Đức huệ của Phật gia | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quânhttps://chanhkien.org/2020/08/duc-hue-cua-phat-gia-ton-trong-nguoi-khac-la-suc-manh-vuot-qua-ngan-quan.htmlFri, 28 Aug 2020 03:09:53 +0000https://chanhkien.org/?p=26506Tác giả: Lục Nhẫn chỉnh lý   [ChanhKien.org] Câu chuyện thứ nhất: Nhiệt tình giúp người khác, cứu thoát người khác trước Thủa xưa, có một hòa thượng trẻ trên đường đi hóa duyên về thì không may bị hai người bịt mặt bắt đi. Hòa thượng bị trói hai tay ra sau lưng, hai […]

The post Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Nhẫn chỉnh lý

 

[ChanhKien.org]

Câu chuyện thứ nhất: Nhiệt tình giúp người khác, cứu thoát người khác trước

Thủa xưa, có một hòa thượng trẻ trên đường đi hóa duyên về thì không may bị hai người bịt mặt bắt đi. Hòa thượng bị trói hai tay ra sau lưng, hai chân cũng bị trói chặt, không cách nào đứng dậy được, sau đó lại còn bị bịt mắt, bịt miệng, cuối cùng, vị hòa thượng này bị nhốt vào một gian phòng ẩm ướt.

Anh ta cảm nhận mình bị ném vào một góc tường, vừa bực tức vừa sợ hãi, cảm thấy hoàn toàn bất lực, thậm chí còn cảm nhận được hơi thở âm u của cái chết. Sau một hồi vùng vẫy, cuối cùng lúc kiệt sức và tuyệt vọng, bỗng anh ta nghe thấy ở cách mình không xa có tiếng thở hổn hển, tiếng cựa quậy. Thế là anh nặng nhọc dịch từng chút một về hướng phát ra âm thanh ấy.

Ngay lúc anh ta chạm được đến người cũng bị trói kia, anh mới cảm thấy có một chút hy vọng được sống. Bằng cảm giác của mình, anh cố gắng dịch đến phía sau lưng người đó, úp lưng vào lưng người ấy, sau đó bắt đầu dùng những ngón tay còn có thể hoạt động của mình, lần tìm nút dây trên cổ tay người ấy. Sau một hồi cố gắng, anh đã thực sự mở được nút dây thừng trên cổ tay người kia. Ngay khi hai tay của người ấy được cởi trói, lập tức bịt mắt của hai người cũng được cởi, tiếp đó là mở trói hai tay cho anh ta. Hai người sau đó tự cởi trói chân của mình. Điều làm cả hai người ngạc nhiên và xúc động hơn đó là họ đều là hòa thượng của một ngôi chùa.

Hai người ngầm phối hợp với nhau để mở cửa sổ sau của gian phòng, lần lượt trèo qua cửa sổ thoát thân, chạy về chùa. Cả hai đều được cứu.

Hai người chưa định thần chạy đến gặp lão phương trượng trụ trì chùa để kể về cảnh ngộ kinh hãi họ gặp phải, lão phương trượng mỉm cười không giấu giếm nói: “Hai người các con trong nguy nan đã ngộ ra được con đường giải thoát, chúc mừng hai con… Ngày mai, chính các con đi giúp đỡ hai sư đệ khác khai ngộ nhé”. Nói xong, phương trượng đưa cho họ hai tấm khăn trùm đầu và bốn sợi dây thừng.

Đôi khi chúng ta bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn, không có cách nào để thoát ra, Lúc này chúng ta thường hy vọng được người khác giúp đỡ để được giải thoát. Kỳ thực, rất nhiều lúc chính chúng ta giúp đỡ người khác giải quyết khó khăn, mới có thể tự giải thoát được bản thân mình. Cũng giống như khi chúng ta dọn đá cản chân người khác, cũng chính là làm bằng phẳng con đường đi của mình.

Câu chuyện thứ hai: Đòn gánh

Vào thời cổ, có hai hòa thượng, mỗi người mang theo một hòm hành lý đi đường. Trên đường đi, hòm hành lý nặng trĩu làm cho họ thở không ra hơi. Họ đành phải liên tục đổi tay, khi tay trái mỏi thì đổi sang tay phải, khi tay phải mỏi thì đổi sang tay trái.

Đột nhiên, một hòa thượng dừng lại, mua một chiếc đòn gánh ở bên đường, treo hành lý của người ở hai bên đòn gánh.

