Chuyện cổ Phật gia | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnTue, 08 Apr 2025 12:14:15 +0000en-UShourly1Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tàihttps://chanhkien.org/2024/09/chuyen-co-phat-gia-hanh-xu-cho-chinh-voi-nhung-viec-lien-quan-toi-tien-tai.htmlFri, 13 Sep 2024 03:54:00 +0000https://chanhkien.org/?p=34136Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào thời Tống, ở Hàng Châu có một ngôi chùa tên là Bảo Tàng Tự. “Chủ tàng tăng” của chùa có pháp danh là Chí Thuyên. “Chủ tàng tăng” có nghĩa là tăng nhân trưởng quản, phụ trách việc quản lý tài sản, thu chi trong chùa. Ông luôn nghiêm […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào thời Tống, ở Hàng Châu có một ngôi chùa tên là Bảo Tàng Tự. “Chủ tàng tăng” của chùa có pháp danh là Chí Thuyên. “Chủ tàng tăng” có nghĩa là tăng nhân trưởng quản, phụ trách việc quản lý tài sản, thu chi trong chùa. Ông luôn nghiêm chỉnh chấp hành giới luật, tài sản người khác bố thí cho chùa ông đều quản lý hết sức tận tâm và đầy trách nhiệm, trước nay không bao giờ chiếm đoạt hay lạm dụng một tơ một hào nào.

Lần nọ, có một tăng nhân thủ thỉ với ông rằng: Cho ta mượn 10 ngàn quan tiền từ kho tiền của nhà chùa để quay vòng vốn, sau này ngoài tiền gốc ra, ta còn trả thêm cho ông ba ngàn tiền lời. Vì việc này là lấy của công làm việc riêng nên lúc đầu ông đã từ chối, nhưng rồi ông không sao cưỡng lại nổi trước những lời nỉ non của đối phương, thế nên ông đã lấy tiền của chùa cho tăng nhân kia mượn. Vài tháng sau khi đến ngày trả tiền, đối phương như đã giao hẹn trả lại cả tiền gốc lẫn lãi. Đối mặt với số tiền lãi ba ngàn, đầu tiên ông nghĩ: đây không phải là tài sản của chùa, mà là tài sản riêng của mình; nhưng sau đó lại nghĩ: suy cho cùng số tiền này có được từ việc mình lợi dụng tiền của nhà chùa, mình chắc chắn không thể dùng nó vào mục đích cá nhân được, vậy nên ta sẽ dùng toàn bộ số tiền đó để làm tiền hương hỏa cúng dường Phật. Thế là ông dùng toàn bộ ba ngàn tiền lãi mua nhang và nến cúng dường Phật, không dùng một xu nào cho mục đích cá nhân, nên ông thấy không có vấn đề gì.

Chí Thuyên thường ngày nuôi một con mèo, nhưng ngày nọ con mèo hết thọ mệnh mà chết đi. Không lâu sau Chí Thuyên có một giấc mơ kì lạ, trong mơ, nguyên thần của ông rời khỏi thân thể, đến một nơi như âm phủ. Một quý nhân thân mặc y phục màu vàng tím từ trong quan phòng bước ra, đối đãi với Chí Thuyên rất cung kính, ngữ khí trong khi nói chuyện dường như vô cùng quen thuộc. Chí Thuyên không nhận ra đối phương, bèn hỏi tại sao lại cung kính như thế?

Đối phương trả lời: Đời trước do phạm tội, nên tôi phải chuyển sinh thành động vật, bị Thần linh trừng phạt đầu thai thành mèo, tôi rất cảm kích và biết ơn ông đã nuôi dưỡng, đối xử tử tế với tôi khi còn ở trong chùa. Bây giờ tội nghiệp của tôi đã hoàn trả xong, vì tôi tính tình ngay thẳng nên đã được Thượng thiên giao cho làm quan ở âm phủ. Hôm nay tôi mời ông đến là vì muốn nghiêm túc nhắc nhở ông: việc ông lợi dụng tài sản của chùa và nhận ba ngàn tiền lãi là việc phạm đại tội! Trong sổ ghi chép của âm phủ, hành vi của ông phạm phải tội chiếm dụng tài sản của chùa. Bây giờ cho dù ông trả lại toàn bộ số tiền cả gốc lẫn lãi để mua nhang và nến cúng dường Đức Phật cũng không miễn được tội này. Những việc này đều không thể bù đắp cho tội ông chiếm dụng tài sản của chùa trước đây. Loại tội như thế này, nhất định sẽ bị hạ địa ngục và phải chịu “một kiếp đầy đọa đau khổ”, cho dù ông có làm thêm rất nhiều việc “công đức” thì cuối cùng cũng “không thể thoát được”!

Chí Thuyên sau khi nghe xong biết mình đã sai, vì vậy đã cố gắng hết sức cầu xin vị quan tha thứ. Vị quan cuối cùng cũng mở miệng, nói: Thật ra tôi cũng thường hướng đến Thần linh tầng cao hơn để xin chỉ thị, liệu có thể khiến ông chịu nhận ác báo ở thế gian, từ đó được miễn trừ việc chịu khổ trong địa ngục không. Bây giờ Thần linh ở tầng cao hơn đã trả lời rồi, chỉ có thể khiến ông “ở trong thế gian chịu cái khổ của 13 trượng” mới có thể tiêu trừ việc chịu khổ trong địa ngục, ngoài đó ra thì không có cách nào. Âm phủ chúng tôi đã an bài như vậy rồi. Vị quan nói xong thì Chí Thuyên cũng tỉnh giấc.

Chí Thuyên sau khi tỉnh dậy, ngộ ra rằng nguyên thần của mình đã đến âm phủ, việc này là thật chứ không phải giả, vậy nên ông nghĩ: ta là Chủ tàng tăng của chùa, là người quản lý tài sản của chùa rất lâu rồi, bất kể là những tăng nhân khác hay người thường đều rất tôn trọng ta, làm sao ta có thể chịu nhận sự trừng phạt của quan phủ, như thế thì vô cùng mất mặt, còn mặt mũi nào làm bậc trưởng lão của chùa kia chứ. Có lẽ ta nên tu khổ hạnh và ăn năn sám hối, nỗ lực tiêu trừ tội nghiệp, mới có thể miễn trừ nỗi khổ của 13 trượng xấu hổ này.

Thế là ông đem hết tất cả tài sản của mình quyên góp cho chùa cúng dường Phật, và ở trước mặt Đức Phật thành kính ăn năn sám hối về tội lạm dụng tài sản của chùa, đồng thời tu khổ hạnh. Cứ như thế cho đến năm sau vào một ngày nọ, quan huyện lệnh huyện Tiền Đường đưa gia đình đến Bảo Tàng Tự, đúng lúc các tăng nhân khác đều ra ngoài để nhận cúng dường từ gia chủ, hay đi ra ngoài tổ chức các hoạt động Pháp sự, cho nên không một tăng nhân nào nghênh tiếp quan huyện. Quan huyện trong lòng vô cùng tức giận nên mới vào phòng của phương trượng, vừa hay lúc đó ông dẫm phải một cục phân mèo, trong lòng càng nổi giận lôi đình. Đoàn người tùy tùng của quan huyện tìm kiếm khắp nơi trong chùa, phát hiện có một tăng nhân đang sám hối trong phòng sám hối, liền lôi ra ngoài, tăng nhân đó chính là Chí Thuyên.

Người tùy tùng nói với quan huyện rằng: Tăng nhân này là sư trụ trì, ông ta không chịu đi dọn dẹp vệ sinh cho sạch sẽ mà còn trốn ở đây. Chí Thuyên cả năm nay một mực tận tâm tận lực tu khổ hạnh và ăn năn hối lỗi, nên căn bản không biết đã phát sinh những chuyện gì, người ta hỏi gì cũng không trả lời được. Quan phủ nghiến răng nghiến lợi tức giận hét lớn: Đánh ông ta 500 trượng cho ta! Sau đó đoàn tùy tùng bắt đầu đánh Chí Thuyên bằng gậy gỗ, đánh đến trượng thứ 13, quan huyện đột nhiên hết giận, liền quay lưng đem theo đoàn người rời đi. Chí Thuyên sau khi chịu phạt 13 trượng thì liền minh bạch ra, tất cả mọi việc đều được ghi chép lại nơi âm tào rồi, đều có Thần linh an bài, tất cả hành vi tốt xấu đều có báo ứng, từ đó thường dùng sự việc này để cảnh cáo các tăng nhân, tuyệt đối không được lạm dụng, chiếm đoạt tài sản của chùa, các việc liên quan đến tiền bạc nhất định phải hành xử cho chính.

Câu chuyện của Chí Thuyên nói rõ một đạo lý, lạm dụng chính là lạm dụng, chiếm đoạt chính là chiếm đoạt, sai chính là đã sai rồi, mượn bất cứ cớ gì để che đậy đều vô dụng, cho dù có đem tiền lời, hay đem tất cả số tiền của bản thân có dùng để hương hỏa cúng dường Phật, cũng không thể nào che đậy hay tiêu trừ được tội nghiệp. Từ trước đến nay một số người có quan niệm sai lầm rằng, chỉ cần động cơ hay mục đích là tốt, thì cách làm trong quá trình đó dù có sai lầm hay thiếu sót cũng có thể bỏ qua, thực ra điều đó là không được.

Quay đầu nhìn lại lịch sử, khi tà thuyết cộng sản nổi lên, nó cũng đã lợi dụng quan niệm sai lầm này để đầu độc người ta, trước tiên nó vẽ cho bạn một chiếc bánh chủ nghĩa cộng sản tà ác, rồi nói với bạn rằng hiện thực chủ nghĩa cộng sản tà ác là cao quý nhất, là đúng đắn nhất. Sau đó vì cái mục tiêu gọi là cao quý nhất, đúng đắn nhất đó (thực ra là sự lừa dối của tà ác) có thể lục thân không nhận, giết người hại mệnh, dùng bất cứ thủ đoạn nào để tranh đấu, thậm chí phạm đủ loại tội ác nghiêm trọng mà vẫn cảm thấy vẻ vang, tự cho rằng đang góp một phần nhỏ cho sự nghiệp vĩ đại, thật vô cùng tự hào vì điều này, lại còn vọng tưởng cho rằng mình đạo đức ưu việt hơn người.

Thực ra thiện ác báo ứng mới là tình huống chân thực của vũ trụ, trong quá trình làm người, làm mọi việc, thì thiện và ác tất nhiên sẽ sản sinh ra thiện quả và ác quả tương ứng. Làm việc thiện, làm việc chân chính, thì sẽ có thiện quả; làm điều ác, làm việc khuất tất chắc chắn có ác quả. Cho dù bạn tự cho rằng động cơ hay mục đích của mình tốt đến đâu cũng không được.

Nguồn tư liệu: Theo “Xuân Chử Ký Vấn – Quyển 4 – Thụ trượng chuẩn địa ngục” của Hà Xuyên thời nhà Tống

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/291275

The post Chuyện cổ Phật gia: Hành xử cho chính với những việc liên quan tới tiền tài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tựhttps://chanhkien.org/2024/08/chuyen-co-phat-gia-truyen-thuyet-ve-khan-na-la-vuong-o-thieu-lam-tu.htmlWed, 07 Aug 2024 03:57:46 +0000https://chanhkien.org/?p=33695Tác giả: Học viên Đại Lục [ChanhKien.org] Trong Thiên Long Bát Bộ “Khẩn Na La” là một trong tám vị Thần hộ pháp của Phật giáo, thường không được thờ cúng đặc biệt, nhưng ở phía đông Đại Hùng bảo điện của Thiếu Lâm Tự lại thờ cúng vị Thần hộ pháp này. Vì sao […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Học viên Đại Lục

[ChanhKien.org]

Trong Thiên Long Bát Bộ “Khẩn Na La” là một trong tám vị Thần hộ pháp của Phật giáo, thường không được thờ cúng đặc biệt, nhưng ở phía đông Đại Hùng bảo điện của Thiếu Lâm Tự lại thờ cúng vị Thần hộ pháp này. Vì sao lại như thế? Có một truyền thuyết được kể lại như sau:

Người ta nói rằng trong những năm Chí Chính của thời nhà Nguyên (1341-1370, lúc đó là thời vua Nguyên Thuận Đế), có một vị tăng nhân đầu bù tóc rối, đi chân trần đến Thiếu Lâm Tự. Người ở Thiếu Lâm Tự thu nhận ông ở lại và để ông làm việc trong nhà bếp. Ông rất chăm chỉ nhặt củi, nhóm lửa và làm các công việc lặt vặt khác, đối với người khác thì trầm mặc ít nói, khi có thời gian thì liền nhắm mắt đả tọa tu luyện, người khác cũng không biết tên của ông ấy.

Cuối triều Nguyên thiên hạ đại loạn, một ngày đội quân tạo phản Khăn Đỏ bao vây Thiếu Lâm Tự, định tiến hành cướp bóc. Các tăng nhân trong chùa tuy có người luyện võ, nhưng sự việc phát sinh đột ngột, nên cũng không biết phải làm thế nào, vào lúc nguy cấp đó, vị tăng nhân làm việc vặt đốt lửa này tay cầm cây gậy thổi lửa, lao ra cửa núi. Cơ thể ông đột nhiên cao lớn lên hàng chục thước, đứng trên đỉnh núi, hét to lên rằng: “Ta là Khẩn Na La Vương”, cây gậy đốt lửa trong tay cũng đột nhiên trở nên to lớn như cái cột trụ chống trời. Trong tay ông cầm cây gậy đốt lửa bay nhảy lên xuống, uy phong lẫm liệt. Đội quân Khăn Đỏ nhìn thấy thần tích thì vô cùng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Khi quân Khăn Đỏ bỏ chạy qua Đường trang, định từ Hiếu Nghĩa tháo chạy ra thì lúc đó lại xuất hiện một vị Khẩn Na La Vương khác. Quân Khăn Đỏ thu binh hướng về phía Tây, đang chuẩn bị trốn thoát khỏi Đại Kim điện, định chạy về phía Lâm Nhữ thì lại gặp một vị Khẩn Na La Vương khác. Tướng sĩ của quân Khăn Đỏ cảm thấy không còn đường nào có thể chạy, chỉ đành quay trở về Thiếu Lâm Tự, hướng lên không trung mà khấu bái, sau khi sám hối nhận sai mới có thể an toàn rời khỏi Thiếu Lâm Tự. Vì thế mà Thiếu Lâm Tự thoát khỏi những họa loạn cuối thời nhà Nguyên.

Vị tăng nhân sau khi hiển hiện thần tích thì liền rời đi, không thấy dấu tích, có thuyết kể rằng ông đã viên tịch. Về sau những tăng nhân trong Thiếu Lâm Tự cho rằng ông là hóa thân của Khẩn Na La Vương, bèn cho làm tượng để tưởng nhớ việc ông triển hiện thần tích. Từ đó Khẩn Na La Vương được coi là Thần hộ pháp của Thiếu Lâm Tự, và ông được xây dựng một điện riêng để thờ cúng; bởi vì ông làm việc trong nhà bếp mà tu luyện, nên được tạo tượng theo hình người làm việc trong bếp. Ông được cung phụng là “Giám trai sứ giả”, hằng năm đều được làm lễ tế tự; các tăng nhân luyện võ cũng coi ông như là người sáng lập ra Thiếu Lâm Côn Pháp. Sau này có người nói với các tăng nhân rằng: “Người khiến quân Khăn Đỏ rút lui là hóa thân của Quan Thế Âm, cũng chính là Khẩn Na La Vương”, vì thế người đời cũng coi đó là một trong những hóa thân của Quan Thế Âm.

Câu chuyện về vị Thần tăng Khẩn Na La Vương này trong “Hà Nam phủ chí”, “Đăng Phong huyện chí”, “Thiếu Lâm Côn Pháp”, “Tung Thư” và một số cổ thư đều có ghi chép lại, cho ta thấy đây không phải là bằng chứng duy nhất, để thấy độ tin cậy của câu chuyện này rất cao, đủ để nói rằng tu luyện Phật Pháp có thể xuất hiện thần tích. Trước khi Thần tăng hiển hiện thần tích thì đều ở trong bếp làm việc vặt, đến nỗi tên tuổi hay quê quán của tiểu hòa thượng cũng không có ai quan tâm. Có thể thấy trong Phật giáo hay trong tu viện việc tu luyện cao hay thấp không hề có quan hệ đến địa vị và chức vụ cao thấp. Vậy làm thế nào để tu luyện? Như thế nào mới có thể tu được cao? Các tôn giáo ngày nay đã đến thời kỳ mạt pháp, sớm đã không thể đưa ra câu trả lời thuyết phục. Thậm chí bây giờ sư trụ trì của Thiếu Lâm còn đang lợi dụng Phật giáo để kiếm tiền, bị người đời cười nhạo gọi là “Phật môn CEO”. Có phải con người bây giờ không có cách nào tu luyện? Không phải. Hiện tại Pháp Luân Công được phổ truyền khắp thế giới chính là công pháp tu luyện chân truyền chân chính của Phật gia, là Phật Pháp chân chính, nếu như bạn có thể thực sự tập trung, tĩnh tâm đọc các kinh sách của Pháp Luân Công, bạn sẽ phát hiện tất cả những bí mật của tu luyện đều ở trong đó. Người có duyên chớ để lỡ mất cơ hội.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/248412

The post Chuyện cổ Phật gia: Truyền thuyết về Khẩn Na La Vương ở Thiếu Lâm Tự first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tănghttps://chanhkien.org/2024/07/chuyen-co-phat-gia-xuat-gia-lam-tang.htmlSat, 06 Jul 2024 22:38:31 +0000https://chanhkien.org/?p=33471Tác giả: Quả Chính [ChanhKien.org] Trong số các đệ tử của Phật Đà, Đại Ca Diếp tôn giả là một nhà sư tu khổ hạnh, ông từ nhỏ đã rời xa thế tục, sống một mình, lại thông minh hiểu chuyện hơn người. Tuy sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng không quen với […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Quả Chính

[ChanhKien.org]

Xuất gia làm tăng. Hình ảnh: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế

Trong số các đệ tử của Phật Đà, Đại Ca Diếp tôn giả là một nhà sư tu khổ hạnh, ông từ nhỏ đã rời xa thế tục, sống một mình, lại thông minh hiểu chuyện hơn người. Tuy sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng không quen với cuộc sống xa hoa.

