Đạo gia cố sự | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 02:31:32 +0000en-UShourly1Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Thiện nhân Trần Ngự Can, hai lần lỡ mất duyên thần tiênhttps://chanhkien.org/2023/12/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-thien-nhan-tran-ngu-can-hai-lan-lo-mat-duyen-than-tien.htmlFri, 15 Dec 2023 00:07:11 +0000https://chanhkien.org/?p=32082Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Trần Ngự Can là người Phố Thành (nay là huyện Phố Thành hành phố Nam Bình tỉnh Phúc Kiến), gia cảnh giàu có thích làm từ thiện, lại rất kính Thần hiếu Đạo, phàm mà có đạo sĩ vân du ghé qua, nhất định khoản đãi nồng hậu, lại cung […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Thiện nhân Trần Ngự Can, hai lần lỡ mất duyên thần tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Trần Ngự Can lỡ mất cơ duyên tu luyện (Nguồn: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Trần Ngự Can là người Phố Thành (nay là huyện Phố Thành hành phố Nam Bình tỉnh Phúc Kiến), gia cảnh giàu có thích làm từ thiện, lại rất kính Thần hiếu Đạo, phàm mà có đạo sĩ vân du ghé qua, nhất định khoản đãi nồng hậu, lại cung cấp chỗ ăn chỗ nghỉ. Lần nọ có vị đạo sĩ thổi sáo sắt vân du đến hóa duyên, Trần Ngự Can liền nhiệt tình khoản đãi ông một đoạn thời gian rất dài, một trái tim nhiệt tình cúng dưỡng không biết mệt. Vị đạo sĩ chơi sáo sắt này, ban ngày thì đến đạo viện Lai Hòa Phong ở vùng đó tu hành, đến tối mới trở về phòng nghỉ ở nhà Trần Ngự Can, mỗi tối Trần Ngự Can đều đích thân đến “đạo viện Lai Hòa Phong” để chờ đạo sĩ bước ra, đón ông ấy về nhà mình nghỉ ngơi, ý tứ rất cung kính.

Thời gian lâu dần, Trần Ngự Can dần dần có chút giãi đãi. Có lần đến đón đạo sĩ bị trễ, đạo sĩ nói với ông: Sao ông đến trễ vậy, ta đã đợi ông rất lâu đấy. Rạng sáng ngày hôm sau, vị đạo sĩ này đã rời đi. Rất lâu sau đó, vị đạo sĩ này lại quay lại, một lần lúc hai người họ đang ở bên ngoài, đạo sĩ nói với Trần Ngự Can: Ông hiếu Đạo như thế, cùng ta vân du tu Đạo chứ. Trần Ngự Can đã đồng ý rồi, nhưng đột nhiên lại thấy nhớ nhà, liền nói: Đợi tôi quay về lấy chìa khóa nhà đã, rồi sẽ cùng ông vân du tu Đạo. Ý tứ trong câu nói mang theo chìa khóa của ông ta đại khái chính là thuận tiện sau này có thể quay về nhà bất cứ lúc nào. Đạo sĩ nghe xong biết rằng tâm phàm của ông ấy còn chưa đoạn, liền rời đi, từ đó về sau không còn xuất hiện lại một lần nào nữa, chỉ để lại cây sáo sắt hay đem theo bên mình cho Trần Ngự Can.

Sau này Trần Ngự Can không biết làm thế nào mà có được một loại năng lực, chính là có thể nguyên thần ly thể đến các nơi xa. Trần Ngự Can vận dụng loại năng lực này, nguyên thần thường hay ly thể đến các tỉnh lân cận để kiểm tra xem tình hình thị trường bên ngoài, phát hiện loại thương phẩm nào bị thiếu liền nhanh chóng đặt mua, sau đó bán lại với một mức giá tốt, vì thế làm ăn buôn bán kiếm được rất nhiều tiền, trở thành đại phú ông, thu mua lại rất nhiều cửa hàng, nhà cửa, người ta gọi ông là “Trần Bán Nhai”, chính là vì các cửa hàng, nhà cửa trên một nửa con phố, đều là sản nghiệp của ông ấy.

Trong các ghi chép đều nói Trần Ngự Can là một thiện nhân, tuy nhiên sau này lại trở thành đại phú ông, nhưng lại hai lần lỡ mất cơ duyên thần tiên: Lần thứ nhất là trong khảo nghiệm thời gian lâu dài, dần dần trở nên giãi đãi, phóng túng bản thân; Lần thứ hai là ở thời khắc quan trọng lại thấy nhớ nhà, không thể buông bỏ cái niệm thế tục. Sau này ông có thể trở thành đại phú ông, cũng vì ông đã làm từ thiện, là thiện quả của việc hành thiện cúng dưỡng cho người xuất gia. Thiện hữu thiện báo, nhưng nếu so với việc tu Đạo thành tiên, phúc báo ở thế gian thực tại không đáng một đồng. Hơn nữa ông ấy trong quá trình trở nên giàu có đột ngột này, cũng rất đặc thù, đó là dựa vào năng lực nguyên thần ly thể, biết trước thông tin thị trường ở các khu vực khác. Đây cũng nói rõ việc con người là có nguyên thần, nguyên thần không dựa vào nhục thân mà tồn tại độc lập, thuyết vô Thần là tà thuyết sai lầm.

Nguồn tư liệu: “Hồ Hải Tân Văn Di Kiên Tục Chí”.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/286705

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Thiện nhân Trần Ngự Can, hai lần lỡ mất duyên thần tiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo gia tu luyện cố sự: Người đắc Đạo lại là người ít nổi bật nhấthttps://chanhkien.org/2021/11/dao-gia-tu-luyen-co-su-nguoi-dac-dao-lai-la-nguoi-it-noi-bat-nhat.htmlSun, 28 Nov 2021 08:19:49 +0000https://chanhkien.org/?p=28149Tác giả: Quy Chân [ChanhKien.org] Có người hiệu là Hoàn Khải đã bái Hoa Dương Đào tiên sinh làm sư phụ, hàng ngày chỉ làm những công việc chân tay lặt vặt, cứ như vậy đã hơn mười năm. Người này tính cách mười phần trầm tĩnh cẩn trọng. Một ngày nọ, có hai tiểu […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Người đắc Đạo lại là người ít nổi bật nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Quy Chân

[ChanhKien.org]

Có người hiệu là Hoàn Khải đã bái Hoa Dương Đào tiên sinh làm sư phụ, hàng ngày chỉ làm những công việc chân tay lặt vặt, cứ như vậy đã hơn mười năm. Người này tính cách mười phần trầm tĩnh cẩn trọng.

Một ngày nọ, có hai tiểu đồng cưỡi hạc trắng từ trên trời hạ xuống sân nhà Đào tiên sinh. Đào tiên sinh vội ra cửa nghênh tiếp. Nhưng, một tiểu đồng nói: “Thái Thượng Lão Quân đã cử chúng tôi đến đây bái kiến Hoàn tiên sinh”.

Đào tiên sinh lặng đi một lúc, nghĩ rằng trong đám môn nhân của mình không có ai mang họ “Hoàn”. Cuối cùng, ông nhớ ra Hoàn Khải, một người chuyên làm những việc lặt vặt trong nhà chính là người mà họ đang tìm kiếm.

Ông tìm gặp Hoàn Khải và hỏi: “Ngài tu Đạo nào mà có thể đạt đến trình độ như vậy?”

Hoàn Khải đáp: “Ta tu Đạo đã nhiều năm. Đích thân lên Thiên giới triều kiến Thái Đế cũng đã chín năm rồi. Vậy nên, hôm nay Thần Tiên đến để triệu hồi ta về trời”.

Nghe được điều này, Đào tiên sinh vội tìm cách bái Hoàn Khải làm sư phụ. Hoàn Khải cự tuyệt và nói rằng ông không thể đảm đương việc này.

Ngay sau đó, Hoàn Khải khoác tiên phục, cưỡi hạc trắng bay về trời.

Các vị Thần suy xét vấn đề khác với con người. Con người rất coi trọng địa vị và sự giàu có nơi thế gian, nhưng các vị Thần thì lại hoàn toàn ngược lại. Những người kín đáo, có vẻ ngoài càng “không nổi bật”, như tiểu hòa thượng nấu cơm trong chùa có thể sớm khai công khai ngộ, bởi vì họ đã chịu nhiều cực khổ, nên hoàn nghiệp nhanh chóng. Những người có địa vị cao và giàu sang phú quý lại là những người khó đắc Đạo nhất.

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/258840

http://www.pureinsight.org/node/7536

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Người đắc Đạo lại là người ít nổi bật nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo gia tu luyện cố sự: Sắc tâm nhất động, Tiên nữ ly khứhttps://chanhkien.org/2021/11/dao-gia-tu-luyen-co-su-sac-tam-nhat-dong-tien-nu-ly-khu.htmlSat, 20 Nov 2021 09:36:19 +0000https://chanhkien.org/?p=28118[ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, có vị Bạch Đạo Trưởng đạo pháp cao thâm, danh tiếng chấn động kinh sư nên được Hoàng đế Tống Lý Tông (vị hoàng đế thứ 14 của triều đại nhà Tống, 1224 đến 1264) vô cùng ngưỡng mộ. Theo ghi chép, ông từng sử dụng pháp thuật Đạo gia […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Sắc tâm nhất động, Tiên nữ ly khứ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Vào thời Nam Tống, có vị Bạch Đạo Trưởng đạo pháp cao thâm, danh tiếng chấn động kinh sư nên được Hoàng đế Tống Lý Tông (vị hoàng đế thứ 14 của triều đại nhà Tống, 1224 đến 1264) vô cùng ngưỡng mộ. Theo ghi chép, ông từng sử dụng pháp thuật Đạo gia của mình trước các vương công đại thần để triệu hồi các tiên nữ. Lúc bấy giờ, các vương công đại thần đang thưởng thức dạ yến. Khi họ đang say sưa đối tửu, đột nhiên trên khoảng trời phía trước cung đình xuất hiện một đám mây lớn mang theo điềm lành. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên thì thấy bốn vị tiên nữ sắc diện đoan trang cưỡi mây bay tới. Ai nấy đều ngạc nhiên và ngừng uống trong giây lát. Khi mọi người đang quan sát các vị tiên nữ từ từ hạ xuống, đột nhiên một đạo tường quang lóe lên, các tiên nữ chuyển hướng bay trở về trời.

Lúc này, chỉ nghe thấy Bạch Đạo Trưởng giậm chân tức giận nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc!” Mọi người hỏi ông cớ sao lại như vậy. Đạo Trưởng đáp: “Các vị đại nhân, ai đó trong chúng ta đã đã động sắc tâm với các tiên nữ, bởi vậy họ đã rời đi. Vốn dĩ bần đạo thỉnh các tiên nữ mang tiên tửu của Vương Mẫu nương nương tới. Đó không phải là điều đáng tiếc ư?” Nghe xong điều này, tất cả quan viên dự yến đều không nói nên lời. Khi mọi người còn đang im lặng ngượng ngùng, đột nhiên mây mù bên ngoài tan biến, và các vị tiên nữ cũng khuất khỏi tầm mắt.

Trong truyện, Bạch Đạo Trưởng đã sử dụng tiên thuật của mình để thỉnh mời các tiên nữ, nhưng không ngờ trong số những người dự yến có người động sắc tâm, vậy nên các tiên nữ đã bay về trời. Có thể thấy, sắc tâm có nguy hại to lớn nhường nào. Người tu luyện nhất định phải loại bỏ chủng tâm chấp trước này. Một số người vô thần thắc mắc: “Vì sao Thần không hiển hiện trước mắt để tôi có thể nhìn rõ?” Nếu được hỏi, tôi sẽ trả lời: “Nếu con người không loại bỏ tư tưởng bất tín thần của mình, không loại bỏ những niệm đầu sắc dục cùng những chủng tư tưởng dơ bẩn khác, thì sẽ rất khó có thể nhìn thấy Thần”.

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/155183

http://www.pureinsight.org/node/7535

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Sắc tâm nhất động, Tiên nữ ly khứ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lữ Sinhhttps://chanhkien.org/2021/11/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-lu-sinh.htmlMon, 15 Nov 2021 15:23:16 +0000https://chanhkien.org/?p=28106Tác giả: Chu Nguyệt Minh chỉnh lý [ChanhKien.org] Tại vùng tiếp giáp hai huyện Ngu Hương và Vĩnh Lạc (thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay) người ta vẫn thường tình cờ gặp được những người tu Đạo ở đây. Có một người tên gọi Lữ Sinh sống ở vùng tiếp giáp này. Lúc […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lữ Sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Chu Nguyệt Minh chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Tại vùng tiếp giáp hai huyện Ngu Hương và Vĩnh Lạc (thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay) người ta vẫn thường tình cờ gặp được những người tu Đạo ở đây. Có một người tên gọi Lữ Sinh sống ở vùng tiếp giáp này. Lúc còn nhỏ Lữ Sinh không thích ngửi mùi vị của cơm và thức ăn nên đã tự mình lên núi đào một ít hoàng tinh về nấu ăn. 10 năm sau Lữ Sinh đã không còn ăn hoàng tinh nấu chín nữa mà chỉ ăn hoàng tinh sống, và vẫn không đụng đến đồ ăn của nhân gian như cũ. Ông bắt đầu thấy thân thể mình dần nhẹ hơn mỗi ngày, cường tráng mạnh khoẻ, không sợ phong hàn, đi bộ nhẹ nhàng như đi trên gió vậy. Với bất cứ chữ nào ông chỉ cần nhìn qua là nhớ được, với lời người khác nói cũng chỉ cần nghe qua đã có thể ghi nhớ.

Khi được mẹ cho đi học, Lữ Sinh liền muốn tham gia kỳ thi minh kinh (một kỳ thi Nho học thời Tuỳ, Đường). Mỗi ngày Lữ Sinh đọc được mấy quyển sách, thực ra không phải là nhờ bỏ công phu học tập mà bởi ông vừa xem qua đã hiểu. Sau đó mẹ ông ép ông ăn cơm nhưng ông không chịu. Mẹ và em gái từ sáng đến tối khuyên Lữ Sinh ăn cơm ông vẫn không nghe. Mẹ ông bèn nghĩ ra một cách, bà đem mỡ heo trộn chung với rượu rồi tự mình mang đến cho ông uống và nói: “Mẹ già rồi, huống chi Đạo gia cũng không cấm uống rượu”. Lữ Sinh nói: “Con từ nhỏ đã không biết mùi vị đồ ăn rồi, thực sự là con không ăn được những thức ăn như vậy”. Mẹ ông bèn đem cơm rượu lại dưới mũi ép ông phải ngửi, trong nháy mắt khi ông vừa hít vào thì có một vật thể từ trong lỗ mũi rơi ra, dài khoảng hai thốn. Mọi người nhìn thì thấy đó là một đứa bé tí hon bằng vàng kim. Trong phút chốc Lữ Sinh ngã xuống không dậy nổi, chỉ nói mình cảm thấy rất mệt. Người em gái dùng nước thơm rửa sạch đứa bé tí hon bằng vàng kim ấy và buộc nó vào thắt lưng Lữ Sinh. Một lúc sau ông mới tỉnh lại. Trước đó Lữ Sinh dù đã gần 60 tuổi nhưng râu tóc hãy còn đen nhánh rất đẹp. Giờ đây sau khi trải qua cú sốc này, đầu ông đã bạc trắng. Mẹ của Lữ Sinh lúc này mới vô cùng hối hận, vội đem đứa bé tí hon bằng vàng kim nhét lại chỗ cũ nhưng nó đã biến mất từ khi nào. Lữ Sinh nuối tiếc công phu tu luyện của mình bị huỷ, cứ khóc mãi không thôi.