Anh ta gánh cả hai chiếc hòm lên đường và cảm thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Anh ta đã giúp đỡ người khác, nhưng cũng chính là giúp đỡ bản thân mình.

Câu chuyện thứ ba: Quý ở hai chữ “ngay chính”

Cao tăng Huệ Năng vì để khảo nghiệm huệ căn của rất nhiều tăng lữ trong chùa nên đã cho tu sửa pháp tượng Đạt Ma rất trang nghiêm trên đỉnh núi Phi Lai, và truyền lời rằng, các đồ đệ của chùa, ai có thể quang minh chính đại chạm tới huệ nhãn của sư tổ, người đó sẽ là người được truyền thừa y bát.

Các hòa thượng nghe thấy liền âm thầm bàn luận sôi nổi, vì sao trưởng lão trụ trì muốn tu sửa tượng Đạt Ma, phải chăng là vì để chuẩn bị cho tương lai, ai có thể chạm được với huệ nhãn của sư tổ sẽ là người được kế vị trụ trì chùa. Người ta cũng nói rằng đường lên đỉnh núi rất gập ghềnh khó đi, thậm chí có không ít các cao tăng đã viên tịch trên đường lên đỉnh núi. Có thể thấy rằng đường lên núi vô cùng khó khăn, nguy hiểm.

Trong chùa có một vị tăng nhân sớm đã dò ra lối đi tắt lên đỉnh núi, đi theo theo hướng đường tắt này, có thể rút ngắn đi một nửa chặng đường, thời gian đi đến đỉnh núi cũng nhanh hơn rất nhiều. Còn có những tăng nhân tập hợp thành nhóm đi lên theo con đường lớn bằng phẳng phía sau núi, chặng đường tuy dài nhưng bằng phẳng không có trở ngại nào.

Chỉ có một tăng nhân tên là Tâm Thiền đã quyết định đi lên đỉnh núi bằng con đường chính phía trước. Con đường chính lên đỉnh núi Phi Lai, thế núi dốc đứng, đường quanh co khúc khuỷu, đầy các bụi cây gai góc. Tâm Thiền từng bước từng bước gian nan trèo lên, vượt qua mọi chông gai, đổ không biết bao nhiêu mồ hồi và cả máu.

Lên đến đỉnh núi, Tâm Thiền thấy rằng rất đông các sư huynh sư đệ đã đến trước đứng trước tượng phật Đạt Ma thân vàng, họ đang chăm chú nhìn Tâm Thiền lững thững đến muộn.

Tâm Thiền cũng không cảm thấy xấu hổ, chầm chậm bước lên tượng Phật chạm vào huệ nhãn.

Ngay lúc này, cao tăng Huệ Năng bước ra tuyên bố Tâm Thiền có đủ huệ căn, có thể được truyền thừa y bát và quyết định truyền lại vị trí trụ trì trong tương lai cho Tâm Thiền. Chúng tăng nghe thấy vô cùng kinh ngạc, một số tăng nhân phàn nàn: “Tâm Thiền đến muộn nhất, phương pháp cứng nhắc, có thể nói không khôn ngoan chút nào. Vị trí trụ trì ấy sao có thể để anh ta ngồi được?”

Tuy nhiên, Huệ Năng nói: “Đời người trong giới tu hành, quí là ở hai chữ ngay chính. Lời nói cần phải ngay chính, suy nghĩ cần phải ngay chính, hành vi cần phải ngay chính. Mọi người đều đi đường tắt, chỉ có Tâm Thiền theo đường chính diện từng bước từng bước leo lên; mọi người đều đi theo đường lớn, chỉ có Tâm Thiền đi trong gai góc, cam chịu đổ mồ hôi và máu. Con đường anh ấy đi là con đường của vị Phật chân chính, còn chư vị thì lại không phải. Ta sao có thể giao chùa này cho những người có hành vi bất chính được? Hãy nhớ: Cần phải đi trên con đường chính đạo!”

Mọi người im lặng không nói được gì nữa.