Ngày tháng thoi đưa, Đại Ca Diếp đã trở thành một thanh niên anh tuấn, vì ông có tài năng và diện mạo hơn người khiến cho rất nhiều cô gái hâm mộ, cha mẹ cũng yêu mến ông, rất muốn tuyển chọn cho ông một thê tử môn đăng hộ đối mà lại mỹ lệ hơn người. Sau khi Đại Ca Diếp biết, ông liền từ chối hết lần này đến lần khác.

Bởi vì trong tâm ông chỉ nghĩ đến việc tu hành, có thê tử rồi thì sẽ gây trở ngại cho việc thực hiện nguyện vọng của ông. Nhưng cha mẹ không đồng ý, liên tục thúc ép, thậm chí đến mức không quan tâm rằng ông có đồng ý hay không, tự mình tất bật chọn lựa con dâu.

Dưới tình thế không thể khước từ, Đại Ca Diếp nghĩ ra một kế, ông tự vẽ một bức chân dung, người trong bức chân dung giống như cô gái xuất hiện trong lúc ông ngồi đả tọa, thập phần mỹ lệ mà lại từ bi trang nghiêm.

Ông đem bức chân dung đến đưa cho cha mẹ và nói: “Nếu nhất định muốn con lấy vợ, trừ khi tìm được người giống như cô gái trong bức chân dung này, bằng không con thà sống cô độc cả đời”.

Nghe xong cha mẹ ông vô cùng lo lắng, thế là liền tìm bạn bè giúp đỡ, kết quả là bạn bè đi khắp nơi đưa tin rằng, phàm là ai biết hoặc nghe nói nhà nào có thiếu nữ dung mạo xinh đẹp đều có thể đối chiếu với bức chân dung này, một khi gặp thiếu nữ có dung mạo xinh đẹp giống như vậy, thì có thể làm vợ của Đại Ca Diếp.

Thật trùng hợp, trong nhà của một phú ông ở thành Tỳ Xá Ly (Vesāli) có một cô con gái đẹp như tiên, tên là Diệu Hiền, khi phú ông này nhìn thấy người trong bức chân dung gần giống như con gái mình, bèn nhờ người chuyển tin đến cha mẹ của Đại Ca Diếp, nói rằng con gái của ông chính là người trong bức chân dung.

Thế là hai gia đình lập tức đính hôn, và chọn ngày để đón tân nương về nhà. Nhưng vào đêm tân hôn, mỹ nhân mặc áo gấm đeo dải dây tua rua với đôi lông mày trên mặt nhíu lại ngồi yên không nói gì, Đại Ca Diếp trong lòng ngổn ngang trăm mối, cũng không nói một lời.

Cuối cùng, khi bình minh dần ló dạng, Đại Ca Diếp phá vỡ sự im lặng và hỏi: “Nàng có tâm sự gì không?”

Diệu Hiền trả lời: “Hạnh phúc của ta bị chàng làm hỏng rồi”.

Đại Ca Diếp rất kinh ngạc và hỏi: “Chẳng nhẽ trong lòng nàng có người khác rồi sao?”

Diệu Hiền rơi nước mắt nói: “Không, chàng đã phá vỡ nguyện vọng của ta”.

Đại Ca Diếp lại hỏi: “Rốt cuộc ta đã làm điều gì không nên không phải, xin nàng nói rõ ra được không?”

Diệu Hiền bi thương nói: “Ta nhất tâm chỉ muốn thanh tĩnh tu hành, chán ghét ngũ dục, muốn thoát ly khỏi nguồn gốc của mọi đau khổ, nhưng phụ mẫu vì thấy sự giàu có của nhà chàng, bất chấp nguyện vọng của ta, mà muốn hủy ta đi”.

Đại Ca Diếp vừa nghe thấy thì mừng vui khôn xiết, liền hiểu đây chính là thiên ý, ông cũng không muốn lấy vợ, vì cha mẹ bức bách mà bất đắc dĩ, ông cũng cảm nhận được sâu sắc mọi thống khổ trên thế gian con người tất cả là vì dục vọng mà ra, ông chán ghét ngũ dục, nhất tâm muốn thanh tĩnh tu hành.

Vì vậy, họ quyết định làm theo ý chí của mình, trở thành vợ chồng trên danh nghĩa, nhưng trên thực tế lại là đồng tu.

Hai chiếc giường đặt trong phòng rất nhanh đã bị cha mẹ phát hiện và ra lệnh gỡ bỏ đi một chiếc.

Đại Ca Diếp nói với Diệu Hiền: “Đừng nản lòng, chúng ta luân phiên ngủ, luân phiên đả tọa. Điều này chẳng phải là càng tốt cho việc tu hành sao? Kỳ thực họ đang thúc giục chúng ta tu hành tinh tấn vậy!”

Diệu Hiền nghe xong cũng rất vui mừng, nên họ đã làm theo sáng kiến của Đại Ca Diếp.

Có một đêm, Diệu Hiền đang ngủ trên giường, Đại Ca Diếp vừa đả tọa xong, liền nhìn thấy một con rắn độc ở trước giường, đúng lúc tay của Diệu Hiền đang để ra ngoài giường, rất gần con rắn độc. Đại Ca Diếp vô cùng lo lắng, vội vàng lấy y phục quấn lấy tay của mình, rồi nhẹ nhàng cầm tay của Diệu Hiền đặt lại lên giường. Hành động này đã đánh thức Diệu Hiền khỏi giấc ngủ, cô có chút tức giận hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?” Sau khi nghe Đại Ca Diếp giải thích, cô cảm thấy yên lòng, đồng thời xin lỗi vì sự hiểu lầm vừa rồi đối với Đại Ca Diếp.

Bằng cách này, họ đã cùng nhau trải qua 12 năm cho đến khi cha mẹ họ qua đời.

Đại Ca Diếp nói với Diệu Hiền: “Bây giờ ta quyết định xuất gia, nàng ở đây chờ ta, đợi ta tìm được người thầy chân chính hiền minh, ta sẽ quay lại đón nàng cùng xuất gia”.

Sau khi Đại Ca Diếp rời khỏi nhà, ông vất vả tìm sư, cho đến khi gặp được Phật Đà, dưới sự cảm hóa uy đức của Phật Đà, ông tiếp nhận chỉ dạy, và quy y làm đệ tử của Phật Đà.

Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu truyền pháp của Phật Đà không có nữ đệ tử, cho nên Đại Ca Diếp không có cách nào đưa Diệu Hiền cùng đi xuất gia.

Lại nói đến Diệu Hiền ở nhà chờ tin tức của chồng, một năm rồi hai năm vẫn không có tin tức gì về Đại Ca Diếp, nàng không chút do dự đem tài sản phân phát cho người khác, tự mình đến bờ sông Hằng, bái những người tu hành ngoại đạo ở đó làm sư.

Sau này, Phật Đà cho phép nữ nhân xuất gia, và thành lập đoàn Tì Khưu Ni, Đại Ca Diếp đã thỉnh được sự cho phép của Phật Đà, đón Diệu Hiền gia nhập vào đoàn Tì Khưu Ni.

Nhưng bởi vì vẻ ngoài xinh đẹp hơn người nên cô thường xuyên trở thành đề tài nói xấu và tật đố của người khác, Diệu Hiền cảm thán được nỗi khổ khi mang thân nữ nhi, cô luôn tránh mặt mọi người khi đi khất thực, và không lộ diện ở chỗ đông người. Kể cả như vậy, cô vẫn không tránh khỏi bị người khác nghị luận bàn tán, vì điều này mà cô cảm thấy vô cùng xấu hổ, nên không đi khất thực nữa.

Đại Ca Diếp thấy vậy thương cảm, nên cầu xin Phật Đà cho phép hằng ngày đem phần cơm của mình xin được chia cho cô một nửa.

Vì sự việc này, lại dẫn đến nhiều nghị luận: “Có người nói họ ở nhà chưa từng ngủ chung giường trong suốt 12 năm kết hôn, trái lại hiện tại xuất gia tu hành rồi, nhưng tư tình vẫn không dứt…”

Sau khi nghe được điều này, tôn giả Đại Ca Diếp càng không có bất kỳ rối loạn tâm tư nào, nhưng vì để động viên Diệu Hiền cố gắng nỗ lực tu hành, từ đó ông đã ngừng chia lương thực cho cô, và không gặp lại cô nữa.

Trải qua những khó khăn trắc trở này, Diệu Hiền tu luyện vô cùng nghiêm túc, ngày đêm không ngủ, nhất tâm tu hành, càng thêm tinh tấn, cuối cùng khai ngộ.

Sau này, Phật Đà khen ngợi Bà: “Trong số các Tì Khưu Ni, Diệu Hiền có Túc Mệnh Thông cao nhất”.

Người ta cho rằng hạnh phúc trên đời này là được thỏa mãn những dục vọng của mình. Trên thực tế, những người có trí huệ nhìn nhận rằng, những người khổ nhất là những người cho rằng dục vọng của mình được thỏa mãn, đó là nguồn gốc của hết thảy mọi đau khổ.

Chỉ có xả bỏ mới là con đường giải thoát duy nhất.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38741

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia làm tăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trănghttps://chanhkien.org/2024/03/cau-chuyen-phat-gia-cao-tang-hue-qua-thoi-duong-ton-kinh-su-phu-moi-thoi-khac-than-tich-hien-duoi-anh-trang.htmlTue, 12 Mar 2024 04:13:21 +0000https://chanhkien.org/?p=32766Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Huệ Quả là cao tăng nổi tiếng thời nhà Đường, trước khi xuất gia ông mang họ Mã, sống một thời gian dài ở chùa Thanh Long, thuộc Trường An, vì thế ông còn được gọi là “Thanh Long A Đồ Lê”. A Đồ Lê là phiên âm của tiếng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Cao Tăng Huệ Quả Tôn Kính Sư Phụ (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Huệ Quả là cao tăng nổi tiếng thời nhà Đường, trước khi xuất gia ông mang họ Mã, sống một thời gian dài ở chùa Thanh Long, thuộc Trường An, vì thế ông còn được gọi là “Thanh Long A Đồ Lê”. A Đồ Lê là phiên âm của tiếng Phạn có nghĩa là đạo sư. Ông là một cao tăng có thần thông, tức là người có công năng đặc dị. Vì để truyền bá Phật giáo, ông đã từng sử dụng công năng chữa bệnh cho hoàng đế Đường Đại Tông Lý Dự, công chúa Hoa Dương và những người khác, hiệu quả rất tốt. Vào năm Đại Lịch thứ 11 (năm 776) thời Đường Đại Tông, hòa thượng Huệ Quả dùng công năng để chữa bệnh cho hoàng đế, kết quả đã chữa khỏi bệnh.

Hoàng đế Đại Tông vô cùng mừng rỡ, quyết định ban thưởng cho ông một bộ quần áo tím. Nhà Đường lấy Đạo giáo làm quốc giáo. Đạo giáo nhấn mạnh “khí tím đến từ phương Đông” và màu tím là màu cao quý nhất. Do đó, được ban thưởng quần áo màu tím là niềm vinh dự cao quý nhất. Tuy nhiên, hòa thượng Huệ Quả nói: “Bần tăng không dám nhận”. Hoàng đế Đại Tông hỏi: “Tại sao hòa thượng lại không nhận bộ quần áo tím mà trẫm ban tặng?” Hòa thượng Huệ Quả trả lời: “Bởi vì tiên hoàng đã từng ban cho tiên sư (sư phụ đã khuất) của bần tăng vinh dự mặc quần áo tím, còn bần tăng đây chỉ là một hòa thượng thấp kém may mắn được tiên sư truyền thụ Phật Pháp mới có được thành tựu như ngày hôm nay, ân đức của tiên sư, đệ tử luôn ghi nhớ trong tim. Vì vậy, bệ hạ ban cho bần tăng bộ quần áo tím, với tư cách đệ tử của tiên sư, bần tăng tuyệt đối không dám, cũng không nên, càng không xứng đáng mặc quần áo cùng màu và đẳng cấp với sư phụ mình”.

Sau khi hoàng đế Đại Tông hiểu rõ ngọn nguồn, ông cảm động nói: “Luôn luôn nhớ đến sư ân, hòa thượng quả là rất hiếu kính sư tôn của mình, về điểm này trẫm đã sơ suất”. Vì vậy, hoàng đế Đại Tông đã ban hành chiếu chỉ rằng: Tấm lòng sùng kính và đại hiếu của hòa thượng Huệ Quả đối với sư tôn thật sự làm người ta cảm động, là tấm gương cho mọi người noi theo, từ nay trở đi ông sẽ là quốc sư của Đại Đường và sẽ được ban thưởng một bộ quần áo nâu – đẳng cấp tôn quý chỉ xếp thứ hai sau màu tím.

Ngoài ra, hoàng đế Đại Tông còn ban tặng cho hòa thượng Huệ Quả rất nhiều tiền của, trị giá hơn một nghìn quan, một quan tương đương với một nghìn tiền đồng xu, hơn một nghìn quan tức là hơn một triệu tiền đồng xu. Hòa thượng Huệ Quả không hề sử dụng số tài vật này cho bản thân, mà ông đem tất cả chúng để làm các việc công đức như xây chùa tháp, v.v. Vào năm Đại Lịch thứ 13 (năm 778), hòa thượng Huệ Quả đã hai lần mời hoàng đế đến thăm Nam Đài. Theo ngữ cảnh của văn bản, “Nam Đài” hẳn là tên gọi của một ngôi chùa hoặc kiến trúc Phật giáo đương thời. Hoàng đế Đại Tông đã hai lần xuất cung để đến thăm Nam Đài kính bái Thần Phật theo lời của hòa thượng Huệ Quả.

Sau chuyến viếng thăm thứ hai, hòa thượng Huệ Quả leo lên đài Quan Âm bắt đầu tụng kinh Phật và niệm chú. Qua một hồi lâu, khi này trời đã tối và trăng lên cao, hoàng đế Đại Tông cùng quan viên, tùy tùng đi cùng an tâm chờ đợi dưới đài. Lúc này, dưới vầng trăng tròn đột nhiên xuất hiện hình tượng thần thánh của Quan Âm Bồ Tát phóng ra Phật quang mạnh mẽ làm cho ánh trăng sáng như mặt trời. Trên bầu trời, “những đám mây cát tường sáng trong” thực sự là ánh sáng tốt lành, một cảnh tượng hiếm thấy. Gần một nghìn người đi cùng với hoàng đế Đại Tông, tất cả mọi người đều nhìn thấy thần tích hiển hiện, họ cùng hành lễ bái lạy Quan Âm Bồ Tát.

Hòa thượng Huệ Quả – quốc sư của Đại Đường luôn luôn ghi nhớ sư ân và thời thời khắc khắc kính trọng sư tôn của mình, điều này thực sự đáng để ngưỡng mộ. Ông hiển lộ thần tích dưới ánh trăng là điều hiếm có trong lịch sử. Đây không chỉ là minh chứng cho sự thành tựu trong tu luyện của ông, mà nó còn thể hiện tấm lòng chân thành từ vua quan đến lê dân bách tính của vương triều Đại Đường luôn tín phụng Thần Phật. Qua năm tháng đằng đẵng, tôn giáo đã đến thời mạt Pháp, mất đi khả năng độ nhân. Nhiều người xuất gia coi tôn giáo là công cụ kiếm tiền. Thế nhân hoặc là chấp mê vào thuyết vô thần mà không còn tin vào Thần, hoặc là trước tượng Phật cầu xin Thần Phật thỏa mãn các lợi ích của bản thân ở thế gian, chứ không phải là sự kính ngưỡng thuần khiết. Vào lúc này, ai có thể cứu độ tất cả chúng sinh? Các vị Thần Phật từ bi không hề quên con người thế gian. Pháp Luân Công còn được gọi là Pháp Luân Đại Pháp, được truyền bá vào năm 1992. Đây không phải là một môn khí công thông thường, mà là Phật Pháp vĩ đại dùng hình thức khí công để truyền bá đến con người thế gian.

Pháp Luân Công dùng ngôn ngữ hiện đại để trực tiếp giảng cho con người biết nhiều thiên cơ của giới tu luyện, khiến người tu luyện đạo đức thăng hoa, nhận được lợi ích về thể chất lẫn tinh thần, được đông đảo quần chúng đón nhận. Tuy nhiên, người đứng đầu ĐCSTQ lúc bấy giờ đã nổi lòng đố kị, cộng thêm bản chất tà ác vô thần của của ĐCSTQ, vào tháng 7 năm 1999, lãnh đạo ĐCSTQ đã phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Trong phút chốc, những lời dối trá vu khống Pháp Luân Công rợp trời dậy đất làm cho nhiều người tu luyện Pháp Luân Công kiên định phải chịu bức hại. Một học viên Pháp Luân Công đã kể cho tác giả một câu chuyện có thật, đó là có một học viên Pháp Luân Công bị tà đảng Trung Cộng bức hại chỉ vì kiên định vào đức tin của mình, anh ấy bị giam trong tù, quyết không khuất phục tà ác. Một đêm nọ qua song sắt cửa sổ, anh nhìn thấy ánh trăng trên bầu trời thực sự biến thành một đóa hoa sen, những người không tu luyện cùng phòng giam cũng nhìn thấy điều kỳ diệu này. Tác giả tra cứu trên Minh Huệ Net – một trang web do các học viên Pháp Luân Công sáng lập (https://www.minghui.org), đã tìm thấy rất nhiều những thần tích tương tự, ở đây tác giả chỉ trích ra vài câu chuyện.

Bài viết “Đóa hoa sen thánh khiết” được đăng trên Minh Huệ Net vào ngày 13 tháng 8 năm 2021 kể rằng: “Một buổi sáng sớm, khoảng hơn 2:00 giờ, tôi thức dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn thấy một vầng trăng vừa to vừa tròn treo trên bầu trời. Bên dưới ánh trăng nở ra những đóa hoa sen xinh đẹp và thánh khiết. Cảnh sắc tuyệt đẹp!”, “Cảm ơn Sư phụ đã cho con nhìn thấy cảnh tượng kỳ diệu thù thắng này! Chẳng phải mỗi đệ tử Đại Pháp chúng ta đều giống như những đóa hoa sen nở rộ sao? Đắm mình trong Phật ân hạo đãng từ bi vĩ đại của Sư phụ, thật là hạnh phúc vô tỉ!”