Rồi Lữ Sinh từ biệt mẫu thân, bỏ nhà ra đi, có người nói rằng ông đã đi đến núi Mao Sơn, nhưng từ đó trở đi không ai thấy ông đâu nữa.

Từ câu chuyện của Lữ Sinh chúng ta có thể thấy sự gian nan của một người tu Đạo. Lữ Sinh không ăn thức ăn chín của nhân gian, tu hành đã đạt đến một tầng thứ nhất định. Nhưng khi bị người nhà thúc ép bản thân ông đã do dự, trong phút chốc đã huỷ đi nỗ lực tu hành của cả một đời. Người tí hon bằng vàng kim có thể là nguyên anh mà Lữ Sinh trải qua bao nhiêu năm mới tu luyện xuất ra được. Theo Đạo gia nhìn nhận, tu được nguyên anh thì chính là đã có thể thành Thần Tiên rồi. Còn đối với người tu luyện mà nói, mất đi nguyên anh cũng giống như mất đi sinh mệnh vậy. Con người có được bao nhiêu lần 60 năm để tu hành!

(Nguồn: “Thái Bình quảng ký”)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/19762

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Lữ Sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Đạo gia tu luyện cố sựhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-dao-gia-tu-luyen-co-su.htmlMon, 08 Mar 2021 18:11:52 +0000https://chanhkien.org/?p=27262Tác giả: Mạc Cầu [Chanhkien.org]   Đạo gia tu luyện cố sự: Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quân Đạo gia tu luyện cố sự: Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị Đạo gia tu luyện cố sự: Đàm Xứ Đoan đứng giữa tuyết cầu kiến Vương Trùng Dương Đạo gia tu luyện cố […]

The post Loạt bài: Đạo gia tu luyện cố sự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[Chanhkien.org]

 

Đạo gia tu luyện cố sự: Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quân

Đạo gia tu luyện cố sự: Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị

Đạo gia tu luyện cố sự: Đàm Xứ Đoan đứng giữa tuyết cầu kiến Vương Trùng Dương

Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Xứ Nhất

Đạo gia tu luyện cố sự: Lưu Xứ Huyền bị Vương Mẫu quở trách vì chưa bỏ hết sắc tâm

Đạo gia tu luyện cố sự: Một niệm sai lầm làm mất cơ duyên tu Đạo

The post Loạt bài: Đạo gia tu luyện cố sự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tu hành cần phải thuần chính nhất tư nhất niệmhttps://chanhkien.org/2020/11/cau-chuyen-tu-luyen-dao-gia-tu-hanh-can-phai-thuan-chinh-nhat-tu-nhat-niem.htmlSun, 29 Nov 2020 15:38:49 +0000https://chanhkien.org/?p=26834Chu Nguyệt Minh chỉnh lý [Chanhkien.org] Mã Đan Dương là một trong bảy vị Bắc Thất Chân của Toàn Chân đạo, năm Đại Định thứ 7 (năm 1167) ông cùng với vợ là Tôn Bất Nhị bái người sáng lập Toàn Chân đạo là Vương Trùng Dương làm thầy. Năm Chí Nguyên thứ 6 đời […]

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tu hành cần phải thuần chính nhất tư nhất niệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chu Nguyệt Minh chỉnh lý

[Chanhkien.org]

Mã Đan Dương là một trong bảy vị Bắc Thất Chân của Toàn Chân đạo, năm Đại Định thứ 7 (năm 1167) ông cùng với vợ là Tôn Bất Nhị bái người sáng lập Toàn Chân đạo là Vương Trùng Dương làm thầy. Năm Chí Nguyên thứ 6 đời Nguyên Thái Tổ (năm 1269) ông được phong là “Đan Dương Bão Nhất Vô Vi Chân Nhân” . Ông thành tiên vào ngày 27 tháng 12 năm Giáp Tý niên hiệu Gia Thái (năm 1204).

Hôm đó, Mã Đan Dương rời khỏi huyện Ninh Hải tỉnh Sơn Đông, đến Trường An tình cờ gặp được Khưu Trường Xuân – cũng là một trong Bắc Thất Chân của Toàn Chân Đạo. Huynh đệ hai người mừng rỡ vô cùng, cùng kể lại những việc đã gặp sau lần chia tay trước đây. Mã Đan Dương hỏi: “Khưu huynh mấy năm nay đi qua những nơi nào? Không biết công phu luyện được ra sao?” Khưu Trường Xuân nói: “Huyệt mộ sư phụ ở đây, ta không đành lòng rời xa; công phu tu luyện tâm tính, không dám xao nhãng.” Mã Đan Dương cảm thấy buồn cười, nói: “Sư phụ là bậc đắc đạo, làm sao mà chết? Cái gọi là người chết, chẳng qua là ông muốn đoạn tuyệt tâm tư của những người không chịu khổ công tu luyện, mà chỉ vọng tưởng dựa vào sư phụ truyền cho chân ngôn khẩu quyết để có lối tắt cho việc nhập đạo thành tiên mà thôi. Cái gọi là người tu luyện tâm tính, là tu nội công; luyện đức hạnh là tu ngoại công. Sư phụ từng nói rằng cần nội ngoại kiêm tu, mới có thể đạt được cảnh giới huyền diệu. Mà anh ngày hôm nay lại nói chưa xao nhãng, chẳng phải rất sai lầm rồi sao?” Nghe xong lời này của Mã Đan Dương, Khưu Trường Xuân bừng tỉnh hiểu ra, vội vàng cám ơn đại sư huynh: “Nay được một lời khai ngộ, giải được cái ngu muội cả đời của tôi!” Kỳ thực Khưu Trường Xuân biết sư phụ Vương Trùng Dương giả chết, bởi vì ông từng phá vỡ huyền cơ mà sư phụ thiết lập, nên đã bị sư phụ giáo huấn một trận nghiêm khắc. Vì vậy, ông kể cho Mã Đan Dương cảnh tượng của sư phụ mà mình thấy sau khi sư phụ tạ thế. Mã Đan Dương thở dài nói: “Sư phụ từng nói anh không biết giữ mình, mà nhất mực khoe khoang sự tài giỏi của bản thân, thành đạo phải sau sáu người. Đối với việc này, anh sau này nhất định phải giữ mình nghiêm cẩn!” Mã Đan Dương trầm tư một lát rồi lại nói tiếp: “Anh nếu như có thể tự vấn tự xét lại, ẩn tàng sự khôn ngoan, thật thà chất phác, tôi sẽ đem đạo mà sư phụ truyền cho tôi để mà truyền hết cả lại cho anh.” Từ đó, sư huynh sư đệ đồng hành vùng Kinh – Tương, Khưu Trường Xuân hối cải sâu sắc, không còn khoe khoang bản sự nữa, Mã Đan Dương đem diệu đạo huyền cơ cẩn thận chỉ bày cho Khưu Trường Xuân. Khưu Trường Xuân chăm chú lắng nghe không dám lơ là.

Về sau, Mã Đan Dương thấy đất Sở cảnh tượng phồn hoa, lại không bằng sự giản dị nơi đất Thiểm Tây nên bèn cùng Khưu Trường Xuân đến thẳng Thiểm Tây. Một ngày trời giáng tuyết lớn, khiến hai người bị vây mắc trong miếu vắng. Mã Đan Dương lần này ra đi gấp gáp, chỉ mang theo vài bộ quần áo để thay giặt và ít bạc vụn. Bạc đều dùng hết rồi, cho nên không mua được nệm cói, người tu hành vốn không cầu an dật, vì vậy hai người lưng tựa lưng, đả tọa luyện công trên chung một cái nệm.

Liên tiếp mấy ngày, gió tuyết ngăn trở, không thể ra ngoài xin ăn. Khưu Trường Xuân không nhận ra Mã Đan Dương là người đã đắc đạo, chỉ lo Mã Đan Dương xuất thân con cái nhà giàu, sợ ông chịu không nổi đói rét như vậy. Cho nên thân ngồi ở trên đệm, nhưng trong lòng lại đang suy nghĩ làm sao đi kiếm người xin một bát cháo về cho sư huynh ăn cho khỏi đói rét. Suy nghĩ qua lại một hồi, vô tình thân đã rời khỏi đệm. Ông đi ra cửa miếu nhìn, chỉ thấy tuyết trắng xóa đất Tần Lĩnh, không thấy lối đi, nếu nghĩ có thể tìm được ai đó thì chỉ e là vọng tưởng.

Ai ngờ ngôi miếu vắng này là từ miếu của địa phương. Niệm đầu ăn cháo hỗn loạn của Khưu Trường Xuân sớm đã kinh động đến thần thổ địa nơi đây. Thổ thần biết hai vị đạo nhân này tương lai nhất định sẽ trở thành tiên, hôm nay bị mắc kẹt ở trong đền thờ của mình, nếu như mình không dốc sức tương trợ, sợ sẽ bị đạo tiên quở trách. Vì vậy, thổ thần vội vàng đến báo mộng cho ông lão họ Trương nhà trong khe núi: bởi vì sự cản trở của gió tuyết, khiến hai người tu hành trú ở trong miếu của thổ thần đã bị đói ba ngày ba đêm, ông cần mau mau chuẩn bị một ít thức ăn nước uống đem đến cho họ. Sau khi tỉnh dậy, lão Trương đem giấc mộng nói cho vợ nghe, vợ ông vốn là người rất mực tín Thần, nên đã vội vàng chuẩn bị cơm canh. Sau đó cả nhà vui vẻ đem cơm đến nơi thờ thổ địa, đem thức ăn cung dưỡng cho hai huynh đệ.

Mã Đan Dương thấy cả nhà ông lão họ Trương bất chấp gió tuyết đem cơm đến miếu vắng, nghĩ rằng là người ở lân cận thấy được hai người đang gặp khó khăn rồi sinh lòng trắc ẩn mà đến, vì thế luôn miệng nói tạ ơn. Chẳng dè, Khưu Trường Xuân lúc này lại tỏ ra thần bí khó lường nói với sư huynh: “Xem ra người tu hành cũng có công năng cảm ứng thiên địa thần linh. Tôi đêm qua sợ sư huynh khó nhịn đói, ngẫu nhiên xuất ra niệm đầu mong có cháo giải đói khát cho sư huynh, sáng nay liền có người đưa cơm tới. Nhất định là cảm ứng còn gì?” Khưu Trường Xuân nếu không nói ra, Mã Đan Dương còn mông lung không biết; điểm này khi vừa nói ra, Mã Đan Dương đột nhiên biến sắc, nói: “Quân tử mưu cầu Đạo không mưu cầu ăn, anh không nghĩ tăng tiến công phu tu đạo, lại tham ăn uống. Một niệm không phù hợp, có thể nào ngộ đạo sao? Tôi hôm nay không đồng hành cùng anh nữa, tới đây chia tay thôi!” Khưu Trường Xuân hối hận vì niệm đầu sai lầm của mình, thỉnh cầu sư huynh ở lại.

Nói xong thì vừa vặn ngoài miếu có một người tiều phu đi tới. Mã Đan Dương liền mượn dao chặt củi của ông ta, cắt đệm ngồi ra làm hai nửa, nói với Khưu Trường Xuân: “Một chiếc đệm giờ phân hai nửa, từ nay về sau ai nấy tự đả tọa luyện công, đừng để ban đầu chăm chỉ mà về sau lại xao nhãng, lỡ mất tiền đồ!” Nói xong đi thẳng ra cửa miếu đầu không ngoảnh lại. Khưu Trường Xuân đuổi theo ra cửa miếu, thì nào còn thấy bóng dáng sư huynh đâu nữa. Mã Đan Dương vốn đã tu thành đạo quả, muốn cho Khưu Trường Xuân có thể tự mình tu luyện, bèn dùng phép độn thân mà đi.

Tu đạo cần phải giữ thuần chính mỗi một niệm, chính niệm chính ngộ, tinh tấn không ngừng. Không chỉ có vậy, mỗi người đều phải tự mình chứng ngộ, không thể dựa dẫm vào sự bang trợ của người khác.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/16798

The post Câu chuyện tu luyện Đạo gia: Tu hành cần phải thuần chính nhất tư nhất niệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đứchttps://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.htmlhttps://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.html#respondFri, 19 Apr 2013 15:02:21 +0000http://chanhkien.org/?p=21725Ngày xưa, có một gia đình giàu có. Người chủ nhà khi già mới sinh được người con trai.

The post Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Ngày xưa, có một gia đình giàu có. Người chủ nhà khi già mới sinh được người con trai. Ông vốn là người lương thiện và được ăn học nên đặt tên cho đứa con mới sinh là Tịnh Bản, có nghĩa là tràn đầy thiện tâm. Cái tên này đại biểu cho đặc tính của tổ tiên gia đình dựa trên nền tảng thuần tịnh của họ. Đứa bé trai trông rất đẹp đẽ, tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Cả nhà ông đều rất hạnh phúc. Lúc đó, từ một ngọn núi xa có một vị Đạo trưởng đang dùng huệ nhãn ngồi quan sát thế gian. Bỗng nhiên, ông nhìn thấy ngôi nhà của gia đình nọ được bảo phủ trong những đám mây tốt lành màu sáng tía. Ông vô cùng ngạc nhiên nên vội vã đến xem.

