắm trăng). Con dâu cô cười, nói: “Con không ngờ là mẹ thích thơ của Tô Đông Pha đến thế!”. Con trai cô nói thêm vào: “Mẹ không chỉ thích thơ, mà còn thích văn hóa Trung Quốc cổ đại hơn”.

Câu nói này đã chạm vào mối thương cảm trong tâm cô, ngắm nhìn hình bóng con trai, con dâu dần khuất xa cùng vầng trăng tròn sáng vằng vặc, cô cảm thấy người “ly gia” (rời xa nhà) không chỉ là con trai và con câu cô, mà đúng hơn chính là bản thân cô, phần văn hóa thần bí kia của Trung Quốc dường như chính là chốn quay về mà cô vẫn hằng tìm kiếm trong tâm. Còn bản thân giờ đây giống như một đứa trẻ lưu lạc, khao khát biết bao được về lại trong bầu không khí chứa đựng văn hóa thần bí và lịch sử truyền thừa lâu đời ấy.

Ánh trăng thời điểm này chiếu rọi lên mặt biển, hắt lên ánh vàng kim trong vắt, cô lại nhớ đến một câu thơ: “Nơi xa xăm cùng chung một thời khắc này”. Cảm thấy bản thân và văn hóa Trung Quốc hợp ý như thế, vậy thì Thiên thượng nhất định sẽ thấy được, cũng nhất định sẽ cho cô được mãn nguyện.

Sau đó cô đến một vùng có đông người dân và thương nhân qua lại từ triều Minh, tìm một căn phòng, mở một quán ăn nhỏ. Tại đây cô dùng tài nghệ nấu ăn mà cô thành thạo nhất để nghênh đãi người dân triều Minh vãng lai.

Quán ăn cô mở có một đặc điểm, nếu như người đến từ triều Minh có thể nói cho cô nghe đôi điều về văn hóa truyền thống Trung Quốc hoặc mang đến tranh thêu thư pháp có liên quan đến truyền thống, thì cô có thể miễn phí tiền rượu. Cô muốn dùng cách này để tiếp xúc nhiều hơn với văn hóa truyền thống Trung Quốc.

Thời ấy, các hoạt động giao lưu giữa triều Minh và Lưu Cầu diễn ra rất thường xuyên, trong những người khách vãng lai đến đây từ triều Minh, không ít người có rất nhiều kiến thức về văn hóa truyền thống Trung Hoa, thậm chí có lĩnh ngộ rất sâu sắc về văn hóa. Cũng không ít người bản thân thuộc về giới tu hành.

Một ngày nọ, có một người tu Đạo khoác bảo kiếm đến đây ăn uống, không lâu sau lại có một tiểu cô nương xinh đẹp đến ngồi bên cạnh, họ gọi hai đĩa rau rồi lặng lẽ ngồi ăn.

Người tu Đạo vừa nhìn thấy tiểu cô nương liền tiến đến, hạ giọng nói, cô đi cùng ta một chút. Đương nhiên là tiểu cô nương không đồng ý, Đạo nhân bèn rút kiếm đâm thẳng vào ngực cô gái, những người bên cạnh còn chưa kịp phản ứng xem là chuyện gì. Chỉ nhìn thấy tiểu cô nương kia lập tức biến thành một làn khói đen bay đi mất, người tu Đạo mang kiếm vừa đuổi theo vừa hét to: “Yêu nghiệt, bần đạo không tiêu diệt ngươi thì không được, tuyệt đối không cho phép ngươi tiếp tục hại người!”. Sau đó mấy ngày, người tu Đạo lại đến ăn cơm, cô bèn hỏi thăm sự tình mấy ngày trước, Đạo nhân nói: “Tiểu nữ xinh đẹp đó là một con yêu quái biển hóa thành hình người, khi có thanh niên trẻ động tâm với nó, nó sẽ tìm cơ hội ăn thịt đối phương. Nó đã làm việc xấu ở rất nhiều nơi, ta đuổi theo nó suốt dọc đường, cuối cùng gặp được nó ở đây, cũng triệt để trừ sạch nó rồi”.

Cô vừa nghe đã cảm thấy hứng thú: “Thỉnh Đạo nhân dạy cho tôi một chút công phu thần kỳ, cũng là mãn nguyện giấc mộng muốn được thể nghiệm văn hóa Trung Hoa thần bí của tôi”.

Đạo nhân nói: “Dạy cho cô một chút cũng không phải là không được, nhưng sứ mệnh của cô không phải là trảm yêu trừ ma, cô có trách nhiệm và cơ duyên lớn hơn!”

Cô tiếp tục nói: “Trách nhiệm và cơ duyên lớn hơn ư? Xin ngài hãy nói cụ thể một chút”.

Đạo nhân nhấp một ngụm rượu, dường như đã ngà ngà say, vừa vươn vai vừa nói: “Cô ở tại đây và đợi…” nói xong liêu xiêu đi mất.

Khi cô tiễn Đạo nhân ra cửa, lại nhìn thấy vầng trăng tròn kia nhô lên từ mặt biển, tâm cô chợt thấy dễ chịu, cảm thấy vẫn còn hy vọng thực sự đắc được phương pháp tu hành thần kỳ được thiết lập trong lịch sử lâu dài kia.

Vật đổi sao dời, thu qua đông tới, chớp mắt đã 12 năm trôi qua, trong khoảng thời gian này, có một số người thần bí đến đây dùng cơm, cô cũng không ngừng hỏi thăm, nhưng họ đều chẳng biết gì.

Một ngày nọ, trời đổ mưa bão rất lớn, có một người quần áo rách rưới bước vào quán, vừa vào tới cửa liền nói: “Tôi không một xu dính túi, đã ba ngày chưa ăn gì rồi, xin cô cho tôi chút gì đó để ăn”. Cô không chút keo kiệt liền lấy mấy món rau cùng một bình rượu bày ra trước mặt ông. Trước tiên ông ăn hết chỗ rau, sau đó liếc nhìn bình rượu cười, nói: “Rượu trong chiếc bình này là của người tu Đạo tên gì vậy?”

Cô nghe xong khẽ động tâm: “Không lẽ nào…” cô nhất thời không dám khẳng định, làm ra vẻ điềm tĩnh nói: “Ở đây không có người tu Đạo nào cả, trong chiếc bình này là rượu của tôi mời ngài”.

“Không đúng, sao ta lại nhìn thấy trong chiếc bình này là chỗ rượu mà 12 năm trước người tu Đạo ấy đã để lại trước khi rời đi? Lúc đó cô muốn ông ta dạy cô công phu, ông ta không dạy, còn để lại mấy lời…”

Cô rất xúc động nói: “Là ngài tới nói cho tôi biết ý nghĩa liên quan đến mấy lời mà người tu Đạo ấy đã để lại phải không ạ?”

Ông không trả lời trực tiếp câu hỏi của cô, chỉ nói: “Trong bão tố cuồng phong, rất nhiều người sẽ mê mất phương hướng, cũng sẽ có rất nhiều người chôn thân nơi đáy biển, Thiên thượng thương xót thế nhân, vậy nên sẽ an bài cho Giác giả hạ thế, vì con người mà chỉ rõ ra con đường viễn hành, rất nhiều người nguyện ý đi theo Giác giả sẽ được phó thác sứ mệnh cảnh báo khuyên răn thế nhân. Giữa phong ba bão táp chốn hồng trần, nếu một người không nghe lời khuyên nhủ, vậy người ấy sẽ bị nhấn chìm bởi các loại dục vọng cuồn cuộn như đại dương, nếu như vẫn còn thiện niệm và lương tri thì sẽ đợi được đến ngày trời trong nắng ấm, họ sẽ có phúc phận rất lớn đang chờ phía trước”.

Cô đứng bên cạnh vừa nghe vừa nghĩ: “Đây thực sự là ‘kỳ duyên’ mà người tu Đạo nói ư? Sao mà chẳng có lấy một điểm ‘kỳ lạ’ nào!”

Lúc này mưa bão bên ngoài cũng đã tạnh, ông không đợi cô trả lời, đã đứng dậy rời đi. Cô đến cửa từ biệt ông lão, thời khắc này vầng trăng tròn lại xuất hiện trên mặt biển.

Lúc chia tay ông lão nói: “Nơi xa xăm cùng chung một thời khắc này”.

Cô nén nước mắt lặp lại: “Nơi xa xăm cùng chung một thời khắc này…”

Đây chính là:

Lưu Cầu vọng nguyệt vi tầm Pháp

Tâm hướng Trung Thổ chư thần thoại[1]

Thân xử tiểu điếm ngộ điểm ngộ

Tâm kết thích nhiên nguyệt canh hoa[2]

 

Dịch nghĩa:

Trăng tròn trên đảo Lưu Cầu vì tìm Pháp

Tâm hướng đến những thần thoại nơi Trung Thổ

Tự mình trong quán nhỏ gặp được điểm ngộ

Giải được nút thắt trong tâm nhẹ nhõm, ánh trăng càng rực rỡ hơn

 

Chú giải:

[1] Ý nghĩa của câu này là: Trong tâm hướng về văn hóa, cũng như những ví dụ thực tế và chuyện kể về Thần linh và Thần tích.

[2] Ý nghĩa của câu này là: Giải quyết được những sự việc mà trước nay không minh bạch trong tâm, thấy được ánh trăng bên ngoài muôn phần rực rỡ hơn. Nghĩa rộng chính là: Tương lai khi đắc được Pháp tu hành ấy, sinh mệnh cùng thiên địa nhật nguyệt sẽ đắc được tương lai mỹ hảo và quang minh hơn.

 

Xem tiếp phần 9
Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239188

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 8) – Vầng trăng tròn trên đảo Lưu Cầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 7) – Ngao du Ngũ nhạchttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-7-ngao-du-ngu-nhac.htmlFri, 10 Apr 2020 08:42:35 +0000https://chanhkien.org/?p=26174Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại Lục [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 6 Trong quảng đại quần thể những người tu luyện Đại Pháp, có rất nhiều người vô cùng tài năng, trên con đường tu hành, họ dùng tài năng của bản thân nỗ lực làm những việc mà bản thân […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 7) – Ngao du Ngũ nhạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại Lục

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 6

Trong quảng đại quần thể những người tu luyện Đại Pháp, có rất nhiều người vô cùng tài năng, trên con đường tu hành, họ dùng tài năng của bản thân nỗ lực làm những việc mà bản thân nên làm, quả thực là hiếm có.

Tôi đã từng gián tiếp giao lưu với một vị tài nữ, cũng có một năm nọ, chúng tôi liên hệ thông qua một người chị, muốn cùng đi thăm núi Thái Sơn (ai xuất phát từ nhà người nấy), kết quả cuối cùng chuyến đi không thành. Sau đó cũng không liên lạc gì nữa (trước đó vốn cũng không có liên lạc trực tiếp).

Hôm nay tôi nhân cơ hội này thông qua việc kể lại câu chuyện tìm Pháp tại tiền kiếp của cô ấy, hy vọng tất cả những người tu luyện có tài năng, năng lực tại các phương diện khác nhau có thể nỗ lực làm tốt hơn nữa những việc bản thân nên làm.

Tại đây chỉ viết ra câu chuyện tìm Pháp trong hai đời của cô ấy.

Con đường tìm Pháp của võ tướng

Vào triều Nguyên, cô chuyển sinh thành một cô gái người Mông Cổ trong gia đình của một vị võ tướng. Khi trưởng thành, võ công của cô rất lợi hại, rất thích cải trang thành nam giới tung hoành nơi sa trường.

Tại vùng Trung Á, cô gặp được một thương nhân hay qua lại giữa khu vực Âu – Á, trong lúc chuyện trò cô nghe nói rằng ở nhóm núi Ngũ nhạc[1] của Trung Thổ có rất nhiều chuyện thần kỳ. Cô sinh tâm hiếu kỳ, bèn đi theo thương nhân đến Trung Thổ, trong lúc hai người nói chuyện trên đường đi, cô được biết: Tương truyền Ngũ nhạc chính là đầu và tứ chi của ông Bàn Cổ hóa thành sau khi khai thiên địa. Người ta kể lại rằng vua Thuấn cũng từng tới Hành Sơn tế tự. Sau đó đến triều Hán dần dần hình thành chế độ tế tự của quốc gia ở Ngũ nhạc. (“Bắc Nhạc Hoằng Sơn” trong Ngũ nhạc ở thời kỳ Nguyên triều không phải là nói đến ngọn núi ở địa phận Sơn Tây, mà là nói đến núi Đại Mậu Sơn ở Hà Bắc, những ngọn núi còn lại thuộc Ngũ nhạc đều giống với nhận thức hiện nay. Thời kỳ vua Thuận Trị nhà Thanh đã có thay đổi, việc tế tự Ngũ nhạc dời đến Sơn Tây).

Cô từng rong ruổi mấy năm ngoài chiến trường nên cũng có một chút nghiên cứu về địa lý phương hướng của quốc gia, lần này đến Trung Thổ, cô cảm thấy có hứng thú rất lớn đối với nền văn hóa Trung Nguyên thần bí ấy. Đặc biệt lại nghe nói Ngũ nhạc có quan hệ tới Ngũ hành.

“Ngũ hành” là điển hình của văn hóa Đạo gia. Năm loại nhân tố (cũng gọi là lực lượng) tương sinh tương khắc tạo nên vạn sự vạn vật. Nhận thức về phương hướng của người thời ấy cũng là năm phương vị Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, hơn nữa con người rất sùng bái Thần Tiên, vậy nên cũng tự nhiên sinh ra khái niệm Ngũ nhạc.

Con người có ngũ quan, ngọc có ngũ đức, màu sắc có ngũ sắc, v.v. Rất nhiều sự vật đều do năm loại nhân tố cơ bản tổ hợp thành. Lúc này cô có một suy nghĩ: “Tại sao Ngũ hành có thể cấu thành nên vạn vật? Tại sao khuôn mặt con người có ngũ quan mà không phải là tứ quan?”

Cô đã hỏi rất nhiều người, bao gồm cả vị thương nhân, nhưng không ai có thể trả lời được.

Cô cũng đem theo những vấn đề này lên Ngũ nhạc. Cô leo lên ngọn núi Tây nhạc Hoa Sơn cheo leo hiểm trở và được nghe điển cố Trầm Hương cứu mẹ. Cô hiểu ra rằng trong thế giới Thần Tiên còn có tồn tại vị Thần với năng lực cao hơn. Tại Nam nhạc Hành Sơn, cô nghe chuyện Thần Nông vì bách tính mà nếm qua trăm loại thảo mộc khắp nơi, sau đó vì trúng độc mà quy tiên, câu chuyện khiến cô hiểu rằng Thần Tiên có thể phó xuất toàn bộ từ bi vì con người. Ở ngọn núi Trung nhạc Tung Sơn, cô lý giải được nơi đây chính là mảnh đất phước lành mà Thần Tiên gặp mặt nói chuyện. Ở núi Đông nhạc Thái Sơn, từ Hồng Môn cuối cùng đi đến Thiên Nhai khiến cô muôn phần cảm khái. Sau đó cô đi đến đường Bồng Lai, lại có được nhận thức mới về chốn “tiên cảnh”. Tại Bắc nhạc Hoằng Sơn, cô biết được vua Thuấn đã từng đến nơi đây phong thiền tế tự, đến cả bậc quân vương cũng phải lễ bái tự nhiên mới có thể quốc thái dân an, mùa màng bội thu.

Trên đường về, cô suy ngẫm lại câu hỏi mang theo khi đến đây. Qua một chuyến rong ruổi tham quan, cô đã minh bạch rằng: Thiên địa vạn vật, bao gồm cả Ngũ hành, đều là do Tạo Vật Chủ (Sáng Thế Chủ) từ bi với con người mà tạo nên. Chỉ khi con người tìm được phương pháp tu hành tốt mới có thể quay về Thiên đình.

Khi đi đến hồ Hành Thủy nhìn thấy cảnh trăm hoa đua nở tại nơi này, cô chấn động trong tâm, cảm thấy nếu như tương lai có thể thực sự tìm được pháp môn tu hành phù hợp với bản thân ở Trung Nguyên thì chẳng phải quá tốt hay sao?!

Hai ngày sau, đúng lúc cô đang đi trên đại lộ thì bỗng nhiên có mấy người đi đến, thấy cô đi một thân một mình bèn hò hét ầm ĩ đòi bắt cô về.

Cô cũng đã lâu chưa có dịp thể hiện bản sự, lần này cơ hội đến, cô muốn tận dụng tốt một chút. Thế nhưng trong quá trình độ võ nghệ với mấy người này, cô phát hiện rằng dường như bọn họ không phải muốn bắt cô đi hay gì đó mà chỉ muốn mài giũa võ nghệ thôi. Có lúc họ còn nhường cô một chút, nhưng nhất định không cho cô cơ hội đào thoát.

Cô cảm thấy rất kỳ quặc bèn thu binh khí, đứng yên một chỗ nói với họ: “Các người tìm ta rốt cuộc để làm gì? Xin hãy nói thẳng ra”. Mấy người bọn họ nhìn cô một chút rồi cười phá lên: “Ban nãy chúng tôi nói bắt cô đi là để thử dũng khí của cô thôi, thực ra chúng tôi là đến tìm cô”.

“Tìm tôi có việc gì? Tôi không quen các anh” – Cô không hiểu bèn hỏi lại.

“Cô đến Trung Thổ Ngũ nhạc rong ruổi khắp nơi rốt cuộc là vì sao?”

Câu hỏi này càng làm cô cảm thấy không hiểu đầu đuôi ra sao. Cô bất giác hỏi: “Làm sao các anh biết được tôi đến Trung Thổ tham quan Ngũ nhạc?”

Nói đến đây thì có một người cười ha hả bước lên phía trước, mấy người còn lại mau chóng dẹp sang một bên. Người ấy nói: “Cô gái Mông Cổ, Thiên thượng sớm đã nhìn thấy tâm muốn tu hành quay trở về của cô rồi. Lần này cô đến tìm kiếm tham quan Ngũ nhạc cũng là thiết lập cơ sở để vào một đời nào đó sau này cô sẽ đắc được Đại Pháp tu hành vô cùng khó gặp. Đời này cô lấy “võ” làm đạo (dùng phương thức võ thuật để hoàn thành trách nhiệm của bản thân), tương lai sẽ là “văn dĩ tải đạo”. Tới khi ấy hãy cố gắng thật nhiều là được”.

“Vậy các vị rốt cuộc là ai?” – cô tiếp tục truy hỏi.