Minh Huệ Net đã đăng tải một bài viết vào ngày 17 tháng 2 năm 2020: “Phụ nữ ở độ tuổi 80: Tôi chỉ đọc sách Chuyển Pháp Luân trong 20 năm”. Sau khi học viên Pháp Luân Công này kiên định vào đức tin của mình, “Trên đường về nhà, tôi thấy trăng sáng và lớn hơn bình thường, trong ánh trăng lại có một đóa hoa sen trông rất đẹp. Tôi ngộ được là Sư phụ triển hiện cho tôi xem để khích lệ và ban thưởng cho tôi”.

Bài viết “Con đường tu luyện là con đường dẫn đến hạnh phúc” đăng trên Minh Huệ Net vào ngày 15 tháng 2 năm 2019: “Không lâu sau khi Đại Pháp bị ĐCSTQ bức hại, buổi tối khi tôi và mẹ Phương đi ra ngoài phát tài liệu chân tướng, phát xong chúng tôi đến một con rạch, nhìn thấy trong nước có một đóa hoa sen màu vàng kim, vô tình nhìn lên trời tôi lại thấy ánh trăng cũng hóa thành đóa hoa sen vàng, ở giữa có một người ngồi. Có một lần sau khi phát tài liệu về nhà, tôi thấy trong nhà đầy hoa cúc, sáng lấp lánh trong bóng tối, mỗi gian phòng đều như thế. Tôi biết đây là Sư phụ đang khích lệ tôi tranh thủ thời gian cứu người và tu luyện tốt”.

Bài viết “10 năm trên con đường tu luyện gian khổ” trên Minh Huệ Net ngày 14 tháng 10 năm 2010 kể rằng: “Khoảng 12:00 giờ, tôi rất ngạc nhiên khi thấy một Pháp Luân lớn đang quay trong vầng trăng vừa tròn vừa to. Tôi hào hứng nói với con và các đồng tu xung quanh: ‘Nhìn kìa, Sư phụ đang nhìn chúng ta!’ Trong nháy mắt sân vận động tràn ngập những tiếng reo hò. Sau đó, cảnh sát đã cưỡng chế các nhóm người lên xe và đưa đi. Lúc này, tôi nhìn thấy cả bầu trời giống như một chiếc ô quay lớn, vô số Pháp Luân nhỏ màu đỏ, cam, vàng, lục, lam và tím đang quay rất nhanh, tôi vô cùng phấn khích, Sư phụ và các Thần hộ Pháp đang trông nom chúng tôi!”

Bài viết đăng trên Minh Huệ Net ngày 1 tháng 12 năm 2008 có tựa đề “Pháp hội Đại Lục – Ma luyện thành thục trong gian khổ” kể rằng: “Khi tôi đang trên đường đến một khu dân cư để đưa thư cho đồng tu ở đó, vô tình nhìn lên bầu trời, tôi ngạc nhiên khi thấy vầng trăng vàng biến thành hình dạng hoa sen sáng chói lúc to lúc nhỏ trước mắt mình, tôi tưởng mình bị hoa mắt nên dụi mắt, nhưng vẫn nhìn thấy như vậy. Tôi biết là Sư phụ đang khích lệ tôi và bảo tôi đừng sợ, Sư phụ đang ở bên cạnh bảo vệ tôi”.

Trên thực tế, Pháp Luân Công đã triển hiện thần tích về mọi phương diện nhiều đến mức không đếm xuể. Tại đây, tác giả xin gửi đến các bạn một lời chân thành nhất: Pháp Luân Công là Phật Pháp chân chính. Hãy tin vào chân tướng do các học viên Pháp Luân Công truyền bá và ghi nhớ “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, các bạn sẽ được phúc báo trong tương lai.

Nguồn tư liệu: Vạn Tân soạn tục Tạng Kinh quyển số 88, số 1654 Huệ Quả hoà thượng hành trạng, Đại Đường Thanh Long tự tam triều cung phụng đại đức hành trạng.

Hán Việt:

Nguyên văn: ……Chí Đại Lịch thập nhất niên. Gia trì Đại Tông hoàng đế. Ưng thời tiện sai. Sắc tứ tử y nhất đối. Khẩu tấu bất cảm thâu. Ưng thì khước tiến, sắc vân: Trẫm dĩ tứ sư tử y, hà đắc bất thâu? Tấu vân: Nhất giới vy tăng, tứ tử bất thắng đỉnh hà, tức hợp tiện thâu, Phục Duyên hoà thượng tiên hoàng tứ tử, đệ tử bất hợp dữ sư tề. Đế vân: Sư đại hiếu, thị trẫm chi thác. Sắc vân: ……Tồn tuân phụng hiếu kính chi tâm. Vu thử dĩ hậu, kham vy quốc sư. Toại tứ hạt y nhất đối. Phụng sắc gia trì ……Sở hữu ân tứ tiền vật. Nhất thiên dư quán. Tận tu tháp hạ công đức. Đại Lịch thập tam niên. Tấu thỉnh tiền hậu lưỡng độ tuần Nam Đài. Y sư sở tấu, hoà thượng ư Quan Âm đài, trì niệm. Dạ cửu chi gian, đại thánh Quan Âm, vu đại nguyệt luân trung, hiện đại thân tương, quang minh do như bạch nhật, tường vân hiệu khiết, đồng thì sổ bách thiên nhân, dao cộng chiêm lễ.

Tạm dịch:

Nguyên văn: …… Đến năm Đại Lịch thứ 11, hoàng đế Đại Tông thừa dịp ban tặng một bộ quần áo màu tím. Hòa thượng nói không dám nhận. Đúng lúc đó, hoàng đế bước vào và nói: “Trẫm tặng sư bộ quần áo tím, tại sao lại không nhận?” Tấu rằng: “Bần tăng được ban tặng màu tím thật vô cùng cảm động, đáng lý nên nhận. Nhưng tiên sư Phù Duyên được tiên hoàng ban cho màu tím, đệ tử không thể ngang hàng với sư phụ”. Hoàng đế nói: “Sư đại hiếu, là lỗi của trẫm”. Vua ban chiếu chỉ: Cảm động tấm lòng hiếu kính sư tôn của hòa thượng Huệ Quả, do đó phong làm quốc sư. Ban tặng một bộ quần áo màu nâu, tặng thêm tài vật hơn một ngàn quan. Hòa thượng đem tất cả tài vật làm công đức xây chùa tháp. Năm Đại Lịch thứ 13, hai lần dâng tấu thỉnh mời hoàng đế ghé thăm Nam Đài. Theo lời tấu, hòa thượng đi lên đài Quan Âm trì tụng. Trong đêm, đại thánh Quan Âm xuất hiện dưới vầng trăng lớn tỏa ánh sáng rực rỡ như ban ngày, mây cát tường sáng rực, cùng lúc đó có vài trăm ngàn người từ xa đang chiêm ngưỡng lễ bái.

Ghi chú: Hành trạng: là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286087

The post Chuyện cổ Phật gia: Cao tăng Huệ Quả thời Đường tôn kính sư phụ mọi thời khắc, thần tích hiển dưới ánh trăng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chínhhttps://chanhkien.org/2024/02/chuyen-co-phat-gia-ba-la-mon-chan-chinh.htmlWed, 28 Feb 2024 02:33:54 +0000https://chanhkien.org/?p=32685Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Bà La Môn giáo là tôn giáo rất lâu đời ở Ấn Độ cổ, nó đã tồn tại từ niên đại rất xa xưa. Bà La Môn giáo trong suốt chiều dài lịch sử không ngừng bị biến dị, và dần dần xuất hiện những hành vi sát […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Bà La Môn giáo là tôn giáo rất lâu đời ở Ấn Độ cổ, nó đã tồn tại từ niên đại rất xa xưa. Bà La Môn giáo trong suốt chiều dài lịch sử không ngừng bị biến dị, và dần dần xuất hiện những hành vi sát sinh v.v… Đương thời vào những năm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp, Bà La Môn giáo sau khi biến dị đã không ngừng khởi tác dụng can nhiễu phá hoại rất lớn, khi ấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng rất phản đối việc Bà La Môn giáo biến dị cản trở việc thuyết giảng Phật giáo của Ngài. Các đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn gọi các tín đồ Bà La Môn thời đó là “Bà La Môn trá hình”, vậy thế nào là Bà La Môn chân chính? Câu chuyện sau đây sẽ kể về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luận thuật như thế nào là Bà La Môn chân chính.

Vào thời đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thành phố Savatthi của Ấn Độ cổ, ông tạm trú trong vườn xoài của một tín đồ Bà La Môn tên là Devabita. Vào một buổi sáng, vị tín đồ Bà La Môn là ông Devabita này đến thăm viếng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Sau một hồi chào hỏi xã giao, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi Devabita: Hiện nay phương pháp các ngài thực hành tu luyện Bà La Môn như thế nào? Ví dụ như, hiện nay Bà La Môn giáo cho rằng bố thí người như thế nào để có thể đạt được đại phúc báo? Khi nào nên bố thí? Bố thí những thứ gì mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất?

Devabita trả lời rằng: Hiện nay Bà La Môn giáo chúng tôi gọi những người có thành tựu nhất trong Bà La Môn giáo là “Tam Minh Bà La Môn”. Muốn trở thành Tam Minh Bà La Môn phải có ba điều kiện: Cần là một vị thầy có kiến thức uyên bác, có dòng máu Bà La Môn thuần khiết, và có dung mạo đoan chính. Những ai có thể bố thí cho Tam Minh Bà La Môn sẽ nhận được đại phúc báo, bố thí cơm ăn áo mặc bất cứ lúc nào chính là gieo trồng phước điền thù thắng nhất.

Sau đó, Devabita hỏi ngược lại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: Ngài cho rằng như thế nào mới là Bà La Môn chân chính? Như thế nào mới là thành tựu Tam Minh? Bố thí người như thế nào để có thể đạt được đại phúc báo? Thời cơ nào là thích hợp để bố thí? Bố thí như thế nào mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất?

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời: Thiện tri giải thoát, giải thoát hết thảy người tham lam, mới là Bà La Môn chân chính. Tu luyện đạt được túc mệnh thông hiểu rõ quá khứ và tương lai, thiên nhãn thông có thể nhìn được chúng sinh ở các tầng thứ khác nhau, người có thể đoạn hết phiền não chấp trước, mới là thành tựu Tam Minh thánh giả. Có thể bố thí Thánh giả như vậy vào bất cứ lúc nào, thì mới có đại phúc báo, mới là gieo trồng phúc điền thù thắng nhất.

Trong câu chuyện trên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng một Bà La Môn chân chính là người biết cách thiện tri đạt đến giải thoát, là người giải thoát hết thảy chấp trước tham lam dục vọng. Đương thời khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp, Ngài cũng nhằm mục đích giải thoát tất cả chúng sinh. Từ đó cũng có thể thấy rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không phản đối Bà La Môn chân chính, Ngài cho rằng những người Bà La Môn chân chính cũng là những người đạt được giải thoát, trong quá khứ pháp tu Bà La Môn chân chính cũng là Phật pháp có thể đạt được giải thoát và cứu độ chúng sinh!

Về điểm này, bậc Đại Giác Giả truyền bá Pháp Luân Đại Pháp ngày hôm nay đã sớm luận thuật rõ ràng:

“Kỳ thực, Bà La Môn giáo lúc bắt đầu tín phụng là Phật, là kế thừa từ Phật mà người thượng cổ Hy Lạp tín phụng, đương thời họ gọi Phật là Thần. Trải qua ước chừng một nghìn năm, Bà La Môn giáo bắt đầu cải tổ, tựa như cải tổ trong Đại Thừa Phật giáo của Phật giáo hiện đại, cải tổ trong Phật giáo Tây Tạng, cũng như cải tổ trong Phật giáo Nhật Bản, v.v. Trải qua hơn một nghìn năm cho đến cổ Ấn Độ, là thời Bà La Môn giáo tiến nhập sang thời kỳ mạt pháp, người ta bắt đầu là tín phụng tạp loạn những gì ngoài Phật, lúc đó Bà La Môn giáo không còn người tin Phật nữa, mà điều tin theo đều là ma rồi, xuất hiện tình huống sát sinh cúng tế. Đến thời mà Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, thì Bà La Môn giáo đã hoàn toàn biến thành tà giáo. Không phải nói là Phật như thế nào, mà là tôn giáo biến thành tà rồi. Trong các văn vật lưu truyền ở Ấn Độ cổ đại, cũng có thể tìm thấy những bức tượng, v.v., trong sơn động mà Bà La Môn giáo thời đầu lưu lại, hình tượng Thần được điêu khắc ấy đều là hình tượng Phật. Những điều đó cũng có thể thấy ở trong những hình tượng Phật điêu khắc của Phật giáo vùng đất người Hán chúng ta, ví như hình tượng hai vị Phật ngồi đối diện nhau trong mấy chỗ khai quật hang động lớn, v.v. Phật vẫn là Phật, ấy là tôn giáo biến thành tà thôi. Tôn giáo không đại biểu cho Thần Phật, mà là nhân tâm bất hảo đã làm biến dị tôn giáo”. (Tinh tấn yếu chỉ – Phật pháp và Phật giáo)

Pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền chính là Phật pháp, Bà La Môn giáo cổ đại khi chưa cải tổ cũng là Phật pháp. Phật pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền không thể khái quát toàn bộ Phật pháp. Bản thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa bao giờ nói rằng Pháp Ngài đã truyền là toàn bộ Phật pháp. Ngoài Phật giáo còn tồn tại Phật pháp khác có thể độ nhân, ngay cả Thiền tông quá khứ cũng giảng về “ngoại giáo không truyền” và “không nhập nội giáo”.

Tuy nhiên, ngày nay nhiều tín đồ Phật giáo vì xuất phát từ cảm tình, chấp trước, mà cho rằng Pháp trong Phật giáo là toàn bộ Phật pháp, cho rằng chỉ có Phật giáo mới có thể độ nhân. Họ không phân biệt rõ đúng sai, hễ có ai đề cập đến việc độ nhân không thuộc về Phật giáo họ đều nhất mực phủ định, bài xích, thay vì dùng lý trí thực sự để đối đãi. Điển hình nhất hiện nay là, cùng với việc hồng truyền của Pháp Luân Đại Pháp, nhiều học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện đã nhận thức được rằng Pháp Luân Đại Pháp là Phật pháp thực sự có thể độ nhân. Tuy nhiên, một số tín đồ Phật giáo xuất phát từ cảm tình tôn giáo và những chấp trước về danh lợi, lý trí không thanh tỉnh mà phỉ báng Đại Pháp, thậm chí còn tham gia vào việc bức hại các đệ tử Đại Pháp, tạo ra tội nghiệp to lớn mà vẫn còn tưởng rằng họ đang duy hộ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thậm chí vì thế còn cảm thấy dương dương tự đắc. Kỳ thực, điều họ duy hộ là Phật giáo thời kỳ mạt pháp chứ không phải là duy hộ Phật.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53844

The post Chuyện cổ Phật gia: Bà La Môn chân chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vànghttps://chanhkien.org/2024/01/chuyen-co-phat-gia-an-y-giua-la-vang-va-vang.htmlSat, 06 Jan 2024 22:54:52 +0000https://chanhkien.org/?p=32292Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Một số người trong Phật giáo cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng ra hết tất cả Phật Pháp, kỳ thực không phải như vậy. Phật Thích Ca Mâu Ni không cho rằng Phật Pháp mình truyền ra là Phật Pháp tối cao, tối căn bản, và đã […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Một số người trong Phật giáo cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng ra hết tất cả Phật Pháp, kỳ thực không phải như vậy. Phật Thích Ca Mâu Ni không cho rằng Phật Pháp mình truyền ra là Phật Pháp tối cao, tối căn bản, và đã giải thích vấn đề này với đệ tử nhiều lần.

Ví như trong “Kinh Niết Bàn” có ghi chép mô tả tình huống nhập Niết Bàn của Phật Thích Ca Mâu Ni và những lời nói và việc làm của Ông trước khi nhập Niết Bàn. Trước khi nhập Niết Bàn Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói về ẩn ý của lá vàng và vàng: “Khi một đứa trẻ khóc, cha mẹ sẽ lấy lá vàng của cây dương để nói với nó: ‘Đừng khóc! Đừng khóc! Cha sẽ cho con vàng’. Đứa bé nhìn thấy, nghĩ là vàng thật, liền ngừng khóc. Tuy nhiên, những chiếc lá cây dương này thật sự không phải là vàng”, cũng chính là nói khi đứa trẻ khóc, để vỗ về đứa trẻ cha mẹ liền dùng những chiếc lá vàng trên cây dương làm vàng cho đứa bé chơi đùa, miệng nói rằng: “Đừng khóc, đừng khóc, cha sẽ cho con vàng để chơi”. Đứa trẻ chơi đùa coi lá vàng như vàng thật nên không khóc nữa. Tuy nhiên cuối cùng thì đây chỉ là lá vàng chứ không phải vàng thật.

Phật Thích Ca Mâu Ni đã ví Pháp mà Ông truyền ra như lá vàng chứ không phải vàng thật. Hãy thử nghĩ xem khi đứa trẻ lớn lên thành người lớn, tự nhiên nó sẽ không chơi lá vàng nữa, mà là muốn để có được của cải thực sự thì nó phải tìm được vàng thật. Tác giả tin rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni muốn khích lệ con người trong tương lai đi tìm Phật Pháp cao hơn, chứ không được chấp mê vào tôn giáo. Đây tuyệt không phải là tác giả hiểu một cách lung tung mà là dựa vào kinh Phật. Trong “Kinh Kim Cương” có ghi rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ ràng với đệ tử Tu Bồ Đề: “Ngã ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (Ta đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng có lấy một phần nhỏ pháp có thể được, nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). “A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” là từ phiên âm, có ý nghĩa là trí huệ của Phật Pháp cao nhất. Ý nghĩa của cả câu là: Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: Ta chưa chứng ngộ đến được trí huệ của Phật Pháp cao nhất, sợ rằng một chút trong đó cũng không có, chỉ là một số người coi Pháp của ta thành trí huệ của Phật Pháp cao nhất mà thôi.