Người chủ nhà gặp vị khách từ xa đến và tiếp đãi vị Đạo trưởng với lòng hiếu khách nồng nhiệt rất tự nhiên. Vào lúc đó, người đầy tớ đang giữ đứa bé trai nhỏ và chơi với nó. Khi đứa bé nhìn thấy vị Đạo trưởng, cái miệng bé xinh của nó cười to. Điều ấy khiến chủ nhà và người đầy tớ cười theo, tạo nên một bầu không khí rất vui vẻ. Vị Đạo trưởng nhìn thoáng qua đứa bé và biết rằng nó sẽ là đệ tử của ông trong tương lai. Chỉ có một điều duy nhất ông cần nói với chủ nhà là: “Đứa bé này sinh ra với bản tính ngang bướng, lại có tướng đoản mệnh. Nó chỉ sống tới 17 tuổi mà thôi. Nếu nó theo học Đạo với ta, số phận nó có thể thay đổi.” Khi chủ nhà và người đầy tớ còn đang đắm mình trong bầu không khí vui tươi nghe về số phận ngắn ngủi của đứa bé, họ chết lặng và không còn cười được nữa. Đột nhiên, người chủ nhà trở nên giận dữ và cắt lời: “Làm thế nào mà người ta có thể lợi dụng dịp lễ này để thốt lên những lời lăng mạ người khác được chứ?” Ông ấy yêu cầu vị Đạo trưởng rời đi. Trước khi rời đi, vị Đạo trưởng nhắc lại với người chủ nhà rằng đó là phương cách cuối cùng của họ, rằng chắc chắn phải cho đứa bé học Đạo.

Đúng như lời vị Đạo trưởng đã nói, tính khí đứa bé rất ngỗ ngược. Anh ta chẳng thích đọc Tứ thư Ngũ kinh hay nghe những lời dạy về Thiện và Đức. Anh ta chẳng chú ý gì đến tất cả những thứ đó. Anh ta chỉ quan tâm đến những gì những đứa trẻ giàu có yêu thích. Một ngày nọ, khi Tịnh Bản 15 tuổi, người chủ nhà đột nhiên nhớ lại lời vị Đạo trưởng đã nói. Trong tâm ông đầy sự ngờ vực, và ông ta tìm thầy bói cho con trai. Một vài thầy bói nói rằng con trai ông chỉ sống đến 17 tuổi. Lần này ông rất lo lắng. Nếu điều đó xảy ra, tim ông sẽ tan nát. Vì vậy, ông quyết định dẫn con trai đến ngọn núi nơi vị Đạo trưởng ở. Ông ta cầu xin vị Đạo trưởng tha thứ cho tội bất kính của mình cách đây nhiều năm.

Vị Đạo trưởng bắt đầu dạy Tịnh Bản những pháp lý về Đạo. Sau vài ngày, vị Đạo trưởng nhận ra là Tịnh Bản không nghe lời của những bậc Thánh hiền về Đạo và Đức. Ông suy nghĩ cẩn thận và nghĩ ra một cách. Một ngày nọ, vị Đạo trưởng dẫn Tịnh Bản theo với một lưỡi cày bằng sắt đến một mảnh đất cằn cỗi trên núi để cày cấy và trồng trọt. Ông cày nhiều luống cày và sau đó rải tay ra. Sau đó, ông lấp luống cày lại. Ông làm nhiều lần điều đó trong vài phút. Tịnh Bản thấy rằng tay của vị Đạo trưởng trống rỗng, không có hạt giống nào. Anh ta tò mò hỏi: “Sư phụ, ngài đang làm gì vậy?” Vị Đạo trưởng trả lời một cách nghiêm túc: “Ta đang trồng Đức.” Khi Tịnh Bản nghe thế, anh ta cười lớn và không biết để làm gì. Anh ta nói: “Sư phụ, trên thế gian này khi gieo trồng cần phải có hạt giống. Vậy Đức cũng có hạt giống nữa sao? Sư phụ, ngài thật sự rất khôi hài ở tầm tuổi này.” Vị Đạo trưởng vẫn nói một cách nghiêm túc, “Tất nhiên là Đức có hạt giống. Hạt giống của Đức là Thiện. Con thấy mỗi niệm lương thiện đánh trong tay tức thì có những màu sắc ánh sáng khác nhau. Con xem, ví dụ như, ta nghĩ rằng ta hy vọng là Tịnh Bản sẽ tu Đạo tốt …” Vị Đạo trưởng đẩy công năng ra ngoài. Tịnh Bản nhìn thấy ngài đưa ra một niệm, là áng mây màu sáng vàng kim. Ánh sáng hạ một lần nữa xuống gan bàn tay ngài. Vị Đạo trưởng đặt ánh sáng đó trong đất, và sau đó lấp luống cày lại.

Vị Đạo trưởng đưa thần thông ra ngoài bằng tay của mình và cho Tịnh Bản thấy nó. Mỗi niệm lương thiện được đưa ra có màu sắc khác nhau, như đỏ, cam, vàng, xanh lục, lục lam, xanh lam và tím. Các màu sắc khác nhau thật mỹ lệ. Tâm của Tịnh Bản dần dần được điều chỉnh đúng đắn. Trong quá trình gieo trồng Đức, Tịnh Bản dần dần quên đi sự ương ngạnh của mình. Anh ta hiểu rằng có thêm nhiều điều kỳ diệu về sinh mệnh nếu họ có một trái tim tốt đẹp và niệm thiện lương. Kể từ đó, Tịnh Bản cần mẫn cùng với sư phụ gieo trồng Đức trên mảnh đất khô cằn.

Một ngày nọ, Tịnh Bản nghĩ đến việc sau khi gieo trồng, họ phải tưới để cây lớn lên trong đời này. Vậy phải dùng gì để tưới những hạt giống Đức được gieo trồng? Hơn nữa, đã không mưa nhiều năm, và đất thì cằn cỗi. Sau khi hoàn thành công việc, Tịnh Bản chạy đến hỏi sư phụ. Vị Đạo trưởng nói, “Tất nhiên là Đức được gieo trồng thì phải cần được tưới bởi Pháp lý của thiên thượng. Con xem …” Ông vẫy tay. Mảnh đất Tịnh Bản vừa gieo trồng đã thay đổi dưới tác động của Pháp lý trên thiên thượng. Nó không ngừng được cải biến. Mọi thứ dường như rất đẹp đẽ và kỳ lạ. Mảnh đất bắt đầu màu mỡ, sinh sôi, và một loại cỏ thơm linh chi kỳ lạ đã nở hoa. Sau đó mảnh đất trở thành vinh hoa phú quý của thế tục. Mảnh đất cằn cỗi cho thấy một tầng trời trong sáng nơi có nhưng sinh mệnh khác nhau. Họ dường như đang mỉm cười và phủ phục trước Tịnh Bản.

Kể từ đó, đầu óc ương bướng của Tịnh Bản được khai mở. Việc ước đoán về cuộc đời 17 năm của anh đã thay đổi nhờ gieo trồng Đức và tu Đạo. Đây là kết quả kỳ diệu của việc gieo trồng Đức.

Đúng là:

Niệm thiện trồng đức trời đất sinh,
Sắc thái rực rỡ vũ trụ minh;
Người đời trồng đức sinh phú quý,
Tu Đạo trồng đức lên thiên đình.

Ghi chú: Khi tôi đọc bài thơ “Tai nạn vi hà đa” trong Hồng Ngâm III hôm qua, Sư phụ giảng, “Chúng sinh bất đức tai nạn tự kỷ chủng”. Nhờ khai mở của đoạn Pháp này, tôi liền nghĩ đến cố sự bên trên.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2011/11/9/78514.html
http://pureinsight.org/node/6233

The post Tu luyện cố sự: Gieo trồng Đức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/04/tu-luyen-co-su-gieo-trong-duc.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quânhttps://chanhkien.org/2012/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-khuu-xu-co-phung-chieu-khuyen-hoa-nghia-quan.htmlhttps://chanhkien.org/2012/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-khuu-xu-co-phung-chieu-khuyen-hoa-nghia-quan.html#respondFri, 13 Apr 2012 04:32:54 +0000https://chanhkien.org/?p=16216Khưu Xứ Cơ, một trong "Toàn Chân Thất Tử", nhờ khổ tu mà hiện xuất một số thần tích, thanh danh ngày càng lớn.

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Khưu Xứ Cơ, một trong “Toàn Chân Thất Tử”, nhờ khổ tu mà hiện xuất một số thần tích, thanh danh ngày càng lớn. Kim Thế Tông, Hoàng đế nước Kim thời bấy giờ nghe đại danh Khưu Xứ Cơ, nên triệu ông vào cung yết kiến. Khưu Xứ Cơ đến rồi, Kim Thế Tông mới hỏi ông lý nhân sinh, Khưu Xứ Cơ nói: “Tích tinh dưỡng thần là mấu chốt của tu thân, thực hành vô vi là căn bản để trị thiên hạ. Phú quý sinh dâm là lý thường của con người, cần hết sức tự đề phòng. Nếu có thể kiên trì như vậy, khoảng cách đến tiên Đạo đã không còn xa nữa. Những cách nói hoang đường quái dị khác, xin chớ có tin”. Sau này Kim Thế Tông lại một lần nữa triệu kiến Khưu Xứ Cơ, Khưu Xứ Cơ phân tích lý Trời và người, Kim Thế Tông nghe xong sắc mặt vui mừng.

Khi ấy Khưu Xứ Cơ có thể nhân lúc Hoàng thượng cao hứng mà đắc được phú quý công danh, nhưng ông là một người tu luyện, hoàn toàn không có hết thảy tâm danh lợi ở nhân gian. Bởi vậy không lâu sau, ông xin trở về núi Chung Nam tu luyện. Sau khi Khưu Xứ Cơ trở về núi, Kim Thế Tông lại thưởng cho mười vạn quan tiền, nhưng bị ông dùng lời khéo từ chối.

Sau đó đến những năm Thái Hòa của Kim Chương Tông (1201-1208 SCN), Kim, Tống hai triều khai chiến, quần chúng các nơi ở Sơn Đông đua nhau khởi nghĩa kháng Kim. Dương An Nhi (nguyên danh Dương An Quốc), người huyện Ích Đô cũng tập hợp quần chúng khởi nghĩa, sau bị triều Kim chiêu an, được phong làm Thích Sử, giữ chức Phòng Ngự Sử. Năm Sùng Khánh thứ 2 Kim Vệ Thiệu Vương (1212 SCN), quân Mông Cổ bao vây Trung Đô, Vệ Thiệu Vương hạ lệnh Dương An Nhi dẫn quân tác chiến. Dương An Nhi hành quân tới núi Kê Minh, đến nửa đường bỏ chạy về Sơn Đông, lại một lần nữa khởi nghĩa kháng Kim. Bởi vì thuộc hạ lấy mặc áo đỏ làm dấu hiệu, nên gọi là “Hồng áo quân”.

Khi ấy Đô Úy phụ trách bình loạn Sơn Đông là Phó Tán An Trinh nghĩ tới Khưu Xứ Cơ đức cao vọng trọng, nên muốn mời ông tới chiêu an nghĩa quân. Khưu Xứ Cơ vì muốn gắng sức cứu người nên vui vẻ đồng ý. Phó Tán An Trinh phái quân bảo vệ Khưu Xứ Cơ tiến lên, nhưng Khưu Xứ Cơ nói: “Triều đình đã phải phái quân, còn cần ta làm gì? Không bằng để sư đồ ta cầm chiếu thư tiến lên, lấy đó chứng minh rằng triều đình tuyệt không có ác ý gì”. Phó Tán An Trinh đồng ý. Bởi vậy, Khưu Xứ Cơ không mang theo quân lính nào, mà chỉ dẫn mấy đồ chúng tiến lên.

Mấy sư đồ Khưu Xứ Cơ vừa nhìn thấy thủ lĩnh Hồng áo quân liền nói: “Triều đình Nam Tống ngu dốt hủ bại, sau khi tự sát hại anh hùng Nhạc Phi kháng Kim, Thiên Đế phẫn nộ, không phù hộ nhà Tống nữa. Triều Kim cũng hết hy vọng rồi, người tới diệt họ sắp tới đây, nhưng không phải các vị! Các vị làm ầm lên như thế, cuối cùng đại họa rơi xuống đầu. Thỉnh các vị trở về nhà làm lương dân, đợi sau này chiến sự nổ ra, ta sẽ có cách bảo hộ các vị”. Đám người này xưa nay đều kính ngưỡng Khưu Xứ Cơ, nên rất nhiều người sau khi nghe ông nói liền bày tỏ ước nguyện thụ chiêu an, trở về làm dân thường, mặc dù không nghe lệnh của triều Kim.

Sau đó, Phó Tán An Trinh thừa cơ trấn áp các Hồng áo quân không thuận chiêu an, khiến châu huyện mà Hồng áo quân chiếm đóng lần lượt thất thủ. Cuối năm ấy, Dương An Nhi kiên trì tạo phản đọa xuống nước mà chết, Hồng áo quân còn lại do em gái của y là Dương Diệu Chân thống lĩnh tiếp tục kháng Kim, sau phải đi nhờ cậy Nam Tống. Nhưng Nam Tống lại coi họ là phe đối lập, nên mới nhân cơ hội tiêu diệt họ. Tới đây, trong số những người từng gia nhập Hồng áo quân, chỉ những ai nghe lời khuyên rút lui của Khưu Xứ Cơ mới bình an vô sự, còn lại đều bị Kim hoặc Nam Tống tiêu diệt.

Sau khi đọc đoạn cố sự này, tôi cảm thán rất nhiều. Khưu Xứ Cơ là người tu luyện, hoàn toàn không có tâm truy cầu quyền lợi ở nhân gian. Nhưng có người chấp trước vào quyền lực, vào chính trị, thấy Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quân, có thể nghĩ chẳng phải ông đang phục vụ cho người thống trị triều Kim, đang tham dự chính trị?

Kỳ thực sự truyền bá chính tín, bất luận đối với nhân dân hay người thống trị, thì đều có chỗ tốt, thế nhưng tuyệt không phải khái niệm “phục vụ cho người thống trị”. Chính tín với chính trị là vô quan, Khưu Xứ Cơ là một người xuất gia, đối với chính trị cũng là vô quan. Tôi nghĩ: Sở dĩ ông phụng chiếu khuyến hóa Hồng áo quân, chẳng qua là ông gắng sức cứu người thôi, chứ trong tâm ông hoàn toàn không có truy cầu quyền lực hay lợi ích gì ở thế gian. Khưu Xứ Cơ đã nhìn thấu an bài của thiên thượng, biết được khởi nghĩa Hồng áo quân sẽ không có kết quả tốt đẹp, nên mới khuyên họ trở về nhà. Kết cục cuối cùng của sự kiện đã chứng minh câu nói của Khưu Xứ Cơ, ai không nghe lời khuyến thiện của Khưu Xứ Cơ đều bị tiêu diệt.