Lời nói cần phải ngay chính, suy nghĩ cần phải ngay chính, hành vi cần phải ngay chính, đó là thước đo của Phật, đó là sự tu hành của Phật. Trước những lựa chọn trong sự nghiệp hoặc tình cảm của mình, điều mà rất nhiều người nghĩ đến trước hết là tìm cách đi tắt; hơn thế nữa, còn có người đi theo con đường sai lầm. Cả hai cách đó đều không phải là hành động sáng suốt. Con người ta sinh ra ở đời, cho dù bạn làm bất kỳ việc gì, đều phải từng bước cẩn thận, chắc chắn. Không được chỉ vì cái lợi trước mắt, cũng không được đầu cơ trục lợi, càng không thể bất chấp mọi thủ đoạn, nếu không sẽ bị lầm đường lạc lối.

Ghi nhớ: Cần phải đi theo con đường chính đạo.

Câu chuyện thứ tư: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân

Ngày xưa, có một trưởng lão của một ngôi chùa Thiền tông rất giỏi làm bánh nướng. Những chiếc bánh nướng của nhà chùa làm ra vừa thơm, vừa ngọt, những người hành hương lên núi đều rất thích, họ đều bỏ tiền mua bánh để thưởng thức, vì thế hương hỏa của nhà chùa rất thịnh vượng.

Một ngày, có một người hành khất nhìn rất mệt mỏi từ phương xa đến chùa, lớn tiếng đòi thử bánh nướng. Những tiểu hòa thượng nhìn thấy người này vừa nhếch nhác, vừa bẩn thỉu nên đã không cho anh ta vào bếp, hai bên lời qua tiếng lại không dứt.

Lúc đó, trưởng lão xuất hiện, ông quở trách các đệ tử và nói: “Người xuất gia vì lòng từ bi, các con sao lại có thể làm thế được?” Rồi trưởng lão đích thân chọn cho người hành khất một chiếc bánh nướng to, cung kính mời người hành khất thưởng thức.

Người hành khất vô cùng cảm động, sau khi ăn xong liền lấy ra ba đồng tiền duy nhất mà mình có và nói: “Đây là toàn bộ số tiền mà tôi xin được, hy vọng trưởng lão có thể nhận nó”

Vị trưởng lão đã thực sự nhận tiền, hai tay hợp thập, trân trọng nói: “Thí chủ lên đường tốt lành!”

Các đệ tử đều rất khó hiểu bèn hỏi trưởng lão: “Đã là bố thí cho người ăn xin, thì sao lại có thể lấy tiền đó được?”

Trưởng lão đáp: “Anh ta chẳng phải từ nơi xa ngàn dặm đến đây chỉ vì muốn nếm thử cái bánh này, vì vậy cần phải cho anh ta ăn thử miễn phí; anh ta có tâm vươn lên thế này là rất hiếm có, hiểu được đạo lý đối nhân xử thế, vì vậy cần phải lấy 3 đồng tiền ấy của anh ta. Được sự khích lệ trân trọng này, thành tựu trong tương lai của anh ta nhất định sẽ lớn”.

Các đồ đệ hoàn toàn không đồng ý, trong tâm họ nghĩ thầm: “Sư phụ của chúng ta thật là hồ đồ, nói như đang mơ ngủ vậy”.

Mấy chục năm sau, có một vị thương nhân rất giàu có lên núi chỉ để cảm ơn về bữa ăn năm đó. Điều làm cho các lão hòa thượng giật mình sửng sốt là ông ta chính là người hành khất bỏ ba đồng tiền để ăn bánh trước kia!

Bố thí chiếc bánh có thể giúp cho người hành khất tránh được nỗi khổ đói khát, ngược lại lấy tiền bánh của người hành khất có thể làm cho anh ta thấy nhân cách của mình được tôn trọng. Ăn đầy bao tử chỉ có thể giải quyết nhu cầu tạm thời, nhưng sự tôn trọng về mặt tinh thần lại có thể khích lệ cả cuộc đời một con người. Đây chính là chỗ cao minh của trưởng lão.

Tôn trọng người khác là một sức mạnh có thể khích lệ người ta đi theo con đường chính đạo: Tôn trọng người khác đôi khi có thể khích lệ cả cuộc đời của họ, từ đó thay đổi vận mệnh của họ. Chúng ta cần học cách biết tôn trọng người khác. Sự tôn trọng kết hợp với tấm lòng nhân ái thường sẽ mang lại kết quả tốt đẹp bất ngờ. Hãy đối đãi với thế giới này bằng cả tấm lòng, hãy tôn trọng chính mình và tôn trọng tất cả mọi người bằng cả tấm lòng, lúc đó bạn sẽ phát hiện rằng bạn và những người xung quanh đều có tiềm lực vô hạn!