Sau đó vị ấy dẫn nhóm người một mạch đi mất không quay đầu lại, đợi đi xa rồi, cô mới nghe vị ấy nói vọng lại bằng một giọng nói rất vang dội: “Ta chính là người tương lai cần truyền Pháp tại nhân gian, con và ta có duyên trên Thiên thượng, đời này ta dùng hình thức này kết duyên với con, đến khi ấy con nhất định phải làm tốt những việc con nên làm!”

Cô nghe xong những lời này thì đứng ngẩn tại đó mất cả nửa ngày không thốt nên lời, cảm thấy không ngờ bản thân lại có được kỳ duyên này, quả thật là quá may mắn,…

Thư sinh Giang Nam tìm Pháp ở Đông Bắc

Vào triều nhà Thanh, cô chuyển sinh đến gần khu vực Hàng Châu, Chiết Giang, đời này cô là thân nam. Tại đây cậu được giáo dục rất tốt, đến khi trưởng thành, vì muốn cậu được mở mang kiến thức, cha mẹ đã cho cậu rất nhiều lộ phí để đi Ngũ nhạc ngao du, thuận tiện đến kinh đô ứng thí.

Trong khi rong ruổi ở Ngũ nhạc, cậu đã được cảm hóa bởi các câu chuyện về những người tu hành xưa kia cũng như tinh thần nhân văn được thể hiện qua đó, hơn nữa khi nhìn thấy rất nhiều lữ khách thành kính bái sơn, bái chùa, tâm cậu cũng cảm động một cách rất sâu sắc.

Thời điểm lên kinh thành ứng thí, cậu không may vướng vào một vụ án ở trường thi và bị liên lụy, còn chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao đã bị lưu đày đến Đông Bắc.

Khi ấy, có rất nhiều vùng ở Đông Bắc đúng là ngoài rừng rậm ra thì chỉ còn lại đồng cỏ hoang, trình độ văn minh rất thấp, đặc biệt là vùng gần biên giới phía Bắc.

Văn nhân Giang Nam lưu đày đến Đông Bắc, vào những ngày mùa đông giá rét, loại thống khổ ấy quả thực là không cần nói cũng hiểu. Chẳng những cậu phải chịu đựng giá rét, mà còn phải giúp người địa phương làm các loại công việc lao động chân tay, chỉ cần làm chậm một chút sẽ bị quản công cho một trận roi da và chửi rủa, bị đối xử quả thật không khác gì nô lệ.

Nhiều năm sau, cậu gặp được một người chủ tương đối tốt, người này thấy cậu rất tài hoa nên dần dần để cậu dạy học cho trẻ con trong nhà và giúp người lớn đọc sách, học chữ, hoàn cảnh của cậu cũng dần dần có chút khấm khá lên.

Trước kia, vì bị đặt vào tình huống vật lộn với sinh tử tồn vong, cậu không có thời gian nghĩ đến những vấn đề như sinh mệnh đến như thế nào, linh hồn sẽ đi về nơi đâu, hiện tại đã được làm công việc về phương diện giáo dục, cậu suy nghĩ rất nhiều khi nhìn thấy những người lớn, những đứa trẻ ít học kia, cảm thấy tuy rằng bản thân đã đọc rất nhiều sách, nhưng về nhận thức và nắm bắt nhân sinh thì cũng giống như những đứa trẻ học trò kia thôi. Nghĩ lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe trong lần đi ngao du Ngũ nhạc, từ trong tâm cậu dấy lên một suy nghĩ về vấn đề kết cục của nhân sinh: Bản ngã chân chính là từ đâu đến, phải đi về đâu? Tất cả những chuyện mà bản thân gặp phải hiện nay là nhân quả báo ứng hay là ma nạn do trời giáng xuống trước khi gánh vác một trách nhiệm lớn?

Một lần nọ trong đêm trăng tròn, cậu đang suy tư về những vấn đề này thì không biết từ đâu xuất hiện một cô gái, cô nói: “Làm người cần tận hưởng lạc thú trước mắt, vì sao anh phải nghĩ nhiều như vậy?”

Cậu mỉm cười: “Tận hưởng xong lạc thú trước mắt thì sau đó lại càng trở nên trống rỗng, chi bằng nghĩ nhiều một chút về chuyện đến và đi của đời người chẳng tốt hơn sao?”

Cô gái khẽ cười: “Xem ra ngộ tính của anh vẫn còn tốt, tương lai tại Trung Thổ sẽ truyền xuất ra một phương thức tu hành có thể không cần xuất gia mà vẫn có thể đả khai những nút thắt trong tâm anh, đến khi ấy, học vấn của anh không những cần thiết mà còn có chỗ trọng dụng!”

Cậu trầm ngâm suy nghĩ rồi nói: “Ta thấy tới lúc đó hay là chuyển sinh thành nữ đi, tránh phải bị lưu đày như kiếp này, làm lỡ dở rất nhiều chuyện”.

Cô gái tủm tỉm cười, nói: “Vậy để xem cơ duyên…”

Đây chính là:

Cân quắc sa trường hào tình trượng

Tung hoành Ngũ nhạc tế tư lượng

Giang nam tài tử lạc bắc cương

Nguyệt hạ kì duyên giải mê dạng

 

Dịch nghĩa:

Nữ giới mà tung hoành sa trường, mang đầy chí khí

Ngao du Ngũ nhạc tường tận suy ngẫm

Tài tử Giang Nam lưu lạc biên cương phía Bắc

Duyên phận kỳ lạ dưới ánh trăng phá giải khúc mắc trong mê

Chú giải: Ý nghĩa của câu này là: Tất cả những duyên phận gặp được dưới ánh trăng (trong tương lai nếu như thực sự có thể tu trong phương pháp tu hành ấy), thì rất nhiều những nghi hoặc trong tâm cậu sẽ tiêu tan.

 

Chú thích của người dịch:

[1] Ngũ nhạc: Năm ngọn núi lớn tiêu biểu ở bốn phương và vùng giữa Trung Quốc: Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc Hoa Sơn, Nam nhạc Hành Sơn, Bắc nhạc Hoằng Sơn và Trung nhạc Tung Sơn.

 

Xem tiếp phần 8

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239187

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 7) – Ngao du Ngũ nhạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 6) – Ngắm cảnh nước Thụchttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-6-ngam-canh-nuoc-thuc.htmlSun, 05 Apr 2020 10:14:01 +0000https://chanhkien.org/?p=26141Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 5. Có một người tu luyện giữ vị trí cao trong một công ty lớn, những lúc phải đối mặt với đủ các loại dụ hoặc và cạm bẫy trong quá trình làm việc, cô đều có thể xử lý […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 6) – Ngắm cảnh nước Thục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục


[ChanhKien.org]
Tiếp theo phần 5.

Có một người tu luyện giữ vị trí cao trong một công ty lớn, những lúc phải đối mặt với đủ các loại dụ hoặc và cạm bẫy trong quá trình làm việc, cô đều có thể xử lý một cách thỏa đáng. Tuy vậy cũng có khi không được như ý: Một lần cô dùng cơm cùng khách hàng, bởi vì cô từ chối uống rượu nên làm cho khách hàng phật ý, cấp trên của cô cũng không vui, xong việc còn nói cô mấy câu, lúc ấy cô cũng chảy nước mắt. Nhưng rốt cuộc làm một người tu luyện, gặp phải sự tình gì cũng có thể nghĩ thông, có thể buông xuống, qua một chốc lại cảm thấy nhẹ nhõm.

Trong số rất nhiều người tu luyện, những nhân sĩ thuộc giai tầng xã hội khá cao cũng chiếm một tỷ lệ nhất định, đối diện với dụ hoặc và can nhiễu từ các loại nhân tố bất chính trong công việc và cuộc sống thường nhật ở xã hội này, họ đều giống như hoa sen vươn lên từ bùn lầy mà không bị vấy bẩn, khiến những người không tu luyện trên thế gian thấy được sự mỹ hảo của Đại Pháp và sự thuần tịnh của người tu luyện.

Bài viết này nhân cơ hội lấy cô làm ví dụ để viết về quá trình kiếm tìm Pháp của sinh mệnh.

Trong luân hồi nhân thế, cô đã trải qua rất nhiều lần kiếm tìm Pháp, trong đó có hai lần chuyển sinh thành thân nam đi tìm Pháp, những gì đã trải qua rất có ý nghĩa.

Trải nghiệm tìm Pháp của thư sinh thời Bắc Tống

Bắc Tống có thể được xem như một thời đại coi trọng văn tài, có rất nhiều thống lĩnh trong quân đội đều là quan văn. Đây cũng là chính sách trị quốc được Thái Tổ Triệu Khuông Dận chọn dùng vì sợ tái diễn màn kịch “phiên trấn cát cứ”[1] của triều Đường, “thân khoác hoàng bào”[2] của thời kỳ Hậu Chu (Triệu Khuông Dận vì vậy mà được lên làm Hoàng Đế).

Tại đời ấy cậu sinh ra ở nước Thục (thành phố Tứ Xuyên) trong một gia đình trí thức nhiều đời, phụ thân là quan lớn bị triều đình bãi chức.

Từ nhỏ cậu đã đam mê đọc sách, hơn nữa lại có bản sự “đọc nhanh như gió” và “xem một lượt là nhớ”, những cuốn sách cậu đã xem qua vài lượt về cơ bản đều có thể thuộc nằm lòng. Đồng thời cậu cũng kết giao với rất nhiều bằng hữu văn chương. Mấy người họ cả ngày ở cùng nhau làm thơ đối đáp rất sôi nổi, cũng rất phong phú.

Một ngày nọ, có người bạn dẫn một cô gái xấu xí đến chỗ cậu, cô gái này cũng khoảng chừng 20 tuổi, dáng người thấp bé, tóc thưa, khuôn mặt lại rất dài, mắt giống như chiếc chuông nhỏ, chóp mũi hình củ tỏi, nói quá lên một chút thì có thể xem là tập hợp mọi đặc điểm của những cô gái xấu xí.

Cô gái xấu xí này đến đó cũng không hề mất bình tĩnh, nói một cách thẳng thắn dứt khoát: “Nghe nói ở đây trong số các anh, có người có thể đọc sách “nhanh như gió” và “xem một lượt là nhớ”. Nói xong cô rút từ trong ngực ra tấm khăn lụa chừng một thước vuông có viết chữ bên trong đặt lên bàn.

Cô cười nói: “Trong các anh, ai có bản sự hãy đọc chữ trên khăn lụa cho mọi người nghe thử đi”.

Cậu xem qua thấy chữ trên chiếc khăn lụa cũng vừa phải, số lượng chữ cũng không quá nhiều, cảm thấy khá dễ dàng đọc hết, vậy nên cậu bèn bắt đầu đọc.

Trong quá trình đọc, cậu phát hiện không hiểu sao những chữ này càng đọc càng nhiều? Đã mấy canh giờ rồi mà vẫn chưa đọc hết tấm khăn. Người xung quanh đều kinh ngạc không ít.

Cô gái xấu xí thấy cậu đọc mệt rồi, liền nói: “Đọc đến đây là được rồi, cho phép tôi xem chữ trên tấm khăn một lát, sau đó sẽ đọc thuộc cho mọi người”.

Cậu nghe xong cảm thấy như cô gái xấu xí đang giúp mình giải vây, bèn tranh thủ cơ hội đồng ý ngay. Sau đó cậu phát hiện mình đã rơi vào một “cái bẫy” khác. Thực ra chữ trên tấm khăn này mỗi lần đọc lại từ đầu thì nội dung và hàm nghĩa của chữ đều sẽ khác đi. Khi phát hiện ra vấn đề, cậu định dùng chút mưu mẹo, bèn nói với cô gái xấu xí: “Tấm khăn này mỗi lần đọc lại từ đầu thì chữ đều khác đi, nếu tôi có đọc thuộc thì nội dung đọc ra cũng sẽ không giống trong tấm khăn bây giờ nữa, vì chữ trên chiếc khăn đã biến đổi đi so với nguyên bản rồi, cô sẽ nói tôi đọc không đúng. Vậy nên cũng không đọc thuộc. Tôi đã lĩnh giáo được đạo lý “Thiên ngoại hữu thiên” (Bên ngoài trời còn có trời) rồi.”

Lúc này cha cậu xuất hiện, sau khi hiểu đầu đuôi sự tình, bèn mời cô gái xấu xí cùng người bạn của cậu vào phòng ngồi, sau đó cẩn thận hỏi bạn cậu: “Chẳng hay vị cô nương này từ đâu tới? Hạ cố đến tệ xá phải chăng có việc gì?”. Cô gái xấu xí không đợi bạn cậu trả lời đã thẳng thắn đáp: “Tôi là người nước Thục, nhưng tu đạo trên núi Nga Mi, sư phụ chúng tôi phái tôi mang tấm khăn này xuống núi, chính là muốn tìm được một người có duyên phận, có thể truyền thừa phương pháp tu hành trong môn này của chúng tôi. (cô chỉ tay về phía người bạn của cậu nói tiếp) Anh ấy vốn là hàng xóm của tôi, sau khi xuống núi tôi có nhờ anh ấy giúp đỡ, kết quả là anh ấy dẫn tôi đến phủ của ngài”.

“Vậy con trai ta có thể nào được truyền thừa phương pháp tu hành trong môn của các cô không?” – cha cậu không hiểu bèn hỏi.

“Vậy phải mời con trai ngài nói một chút xem trong lúc đọc tấm khăn anh ấy đã trông thấy được những gì?” – Cô gái xấu xí trả lời.

Cậu nói: “Tôi thấy được rất nhiều nội hàm, cũng không thể nhớ hết nổi, điều mơ hồ là khi tôi xem tấm khăn lần đầu tiên thì đọc thấy ‘Tôi bây giờ liệu có thực sự là tôi nguyên lai chân chính hay không?’, lần thứ hai tôi đọc thấy ‘Tôi trước đây đã từng ở đâu?’ cùng với trải nghiệm chuyển sinh ở một vài triều đại, lần thứ ba tôi thấy ‘Tôi phải đi đến nơi đâu?’ rồi làm quan giao vận như thế nào, lấy mấy người vợ, chết ra sao v.v. thấy rất chi tiết”. Nói xong dường như cậu bỗng chốc ngộ ra được điều gì, bèn nói: “Chẳng phải nội dung trên tấm khăn chính là đang kể ra những chuyện có liên quan đến tôi hay sao?”

Cô gái xấu xí gật đầu thừa nhận, sau đó nói: “Nếu là người khác đến xem tấm khăn này, nội dung kia sẽ là liên quan đến người ấy, sẽ tuyệt không giống với những gì anh xem được”.

Nghe đến đây, cậu lập tức thỉnh cầu được đi cùng cô gái lên núi Nga Mi tu luyện.

Được cha mẹ cho phép, cậu và cô gái xấu xí đã lên đường đến núi Nga Mi.

Trên đường đi cậu có rất nhiều chuyện muốn biết, nhưng cô gái xấu xí không trả lời cậu nhiều, dường như chỉ hứng thú với phong cảnh xung quanh.

Hai người họ đi tới chân núi Nga Mi, đến khi phải leo lên núi, cô gái nói: “Sư phụ đã dặn dò rằng, để lên được núi này thì thân thể cần phải tịnh như ngọc, anh ở trong thế tục nhiều năm như vậy, thân thể đã dơ bẩn, cần phải tẩy tịnh một chút”. “Vậy làm thế nào mới có thể tẩy tịnh được thân thể đây?” – anh hỏi lại. “Đơn giản thế này thôi, nước Thục chúng ta có rất nhiều cảnh đẹp, anh chỉ cần đi nhiều một chút, lưu lại những cảnh đẹp này trong tâm, đến lúc thì thân thể tự nhiên sẽ kiền tịnh trở lại. Đặc biệt là dãy núi gồm núi Tứ Cô Nương, núi Thanh Thành, núi Tây Lĩnh Tuyết v.v. Thời hạn là ba năm. Đến lúc ấy xem thân thể anh có đạt đến trình độ phù hợp với núi Nga Mi hay không, phù hợp tiêu chuẩn sẽ được phép lên núi, còn nếu không phù hợp thì anh vẫn còn phải đi ngắm cảnh”.

Cậu đành theo lời cô gái xấu xí mà đi ngắm cảnh. Lúc đầu cậu coi chuyện ngắm cảnh này thật quá đơn giản. Sau đó dần dần phong cảnh xem được càng ngày càng nhiều, đồng thời cậu ngẫm nghĩ lại thật kỹ từng chữ từng chữ trên tấm khăn, bỗng chốc cậu minh bạch được rất nhiều đạo lý. Cùng lúc đó các loại vấn đề cũng thi nhau xuất hiện: “Ví như cho là cô gái xấu xí dùng hình thức tấm khăn để khiến ta hiểu được ‘Thiên ngoại hữu thiên’, vậy thì trên thế giới này liệu có một phương pháp tu hành còn tốt hơn pháp môn của họ không?”. Đặc biệt là khi cậu đã đi hết một vòng rồi quay về tới chỗ tượng Đại Phật ở Lạc Sơn gần núi Nga Mi, cậu cảm thấy bức tượng Di Lặc thế tôn đang ngồi trông rất gần gũi thân thiết. Lúc này cậu nhìn thấy mắt của tượng Phật Di Lặc dường như khẽ động một chút. Cậu quỳ xuống chắp tay dập đầu, trong tâm nghĩ: “Nếu như có cơ hội thì nhất định phải kết duyên phận với Phật Di Lặc”.

Thời điểm ấy cậu đã thông qua hình thức đi khắp nơi ngắm cảnh mà bỏ hết ra khỏi đầu những tạp niệm và lối nghĩ tự cho mình là đúng v.v., thân thể cũng đã tịnh hóa rồi. Đến khi quay lại chân núi Nga Mi một lần nữa, cậu cảm thấy bản thân đã đạt đến tiêu chuẩn lên núi. Vậy nên cậu ở dưới chân núi đợi cô gái xấu xí ấy (để giúp cậu đánh giá xem đã có thể lên núi chưa), kết quả đợi liên tục rất nhiều ngày mà chẳng thấy tung tích cô gái đâu. Không còn cách nào khác, để biểu thị sự thành kính, cậu quỳ gối xuống đất mà bò lên núi. Nhưng khi cậu lên tới đỉnh núi, lại phát hiện xung quanh không một bóng người.

Cậu nghĩ sư phụ và cô gái ấy chắc sẽ không lừa gạt mình đâu! Chắc chắn là họ đang thử lòng mình đây mà. Vậy nên cậu bèn quỳ gối đợi ở đỉnh núi.

Ba ngày trôi qua, trên đỉnh núi xuất hiện Phật quang, sau đó có một Đạo nhân xuất hiện, bên cạnh ông chính là cô gái xấu xí.