Ngoài ra, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng “chẳng thuyết một chữ nào”, ví như trong “Kinh Lăng Già” có câu: “Ta từ đêm kia đắc Tối Chánh Giác, cho đến đêm kia nhập Niết Bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một chữ”. Nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng: Từ lúc ta khai ngộ cho đến khi nhập Niết Bàn nhục thân chết đi, ta chưa có giảng một lời nào về Phật Pháp. Có người giải thích rằng vì Phật Pháp không thể diễn đạt được bằng ngôn ngữ con người. Tuy nhiên sau khi xem xét toàn bộ nội dung “Kinh Kim Cương” và “Kinh Niết Bàn”, rõ ràng Phật Thích Ca Mâu Ni là có ý nói rằng: Ông chưa từng giảng về “A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ đề”, hoàn toàn không giảng về trí huệ của Phật Pháp tối cao tối thượng này, thậm chí không nói một lời nào, bởi vì bản thân Ông cũng chưa chứng ngộ được trí huệ của Phật Pháp cao nhất, Ông chỉ là giảng về Pháp của “giới, định, huệ” mà Ông đã chứng ngộ được, nếu đem trí huệ của Phật Pháp tối cao ví như vàng, vậy thì Pháp mà bản thân Ông chứng ngộ được chỉ là chiếc lá vàng mà thôi.

Nếu tiến thêm một bước suy đoán trên cơ sở này chúng ta có thể thấy: Phật Thích Ca Mâu Ni nhấn mạnh nhiều lần rằng nhất định trong tương lai sẽ có Phật Pháp vĩ đại hơn, cao hơn được truyền ra, và Pháp này chính là trí huệ của Phật Pháp tối cao và tối căn bản. Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới nhắc nhở những người hữu duyên các thế hệ sau như vậy, khi Phật Pháp vĩ đại được truyền ra thì nhất thiết không được bỏ lỡ cơ duyên. Hiện nay theo lời Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tôn giáo sớm đã đi đến thời mạt Pháp, không thể độ nhân được nữa, đừng chấp trước vào chính tôn giáo nữa. Có lẽ có Pháp chân chính đang truyền ở bên ngoài tôn giáo, tôn giáo tuyệt đối không phải là hình thức duy nhất để lưu truyền Phật Pháp.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/285175

The post Chuyện cổ Phật gia: Ẩn ý giữa lá vàng và vàng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc”https://chanhkien.org/2023/07/truyen-co-phat-gia-me-phat-tu-chung-huong-quoc-den-lai-tro-ve-chung-huong-quoc.htmlTue, 25 Jul 2023 02:35:17 +0000https://chanhkien.org/?p=30906Tác giả: Đức Huệ ChanhKien.org Mễ Phất (米芾, sinh năm 1051 mất năm 1107), một văn nhân nổi tiếng thời Bắc Tống, ban đầu tên là 黻, sau đổi thành 芾 (cả hai chữ đều có âm Hán Việt là Phất), tự “Nguyên Chương”, phong cách thư họa của ông trở thành một trường phái […]

The post Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

ChanhKien.org

Mễ Phất (米芾, sinh năm 1051 mất năm 1107), một văn nhân nổi tiếng thời Bắc Tống, ban đầu tên là 黻, sau đổi thành 芾 (cả hai chữ đều có âm Hán Việt là Phất), tự “Nguyên Chương”, phong cách thư họa của ông trở thành một trường phái riêng, từng đảm nhận chức như Hiệu thư lang, tiến sĩ thư pháp và hội họa, lễ bộ viên ngoại, là một thư pháp gia, họa gia nổi danh trong lịch sử, ông cùng với Thái Tương, Tô Thức, Hoàng Đình Kiên được mệnh danh là “Tống Tứ Gia” (bốn nhà thư pháp thời Tống).

Mễ Phất cả một đời ngoài những cống hiến này, còn là một người tu Phật tại gia có thành tựu. Thuở thiếu thời Mễ Phất tín ngưỡng Phật giáo, trên vách đá ở Đại Phật Tự, một ngôi chùa cổ thời Đông Tấn tại huyện Tân Xương tỉnh Chiết Giang, có hai chữ “Diện Bích” (quay mặt vào vách) do ông viết, có thể thấy ông không chỉ tin tưởng mà còn có trải nghiệm thực tế về đả tọa tu hành. Trong tác phẩm “Tư Cư Thiếp” ông viết: “Tư cư đỗ môn, dĩ thiền duyệt vi lạc: Huyễn pháp hữu như thị, bất dĩ thiền duyệt, hà dĩ vi khiển?” (Diễn nghĩa: Ta đóng cửa ở một mình, lấy tọa thiền làm vui: Pháp huyền ảo như thế, nếu không lấy thiền làm vui thì vì lẽ gì mà bỏ?) Có thể thấy rằng ông ấy còn đang trong trạng thái nhập định, đã thể hội được niềm hạnh phúc của tu hành.

Những năm cuối đời khi làm quan tại Hoài Dương (nay là huyện Hoài Dương, thành phố Chu Khẩu, tỉnh Hà Nam), ông thậm chí đã biết trước thời gian tạ thế, xuất hiện những trạng thái siêu thường. Trong “Phật Tổ Cương Mục” do Chu Thời Ân đời nhà Minh biên soạn và “Tứ Khố Toàn Thư” thời nhà Thanh đều có ghi chép rằng: “Mễ Phất cuối đời có lĩnh hội về thiền, qua đời ở quân doanh Hoài Dương, một tháng trước đó ông giải quyết hết thảy việc nhà, viết thư cáo biệt người thân bạn bè, sau đó tự tay đốt hết tất cả thư họa mà bình sinh bản thân yêu thích, lại bố trí một cỗ quan tài, ngồi nằm và ăn uống đều ở trong cỗ quan tài đó. Trước khi mất bảy ngày, ông không ăn mặn, tắm rửa thay quần áo, thắp hương tĩnh tọa, đến thời hạn, ông mời tất cả quan viên trong huyện, cầm phất trần thị chúng (nói với mọi người): Ta từ Chúng Hương Quốc đến, nay lại trở về Chúng Hương Quốc. Nói rồi vứt bỏ phất trần hai tay hợp thập mà ra đi”. Ngoài ra trong rất nhiều sách cổ như “Phũ Thủy Tập”, “Di Kiên Chí” đều có ghi chép chuyện này. Có thể thấy tính chân thực của nó khá cao.

“Chúng Hương Quốc” mà ông nói vào thời khắc lâm chung là gì? Theo kinh điển Phật giáo trong “Duy Ma Cật Kinh” có ghi chép: “Thượng phương giới phân qua tứ thập nhị hằng hà sa Phật thổ, hữu quốc danh Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích” (Diễn nghĩa: Trên thượng giới được chia thành bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có nước tên Chúng Hương, Phật hiệu là Hương Tích), trong Phật quốc đó “chỉ có chúng Đại bồ tát thanh tịnh”. Vốn dĩ nơi Phật quốc thật sự có một nước tên là “Chúng Hương Quốc”, có thể thấy Mễ Phất xác thực là đã tu hành có thành tựu, đã đến thế giới của Phật quốc.

Mễ Phất không phải là người xuất gia, mà chỉ là một người tu tại gia, điều đó cho ta thấy tu luyện không nhất định phải xuất gia. Thật ra các pháp môn tu luyện thậm chí không nhất định đều phải xuất hiện dưới hình thức tôn giáo. Hiện nay Pháp Luân Công hồng truyền toàn thế giới chính là lấy hình thức khí công mà truyền xuất ra Tu Luyện Đại Pháp Phật Gia Thượng Thừa, còn có tên gọi khác là Pháp Luân Đại Pháp, là Phật Pháp chân chính. Những học viên Pháp Luân Công, đều giống như Mễ Phất không cần xuất gia, mà tu hành trong giai tầng và hoàn cảnh xã hội của mình, trên tất cả phương diện đều làm một người tốt, một người cực kỳ cực kỳ tốt, đương nhiên cũng có những người đã xuất gia trong tôn giáo đến tu luyện Pháp Luân Công, họ cũng là người tốt chân chính trong hoàn cảnh của mình.

Vào năm 1999, Trung Cộng và kẻ đứng đầu, do tính chất tà ác của vô thần luận và sự đố kỵ cá nhân, đã phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Thật ra cứ nhìn vào lịch sử thì thấy rõ, trong lịch sử Phật giáo, Đạo giáo cũng từng gặp phải pháp nạn, đều bị bức hại rất nghiêm trọng, nhưng những kẻ bức hại cuối cùng đều chịu hình thức kết thúc của ác báo. Lần này cũng tuyệt đối không phải ngoại lệ, cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công đồng nghĩa với việc Trung Cộng đã phạm tội ác tày trời bức hại Phật Pháp, bức hại người tu luyện, hơn nữa cuộc bức hại vẫn còn kéo dài đến tận ngày nay; Trung Cộng tất sẽ phải chịu đại ác báo, cuối cùng nhất định sẽ bị Trời lên án, bị Trời trừng phạt, và kết cục bị Trời diệt. Chính sách ngăn chặn, chiến tranh thương mại, phong tỏa công nghệ v.v. của thế giới ngày nay đối với Trung Cộng đều là biểu hiện của việc “Trời diệt Trung Cộng”, tương lai sẽ có những tai nạn lớn hơn nữa giáng xuống đầu Trung Cộng và các thành viên đảng đoàn của nó.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/283701

The post Truyện cổ Phật gia: Mễ Phất “từ Chúng Hương Quốc đến, lại trở về Chúng Hương Quốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thựchttps://chanhkien.org/2021/12/chuyen-co-phat-gia-hoai-chau-cau-thuc.htmlWed, 29 Dec 2021 02:01:34 +0000https://chanhkien.org/?p=28237Tác giả: Trình Thực chỉnh lý [ChanhKien.org] Thuở xưa có một anh chàng nghèo khó đi thăm họ hàng, khi được người thân tiếp đãi nồng hậu, anh ta đã uống say tuý lúy đến mức ngủ ngay trên bàn rượu. Vừa hay lúc ấy người họ hàng có chút việc công cần phải đi […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trình Thực chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Thuở xưa có một anh chàng nghèo khó đi thăm họ hàng, khi được người thân tiếp đãi nồng hậu, anh ta đã uống say tuý lúy đến mức ngủ ngay trên bàn rượu. Vừa hay lúc ấy người họ hàng có chút việc công cần phải đi ngay, thấy người bà con nghèo khó của mình đã say quắc cần câu bèn đem một viên bảo châu vô cùng quý giá tên là “trí huệ” khâu vào trong áo anh ta, rồi vội rời đi.

Anh chàng nghèo khó vì say quá rồi nên không biết chuyện gì đã xảy ra. Sau khi tỉnh rượu anh lại đi sang nước khác. Anh vẫn nghèo rớt mồng tơi, cuộc sống khốn khó đến mức chán nản, chỉ có thể gắng gượng mà sống qua ngày. Khi này anh vẫn chưa biết trong y phục của mình có giấu một viên bảo châu vô giá.

Sau này một lần tình cờ anh gặp lại người họ hàng kia. Trông thấy bộ dạng rách rưới của anh, người họ hàng không nén nổi thở dài: “Anh đúng là một tên ngốc, chỉ vì miếng cơm manh áo mà hao tổn tâm sức, rốt cuộc là vì điều gì? Vì muốn anh sống được thoải mái một chút nên năm đó khi anh đến nhà chơi, tôi đã may vào trong áo của anh một viên bảo châu hết sức quý giá. Những tưởng từ nay trở đi anh sẽ giàu sang, ngờ đâu anh vẫn mảy may không hay biết, vẫn cứ phải bôn ba vất vả vì miếng cơm manh áo”.

Đã từng có một thời Phật đem hết thảy trí huệ ban cho thế nhân, tiếc là mọi người đã vô tình quên đi viên bảo châu “trí huệ” (tức lương tri) vô giá này, vẫn mơ mơ hồ hồ, gian lao khó nhọc bôn ba trên hành trình nhân sinh.

Đừng mải mê trong vinh hoa phú quý, hãy thức tỉnh lương tâm của chúng ta!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/115101

The post Chuyện cổ Phật gia: Hoài châu cầu thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Chuyện cổ Phật giahttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-chuyen-co-phat-gia.htmlSun, 07 Mar 2021 21:10:22 +0000https://chanhkien.org/?p=27248Tác giả: Đệ tử Đại Pháp  [ChanhKien.org]   Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm Chuyện cổ Phật gia: Tất […]

The post Loạt bài: Chuyện cổ Phật gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp 

[ChanhKien.org]

 

Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà

Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát

Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm

Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúng

Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chết

Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận

Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa

Chuyện cổ Phật gia: Vứt bỏ ảo ảnh của tình

Chuyện cổ Phật gia: Nỗi khổ của người tu hành

Chuyện cổ Phật gia: Thông Huyền

Chuyện cổ Phật gia: Huyền Tông

Chuyện cổ Phật gia: Tăng An

Chuyện cổ Phật gia: Tâm từ bi

Chuyện cổ Phật gia: Thích Huyền Tảo

Chuyện cổ Phật gia: Đạo Thuấn

Chuyện cổ Phật gia: Xá lợi hiển thần uy, Phật pháp truyền Đông Ngô

Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèo

Chuyện cổ Phật gia: Ma Ha Lư “ngu ngốc”

The post Loạt bài: Chuyện cổ Phật gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Xá lợi hiển thần uy, Phật pháp truyền Đông Ngôhttps://chanhkien.org/2020/11/chuyen-co-phat-gia-xa-loi-hien-than-uy-phat-phap-truyen-dong-ngo.htmlSun, 22 Nov 2020 09:44:53 +0000https://chanhkien.org/?p=26819Thái Bình chỉnh lý [Chanhkien.org] Lịch sử xưa nay, có cao tăng viên tịch sau khi hỏa táng có thể lưu lại xá lợi tử, xá lợi tử hết sức cứng hơn nữa còn phát ra ánh sáng, Phật gia coi đây là bảo vật quý giá. Dưới đây là một đoạn ghi chép về […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Xá lợi hiển thần uy, Phật pháp truyền Đông Ngô first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thái Bình chỉnh lý

[Chanhkien.org]

Lịch sử xưa nay, có cao tăng viên tịch sau khi hỏa táng có thể lưu lại xá lợi tử, xá lợi tử hết sức cứng hơn nữa còn phát ra ánh sáng, Phật gia coi đây là bảo vật quý giá. Dưới đây là một đoạn ghi chép về xá lợi tử.

Tổ tiên của Khang Tăng Hội là người nước Khang Cư, cư ngụ tại Thiên Trúc, cha của ông vì việc làm ăn buôn bán mà di cư đến Giao Chỉ. Vào lúc ông hơn mười tuổi, phụ mẫu đều qua đời, ông dùng tâm chí thành mà phục tang cha mẹ, sau khi mãn tang mới xuất gia tu luyện. Sau khi xuất gia, ông tinh tấn không buông lơi. Ông đối đãi với người thì độ lượng rộng rãi, hơn nữa bản thân lại có kiến thức, dốc chí học tập, hiểu rõ Tam Tạng, đọc thông Lục Kinh, thiên văn sấm vỹ đều có xem qua, ngòi bút của Khang Tăng Hội rất có nội lực. Thời ông ở đất Ngô, Tôn Quyền khi đó đã khống chế được Giang Đông, nhưng Phật pháp vẫn chưa thịnh hành.

Trước kia, từng có tăng nhân Chi Khiêm từ xứ Nguyệt Chi đến Trung Quốc truyền bá Phật pháp ở đất Ngô. Nhưng Phật pháp ở đất Ngô chỉ vừa mới bắt đầu truyền bá, ảnh hưởng còn chưa rộng rãi, Khang Tăng Hội muốn chấn hưng Phật pháp ở Giang Đông, nên đã khởi công xây dựng chùa ở đó, vì vậy ông liền đem theo Bách tích trượng mà đi về phía đông. Năm Xích Ô thứ mười nhà Ngô, ông đến Kiến Nghiệp dựng nhà tranh, bắt đầu truyền Phật pháp. Lúc bấy giờ người dân nước Ngô khi lần đầu thấy trang phục hòa thượng, cũng không biết Phật lý, nghi ngờ ông là một kẻ dị đoan. Có người tấu lên Tôn Quyền: “Có dị nhân tiến vào nước ta, tự xưng là hòa thượng, tướng mạo và phục sức đều không giống chúng ta, phải nên kiểm soát.” Tôn Quyền nói: “Thuở trước Hán Minh Đế mộng thấy một vị thần, danh xưng là Phật. Việc nhà ngươi nói, chẳng lẽ là điều truyền lại của Phật sao?” Tôn Quyền lập tức triệu kiến Khang Tăng Hội, hỏi ông rằng: “Ngươi có gì làm linh nghiệm?”, Tăng Hội nói: “Như Lai rời đi đã nghìn năm, nhưng xá lợi chiếu sáng vô cực, xưa kia vua A Dục xây tám vạn bốn nghìn tòa tháp chùa, mà chùa tháp thịnh vượng chính là cho thấy ảnh hưởng to lớn của Phật tổ.” Tôn Quyền cho rằng đây là những lời khoác lác, bèn nói với Tăng Hội: “Nếu có thể có được xá lợi, thì ta sẽ dựng tháp, còn nếu là lời hư dối, thì sẽ xử lý theo quốc pháp.” Tăng Hội thỉnh cầu kỳ hạn 7 ngày.