Hôm nay, học viên Pháp Luân Công khuyên người thoái đảng, đoàn, đội để bảo đảm bình an, bởi vậy một số người ngộ nhận rằng học viên Pháp Luân Công đang tham dự chính trị. Kỳ thực sự hồng truyền của Pháp Luân Công cùng với chính trị là vô quan, học viên Pháp Luân Công đều là người tu luyện chân chính, là không quan tâm tới quyền lực thế gian. Trong tu luyện, họ biết rằng mấy chục năm qua Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bức hại nhân dân, kể từ năm 1999 lại bức hại tàn khốc những học viên Pháp Luân Công lương thiện, gây ra tội nghiệt tày trời, nhất định phải bị Trời diệt. Đến lúc ấy tất cả những ai không nguyện thoái xuất tổ chức của tà đảng đều trở thành vật tuẫn táng chôn theo tà đảng. Không muốn họ bị liên lụy vì sự diệt vong của tà đảng, các học viên Pháp Luân Công mới khuyên người thoái đảng, đoàn, đội của Trung Cộng để giữ tính mạng; trong tâm họ chỉ nghĩ tới cứu người, chứ không nghĩ tới quyền lực thế gian; hành vi của họ chỉ liên quan tới cứu người, chứ vô quan với chính trị.

Việc trước chưa quên, việc sau đã tới. Những người theo Hồng áo quân năm xưa, nhờ nghe theo lời khuyên thoái xuất của Khưu Xứ Cơ mà giữ được tính mạng; hôm nay, phàm là những ai tin lời học viên Pháp Luân Công, tuyên bố thoái đảng, đoàn, đội (có thể dùng biệt danh), thì trong tương lai không xa khi Trời diệt Trung Cộng sẽ nhất định được bình an, từ đó tiến nhập tương lai tốt đẹp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/23/60709.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Khưu Xứ Cơ phụng chiếu khuyến hóa nghĩa quân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-khuu-xu-co-phung-chieu-khuyen-hoa-nghia-quan.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Mã Ngọc và Tôn Bất Nhịhttps://chanhkien.org/2012/02/dao-gia-tu-luyen-co-su-ma-ngoc-va-ton-bat-nhi.htmlhttps://chanhkien.org/2012/02/dao-gia-tu-luyen-co-su-ma-ngoc-va-ton-bat-nhi.html#respondWed, 15 Feb 2012 07:40:33 +0000https://chanhkien.org/?p=16133Cao nhân Đạo gia Vương Trùng Dương có bảy vị đệ tử trứ danh, người ta gọi chung là "Toàn Chân Thất Tử".

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Cao nhân Đạo gia Vương Trùng Dương có bảy vị đệ tử trứ danh, người ta gọi chung là “Toàn Chân Thất Tử”. Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị trong Toàn Chân Thất Tử trước khi xuất gia từng là vợ chồng. Hôm nay chúng ta sẽ kể về cố sự hai người họ.

Mã Ngọc nguyên danh là Mã Tùng Nghĩa, tự Nghi Phủ, trước khi xuất gia là một người nhà giàu trong vùng, gia tài lên tới vạn quan tiền, hiệu xưng là “Mã Bán Châu”. Sau khi bái Vương Trùng Dương làm sư, ông cải danh thành Mã Ngọc, tự Huyền Bảo, đạo hiệu Đơn Dương Tử, bởi vậy cũng được gọi là Mã Đơn Dương, hoặc Đơn Dương Chân Nhân. Vợ ông tên gọi là Tôn Phú Xuân, sau khi bái Vương Trùng Dương làm sư cải danh thành Tôn Bất Nhị, đạo hiệu Thanh Tĩnh Tản Nhân, người đời gọi là “Tôn Tiên Cô”. Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị, trước khi đắc Đạo Pháp chính là hai người đại thiện trong vùng; hai người trọng nghĩa khinh tài, ưa làm việc thiện, gặp người vay tiền mà không trả được thì vô tư đốt biên lai đi.

Một ngày, Mã Ngọc tìm thuật sĩ Tôn Tử Nguyên tới toán quái, vừa bói được thì kết quả là “thọ không quá 49 tuổi”. Mã Ngọc liền cảm thán: “Sinh tử quả không do người vậy!”, lại bày tỏ tâm nguyện cầu người có Đạo, học tập phép tu luyện.

Năm Đại Định thứ 7 Kim Thế Tông (1167 SCN), Mã Ngọc cuối cùng gặp được Vương Trùng Dương, bái ông làm sư, muốn xây một am tu Đạo để Vương Trùng Dương ở. Trước đây, từng có hai chú hạc lạc vào vườn rau nhà Mã Ngọc. Vương Trùng Dương lập tức chọn chỗ hạc lạc vào để xây am, khiến Mã Ngọc rất đỗi ngạc nhiên. Am vừa xây xong, Vương Trùng Dương đặt tên am là “Toàn Chân”, lại đem sách quý cất trong am.

Vương Trùng Dương sau khi ở tại nhà Mã Ngọc thì tìm trăm phương ngàn kế thuyết phục đôi vợ chồng bỏ nhà nhập Đạo. Một ngày, Vương Trùng Dương tặng Mã Ngọc một quả lê để ông ăn, ngụ ý rằng: “lê” tức là “ly”, tức là muốn khuyên Mã Ngọc ly hương, xuất gia tu Đạo, lại vẽ một chiếc đầu lâu kèm bài thơ để khuyên đôi vợ chồng tùy cơ tu Đạo, thơ rằng:

Cười ngạo nhân sinh chốn ưu sầu,
Hôm nay ta vẽ chiếc đầu lâu.
Sinh tiền chỉ tạo thêm oan nghiệp,
Cứ mãi như thế thời nào hưu.

Sau khi Vương Trùng Dương liên tục điểm hóa, Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị cuối cùng lần lượt xuất gia tu Đạo. Hai người chấm dứt quan hệ vợ chồng mà gọi nhau là đạo hữu. Khi xuất gia, Mã Ngọc còn viết một bài thơ gọi là “Từ gia”:

Sống mãi trong mê giống thế nhân,
Khổ lại thêm khổ càng nhọc thân.
Tình cờ đắc ngộ thông huyền diệu,
Há còn ở nhà đắm Phú Xuân.

Phú Xuân trong bài thơ là tục danh trước khi xuất gia của Tôn Bất Nhị.

Sau khi xuất gia, một ngày Mã Ngọc bỗng đau đầu đến mức “không thể chịu nổi, như có búa bổ”. Hôm ấy Vương Trùng Dương cũng đột nhiên nói với một đệ tử: “Mã Ngọc hoại đạo quy rồi”. Đệ tử ấy hỏi làm sao biết được? Vương Trùng Dương đáp: “Đêm qua ta mơ thấy ông ta uống rượu rồi”. Vương Trùng Dương phái đệ tử đi thẩm tra, mới biết quả nhiên Mã Ngọc đã uống rượu.

Khi bệnh đau đầu của Mã Ngọc càng ngày càng nghiêm trọng, bỗng có người đến báo: “Mã Ngọc đau đầu sắp chết đến nơi rồi”. Vương Trùng Dương nghe xong đáp: “Ông ta là vì tín Đạo bất thành, nên mới mắc bệnh này”. Sau đó Vương Trùng Dương ban nước cho Mã Ngọc, Mã Ngọc uống xong bệnh khỏi ngay tức khắc. Vương Trùng Dương nhắc nhở Mã Ngọc: “Người tu Đạo, trước tu đoạn tửu sắc tài vận, sau tu đoạn ái niệm, ưu sầu tư lự. Từ nay không nói nữa, nếu vẫn không nghe, tiết ra linh đan, tính mệnh không còn”.

Mã Ngọc trải qua việc này mới nhận thức được tính nghiêm túc của tu luyện, từ đó chân thực tu luyện, gặp việc gì cũng vứt bỏ được. Dẫu có thanh sắc cảnh vật xung quanh đẹp thế nào cũng như nhìn mà không thấy, có tai cũng không nghe, xả tận vọng niệm, đến ngay cả thân thể cũng vứt bỏ, cuối cùng thành chính quả.

Nghe nói sau khi xuất gia, Mã Ngọc chỉ dùng thời gian 3 năm là đã đắc Đạo, là người tu luyện đắc Đạo nhanh nhất trong Toàn Chân Thất Tử. Theo cách nói của sư đệ Khưu Xứ Cơ, thì Mã Ngọc sở dĩ thành Đạo mau chóng, là vì sinh mệnh ông trong lịch sử đã đặt định cơ sở rất tốt cho tu luyện đời này, do đó một khi sư phụ chỉ điểm, thì tốc độ đắc Đạo rất mau. Trước khi rời thế gian, Vương Trùng Dương đơn truyền 5 bài bí quyết Toàn Chân cho Mã Ngọc, lại gửi gắm trọng trách truyền bá Đạo Pháp cho ông. Từ đó Mã Ngọc trở thành đại tôn sư thứ hai của Toàn Chân.

Sau khi đắc Đạo Pháp, Tôn Bất Nhị vẫn lưu lại nơi đó tiếp tục truyền Đạo tu luyện. Sau đó bà tới động Phượng Tiên Cô ở Lạc Dương tu Đạo. Ngày 29 tháng 12 năm Đại Định thứ 12 triều Kim (1182 SCN), Tôn Bất Nhị triệu tập chúng đệ tử, nói với họ mình phải đi dự hội cung Diêu Trì, dặn dò xong rồi nói: “Sư tôn có ước hẹn, tất cả đến dự Diêu Trì, thời hạn đã tới!” Nói rồi tắm gội thay áo, sau lại hỏi tả hữu: “Sắc trời sớm hay tối?” Đệ tử đáp: “Giờ Ngọ rồi ạ”. Tôn Bất Nhị nói: “Ta phải đi đây, các ngươi tu luyện cho tốt nhé”. Nói xong ngồi tọa ngay ngắn, không bệnh mà chết, năm ấy 64 tuổi. Tôn Bất Nhị tọa hóa rồi mà sắc mặt vẫn như sống, hương gió lành thổi cả ngày không tản.

Vào ngày Tôn Bất Nhị tọa hóa, Mã Ngọc đang tại Ninh Hải, Sơn Đông thì đột nhiên nghe tiếng tiên nhạc vang trên không trung; ông ngẩng đầu xem, chỉ thấy Tôn Bất Nhị cưỡi mây tía tới, cười nói: “Ta về Bồng Đảo trước nhé”. Nói xong lại cưỡi mây tía bay đi. Mã Ngọc lập tức phất tà áo múa bài “Túy tiên lệnh”. Chúng đệ tử không rõ cớ chi, kinh ngạc đứng một bên xem ông vừa ca vừa múa. Mã Ngọc múa xong, đệ tử mới hỏi: “Hôm nay sư phụ thế nào vậy?” Ông hoa chân múa tay nói với chúng đệ tử: “Hôm nay có việc mừng phi thường!”

Một ngày tháng Giêng năm Đại Định thứ 13 triều Kim (1183 SCN), có người bẩm báo Tôn Bất Nhị đã ly thế quy thiên tại Lạc Dương. Mã Ngọc nói: “Sở dĩ hôm ấy ta ca vũ, là vì ta đã tận mắt nhìn thấy bà ấy cưỡi mây tía tới, rồi bay về biển Đông trong tiếng tiên nhạc”. Ngày Hạ Nguyên năm ấy (ngày 15 tháng 10), Mã Ngọc đột nhiên nghe thấy từ không trung có tiếng báo: “Trùng Dương Chân Nhân tới”. Khi ấy các đệ tử Diêu Huyễn, Linh Ngọc đứng bên cạnh cũng nghe ấy thanh âm đó. Không lâu sau, Vương Trùng Dương đầu quấn khăn xanh, thân mặc bào trắng, cưỡi trên Bạch Quy Bích Liên hiện ra trên không trung; rùa thần vừa rung đuôi xong, trong khoảnh khắc đã biến mất về Đông Nam. Khi ấy ni cô Huyền Linh cũng tận mắt trông thấy, bách tính nhìn thấy cũng hoan hô quỳ bái, có người còn quỳ lạy vũng bùn dưới đất.

Tháng 12, ngày Vương Trùng Dương sinh nhật, Mã Ngọc du Tiên Quan tế điện tại Lai Dương, nhiều lần ngóng lên không trung, không lâu sau quả nhiên thấy Vương Trùng Dương và Tôn Bất Nhị cưỡi mây lành phiêu phiêu bay tới. Mã Ngọc nói: “Đường đường trở lại, làm một hoạt tiên khoái lạc”. Sau đó ông gọi đệ tử Lưu Chân lại nói: “Các ngươi mong được thành tiên đắc Đạo, phải nhớ tích công tu hành, dẫu có gặp nghìn ma vạn nạn, cũng chớ có thoái lui, sau này sẽ tự nhiên minh bạch lời ta”. Mã Ngọc nói xong nằm hướng về phía Đông, cười nói cho tới canh hai ban đêm, bỗng nhiên mưa gió nổi lên, lại nghe thấy sấm nổ một tiếng, Mã Ngọc quy tiên, thọ 61 tuổi.

Sau khi Mã Ngọc từ thế, triều Kim từng có một dạo cấm Toàn Chân giáo phát triển, cấm dân gian xây am, cấm đạo sĩ vân du, bắt các đạo nhân trở về quê, khiến các đệ tử Toàn Chân kiên định tu Đạo gặp không ít ma nạn. Lúc này họ đều nhớ lời dặn dò của Mã Ngọc, quyết không lùi bước, kiên định tu Đạo. Sau đó cuối cùng mây khói tan hết, triều Kim lại một lần nữa cho phép Toàn Chân giáo truyền bá.

Năm Chí Nguyên thứ 6 (1269 SCN), Nguyên Thế Tổ phong Mã Ngọc là “Đơn Dương Bão Nhất Vô Vi Chân Nhân”, lại phong Tôn Bất Nhị là “Thanh Tịnh Uyên Chân Thuận Đức Chân Nhân”.

Mã Ngọc một đời không chỉ lưu lại cố sự tu luyện của bản thân, mà còn lưu lại rất nhiều thơ từ liên quan đến tu luyện. Ở đây chỉ xin giới thiệu hai bài:

Ngư gia ngạo tặng chúng sư huynh

“Xin khuyên đồng lưu nghe cho kỹ. Đoạn dứt giới rượu thật dễ dàng. Không luyến của cải ấy chuyện nhỏ. Điều khó là. Dính mắc dẫu nhẹ vô minh khởi. Đại để sắc tâm khó vứt bỏ. Muốn dứt hay không là do mình. Chúng như kẻ thù như quỷ sống. Cần tránh xa. Ngay trong giấc mộng cũng phải tránh.”

Mãn đình phương khuyến đạo hữu

“Liên thê ái thiếp, ưu nhi sầu nữ. Nhất tâm vì sự nghiệp danh lợi, há ngừng lại đó. Như ong hút nhụy thành mật, nói là ngọt nhưng cực nhọc. Đâu cũng là mê, như con thiêu thân, tới khi đắp mộ. Hỡi cha, ông, con, vào lúc bi thảm, liệu ai thương xót. Ai ai cũng đều tham ái, tham hưởng phú quý. Chết rồi không ai hưởng thay, hãy mau quay đầu tỉnh ngộ. Ở ngoài vật, vô vi thanh tĩnh mới là đường tiên.”