Đạo nhân cười nói: “Cuối cùng con đã tới. Đời này ta sẽ truyền lại cho con phương pháp tu luyện trong môn này của ta, nhưng con cần phải nhớ rõ: Đến cuối cùng con phải trở thành đệ tử của vị Giác giả tương lai lai sẽ truyền Pháp cứu độ thế nhân ở nhân gian, người có liên quan đến Phật hiệu ‘Di Lặc’. Cũng chỉ có ở trong pháp môn tu hành ấy, con mới có thể đạt đến đại giải thoát và đại tự tại chân chính. Ta truyền cho con những điều này cũng chỉ là để giúp con đặt định một chút văn hóa và cơ sở tu luyện trước khi vị Giác giả ấy hồng truyền Đại Pháp ở nhân gian trong tương lai mà thôi”.

Lúc này cô gái xấu xí nhìn cậu mỉm cười, rồi dẫn cậu đến một nơi bí mật trong hang động, bắt đầu quá trình tu luyện Đạo gia của kiếp ấy.

Con đường tìm Pháp của người ăn mày thời nhà Minh

Vào triều nhà Minh, cô chuyển sinh vào một gia đình vô cùng giàu có ở Nam Kinh, đời ấy cô là thân nam.

Bởi vì gia đình rất khá giả, nên từ nhỏ cậu đã được giáo dục rất tốt, cũng rất có học vấn, trông cũng rất anh tuấn. Đến khi lớn, cậu ghi danh tham gia khoa cử, nhưng vào đêm trước kỳ thi, cậu bỗng đổ bệnh một cách rất kỳ lạ. Kỳ thi kết thúc thì bệnh của cậu cũng khỏi. Liên tiếp ba lần đều như vậy.

Cha cậu chứng kiến tình cảnh này, bèn an ủi cậu: “Con trai ta không tham gia khoa cử được, vậy ta giúp con tìm một nàng dâu, tiền của nhà chúng ta cũng đủ sống đến mấy đời”.

Vậy là cha cậu thu xếp cho cậu lấy vợ. Kết quả là lúc rước cô dâu nhà họ Vương về thì cậu đổ bệnh, hôn nhân không thuận lợi, bị hủy; đêm trước ngày đón cô dâu nhà họ Lưu, cậu lại đổ bệnh, hôn nhân không thuận lợi, bị hủy; đêm trước ngày rước cô dâu nhà họ Mã, vẫn là cậu đổ bệnh, hôn nhân không thuận lợi, lại bị hủy.

Cả ba lần hôn sự đều là do cậu đổ bệnh mà liên tiếp không thành. Chẳng còn cách nào khác, mẹ cậu đành lên chùa tìm sư trụ trì, hỏi vì sao cậu không tham gia được khoa cử lại cũng không thể kết hôn.

Bà vào trong chùa gặp một vị sư nói rõ mục đích đến đây, rồi xin được gặp trực tiếp trụ trì. Vị sư nói: “Trụ trì của chúng tôi thường bế quan (đóng cửa) tu luyện, trước khi bế quan có để lại một lá thư đã phong kín, giao cho tôi cất giữ. Trụ trì bảo tôi trao nó cho một người gặp phải sự tình kỳ lạ không thể giải khai”. Nói xong vị sư bèn đi tìm phong thư trao lại cho mẹ cậu. Bà về đến nhà lấy phong thư mở ra xem, chỉ thấy viết mấy chữ:

Khoa cử hôn nhân như mộng huyễn
Bệnh giải sợi dây trói buộc danh tình
Phòng ấm tiền bạc như rượu độc
Ăn mày ngoạn cảnh…

Bà xem những mấy câu này thì không hiểu rõ lắm, bèn tìm chồng và con trai đến cùng nghiên cứu.

Cậu xem một hồi lâu rồi nói: “Có thể con thật sự không phải là người thuộc về cõi hồng trần. Những thứ danh lợi tình trong hồng trần kia, có rất nhiều điều đều giống như mộng ảo, như sợi dây trói người ta vào trong mê, con lại vô tình nhờ ngã bệnh mà giải quyết được những vấn đề ấy rồi.

Cuộc sống dễ chịu chỉ giống như rượu độc. Có thể tương lai con sẽ lưu lạc thành hành khất dùng phương thức vân du ngoạn cảnh để… để làm gì nhỉ? (cậu suy nghĩ cả nửa ngày mới nói tiếp) để vứt bỏ các loại dục vọng của bản thân. Có thể điều mà trụ trì còn chưa viết hết chính là ý tứ này”.

Tuy đã chứng kiến tất cả những chuyện mà con trai gặp phải trong khoa cử và hôn sự, nhưng hai vợ chồng họ vẫn chưa từng nghĩ đến loại vấn đề này (con trai họ không có duyên với danh lợi tình chốn hồng trần), nhưng rốt cuộc vì sợ con trai mình tương lai sẽ chịu khổ cực, họ vẫn buồn bã rơi nước mắt.

Mấy ngày sau, hai vợ chồng họ được mời ra vùng khác chơi, cậu cũng đi theo cha mẹ. Kết quả ở lại đó một mạch ba tháng. Đến khi cả gia đình quay về thì nhận được tin báo: Đêm qua nhà họ vừa bị cháy, vừa cháy nhà người ta liền đến hôi của, trong nhà bây giờ bị thiêu bị cướp đã chẳng còn lại gì.

Cha mẹ cậu nghe tin xong đều lẩm bẩm: “Xem ra Ông Trời để con trai chúng ta làm ăn mày rồi!”

Sau đó cha mẹ cậu được họ hàng đưa về chăm sóc, chuyện này không nói nhiều nữa.

Đối mặt với biến cố gia đình như vậy cậu cũng không nghĩ quá nhiều, cảm thấy lời của vị trụ trì thật là chuẩn xác. Vì số mình đời này chính là làm ăn mày, vậy thì mình đi du ngoạn ngắm cảnh thôi, hoàn thành tốt ước nguyện là được rồi.

Nhưng mà biết ngắm cảnh gì, đi đâu ngắm cảnh, hoàn thành ước nguyện nào, đây mới là điều quan trọng. Sau đó cậu ngẫm nghĩ một chút, vẫn là nên đến ngôi chùa mà mẹ cậu đã từng tới để hỏi sư trụ trì.

Cậu vừa đến nơi, trụ trì đã ra tiếp đón. Cậu nói ra những chuyện trong lòng. Trụ trì nói: “Con hãy đi đến nước Thục ngắm cảnh, nhất định phải hành khất xin ăn, hãy dùng phương thức vân du của hòa thượng mà đi, không được dùng đến học vấn và tiền bạc của con, cũng không được nhận sự cảm thông (của người khác). Còn nói về việc hoàn thành nguyện gì, đến lúc ấy con sẽ biết”.

“Vậy tại sao lại cần đến nước Thục mà không phải nơi nào khác?” – Cậu không hiểu bèn hỏi lại.

“Bởi vì đó là một vùng đất vô cùng đặc biệt. Rất nhiều biến động lớn của xã hội đều là khởi nguồn hoặc có điềm báo từ nước Thục; nơi ấy cũng là một chỗ tốt để người tu yên tâm tu hành”.

Nghe xong khai thị của trụ trì, cậu chuẩn bị một chút hành trang rồi lên đường. Đang là một công tử con nhà giàu có, nháy mắt một cái đã lưu lạc thành ăn mày, trong tâm cậu tự nhiên có rất nhiều cảm khái về sự vô thường của kiếp nhân sinh, nhưng số mệnh đã nên là như thế này thì cũng không còn cách nào khác.

Suốt chặng đường hành khất, cậu cũng gặp phải lăng mạ và con mắt khinh thường của rất nhiều người. Khi đã vào đến nước Thục, cậu bắt đầu đi thăm tất cả các danh sơn và những danh tích lịch sử.

Ban đầu cậu không nhìn ra được điều gì, thiên phủ chi quốc đất đai rộng lớn sản vật phong phú, tuy nhiên thuận theo phong cảnh xem được càng ngày càng nhiều, cậu cũng dần dần hiểu được vì sao vùng đất này lại là điểm hóa cho rất nhiều biến hóa lớn của hoàn cảnh xã hội. Liên tưởng đến việc nơi này cũng là quê nhà của Luy Tổ – chính thê của Hiên Viên Hoàng Đế, thì đây cũng đã trở thành quê ngoại trong tâm trí của Viêm Hoàng tử tôn (con cháu của Viêm Hoàng, chỉ người Trung Hoa). Lần theo mạch tư duy này mà nghĩ rộng ra, cậu cảm thấy những nhân tố được sơn thủy nơi đây cấu thành cũng đã trở thành gia viên trong tâm trí người Trung Quốc. Khi hoàn cảnh lớn cần biến đổi, ở nơi này sẽ xuất hiện một số điềm báo hoặc biểu tượng. Bởi vì nơi đây là suối nguồn!

Mặc dù đường tới nước Thục rất gian nan, nhưng rất nhiều những người vốn đã nhìn thấu ảo ảnh của hồng trần đều muốn tìm một chốn dừng chân, tìm một nơi trú ẩn tại vùng đất này (Trong tính cách của Lý Bạch, Tô Đông Pha đều có những nét tính cách lạc quan, tự tại của người nước Thục. Thậm chí cho đến bây giờ người Tứ Xuyên vẫn còn bảo trì được tâm thái lạc quan và tự tại ấy). Có người tiến thêm một bước, dựng lều độc tu giữa non nước nơi đây, trở thành một người tu hành.

Sau khi đi hết những non non nước nước trên khắp đất Thục, cậu đã minh bạch được rất nhiều vấn đề nhân sinh mà mình muốn biết. Điều quan trọng nhất trong số đó là: Mọi thứ được Thần Tự Nhiên sáng tạo ra thật mỹ hảo và thần kỳ. Đây tuyệt đối không phải là những thứ mà sức lực của con người có thể làm được.

Sau khi tiếp xúc với một vài người tu hành, cậu càng nhìn thấu triệt hơn toàn bộ thế gian, cũng cảm thấy chỉ có tu hành mới có thể là con đường đến cõi vĩnh hằng và đạt được trí huệ cao hơn.

Cậu đã hỏi rất nhiều người tu hành: “Liệu có thể nào không xuất gia, thậm chí là dùng phương thức hành khất như tôi để tu hành, mà vẫn có thể khiến tôi có được trí huệ nhìn thấu triệt toàn bộ quá trình và nhân quả của thế gian hay không?”

Những người tu hành ấy đều lắc đầu nói không thể.

Sau đó cậu đến một quán rượu, cậu ở đó xin ăn xong đang chuẩn bị rời đi thì bà chủ nói: “Cậu đã đi nhiều như vậy ở nước Thục, lẽ nào không có chuyện gì kể hay sao?”

Cậu vừa nghe liền cảm thấy rất bối rối: “Cảm thấy bà chủ làm sao biết được cậu đã đi nhiều nơi như vậy ở nước Thục?”

Bà chủ thấy cậu ngập ngừng liền cười rồi nói tiếp: “Thực ra cậu vẫn luôn tìm kiếm một phương pháp cho phép con người không cần xuất gia, thay vào đó là dùng một loại phương thức tồn tại trong xã hội mà vẫn có thể tu hành, hơn nữa còn có thể đạt đến trí huệ hiểu biết được những sự tình trong phạm vi lớn hơn”.

“Bà chủ nói không sai, nhưng làm thế nào bà biết? Hơn nữa phương thức tu hành loại này phải đến đâu tìm?”

Bà chủ vẫn cười: “Thực ra vị trụ trì ấy chính là để cậu đến nước Thục, tự mình phát hiện ra rằng trong tâm mình đang tìm kiếm một pháp môn tu hành mang theo đặc điểm nào đó. Khi cậu đã xác định rõ nguyện vọng của mình thì có rất nhiều sự việc cũng đã được dàn xếp tốt rồi. Theo ta được biết, phương pháp tu hành ấy sẽ được truyền xuất ra nhân gian sau vài trăm năm nữa, nếu cậu có duyên, đến lúc ấy tự nhiên sẽ đắc được. Ta nói với cậu những chuyện này là vì nhận phó thác từ người khác. Nếu kiếp này muốn tìm được vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai thì cũng không quá khó, cậu chỉ cần xây một ngôi nhà lớn ở gần đây là được”.

“Tại sao lại là xây nhà mà không phải là xây chùa? Hơn nữa trụ trì đã dặn dò rằng tôi chỉ có thể xin ăn, không thể xin tiền. Không có tiền thì làm sao xây được nhà? Mà tìm một người có tiền nói họ xây nhà để gặp được Giác giả truyền Pháp trong tương lai thì ai có thể tin đây?”

Lần này bà chủ nói với vẻ mặt rất nghiêm túc: “Chẳng phải cậu là người rất biết suy nghĩ, rất có trí huệ hay sao? Việc lần này có thể làm khó cậu ư?”

Cậu quay về nơi trọ cẩn thận suy xét một hồi, cảm thấy cho dù khó thế nào cũng được, miễn là đời này có thể kết duyên phận với vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp.

Vậy là cậu nằm ở đó bắt đầu nghĩ cách xoay sở, sau đó thấy mình nên dùng các loại kiến thức chuyên sâu đã được học khi còn ở nhà để giúp người dân nơi này giải quyết một số vấn đề, mình không cần nhận tiền, chỉ cần họ xuất tiền xuất lực xây một ngôi nhà to là được rồi.

Ngày thứ hai cậu đi đến một nơi phố xá đông người, trước tiên nghe người ta nói chuyện để biết được người khác đang có vấn đề khúc mắc ở phương diện nào, nghe đến việc bản thân có thể giải quyết được, cậu liền chủ động đề xuất giúp người ta giải quyết. Mọi người cũng rất vui mừng.

Đương nhiên trong quá trình này cũng có rất nhiều chỗ không thuận lợi, có vấn đề cậu giải quyết không xong, ngược lại bị người ta mắng cho một trận.

Nhìn chung là sự tình của người ta loại nào cũng có, cậu có thể vận dụng đầy đủ học vấn trong quá khứ cùng thiện ý để giúp đỡ mọi người.

Sau đó đến khi mọi người đều đã biết vì sao cậu giúp đỡ họ giải quyết vấn đề, không phải là để cuộc sống của bản thân tốt đẹp như thế nào đó, mà là vì để xây nhà to, để kết duyên với vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp tại nhân gian, rất nhiều người đều chủ động đến giúp đỡ cậu, cuối cùng cũng đã xây thành một căn nhà.

Nhà xây xong rồi, mọi người đều rất vui mừng, đều tập hợp đông đủ tại đó để đợi Giác giả xuất hiện.

Vào buổi chiều của một ngày trời nắng ráo trong xanh, có một vị mặc y phục thường dân đến, cười nói với mọi người rằng: “Nguyện vọng và tâm cầu Pháp của mọi người thực sự rất đáng khen ngợi, tương lai mọi người phải nhớ rằng pháp môn tu luyện mà mình muốn tìm sẽ có đặc điểm như thế này”. Nói xong bèn xuất hiện thứ gì đó nhiều như hoa tuyết, to bằng đồng tiền, có hình dạng tròn tròn, đang xoay chuyển, bay lơ lửng trên không trung.

Mọi người đều kinh ngạc, quỳ xuống đất, đều mong muốn tương lai có thể đắc được loại phương pháp tu hành khó gặp này.

Lúc này, vị mặc y phục dân thường đến trước mặt cậu, mỉm cười nói: “Ngộ tính của con quả thực rất tốt, cũng rất biết cách vận dụng những học vấn đã học được. Tương lai đến khi con thật sự đắc Pháp, con sẽ sinh ra trong một gia đình khá giàu có, cũng có trí huệ và năng lực ở rất nhiều phương diện, tới khi ấy, con cần dốc sức phát huy năng lực của mình mà mang lên vũ đài, con hãy cứ đi phát huy cho tốt”.

Cậu nghe xong những lời này, đã sớm không cầm được nước mắt…

Đây chính là:

Hành khất quan cảnh nhập Ba Thục
Bạt thiệp sơn thủy nhẫn khuất nhục
Tao ngộ vạn nan chí bất cải
Đắc Pháp tu hành hiển thắng thù

Dịch nghĩa:

Vào nước Thục hành khất ngắm cảnh
Bôn ba sơn thủy nhẫn chịu khuất nhục
Gặp phải muôn vàn khó khăn không thay đổi ý chí
Đắc Pháp tu hành biểu hiện ra sự thù thắng

Chú giải: Câu này ý nói trong quá trình chân chính đắc Pháp tu luyện, sẽ thể hiện ra năng lực và trí huệ thù thắng.

 

Chú thích của người dịch:

[1] phiên trấn cát cứ: Giữa thời Đường, ở vùng biên giới và các khu vực trọng yếu đều có Tiết độ sứ trấn giữ, chủ yếu lo việc quân chính địa phương, về sau quyền lực càng lớn, kiêm việc nắm giữ dân chính, tài chính, hình thành quân chiếm cứ, thường đối kháng với triều đình, trong lịch sử gọi là “phiên trấn”

[2] thân khoác hoàng bào: chỉ chính biến thành công, đoạt được quyền lực.

Xem tiếp: phần 7

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239186

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 6) – Ngắm cảnh nước Thục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 5) – Ngao du trên bờ biểnhttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-5-ngao-du-tren-bo-bien.htmlSun, 05 Apr 2020 02:29:18 +0000https://chanhkien.org/?p=26140Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4. Trên thế gian đôi khi chúng ta có thể bắt gặp một vài người mặc y phục hòa thượng, mang áo choàng Đạo sỹ đang học Đại Pháp. Bài viết này lấy ví dụ một người trong số […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 5) – Ngao du trên bờ biển first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 4.

Trên thế gian đôi khi chúng ta có thể bắt gặp một vài người mặc y phục hòa thượng, mang áo choàng Đạo sỹ đang học Đại Pháp. Bài viết này lấy ví dụ một người trong số họ, kể một chút quá trình tìm Pháp không dễ dàng của vị ấy. 

Vào khoảng cuối triều Nguyên đầu triều Minh, nhân vật chính trong bài viết này là Nhân Hưng, có một đời chuyển sinh tại thị trấn Uy Hải thuộc tỉnh Sơn Đông, thời điểm ấy gia đình cậu rất giàu có, lại có thân quyến làm quan trong triều đình. Cậu từ nhỏ đã rất thông tuệ, lại hiểu chuyện, cũng vô cùng thiện lương. Sau này thời thế hỗn loạn, cậu lớn lên cũng bị tiêm nhiễm bởi mấy kẻ hư hỏng, dần dần trở thành một kẻ hư hỏng chơi bời lông bông, lang thang lêu lổng, nguy hiểm hơn là cậu thường theo đám bạn xấu lui tới sòng bạc, kỹ viện, cả ngày vô công rồi nghề. Cha mẹ cậu trong tâm rất lo lắng, nhưng cũng hết cách. 