(Theo Truyện cổ Phật giáo)

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/258793

The post Đức huệ của Phật Gia: Tôn trọng người khác là sức mạnh ngàn quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không?https://chanhkien.org/2020/08/duc-hue-cua-phat-gia-cau-noi-nguoi-khong-biet-khong-co-toi-co-dung-khong-ba-cau-chuyen.htmlMon, 03 Aug 2020 15:37:56 +0000https://chanhkien.org/?p=26471Tề Chỉnh Thăng chỉnh lý   [ChanhKien.org] 1. Phần thưởng của quốc vương Xưa kia có một vị vua của vương quốc Ba Tư, một ngày nhà vua đang đi dạo, khi đến cổng sau của hoa viên, ông nghe thấy hai người thị vệ đang tranh luận với nhau. Một người nói: “Tôi dựa […]

The post Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tề Chỉnh Thăng chỉnh lý

 

[ChanhKien.org]

1. Phần thưởng của quốc vương

Xưa kia có một vị vua của vương quốc Ba Tư, một ngày nhà vua đang đi dạo, khi đến cổng sau của hoa viên, ông nghe thấy hai người thị vệ đang tranh luận với nhau. Một người nói: “Tôi dựa vào vua, tất cả mọi thứ của tôi đều là do vua ban cho”. Người kia lại nói: “Tôi không dựa vào cái gì, mọi thứ của tôi đều phụ thuộc vào số phận của chính tôi”.

Nhà vua nghe xong thấy rất thích người thị vệ đã nói “dựa vào ơn vua”, liền có ý định ban thưởng cho anh ta. Thế là nhà vua ra lệnh: “Người đâu!” Người thị vệ đang làm nhiệm vụ ngay lập tức đến trước mặt nhà vua. Nhà vua nói với anh ta: “Ta sẽ phái một thị vệ đến gặp hoàng hậu, ngươi đến bẩm báo với hoàng hậu rằng hãy trọng thưởng tiền, quần áo và châu báu cho anh ta”.

Sau đó, nhà vua cho gọi người thị vệ đã nói “dựa vào ơn vua” đến, bảo anh ta mang nửa bình rượu quý và hoa quả mà các sứ giả nước ngoài đã tiến cống đến tặng cho hoàng hậu.

Không ngờ, người thị vệ này mắc căn bệnh kinh niên chảy máu cam. Anh ta vừa mang rượu và hoa quả ra khỏi cửa, thì đột nhiên máu mũi chảy không ngừng, vừa đúng lúc đó anh ta gặp người thị vệ nói “phụ thuộc vào số phận của chính tôi”, thế là anh ta đành phải nhờ người kia thay mình mang rượu và hoa quả đến cho hoàng hậu. Hoàng hậu nhìn thấy người thị vệ mang rượu đến, bà theo lời chỉ thị của nhà vua trọng thưởng cho anh ta rất nhiều tiền, quần áo và châu báu.

Người thị vệ được ban thưởng đó trở về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua nhận thấy người này không phải là người đã nói câu “dựa vào ơn vua”, thì cảm thấy vô cùng kinh ngạc, lập tức cho gọi người thị vệ kia đến hỏi: “Ta bảo ngươi mang rượu và trái cây đến cho hoàng hậu, tại sao ngươi lại không đi?”

Người thị vệ đó trả lời: “Con vừa bước ra khỏi cửa thì bất ngờ bị chảy máu cam liên tục, không thể đi đến chỗ hoàng hậu được, con đành nhờ anh ta mang rượu của đức vua ban tặng cho hoàng hậu”.

Nhà vua thở dài nói: “Giờ ta mới minh bạch rằng, Đức Phật dạy “Tự tạo nghiệp thì tự nhận quả báo” đúng là chân lý. Mỗi người đều có số mệnh riêng, không thể thay đổi”.

Tất cả mọi thứ bên ngoài đều không thể dựa vào được, số phận của bản thân mình phải dựa vào bản thân hàng ngày tích đức hành thiện, kính trời trọng mệnh, thuận theo tự nhiên mới là tốt.

2. Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không?

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng pháp, Ngài thường thể hiện sự hòa nhã dễ gần, Ngài hay nói về những sự việc mà các đệ tử quen thuộc và thích nghe. Mặc dù Ngài giảng giáo lý, nhưng không hề khô khan nhàm chán, cũng không phải nghiêm mặt dạy bảo mọi người. Để mọi người có thể hiểu được, lời giảng giáo lý của Ngài luôn rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, dùng rất nhiều ví dụ, các môn đệ đều cảm thấy vô cùng gần gũi.