Tăng Hội sau khi trở về liền nói với những người tháp tùng của mình rằng: “Việc hưng phế của Pháp, tất ở phen này đây, hôm nay nếu không thành tâm thành ý, về sau hối hận không kịp.” Mọi người cùng nhau trai giới ở tịnh thất, đem một chiếc bình bằng đồng dâng lên hương án, sau đó thắp hương lễ thỉnh. Kỳ hạn 7 ngày đến nhưng không có ứng nghiệm gì. Ông thỉnh cầu thêm 7 ngày nữa, cũng không có điều gì xuất hiện. Tôn Quyền nói: “Đây là ngươi lừa dối người, ta phải thêm tội cho ngươi mới được.” Tăng Hội lại thỉnh cầu thêm 7 ngày, Tôn Quyền đặc cách đáp ứng. Tăng Hội mời đạo hữu tới, nói với bọn họ: “Phật pháp lẽ nên được ban đến, thế nhưng chúng ta lại không làm được, chúng ta hãy lấy cái chết ra làm kỳ hạn.” Đến chạng vạng tối ngày thứ 21, trong bình đồng vẫn im ắng không tiếng động. Đến canh năm, chợt nghe có tiếng rào rào bên trong, Tăng Hội đi tới nhìn, quả nhiên đã có được xá lợi. Sáng sớm hôm sau, Tôn Quyền đích thân lấy bình đồng mà trút xá lợi tử vào chậu đồng, chậu bị xá lợi đập vào lập tức vỡ. Tôn Quyền giật mình thán phục, nói rằng: “Đây là vật lành hiếm có.” Tăng Hội đi tới trước mặt Tôn Quyền nói: “Xá lợi thần uy há chỉ thể hiện có thế mà thôi! Lửa mạnh đốt không hỏng được nó, đá kim cương đập không vỡ được nó.” Tôn Quyền sai người kiểm nghiệm, Tăng Hội lại một lần nữa phát thệ rằng: “Phật pháp ban trải thiên hạ, chúng sinh ngóng trông, nguyện xin Ngài ban kỳ tích một lần nữa, tỏ rộng uy linh.” Nói xong liền đem xá lợi đặt ở trên đe sắt, để cho lực sỹ dùng hết sức mà đập, kết quả đe sắt cùng chùy sắt đều lõm cả vào trong mà xá lợi không hư hao chút nào. Tôn Quyền vô cùng thán phục, lập tức truyền lệnh xây tháp. Tháp này lấy tên là Kiến Sơ tự, ý là Phật tự đầu tiên ở Đông Ngô, nơi xây chùa được gọi tên là Ngộ Lý. Từ đó, Phật pháp hưng thịnh ở Giang Đông.

Sau Tôn Quyền, Tôn Hạo kế vị, ông ta ban bố pháp lệnh hà khắc bạo ngược, ngoại trừ nơi cúng tế được triều đình quy định chính thức ra thì mọi từ đường, miếu mạo, ngay cả Phật tự cũng đều phải phá bỏ. Tôn Hạo nói: “Có lý do gì để Phật tự tồn tại? Nếu như bọn họ dạy mọi người trung trinh chính trực, nhất trí với kinh điển Nho gia, vậy thì để cho tồn tại; bằng không, thiêu hủy hết thảy!” Các đại thần nhắc nhở ông ta rằng: “Phật có uy lực, không giống với thần. Khang Tăng Hội năm đó cảm động Phật tổ, giáng xuống bảo vật xá lợi, Thái Hoàng bèn sáng lập Phật tự. Ngày nay, nếu như khinh suất mà tiến hành hủy hoại, sợ rằng phải nhận hối hận về sau.”

Tôn Hạo phái Trương Dục đến chùa chất vấn Tăng Hội. Trương Dục rất có tài hùng biện, ông ta ở trước mặt Tăng Hội mà vặn hỏi cật vấn. Tăng Hội dẫn chứng phong phú, cơ trí ứng đối vấn đề của Trương Dục, lý lẽ sắc bén. Hai người đàm luận từ sáng đến tối, Trương Dục cũng không thế khiến khuất phục được Tăng Hội vậy nên đã xin cáo lui. Tăng Hội tiễn ông ta ra cửa, lúc đó bên cạnh chùa vẫn còn mấy cái miếu thờ trong tín ngưỡng dân gian vẫn chưa bị phá bỏ. Trương Dục nói: “Phật môn đã quảng truyền, vì sao những người này ở gần như vậy mà không được giáo hóa?” Tăng Hội nói: “Sấm sét phá núi, người điếc không nghe được, nguyên nhân không phải là vì tiếng sấm quá nhỏ. Nếu như đạo lý thông thuận, thì ở ngoài vạn lý cũng có thể hưởng ứng, nếu như tắc nghẽn không thông, thì tuy gần gũi nhưng mâu thuẫn khác biệt.” Trương Dục sau khi trở về, tán thán Tăng Hội trí tuệ cao minh, tự thấy mình không bằng, xin Tôn Hạo xem xét lại. Tôn Hạo lập tức tập hợp những người tài cán trong triều, dùng xe ngựa đón Tăng Hội đến. Tăng Hội vừa ngồi xuống, Tôn Hạo đã hỏi: “Phật giáo giảng thiện ác báo ứng, thế thì cái gì là thiện ác báo ứng?” Tăng Hội đáp: “Bậc quân chủ hiền minh lấy hiếu hạnh nhân từ giáo dục đạo đức thiên hạ, thế thì giống chim báo điềm lành bay lượn mà người già thì khoẻ mạnh; lấy nhân đức dưỡng dục vạn vật, tất suối ngọt phun trào, mầm tốt sinh trưởng. Thiện hạnh đã có điềm lành hiện ra, làm ác cũng giống vậy. Cho nên, làm ác bí mật, quỷ thần biết được liền diệt trừ, làm ác rõ ràng, người ta biết được liền diệt trừ, Kinh Dịch nói ‘Tích thiện thì phúc dư ra’, Kinh Thi nói ‘Cầu phúc bằng cách chính trực, không tà vạy’, tuy là cách ngôn của kinh điển Nho gia, nhưng cũng là minh huấn của Phật giáo.” Tôn Hạo nói: “Nếu là như vậy, thế thì Chu, Khổng đã nói rất rõ ràng, còn cần Phật giáo làm chi?” Tăng Hội nói: “Khổng Tử nói chỉ là vạch ra những gì trước mắt thế nhân, chỉ ra quy tắc hành vi thực dụng; còn như Phật giáo, liên quan đến phép tắc cực thâm sâu. Cho nên Phật giáo cho rằng, làm ác tất bị xuống địa ngục chịu đựng vô tận thống khổ, tu thiện tất có thể hưởng thụ được niềm vui vĩnh viễn ở thiên cung. Dùng đạo lý như vậy mà khuyến khích thế gian, không phải càng tốt hơn sao?” Tôn Hạo lúc đó khó có thể phản bác được lời của ông. Tôn Hạo tuy rằng nghe được Tăng Hội chỉ dạy Phật pháp, nhưng tính tình bạo ngược của ông ta vẫn chưa vì thế mà cải biến.

Có một ngày, Tôn Hạo cho lính canh đến hậu cung dọn dẹp vườn hoa, đào từ dưới đất lên được một pho tượng Phật bằng vàng, cao đến mấy thước, lính canh đem trình lên Tôn Hạo, Tôn Hạo lại cho người đặt tượng trong nhà xí dơ dáy, dùng nước phân mà tưới lên, ông ta cùng các đại thần ở bên nhìn ngó cười cợt làm vui. Bỗng trong khoảnh khắc, toàn thân Tôn Hạo sưng đau, hạ bộ còn tệ hơn, đau đến mức ông ta kêu trời kêu đất, quan thái sử bói rằng: “Đây là vì mạo phạm vị Thần lớn mà thu nhận tai hoạ.” Tôn Hạo lập tức đến các chùa miếu cầu xin phù hộ, lại cho cung nữ lập tức nghênh đón tượng Phật vàng đem đặt trên điện đường mà cúng bái, dùng nước thơm tẩy rửa hơn mười lần, sau đó thắp hương sám hối, Tôn Hạo quỳ trên mặt đất liên tục dập đầu, tự mình sám hối tội trạng, cầu xin thần linh khoan thứ. Chỉ chốc lát sau, cơn đau trên người liền giảm bớt. Tôn Hạo còn phái người đến chùa, thỉnh cầu Tăng Hội thuyết pháp cho ông ta. Tăng Hội theo sứ giả vào cung, Tôn Hạo hỏi ông về căn nguyên của tội phúc. Tăng Hội nói khái quát cho ông ta về giáo lý Phật giáo. Vì Tôn Hạo vừa có trải nghiệm thực tế, cho nên nghe rất hiểu. Ông ta vui mừng lại rất bội phục. Bởi vậy Tôn Hạo xin xem giới luật sa môn. Tôn Hạo thấy Phật pháp truyền bá rộng rãi như vậy, càng gia tăng ý nghĩ tu thiện, bèn đến nơi Tăng Hội tiếp thụ ngũ giới, mười ngày sau bệnh tật liền khỏi hẳn.

Từ đó về sau, Tôn Hạo liền đem những gì chứng kiến tại chỗ của Tăng Hội mà nói cho gia nhân trong tôn thất nghe, bọn họ cũng đều tín phụng Phật giáo. Tăng Hội ở trong triều đình Đông Ngô nỗ lực tuyên giảng Phật pháp, bởi vì Tôn Hạo tính tình hung bạo thô lỗ, không thể lĩnh ngộ được chỗ thâm sâu vi diệu của Phật pháp, Tăng Hội đành kể cho ông ta ví dụ về nhân quả báo ứng nhãn tiền, giúp ông ta mở mang tâm trí. Vào tháng 4 năm Thiên Kỷ thứ tư nhà Đông Ngô, Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, tháng 9 cùng năm, Tăng Hội viên tịch, năm này cũng là năm Thái Khang đầu tiên triều Tấn. Giữa thời Hàm Hòa của vua Thành Đế triều Đông Tấn, lúc Tô Tuấn gây loạn đã thiêu hủy tháp Phật mà Tăng Hội xây dựng trước đó, về sau được quan Tư không Hà Sung tôn tạo lại.

Bình Tây Tướng quân Triệu Dụ vốn không tín phụng Phật giáo, miệt thị Phật pháp. Ông ta xông vào trong ngôi chùa này, nói với các vị tăng nhân: “Từ lâu đã nghe ở chùa tháp này có xá lợi tử chiếu sáng chói lọi, đúng là hoang đường. Nếu như đáng tin, thì nhất định có thể làm cho chính mắt người nhìn thấy, điều này các ngươi không làm được.” Vừa nói dứt lời thì từ trong Phật tháp chiếu ra ánh sáng ngũ sắc, chiếu sáng toàn bộ điện đường và Phật tự. Triệu Dụ thấy thế, dựng ngược tóc tai, bất giác cảm thấy nể sợ mà sinh lòng thành kính. Từ đó về sau, ông ta bắt đầu thành kính tín phụng Phật giáo.

Tôn Hạo là hôn quân thời Tam Quốc vào cuối triều đại nhà Ngô, ông ta bởi vì khinh nhờn Phật tượng mà gặp ác báo, may mắn là, ông ta hãy còn có thể thức tỉnh. Đáng tiếc ngày nay lại có rất nhiều người Trung Quốc không tin thiện ác hữu báo, thậm chí phỉ báng Phật pháp, vậy sẽ phải chịu báo ứng gì? Ông trời là công chính vô tư. Cũng hy vọng họ giống như Tôn Hạo, cuối cũng có thể thức tỉnh.

◇◇◇ ◇◇◇

Chú thích: Khang Tăng Hội (Kangsenghun, ? ― 280) là tăng nhân nước Ngô thời Tam Quốc. Nguyên quán tại Khang Cư, sau này sống ở Thiên Trúc, về sau lại di cư đến Giao Chỉ. Hơn mười tuổi phải để tang phụ mẫu, mãn tang xuất gia. Hiếu học, đọc rộng, thông điển tịch trong ngoài. Thời Giang Đông Phật pháp chưa thịnh, ông lập chí đông du hoằng pháp. Ngô, năm Xích Ô thứ 10 (năm 247, có chỗ ghi năm Xích Ô thứ tư) tới Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh, Giang Tô), xây tượng hành đạo, Tôn Quyền xây ngôi chùa đầu tiên. Tác phẩm dịch có “Lục độ tập kinh” 8 quyển, “Cựu tạp thí dụ kinh” 2 quyển, hiện vẫn còn. “Xuất tam tạng ký tập” quyển 13 đảm nhiệm dịch “A nan niệm di kinh “, “Kính diện vương kinh”, “Sát vi vương kinh”, “Phạm ma vương kinh”, đều thu thập lại trong “Lục độ tập kinh”. “Khai nguyên thích giáo lục” quyển 2 đảm nhiệm dịch “Ngô phẩm kinh” 5 quyển, “Bồ tát tịnh hành kinh” 2 quyển, “Quyền phương tiện kinh” 1 quyển, “Bồ tát nhị bách ngũ thập pháp kinh” 1 quyển, “Tọa thiện kinh” 1 quyển, đều thất lạc. Ông từng chú thích cho “An bàn thủ ý kinh”, “Kinh kính kinh”, “Đạo thụ kinh” – và viết tựa cho 2 bộ kinh đầu tiên, còn có “An bàn thủ ý kinh” thỉnh vấn Hội Kê Trần Tuệ đệ tử của An Thế Cao. “Pháp kính kinh”, “Lục độ tập kinh” văn từ trang nhã, về các pháp Ba La Mật đều có dẫn dắt ngắn gọn, là tư liệu quan trọng của Phật học thời Hán – Ngụy.

(Nguồn: “Cao tăng truyện”)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/21231

The post Chuyện cổ Phật gia: Xá lợi hiển thần uy, Phật pháp truyền Đông Ngô first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bàhttps://chanhkien.org/2020/09/chuyen-co-phat-gia-ngo-truong-lao-diem-hoa-trinh-hanh-ba.htmlSat, 19 Sep 2020 03:19:47 +0000https://chanhkien.org/?p=26580Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, có một bà lão ở Hợp Châu tên là Trịnh Hành Bà, bà là một cư sĩ Phật giáo rất sùng đạo. Từ nhỏ, bà đã không ăn thịt không uống rượu, bà lớn lên trong gia đình tín ngưỡng Phật giáo. Hàng ngày bà chuyên […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, có một bà lão ở Hợp Châu tên là Trịnh Hành Bà, bà là một cư sĩ Phật giáo rất sùng đạo. Từ nhỏ, bà đã không ăn thịt không uống rượu, bà lớn lên trong gia đình tín ngưỡng Phật giáo. Hàng ngày bà chuyên tâm tụng niệm một bộ kinh trong Phật giáo. Bà vô cùng tinh tấn và hầu như không hề lười biếng, buông lơi.

Mùa xuân năm Tân Vị (năm 1151 sau công nguyên) tại Thiệu Hưng, Trịnh Hành Bà và những người khác đi đến chùa Báo Ân Quang Hiếu để nghe Ngộ trưởng lão hồng dương Phật pháp. Trên đường đi ngang qua cửa hàng thịt, thấy anh đồ tể đang thái thịt bò, bà nói đùa với bạn đồng hành: “Thịt bò này mà chấm với muối và dấm để ăn thì thơm ngon phải biết”.

Khi đến chùa, Ngộ trưởng lão đột nhiên hỏi bà: “Tại sao bà lại ăn thịt bò?” Trịnh Hành Bà nói: “Từ khi sinh ra con chưa bao giờ ăn thịt, tại sao ngài lại nói như vậy?” Thấy bà trả lời khá chắc chắn, Ngộ trưởng lão bèn lấy ra một ít thuốc, pha bằng nước ấm rồi cho Trịnh Hành Bà uống. Sau khi Trịnh Hành Bà uống cạn, một lúc sau, bà cảm thấy buồn nôn và ngay lập tức nhổ ra một thứ giống như một bát thịt bò lớn.

Lúc này, Trịnh Hành Bà ngộ được rằng: khi bà đi ngang qua cửa hàng thịt, bà đã vi phạm yêu cầu về “thân, khẩu, ý” trong Phật giáo, bà đã động vọng niệm và ham muốn ăn thịt, thậm chí còn nói đùa về điều đó với người khác. Sau lần điểm hoá này, bà càng tu hành tinh tấn hơn, càng không dám khởi bất kỳ vọng niệm nào nữa.

Trong câu chuyện này, Trịnh Hành Bà vô tình động vọng niệm với chấp trước ăn thịt, và sau đó lại nói ra khỏi miệng, quả thật tại một không gian khác đã chiêu mời đến những vật chất tương ứng; vị Ngộ trưởng lão này cũng là một cao tăng thần kỳ, thuốc mà ông cho Trịnh Hành Bà uống quả nhiên thực sự có thể đẩy vật chất từ không gian khác vào không gian này. Tất nhiên, tôi không nói rằng tu luyện nhất định phải ăn chay. Các phương pháp khác nhau có những yêu cầu khác nhau, thực ra, Đức Phật Thích Ca đương thời cũng không yêu cầu người xuất gia không được ăn thịt, thay vào đó ông yêu cầu những người xuất gia và tăng nhân: Thí chủ bố thí đồ ăn gì thì tăng nhân ăn đồ ăn đó, nhưng không được động tâm đối với màu sắc hương vị của đồ ăn, không được hữu cầu. Tôi muốn nói rằng qua câu chuyện này có thể thấy tu luyện là vô cùng nghiêm túc, cần phải yêu cầu nghiêm khắc đối với mọi tư tưởng, lời nói của người tu luyện, một suy nghĩ sai, một lời nói sai đều có thể chiêu mời những thứ không tốt đến, người tu luyện nhất định phải tu tâm, trong từng vấn đề nhỏ nhặt đều không được sản sinh chấp trước.

Trích từ: Di Kiên Chí – Chi Chí Đinh – Trịnh Hành Bà

 

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/257633

The post Chuyện cổ Phật gia: Ngộ trưởng lão điểm hoá Trịnh Hành Bà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh háthttps://chanhkien.org/2016/08/cau-chuyen-phat-gia-cuoc-doi-thoai-giua-duc-phat-thich-ca-mau-ni-va-truong-doan-ganh-hat.htmlWed, 03 Aug 2016 04:55:29 +0000http://chanhkien.org/?p=24816Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến hóa duyên ở nước Ma Kiệt Đà, Ngài ở tại tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà ở phía bắc thành Vương Xá. Một hôm, có một vị trưởng đoàn gánh hát nổi tiếng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát. (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm)

Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến hóa duyên ở nước Ma Kiệt Đà, Ngài ở tại tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà ở phía bắc thành Vương Xá. Một hôm, có một vị trưởng đoàn gánh hát nổi tiếng thời bấy giờ đến tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà. Ông đến hành lễ trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cung kính hỏi rằng: “Trước đây, con từng nghe các bậc tiền bối trong giới văn nghệ nói rằng: Nếu người nghệ nhân có thể biểu diễn hết mình trước quần chúng, mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, vậy thì người nghệ nhân đó sau khi chết có thể có một cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời. Nói như vậy Ngài thấy có đúng không?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: “Chúng ta không nên bàn đến chuyện này nữa, ông đừng hỏi ta nhìn nhận sự việc này như thế nào”. Vị trưởng đoàn gánh hát vẫn không nản lòng, hỏi đi hỏi lại ba lần, Đức Phật đành phải trả lời: “Ta hỏi ông câu này, ông nghĩ thế nào hãy trả lời như thế. Trước đây, khi thế gian còn chưa có đấng cứu độ, mọi người đều chưa xa rời khỏi tham sân si, cũng không biết được cần phải xa rời tham sân si, vẫn bị trói buộc bởi tham sân si. Nội dung các vở biểu diễn ca múa hý kịch của nghệ nhân cũng không tách khỏi tham sân si, như vậy mới có thể phù hợp với thị hiếu của mọi người, thu hút mọi người đến xem. Mọi người đến xem nghệ nhân biểu diễn, vui cười thỏa thích, há chằng phải lại càng làm mạnh thêm tâm tham sân si của họ hay sao, khiến cho mọi người càng bị trói buộc vào tham sân si hay sao? Đây chính là giống như một người bị trói hai tay ngược ra đằng sau bằng dây gai, có người muốn hành hạ anh ta càng đau đớn hơn, bèn liên tục tưới nước lên sợi dây gai, dây gai hút nước liền nở ra, khiến dây trói càng chặt hơn, vậy há chẳng phải là khiến anh ta càng bị trói chặt hơn, càng đau khổ hơn hay sao?”