Một lần, cậu cùng hai người bạn đến tửu quán uống rượu, đang uống thì có một người trong số họ đột nhiên lên cơn co giật, không lâu sau giã từ nhân thế. 

Cảnh tượng phát sinh ngay lúc này làm cậu phải suy nghĩ sâu sắc: Cho dù người ta sớm tối đắm chìm trong tửu sắc cũng khó tránh được cái chết, thật là bi ai!

Sau đó cậu gặp được một cô gái xinh đẹp, tiếp xúc một thời gian cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Cậu gửi sính lễ xong xuôi, đang lúc vui mừng hớn hở chuẩn bị rước cô dâu về nhà thì cả gia đình cô gái bỗng dưng “mất tích”. Hỏi thăm hàng xóm láng giềng xung quanh, họ đều nói rằng không biết rõ lắm về gia đình này. 

“Dưới gầm trời rộng lớn này biết đến đâu để tìm gia đình họ đây! Hơn nữa huống hồ cô ấy nhất định là ‘cố ý’ mất tích. Cho dù có tìm được người về, thì tấm lòng chân thành ấy liệu có thể tìm lại hay không?” Nghĩ đến đây Nhân Hưng cũng chẳng còn hứng thú gì nữa.

Chuyện tình cảm không được như ý làm cậu cảm thấy nhân gian có rất nhiều chuyện sao mà hư ảo và vô thường. Bản thân mình đối với người khác có chân thành đến đâu thì người ấy cũng không nhất định sẽ trân quý mình. 

Sống phóng túng nhiều năm như vậy khiến cậu cảm thấy tinh thần trống rỗng, cảm thấy đời người chẳng qua là tận hưởng thú vui trước mắt mà đi đến cuối đời rồi chết đi. Hai sự kiện đã xảy ra cũng làm cậu cảm nhận sâu sắc rằng: Cuộc đời con người có rất nhiều lúc không thể như ý, thậm chí còn rất thống khổ. 

Bởi vì tâm tình không tốt, cậu một mình ra bờ biển dạo chơi, khi ấy đúng lúc nước thủy triều đang rút, bỗng nhìn thấy một cô bé bị cuốn dạt vào bờ biển. Cậu nhìn một lúc lâu thấy cô bé chẳng mảy may cử động, chợt nhận ra có thể là cô bé này đã gặp nạn. Cậu vội vàng chạy đến ôm cô bé lên khẩn trương tiến hành sơ cứu, liên tục một hồi lâu cuối cùng cô bé cũng có chút hơi thở trở lại, cậu nhìn qua thấy thân thể cô bé còn hết sức yếu ớt bèn cõng cô bé về nhà chăm sóc. 

Trong thời gian cô bé dưỡng sức, Nhân Hưng và cha mẹ đều cố gắng tận tình chăm sóc, cô bé hồi phục cũng rất nhanh. 

Đợi thân thể cô bé gần như khỏe hẳn, Nhân Hưng mới hỏi xem gia đình cô bé ở đâu, cha mẹ làm nghề gì, sao lại bị sóng cuốn dạt tới nơi này.

Cô bé nhìn cậu một chút rồi nói: “Em đến từ một nơi tươi đẹp, cha mẹ rất tốt với em, lần này em vì một việc mà cố ý bị sóng đánh chìm, rồi gặp được anh”.

Câu nói của cô bé làm Nhân Hưng bối rối, cậu không hiểu ý tứ của cô bé, muốn tiếp tục hỏi cho rõ đầu đuôi.

Thế nhưng cô bé này tuyệt nhiên không trả lời những câu hỏi sau đó của cậu nữa, chỉ nói: “Anh lúc nhỏ là một người vô cùng chính trực, thiện lương, chẳng qua là bị những người xấu làm ô nhiễm, nếu anh muốn quay trở về làm người lương thiện, chính trực như trước kia, thì có việc này không biết anh có nguyện ý thực hiện hay không?”.

Cô bé nói ra điều này làm Nhân Hưng vô cùng kinh ngạc, cậu cảm thấy đây không phải là những chuyện mà một cô bé nhỏ tuổi như vậy có thể nói ra. Không lẽ nào cậu đã gặp được Thần Tiên? Đúng lúc Nhân Hưng nghĩ đến đây thì nghe cô bé nói: “Tương lai tại Trung Thổ sẽ truyền ra Đại Pháp có thể tu thành mà không cần thoát ly thế duyên, nếu như anh muốn tới lúc ấy thực sự có thể đắc Pháp, vậy đời này anh hãy đi tìm thử một chút xem”.

Nhân Hưng không hiểu bèn hỏi: “Vậy phải đi tìm thế nào?”. “Bởi vì trước đây anh đã từng có duyên với vị Giác giả truyền Pháp trong tương lai, vậy nên đời này anh hãy đến Bắc Hải ở phía Nam mà tìm”. “Bắc Hải (Biển Bắc) sao lại ở phía Nam?”. Nhân Hưng càng không thể hiểu được. “Bắc Hải là một tên địa danh, anh cứ men theo đường bờ biển đi một mạch về hướng Nam, khi nào tới được eo biển nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam thì ngay phía trước không xa chính là nơi cần đến” – cô bé trả lời.

“Em rốt cuộc là ai, bao nhiêu tuổi?” – Nhân Hưng hỏi đến cùng.

Cô bé thấy cậu hỏi câu này liền bật cười: “Em là ai không quan trọng, bao nhiêu tuổi cũng không quan trọng. Em chỉ có thể nói với anh rằng, trong thế giới bao la này có rất nhiều phương pháp tu hành, có cái có thể cải lão hoàn đồng, hơn nữa người tu hành khi đến một trình độ nhất định sẽ có biến hóa”.

Thấy cô bé không nói rõ, Nhân Hưng đành bảo: “Vậy anh hiểu rồi. Anh sẽ lập tức thu xếp lên đường men theo bờ biển đi đến Bắc Hải”.

“Không thể ngồi thuyền, phải đi bộ mới có thể thể hiện sự thành kính, hơn nữa trên đường đi anh sẽ gặp rất nhiều chuyện lạ, bất kể đó là việc tốt hay việc xấu thì đều không được quên mục đích ban đầu của chuyến đi này. Nhất định phải nhớ! Nhất định phải nhớ!”. Nói xong cô bé liền rời đi. 

Nhân Hưng nghe xong lời cô bé nói, lập tức thu xếp hành trang, cáo biệt cha mẹ và bạn bè cũ, bắt đầu xuất phát từ Uy Hải một mạch men theo đường bờ biển đi về hướng Nam.

Bản thân cậu vốn là đứa trẻ lớn lên ở vùng bờ biển, biển khơi đối với cậu không có gì lạ lẫm, cậu đi dọc theo đường bờ biển, suy nghĩ mãi liệu sẽ gặp chuyện kỳ quái ra sao?

Thế nhưng cậu đi được hơn nửa tháng, chẳng mảy may gặp chút sự việc kỳ lạ nào, dần dần cậu cũng thôi không nghĩ đến việc mình sẽ gặp chuyện lạ nữa, chỉ nghĩ làm thế nào có thể vì chính nghĩa không chùn bước mà tiến đến phương Nam. 

Khi đi đến Hàng Châu, Ninh Ba, cậu lại gặp một bé gái mời cậu về nhà chơi. Cậu nghĩ một lát, đi thì đi thôi. Thế nhưng cô bé bắt cậu nhắm mắt lại, và để cậu nắm lấy chiếc khăn tay của cô, nói rằng khi nào bảo cậu mở mắt thì cậu hẵng mở, nếu không sẽ có nguy hiểm đến tính mạng. Cậu đành phải nghe theo. 

Ngay sau đó, cậu cảm thấy giống như họ đang đi trong nước. “Là đi đâu?” cậu cũng không dám nghĩ đến. 

Đợi đến khi họ đứng trước một lâu đài có cánh cổng lớn, cô bé mới bảo cậu mở mắt, cậu vừa mở mắt ra liền ngạc nhiên thốt lên mừng rỡ: “Mọi người đều truyền nhau rằng dưới đáy biển có Long Cung, hóa ra là có thật!”. Đông Hải Long Vương đến vẫy tay chào, rồi bày yến tiệc thiết đãi cậu. Lại để tiểu nữ (con gái út của Long Vương) giữ cậu lại đó chơi thêm mấy ngày. 

Trong mấy ngày cậu tạm ở lại đây, Tiểu Long Nữ dẫn cậu đi chơi khắp các chốn trong Long Cung, thực sự khiến cậu được mở rộng tầm mắt. 

Đông Hải Long Vương vốn muốn giữ cậu lại chơi nhiều ngày, nhưng cậu một lòng muốn đi Bắc Hải gặp vị Giác giả tương lai sẽ truyền Pháp tại nhân gian, Long Vương cũng không miễn cưỡng cậu nữa, bèn để Tiểu Long Nữ đưa cậu đi một đoạn đường. 

Đoạn đường này đã đưa cậu đi thẳng đến quần đảo Bành Hồ thuộc eo biển Đài Loan, tại đây cậu gặp phải một con yêu quái biển hóa thành hình dạng mỹ nữ, con yêu quái này đòi cậu phải ở lại, nếu không sẽ ăn thịt cậu, nhưng cậu cũng chẳng vì thế mà động tâm, lại dùng thiện tâm và chính tín của mình mà cảm hóa được yêu quái biển (con yêu quái này bản chất cũng chưa quá xấu tệ), yêu quái biển cũng đưa cậu đi một đoạn đường. 

Đoạn đường này đưa cậu đến gần vùng Huệ Châu, tại đây cậu được thưởng ngoạn cảnh đẹp và phong thổ dân tình của địa phương, sau đó cậu lại theo theo bờ biển mà tiếp tục đi (đường thủy). Lên đến bờ thì gặp ngay hai ngư dân đang cãi nhau vì chuyện bắt cá, thậm chí còn động thủ đánh nhau. Cậu tiến đến khuyên giải, nào ngờ lại bị người ta hiểu lầm là muốn trộm đồ, thậm chí chẳng hỏi rõ đầu đuôi đã trói cậu lại đem lên quan phủ, tống vào nhà lao đợi ngày trị tội. 

Vị quan đương nhiệm đối nhân xử thế cũng không tồi, sau khi hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành thì sai người đem cậu đánh 20 trượng rồi thả cho cậu đi (Nếu không phạt gì cậu thì những người trói cậu giải lên quan sẽ bị mất mặt, cũng coi như giữ cho mấy người dân địa phương kia một chút thể diện).

Vì bị thương do chịu đòn nên cũng không thể gấp rút lên đường, cậu đành tìm một quán trọ nhỏ ở lại rồi mời thầy thuốc đến khám.

Trong thời gian dưỡng bệnh, cậu lại gặp phải mấy thanh niên hư hỏng, bọn họ ở trước mặt Nhân Hưng nói rất nhiều chuyện ăn chơi hưởng lạc, xui cậu quay lại sòng bạc và kỹ viện. Có một lần cậu thực sự đã động tâm, đang lúc đi đến cổng sòng bạc thì bỗng dưng vấp ngã rồi bị sái chân. Cậu lập tức hiểu ra mình tuyệt đối không nên đến nơi này. 

Vậy nên trong tình trạng vết thương chưa lành lại hẳn, cậu vẫn gấp rút lên đường.

Sau mấy ngày đi bộ gian nan, cậu gặp được một vị Thần Biển, vị Thần Biển này cho cậu một loại Thần dược có thể trị thương để cậu đắp lên chỗ đau, nói ra cũng thật thần kỳ, cậu vừa đắp lên liền không cảm thấy đau nữa.

Toàn bộ quá trình “ngao du” dọc bờ biển trên thực tế lại vô cùng gian khổ, đối mặt với sự tàn hại của cuồng phong bão táp, đối mặt với sự tấn công từ các loại sinh vật biển, cậu đều có thể kiên trì chính niệm, không thay đổi ý nguyện ban đầu, cuối cùng cậu cũng đến được Bắc Hải. Đến đây, cậu bèn đi khắp nơi tìm kiếm vị Giác giả truyền Đại Pháp trong tương lai. 

Sau đó, cậu đến một ngôi chùa gặp được một vị trụ trì. Cậu hỏi trụ trì về hành tung của vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp. 

Trụ trì nói: “Hành tung của vị ấy không cố định, hơn nữa còn có thể xuất hiện dưới nhiều hình dạng khác nhau ở nhân gian. Con đã chịu muôn vàn gian khổ đến được nơi này, đã làm xong việc mà con nên làm rồi, những chuyện khác không cần nghĩ quá nhiều. Chưa biết chừng vào lúc vô tâm vô ý lại gặp được, là bởi vì hữu duyên”.

Nhân Hưng nghe xong liền thẳng thắn nói: “Ngài chính là vị Giác giả mà con cần tìm!”

Trụ trì khẽ mỉm cười: “Ngộ tính của con vẫn còn rất tốt! Tương lai cũng nhất định sẽ đắc được Đại Pháp có thể chân chính đưa con người hồi thăng!”

Nhân Hưng vui mừng nói: “Tương lai con nhất định phải làm đệ tử chuyên tu của Ngài. Bởi vì hôm nay duyên đã kết (chính là tình huống được gặp trực tiếp), cũng bởi vì con có thể không bị những thứ bất hảo chốn hồng trần làm lay động, can nhiễu”.

Trụ trì nghe xong, lặng lẽ gật đầu.

Đây chính là:

Mạn du hải ngạn lộ mạn mạn
Đa trùng can nhiễu khứ mê huyễn
Tâm để sơ trung bất tằng biến

Đắc Pháp hồi thiên sinh mệnh huyến!

Dịch nghĩa:

Du ngoạn nơi bờ biển mênh mông
Biết bao can nhiễu cùng mê hoặc
Tận đáy lòng ước nguyện ban sơ không thay đổi
Đắc Pháp hồi thiên sinh mệnh tỏa sáng

Chú giải: Ý nghĩa của câu cuối chính là đắc được Đại Pháp thì thời khắc sinh mệnh quay về ngôi nhà nguyên lai trên thiên thượng sẽ thật sự rực rỡ chói lọi.

 

Xem tiếp phần 6.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239185

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 5) – Ngao du trên bờ biển first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 4) – Cây hồ dương trên sa mạchttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-4-cay-ho-duong-tren-sa-mac.htmlSun, 05 Apr 2020 01:59:00 +0000https://chanhkien.org/?p=26139Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 3. Một vị đồng tu đã từng viết bài thơ có tên “Cây hồ dương trên sa mạc”: Là cây hồ dương ngạo nghễ trên sa mạcTrải qua nắng gắt cùng giá rétVì lữ khách nghỉ chân mà duỗi […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 4) – Cây hồ dương trên sa mạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 3.

Một vị đồng tu đã từng viết bài thơ có tên “Cây hồ dương trên sa mạc”:

Là cây hồ dương ngạo nghễ trên sa mạc
Trải qua nắng gắt cùng giá rét
Vì lữ khách nghỉ chân mà duỗi căng tán rộng
Lấy cả thân mình che ánh mặt trời chói chang
Là cây hồ dương bất khuất trên sa mạc
Ngàn năm đứng sừng sững
Ngàn năm phong sương
Đổ xuống rồi vẫn nguyên vẹn như trước
Ngàn năm bất hủ quật cường
Là cảnh tượng không thể quên trên sa mạc
Hành trình đằng đẵng cùng nhau đi chung một con đường
Đã thêm vào biết bao nhiêu mộng tưởng
Đã xua tan bao nhiêu ly biệt lẫn bi thương
Là cây hồ dương cô độc trên sa mạc
Cô tịch ngàn năm vì một đời bi tráng
Mà có thể là vì những vì sao lấp lánh trong vũ trụ bao la kia
Cam nguyện vận mệnh ngàn năm trong luân hồi
Làm một cây khô
Một cây hồ dương sừng sững trên sa mạc

Năm 2010, có một vị đồng tu ở Tân Cương nhờ người chuyển cho tôi một lá thư, thời điểm đó vì bị bức hại phi pháp mà tôi không kịp nhận, đợi đến khi tôi đọc được bức thư này thì đã là đầu tháng 01 năm 2011.

Lúc ấy đọc thư xong tôi rất cảm khái: Bất kể kiếp này chúng ta ở phương trời nào, có bối cảnh và kinh nghiệm gì chăng nữa thì hết thảy đều không quan trọng, quan trọng là Đại Pháp mà chúng ta đắc được ở đời này đã khiến tâm của chúng ta tương liên, khiến nguyện của chúng ta nối liền.

Mọi người đều biết rằng rất nhiều đồng tu ở vùng Tân Cương của Trung Quốc Đại lục có cuộc sống sinh hoạt không hề dễ dàng, chẳng những vậy còn cần làm tốt việc mà một người tu luyện nên làm, điều này khiến mọi thứ càng thêm khó khăn. Tôi mượn bài viết này như một cơ hội kể lại quá trình tìm Pháp ở Tân Cương trong kiếp trước của một vị đồng tu, hy vọng chúng ta đều có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, tại hoàn cảnh xã hội… để bước đi thật tốt con đường mà chúng ta nên đi.

Vào triều đại nhà Minh, người tu luyện này chuyển sinh thành con trai của một cặp vợ chồng thương nhân, khi ấy cậu bé khoảng 10 tuổi. Đoàn thương nhân men theo tuyến Lâu Lan – A Khắc Tô – Khách Thập Nhất của con đường Tơ Lụa cổ đại để đem những vật phẩm như tơ lụa, gốm sứ, lá trà, và cả tranh thư pháp… đến bán ở khu vực Trung Á, Tây Á. Khi họ đi tới gần sông A Lý Mộc thì gặp phải bọn cướp, trong lúc tứ tán hỗn loạn, cậu bé bị lạc khỏi cha mẹ và đoàn thương nhân. Cậu một mình đi đến bờ sông A Lý Mộc, phía xa là cát vàng, trước mặt là nước sông, đối diện với tình cảnh này cậu bé bỗng chốc không biết phải xoay sở ra sao. 

Vì đây là lần đầu tiên trong đời cậu đi con đường này, hơn nữa lại quá nhỏ tuổi, chưa từng trải qua hoàn cảnh khốn khó như thế nên cậu bé liền cảm thấy khổ não và bất lực. 

Trời chập tối, gió lớn rít qua, cát sỏi táp vào khuôn mặt bé nhỏ đau rát, cổ họng sớm đã khóc khản cả rồi. Chẳng còn cách nào, cậu đành tìm một chỗ tránh gió cuộn mình nép vào trong lánh nạn, trải qua một đêm đầy hốt hoảng sợ hãi. 