Ngoài ra dân gian còn lưu truyền rất nhiều truyền thuyết về Mã Ngọc, ví như hí kịch triều Nguyên có hai vở liên quan đến Mã Ngọc. Trong đó một vở gọi là “Mã Đơn Dương tam độ Nhậm Phong Tử”, chính là nói về cố sự Mã Đơn Dương, hay Mã Ngọc độ hóa người đồ tể. Toàn vở kịch tổng cộng 4 màn.

Nội dung kịch: Chân Nhân Mã Ngọc vận dụng thần thông quan sát, biết được trấn Cam Hà, núi Chung Nam có một người đồ tể họ Nhậm, hiệu Phong Tử, có duyên tiên, nên mới tới trấn điểm hóa ông. Sau khi Mã Ngọc tới trấn Cam Hà truyền Đạo khuyến thiện, người toàn trấn tin Đạo đoạn huân [không ăn thịt], đồ tể Nhậm Phong Tử không bán được nữa. Bởi vậy Nhậm Phong Tử và các đồ tể âm mưu giết chết Mã Ngọc. Nhậm Phong Tử cầm dao tới lều cỏ, định giết Mã Ngọc nhưng bị Thần hộ pháp chặt mất đầu. Ông đòi lại đầu từ Mã Ngọc, Mã Ngọc để ông tự mò mẫm, chẳng ngờ đầu vẫn trên thân; Nhậm Phong Tử đột nhiên ngộ ra, tự nguyện theo Mã Ngọc xuất gia. Mã Ngọc lệnh ông gánh nước tưới rau, tụng kinh tu Đạo; vợ ông dẫn con tới am khuyên ông hoàn tục, ông nhất định không nghe. Sau đó Nhậm Phong Tử nhiều lần được Mã Ngọc chỉ điểm, từ bỏ chấp trước vào tửu sắc tiền tài, cuối cùng thành chính quả.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/8/4/60912.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/02/dao-gia-tu-luyen-co-su-ma-ngoc-va-ton-bat-nhi.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Đàm Xứ Đoan đứng giữa tuyết cầu kiến Vương Trùng Dươnghttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-dam-xu-doan-dung-giua-tuyet-cau-kien-vuong-trung-duong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-dam-xu-doan-dung-giua-tuyet-cau-kien-vuong-trung-duong.html#respondThu, 19 May 2011 15:49:42 +0000https://chanhkien.org/?p=12068Tác giả: Mạc Cầu [ChanhKien.org] Tương truyền một trong những đệ tử của Vương Trùng Dương là Đàm Xứ Đoan, khi còn ở tại người thường, có một lần uống rượu say ngã xuống mặt đất phủ đầy tuyết giữa cơn gió rét. Sau lần đó ông đi lại khó khăn, đến đâu thầy thuốc […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Đàm Xứ Đoan đứng giữa tuyết cầu kiến Vương Trùng Dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Tương truyền một trong những đệ tử của Vương Trùng Dương là Đàm Xứ Đoan, khi còn ở tại người thường, có một lần uống rượu say ngã xuống mặt đất phủ đầy tuyết giữa cơn gió rét. Sau lần đó ông đi lại khó khăn, đến đâu thầy thuốc cũng nói rằng không có cách nào chữa trị. Cuối cùng, ông nghe nói Vương Trùng Dương Đạo Pháp cao thâm, nên mới đi tìm Vương Trùng Dương để bái kiến.

Chẳng ngờ Đàm Xứ Đoan khi đến nơi ở của Vương Trùng Dương thì gặp lúc bế môn, từ chối không cho khách vào nhà. Trước tình huống này, Đàm Xứ Đoan không hề quay đầu trở về, mà đứng ngoài cửa am một cách hết sức cung kính, mãi vẫn không đi, lấy đó để bày tỏ thành ý và thành tâm cung kính của mình. Hôm ấy đang là mùa Đông, trời dần dần tối, lại giữa lúc có trận tuyết lớn, Đàm Xứ Đoan vẫn cung kính y nguyên đứng đợi ngoài cửa. Ông đứng trong cơn bão tuyết như vậy cho tới tận giờ Tý (23 giờ đêm đến 1 giờ sáng); lúc ấy đột nhiên cuồng phong nổi lên mãnh liệt, cánh cửa am khép kín vậy mà bị gió đẩy mở toang.

Vương Trùng Dương lúc ấy đang ở trong am đợi thời cơ, khi thấy cửa am bị gió đẩy mở, biết cơ duyên của Đàm Xứ Đoan đã chín muồi rồi, mới ra đón đàm Xứ Đoan vào. Lúc ấy Đàm Xứ Đoan đã run lên cầm cập vì rét; Vương Trùng Dương bèn để ông ôm vào một bên chân mình. Khi ấy Đàm Xứ Đoan cảm thấy một luồng nhiệt đẩy vào cơ thể, một lúc sau mồ hôi đổ ra đầm đìa. Tiếp đó Vương Trùng Dương bảo Đàm Xứ Đoan hãy ngủ một giấc.

Sáng sớm hôm sau, Đàm Xứ Đoan sau khi tỉnh dậy đã hoàn toàn quên mất bệnh tật của mình, chỉ một lòng muốn mau chóng đến bái tạ Vương Trùng Dương. Vừa bước mấy bước, ông mới phát hiện căn bệnh vốn quấy rầy và gây đau nhức cho mình nay đã hoàn toàn tiêu mất rồi. Ông lập tức đến trước mặt Vương Trùng Dương, phủ phục dưới đất khấu đầu lạy tạ, nguyện bái ông làm sư phụ. Vương Trùng Dương vui vẻ tiếp nhận ông, ban cho ông đạo hiệu “Trường Chân Tử”. Từ đó Đàm Xứ Đoan tinh tấn tu luyện, cuối cùng tu thành, được người đời gọi là một trong “Toàn Chân Thất Tử”.

Đọc xong đoạn cố sự này, điều khiến tôi thán phục không phải là cách Vương Trùng Dương trị bệnh cho Đàm Xứ Đoan, trong lịch sử rất nhiều Giác Giả độ nhân đều đã từng trị bệnh cho con người rồi; điều khiến tôi thực sự thán phục chính là sự thành tâm của Đàm Xứ Đoan khi bái kiến Vương Trùng Dương. Loại thành tâm này đã sớm siêu xuất khỏi thường nhân, là thành tâm đối với sư phụ; cuối cùng ông có thể tu thành cũng chẳng có gì là lạ. Tôi nghĩ rằng: Người tu luyện trong lịch sử mà còn làm được như vậy, thì người tu luyện chúng ta ngày hôm nay, nhất định phải lấy thái độ kính Sư kính Pháp cung kính nhất, kiền thành nhất, khiêm tốn nhất, toàn tâm toàn ý nhất để đối đãi với Sư phụ và Đại Pháp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/11/60455.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Đàm Xứ Đoan đứng giữa tuyết cầu kiến Vương Trùng Dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-dam-xu-doan-dung-giua-tuyet-cau-kien-vuong-trung-duong.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Trùng Dương hóa độ Hác Đại Thônghttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-trung-duong-hoa-do-hac-dai-thong.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-trung-duong-hoa-do-hac-dai-thong.html#respondSat, 14 May 2011 11:11:32 +0000https://chanhkien.org/?p=11995Tác giả: Mạc Cầu [ChanhKien.org] Nghe nói cao nhân Đạo gia Vương Trùng Dương từng đến Đăng Châu, tỉnh Sơn Đông truyền Đạo, ở nơi đó có một cá nhân tên là Hác Đại Thông. Vương Trùng Dương dùng Pháp lực quan sát biết được Hác Đại Thông là người hữu duyên, nên mới quyết […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Trùng Dương hóa độ Hác Đại Thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Nghe nói cao nhân Đạo gia Vương Trùng Dương từng đến Đăng Châu, tỉnh Sơn Đông truyền Đạo, ở nơi đó có một cá nhân tên là Hác Đại Thông. Vương Trùng Dương dùng Pháp lực quan sát biết được Hác Đại Thông là người hữu duyên, nên mới quyết định hóa độ ông.

Thế là Vương Trùng Dương lựa cơ hội lúc Hác Đại Thông đang uống rượu trong tửu điếm, bèn đi đến trước mặt ông, ngồi quay lưng về phía ông. Hác Đại Thông thấy vị đạo trưởng này hành vi thật mười phần kỳ dị, không hiểu nổi nên mới hỏi: “Đạo trưởng cớ chi ngồi quay lưng về phía tôi? Xin ngài quay đầu lại cho.”

Vương Trùng Dương lập tức lên tiếng: “Tại sao ngươi không tự mình quay đầu lại đi?” Hác Đại Thông nghe đạo trưởng nói xong, mới thình lình ngộ ra: đạo trưởng là đến để độ ta, thế là lập tức chạy đến trước mặt Vương Trùng Dương quỳ bái. Vương Trùng Dương liền thu ông làm đồ đệ, ban cho đạo hiệu là “Điềm Nhiên Tử”.

Sau khi đọc xong đoạn cố sự này, tôi nghĩ: Hác Đại Thông ngộ tính quả thực rất tốt, chỉ một câu nói là đã được rồi. Chẳng qua đoạn cố sự trên thuyết minh rằng: trong quá khứ rất nhiều người tu Đạo khi thu đồ đệ thì thường không nói rõ ra, chỉ nói đôi câu vài lời để kiểm tra ngộ tính, tu luyện trong quá khứ quả thực rất khó khăn. Tuy nhiên hiện tại Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền tại nhân gian, đem vô số chân cơ ra giảng minh bạch rõ ràng, những người hữu duyên nhất định phải trân quý nhé!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/10/60443.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Trùng Dương hóa độ Hác Đại Thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-trung-duong-hoa-do-hac-dai-thong.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Xứ Nhấthttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-xu-nhat.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-xu-nhat.html#respondTue, 10 May 2011 08:58:33 +0000https://chanhkien.org/?p=11916Tác giả: Mạc Cầu [ChanhKien.org] Cao nhân Vương Trùng Dương của Đạo gia có một đệ tử tên là Vương Xứ Nhất. Vương Xứ Nhất, đạo hiệu Ngọc Dương Tử, là người Ninh Hải Đông Mâu. Mẹ ông, Chu Thị, khi sinh ông từng nằm mơ thấy có đám mây đỏ quấn lên thân mình. […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Xứ Nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Cao nhân Vương Trùng Dương của Đạo gia có một đệ tử tên là Vương Xứ Nhất. Vương Xứ Nhất, đạo hiệu Ngọc Dương Tử, là người Ninh Hải Đông Mâu. Mẹ ông, Chu Thị, khi sinh ông từng nằm mơ thấy có đám mây đỏ quấn lên thân mình. Vương Xứ Nhất mồ côi cha từ nhỏ, rất hiếu thảo với mẹ. Năm lên 7 tuổi, ông trải qua hiện tượng nguyên thần ly thể, đột nhiên chóng mặt ngã xuống, rất lâu sau mới tỉnh lại, từ đó hướng về tu luyện.

Đến tuổi trưởng thành, Vương Xứ Nhất được người ta đề nghị kết thông gia; Vương Xứ Nhất chỉ cười trừ không ưng thuận; mẹ của ông là Chu Thị cũng không ép ông. Năm Đại Định thứ 8 Kim Thế Tông (năm 1168 SCN), Vương Xứ Nhất gặp được Vương Trùng Dương, và bái ông làm sư phụ. Mẹ Vương Xứ Nhất là Chu Thị cũng có ý nguyện bái Vương Trùng Dương làm sư phụ để học Đạo. Vương Trùng Dương biết bà là người trinh khiết, ban cho bà tên Đức Thanh, hiệu Huyền Tĩnh Tản Nhân; từ đó cả hai mẹ con đều là đệ tử của Vương Trùng Dương.

Sau khi bái sư, Vương Xứ Nhất đứng vào hàng tả hữu của Vương Trùng Dương, được truyền thụ Đạo Pháp. Một ngày nọ, Vương Trùng Dương gọi ông đến và nói: “Động Vân Quang, núi Thiết Tra ở huyện Văn Đăng là nơi con trèo lên; con có thể đến đó ở, không được giải đãi”. Vương Xứ Nhất sau đó cáo từ, quy ẩn tu luyện trong động Vân Quang. Trong quá trình tu luyện, Vương Xứ Nhất khổ luyện trạm trang, thường đứng bất động mấy ngày liền trên sườn núi. Người ta đều gọi ông là “Thiết Cước Tiên Nhân”. Ông ở động Vân Quang tu luyện ròng rã suốt 9 năm, Khưu Xứ Cơ từng tặng ông bài thơ: “Cửu hạ nghênh dương lập, Tam đông bão tuyết miên”, nghĩa là “Chín mùa Hạ đứng đón Mặt trời, Ba mùa Đông ngủ trong bão tuyết”.

Vào năm Đại Định thứ 17 (năm 1187 SCN), Kim Thế Tông sau khi nghe được sự tích về Vương Xứ Nhất đã sai sứ mời ông vào cung, thiết đãi ông rất cung kính. Đến năm sau, Hoàng Đế lại triệu kiến Vương Xứ Nhất, thưởng vàng bạc lụa là còn nhiều hơn, nhưng Vương Xứ Nhất đều từ chối không nhận. Lúc ấy có ác nhân tật đố ông, bịa đặt trước mặt Hoàng Đế rằng: “Vương Xứ Nhất không phải là người đắc Đạo, có thể dùng cách nhử ông ta uống rượu độc để phân rõ thật giả”. Lúc ấy Vương Xứ Nhất dùng thần thông hiểu thấu âm mưu của ác nhân, vì thế trước khi dự triệu đã lệnh sẵn người đào ao đổ nước; đến khi dự triệu, Vương Xứ Nhất cầm chén uống cạn rượu độc; sau khi trở về mới xuống ao vận công bài độc, thậm chí khiến nước ao cũng sôi lên sùng sục. Kim Thế Tông sau khi biết được thần tích bài độc của ông, cứ cảm thán mãi không thôi.

Vào năm Thái Hòa thứ 3 Kim Chương Tông (năm 1203 SCN), mẫu thân Vương Xứ Nhất qua đời; trước khi qua đời bà nói: “Không tham sống, không sợ chết” rồi tạ thế. Lúc ấy người ta ngửi thấy mùi hương thơm ngát, kèm theo tiếng đàn sáo thần tiên thanh nhã du dương.

Năm Thái Hòa thứ 7 (năm 1207 SCN), Vương Xứ Nhất ở tại Thánh Thủy Ngọc Hư quán. Đương thời trước thủy động có một phiến đá lớn nghiêng đến mấy trượng, ai nhìn cũng thấy sợ hãi; người ta bàn bạc đập bỏ nó đi, dùng chùy để đập, nhưng mấy ngày cũng không suy suyển phân nào. Sau khi Vương Xứ Nhất đến, ông dùng chùy đập ba cái vào tảng đá, tiếng nổ như sấm, tảng đá rơi sập xuống. Đám khói tím che khắp động đá, ba ngày sau mới tản hết. Kể từ đó, Vương Xứ Nhất còn nhiều lần hiển hiện thần tích.