Một ngày nọ, sau khi Thích Ca Mâu Ni giảng pháp, Ngài dành ra một chút thời gian để các đệ tử nêu câu hỏi. Có một đệ tử xin Ngài thỉnh giáo: “Con không biết câu nói ‘người không biết không có tội’ có đúng không?”

Thích Ca Mâu Ni không trả lời trực tiếp câu hỏi này mà nêu một ví dụ: “Bây giờ có một chiếc kẹp gắp than đang bị nung trong lò lửa, nhưng mắt thường lại không thấy được chiếc kẹp gắp than này rất nóng. Nếu bảo con cầm chiếc kẹp gắp này, con thử nghĩ xem nếu biết nó nóng thì con sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn, hay khi không biết nó nóng thì con sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn?”

Đệ tử nghĩ một lúc rồi trả lời rằng: “Thưa Đức Phật, là khi không biết nó nóng thì sẽ bị bỏng nghiêm trọng hơn. Bởi vì không biết nên mới không chuẩn bị tâm lý trước, khi bị bỏng sẽ không kịp trở tay đề phòng”.

Thích Ca Mâu Ni hòa nhã nói: “Đúng thế! Nếu con biết chiếc kẹp rất nóng thì khi cầm nó lên con sẽ tập trung chú ý cảnh giác, không dám mảy may khinh xuất, lúc cầm sẽ không nắm chặt nó. Nếu con không biết chiếc kẹp gắp rất nóng thì khi cầm nó lên con sẽ nắm chặt lấy nó. Vậy có thể thấy rằng không phải là “người không biết là không có tội”, mà là người không biết sẽ chịu tổn hại nặng nề nhất, gánh chịu tội nghiệp và khổ nạn càng nghiêm trọng hơn. Con người chính là vì không hiểu rõ chân lý nên mới trầm luân trong bể khổ”.

Vô tri mới là ngu muội, bị lừa mới là nghiêm trọng. Hiểu biết mới có thể giúp người ta sáng suốt. Những người nghe theo kẻ tà ác miệt thị Thần Phật, không hiểu rõ sự thực, phản Thần loạn Pháp, bị đầu độc nghiêm trọng, cần mau chóng tỉnh ngộ mới có thể thoát khỏi tai hoạ.

3. Các thương nhân hỏi: “Đâu là pháp môn thuận tiện?”

Ngày xưa, ở vương quốc La Đà có một vị Bồ Tát, thương nhân của nước này mỗi lần ra biển để tìm kiếm báu vật đều mời vị Bồ Tát này lên thuyền, hy vọng với sự trợ giúp của ông có thể biến nguy thành an, mục đích để được bình yên. Về sau, vị Bồ Tát này vì tuổi già sức yếu, không muốn theo họ ra biển nữa, nhưng vì không nỡ từ chối lời khẩn cầu nài nỉ của thương nhân, ông lại đồng ý đi.

Con thuyền đang trên đường hướng về nơi có báu vật thì trên bầu trời nổi gió bắc, con thuyền lệch khỏi hướng đi và trôi thẳng về phía nam. Đến ngày thứ bảy, nước biển bỗng nhiên lại biến thành màu vàng, giống như trải lên một lớp vàng.

Các thương nhân hỏi Bồ Tát: “Vì sao nước biển xanh lại có thể biến thành màu vàng?”

Vị Bồ Tát nói: “Chúng ta đã đi vào biển vàng, nơi này chứa vô số vàng, khắp mọi nơi đều sáng lấp lánh, nên mới có tình huống này xuất hiện. Nhưng thuyền của chúng ta đã đi chệch hướng, việc này vô cùng nguy hiểm, chúng ta nhất thiết không được tham tiếc biển vàng này, phải quay về phía bắc”. Không ngờ, con thuyền thuận theo chiều gió tiếp tục trôi về phía nam. Vài ngày sau, nước biển lại xuất hiện màu trắng, giống như một thế giới băng tuyết.

Vị Bồ Tát lại nói với các thương nhân: “Bây giờ, chúng ta đang ở trong biển ngọc trai. Ở đây toàn là các viên ngọc trai, màu sắc các viên ngọc hòa vào nhau, nên xuất hiện loại ánh sáng này. Nhưng chúng ta đang càng ngày càng cách xa mục tiêu, mọi người phải nghĩ mọi biện pháp để trở về phương bắc”. Tuy nhiên, chiếc thuyền vẫn cứ theo chiều gió, tiếp tục trôi về phía nam.