Trời vừa rạng sáng, dường như có một giọng nói bảo cậu hãy men theo bờ sông đi một mạch về phía trước. Cậu đi đến gần giữa trưa thì thấy dường như cách đó không xa xuất hiện một thôn trang và người qua lại, cậu bé vô cùng mừng rỡ rảo bước thật nhanh, nhưng thôn trang và đám người cứ mãi cách cậu đúng một khoảng như thế (hiện tượng ảo ảnh), sau đó thậm chí còn không nhìn thấy chút bóng dáng nào nữa. Đến lúc này, ý chí của cậu đã hoàn toàn sụp đổ, thêm vào đó là nhiệt độ trên sa mạc lên rất cao (lúc ấy đang là giao mùa xuân hạ nên trời không quá nóng). Cậu như quả bóng hết hơi, nằm dài trên bờ sông chờ đợi, hoặc có người đến cứu, hoặc là Tử Thần đến mang đi. 

Trong lúc nằm chờ, cậu thực sự quá kiệt sức nên bất tri bất giác chìm vào hôn mê. Đến khi cậu mở mắt ra, lại đã thấy mình đang nằm trong một túp lều. Có một cô bé trạc tuổi nhìn thấy cậu tỉnh lại liền vỗ tay mừng rỡ, cô vội vàng chạy ra khỏi lều tìm cha mẹ tới, cha mẹ cô bé vừa nhìn thấy cậu tỉnh lại cũng vô cùng vui mừng, bèn lấy cho cậu chút nước và đồ ăn. Ăn xong rồi, cha mẹ cô bé mới hỏi cậu tại sao lại nằm hôn mê bất tỉnh bên bờ sông, cậu bé kể lại đầu đuôi câu chuyện. 

Mẹ cô bé thở dài một tiếng: “Quả đúng là Ông Trời không tuyệt đường sống của ai, mấy ngày trước ta nằm mơ, mơ thấy mình nhặt về một đứa trẻ, xem ra giấc mơ này của ta thành sự thật rồi”.

Bà thấy việc đến nước này, vậy cũng nhận cậu bé làm con nuôi. Sau này cậu mới biết gia đình cô bé vốn mở một quán trọ trên ốc đảo gần đó, cung cấp chỗ ăn nghỉ cho khách vãng lai, hôm ấy mẹ của cô bé muốn ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo, thế nên mới gặp cậu ở bờ sông rồi cứu cậu về.

Quanh ốc đảo này có rất nhiều rừng hồ dương, thi thoảng cô bé lại dẫn cậu vào rừng hồ dương chơi, còn nói cho cậu biết cây hồ dương có thể sống đến ngàn năm tuổi. Cũng có khi cậu chợt nhớ đến cha mẹ và các cô chú trong đoàn thương nhân rồi nước mắt đầm đìa, cô bé ở bên cạnh an ủi cậu, pha trò để làm cậu vui. 

Thời gian trôi qua thật nhanh, chớp mắt đã qua 10 năm nữa, trong thời gian 10 năm này, cha mẹ nuôi cũng nhờ rất nhiều người tìm kiếm cha mẹ cậu và đoàn thương nhân, nhưng rốt cuộc thông tin nhận được lại là: Rất nhiều người đều đã bị bọn cướp sát hại, hàng hoá cũng bị cướp hết. Cậu nghe xong đau buồn chật vật mất một thời gian. 

Lúc này, cô bé đến an ủi cậu, nói rằng: “Anh xem cây hồ dương có thể sống được ngàn năm, khi chết rồi vẫn có thể kéo dài thêm 1.000 năm nữa mới đổ, đổ rồi vẫn còn 1.000 năm nữa mới bị mục nát, vậy tổng cộng là 3.000 năm, 3.000 năm ấy xảy ra biết bao nhiêu chuyện bi ai và tiếc nuối!”

Cậu nghĩ một hồi lâu, rồi chầm chậm lẩm bẩm một mình: “Đem chuyện cha mẹ ta và đoàn thương nhân bị sát hại so sánh với sự tồn tại 3.000 năm của cây hồ dương, dường như thời gian và mức độ thống khổ là không thể bì được”. “Đúng là như vậy, khi gặp chuyện thì xoay sở vượt qua là tốt rồi”.

Sau đó cha mẹ đưa hai cô cậu cùng đến một vùng gần đó thăm Động Thiên Phật (gồm ba hang động là Khố Mộc Thổ Lạp, Khắc Tư Nhĩ và Sâm Mộc Tắc Gỗ), khi ngắm nhìn những bức tượng Phật này, cậu ngay lập tức bị cuốn hút, cảm thấy thì ra sinh mệnh vốn có thể sống một cách tuyệt diệu và ý nghĩa như vậy. 

Lúc này cậu không chỉ khởi lên tâm kính ngưỡng Thần Phật, mà còn có nguyện vọng muốn quay trở về thiên đàng. 

Tại đây câu nói với cha mẹ những suy nghĩ của mình, cha mẹ nuôi vốn định gả vợ cho cậu, giờ thấy cậu nói như vậy, cảm thấy cậu bé là người rất có căn cơ, vậy nên sau khi quay về họ luôn để mắt đến cậu, xem xem liệu có thể có cao nhân dạy dỗ cậu về mặt tu hành được hay không. 

Sau đó mấy năm, vào một buổi trưa, có một vị tự xưng là tăng nhân từ ngoại bang (nước ngoài) đến đây. Vị tăng nhân này vừa nhìn thấy cậu liền nói, xem ra con và ta thực sự có duyên, ta phải đem con tới đỉnh núi cao nhất (núi Himalaya) mà ở tại đó tu hành. 

Cha mẹ nuôi của cậu và cô bé có chút luyến tiếc không nỡ rời xa, nhưng lại không muốn làm lỡ đại sự tu hành của cậu. Vậy nên sang ngày thứ hai họ đã khởi hành. 

Khi họ đi đến chân núi Côn Luân, có một vị cao tăng xuất hiện, vị cao tăng này nhìn thấy vị tăng nhân ngoại quốc mang theo cậu bé, liền chặn lại hỏi xem họ muốn đi đâu. Vị tăng nhân ngoại quốc trả lời rằng họ cần đến núi Himalaya tu hành. Vị cao tăng kia nghĩ một hồi bèn nói: “Trước mắt chúng ta khoan đi tới đó. Bởi vì tương lai tại Trung Thổ còn cần truyền ra một Đại Pháp vạn cổ khó gặp. Hai người còn cần kết rất nhiều duyên với người và việc ở Trung Thổ mới được. Nếu như đi tới Himalaya thì sợ là đến lúc ấy sẽ khó mà kết được Pháp duyên khó đắc này”.

Hai người họ nghe xong vội vã nói: “Vậy chúng tôi hiện tại phải làm sao?”. Cao tăng cười: “Cây hồ dương và ốc đảo là dựa vào nhau mà tồn tại đó!”.

Thấy hai người họ mãi vẫn chưa hiểu, cao tăng lại lặp lại một lần nữa. Nói xong liền đi mất. 

Vị tăng nhân ngoại quốc và cậu nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng hiểu ra rằng: “Đầu tiên chúng ta cần ở trong thế tục này có chính niệm tu hành, và kiên định tin tưởng rằng nhất định có thể gặp được vị Giác giả truyền Đại Pháp vạn cổ khó khặp trong tương lai. Vị Giác giả ấy cũng nhất định có trăm phương ngàn kế để tìm ra chúng ta!”.

Hay thầy trò không nghĩ đến chuyện đi Himalaya nữa, mà ở tại bờ Nam của Sa mạc Taklamakan tìm một ốc đảo có nhiều rừng hồ dương rồi thu xếp ổn định. Họ ở tại nơi này chờ đợi vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai. Lần chờ đợi này kéo dài 60 năm. 

Trong 60 năm chờ đợi tưởng chừng như vô tận ấy, bất kể cảm thấy vô vọng đến mức nào, họ đều lấy tinh thần của cây hồ dương 3.000 năm không mục nát để khích lệ bản thân. Cuối cùng, đến một ngày vị Giác giả mà họ chờ đợi đã đến. 

Vị Giác giả ấy xuất hiện trong hình dạng của một thương nhân. Người thương nhân này đến gặp họ nói: “Bản thân ta có một món đồ gốm cũ, có thể phản chiếu ra được tương lai hai người sẽ kết duyên với ai, nhưng phải dùng ‘tâm’ mà đổi lấy”.

Vị tăng nhân ngoại quốc (lúc này đã trăm tuổi rồi) nghe như có ý ở trong lời, bèn cố ý dò xét: “Tương lai liệu chúng tôi có thể gặp được Đại Pháp quảng độ thế nhân chăng?”.

Cậu nghe người thương nhân và vị tăng nói chuyện qua lại, bỗng nhiên sáng rõ vấn đề, liền thẳng thắn nói: “Nếu ngài biết có cách nào để chúng tôi đời này có thể gặp được vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai, xin ngài hãy làm ơn nói thẳng cho cho chúng tôi biết”.

Thương nhân nói: “Chẳng phải ta đã nói rồi sao, dùng tâm mà đổi lấy”.

Cậu nghe xong lập tức kéo vạt áo quỳ rạp xuống, thành khẩn hướng về phía thương nhân cầu xin vị ấy cho phép họ tương lai có thể đắc Pháp tu hành. Họ đã chờ đợi 60 năm cũng chính là vì một lần gặp ngày hôm nay thôi. 

Thương nhân cười nói: “Thực ra trong dòng sông dài vô tận của lịch sử, tất cả những phó xuất và tất cả khoảng thời gian mà hai người đã chờ đợi để tương lai được đắc Pháp còn lớn hơn rất rất nhiều so với hiện tại. Dù sao chăng nữa, hôm nay duyên phận đã kết thành, vậy trong tương lai khi thật sự có thể đắc được Đại Pháp, cần phải tu cho thật tốt!”

Hai người họ rơi lệ, không ngừng khấu đầu. Đến khi họ lau nước mắt ngẩng đầu lên, thương nhân đã sớm biết mất không thấy hình bóng nữa. 

Vị tăng thấy cậu bé có chút thất thần liền an ủi cậu, nói: “Tại sa mạc hồng trần vô tận này, chúng ta hãy làm một ốc đảo tâm linh, dùng ý chí 3.000 năm không mục nát của cây hồ dương để chờ đợi Đại Pháp vạn cổ khó gặp”.

Cậu bé chầm chậm gật đầu…

Đây chính là: 

Hồng trần đại mạc tầm chân Pháp
Tâm như lục châu thiện niệm hóa
Hồ dương ý chí cửu canh kiên
Đắc Pháp quy chân tốc đồng hóa!

Dịch nghĩa:

Tại sa mạc chốn hồng trần tìm chân Pháp
Tâm như ốc đảo hóa thiện niệm
Ý chí như cây hồ dương chờ đợi càng thêm kiên định
Đắc Pháp quy chân mau chóng đồng hóa!

 

Xem tiếp phần 5.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239057

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 4) – Cây hồ dương trên sa mạc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 3) – Biển băng ở Bắc Cựchttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-3-bien-bang-o-bac-cuc.htmlSat, 04 Apr 2020 14:00:09 +0000https://chanhkien.org/?p=26136Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 2. Lời tựa: Đây là câu chuyện kể về một cô bé học sinh tiểu học người da trắng từng có tiền kiếp chuyển sinh thành người Inuit (chủng da vàng) sống tại vùng Bắc Cực để tìm Pháp. […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 3) – Biển băng ở Bắc Cực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 2.

Lời tựa: Đây là câu chuyện kể về một cô bé học sinh tiểu học người da trắng từng có tiền kiếp chuyển sinh thành người Inuit (chủng da vàng) sống tại vùng Bắc Cực để tìm Pháp.

Một lần, trong lúc xem cảnh diễn hành của học viên Pháp Luân Công được phát sóng trên đài truyền hình Tân Đường Nhân, tôi ngẫu nhiên trông thấy dáng vẻ vô cùng dễ thương của một cô bé học sinh tiểu học đang được mẹ cõng lên vai. Thuận tiện, tôi đã xem lại một chút quá trình tìm Pháp từ trước của cô bé, tại đây viết ra toàn bộ câu chuyện.

Ở vùng Bắc Cực băng tuyết bao phủ, vì thời tiết vô cùng lạnh giá nên hầu như không có lấy một dấu chân người, tuy vậy lại có một nhóm người thuộc một nhánh của tộc người Mông Cổ vùng Đông Á, do nhân duyên hội đủ mà sinh sôi phát triển tại đây.

Bởi thời tiết nơi này rất lạnh nên họ sống trong những căn lều làm bằng tuyết hoặc băng, thậm chí vào mùa đông giá rét còn mang một lúc mấy đôi giày làm từ các chất liệu khác nhau để chống lạnh, họ sinh sống dựa vào săn cá voi, hải cẩu và gấu Bắc Cực.

Vì đã sinh sôi phát triển ở nơi đây qua một giai đoạn lịch sử rất dài, vậy nên hình thái và tập quán sinh hoạt của họ đã sớm thích ứng với khu vực này.

Tại eo biển Bering, khu vực giáp ranh giữa Bắc Băng Dương và bang Alaska của Mỹ, 150 năm về trước đã có một bé gái xinh đẹp chào đời. Vào lúc cô bé sinh ra, ở chỗ giữa hai hàng lông mày dịch lên trên một chút có một vết tròn đường kính khoảng một centimet phát ra ánh vàng kim. Chuyện này đã lan truyền rất nhanh trong cộng đồng, ngay cả một thầy phù thủy rất nổi tiếng trong vùng (người ở đây đều tin rằng vạn vật có linh và rất sùng kính một số hiện tượng thần bí, hiện tượng này rất phổ biến. Những “phù thủy” này hoàn toàn không giống với khái niệm “phù thủy” vốn mang nghĩa xấu mà con người hiện đại nhận thức. “Thầy phù thủy” của người Inuit là để chỉ người có khả năng câu thông với Thần hoặc lực lực lượng thần bí) cũng đến xem rốt cuộc là chuyện gì. Mọi người đều cảm thấy rằng đứa bé này có lai lịch rất phi phàm, thậm chí còn có người nói luôn rằng đứa bé này chính là phúc tinh (ngôi sao may mắn) mà Thần gửi đến cho chúng ta, nó sẽ mang đến điềm lành cho bộ tộc này.

Người Inuit vì để có thể sinh sôi phát triển trong hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt nơi Bắc Cực hoang giá này, họ coi mỗi đứa trẻ trong bộ tộc như con của tất cả mọi người, vậy nên rất nhiều em bé có tuổi thơ là được nhiều gia đình thay nhau nuôi nấng cho đến khi trưởng thành.

Người Inuit vốn trước giờ đã có “phong tục” như thế, nay lại thêm chuyện đứa bé này lúc sinh ra đã rất đặc biệt, nên liền trở thành “đứa trẻ được săn đón”, gia đình nào cũng muốn mang đứa bé về nuôi nấng một thời gian, cô bé cũng trải qua một tuổi thơ trong hoàn cảnh vô cùng được thương yêu như vậy.
Chứng kiến cô bé ngày một khôn lớn, cha mẹ và toàn bộ người dân trong bộ tộc đều rất vui mừng, cô cũng dần dần học làm những công việc phụ mà một cô gái nên biết.

Sau một thời gian lâu, cô đã chán làm những công việc phụ dành cho con gái, bèn kêu khóc đòi đi theo người lớn ra biển săn bắt. Ban đầu người lớn đều không đồng ý, cảm thấy việc này quá mạo hiểm. Nhưng cô bé nói một cách hùng hồn: “Chẳng phải mọi người coi con như phúc tinh mà Thần ban cấp cho bộ tộc này sao? Vậy mọi người đâu cần lo lắng gì nữa?!” Mọi người nghe những lời này của cô cũng cảm thấy có mấy phần đạo lý nên không cản nữa.

Vì mục đích ra khơi lần này là để săn hải cẩu, nên người lớn đều mang theo đầy đủ dụng cụ săn, mặc dù chuyến đi này của cô có mục đích bề mặt là đi săn, nhưng trong tiềm thức cô cảm thấy mình sẽ gặp những chuyện khó lường trước. Nhằm đề phòng mãnh thú tấn công, cô cũng mang theo mình một chiếc đinh ba lớn loại dùng cho săn bắt.

Những người lớn thả mấy chiếc thuyền kayak trứ danh khởi hành ra biển, đến gần một hòn đảo nhỏ, mọi người mượn cớ “đông người đi săn không tiện” đặng thả cô lại đợi trên đảo, nói rằng họ sẽ không đi đâu xa, chỉ săn ở quanh đó thôi, lại dặn dò cô phải tăng cường thận trọng.

Một mình cô ở lại trên hòn đảo nhỏ băng tuyết bao phủ, cô nhìn bốn bề chỉ thấy núi băng lớn nhỏ; hải cẩu, cá heo bơi qua bơi lại, cảm thấy mọi thứ vô cùng tự nhiên, đều là cách thức tồn tại và sinh sống của những sinh vật ở nơi này, thế nhưng vẫn thấy có gì đó còn thiếu mất, mà nhất thời cô lại không nói rõ được.

Người ta đều nói rằng vạn vật trong tự nhiên đều có linh tính, vậy thì giữa những con vật kia, những núi băng kia với nhau, liệu có tồn tại một loại phương thức câu thông khác hay không? Và giữa trời đất này, liệu có tồn tại một vị chủ nắm giữ mọi thứ hay không?

Đang lúc nghĩ vậy, cô đột nhiên nghe thấy hình như có người hét lên rằng thuyền kayak lật rồi, cô thất kinh quay đầu nhìn ra xa theo hướng có tiếng hét, con thuyền kayak như đang muốn lật đến nơi, những người quanh thuyền đều đang kêu gào. Vào đúng thời khắc then chốt này, cô trông thấy một vị Thần từ trên trời hạ xuống, nhẹ nhàng phất tay một cái, chiếc thuyền kayak phục hồi nguyên trạng. Thấy được mọi người đều an toàn, vị Thần kia lập tức biến mất.

Chuyện này làm cô hết sức kinh ngạc. Cô càng cảm thấy rằng trời đất này khẳng định là có tồn tại vị Thần chủ tể của vạn vật.

Vì đại nạn không chết, những người lớn sau khi trải qua chuyện này quay về, việc đầu tiên là ăn mừng một trận, sau đó mời thầy phù thủy đến xem lý do vì sao xuất hiện nguy hiểm. Thầy phù thủy làm phép xong nói với mọi người rằng: “Gần đây, mọi người không thành tâm kính Thần như trước, đã có phần đặt nặng việc săn bắt kiếm sống rồi”. Sau khi nghe câu trả lời, mọi người cũng biểu đạt thái độ rằng cần triệt để cải chính những việc trước đây đã làm sai, đối với Thần linh cần phải dùng phương thức thành kính hơn mà đối đãi.