Ví dụ khi Vương Xứ Nhất đến huyện Phúc Sơn, thấy có người chết sắp mai táng, ông bèn ghé vào tai người chết, nói: “Địa phủ không được thu”; trong chốc lát người ấy cải tử hoàn sinh, ăn uống như thường. Đến khi con cái người ấy đem tài vật cảm tạ, Vương Xứ Nhất chỉ mỉm cười phẩy tay áo mà đi.

Ngày 23 tháng 4 năm 1217 SCN, Vương Xứ Nhất nói với môn đồ: “Quần tiên đã hẹn ta rồi”. Sau đó tắm rửa đội mũ, đốt hương lễ thập phương, rồi lấy bút viết mấy câu thơ:

Nhảy xuất càn khôn quyền tạo hóa,
Thần quang sáng chói khắp chư thiên.
Phiêu phiêu cưỡi hạc siêu Tam giới,
Mừng được kim thư Ngọc Đế tuyên.

Viết xong bình an ly thế, lúc ấy ánh sáng tràn vào sơn cốc, khí lành phủ khắp thung lũng. Về sau, vào năm Chí Nguyên thứ 6, Nguyên Thế Tổ truy phong Vương Xứ Nhất là “Ngọc Dương Thế Huyền Quảng Độ Chân Nhân”. Năm Chí Đại thứ 3, Nguyên Vũ Tông tiến thêm một bước nữa, phong Vương Xứ Nhất là “Ngọc Dương Thế Huyền Quảng Từ Phổ Độ Chân Quân”.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/24/60734.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Vương Xứ Nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/dao-gia-tu-luyen-co-su-vuong-xu-nhat.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Lưu Xứ Huyền bị Vương Mẫu quở trách vì chưa bỏ hết sắc tâmhttps://chanhkien.org/2011/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-luu-xu-huyen-bi-vuong-mau-quo-trach-vi-chua-bo-het-sac-tam.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-luu-xu-huyen-bi-vuong-mau-quo-trach-vi-chua-bo-het-sac-tam.html#respondSat, 16 Apr 2011 11:17:43 +0000https://chanhkien.org/?p=11541Tác giả: Mạc Cầu [ChanhKien.org] Cao nhân Vương Trùng Dương của Đạo gia có một vị đệ tử tên là Lưu Xứ Huyền. Lưu Xứ Huyền, tự là Thông Diệu, hiệu là Trường Sinh, là người huyện Dịch, tỉnh Sơn Đông, sinh vào năm Thiệu Hưng thứ 22 thời Tống Cao Tông của Nam Tống […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Lưu Xứ Huyền bị Vương Mẫu quở trách vì chưa bỏ hết sắc tâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mạc Cầu

[ChanhKien.org] Cao nhân Vương Trùng Dương của Đạo gia có một vị đệ tử tên là Lưu Xứ Huyền. Lưu Xứ Huyền, tự là Thông Diệu, hiệu là Trường Sinh, là người huyện Dịch, tỉnh Sơn Đông, sinh vào năm Thiệu Hưng thứ 22 thời Tống Cao Tông của Nam Tống (tức năm 1152 SCN). Năm Càn Đạo thứ 4 nhà Nam Tống, Tống Hiếu Tông bái Vương Trùng Dương Chân nhân làm sư phụ để được truyền thụ Đạo Pháp.

Sau này Lưu Xứ Huyền vân du tới Lạc Dương, ở trong một ngôi miếu thờ Thổ Địa tại nội thành. Đương thời Lưu Xứ Huyền vì để tu khẩu nên suốt 3 năm không nói câu nào, khi có người hỏi ông chỉ dùng tay ra dấu để ứng phó, người ta cho gì thì ăn nấy, không có gì ăn thì cũng không ăn xin. Thỉnh thoảng có người thấy ông tu khẩu không nói năng gì, bèn bỡn cợt nhục mạ ông, sau khi nghe xong ông vẫn ôn hòa nhã nhặn, tuyệt không hề mảy may phẫn nộ.

Cùng với sự khổ tu, công lực của ông càng ngày càng cao thâm. Một ngày nọ khi đang ngủ, nguyên thần ông ly thể lên Thiên đình, bay đến Cung Diêu Trì bái kiến Vương Mẫu. Lúc ấy ông thấy sau lưng Vương Mẫu có khoảng mười tiên nữ dung nhan mỹ diệu, thế gian ít gặp, thế là bèn sinh tâm ái mộ, không kìm nổi mới liếc trộm một cái. Vương Mẫu hỏi ông: “Ngươi liếc trộm họ, định muốn gì đây?”

Lưu Xứ Huyền thấy Vương Mẫu hỏi, tự biết mình thất lễ, sợ quá vội quỳ sụp xuống tạ tội: “Thần đột nhiên thấy họ nhảy múa điệu nghê thường, dải áo phất phơ, vô ý nhìn ngắm tiên nữ, kỳ thực không có ý gì khác. Nương nương từ thiện, kính mong nương nương khoan dung tha thứ.” Vương Mẫu nghe xong trách ông: “Sắc tướng chưa hết, cho dù kim đan thành tựu cũng không thể siêu phàm nhập thánh. Lại phải hạ xuống phàm gian, khổ tu khổ luyện.”

Tiên quan phụng mệnh Vương Mẫu dắt nguyên thần của Lưu Xứ Huyền về Nam Thiên Môn. Ông đang định cưỡi mây bay xuống, đột nhiên bị Tiên quan đẩy cho một cái, ngã té trở xuống, sau đó nhục nhân Lưu Xứ Huyền choàng tỉnh. Kể từ đó, Lưu Xứ Huyền quả nhiên tu luyện gian khổ một phen để vứt bỏ tâm sắc dục, cuối cùng công thành viên mãn, trở thành một trong “Toàn Chân thất tử”.

Đọc xong mẩu cố sự trên, bản thân tôi nghĩ thế này: Bởi vì lúc nguyên thần ly thể, Lưu Xứ Huyền nhìn trộm tiên nữ, nên mới bị Vương Mẫu khiển trách, rồi bị Tiên quan đẩy xuống nhân gian, từ đó thấy rằng người tu luyện không chỉ tuyệt đối không được quan hệ bất chính, mà còn cần triệt để loại bỏ hết thảy tâm sắc dục thì cuối cùng mới có thể tu thành.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/7/18/60607.html

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Lưu Xứ Huyền bị Vương Mẫu quở trách vì chưa bỏ hết sắc tâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/dao-gia-tu-luyen-co-su-luu-xu-huyen-bi-vuong-mau-quo-trach-vi-chua-bo-het-sac-tam.html/feed0
Truyền kỳ về Bát Tiên: Lã Động Tânhttps://chanhkien.org/2011/02/truyen-ky-ve-bat-tien-la-dong-tan.htmlhttps://chanhkien.org/2011/02/truyen-ky-ve-bat-tien-la-dong-tan.html#respondSun, 27 Feb 2011 06:23:57 +0000https://chanhkien.org/?p=10796Truyền kỳ về Bát Tiên có lẽ bắt đầu từ triều đại nhà Đường, và câu chuyện cũng thay đổi khác nhau qua với các triều đại. Tám vị tiên, theo ấn bản sau đời nhà Minh, là gồm có Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cửu, […]

The post Truyền kỳ về Bát Tiên: Lã Động Tân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Bát Tiên trong Đạo giáo. (Tranh vẽ của Chương Thúy Anh)

Truyền kỳ về Bát Tiên có lẽ bắt đầu từ triều đại nhà Đường, và câu chuyện cũng thay đổi khác nhau qua với các triều đại. Tám vị tiên, theo ấn bản sau đời nhà Minh, là gồm có Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cửu, Lã Động Tân, Lam Thái Hoà, và Hà Tiên Cô. Rất khác nhau về bề ngoài và cá tính, tám vị này là Đại Tiên trong Đạo gia, và họ thường tụ tập, họp mặt với nhau.

Tào Quốc Cửu là hoàng thân của một Hoàng đế; Lý Thiết Quải có tật ở chân nên bước đi với một cây gậy; Hà Tiên Cô là một phụ nữ trẻ đẹp; Trương Quả Lão trông rất khỏe mạnh ở tuổi già của mình và thường cưỡi ngược trên lưng lừa. Hàn Tương Tử là cháu trai của Hàn Dũ, một văn nhân nổi tiếng ở triều đại nhà Đường, thường thích thổi sáo; Hán Chung Ly luôn luôn được nhìn thấy với một tay phe phẩy cây quạt lá.

Trong suốt các cuộc hành trình của họ, tám vị Tiên này đã gặp đủ loại người trong các tình huống khác nhau, nhiều câu chuyện về những trường hợp trong số đó đã được lưu truyền lại. Một ví dụ có liên quan đến nỗ lực cứu độ con người mà không thành công của Lã Động Tân như sau:

Lã Động Tân đã có một lần cam kết với Hán Chung Ly rằng ông sẽ cứu độ tất cả chúng sinh. Nhưng ông vẫn chưa cứu được một người nào cả, do đó ông đã làm một chuyến du hành đến vùng Nhạc Dương. Trước kia ông đã tới đó hai lần để cố gắng giúp đỡ người thường. Nhạc Dương bây giờ là một địa giới hành chính thuộc tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, ở trên bờ hồ Động Đình.

Lã Động Tân đã tự cải trang thành một ông già bán dầu ăn. Ông xem việc bán dầu như là một dịp để gặp và lựa chọn những người có triển vọng được cứu độ. Nếu một khách hàng có vẻ không tham lam, không đòi dầu ăn nhiều hơn những gì họ đã trả tiền cho, thì ông có thể cứu độ người đó được. Vì vậy, ông đã tiếp tục đi bán dầu trong một số năm, trong thời gian mà ông đã gặp các khách hàng, ngoại trừ một bà già ra, tất cả đều tham lam đòi hỏi quá đáng. Tuy nhiên bà già này, chỉ lấy những gì bà đã trả, và không lấy thêm ngay cả một giọt.

Rất ngạc nhiên, Lã Động Tân nghĩ rằng cuối cùng ông đã tìm thấy một người có thể cứu độ được. Ông hỏi bà ta: “Những người đến mua dầu đều muốn xin thêm, ngoại trừ bà ra. Tại sao bà không làm vậy?” Bà ta trả lời: “Tôi hài lòng với chỉ một hũ dầu – hơn nữa, cuộc sống của ông cũng không dễ dàng gì với nghề bán dầu ăn. Làm sao tôi có thể lấy nhiều hơn được?” Sau đó, bà ta còn mời Lã Động Tân uống ít rượu để bày tỏ lòng cảm kích của mình.

Lã Động Tân cảm thấy bà ta là một người có triển vọng tốt và dự định sẽ cứu độ bà. Khi ông biết được rằng có một cái giếng trong vườn của bà, ông đã thả nhiều hạt gạo xuống đó. Ông bảo bà: “Bà có thể kiếm nhiều tiền bạc bằng cách bán nước trong giếng”. Sau đó, ông bỏ đi. Bà già quay trở lại, nhìn vào giếng thì thấy rằng nước trong giếng đã được biến hóa thành rượu. Theo lời khuyên của Lã Động Tân, bà già đem bán rượu trong giếng và trở nên giàu có trong vòng một năm.

Một hôm, Lã Động Tân ghé qua chỗ ở của bà. Bà không có ở nhà, chỉ có người con trai của bà ở đó. Lã Động Tân hỏi anh ta: “Công việc bán rượu thế nào rồi?

Công việc bán rượu vẫn tốt, nhưng không có bã rượu, cám gạo để nuôi heo”, người con trai trả lời. Nghe xong những lời này, Lã Động Tân thở dài, thầm nghĩ: “Lòng tham vô đáy của con người đã tới mức độ thương tâm như thế này sao!”. Vì vậy, ông đã lấy lại những hạt gạo trong giếng, rồi bỏ đi.

Chẳng bao lâu sau, bà già trở về. Người con trai kể lại cho bà nghe những gì đã xảy ra. Bà ta đi ra xem giếng rượu. Rượu trong giếng đã biến thành nước. Bà già vội vàng chạy ra cửa, nhưng Lã Động Tân đã bỏ đi từ lâu rồi.

Lã Động Tân rời Nhạc Dương đi đến hồ Động Đình, và để lại một bài thơ than tiếc cho nhân loại: “Ba lần đến Nhạc Dương không người nhận ra, Qua hồ Động Đình ta ngâm một câu thơ”.

(Theo The Epoch Times)

The post Truyền kỳ về Bát Tiên: Lã Động Tân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/02/truyen-ky-ve-bat-tien-la-dong-tan.html/feed0
Mười khảo nghiệm của Lã Động Tân – Nhất chính áp bách tàhttps://chanhkien.org/2011/02/muoi-khao-nghiem-cua-la-dong-tan-nhat-chinh-ap-bach-ta.htmlhttps://chanhkien.org/2011/02/muoi-khao-nghiem-cua-la-dong-tan-nhat-chinh-ap-bach-ta.html#respondSat, 19 Feb 2011 11:07:13 +0000https://chanhkien.org/?p=10680Tác giả: Sử Văn [Chanhkien.org] Lã Động Tân là người huyện Vĩnh Nhạc, Bồ Châu triều Đường, họ Lã tên Phẩm, tự là Động Tân. Lã Động Tân là một trong Bát Tiên. Cha của ông là Lã Nhượng, là Thứ Sử của Hải Châu. Lã Động Tân sinh vào ngày 14 tháng 4 năm […]

The post Mười khảo nghiệm của Lã Động Tân – Nhất chính áp bách tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sử Văn

[Chanhkien.org] Lã Động Tân là người huyện Vĩnh Nhạc, Bồ Châu triều Đường, họ Lã tên Phẩm, tự là Động Tân. Lã Động Tân là một trong Bát Tiên. Cha của ông là Lã Nhượng, là Thứ Sử của Hải Châu. Lã Động Tân sinh vào ngày 14 tháng 4 năm 14 Trinh Nguyên, hiệu là Thuần Dương Tử.