“Đúng vậy”, vị trưởng đoàn gánh hát trả lời.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Vậy nên chúng sinh đã không thể xa lìa sự trói buộc của tham sân si, lại còn chịu sự kích động của ca múa hý kịch, há chẳng phải là càng làm tăng thêm tâm tham sân si của họ sao?”

Vị trưởng đoàn gánh hát nghe xong không thể không thừa nhận lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói có đạo lý: các màn biểu diễn ca múa hý kịch giúp cho mọi người vui cười thỏa thích, nhưng cũng kích động chúng sinh tăng thêm tâm tham sân si, nên càng khiến chúng sinh bị trói buộc sâu hơn vào tham sân si.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng tiếp: “Vậy nên, các bậc tiền bối trong giới văn nghệ xưa nay nói rằng người nghệ nhân biểu diễn ca múa hý kịch mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, thì sau khi chết có thể có cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời, quan điểm đó là tà kiến sai lầm! Thành thật mà nói, những người ôm giữ tà kiến như vậy sau khi chết chỉ có thể rơi vào địa ngục hoặc đầu thai làm súc vật, sao có thể lên trời được?”

Trưởng đoàn gánh hát sau khi nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp xong, lập tức quy y Phật Pháp. Nghe nói vị này về sau đã tu thành quả vị A La Hán.

Kỳ thực nếu như dùng hình thức ca múa nghệ thuật để tuyên dương các loại tà kiến, quan điểm sai lầm, văn hóa tà đảng, thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và những thứ làm bại hoại đạo đức nhân loại, những thứ văn hóa phẩm đồi trụy hạ lưu, những thứ làm tăng trưởng tâm chấp trước của con người, vậy thì sẽ đều gây hại cho con người. Tuy nhiên, thuận theo sự bại hoại của nhân loại, đa số các tác phẩm nghệ thuật trong giới văn nghệ hiện nay đều mang ít nhiều những nội dung bất chính như vậy; đặc biệt là ở Trung Quốc đại lục ngày nay, trên truyền hình (nhất là chương trình truyền hình trung ương Trung Quốc), đài phát thanh, cho đến báo chí truyền thông đều ồ ạt phát đi các chương trình với nội dung ca tụng văn hóa tà đảng, miệt thị Thần Phật, phủ nhận tu luyện, cổ xúy đấu tranh, tuyên dương tà đảng và kẻ đầu sỏ của nó, bóp méo lịch sử, tô vẽ kẻ xấu, bôi nhọ người tốt…

Các chương trình, tiết mục do tà đảng làm ra này chứa một lượng lớn độc tố khiến người xem bị đầu độc nghiêm trọng. Chính những người gọi là nghệ sĩ, người của công chúng này đang phục vụ cho tà đảng đầu độc chúng sinh, chính họ cũng đang tạo nghiệp.

Trái lại, nếu dùng hình thức nghệ thuật chính thống chân chính để ca ngợi Thần Phật, ca ngợi những người tu luyện chân chính, ca ngợi vẻ đẹp của Phật Pháp, vạch trần tà ác, thức tỉnh lương tâm con người thế gian và chúng sinh, tuyên dương những điều ngay chính, tốt đẹp, vậy thì đều tốt cho nhân loại, cho chúng sinh, thậm chí là một việc đại thiện, tích vô lượng công đức. Hiện nay, các học viên Pháp Luân Đại Pháp ở hải ngoại đã thông qua các hoạt động nghệ thuật như “Triển lãm mỹ thuật quốc tế Chân Thiện Nhẫn” , “Thiên Quốc Nhạc Đoàn”, “Đoàn Nghệ Thuật Thần Vận” để thức tỉnh chúng sinh, cứu độ con người thế gian. Những việc làm của họ chính là việc đại thiện, tích công đức vô lượng. Nhân loại tương lai sẽ mãi mãi ca tụng những người nghệ sỹ vĩ đại này.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2008/05/08/52731.佛家故事:释迦牟尼佛与歌舞团团主的对话.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệmhttps://chanhkien.org/2015/06/truyen-co-phat-gia-ba-hoa-thuong-tre-vuot-khao-nghiem.htmlWed, 24 Jun 2015 09:09:41 +0000http://chanhkien.org/?p=24254Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Trong triều đại Nam Bắc, có ba hòa thượng trẻ ngụ tại chùa Linh Thứu thuộc núi Ngũ Thai. Núi Ngũ Thai là một ngọn núi Phật gia nổi tiếng. Ba vị hòa thượng đồng lòng đi tìm Thánh giả Phật gia sống ẩn dật trên núi […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org] Trong triều đại Nam Bắc, có ba hòa thượng trẻ ngụ tại chùa Linh Thứu thuộc núi Ngũ Thai. Núi Ngũ Thai là một ngọn núi Phật gia nổi tiếng. Ba vị hòa thượng đồng lòng đi tìm Thánh giả Phật gia sống ẩn dật trên núi Ngũ Thai. Họ đóng gói hành lý, lương thảo và lên đường. Vượt qua nhiều rừng rậm và ăn gần hết số lương thực, họ quyết tâm phải gặp được Thánh giả cho dù có phải ăn lá cây để sống qua ngày.

Ba vị hòa thượng đã tìm kiếm khắp nơi trên ngọn núi suốt ba tháng trời. Một hôm, trong khi đang nghỉ ngơi dưới một gốc cây, họ nhìn thấy một người đàn ông cao lớn đi ngang qua, từ thân thể người này tỏa ra vầng hào quang hiếm thấy. Họ tiến tới người đàn ông và hỏi ông có phải là Thánh giả không. Người đàn ông phớt lờ họ và tiếp tục bước đi. Họ đi theo người đàn ông hàng dặm đường cho đến khi ông ấy đi vào một cái hang. Họ đợi ông ở bên ngoài cửa hang. Sau một thời gian, có một dị nhân tướng mạo thanh thoát từ trên mây đáp xuống, và mời ba vị hòa thượng vào trong hang. Sau khi đi được một đoạn trong hang, cảnh sắc trong hang đột nhiên biến đổi, họ không còn ở tại nhân gian nữa mà đã tiến nhập vào một thế giới nguy nga lộng lẫy, cảnh sắc mỹ hảo. Có những hạt minh châu rực rỡ lấp lánh ở phía trên đầu tỏa ánh hào quang rực rỡ, và hàng chục hang động đầy những ngọc ngà châu báu ở phía xa xa.

Các vị hòa thượng thấy mình đã tiến nhập vào nơi tiên cảnh, do đó đã khẩn cầu xin được vị dị nhân cứu độ. Vị dị nhân đưa cho họ một bình rượu thuốc và nói: “Hãy uống hết đi rồi ta sẽ dạy chư vị.” Ba vị hòa thượng đáp: “Chúng con là đệ tử Phật gia nên phải trì giới không được uống rượu.” Dị nhân nghe xong, không hài lòng nói: “Làm sao ta có thể độ được chư vị trở thành người Trời nếu chư vị không uống rượu này?” Ba vị hòa thượng trẻ tuổi đáp lại quả quyết: “Mặc dù chúng con rất thiết tha được trở thành Thánh giả, nhưng những giới luật của Phật Thích Ca Mâu Ni là tối cao nhất. Nếu bắt buộc phải uống rượu thì chúng con xin phép cáo từ.” Dị nhân thấy họ chuẩn bị ra về thì thuyết phục họ: “Trời sắp tối rồi, đường xa đi lại không tiện. Các vị có thể ở lại đây qua đêm.” Mỗi vị hòa thượng tự chọn cho mình một chiếc hang rồi ngủ lại đó. Thật ngạc nhiên, đêm đó dị nhân cử các mỹ nữ vào hang để qua đêm cùng các hòa thượng. Mỗi hòa thượng tự nghĩ: “Chúng ta xuất hành để tìm Thánh giả dạy ta, nào ngờ chỉ thấy ma sắc” và thế là họ liền bỏ trốn.

Họ gặp lại nhau rồi rời khỏi hang. Họ đi rất nhanh mà không quay đầu nhìn lại, rồi một tiểu đồng bay tới chỗ họ và nói: “Dị nhân mà các vị đã gặp chính là Thánh giả Phật gia đó. Các vị đã phụng trì giới luật kiên định vượt qua khảo nghiệm, thật là đáng khen. Đại sư rất hài lòng, nên Ngài bảo tôi tới đưa cho mỗi vị một viên thần dược.” Những viên thần dược này được chế từ bạch ngọc, sau khi ba vị hòa thượng uống thần dược thì bắt đầu có khả năng bay lên khỏi mặt đất, họ trở về chùa Linh Thứu để cáo biệt chúng tăng ở đó rồi bay đi mất.

Trong câu chuyện trên, ba vị hòa thượng đã đối diện với những cám dỗ, không chỉ là những mỹ nữ mà cả dụ dỗ tu đường tắt –uống rượu thuốc rồi mới được độ thành Thánh giả. Tuy nhiên họ đã kiên định tuân theo giới luật và cuối cùng đã vượt qua các khảo nghiệm. Những người tu luyện ngày nay trong mọi tình huống phải tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ của chúng ta và Đại Pháp khi đối mặt với những cám dỗ, bất kể đó là lợi ích vật chất trước mắt, hay những lối tắt trong thế giới con người, hoặc trong những không gian khác do ma quỷ diễn hoá ra. Chúng ta phải không ngừng học Pháp mà Sư phụ đã dạy chúng ta và làm theo những gì Sư phụ dạy bảo.

Dịch từ: http://www.pureinsight.org/node/6653

The post Chuyện cổ Phật gia: Ba hòa thượng trẻ vượt khảo nghiệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèohttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.html#respondThu, 26 Jun 2014 01:42:26 +0000http://chanhkien.org/?p=21646Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ gọi là "ngõ quạt", rất nổi tiếng.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trịnh Niệm Hành

[Chanhkien.org] Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ gọi là “ngõ quạt”, rất nổi tiếng. Tên này đến từ đâu? Nguyên là câu chuyện Tế Công xé quạt giúp người nghèo bắt đầu tại nơi đây.

Ngõ quạt này, vốn là một ngõ nhỏ vô danh, trong ngõ toàn là dân nghèo sinh sống. Trong đó có một cặp vợ chồng già, tuổi đều đã ngoài sáu mươi, lấy đan quạt, sửa quạt, bán quạt làm nghề mưu sinh. Thời trẻ tay nghề tinh thông, sức khỏe dồi dào, quạt làm ra đem lên chợ bán, sống ngày qua ngày. Tuy nhiên hiện giờ tuổi già sức yếu, sau không bằng trước, làm không đủ ăn, hai cái miệng già chịu đói, xem chừng sống không nổi nữa rồi.

Một hôm, trời đã quá trưa mà hai cụ già vẫn không có gạo cho vào nồi, bếp lò nguội ngắt. Cụ bà ngồi bên bếp lò, mơ màng sắp ngủ, còn cụ ông tựa vào khung cửa, vừa định chợp mắt.

Lúc này, một hòa thượng điên điên rồ rồ vừa đến trước cửa, ngó nhìn vào nhà, than thở một tiếng, lại nhìn cụ già ngồi tựa cửa, tâm đầy thông cảm. Hòa thượng giơ tay lên, thấy chiếc quạt trong tay, bỗng nhiên mắt sáng lên, trong tâm đã có chủ ý.

Hòa thượng dùng quạt quạt vào đầu cụ già một cái. Cụ già giật mình, dụi mắt nhìn thấy một hòa thượng điên đứng trước mặt, mới hỏi: “Sư phụ có việc gì không?”

“Ta cần sửa quạt!” Nói rồi giơ cây quạt trước mặt cụ già.

“Được, được, mời vào nhà!” Cụ già thấy có kế làm ăn, trong lòng cao hứng, vội vàng dẫn người vào nhà.

Tế Công nhấc chân bước vào nhà, ném chiếc quạt lên bàn, nói: “Sửa mau đi, đợi một lát nữa ta tới lấy!” Nói xong, ngoảnh đầu bước đi.

Cụ già cầm chiếc quạt lên xem, trong lòng ngờ vực: “Chiếc quạt này rách thế, nan không ra nan, khung không ra khung, sửa làm sao được”. Nghĩ rồi định nói với hòa thượng chiếc quạt này rách quá, thực sự không sửa được, thế nhưng hòa thượng đã đi xa rồi. Cụ già vừa sửa quạt vừa than, lẩm bẩm một mình: “Ta ở đây có một chiếc quạt mới, lát nữa ông ấy về ta đưa ông ấy là được rồi”.

Một canh giờ trôi qua, hòa thượng điên đã về, vừa đến cửa đã hỏi: “Quạt sửa xong chưa?”

“Sửa xong rồi”, lão nhân vừa cầm trong tay chiếc quạt mới vừa nói.

“Ha ha, tay nghề không tệ, sửa trông như quạt mới vậy!” Hòa thượng điên hài lòng nói.

Cụ già cười gượng, trong lòng hơi buồn, nói: “Nguyên là một chiếc quạt mới mà!”

Hòa thượng điên cầm một nén bạc đặt lên trên án, xoay mình sải bước về phía cửa, rồi lại quay đầu quạt mấy cái về phía cửa, miệng còn niệm thơ từ nghênh ngang đi.

Cụ già đuổi đến tận ngoài cửa, miệng lắp bắp không thôi: “Tạ ơn sư phụ!” Quay đầu nhìn lại trên cửa, thấy có câu đối không biết dán từ bao giờ:

Vế trên: Thủ nghệ tinh tâm thiện phúc tích

Vế dưới: Phiến tử mỹ thủ cần tài đáo

(Nghĩa là: Đặt tâm rèn luyện tay nghề sẽ tích được thiện và phúc, Cần cù chịu khó làm quạt đẹp thì tiền tài tới)

Bức hoành phi: Khổ tận điềm lai (Hết cay đắng thì tới ngọt bùi)

Cuộc gặp gỡ kỳ lạ của lão nhân bán quạt không lâu truyền khắp nơi nơi, mọi người đua nhau tới nhà cụ già xem câu đối, người mua quạt tới nườm nượp. Từ đó, hai cụ già sống trong sung túc.

Ngõ vô danh từ đó được gọi là “ngõ quạt”.

Không lâu sau, mọi người đều tỉnh ngộ, nói: “Hòa thượng điên kia nhất định là Phật sống Tế Công, đến để giải khốn cho hai cụ già nghèo”.

Ấy chính là:

Lão nhân nghèo khổ có thiện tâm,
Hòa thượng Tế Công thấy thương tình,
Thực hành mưu kế giải khốn khó,
Từ đó thịnh vượng kế mưu sinh.
Người có duyên phận được Phật cứu?
Mọi người thử ngẫm sẽ tường minh!

(Truyện trong «Cao tăng truyền kỳ»)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/3/24/58533.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Tế Công xé quạt giúp người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-te-cong-xe-quat-giup-nguoi-ngheo.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúnghttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.html#respondThu, 19 Jun 2014 01:37:02 +0000http://chanhkien.org/?p=21538Một ngày, một nhà sư ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, bên cạnh có một người hầu hạ, ở ngoài cửa là hai đồ đệ đang tranh luận kịch liệt.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Một ngày, một nhà sư ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, bên cạnh có một người hầu hạ, ở ngoài cửa là hai đồ đệ đang tranh luận kịch liệt. Hai bên không ai chịu ai, chấp vào ý kiến bản thân, đều cho rằng chứng thực và sở ngộ của mình mới là đúng.

Kết quả là tranh luận tới khi sư huynh tiến vào trong phòng hỏi nhà sư đang đả tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm không vướng víu’ hết thảy mọi thứ thế gian, xả bỏ vinh nhục, hết thảy tốt xấu thị phi đều không động tâm, đây mới là cốt tủy của tu hành, thế nhưng sư đệ cho rằng con nói không đúng. Xin hỏi sư phụ, quan điểm của con rốt cuộc đúng hay không đúng?”

“Con nói đúng”, nhà sư nhẹ nhàng đáp.

Sư huynh đắc ý lắm, dương dương tự đắc bước ra ngoài cửa, làm ra vẻ đắc thắng trước mặt sư đệ, nói với sư đệ rằng sư phụ nói quan điểm của ta là đúng.

Sư đệ nghe xong rất không phục, lập tức cũng tiến vào phòng hỏi nhà sư đang tĩnh tọa: “Sư phụ, người tu hành nên đạt đến ‘tâm có chủ tể’ hết thảy mọi thứ thế gian, minh bạch rõ ràng chọn lựa, nhận rõ đúng sai tốt xấu thị phi, đây mới là tu hành, thế nhưng sư huynh nói con lý giải lệch rồi, sao sư phụ lại nói anh ấy đúng?”

Nhà sư đáp: “Con nói đúng”. Sư đệ nghe sư phụ nói vậy trong tâm cao hứng lắm, vui mừng thích thú bước ra.

Người hầu hạ ở bên cạnh nhà sư thấy vậy trong tâm khó hiểu, mới hỏi nhà sư: “Ban nãy cách nhìn, liễu giải Phật Pháp của hai người họ hoàn toàn tương phản, sao ngài nói người này đúng, người kia cũng đúng, rốt cuộc là ai đúng đây?”

“Con nói đúng”, nhà sư đáp.