Vài ngày sau, nước biển lại đổi màu, lần này biến thành màu xanh lam, không khác gì được trải lên một lớp ngọc lưu ly. Vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Bây giờ chúng ta đến biển ngọc lưu ly màu xanh, trong biển này có vô số ngọc lưu ly xanh, màu xanh của ngọc lưu ly phản chiếu lên nên mới biến thành màu này”.

Vài ngày sau, màu nước biển lại thay đổi lần thứ tư, lần này lại biến thành màu đỏ giống như một biển máu. Vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Bây giờ, chúng ta đã đi vào biển lưu ly màu đỏ, trong biển có vô số ngọc lưu ly đỏ, do màu đỏ của ngọc lưu ly phản chiếu lên nên mới xuất hiện quang cảnh này”.

Vài ngày sau, màu nước biển lại thay đổi lần thứ năm, giống như một mảng mực đen, khắp nơi đều một màu đen kịt. Tiếp đó, một tiếng nổ lớn từ xa vọng lại, âm thanh dữ dội, như thể ngọn lửa dữ dội đốt cháy cả khu rừng tre khô. Sau đó, khi con thuyền trôi dạt về phía nam, đột nhiên có một cột lửa khổng lồ bốc lên từ đáy biển, phóng thẳng lên trời.

Các thương nhân nhìn thấy tình huống khủng khiếp như vậy, họ đột nhiên nhận ra rằng tính mệnh của họ khó có thể bảo toàn.

Họ than vắn thở dài, không biết bấu víu vào đâu, cuối cùng phải cầu cứu sự giúp đỡ của vị Bồ Tát. Lúc đó, Bồ Tát nói: “Ngay cả bậc đại trượng phu trên thế gian cũng đều tham sống sợ chết. Bi thương tuyệt vọng chỉ khiến con người mất đi lý trí, mọi người vẫn muốn nghĩ cách giải quyết, hãy dùng pháp môn thuận tiện để thoát khỏi bể khổ”. Các thương nhân đều hỏi: “Thế nào là pháp môn thuận tiện?”

Bồ Tát nói với các thương nhân: “Vứt bỏ ích kỷ và lợi ích cá nhân! Kính tín Thần Phật! Cầu Thần linh bảo hộ thì có thể chuyển họa thành phúc. Đó chính là pháp môn thuận tiện. Chỉ có thành tâm hối cải, nếu có thể bỏ ác theo thiện thì sẽ an toàn đến miền cực lạc. Mọi người không nên ủ rũ, phải thật thành tâm niệm Phật!”

Mọi người lập tức thắp hương rồi lễ bái Thần Phật, cầu nguyện cho gió yên sóng lặng. Một lúc sau, gió dữ cuối cùng cũng dừng lại, mọi người mới thoát khỏi nguy hiểm, đến nơi cất giữ kho báu, toại nguyện ước muốn có được nhiều vàng bạc châu báu.

Lúc đó, vị Bồ Tát nói với các thương nhân: “Những vàng bạc châu báu này ở thế gian khó gặp. Bởi vì đời trước chư vị đã từng bố thí nên đời này mới có được những châu báu quý giá này. Tuy rằng trong kiếp trước các vị đã bố thí khắp nơi, nhưng lại có tâm keo kiệt, nên bây giờ mới gặp phải gió dữ, tinh thần và sức lực kiệt quệ, hoảng loạn và khổ não. Chư vị cần phải biết dùng số vàng bạc châu báu này. Nếu tham lam vô độ, chắc chắn sẽ lại gặp tai nạn. Trong quá trình tìm kiếm kho báu, sinh mệnh là thứ có giá trị nhất, đó mới là kho báu vô giá thực sự! Tiết chế dục vọng và không tham lam, chỉ lấy phần mà mình nên được, vậy mới có thể bình an, hạnh phúc. Sống trong an lạc nhưng không quên những người nghèo đói, nhiệt tình cứu khổ, giúp đỡ người khác mới có thể may mắn lâu dài”.

(Theo “Truyện cổ kinh điển Phật gia”)

The post Đức huệ của Phật gia: Câu nói “Người không biết không có tội” có đúng không? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>