Sự việc xảy ra lần này đã cho cô mở mang tầm mắt về lực lượng của Thần, trong tâm dấy lên một sự kính úy sâu sắc và mong mỏi đối với Thần. Thậm chí còn nghĩ rằng mình muốn trở thành một vị Thần có khả năng bảo hộ vạn vật, cho dù chỉ là Thần bảo hộ cho bộ lạc nhỏ bé này thôi thì hẳn cũng quá tốt rồi!
Có một lần, cô lại ngồi trong lều băng nghĩ đến những vấn đề như thế, thì nghe có người la to: “Mau đến xem, giữa đêm tối đen kịt thế này mà trên trời lại có hào quang mỹ diệu quá!” (Chính là hiện tượng mà ngày nay chúng ta gọi là Cực quang)

Vì ở đây rất hay bắt gặp loại hiện tượng này nên đối với cô thì hào quang (Cực quang) vốn chẳng có gì lạ lẫm. Nhưng không hiểu vì sao lần này cô mới nghe tiếng mọi người gọi liền chạy ra xem.

Lúc ngẩng đầu lên, cô hoàn toàn kinh ngạc đến ngây người: Loại ánh sáng này trông hệt như những con sóng xô nhau phía đường chân trời, phát ra hào quang rực rỡ chói lòa. Trông như thể bút vẽ của Thần Tiên đang khắc họa nên một bức tranh sinh động đầy màu sắc vậy. Quay đầu nhìn lại hoàn cảnh sinh tồn của bản thân mình và bộ tộc, nếu đem so sánh với “cuộn tranh” đầy màu sắc kia thì không biết là đơn điệu gấp bao nhiêu lần. Thời khắc này, cô lại càng ao ước có được trạng thái của Thần Tiên.

Điều thú vị là từ lần cô nhìn thấy Cực quang này, vết tròn phát ánh kim ở chỗ giữa hai lông mày cô lại dần dần mờ đi. Qua mấy năm sau đã biến mất hẳn nhìn không thấy gì nữa. Người nhà thấy vậy, bèn gấp gáp mời thầy phù thủy về coi xem vì sao lại xuất hiện tình huống này.

Thầy phù thủy xem qua cả nửa ngày, cuối cùng nói: “Có thể hài tử này là mang theo một loại ký hiệu mà tới, một vị Thần Tiên nào đó sợ rằng khi thời điểm đến vị ấy tìm không ra cô bé nên đã cố ý làm ra ký hiệu này, hiện giờ vị Thần Tiên ấy cuối cùng đã tìm ra cô bé rồi, ký hiệu cũng không còn cần nữa nên đem thu hồi lại”.

Câu chuyện này khiến cô và cả những người xung quanh đều có chỗ không hiểu rõ hoàn toàn, nhưng cũng không tiện hỏi thêm nhiều.

Một lần nọ đúng hôm cô một mình đi ra ngoài, chưa đi được bao xa thì bắt gặp một người, người này trước đây cô chưa từng gặp qua, nhưng lại có cảm giác rất đỗi thân quen, chỉ nghe thấy người ấy nói: “Chẳng phải trước giờ con luôn muốn trải nghiệm cảm giác được làm Thần Tiên hay sao? Vậy tương lai con sẽ chuyển sinh vào một gia đình người da trắng, tại đó mà đắc được một phương pháp có thể chân chính tu thành Thần”.

“Tại vùng đất giá rét khắc nghiệt này, con và bộ tộc của mình về cơ bản đã bảo trì được phẩm chất thiện lương, kiên trì, cũng lưu lại kinh nghiệm và kiến chứng lịch sử về phương thức sinh tồn của toàn bộ nhân loại trong các hoàn cảnh khác nhau”. Nói xong, người ấy liền biết mất.

Sau khi quay về nhà, cô cẩn thận suy xét lại dung mạo và những lời nói của người ấy, đột nhiên trong chớp mắt liền nhớ ra: “Người này chẳng phải chính là vị Thần Tiên đã cứu con thuyền kayak vào ngày hôm đó hay sao?”. Nghĩ tới đây, cô cao hứng đem hết những gì mình gặp, mình thấy kể lại cho mọi người trong bộ tộc nghe, mọi người hết sức kinh ngạc và luôn miệng tán thưởng, ai nấy đều cảm thấy cô đúng là phúc tinh của bộ tộc này. Một người lớn tuổi nói: “Nếu như tương lai con thực sự chuyển sinh vào một gia đình có thể gặp được phương pháp tu thành Thần, con nhất định không được quên chúng ta nhé!”. Cô bé cười nói: “Nói không chừng có ai đó trong số mọi người đây lại tìm được phương pháp chân chính tu thành Thần trước con ấy chứ?!”.

Đây chính là:

Bắc địa băng hải khổ tránh trát
Ngưỡng vọng dạ không hiện quang hà
Thần Tiên giáng thế vi điểm ngộ
Vi kết Pháp duyên chuyển thiên nhai!

Dịch nghĩa:

Gian khổ vẫy vùng ở biển băng nơi Bắc Cực
Ngước nhìn bầu trời đêm xuất hiện ánh sáng
Thần Tiên giáng xuống để điểm ngộ
Vì kết Pháp duyên mà chuyển sinh tới tận chân trời!

Chú giải: Ý nghĩa của câu cuối cùng là bởi vì để đắc được Đại Pháp đã nhiều lần chuyển sinh đến các gia đình, chủng tộc, dân tộc và đất nước khác nhau.

 

Xem tiếp phần 4.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239056

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 3) – Biển băng ở Bắc Cực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 2) – Cánh rừng bao lahttps://chanhkien.org/2020/04/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-2-canh-rung-bao-la.htmlFri, 03 Apr 2020 10:37:02 +0000https://chanhkien.org/?p=26135Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục   [ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1. Khoảng 20 năm trước tôi có gặp một vài người tu luyện đến từ vùng cực Bắc của Đại Lục. Vào thời điểm ấy (cuối những năm 90 của thế kỷ 20), họ vẫn mặc loại quần áo […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 2) – Cánh rừng bao la first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

 

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 1.

Khoảng 20 năm trước tôi có gặp một vài người tu luyện đến từ vùng cực Bắc của Đại Lục. Vào thời điểm ấy (cuối những năm 90 của thế kỷ 20), họ vẫn mặc loại quần áo đã lưu hành từ những năm 70, đều đã bạc màu, cổ áo có mấy vết sờn rách. Hồi đó có rất nhiều người đến từ những vùng khác nhau, rất nhiều người tôi cũng không tới bắt chuyện với họ, sau này không có cơ hội gặp lại họ nữa.

Vậy mà không hiểu sao đã ngần ấy năm qua đi, ký ức về lần gặp gỡ ấy vẫn in sâu trong tâm trí, vẫn chưa hề quên…

Nhân cơ hội này, tôi viết lại một chút quá trình tìm Pháp ở đời trước của một người trong số họ.

Vào triều Minh, người tu luyện ấy (A Tùng) chuyển sinh tại vùng ngoại biên núi Hưng An.

A Tùng từ bé đã theo cha học săn bắn. Thời ấy trình độ văn minh nơi này còn rất thấp, hơn nữa vì sống trong núi thời gian lâu nên những sự tình mà cậu biết được về thế giới bên ngoài cực kỳ ít ỏi. Nếp sống rất thuần phác.

Năm cậu 10 tuổi, trong một lần theo cha đi săn, con mồi chạy đi rất xa rất xa, họ cũng đuổi theo rất xa rất xa, chẳng may lần ấy có một trận sương mù lớn giăng xuống núi. Màn sương vô cùng dày đặc, lại ở chỗ núi cao rừng sâu, nên hai cha con bị lạc đường, hoàn toàn không còn cảm giác phương hướng nữa. Trời chuyển sắc tối, cha con A Tùng không còn cách nào khác đành tìm một chỗ trú nghỉ qua đêm.

Bởi họ đã quen sống nơi rừng rậm, nên những chuyện này không thể làm khó hai cha con A Tùng. Họ chặt mấy cành khô xếp lại làm giường, lại lấy ít cỏ cây khô nhóm lửa bên cạnh rồi an nhiên đi ngủ.

Ngày hôm sau, sương mù đã sớm tản đi, hai cha con dựa vào kinh nghiệm nhiều năm sống trong rừng rậm, đầu tiên phân biệt phương hướng, rồi sau đó từ từ lần tìm đường về nhà.

Trong quá trình này, hai cha con đứng từ phía xa đã chứng kiến cảnh hổ dữ tàn nhẫn xé xác con mồi, trên đường đi còn bắt gặp xác một người thợ săn đã chết, hài cốt thân thể rải trên mặt đường, dụng cụ săn lăn lóc một bên.

Đối với A Tùng mà nói, những chuyện ấy vốn đã thấy nhiều thành quen, nhưng không hiểu sao lần này lại dấy lên trong đầu cậu rất nhiều suy nghĩ: Sinh mệnh vì để sinh tồn mà phải tàn sát lẫn nhau ư? Lẽ nào con người phải sống trong rừng rậm cho đến lúc chết? Sương mù mới dày lên một chút đã có thể khiến người ta lạc đường, từ thiên thượng mà nhìn, năng lực kia của con người thật quá ư nhỏ bé, quá ư nhỏ bé.

Khi cha con A Tùng cuối cùng cũng về được đến nhà, mẹ cậu kể lại rằng hôm qua cả đêm không thấy hai cha con về nên bà đã rất lo lắng, sau đó đi ngủ thì mơ thấy một người dáng vẻ như bé gái, bay đến nói với bà rằng hai cha con sẽ quay về thôi, để bà yên tâm.

A Tùng vừa nghe trong tâm đã chấn động, cảm thấy sinh mệnh rõ ràng còn có thể có một phương thức tồn tại khác. Chuyện cha con cậu bình an trở về, làm sao có người biết trước, lại còn đem nói cho mẹ cậu, dẫu là trong mơ?

Kể từ đó bất kể làm chuyện gì, A Tùng cũng đều chú ý tìm hiểu mọi phương diện, suy ngẫm xem liệu con người có thể mang một phương thức tồn tại khác hay không.

Một lần nọ cậu đi săn, trông đằng xa thấy có hai người kết bạn đồng hành, họ vừa đi chưa xa thì một con mãnh hổ đột nhiên nhảy tới, nó lao đến vồ một người xuống đất rồi ngay lập tức cắn chết, ăn thịt người này. Người bên cạnh sợ đến chết trân, hoàn toàn không còn chút năng lực phản kháng hay bỏ chạy nào nữa. Thế nhưng lão hổ quay sang nhìn người này một chút, rồi không những không ăn thịt anh ta, trái lại còn quay đầu một mạch đi mất.

Thấy được chuyện này, trong tâm A Tùng càng thêm nghi hoặc: “Tại sao lão hổ lại có thái độ đối đãi khác nhau với hai người?”. Mãi rất lâu sau đó, vấn đề này vẫn cứ vấn vít trong đầu cậu, không sao gạt đi được.

Có một lần cậu đang đuổi theo con mồi thì trượt chân ngã xuống khe núi, một bên chân phải bị thương, không cách nào thoát ra được. Đúng lúc ở vào tình cảnh tuyệt vọng thì một ông lão râu trắng không biết từ đâu tới cứu cậu.

Ông lão tự xưng là người hái thuốc ở vùng này, nhưng nhìn thì biết ông đã sớm qua trăm tuổi rồi.

Trong lúc ông lão đắp thuốc lên vết thương trên chân phải của A Tùng, cậu cẩn thận quan sát ông, luôn cảm thấy ông không thể nào là người hái thuốc thông thường.

Đương lúc nghĩ đến đó, đột nhiên trong đầu xuất ra một niệm: Sao không đem hết những băn khoăn bấy lâu ra thỉnh giáo ông lão một lượt nhỉ, nếu có thể giải khai được thì chẳng phải quá tốt sao?!

Thế là cậu đem hết những điều thường ngày vẫn nghi hoặc khó hiểu ra thỉnh giáo, nhất là chuyện con người ta có thể sống mà không bị tự nhiên chế định hoặc chỉ bị chế định rất ít hay không, có thể tự tại một chút không và cả chuyện lão hổ vì sao ăn thịt người này mà không ăn thịt người kia v.v…

Ông lão mỉm cười: “Sinh mệnh chỉ có thể hành sự thuận theo một đạo lý của một trạng thái nhất định”. Nói xong không mở lời thêm lần nào nữa.

Câu nói này làm A Tùng nghĩ một hồi không thấu, nhưng vì ông lão không nói thêm gì nữa nên cậu cũng không tiện hỏi nhiều.

Qua đi mấy ngày, lúc A Tùng nhìn ông lão thay thuốc cho vết thương của mình, chợt thấy thuốc dường như cũng có chút khác biệt.

Sự việc này làm cậu nhớ đến câu nói trước đó của ông lão, dường như đã minh bạch ra được một chút rồi. Lại qua vài ngày nữa, chân của A Tùng đã lành lại gần hết. Định tới cáo biệt ông lão, cũng có ý muốn cảm tạ. Lúc từ biệt, ông lão nhắc lại câu nói ấy lần nữa: “Sinh mệnh chỉ có thể hành sự thuận theo một đạo lý của một trạng thái nhất định”. Nghe những lời này A Tùng dường như đã sáng tỏ vấn đề, cao hứng nói: “Lão nhân gia, lời của ngài chính là nói: con người mang trạng thái và các loại năng lực mà con người ở nhân gian nên có, hổ không phải ai cũng đều ăn thịt, mà cứu con cũng là nhờ năng lực của ngài, đúng không ạ?”. Lão nhân mỉm cười: “Không hoàn toàn đúng cũng không hoàn toàn sai, nếu như muốn tìm ta thì đúng sáu năm sau con hãy đến bờ bên kia của cửa sông Hắc Long Giang, khi ấy ta có mấy việc cần làm ở nơi này”.

Nói xong ông lão cứ vậy đi mất, cũng chẳng ngoảnh đầu lại. Để A Tùng đứng trân trân ở đó, thất thần cả nửa ngày…

Kể vắn tắt một chút, trong mấy năm sau này, A Tùng trải qua rất nhiều sự tình, cũng có rất nhiều suy tư về nhân sinh, thế nhưng thuận theo kinh nghiệm càng phong phú, thì bối rối mà cậu mang theo cũng càng nhiều. Cậu mơ hồ cảm nhận rằng một đời của người ta dường như đều đã được an bài rồi.

Đặc biệt trong mấy năm này, có hai lần mẹ cậu lại nằm mơ thấy bé gái kia bay đến nói cho bà sự tình nào đó. Đều rất chuẩn xác.

Một lần trong lúc hai mẹ con A Tùng đang trò chuyện, mẹ cậu cũng nói không biết bà với cô bé trong mộng kia có duyên phận gì mà cô bé lại muốn giúp đỡ bà như vậy. Kể cũng lạ, ban ngày vừa nói với con trai, ban đêm bà đã chiêm bao thấy một giấc mơ còn kỳ lạ hơn: Mơ thấy mình ở trong một cung điện to lớn, nguy nga tráng lệ, trên đầu còn đội vương miện, mà người tì nữ thân cận nhất đang đứng bên cạnh chính là cô bé kia. Sau đó bởi vì có một sự việc bà làm không tốt nên bị thiên thượng phạt xuống trần gian chịu khổ, nhưng mà cô bé kia không đành bỏ mặc bà, hễ bà gặp phải chuyện nghĩ không thông liền đến khuyên giải.

Nghe mẹ kể lại giấc mơ ấy, trong tâm A Tùng lại càng thêm phức tạp bối rối: Sinh mệnh nguyên lai vốn có phương thức sinh tồn tốt hơn hẳn, vì phạm lỗi mà chịu phạt tới nhân gian, sinh mệnh kia làm thế nào mới có thể quay về lần nữa? Liệu có khả năng quay về một lần nữa hay không? Liên hệ lại chuyện lão hổ đối đãi khác nhau với hai người kia, có thể nói, hai sinh mệnh này nhìn bề mặt có thể không khác nhau là mấy, nhưng về bản chất khẳng định có sự khác biệt rất lớn. Nếu không lão hổ sẽ không thể đối đãi hai người khác nhau như thế.

Để đến kịp “lời hẹn sáu năm” thì trước đó một năm A Tùng đã lên đường. Vì trước giờ chưa từng đi xa nhà nên cậu không tìm được đường, đành phải vừa đi vừa hỏi, ra được đến bờ sông Hắc Long Giang thì từ từ đi bộ xuôi dòng (Cậu nhìn thấy thuyền là chóng mặt, một mạch không dám bước lên).

Thật không dễ dàng mới đến được gần cửa sông Hắc Long Giang, mặt sông ở đây rất rộng, lại không có cây cầu nào. Chỉ có thuyền, cậu vẫn không dám lên. Sự tình lần này đã có thể khiến cậu buồn bã rồi, xem chừng thời gian hẹn gặp đã đến, giờ không biết nên phải làm thế nào đây?

Lúc này cậu càng thấm thía: trước chế ước của tự nhiên, con người quả thật quá nhỏ bé, quá khiêm tốn. Cậu bắt đầu thấy ghen tỵ với mẹ mình, mỗi lần bà buồn khổ trong tâm, đều có cô bé kia xuất hiện, còn bản thân cậu những lúc khó khăn sao chẳng ai tới giúp?

Vừa lúc nghĩ thế, không biết từ đâu xuất hiện một con gấu đen, nó vừa ngoạm ngang người cậu liền nhảy ùm xuống lòng sông, cậu giật mình kinh hãi, cảm thấy tính mạng gặp nguy hiểm, liền ra sức tay cào chân đạp. Một hồi vùng vẫy qua lại liên tục như vậy, tới lúc gấu bơi đến giữa sông thì cậu đã chẳng còn chút hơi sức nào, đành phó mặc cho gấu đen ngậm mình qua sông.

Sang đến bờ bên kia, gấu đen nhẹ nhàng thả cậu xuống rồi quay lưng bỏ đi. Lúc này cậu sớm đã bị dọa chết ngất rồi.

Không lâu sau cậu được mấy người đánh cá đến cứu, giờ cậu mới hiểu: Thì ra gấu đen ngậm mình vào miệng là để đưa mình qua con sông Hắc Long Giang này.

Sau đó cậu gặp được ông lão đúng thời điểm như đã hẹn, ông lão cười ha ha: “Người có huệ căn, thiên thượng khắc giúp”.