Phật Pháp vô biên, mỗi người tu luyện có cái nhìn khác nhau về Pháp lý thâm sâu huyền diệu, không có ai đúng ai không đúng, hơn nữa đúng hay không đúng chỉ là tương đối. Người tu tại cảnh giới của mình mà có nhận thức riêng, tùy theo cảnh giới đề cao mà ngộ về Pháp lý cũng nâng cao, khi ấy mới phát hiện Phật Pháp là bác đại tinh thâm.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/38886
http://pureinsight.org/node/4239

The post Chuyện cổ Phật gia: Tất cả đều đúng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-tat-ca-deu-dung.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chếthttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.htmlhttps://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.html#respondThu, 12 Jun 2014 01:43:48 +0000http://chanhkien.org/?p=21535Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo.

The post Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo.

Tuy rằng thân đã xuất gia, nhập không môn, nhưng trong tâm ông vẫn quyến luyến ngoại giới, bị ái dục ràng buộc, thường dùng dầu thơm sát lên thân thể, dùng nước nóng để tắm. Ông thích có làn da thơm tho, lựa chọn đồ ăn, tâm bị chôn vùi bởi vật chất, như bị dây mơ trói thân thể vậy, không lúc nào tự tại. Mặc dù trên hình thức đã xuất gia, thụ giới, nhưng về hành vi và cảnh giới thì vẫn là phàm phu tục tử, cách thánh đạo Niết Bàn còn xa lắm.

Khi ấy tại nước Ma La có một tôn giả tên là Upagupta, là một nhà sư đạo hạnh có tiếng. Vị tỳ kheo mới xuất gia này rất hâm mộ danh tiếng của Upagupta nên đã tới diện kiến.

Tôn giả hỏi ông: “Ông không quản đường xá xa xôi tới đây làm chi?”

“Tôi mộ danh ngài mà tới. Mong được nghe tôn giả từ bi khải thị yếu chỉ Phật Pháp”.

Tôn giả Upagupta quan sát căn cơ của ông, biết ông còn bị ái dục trói buộc, không thể giải thoát, bèn hỏi ông: “Ông có thể hoàn toàn nghe theo lời giảng của tôi, chấp nhận giáo huấn của tôi, chiếu theo ý chỉ của tôi mà làm hay không?”

“Tôi nhất định có thể, hết thảy đều chiểu theo lời dặn dò mà làm”.

“Nếu ông có thể sinh tín tâm, tôi trước tiên dạy ông thần thông, sau đó thuyết Pháp cho ông”, tôn giả nói.

“Học thần thông trước, tuyệt quá!”

Vậy là tôn sư dẫn ông lên núi, dạy ông học tập thiền định, lại dặn dò ông phải tuyệt đối phục tùng. Tôn giả vận dụng lực thần thông, hóa ra một cây đại thụ, nói: “Ông cần phải trèo lên cái cây này”. Vị tỳ kheo kia liền nghe lời tôn giả trèo lên cây đại thụ, nhưng nhìn xuống dưới thấy một cái hố lớn, sâu không lường được, lúc này tôn giả bèn nói: “Giờ thả hai chân của ông ra”. Vị tỳ kheo chỉ còn cách nghe lời buông hai chân ra, lúc này tôn giả lại lệnh ông bỏ hai tay ra. Vị tỳ kheo chỉ dám bỏ một tay ra, nhưng tôn giả bảo phải bỏ nốt tay kia ra, tỳ kheo cực kỳ sợ hãi, nói: “Nếu lại bỏ tay ra, sẽ rơi xuống hố mà chết”.

“Ông đã có lời ước hẹn với tôi, hết thảy tuân theo dạy bảo của tôi, giờ lại hối hận rồi sao?” Vị tỳ kheo không còn cách nào, đành buông tâm không nghĩ gì nữa, bỏ nốt tay kia ra, liền rơi vào cái hố sâu, vừa sâu hoắm vừa đen ngòm. Lúc này ông hồn xiêu phách lạc, toàn thân lạnh ngắt, mở mắt ra nhìn thì thấy cái cây và chiếc hố đã biến đâu mất. Sau đó, tôn giả bắt đầu thuyết Pháp cho ông.

“Giờ tôi hỏi ông, khi ông buông nốt tay ra để rơi xuống, ông còn thấy thế gian có gì đáng để thích nữa không?”

“Tôn giả, đã tới bước ngoặt sinh tử, hết thảy đều không còn gì đáng thích nữa”.

“Là như thế. Hết thảy mọi thứ thế gian, đều là hư ảo hết. Khi sắc thân ảo diệt, ái dục cũng theo đó mà ảo diệt. Nếu ông có thể nhìn thấu sắc thân vô thường, thoát khỏi ái chấp trói buộc, thì sẽ giải thoát khỏi nó. Ưa thích là căn nguyên của phiền não sinh tử, hãy cẩn thận với nó, tinh tấn tu hành, chớ mất bản tâm, sẽ thành chính Đạo”.

Vị tỳ kheo lúc này đột nhiên tỉnh ngộ, từ đó tĩnh tâm suy ngẫm, chuyên cần tinh tấn, chứng đắc quả vị La Hán.

Thế gian con người thật thật giả giả, hư hư thực thực, do con mắt thịt chúng ta nhìn không chính xác, mới lấy ảo làm thật, tham hưởng khoái lạc nhất thời, chỉ vì sai biệt một niệm, kết quả rớt vào vực thẳm không đáy.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/38333
http://pureinsight.org/node/4095

The post Chuyện cổ Phật gia: Giữa sống và chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2014/06/chuyen-co-phat-gia-giua-song-va-chet.html/feed0
Tu luyện cố sự: Bố thíhttps://chanhkien.org/2014/06/tu-luyen-co-su-bo-thi.htmlThu, 05 Jun 2014 02:45:52 +0000http://chanhkien.org/?p=22561Năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, từng nói về bảy loại bố thí có thể nhận được phúc báo.

The post Tu luyện cố sự: Bố thí first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hạo Thiên

[Chanhkien.org] Sau khi dịch xong bài viết, tôi chuẩn bị nằm xuống nghỉ ngơi. Lúc sắp ngủ, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện. Năm xưa Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, từng nói về bảy loại bố thí có thể nhận được phúc báo. Mọi người nghe xong, nhôn nhao vui sướng vạn phần. Bởi vì mấy loại bố thí này có thể thực hiện ở mọi lúc mọi nơi, rất thuận tiện lại đơn giản.

Có một tiểu hoà thượng xuất thân từ một người quý tộc, năm gần 10 tuổi, cậu vô cùng bướng bỉnh, cũng rất tinh nghịch, hai mắt đầy nét trẻ con, lại hiện ra sự thông minh trời ban. Nghe Phật Thích Ca nói xong, trong nội tâm cậu không khỏi thắc mắc: “Nếu một người rất giàu có, nhưng vừa điếc vừa câm lại vừa mù, làm thế nào người đó có thể bố thí được? Làm sao có thể cứu người như vậy?” Lúc các đệ tử ra ngoài hoá duyên, tiểu hoà thượng vừa chơi đùa vừa suy tư. Phật Thích Ca nhìn thấy được tâm tư của cậu, liền đến trước mặt cậu bé. Tiểu hoà thượng đang chơi đùa, liền lập tức cung kính đứng trước mặt Phật Thích Ca, chắp tay trước ngực nói: “Sư tôn, xin Ngài chỉ cho, đối diện với người vừa câm vừa điếc lại vừa mù cũng rất giàu, người đó làm sao bố thí được? Có Pháp nào có thể cứu được người như vậy không?”

Phật Thích Ca vừa cười vừa nói: “Đợi lúc Pháp Luân Thánh Vương hạ thế con sẽ minh bạch thôi.”

“Pháp Luân Thánh Vương lúc nào hạ thế vậy?”, tiểu hoà thượng ngây thơ hỏi.

“2.500 năm sau”, Phật Thích Ca trịnh trọng đáp.

Tiểu hoà thượng nghe xong há miệng trợn mắt, không khỏi nghĩ trong lòng ‘sao lâu như vậy’, lại tiếp tục hỏi: “Thế nhưng mà tại sao phải 2.500 năm sau Pháp Luân Thánh Vương mới hạ thế?”

Phật Thích Ca đáp: “Thực ra, Pháp Luân Thánh Vương là không chỗ nào không có (vô xứ bất tại). Quá khứ, hiện tại, và tương lai, đều là hiện thành từ Uy Đức của Thánh Vương”. Sau đó, Phật Thích Ca chỉ vào con đường thông từ khu vườn tinh xá ra phía ngoài, nói: “Thấy con đường này không? Phải đi đến cuối con đường này, gặp rất nhiều người, rất nhiều vấn đề. Pháp Luân Thánh Vương đang chờ chúng ta đi hết con đường, mới thuận tiện giải quyết hết thảy những vấn đề xuất hiện, đối xử công bình với hết thảy.”

Tiểu hoà thượng lại hỏi tiếp: “Pháp Luân Thánh Vương này có đủ hết thảy Pháp của bố thí để cứu độ chúng sinh sao?”

“Để chúng sinh trong toàn vũ trụ được cứu, Pháp Luân Thánh Vương ban cho hết thảy thiên quốc, thế giới, cho đến toàn vũ trụ hết thảy trí huệ, từ bi, quang minh và Pháp lực. Chỗ con nghe được lúc này, chỉ là một bộ phận bố thí ở cảnh giới của ta; nhưng cảnh giới này so với bố thí của Thánh Vương, thì chỉ là một bộ phận cực kỳ nhỏ bé trong vũ trụ vô biên.”

2.500 năm sau, mọi người có được hưởng thụ và sở hữu nhiều điều về vật chất, nhưng tinh thần sa sút và đạo đức trược đốc, khiến ánh mắt của mọi người rất ít nhìn vào những điều thiện mỹ tinh khiết, mà ham mê sắc tình như người mù nhưng lại không biết mình đui mù. Đối mặt với những lời thật lòng lương thiện, thì mắt điếc tại ngơ, như kẻ điếc mà không biết mình bị điếc. Khi tà linh giữa ban ngày ban mặt, trắng trợn trấn áp “Chân, Thiện, Nhẫn”, mọi người cùng nhau trầm mặt lảng tránh, hành động không khác gì người câm. Đệ tử Đại Pháp mười mấy năm qua, dùng các loại phương thức giảng rõ sự thật cho người đời; những người hiểu rõ sự thật, người giàu càng thêm nhân nghĩa, người mù hai mắt lại được thanh tịnh, hai tai bị điếc cũng được thông; người đời theo thời gian trôi qua đã không còn im lặng, mà công khai ủng hộ chính nghĩa, ngôn từ người ta cũng được cải biến trở nên hiền hoà thiện lương. Đây là kết quả của việc giảng chân tướng, thể hiện ra uy lực lớn lao, đánh thức vô số lương tri.

Được sự chỉ dẫn của Pháp Luân Phật Pháp, người tu luyện trong mâu thuẫn của cuộc sống, không chỉ không còn cư xử giống người thường, mà ở trong mâu thuẫn làm được “đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, đồng thời luôn luôn nhìn về khuyết điểm của mình mà xả bỏ nó. Đối mặt với đủ loại lợi ích mâu thuẫn, dần dần tu xuất đại thiện đại nhẫn, đại từ đại bi, ý chí vô tư trong sáng. Bố thí của người tu luyện Chính Pháp, ngoài đối đãi với chúng sinh bằng thiện và từ bi, còn thêm kiên nhẫn như kim cương bất động, xả bỏ những nhân tâm không tốt, từ đó thành tựu ý nghĩa chân chính của hai chữ “bố thí”. Điều này đã vượt xa những quan niệm bình thường, vượt xa các loại tư tưởng quan niệm hẹp hòi như bố thí tiền tài.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/76520

The post Tu luyện cố sự: Bố thí first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hậnhttps://chanhkien.org/2013/11/chuyen-co-phat-gia-tu-luyen-khong-tinh-tan-vao-am-phu-moi-hoi-han.htmlThu, 28 Nov 2013 17:18:37 +0000http://chanhkien.org/?p=22705Vào triều đại nhà Tấn, có một vị xuất gia, pháp danh là Thích Pháp Hành.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc Đại Lục

Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận (Tên tranh: Rennyo (蓮如), nguồn: Wikimedia)

[Chanhkien.org] Vào triều đại nhà Tấn, có một vị xuất gia, pháp danh là Thích Pháp Hành. Tuy ông xuất gia làm hòa thượng, nhưng mãi không thể tinh tấn tu luyện, vẻn vẻn trong lòng chỉ là sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với Phật Pháp và tu luyện mà thôi. Sau đó, có một hôm ông bị mắc trọng bệnh, sau khi đã chịu khổ trong cơn bệnh đau hơn mười ngày, nguyên thần ông ly thể đến cõi âm. Mọi người đều tưởng rằng ông đã chết rồi, nhưng qua ba ngày sau, ông đã tỉnh dậy.

Sau khi tỉnh dậy, ông đã kể với mọi người những cảnh tượng mà ông đã nhìn thấy ở cõi âm. Thích Pháp Hành nói: Lúc nguyên thần của ông ly thể là do bị người cõi âm bắt đi; khi đã đi được một quãng đường, ông bị người bắt ông dẫn đến một nơi có các buồng giam ở cõi âm; ông phát hiện rằng có những người khác cũng bị bắt đến nơi này. Ông mơ màng mà biết được đại khái nơi này không phải là một chỗ tốt, nên không chịu đi vào.

Lúc đó ông đã nhìn thấy trước mắt là một thứ đáng sợ, thứ đó giống như một cái bánh xe sắt lớn gắn các móng vuốt sắt, xoay nhanh như gió. Lúc đó một viên quan ở cõi âm bắt một kẻ phạm tội tới, đè bánh xe sắt lớn có móng vuốt sắt lên người đó. Chỉ trong chốc lát, kẻ phạm tội đó đã bị cắt ra thành một đống thịt vụn nát. Tiếp đó, viên quan cõi âm lại đem vài người phạm tội mà hành hình, cảnh tượng đó quả thực đáng sợ vô cùng, cực kỳ thê thảm.

Không lâu sau, viên quan cõi âm lệnh người đem Thích Pháp Hành đến để chịu cực hình trừng phạt. Thích Pháp Hành lúc ấy trong lòng cực kỳ sợ hãi, lại tự trách mình mãi. Ông vô cùng ăn năn tại sao lúc trước bản thân không nhân lúc còn sống mà tinh tấn tu luyện Phật Pháp? Nếu như lúc còn sống mà tinh tấn tu luyện, thì đâu phải chịu cực hình hôm nay? Thế là, ông bắt đầu niệm Phật hiệu trong tâm, phát thệ tương lai nếu như có cơ hội sẽ nhất định tinh tấn tu luyện.

Lúc ấy, viên quan sứ cõi âm nhìn Thích Pháp Hành, nói: “Ngươi có thể trở về để hoàn dương”. Thế là Thích Pháp Hành lại bị người ta dẫn đi, trải qua một phen lận đận đó, cuối cùng ông hoàn dương mà sống lại. Từ đó, Thích Pháp Hành hầu như ngày đêm không ngừng tinh tấn tu luyện Phật Pháp của Phật giáo, trở thành một vị đệ tử vô cùng tinh tấn của Phật.

Sau khi đọc qua câu chuyện của Thích Pháp Hành, bản thân tôi nghĩ rằng: Tu luyện Phật Pháp nhất định phải tinh tấn; nếu như một vị đệ tử của Phật mà không tinh tấn, vậy thì cuối cùng đánh mất có thể là thứ tốt đẹp không cách nào tìm kiếm lại được, đối mặt với người đó có thể là tương lai vô cùng hối hận và tự trách; tu luyện chân chính là hết sức vĩ đại, thù thắng và cũng cực kỳ nghiêm túc, là tuyệt đối không thể ôm giữ tâm thái mơ hồ được.

(Nguồn tư liệu: “Minh Tường Ký”)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/57137

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu luyện không tinh tấn, vào âm phủ mới hối hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựahttps://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.htmlhttps://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.html#respondFri, 07 Jun 2013 17:01:57 +0000http://chanhkien.org/?p=21846Một hôm, Thích Ca Mâu Ni triệu tập các đệ tử và thuyết giảng về bốn loại ngựa.

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trình Thực

[Chanhkien.org] Một hôm, Thích Ca Mâu Ni triệu tập các đệ tử và thuyết giảng về bốn loại ngựa.

Loại thứ nhất là loại ngựa tuyệt hảo. Nó chạy rất nhanh và có thể chạy khoảng 1.000 lý (khoảng 333 dặm) một ngày. Ngay khi người chủ nhấc roi lên, nó sẽ biết là chạy hay dừng lại. Nói cách khác, nó có thể hiểu ý chủ một cách nhanh chóng và chính xác. Đây là loại ngựa thượng hạng có thể hiểu rõ tận chân tơ kẽ tóc.

Loại thứ hai là loại ngựa tốt. Khi người chủ nhấc roi lên, nó không chạy ngay. Nhưng khi roi đụng vào mình nó thì nó sẽ hiểu và chạy. Mạnh mẽ và nhanh chóng, nó vẫn là một loại ngựa tốt.

Loại thứ ba là loại ngựa bình thường. Nó không làm theo lệnh của chủ ngay cả khi bị quất roi. Chỉ khi người chủ điên lên và quất mạnh vào nó thì nó mới chạy.

Loại cuối cùng là loại ngựa kém. Nó không chạy ngay cả khi bị quất roi mạnh. Người chủ không còn cách nào khác phải vụt thật mạnh làm nó đau thấu xương. Sau đó con ngựa bị thương sẽ biết chạy nhanh.

Sau đó Thích Ca Mâu Ni giảng về bốn loại người.

Loại thứ nhất cảnh giác khi biết được bản chất vô thường của cuộc sống. Họ tinh tấn và nỗ lực để trở thành sinh mệnh mới. Họ giống như loại ngựa thượng hạng.

Loại thứ hai không nhanh nhạy. Nhưng sau khi chứng kiến cuộc sống thế gian hoa nở hoa tàn, trăng tròn rồi khuyết, đời người lúc thăng lúc trầm, họ dù sao cũng kịp thời tự mình thúc giục, không dám buông lơi. Họ giống như loại ngựa tốt.

Loại thứ ba phải mất nhiều thời gian hơn để học được một cách khó khăn. Chỉ đến khi gia đình chịu thống khổ hoặc chính bản thân họ gặp tai ương thì mới bắt đầu tỉnh ngộ và thiện đãi sinh mệnh.