Truyền thuyết kể rằng khi Lã Động Tân giáng sinh, mùi hương tỏa khắp phòng, âm nhạc thiên đường vang khắp không trung, lại có một con hạc trắng từ trên trời hạ xuống, bay vào trong màn trướng rồi biến mất. Nghe nói ông từ bé sinh ra đã hình Kim chất Mộc, đạo cốt thần tiên, đầu hạc lưng rùa, mình hổ hàm rồng, mắt phượng nhìn trời, lông mày rủ xuống, cổ mảnh má cao, trán rộng thân tròn, sống mũi chính trực, sắc mặt trắng hồng, cuối lông mày trái có một nốt ruồi đen. Ông từ nhỏ đã thông minh nhanh trí, xuất khẩu thành thơ. Khi trưởng thành thân dài tám thước hai tấc. Mặt mũi tươi cười, để râu dài, thích quàng khăn Hoa Dương. Hình dáng trông rất giống Trương Tử Phòng. Vào những năm Hội Xương nhà Đường, ông vâng mệnh phụ mẫu đến Trường An dự thi. Một ngày nọ, khi đang ở Trường An uống rượu lúc thanh nhàn, ông gặp một đạo sĩ áo xanh, mình choàng áo trắng, tay cầm bút viết lên tường ba bài thơ tứ tuyệt như sau:

Bài thứ nhất nói rằng:

Tọa ngọa trường huề tửu nhất hồ,
Bất giáo song nhãn thức Hoàng Đô,
Càn khôn hứa đại vô danh tính,
Sơ tán nhân gian nhất trượng phu.

Nghĩa là:

Dù nằm hay ngồi vẫn mang theo một bầu rượu,
Không bảo đôi mắt trông thấy kinh thành Trường An,
Càn khôn vũ trụ rộng lớn không có danh tính,
Rải rác ở chốn nhân gian một đấng trượng phu.

Bài thứ hai nói rằng:

Đắc Đạo chân Tiên bất dịch phùng,
Kỷ thời quy khứ nguyện tương tòng,
Cổ ngôn trụ xứ liên thương hải,
Biệt thị Bồng Lai đệ nhất phong.

Nghĩa là:

Bậc chân Tiên đắc Đạo không dễ mà gặp được,
Khi nào mong muốn trở về xin nguyện đi theo,
Lời xưa nói họ ở nơi biển cả xanh thẳm,
Hay là ở ngọn núi cao nhất chốn Bồng Lai.

Bài thứ ba nói rằng:

Mạc yếm truy hoan tiểu ngữ tần,
Tầm tư ly loạn khả thương thần,
Nhàn lai khuất chỉ tòng đầu số,
Đãi đáo thanh bình hữu phàm nhân.

Nghĩa là:

Đừng mãi hài lòng với vui vẻ và hạnh phúc,
Nghĩ ngợi nhiều có thể làm thương tổn tinh thần,
Vui vẻ bấm ngón tay và thuận theo số phận,
Chờ đợi buổi thanh bình trong cõi phàm trần này.

Lã Động Tân kinh ngạc trước tướng mạo cổ quái, ý thơ phiêu dật của người ấy và tiến lên hành lễ. Vị đạo sĩ nói: “Trước tiên ngươi ngâm bài thơ thứ nhất để ta xem chí ngươi thế nào”. Lã Động Tân tiện tay tiếp bút viết:

Sinh tại Nho gia ngộ thái bình
Huyền anh trọng trệ bố y khinh
Thùy năng thế thượng tranh danh lợi
Dục sự Thiên Hoàng thượng Ngọc Thanh

Nghĩa là:

Sinh tại gia đình nhà Nho, gặp cảnh thái bình
Đã quen với áo vải, coi thường cảnh lụa là
Tại sao con người thế gian tranh giành danh lợi?
Ta phục vụ Thượng Đế ở trên điện Ngọc Thanh

Đạo sĩ xem xong bài thơ rồi nói: “Ta là Vân Phòng tiên sinh, ngụ tại Hạc Lĩnh núi Chung Nam, ngươi có muốn theo ta đi tu Đạo không?” Lã Động Tân đã không nhận lời.

Tuy nhiên, Vân Phòng và Lã Động Tân ở cùng một phòng trọ với nhau. Khi Vân Phòng đang nấu cháo kê, Lã Động Tân đột nhiên ngủ mê mệt. Ông có một giấc mơ rằng ông đỗ làm Trạng Nguyên, nhậm một chức quan lớn ở triều đình, và cưới hai người con gái của một gia đình giàu có. Trong giấc mơ ấy ông có nhiều thê thiếp, người hầu và con cháu. Khoảng 40 năm sau, ông trở thành Thừa Tướng, đảm nhiệm chức vụ quan trọng bậc nhất trong triều đình tròn một thập niên. Tuy nhiên, ông đã vô ý phạm phải trọng tội, cuối cùng phải lìa vợ xa con, lưu lạc nơi núi rừng hoang dã, đơn độc một mình, khốn khổ tiều tụy. Khi đang cưỡi ngựa giữa cơn gió tuyết, ông thở dài cảm thán thì đã thấy mình thức dậy bên cạnh nồi cháo kê đang nấu. Vân Phòng cười và tụng hai câu thơ:

Hoàng lương do vị tục
Nhất mộng đáo hoa tư

Nghĩa là:

Nồi kê còn chưa chín
Giấc mộng đã mơ xong

Lã Động Tân thất kinh, hỏi: “Tiên sinh có biết giấc mộng của tôi có nghĩa là gì không?” Vân Phòng đáp: “Giấc mộng vừa rồi của ngươi, thăng trầm muôn vẻ, vinh nhục đa đoan. Năm mươi năm không là gì hết, chỉ trong nháy mắt. Do vậy, được mất trong cuộc sống ngắn ngủi này không có nghĩa lý gì cả. Thế nhân phải kinh qua quá trình đại triệt đại ngộ, mới hiểu ra rằng nhân thế chẳng qua chỉ là một giấc mộng dài mà thôi”. Lã Động Tân cảm ngộ, nhận ra rằng giấc mộng trên là một điểm hóa. Vân Phòng khảo nghiệm ông bằng cách nói: “Cốt khí ngươi chưa hoàn thiện, vẫn còn chưa đủ phẩm chất của một vị Tiên, ngươi phải hoàn tất mấy đời tu luyện mới được”. Nói xong bèn ra đi, Lã Động Tân sau đó bỏ sự nghiệp nhà Nho đi quy ẩn.

Sau khi đi theo Vân Phòng, Vân Phòng có mười khảo nghiệm cho Lã Động Tân.

Khảo nghiệm thứ nhất:

Một lần nọ, Lã Động Tân trở về nhà sau khi đi xa, ông thấy rằng tất cả gia đình mình đã chết vì bệnh tật. Lã Động Tân không hối hận vì sự ra đi của mình. Ông chỉ chuẩn bị quan tài để hỏa táng. Nhưng bỗng nhiên tất cả gia đình ông trở về, không bệnh không tật.

Khảo nghiệm thứ hai:

Lã Động Tân đi lên thị trấn bán hàng. Sau khi đã thỏa thuận xong về giá cả, bên mua đột nhiên trở mặt và chỉ trả nửa giá tiền. Lã Động Tân không hề tranh cãi với người mua hàng, chỉ nhận tiền rồi rời đi.

Khảo nghiệm thứ ba:

Một ngày nọ, khi Lã Động Tân đang chuẩn bị rời khỏi nhà thì có một kẻ ăn mày dựa vào cửa nhà ông xin của bố thí. Lã Động Tân lập tức đưa cho ông ta một chút tiền. Tuy nhiên, người ăn mày vẫn tiếp tục đòi tiền và còn mắng chửi ông bằng những lời lẽ khó nghe. Lã Động Tân chỉ mỉm cười và cảm ơn người ăn mày.

Khảo nghiệm thứ tư:

Lã Động Tân đang chăn cừu trên một sườn núi thì đột nhiên một con hổ đói chạy tới truy cản đàn cừu. Lã Động Tân lùa đàn cừu trở lại xuống núi, lấy thân mình ngăn con hổ lại để cứu đàn cừu. Con hổ đói bỏ đi.

Khảo nghiệm thứ năm:

Khi Lã Động Tân đang đọc sách trong lều cỏ ở trên núi thì một thiếu nữ xinh đẹp tầm mười bảy, mười tám tuổi bước tới, dung mạo tuyệt trần. Cô nói rằng cô đã bị lạc trên đường trở về nhà mẹ đẻ, trời lại sắp tối, tứ chi vô lực, nên muốn xin tá túc một đêm. Lã Động Tân bằng lòng cho cô gái ở lại. Đêm hôm ấy cô gái tìm mọi cách quyến rũ Lã Động Tân, ép Lã Động Tân ngủ cùng mình. Lã Động Tân không hề động tâm. Sau ba ngày liên tiếp như vậy mà không thành công, cô gái rời đi.

Khảo nghiệm thứ sáu:

Một ngày kia, Lã Động Tân rời nhà ra ngoài thành, đến khi trở lại thì đã thấy nhà của mình bị trộm đột nhập. Kẻ trộm lấy đi mọi thứ, không để lại chút gì, bao nhiêu công sức làm lụng trước đây của ông đều đổ sông đổ bể cả. Lã Động Tân không hề giận dữ chút nào, vẫn tiếp tục tự mình cày cấy nuôi thân. Một ngày nọ, khi đang cày đồng, ông đào được mười thỏi vàng. Ngay lập tức, ông chôn lại chúng xuống mà không mảy may lấy một mẩu vàng nào.

Khảo nghiệm thứ bảy:

Lã Động Tân gặp một người bán đồng và mua về một vài miếng đồng. Tuy nhiên đến khi trở về nhà, ông thấy rằng chúng đều biến thành vàng. Ông lập tức tìm lại người bán đồng ấy và trả lại toàn bộ số vàng.

Khảo nghiệm thứ tám:

Một đạo sĩ điên rao bán thuốc ngoài chợ, nói rằng ai uống thuốc vào sẽ lập tức chết ngay và sau đó chuyển sinh để đắc Đạo. Mười ngày trôi qua mà không có ai mua thuốc ấy. Lã Động Tân đến mua thuốc, đạo sĩ nói: “Ông hãy chuẩn bị hậu sự đi”. Tuy nhiên sau khi uống thuốc, Lã Động Tân vẫn bình an vô sự.

Khảo nghiệm thứ chín:

Đó là một ngày mùa Xuân, nước sông ngập lụt khắp hai bên bờ và Lã Động Tân ngồi thuyền vượt sông với một nhóm người. Khi họ đi tới giữa dòng sông, đột nhiên sóng lớn nổi lên, tất cả mọi người trên thuyền mười phần sợ hãi. Tuy nhiên Lã Động Tân vẫn ngồi ngay ngắn bất động.

Khảo nghiệm thứ mười:

Lã Động Tân đang ngồi trong phòng thì đột nhiên trước mặt ông xuất hiện vô số ma quỷ hình thù kỳ dị. Một số muốn đánh, một số muốn giết ông, nhưng Lã Động Tân vẫn không sợ hãi. Và rồi ông thấy mười con quỷ dạ xoa tới, áp giải một tử tù, máu me nhễ nhại, khóc nói: “Kiếp trước ông đã giết tôi, hôm nay ông phải trả lại mạng sống cho tôi”. Lã Động Tân trả lời: “Giết người phải đền mạng”. Nói rồi tìm ngay một con dao để tự kết liễu, đột nhiên thấy trên không trung có tiếng hét to, quỷ thần đều biến mất. Một người vỗ tay cười lớn hạ từ trên không trung xuống, đó chính là Vân Phòng, ông nói: “Ta đã khảo nghiệm ngươi mười lần, ngươi vẫn bất động tâm, như vậy có thể thấy ngươi đắc Đạo thành Tiên được rồi đó.”

Sau đó Lã Động Tân đi theo Vân Phòng lên Hạc Lĩnh núi Chung Nam, nơi Vân Phòng dạy ông toàn bộ bí quyết tu Đạo thực sự. Không lâu sau, Thanh Khê Trịnh Tư Viễn và Thái Hoa Thi Chân nhân đằng vân tới từ hướng Đông Nam. Sau khi thăm hỏi lẫn nhau, họ cùng nhau ngồi xuống. Thi Chân nhân hỏi: “Đứng ở bên cạnh đây là ai vậy?” Vân Phòng đáp: “Là con của Lã Hải Châu”. Dứt lời ông bảo Lã Động Tân bái kiến hai vị Tiên. Sau khi hai vị Tiên rời đi rồi, Vân Phòng nói với Lã Động Tân: “Ta phải vào chầu Thượng Đế, đến lúc dâng biểu sẽ nói rõ công đức của ngươi, để ngươi được liệt vào hàng Tiên. Ngươi không cần phải ở đây mãi, mười năm sau ta sẽ gặp lại ngươi ở Động Đình hồ”. Rồi ông trao cho Lã Động Tân Linh Bảo Tất Pháp cùng một vài viên linh đan. Lúc này hai vị Tiên tay cầm thẻ vàng, bảo ấn đưa cho Vân Phòng, nói: “Thượng Đế hạ chiếu rằng cung trời Cửu Thiên Kim còn thiếu một vị Tiên, ông phải khởi hành ngay thôi.” Vân Phòng nói với Lã Động Tân: “Ta vâng mệnh lên chầu Thượng Đế, ngươi ở nhân gian tự mình thu xếp, tu công lập đức, đến lúc ấy thì ta và ngươi giống nhau.” Lã Động Tân bái lần nữa và nói: “Chí hướng của tôi khác với của Tiên sinh, tôi phải gắng sức độ thiên hạ chúng sinh, rồi mới đi lên”. Sau đó Vân Phòng cưỡi mây từ từ bay đi mất.

Động Tân ngao du phía Nam đến sông Lễ Thủy, khi lên lầu chuông ở núi Lư Sơn, ông gặp Chúc Dung Quân. Chúc Dung Quân nhân đó truyền thụ cho ông Thiên Độn Kiếm pháp, nói: “Ta là Đại Long Chân quân, trước đây từng cầm kiếm này trảm tà ma, nay đưa cho ông chấm dứt phiền não”.

Sau đó, Lã Động Tân dạo chơi bên sông Hoài, giết chết một con giao long lớn để thử thanh linh kiếm. Mười năm sau, ông tới hồ Động Đình, leo lên lầu Nhạc Dương, Vân Phòng đột nhiên từ trên trời đáp xuống, nói: “Ta đến để thực hiện lời hẹn ước, Thượng Đế đã có chỉ cho phép toàn bộ gia quyến ngươi ở tại Kinh Sơn Động Phủ trên thiên đàng, tên của ngươi đã được liệt vào cung Ngọc Thanh”.

Truyền thuyết kể rằng Lã Động Tân sau đó ẩn hiện trong hơn 400 năm ở thế gian, thường vui chơi ở vùng sông núi Hồ Bắc, Hồ Nam, đặc biệt vùng gần sông Dương Tử và sông Hoài. Trong những năm Chính Hòa đời Tống Huy Tông, Lã Động Tân được tôn là “Hảo Đạo Chân nhân”.