A Tùng vừa nghe vừa hỏi ông lão rất nhiều vấn đề, đặc biệt là việc mẹ cậu có thể chiêm bao thấy nhân duyên với cô bé kia, cũng hỏi về việc sinh mệnh kể cả sau khi đã bị thượng giới phạt xuống phàm trần rồi thì liệu có thể quay về lại hay không.

Lần này ông lão thành thực nói: “Thiên thượng có đức lành, trân quý muôn vạn chúng sinh trong thế tục, cũng cảm thấy sinh mệnh trong thế tục này rất khổ sở, rất khó khăn. Nhưng có rất nhiều sinh mệnh bởi trước đây đã phạm tội mà bị phạt xuống trần gian, vậy chính là phải ở tại nhân gian mà chịu khổ. Có người ở nhân gian vẫn còn bảo trì được bản tính thiện lương, sẽ có Thần phù trợ, mà tuy vậy có người lại đã hoàn toàn mê mất tâm tâm trí rồi. Thiên thượng sẽ an bài mãnh thú hoặc thiên tai nhân họa để cảnh tỉnh những người tâm trí đã bị mê ấy. Vậy nên lão hổ mới đối đãi hai người kia khác nhau, vậy nên gấu đen mới có thể đem con qua sông.

Sinh mệnh nếu muốn quay trở về nơi nguyên lai trên thiên thượng, một mặt cần phải ở nhân gian mà làm việc tốt, mặt khác chính là cần tìm được một phương pháp tu hành.”

Nghe đến đây, A Tùng vội hỏi: “Lão nhân gia, người có thể cho con biết phương pháp tu hành có thể quay về thiên giới ở đâu không?”. Lão nhân nhìn cậu một chút, chân thành nói: “Quanh vùng này có rất nhiều cao nhân đã ẩn cư nhiều năm, mỗi người họ đều có phương pháp tu hành của riêng mình. Ta đã từng hỏi họ liệu có muốn thu nhận con làm đồ đệ hay không, họ đều nói ‘Không dám!’”.

A Tùng nghe xong vô cùng kinh ngạc: “Vì sao mấy vị cao nhân ấy lại nói như vậy?”

Lão nhân từ tốn trả lời: “Bởi vì họ biết được tương lai con sẽ là đệ tử của ai!”

“Ai ạ?” – A Tùng gặng hỏi.

“Đợi đến khi con tìm được phương pháp tu luyện có thể phổ truyền khắp thiên hạ ấy, con sẽ biết”.

“Vậy tương lai làm thế nào con mới có thể tìm được pháp môn tu luyện này?”

“Phương pháp tu luyện ấy có một đặc điểm, chính là có mang theo một thứ hình tròn với rất nhiều màu sắc bên trong, hơn nữa còn có thể chuyển động. Đến khi ấy con tự khắc sẽ biết thôi”.

“Vậy giờ con phải làm sao đây?”

“Ta sẽ truyền cho con một số đạo lý đơn giản về phương diện tu hành mà ta biết, đến khi con chân chính tiến nhập vào phương pháp tu hành kia, con cần phải triệt để quên hết tất cả những gì ta đã nói cho con, nhất thiết phải nhớ, nhất thiết phải nhớ lấy điểm này!”

Vậy là lão nhân nói cho A Tùng một số đạo lý về phương diện tu hành. Bởi vì A Tùng có căn cơ rất tốt nên tiếp thu và lý giải cũng rất nhanh. Sau đó lão nhân đưa A Tùng đi gặp một số bằng hữu trong tu luyện, những người này đều đối với A Tùng rất tốt, còn nói: “Nếu như sau này A Tùng đắc được phương pháp tu luyện có thể phổ truyền khắp thiên hạ, nhất định phải nói cho chúng ta một tiếng nhé”.

A Tùng gật đầu đồng ý…

Đây chính là:

Tư tác cao san mật lâm gian
Khát vọng đắc Pháp trùng hồi thiên
Cơ duyên xảo hợp ngộ Thần điểm
Kim triêu liễu nguyện chú chân Tiên!

Dịch nghĩa:

Trong rừng sâu núi cao mà suy tư
Mong ngóng đắc Pháp quay về trời
Cơ duyên trùng hợp được Thần điểm hóa
Nay đã đạt ước nguyện đúc thành chân Tiên!

 

Xem tiếp phần 3.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/239055

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 2) – Cánh rừng bao la first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 1) – Bố lữ hồng trần https://chanhkien.org/2020/01/luan-hoi-ky-su-gian-kho-tim-phap-phan-1-bo-lu-hong-tran.htmlSun, 12 Jan 2020 07:28:31 +0000https://chanhkien.org/?p=25767Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Lời giới thiệu Làm một sinh mệnh có thể gặp được Pháp trong đời này mà nói, thì tại kiếp trước hoặc có thể là hằng bao nhiêu kiếp trước đều đã từng phải kinh qua một quá trình tìm Pháp theo nhiều […]

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 1) – Bố lữ hồng trần  first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Lời giới thiệu

Làm một sinh mệnh có thể gặp được Pháp trong đời này mà nói, thì tại kiếp trước hoặc có thể là hằng bao nhiêu kiếp trước đều đã từng phải kinh qua một quá trình tìm Pháp theo nhiều cách khác nhau. Và cũng chỉ có một kiếp này mới có thể gặp được Pháp, mới có thể đắc Pháp.

Chúng ta quay đầu nhìn lại con đường kiếm tìm Pháp đằng đẵng qua bao nhiêu kiếp, chính là để đời này có thể càng trân quý hơn cơ duyên tu luyện không dễ gặp, là để kiếp này có thể thật sự tu luyện thật tốt, thực hiện thật tốt.

Bài viết này thuộc loạt bài về luân hồi, dùng phương thức ký sự kể lại những trải nghiệm gian khổ trong quá trình tìm Pháp của các nhân vật chính trong tiền kiếp. Tại đời này họ đến từ những chủng tộc, dân tộc, địa khu khác nhau. Tại đây tôi muốn dùng phương thức “dĩ điểm đới diện” [dùng điểm mà tả diện] để hoàn thành loạt bài viết. Trải nghiệm của họ trong hành trình tìm Pháp tại một hay nhiều kiếp trước, có những sự việc mang màu sắc huyền thoại, thậm chí siêu việt đến mức khó tin.

Độc giả trong quá trình đọc cần chú ý một vấn đề: Bài viết này dù là dùng phương thức ký sự mà kể lại, nhưng suy cho cùng những điều được ghi chép cũng đều là chuyện quá khứ, chúng ta biết rằng các sự việc trong quá khứ đều do các sinh mệnh thuộc cựu vũ trụ kia an bài, căn bản không đạt tới tiêu chuẩn thuần tịnh của vũ trụ mới. Bởi vậy tại đây khẩn thiết mong các độc giả là người tu luyện nhất định đừng đặt nặng những chuyện này, nếu không sẽ bị an bài của cựu sinh mệnh chi phối. Chúng ta chỉ cần xem như là chuyện kể mà đọc là được rồi. Nắm được tinh thần chính của bài viết: Trong quá khứ đã phải nếm trải nhiều khổ cực đến thế, phải nhẫn chịu khuất nhục lớn đến vậy, cũng chỉ vì để đời này có thể đắc Pháp, cho nên đời này chúng ta đều đã đắc được Đại Pháp vạn cổ khó gặp, chính là không có lý do gì để không thực hiện cho tốt.

Cá nhân tác giả thiết nghĩ, là một bài viết về luân hồi thì điểm cốt yếu chính là nêu bật được chủ đề sinh mệnh “vì Pháp mà đến”. Từ đó mới có những sinh mệnh kiếm tìm Pháp, các sinh mệnh kết duyên cùng Sư phụ, sinh mệnh này kết duyên cùng sinh mệnh khác để tại thời điểm này có thể cùng nhau nỗ lực, cùng nhau thực hiện thật tốt.

Còn có một điểm cần làm rõ trước là người viết chưa từng gặp hay quen biết các nhân vật chính trong câu chuyện.

Cuối cùng phải nói rằng: Suy cho cùng do tầng thứ bản thân có hạn, năng lực có hạn, trí huệ cũng có hạn, vậy nên trong quá trình viết bài, khẳng định có chỗ sai sót và mang tính cuộc hạn, hy vọng độc giả có thể chỉ giáo. Xin cảm ơn trước.

Bố lữ hồng trần (mang theo tấm vải mà chu du trong cõi hồng trần)

Có đồng tu kể với tôi rằng, tại kiếp này, nhân vật chính trong bài viết gặp phải ma nạn rất lớn từ gia đình, vì cô tu luyện nên chồng con gây ra nhiều trở ngại, có nhiều lúc cô cảm thấy rất khó khăn không biết phải làm sao. Việc cô nên đối đãi với can nhiễu từ chồng con như thế nào trong quá trình tu luyện là thuộc về phạm trù thể ngộ tu luyện, tại đây chúng ta không bàn đến phương diện ấy. Bài viết này chỉ đơn giản nói một chút về quá trình từ trước của cô, vì để tìm Pháp đã phải kinh qua những gì.

Cuối triều nhà Thanh, cô xuất thân trong một gia đình dòng dõi Trung Y, cũng là con gái duy nhất, cha mẹ cô hành nghề y tại kinh đô nên gia cảnh hiển nhiên giàu có. Trên cô còn có một người anh trai hơn cô ba tuổi. Năm cô lên tám, cha mẹ đột nhiên phát hiện cô bắt đầu rụng tóc, không chỉ rụng tóc mà trên đầu còn phát nhọt, thường hay bưng mủ. Cha mẹ cô tuy có y thuật cao minh, nhưng dùng hết đủ loại phương pháp cũng vô tác dụng. Không còn cách nào, họ đành đưa cô tới khám những danh y khác trong vùng. Các thầy thuốc khám xong đều nói rằng bệnh của đứa trẻ này rất kỳ lạ, họ cũng không biết chữa trị ra sao.

Sau này trong một lần trên đường đi khám, đang lúc họ nghỉ chân tại một ngôi chùa thì vị sư trụ trì của chùa tới, ông mới nhìn qua một chút đã lo lắng nói: Bệnh của đứa trẻ này nếu không kịp thời chữa trị tốt thì e là chẳng những kiếp này khó giữ mạng, mà còn liên lụy đến mấy kiếp nữa!

Mẹ cô nghe như có ẩn ý trong lời của trụ trì, liền gặng hỏi: “Lẽ nào cao tăng có thể nhìn ra được nguyên nhân vết nhọt trên đầu con gái chúng tôi?” Vị sư già đáp: “Ta nhìn được cũng không thật thấu triệt, không thể nói rõ, nếu như con gái ông bà có thể gặp được một người thì tương lai có thể dựa vào “bán” vải mà chữa khỏi cái nhọt trên đầu. Nếu như không gặp được người ấy, vậy chẳng những tính mệnh khó giữ, mà còn liên lụy đến việc chuyển sinh sau này.” Cha mẹ cô nghe xong cảm thấy mơ hồ trong tâm, vội vàng xin cao tăng tiếp tục minh thị. Nhưng vị tăng không để ý đến họ, đã chậm rãi đi vào hậu đường.

Mẹ cô thấy ánh mắt thất vọng của chồng, đành an ủi: “Chẳng phải trụ trì đã nói con gái chúng ta tương lai có cơ hội trị khỏi nhọt hay sao!” Cha cô lẩm bẩm: “Bán vải có thể trị được nhọt đầu, đây là loại đạo lý gì chứ? Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ xem xem lời trụ trì nói có thành sự thật hay không…”

Từ lúc rời ngôi chùa nọ quay về, vết nhọt của cô có phần bớt đau, nhưng thi thoảng cơn đau lại tái phát, tóc trên đỉnh đầu cứ rụng dần, người nhà rất lo nhưng cũng chẳng có cách nào.

Năm cô 12 tuổi, cha cô vì khám bệnh cho một vị tiểu thiếp nhà quan lại mà sau đó bị vu oan, giam vào đại lao rồi bị tra tấn đến chết (người vợ cả vì ghen tuông đã trộn độc vào thang thuốc hại chết người tiểu thiếp, vị quan khăng khăng đẩy trách nhiệm lên đầu cha cô). Mẹ cô sau đó cũng bị bệnh mà mất. Anh trai cô được một người họ hàng xa đem về nuôi, còn cô vì mang nhọt trên đầu nên không ai nhận về, cũng chẳng ai buồn giúp đỡ. Không những thế, mấy người trưởng bối trong gia tộc thấy cha mẹ cô mất cả, bèn lấy hết toàn bộ gia sản nhà cô chia nhau. Cô gái nhỏ mới mười mấy tuổi đã bắt đầu phải lưu lạc khắp chốn xin ăn, nếm trải những ngày tháng cơm không đủ ăn áo không đủ mặc.

Một ngày nọ, cô đi bộ cả ngày trong gió rét mà không xin được cơm. Trời chập tối, đến ngôi làng nọ, cô mệt nhoài thiếp đi bên đống cỏ khô. Đang lúc mơ màng, cô ngửi thấy mùi cơm, bất giác mở mắt, cô trông thấy một vị đại thúc vóc dáng cao lớn mập mạp đang cầm bát cơm nhìn cô cười.

Cô ngồi dậy vươn tay ra lấy bát cơm, nhưng vị đại thúc vẫn mỉm cười, cầm bát cơm từ từ đi về hướng đông, cô cũng theo chân đại thúc mà đi suốt cả đoạn đường. Không lâu sau, cô thấy một tòa nhà gạch màu xanh, vị đại thúc bước vào trong và ngồi xuống sảnh. Cô cũng theo vào. Đến bên trong, cô phát hiện có ba đứa trẻ trạc tuổi mình, cả ba ăn vận quần áo không diêm dúa nhưng đều rất gọn gàng.

Thấy cô bước vào, đại thúc sai một đứa trẻ lấy ít nước ấm để cô rửa mặt. Sau đó, lại lấy ra mấy món đơn giản để cô ăn cơm.

Dùng bữa xong, đại thúc gọi người tìm một chiếc váy sạch sẽ cho cô thay, rồi bảo ba bé gái đưa cô về phòng nghỉ ngơi mấy ngày.

Trong mấy ngày sống cùng ba bé gái, cô được biết đại thúc vốn là người có công phu cao, lại rất tốt bụng, ba bé gái này trước đó cũng đều là trẻ mồ côi được đại thúc nhận về nuôi.

Khi ba cô bé biết được vị đại thúc có công phu thì đều muốn bái ông làm sư, đại thúc đã đồng ý rồi nhưng lại nói còn phải đợi một đứa trẻ đặc biệt đến mới có thể dạy công phu cho chúng.

Lúc ba bé gái nhìn thấy vết nhọt dài trên đầu cô, chúng nhận ra rằng “cô gái đặc biệt” rốt cuộc đã đến và cuối cùng chúng có thể học công phu rồi. Vì vậy, ba bé gái đều đối xử với cô đặc biệt tốt.

Vài ngày sau, khi cô cơ bản đã thích nghi với cuộc sống ở đây, vị đại thúc bắt đầu dạy công phu cho bốn cô gái, thi thoảng còn có các tỉ muội của đại thúc tới giúp.

Bởi vì các cô đều còn rất bé, vậy nên trước tiên dạy một chút công phu về phương diện tu dưỡng đạo đức. Cơ bản đều thuộc loại nội gia công.

Đợi đến khi cô 16 tuổi, một ngày nọ, sư phụ và sư cô gọi mấy người họ tới trước mặt. Sư phụ cô nói: Nữ hài tử có vết nhọt trên đầu trong đời trước vì lỡ lấy Pháp khí đánh lên đầu một vị Thần mà kết ác duyên, nên đời này chuyển sinh đến nhân gian, dùng vết nhọt trên đầu làm phương thức trả nợ. Tuy nhiên, nữ hài tử này cũng có duyên với một vị Giác giả, người tương lai sẽ đến nhân gian truyền Đại Pháp vạn cổ khó gặp, cho phép con người có thể tu thành mà không cần xuất gia. Ta nhìn ra nhân duyên này, vì vậy mới mang nữ hài tử này về đây, giúp hài tử ấy đặt nền tảng cơ bản cho việc tu hành. Cách tốt nhất để tương lai gặp được Giác giả truyền Đại Pháp vạn cổ khó gặp, là có thể tìm được vị ấy trong đời này, còn cần kết duyên phận, như thế tương lai sợi chỉ định mệnh này mới có thể dẫn dắt một cách chắc chắn nhất.

Nói tới đây, vị sư phụ lấy một cuộn vải từ trong chiếc hòm và mở ra một phần cho các cô gái xem: Chỉ thấy trên mặt tấm vải cách một vài thước lại vẽ những cảnh chim muông thú rừng, cảnh vật đường phố, cảnh đền đài miếu mạo v.v. Có tất cả 10 bức tranh kích thước to nhỏ khác nhau.

Nhìn vẻ mặt nghi hoặc khó hiểu của các cô gái, sư phụ của họ mỉm cười, lấy cuộn vải (cũng chính là cuộn tranh) giao cho cô gái có nhọt trên đầu và nói một cách nghiêm túc: “Từ giờ con hãy nhận lấy cuộn vải này và đi tìm người có thể hiểu được ẩn ý chân chính của 10 bức họa bên trong, sau đó hãy hỏi người ấy cho ra vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp đời này đang ở đâu, con còn cần kết duyên cùng Ngài. Thuận theo quá trình này, vết nhọt trên đầu con sẽ dần dần chuyển biến tốt hơn, cuối cùng sẽ lành lại”.

Nói xong, vị sư phụ quay lại nhìn ba cô gái còn lại: “Bởi vì các con tại đời này vẫn còn một số duyên phàm chưa dứt, nên ta vẫn phải đưa các con lần lượt quay lại hồng trần để các con kết thúc những nhân duyên này”.

Ba cô gái đồng thanh nói: “Chúng con cũng muốn đắc được Đại Pháp vạn cổ khó gặp, chúng con cũng muốn tại đời này có thể kết duyên với vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai”. Sư cô của họ đang đứng bên cạnh nói:  “Các con yên tâm. Số mệnh của các con chắc chắn sẽ cho phép các con kết duyên, chỉ là hình thức sẽ khác với hài tử có vết nhọt trên đầu”. “Vậy chúng con yên tâm rồi” – các cô gái nói.

Đã đến lúc từ biệt sư phụ, sư phụ giúp bốn cô gái chuẩn bị mấy thứ đồ dùng cần thiết, sau đó đưa từng người từng người về lại chốn hồng trần.

Chúng ta tạm thời gác lại không nhắc đến ba cô gái kia, chỉ nói về cô gái có vết nhọt trên đầu.