Một người tu luyện phải có thể chịu được đủ loại động chạm đến tâm linh, khảo nghiệm được và mất trong lợi ích cá nhân, để xem liệu người đó có kiên định tu luyện với tâm hướng Thiện hay không. Lã Động Tân đã phải vượt qua mười quan, mỗi một quan đều liên quan đến lợi ích cá nhân, thậm chí nguy hiểm đến sinh mệnh. Tuy nhiên bằng chính niệm, ông đều vượt qua tất cả!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/6/23/6823.html
http://pureinsight.org/node/1052

The post Mười khảo nghiệm của Lã Động Tân – Nhất chính áp bách tà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/02/muoi-khao-nghiem-cua-la-dong-tan-nhat-chinh-ap-bach-ta.html/feed0
Câu chuyện xưa về hai tiểu đạo sĩhttps://chanhkien.org/2011/02/cau-chuyen-xua-ve-hai-tieu-dao-si.htmlhttps://chanhkien.org/2011/02/cau-chuyen-xua-ve-hai-tieu-dao-si.html#respondSun, 13 Feb 2011 08:38:49 +0000https://chanhkien.org/?p=10609Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục [Chanhkien.org] Gia đình tôi sống ở một vùng núi của tỉnh Sơn Đông. Khi tôi còn nhỏ, một cụ già đã kể cho tôi một câu chuyện. Vào thời ấy, tôi chỉ biết về chi tiết của câu chuyện mà không hiểu được hàm nghĩa bên […]

The post Câu chuyện xưa về hai tiểu đạo sĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục

[Chanhkien.org] Gia đình tôi sống ở một vùng núi của tỉnh Sơn Đông. Khi tôi còn nhỏ, một cụ già đã kể cho tôi một câu chuyện. Vào thời ấy, tôi chỉ biết về chi tiết của câu chuyện mà không hiểu được hàm nghĩa bên trong. Giờ sau khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tôi đã hiểu ra câu chuyện thực ra có ngụ ý gì. Tôi muốn chia sẻ với tất cả các bạn câu chuyện trên.

Ngày xửa ngày xưa, có một đạo quán nọ nằm trên đỉnh một ngọn núi rất cao và rất nhiều đạo sĩ sống trong đó.

Một mùa hè kia, hai tiểu đạo sĩ đang đốn củi trên núi. Một trong số họ rất cao lớn và nặng, còn người kia lại rất nhỏ bé và gầy.

Khi đã đốn được một gánh gủi và đi trở về đạo quán, đột nhiên một cơn gió dữ thổi tới và bụi bay khắp nơi. Khi đang bước về phía kho chứa củi trên một con đường hẹp, không ai trong số họ trông thấy người kia, ngay cả khi họ đứng ngay sát nhau.

Sân của nhà kho rất hẹp và hiểm trở: Ở cả hai bên là những vách đá dựng đứng với vực sâu thăm thẳm bên dưới.

Cơn gió thật tàn nhẫn. Hai tiểu đạo sĩ đều bị văng ra khỏi đường. Người cao lớn bị mắc vào một cây đại thụ, còn người nhỏ bé mắc vào một cái cây con. Họ đều bất tỉnh.

Khi cả hai người tỉnh dậy, người đạo sĩ cao lớn hô to: “Sư phụ, chúng con đã bị rơi xuống vách núi và bị mắc vào một cái cây. Xin cứu chúng con, chúng con sẽ kiên trì trụ lại và đợi sư phụ đến cứu chúng con.”

Sau khi người đạo sĩ nhỏ con thức dậy, anh gọi: “Mẹ, con đã bị ngã xuống núi và bị mắc vào một cái cây. Con rất sợ, con sợ rằng con sắp chết.”

Từ đạo quán, sư phụ của họ nhanh chóng tới và tìm được mấy cái dây leo trên núi. Ông kết chúng thành hai sợi dây thừng và buộc chặt đầu của chúng vào một tảng đá lớn. Hai sợi thừng được thòng xuống vực để cho hai tiểu đạo sĩ bám vào.

Người đạo sĩ to lớn trông thấy sợi thừng và nghĩ rằng sư phụ của anh đang tới cứu mình. Anh không nghĩ về điều gì khác nữa, túm lấy sợi thừng, trèo lên men theo vách đá, và cuối cùng trở lại sân của kho củi. Anh khấu đầu để cảm tạ ơn cứu mạng của sư phụ.

Khi người đạo sĩ bé con thấy sợi thừng, anh đâm ra oán trách sư phụ và nghĩ rằng sư phụ anh thật ngốc, vì sợi thừng quá mảnh và nó có thể sớm bị đứt.

Người đạo sĩ nhỏ bé nhìn quanh và thấy người đạo sĩ to con đã trèo được lên trên. Anh nghĩ: “Anh ta rất nặng, còn mình thì nhẹ. Mình chắc rằng sợi thừng của anh ta sẽ không bị đứt khi mình trèo đâu.” Người đạo sĩ nhỏ con đã quyết định chọn lấy sợi thừng kia.

Rồi anh bám vào sợi thừng lớn để trèo lên trên. Ngạc nhiên thay, sợi thừng đứt ngay tức khắc và anh rơi xuống vực thẳm.

Hàm nghĩa của câu chuyện này là người tu luyện phải tin tưởng vào sư phụ và không nên sử dụng nhân tâm để nhìn nhận mọi việc. Chỉ có như vậy, họ mới vượt qua được tử quan. Nếu người tu luyện không thể buông bỏ được nhân tâm thì thật là nguy hiểm.

Dịch từ:

http://big5.minghui.org/mh/articles/2006/5/28/128998.html
http://pureinsight.org/node/4718

The post Câu chuyện xưa về hai tiểu đạo sĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/02/cau-chuyen-xua-ve-hai-tieu-dao-si.html/feed0
Đạo gia tu luyện cố sự: Một niệm sai lầm làm mất cơ duyên tu Đạohttps://chanhkien.org/2010/12/dao-gia-tu-luyen-co-su-mot-niem-sai-lam-lam-mat-co-duyen-tu-dao.htmlhttps://chanhkien.org/2010/12/dao-gia-tu-luyen-co-su-mot-niem-sai-lam-lam-mat-co-duyen-tu-dao.html#respondSun, 12 Dec 2010 15:21:54 +0000https://chanhkien.org/?p=10009Tác giả: Thái Bình chỉnh lý [Chanhkien.org] Gián Nghị Đại Phu Lý Nguyên, từng ẩn cư tại ngôi nhà tranh trên núi Tung Sơn tu Đạo. Một ngày đông lạnh lẽo nọ, ông nổi lửa sưởi ẩm. Đột nhiên một vị lão nhân đội chiếc mũ lớn trên đầu đến sưởi ấm cùng. Một lúc […]

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Một niệm sai lầm làm mất cơ duyên tu Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thái Bình chỉnh lý

[Chanhkien.org] Gián Nghị Đại Phu Lý Nguyên, từng ẩn cư tại ngôi nhà tranh trên núi Tung Sơn tu Đạo. Một ngày đông lạnh lẽo nọ, ông nổi lửa sưởi ẩm. Đột nhiên một vị lão nhân đội chiếc mũ lớn trên đầu đến sưởi ấm cùng. Một lúc lâu sau, lão nhân hỏi Lý Nguyên: “Muốn cùng ta rời khỏi đây không? Ta biết ông là kẻ sĩ có chí khí”.

Lão nhân nói tiếp: “Ta là hoạn quan đời Tần, vì để tránh họa mà đắc được Đạo”. Nói xong cởi chiếc mũ ra, bộ râu dài xõa xuống, đúng là một cụ già tuổi tác rất cao niên. Lão nhân lại nói: “Đây đều là do ở trên núi thời gian lâu mà có đấy”.

Lý Nguyên ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Chuyện nhà tôi còn chưa xong, hoãn cho tôi mấy ngày được chăng?” Lão nhân vội đứng dậy nói: “Đây đúng là lòng thành của ông rồi!” Sau đó vội vã đi mất.

Lý Nguyên đuổi theo sau, nắm y phục lão nhân xin lỗi mấy lần, nhưng không thể ngăn lão nhân lại. Ngày hôm sau, Lý Nguyên tìm kiếm lão nhân, thì đã không thấy tung tích đâu nữa.

(Theo «Thái Bình Quảng Ký»)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/5/18/21530.html
http://pureinsight.org/node/1693

The post Đạo gia tu luyện cố sự: Một niệm sai lầm làm mất cơ duyên tu Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/12/dao-gia-tu-luyen-co-su-mot-niem-sai-lam-lam-mat-co-duyen-tu-dao.html/feed0
Trương Quả Lão cưỡi lừa ngượchttps://chanhkien.org/2009/10/truong-qua-lao-cuoi-lua-nguoc.htmlhttps://chanhkien.org/2009/10/truong-qua-lao-cuoi-lua-nguoc.html#respondSun, 11 Oct 2009 19:17:17 +0000https://chanhkien.org/?p=3093[Chanhkien.org] Sư Phụ Lý đề cập trong chương : “ Phản tu và tá công” của cuốn Chuyển Pháp Luân rằng: “Trương Quả Lão- một trong bát tiên cưỡi lừa ngược, rất ít người biết được tại sao ông lại cưỡi lừa ngược. Ông phát hiện rằng đi về trước lại chính là thụt lùi […]

The post Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Sư Phụ Lý đề cập trong chương : “ Phản tu và tá công” của cuốn Chuyển Pháp Luân rằng: “Trương Quả Lão- một trong bát tiên cưỡi lừa ngược, rất ít người biết được tại sao ông lại cưỡi lừa ngược. Ông phát hiện rằng đi về trước lại chính là thụt lùi nên ông quay trở lại cưỡi như thế.

Trương Quả Lão , còn gọi là Trương lão , là một trong bát tiên trong Đạo gia. Theo “Đường Thục” (Cuốn sách của nhà Đường), Trương Quả Lão là một người có thực sống trong Khiêu Trung Sơn của tỉnh Sơn Tây. Ông cho rằng mình đã luyện được thành thuật trường sinh bất lão. Vua Đường Huyền Tông nhiều lần mời ông đến nhưng ông luôn luôn lịch sự từ chối. Hoàng hậu Võ Tắc Thiên cũng đã cố gắng mời ông tới. Để thoát lệnh này, Trương Quả Lão giả bộ chết ở phía trước 1 ngôi đền. Vào thời gian đấy, trời mùa hè nóng nực nên cơ thể ông sớm bắt đầu phân hủy và bốc mùi khủng khiếp. Hoàng hậu Võ Tắc Thiên nghe tin này, đã từ bỏ ý định. Nhưng ngay sau đó, có người thấy ông xuất hiện trong núi Hoàn Châu.

Vua Đường Huyền Tông mời ông tới nhiều lần để hỏi cách đạt được thuật trường sinh bất lão. Khi vua gặp Trương Quả Lão thấy ông già yếu hom hem như vậy, vua hỏi ông: “Khanh đã đạt được thuật Trường sinh bất lão nhưng sao trông khanh già yếu vậy,tóc thưa bạc, răng móm thế?” Trương Quả Lão trả lời, “Đến từng tuổi này thần không có phương pháp nào hết nên mới ra nỗi này! Thật là xấu hổ quá! Nếu thần bứt tóc và bẻ răng của mình ra sau đó có lẽ nào thần lại không có được những cái mới! Sau đó ông đứng ngay giữa trước cung điện bứt tóc bẻ răng văng ra Hoàng đế thấy thế có 1 chút kinh sợ và gọi cận thần mang ông xuống nghỉ . Chỉ 1 chốc sau, Trương Qủa Lão quay lại cung điện,với 1 diện mạo hoàn toàn mới: tóc đen dầy, răng trắng. Các quan lại trong triều thấy thế rất kính phục, tới trước Trương Quả Lão hỏi xin phương pháp để cải lão hoàn đồng. Trương Quả Lão khước từ .

Một ngày, Đường Huyền Tông đi săn bắn và bắt được một hươu lớn. Con hươu này có 1 điểm khác với các con khác!. Khi nhà bếp chuẩn bị giết nó , Trương Qủa Lão thấy vậy ngay lập tức ngăn lại. Ông nói: “Đây là con hươu thần đã sống trên ngàn năm rồi. Khi Hán Vũ Đế đi săn và bắt được nó thần đã theo ông ta và thấy ông ta thả con hươu ngay sau đó! Đường Huyền Tông hỏi, ‘Làm thế nào khanh có thể biết được đây là con hươu mà khanh thấy trước kia trong khi trên đời này có rất nhiều hươu và trải qua bao nhiêu năm như thế? Trương Quả Lão thưa: “Khi Hán Vũ Đế thả con hươu ông đã đánh dấu trên sừng bên trái của nó bằng 1 miếng đồng. Sau đó vua Đường Huyền Tông sai người đi kiểm tra lại và quả thật thấy 1 miếng đồng dài 2 phân nhưng hầu như không thể nhận ra chữ viết trên đó nữa! Vua Đường Huyền Tông lại hỏi:” Vậy thế từ năm Hán Vũ Đế đi săn trải qua bao nhiêu năm rùi? Trương Quả Lão thưa: Từ đó tới nay đã 852 năm trôi qua! Vua Đường Huyền Tông sai người đi kiểm tra lại. Người báo lên rằng thông tin đó là hoàn hoàn chính xác

Trương Quả Lão chết ngay sau khi ông hồi sơn. Đường Huyền Tông xây cho ông một đạo quán gọi là “Khấu Hạ Quán”. Trương Quả Lão có một thói quen lạ: ông luôn cưỡi ngược trên con lừa trắng và có thể đi hàng vạn dặm mỗi ngày. Dĩ nhiên con lừa của ông cũng là 1 con lừa tiên và ông nói rằng ông có thể gói nó và cất vào trong tay nải khi ông ta không cưỡi nữa.

Sư Phụ Lý đề cập trong chương : “Ý niệm” của cuốn Chuyển Pháp Luân rằng: “Hôm rồi tôi giảng Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, [người ta] không lý giải được ý nghĩa đó là gì. Ông thấy rằng tiến lên lại chính là thụt lùi, con người càng ngày càng rời xa đặc tính vũ trụ. Trong quá trình diễn hoá của vũ trụ, nhất là hiện nay từ khi tiến nhập vào trào lưu kinh tế hàng hoá mạnh mẽ ấy, rất nhiều người đạo đức đã trở nên bại hoại, càng ngày càng xa rời đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; những người ở cõi người thường trong trào lưu ấy cũng trôi theo mà không cảm nhận được mức độ đạo đức bại hoại đến đâu; do vậy có người còn cho rằng như thế là tốt; chỉ ai có tâm tính tu luyện lên trên rồi sau đó ngoảnh lại nhìn, mới có thể nhận ra rằng đạo đức của nhân loại đã bại hoại đến mức độ đáng sợ như thế nào.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/966

The post Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/10/truong-qua-lao-cuoi-lua-nguoc.html/feed0