Khi đã là thiếu nữ, một lần nữa phải quay lại chốn hồng trần, ban đầu cô cảm thấy rất khó chịu. Thời cuộc đang lúc hỗn loạn, thiên tai xảy ra khắp nơi. Biết đến đâu để tìm người hiểu được hàm nghĩa của những bức tranh đây?! Chưa kể đến người ta nhìn thấy cô có nhọt trên đầu, còn thấy cô bị hói, ai nấy đều sợ hãi tránh xa không dám lại gần, nói chi đến người đàm luận với cô về các bức tranh.

Lúc ấy vừa đúng vào mùa thu, vậy nên cô xoay sở làm được một chiếc mũ rơm, một là để đội cho mát, một nữa là che được vết loét và chỗ đầu bị hói.

Một lần đương lúc đi bộ mệt rồi, cô tìm đến quán trọ dưới chân một ngọn núi lớn nghỉ lại và hỏi thăm chủ quán liệu trong vùng có cao nhân hiểu được hàm nghĩa của tranh vẽ hay không? Chủ quán vừa nghe xong đã cao hứng đáp: “Không giấu gì cô, tiểu nhị của quán này có người cậu xuất gia là Đạo trưởng đã mấy chục năm rồi, ông ấy sự tình gì cũng thông, phàm là chúng tôi hay những người xung quanh hỏi chuyện, ông ấy đều trả lời được hết, hơn nữa sau này kiểm chứng lại, thấy lời ông ấy nói đều đúng”. Cô nghe xong vô cùng vui mừng nói: “Vậy lúc nào bác dẫn tôi tới gặp vị Đạo trưởng đó một chút đi, tôi có sự tình muốn xin chỉ giáo”.

Nghe cô nói, khuôn mặt chủ quán lộ vẻ bối rối: “Chỉ là gần đây nghe nói Đạo trưởng đi gặp bằng hữu, không biết khi nào mới về”. Cô mỉm cười: “Không vấn đề gì, tôi sẽ ở đây thêm vài ngày nữa”. Chủ quán rất vui, cô ấy cũng trọ lại ở đó.

Trong thời gian hai, ba tháng cô lưu lại quán trọ, nơi này xảy ra bão và lũ lớn. Khoảnh khắc khi bão lũ ập đến, cô thầm cầu trời trong tâm: “Con vì để đi tìm vị Giác giả tương lai truyền Đại Pháp vạn cổ khó gặp mà không quản khó nạn đến kiếm tìm trong chốn hồng trần, hiện giờ tâm nguyện của con chưa thành, vẫn chưa phải lúc chết, xin ông trời rủ lòng thương!”.

Khi cô phát ra ý niệm này từ tận đáy lòng, cả cuồng phong và đại hồng thủy đều qua đi một cách hữu kinh vô hiểm.

Qua hai, ba tháng sau, một này nọ chủ quán trọ vui vẻ đến báo cho cô biết Đạo trưởng đã trở về và hiện đang ở trên núi. “Chỉ là…. Chỉ là…”

“Bác nói gì cơ? Tôi sẽ đi ngay bây giờ, xin bác bảo cho tôi làm thế nào để đến đó”. Cô không đợi chủ quán nói hết, đã nóng lòng muốn ông chỉ đường đi gặp Đạo trưởng.

Chủ quán thấy cô sốt ruột như vậy, lời nói ra miệng rồi lại nuốt xuống, chỉ nói cho cô làm thế nào tìm được Đạo trưởng. Cô nghe xong nhanh chóng lên đường.

Cô vượt mọi chông gai lên được đến đỉnh núi, trông thấy không xa có một túp lều, có lẽ đúng là nơi ở của Đạo trưởng rồi. Thế nhưng khi lại gần cô mới phát hiện ra, giữa chỗ cô đứng và túp lều có một con mương rất sâu ngăn cách. Bên cạnh chỉ thấy có mọc một cây tre to bằng ngón tay cái.

Dù sao chăng nữa, cô cũng đã từng theo sư phụ học nội gia công được bốn năm, tuy đều chỉ là công phu cơ bản, nhưng cô cũng biết sơ sơ một chút về chuyện những người tu hành thường cố ý lập ra một số quan nạn để khảo nghiệm người khác.

Cô quỳ xuống đất một cách cung kính và nói to: “Tại hạ được biết lão gia có thể thông suốt rất nhiều sự việc, vì vậy đến đây bái kiến là có sự tình muốn thỉnh cầu. Xin lão gia gặp mặt tại hạ một chút”.

Chỉ nghe thấy một giọng nói vang lên từ trong túp lều “Vậy hãy theo cây tre tới đây”.

Nghe xong, cô vui mừng đu lên cây tre và nhảy qua con mương sâu. Cô thậm chí không nghĩ đến việc liệu cây tre có chịu nổi trọng lượng của mình không, và liệu cô có rơi xuống mương không. Sang đến bờ bên kia, Đạo sĩ vừa cười vừa bước ra từ căn lều. Cô nhanh chóng bước tới hành lễ và mở cuộn vải. Bức tranh đầu tiên lộ ra, trên mặt vải là hình vẽ bốn con ngựa chạy dưới ánh trăng.

Đạo sĩ chăm chú nhìn bức tranh, qua nửa ngày, ông nói: “Ta hiểu rồi, đây là một hành trình ngày đêm, là ý chí bền bỉ”. Lúc này, bốn con ngựa dường như sống dậy, không chỉ có thể di chuyển mà còn hí lên. Cô biết Đạo sĩ đã nói đúng. Vậy nên cô tách bức vẽ này ta và đưa nó cho Đạo sĩ. Cuối cùng, cô hỏi: “Ngài có biết vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai đời này đang ở đâu không?”. “Ta rất khó nói rõ được vị trí cụ thể, cô có thể hỏi lão sư tỷ của ta. Bà ấy ở Đôn Hoàng, cách đây 1.800 dặm”. Đợi đến lúc cô quay người chuẩn bị đi, Đạo sĩ nói thêm: “Cô sẽ gặp một vài người trên đường đi, người có thể hiểu những bức tranh cô mang theo. Đây cũng là cách mà cô kết duyên với những người đó. Nếu như tại đời này hay trong tương lai, cô thực sự gặp được vị Giác giả sẽ hồng truyền Đại Pháp tại nhân gian, cô không được quên duyên phận từ những bức tranh vải này, cũng nhất định phải báo cho những người này một tiếng, hãy nhớ kỹ, hãy nhớ kỹ!”.

Nghe những lời này, cô vừa nhận sự phó thác, vừa mau chóng từ biệt Đạo sĩ, xuống núi thẳng tiến tới Đôn Hoàng. Những khổ nạn trên suốt đường đi, không cần nói ra cũng có thể tưởng tượng được, nên tại đây chúng ta không kể chi tiết nữa. Ngày đến được Đôn Hoàng, cô đi dò hỏi khắp nơi, cuối cùng cũng nghe nói có nữ Đạo sĩ cư ngụ tại một nơi rất xa tận ngoại ô Đôn Hoàng, cô nghĩ có thể chính là vị ấy rồi. Cô tìm tới nơi, đệ tử của nữ Đạo sĩ nói thật là không may, lão Đạo sĩ đã tịch hóa ba ngày trước rồi. Cô cảm thấy tuyệt vọng, đúng lúc ấy thì người nhà Đạo sĩ nói, vị nữ Đạo sĩ trước khi tịch hóa đã dặn rằng sau khi bà ra đi sẽ có người mang một bức tranh tới đưa cho bà, ý nghĩa của bức tranh là “Bách điểu tề minh” (Trăm con chim cùng hót), nói cho nhân loại biết tương lai sẽ xuất hiện một đại sự kinh thiên động địa. Cô lấy bức tranh vải ra và mở cuộn thứ hai, bên trong là hình vẽ bốn con chim đang hướng lên bầu trời cất tiếng hót. Lúc này, lông của những con chim dường như đang chuyển động, và cô cũng cắt bức tranh ra trao lại cho các đệ tử của nữ Đạo sĩ.

Cô hỏi những người đệ tử này về nơi mà vị Giác giả tương lai sẽ truyền Đại Pháp tại nhân gian đang ở, đệ tử của nữ Đạo sĩ lắc đầu nói chưa từng nghe sư phụ nói qua. Họ trông thấy vẻ mặt tâm tình không tốt của cô, bèn đưa cho cô một ít bạc vụn làm lộ phí, để cô nghỉ lại một đêm rồi lại tiễn cô lên đường. Cô ra đi trong lòng đầy hối tiếc.

Trong lúc lững thững đi giữa một bãi cát vàng, cô chợt nhớ ra có nghe qua người ta nói rằng nơi cao sơn, đáy biển dường như cũng có cao nhân, vậy nên cô quyết định lên núi cao tìm một chút xem sao.

Tại đó cô gặp được một vị cao nhân hiểu được ý nghĩa của bức tranh thứ ba (trong tranh chỉ vẽ mấy sợi lông vũ): Mọi thứ trong cuộc đời đều nhẹ tựa hồng mao, so sánh với lực lượng của Thần thì thật nhỏ nhặt không đáng kể. Vị cao nhân này cũng đang tìm kiếm Giác giả sẽ truyền Pháp tại nhân gian trong tương lai. Vị ấy còn nói cho cô biết tại nơi này thực ra có người sở hữu rất nhiều loại năng lực, còn nói thêm rằng không phải những người có trí huệ, có năng lực đều sống trong núi sâu cốc hẹp.

Thời điểm này, viết nhọt trên đầu cô đã lành lại một nửa. Không lâu sau, ở quán rượu cô gặp được một thương nhân, người thương nhân này đọc được ý nghĩa của bức tranh thứ tư (trên tranh vẽ năm con thú thần: kỳ lân, sư tử, voi, rồng và phượng): Trên thiên thượng sẽ có những sự vật có năng lực hơn nhân gian.

Vào một đêm giông bão, cô lưu lại nhà một người thợ rèn, con gái người thợ rèn đọc hiểu bức tranh thứ năm (Một người mặc bộ đồ nông dân đang cày ruộng): Để có được thu hoạch, cần phải làm việc chăm chỉ, và còn cần biết phương pháp.

Cứ như vậy, bất tri bất giác cô quay về Trung Nguyên lúc nào không hay, khi này, cô đã ở độ tuổi 30, việc tìm kiếm vị Giác giả sẽ truyền Đại Pháp trong tương lai không có chút manh mối. Cô vẫn chưa nản lòng, nhìn lại việc đã tìm được năm người hiểu được các bức tranh, cô nghĩ cứ kiên trì đến cùng, nhất định có thể kết duyên phận cùng vị Giác giả sẽ truyền Pháp trong tương lai.

Trong một ngôi làng dệt lụa ở Trung Nguyên, một vị trưởng làng vừa nhìn thấy bức tranh lụa cô đang cầm trong tay đã biết ngay đó không phải một bức tranh bình thường, liền khẩn nài cô mở ra cho xem một chút. Cô mở một cuộn tranh (năm bức tranh đầu tiên đều đã cắt ra và đưa cho những người có thể hiểu được chúng, có người đưa cho cô một ít lộ phí, nói rằng coi như bán cũng được, tặng cũng được), trên tranh vẽ cảnh đường phố với nào là cửa hàng, quán rượu và một vài người qua lại. Có một người đang nằm trên mặt đất, nhưng những người khác đi qua bên cạnh như thể không nhìn thấy anh ta. Vị trưởng làng trầm ngâm một hồi lâu, cuối cùng hiểu ra rằng: Sự náo nhiệt phồn hoa của thế gian chỉ như mây khói thoảng qua, khi một người chết đi, tất cả những thứ bình thường dù có tốt đến đâu (như bạn bè và những thú vui) đều phải bỏ đi hết. Trong lúc trưởng làng nói, mắt của người đang nằm trong tranh khẽ mở rồi nhắm lại, chớp chớp qua lại như vậy vài lần. Cô cũng cắt bức tranh này ra đưa cho trưởng làng.

Bởi vì trưởng làng lụa rất giàu có, lại vừa đắc được khải thị từ bức tranh, vậy nên bèn tặng cô một số ngân phiếu mệnh giá rất lớn. Giờ thì cô không lo bị chết đói trên đường tìm Pháp nữa.

Lần nọ cô đi vào rừng và gặp một người đang tuyệt vọng tìm đến cái chết chỉ vì chút chuyện nhỏ, cô khuyên giải một hồi người ấy mới chịu từ bỏ ý định tự sát, ngược lại hỏi cô vì sao đi đến nơi này, cô đem đầu đuôi nguyên do kể hết một lượt cho anh ta nghe. Người này tò mò muốn xem qua bức tranh một chút, cô không tiện từ chối, bèn lấy bức tranh thứ bảy mở ra: Một ngôi nhà đơn sơ đang tỏa khói bếp, một đứa trẻ đang chơi thả diều. Người đàn ông nhìn bức tranh hết cả buổi vẫn không hiểu được ẩn ý bên trong. Nhưng vừa khi cô định cuộn bức họa lại, anh ta đột nhiên nói: Ngôi nhà chính là “gia”, đứa trẻ chơi diều chính là “thuận gió”. Ý nghĩa của bức tranh này chẳng phải chính là tất cả mọi sự đều đã có an bài, chỉ có thuận theo thiên ý mới có thể chơi đùa một cách vô tư, mới có cuộc sống chân chính và dễ chịu hay sao? Nói xong, bức tranh này tự nó như muốn được tách ra khỏi cuộn tranh lớn. Cô lại cắt bức tranh này ra đưa cho người đàn ông.

Một lần, cô gặp một văn nhân, vị văn nhân này đang lúc có thể nói là xuân phong đắc ý, con đường hoạn lộ rộng thênh thang, vừa cưới được một người vợ là con nhà có gia thế. Văn nhân này cũng muốn xem bức tranh của cô, cô bèn cho anh ta xem, chỉ có một đôi giày và một con sông lớn, đôi giày đã gần như ướt sũng. Văn nhân mới vừa xem qua đã vui mừng ra mặt, nhưng ngay lập tức trở nên mười phần khiêm cung. Anh ta nói một cách rất cẩn trọng: Xem ra con người ta sống, mọi phương diện đều nên cẩn thận một chút, nếu không, có thể chết bất nguyên do, chết không thấy xác. Anh ta nói xong, dường như nhìn thấy trong tranh có ánh sáng phản chiếu lên mặt sông. Anh ta chủ động muốn xin bức tranh, cô cũng cắt bức tranh đưa cho anh ta.

Còn có một lần cô bị thổ phỉ bắt, sau đó bị áp giải đến nơi chia đồ tụ nghĩa của bọn họ, vào đến sảnh, tên trùm thổ phỉ khăng khăng đòi xem bức tranh trên tay cô. Đó là một bức tranh hết sức đơn giản: Một chiếc máy cắt xương với lưỡi dao dựng ngược lên. Vừa nhìn thấy bức tranh, tên trùm thổ phỉ lập tức hạ lệnh cởi trói cho cô rồi quỳ xuống: “Xin cô hãy tha tội, tôi cũng chỉ là vì tình hình năm nay đói kém quá. Bức tranh này rất rõ ràng, kẻ cầm dao cuối cùng lại tự hại chính mình. Từ nay trở đi ai nói thế nào tôi cũng không dám làm những việc bất hảo này nữa.”

Lúc này, vết nhọt ở đầu của cô gần như đã lành lại, chỉ có tóc là vẫn chưa mọc kín.

Thời điểm ấy, cô đã gần 60 tuổi, bức tranh cuối cùng vẫn chưa có người hiểu được.

Một ngày nọ, cô đi bộ đến lúc cảm thấy thực sự rất mệt, bèn nghỉ lại một quán trọ nhỏ, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi, trong mộng, cô nhìn thấy có rất nhiều hòa thượng và ni cô đi ra từ trong núi sâu hoặc chùa chiền, họ đi đến một nơi rộng lớn, nguy nga, tráng lệ và tu hành cùng với những người phàm. Tỉnh giấc, cô lấy bức tranh cuối cùng mở ra xem, trong đó vẽ cảnh hai nhà sư đang đi ra khỏi chùa, bên cạnh có một vài người phàm đang ngồi trong nhà đả tọa.

Nghĩ lại cảnh tượng trong giấc mơ, cô đột nhiên minh bạch ra, bức tranh cuối cùng này chẳng phải chính là thời điểm Đại Pháp truyền tại nhân gian trong tương lai hay sao! Trong thế tục mà hồng truyền Đại Pháp, đồng thời những hòa thượng và ni cô vốn tu hành trong đền chùa đều phải bước ra khỏi cái khung của tôn giáo quá khứ. Có thể vẫn là cách ăn mặc và giới luật của một nhà sư nhưng cần phải ma luyện rất nhiều trong thế tục.

Khi trong tâm cô minh bạch những điều này, bức tranh vải nhẹ nhàng bay lên, đồng thời vang đến một giọng nói rất to lớn, rất rõ ràng: “Con muốn tìm Sư phụ, kỳ thực vị Sư phụ trong tương lai trước giờ vẫn luôn ở bên cạnh con. Đời này tấm lòng chân thành của con có thể cảm động trời đất, đời này vết nhọt trên đầu con có thể hoàn toàn lành lại, nhưng trong tương lai, khi con có thể thật sự đắc Pháp, vẫn còn một ma nạn khác, hy vọng tới khi ấy, con cũng có thể thực sự vượt qua!”.

Nghe được những lời này, cô đã nước mắt đầm đìa, muôn phần cảm khái, cô chắp tay trước ngực quỳ xuống, cất giọng nói rõ ràng phát nguyện: “Tương lai nếu có thể thật sự đắc được Đại Pháp, vô luận là ma nạn lớn đến đâu, con cũng sẽ nhất định thực hiện thật tốt!”.

Bố lữ hồng trần vi tầm Sư
Lịch tận ma nạn mịch chân tri[1]
Thiên nan vạn hiểm chí bất cải
Chung kết thánh duyên đắc Pháp thị![2]

Dịch nghĩa:

Đem vải đi khắp nơi để tìm Thầy
Trải qua ma nạn kiếm tìm chân lý
Muôn vàn khó khăn nguy hiểm ý chí không thay đổi
Cuối cùng được khải thị thánh duyên đắc Pháp

 

Chú thích:

[1] Ý chỉ Chân lý

[2] Câu cuối cùng có nghĩa là: Cuối cùng đã kết được Thánh duyên với Đại Pháp, đã đắc được khải thị của Đại Pháp, nghĩa bóng là bởi vì tu luyện trong Đại Pháp mà trở thành một vị đệ tử Đại Pháp chân tu.

 

Xem tiếp phần 2.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/239005

The post Luân hồi ký sự: Gian khổ tìm Pháp (phần 1) – Bố lữ hồng trần  first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>