Loại cuối cùng nói đến những người không chịu hối tiếc cho đến khi bị ốm nặng và đang trên bờ vực của cái chết. Lúc đó họ mong muốn có một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm đã mắc phải trong cuộc đời để có một sự khởi đầu mới. Nhưng rất có thể đã là quá muộn.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/115089
http://pureinsight.org/node/6399

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/06/chuyen-co-phat-gia-thich-ca-mau-ni-luan-ve-bon-loai-ngua.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Vứt bỏ ảo ảnh của tìnhhttps://chanhkien.org/2013/02/chuyen-co-phat-gia-vut-bo-ao-anh-cua-tinh.htmlhttps://chanhkien.org/2013/02/chuyen-co-phat-gia-vut-bo-ao-anh-cua-tinh.html#respondSat, 23 Feb 2013 01:43:31 +0000http://chanhkien.org/?p=21530Nghe nói, từ khi Phật Thích Ca Mâu Ni đến nước Xá Vệ thuyết Pháp giáo hóa đại chúng, người toàn thành đều trở nên có đạo đức, có lễ nghi, hiểu biết chuyện.

The post Chuyện cổ Phật gia: Vứt bỏ ảo ảnh của tình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Nghe nói, từ khi Phật Thích Ca Mâu Ni đến nước Xá Vệ thuyết Pháp giáo hóa đại chúng, người toàn thành đều trở nên có đạo đức, có lễ nghi, hiểu biết chuyện. Họ giúp đỡ lẫn nhau, ăn ở hòa thuận, nước Xá Vệ trở thành một cõi yên vui.

Khi tin tức này truyền sang nước khác, tại nước La Việt xa xôi có một người ngoại đạo, vì nảy sinh tâm khâm phục uy đức của Phật Đà, nên không quản khó nạn lên đường tới nước Xá Vệ, mong muốn bái kiến Phật Đà, thỉnh cầu dạy dỗ. Thế nhưng khi còn chưa được gặp Đức Phật, anh đã gặp một việc khiến anh khó lý giải.

Nguyên nước Xá Vệ là một chốn nhiệt đới, rất nhiều rắn độc, nếu bị rắn cắn, thì lập tức bỏ mạng; do đó, tại nơi này người bị rắn độc cắn chết rất nhiều. Khi người ngoại đạo này đi tới ngoài thành, thấy có hai cha con đang làm ruộng, thì đột nhiên một con rắn độc nhảy ra từ đám cỏ cắn người con, không lâu sau phát độc mà chết. Thế nhưng người cha vẫn cứ làm ruộng như bình thường, dường như không chịu ảnh hưởng mấy bởi cái chết của người con.

Người ngoại đạo cảm thấy rất kỳ lạ, mới hỏi ông cụ rằng: “Người trẻ tuổi này là ai vậy ạ?” “Là con của lão đấy”, ông cụ đáp. “Anh nhà bị rắn cắn chết, cụ không cảm thấy thương tâm còn tiếp tục làm việc, đó chẳng phải đứa con cụ thân sinh sao?”

“Đau thương phỏng có ích chi. Đời người vẫn là phải chết, hưng thịnh và suy bại của sự vật cũng có quy luật của nó, người dẫu sao cũng chết rồi. Nếu anh ấy có nhân thiện, thì sẽ gặp thiện báo; nếu anh ấy gieo nhân ác, thì ác báo sẽ ở nhãn tiền. Tôi khóc lóc nỉ non, đối với người chết thì có chỗ gì tốt đây?” Cụ già nói tới đây, thấy kẻ ngoại đạo ngây người ra, mới hỏi anh: “Anh định vào thành phải không? Tôi có một việc tiện nhờ anh luôn, được không?”

Người ngoại đạo hỏi rốt cuộc là việc gì, cụ già tiếp tục nói: “Anh vào thành rồi, nhờ anh ghé vào ngôi nhà thứ hai, nói với gia đình tôi rằng chỉ cần cơm cho một người ăn trưa thôi, vì con tôi đã bị rắn cắn chết rồi”.

Người ngoại đạo vô cùng kinh ngạc, vì sao cụ già này một chút thiện tâm, nhân từ cũng không có nhỉ; con trai chết ở đó, mà không hề đau khổ, còn không quên bữa trưa của mình, trên thế gian có ông bố nào bạc tình hơn thế này không?

Người ngoại đạo đi vào thành, rẽ vào nhà lão nông dân, nói với cụ bà: “Con trai bà bị rắn độc cắn chết rồi! Cha của anh ấy bảo tôi báo tin cho bà, trưa nay chỉ cần mang cơm cho một người thôi!” Cụ bà nghe xong, cảm ơn người báo tin, nhưng không bi thương chút nào. Người ngoại đạo thấy lạ bèn hỏi: “Bà ơi, bà không thương anh nhà chết thảm hay sao?”

Bà lão thản nhiên đáp lại: “Đứa con này chuyển sinh vào nhà tôi, cũng không phải tôi kêu gọi anh đến, mà là anh ấy tự đến. Hiện tại anh ấy đi rồi, tôi cũng lưu lại không được, cũng như lữ khách trú lại một đêm ở quán trọ, đến sáng lại ra đi, không ai lưu lại được. Thực ra không cần phải lưu lại, giữa mẹ con chúng tôi chỉ như vậy thôi; con tôi đi đâu, là tùy theo duyên nghiệp của anh ấy, tôi cũng không giúp gì được nữa”. Người ngoại đạo nghe xong mấy lời này bèn nghĩ, đúng thật là một cặp phu thê bụng dạ sắt đá, tựa như không có nhân tình.

Lúc này trước mặt xuất hiện một cô gái, là chị gái của người đã khuất, người ngoại đạo hỏi cô rằng: “Em trai chị chết rồi, chị thương tâm lắm phải không?”

“Cậu ấy đã qua đời rồi, tôi còn thương tâm làm gì nữa? Chúng tôi cũng như những miếng gỗ của tấm bè, khi trôi trong nước gặp phải bão lớn, bè gỗ bị vỡ ra, các mảnh gỗ theo sóng mà phiêu bạt, gỗ mãi mãi không thể kết thành thuyền được nữa. Chúng tôi vì nhân duyên tình cờ mà trở thành chị em, cùng sinh tại một nhà, nhưng thọ mệnh dài ngắn khác nhau, sinh tử không có thời gian quy định. Anh ấy dẫu sao đã rời đi trước rồi, tôi là chị gái cũng không có năng lực giải cứu”.

Người chị vừa nói xong, bên cạnh lại một phụ nữ khác nói: “Đúng vậy, chồng của tôi chết rồi”.

Người ngoại đạo lúc này như rơi vào đám mây mù, mới hỏi người phụ nữ: “Chồng của chị mất rồi, chị vẫn điềm nhiên như không vậy, không hề có đau thương, thế liệu có đúng không?”

Vợ của người chết bình tĩnh đáp: “Sự kết hợp giữa vợ chồng chúng tôi cũng như cặp chim trên trời vậy, ban đêm nghỉ tại một nơi, đến sáng lại tách ra đi tìm thức ăn, có vận mệnh riêng. Chim đã bay mất là không thể trở lại, ấy là do tạo hóa, tôi không thay thế được anh, cũng không có cách nào gánh chịu nghiệp lực thay anh, tựa như khách qua đường vậy, gặp nhau xong lại mỗi người một phương”.

Người ngoại đạo nghe những lời của người nhà thì đầy tâm bất bình, thậm chí còn hối hận đã lỡ đến đây, vì nghe nói người nước Xá Vệ hiếu đạo lắm. Đến đây để quy chính bản thân, tìm kiếm chân lý, nào ngờ gặp phải toàn những người không chút từ tâm thế này.

Dù sao đi nữa, anh vẫn muốn gặp Đức Phật một phen, gặp rồi không còn hối tiếc gì nữa. Thế là anh tìm đến tinh xá Chi Viên để cầu kiến Phật Đà.

Người ngoại đạo trong tâm đầy nghi vấn, sau khi bái kiến Phật Đà thì lặng lẽ ngồi một bên, cúi thấp đầu chứ không mở miệng hỏi. Thực ra tâm tư của anh thì Đức Thích Ca đã sớm biết được, nên cố ý hỏi anh: “Điều gì khiến con ưu sầu như vậy?”

“Bởi vì hy vọng không thể như ý nguyện, gặp phải sự việc trái tâm khiến con ưu sầu”, người ngoại đạo đáp.

“Ưu sầu không thể giải quyết vấn đề, có gì khiến con ngả lòng, hãy nói hết ra xem”, Đức Thích Ca từ bi nói.

“Con từ phương xa mộ danh mà tới, cũng vì sùng bái nước Xá Vệ có Phật Đà ngài giáo hóa, nhân dân đều theo Pháp thừa hành. Nào ngờ vừa tới đây đã gặp phải sự việc có chút không còn nhân tính…” Người ngoại đạo đem chuyện gặp gia đình lão nông kể hết cho Đức Thích Ca nghe. Anh cho rằng đây là việc đại nghịch bất đạo, không có nhân tình, còn nói gì tới từ bi, không ngờ tại quốc gia Phật Đà này lại có việc như vậy phát sinh.

Thế nhưng Đức Thích Ca lại cười nói với anh rằng: “Không hẳn như lời con nói đâu. Con hy vọng nhìn thấy, nghe thấy sự việc có nhân tính, nhân tình, nhưng Pháp lý có lúc không thể thuận theo nhân tính được. Tịnh hóa nhân tính, tương ứng chân lý, đây mới là điều trọng yếu của tu hành. Con trông thấy một gia đình, trên đạo lý, thì họ không có sai. Họ biết rằng nhân sinh vô thường, con người không thể mãi mãi bảo trì sinh mệnh sắc thân của mình được. Tất cả thánh phàm xưa nay đều như thế cả, một cá nhân chết rồi, mọi người đều khóc lớn vì anh ta, điều này đối với người chết có chỗ gì tốt đây? Hơn nữa người ấy lúc còn sống đã định trước là phải chết, sống thì vui chết thì buồn. Đây là mê hoặc của sinh tử đối với thế tục, cho nên dòng lưu chuyển của sinh tử sẽ vĩnh viễn không bao giờ ngừng”.

Người ngoại đạo nghe Đức Thích Ca khai thị xong, tâm lý bỗng nhiên khai ngộ, từ đó cải tông quy y Phật Đà, trở thành một tỳ kheo kiền thành tinh tấn.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/6/26/38266.html
http://pureinsight.org/node/4079

The post Chuyện cổ Phật gia: Vứt bỏ ảo ảnh của tình first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/02/chuyen-co-phat-gia-vut-bo-ao-anh-cua-tinh.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Nỗi khổ của người tu hànhhttps://chanhkien.org/2013/01/chuyen-co-phat-gia-noi-kho-cua-nguoi-tu-hanh.htmlhttps://chanhkien.org/2013/01/chuyen-co-phat-gia-noi-kho-cua-nguoi-tu-hanh.html#respondSun, 20 Jan 2013 12:16:24 +0000http://chanhkien.org/?p=21312Đã lâu lắm rồi, có một vị tu hành trẻ tuổi. Trên đường đi hóa duyên trong thành Xá Vệ, anh bắt gặp một cô gái rất xinh đẹp.

The post Chuyện cổ Phật gia: Nỗi khổ của người tu hành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trình Thực chỉnh lý

Nỗi khổ của người tu hành (Nguồn hình: sưu tầm từ internet)

[Chanhkien.org] Đã lâu lắm rồi, có một vị tu hành trẻ tuổi. Trên đường đi hóa duyên trong thành Xá Vệ, anh bắt gặp một cô gái rất xinh đẹp. Không kìm nén được tâm yêu thương, anh tương tư thành bệnh, cả ngày không cơm nước gì, đau ốm trên giường. Các đồng môn đều tới thăm hỏi bệnh tình của anh, nhìn thấy bộ dạng anh hồn xiêu phách lạc nên vô cùng lo lắng.

Người tu hành trẻ tuổi này đem tất cả khỗ não trong tâm ra thổ lộ. Các đồng môn dù đồng cảm với tương tư của anh, nhưng không biết giúp thế nào, chỉ có cách dùng lời nói an ủi anh. Tuy nhiên, người tu hành này nghe không vào những lời khuyên giải an ủi. Mọi người quyết định đem việc này bẩm báo lên Đức Thích Ca. Vậy là họ đưa bệnh nhân trẻ tuổi này đến nghe Đức Thích Ca giảng đạo lý.

Sau khi hiểu nội tình, Đức Thích Ca bất ngờ nói với chàng thanh niên trẻ: “Con khỏi cần phải ưu sầu như vậy, ăn cơm rồi nghỉ ngơi đi; ta nhất định sẽ giúp con, nguyện vọng của con sẽ được thực hiện!”

Mọi người đều vô cùng kinh ngạc trước cách làm của Đức Thích Ca. Vị tu hành trẻ tuổi kia mở cờ trong bụng, theo Đức Thích Ca rời tinh xá Chi Viên, tiến về thành Xá Vệ.

Thế là Đức Thích Ca dẫn đoàn đệ tử tới nhà vị thiếu nữ kia. Vừa đến cửa nhà thiếu nữ, mọi người đã nghe thấy từ trong nhà vang ra tiếng khóc tang thương, hỗn loạn không thôi. Vào hỏi thì mới được biết hóa ra thiếu nữ đã qua đời ba ngày trước rồi. Cha mẹ thương tiếc không nỡ mai táng, khiến thi thể phát ra mùi hôi thối, vô cùng thê thảm.

Đức Thích Ca quay lại nhìn vị tu hành trẻ, ân cần khuyên bảo anh rằng: “Con say đắm vị cô nương kia, mà hiện tại đã thành dạng như vậy đấy. Con nên biết rằng vạn vật vô thường, sinh diệt biến hóa, chỉ trong nháy mắt, không thể đợi được. Chỉ có kẻ ngu si mới nhìn xem vẻ bề ngoài thôi. Không cần biết đến chân thực, bởi vậy mới thống khổ bi thương. Nhìn thấy sắc đẹp, trong tâm mê hoặc, không giữ được tâm tính trước vô thường. Lấy dâm lạc mà hủy diệt bản thân, chẳng khác gì tự trói mình vậy. Kẻ trí có thể chớp thời cơ mà đoạn dứt, quyết tâm tiêu trừ hết thảy khổ não. Nếu như thỏa sức phóng túng, đam mê dâm lạc, chìm đắm tình ái, khác chi tự vào lao ngục. Chỉ có nội tâm giác ngộ, đoạn tuyệt dâm dục, mới có thể xung phá cạm bẫy của tà dục, triệt để đoạn tuyệt khổ nạn sinh tử”.

Vị tu hành trẻ tận mắt thấy thi thể mục nát của thiếu nữ, lại nghe thuyết Pháp nghiêm chỉnh ân cần của Đức Thích Ca, mới giật mình tỉnh ngộ. Anh cúi đầu rạp xuống đất, lễ bái Đức Thích Ca, biểu thị tạ tội. Sau đó anh theo Đức Thích Ca trở về tinh xá, nỗ lực tu tập, cuối cùng thành chính quả.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/116185

The post Chuyện cổ Phật gia: Nỗi khổ của người tu hành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/01/chuyen-co-phat-gia-noi-kho-cua-nguoi-tu-hanh.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đạo Thuấnhttps://chanhkien.org/2012/12/chuyen-co-phat-gia-dao-thuan.htmlhttps://chanhkien.org/2012/12/chuyen-co-phat-gia-dao-thuan.html#respondSat, 01 Dec 2012 07:09:42 +0000http://chanhkien.org/?p=21145Không ai biết rõ lai lịch của Thích Đạo Thuấn. Ông tự dựng cho mình một túp lều cỏ ở vùng hoang vu hẻo lánh.

The post Chuyện cổ Phật gia: Đạo Thuấn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Không ai biết rõ lai lịch của Thích Đạo Thuấn. Ông tự dựng cho mình một túp lều cỏ ở vùng hoang vu hẻo lánh. Ông thường nói về những việc xảy ra ở Thanh Viễn. Ông từng sống trong một túp lều tự dựng trên núi Dương Đầu, huyện Trạch Châu. Đạo Thuấn không có tiền dành dụm và ông chỉ ăn một bữa mỗi ngày. Toàn bộ thời gian còn lại, ông ngồi thiền định. Rắn và chuột thường trốn dưới gầm giường của ông và chúng sống hòa hợp với nhau. Một hôm, có một con hổ đến túp lều của Đạo Thuấn, và ông đã thuyết Pháp cho nó. Có lần, một người đến gặp Đạo Thuấn. Khi nhìn thấy con hổ, ông ta đã quay lưng và bỏ đi. Ông ta nói với Đạo Thuấn rằng khi nào con hổ rời đi, ông ta mới quay lại. Đạo Thuấn nói với hổ: “Ngày mai ta có khách, vì vậy người đừng đến vào ngày mai”. Quả nhiên, con hổ không xuất hiện vào ngày hôm sau.

Vào những năm Khai Hoàng đầu tiên triều đại nhà Tùy, Đạo Thuấn thường thuyết Pháp cho bách tính và thụ giới cho nhiều dân làng. Nhưng ông lại từ chối thụ giới cho một cô gái. Ông nói với cô ấy rằng: “Cô sẽ chuyển sinh thành một con bò. Việc này đã hiện rõ rồi. Cho dù có thụ giới cho cô thành ni cô, tôi cũng không cứu được cô”. Một vài người đã tỏ ra hoài nghi về những điều ông nói. Đạo Thuấn bảo họ rằng: “Người nào không tin điều này có thể dẫm lên cái bóng của cái đuôi phía sau cô ấy, cô ấy sẽ không thể di chuyển được”. Những người nghi ngờ đã dẫm lên cái bóng phía sau cô. Người phụ nữ đó quả nhiên không di chuyển được. Mọi người đều kinh ngạc và tin rằng những gì Đạo Thuấn nói là sự thật.

Người phụ nữ này đã khẩn cầu Đạo Thuấn tiêu nghiệp cho mình. Cô ấy đã cho đi mấy vạn thạch[1] gạo mà gia đình cô ấy tích lũy được. Đạo Thuấn để cô ấy kiên tâm sám hối trong một thời gian. Khi nghiệp lực của cô đã hết, ông liền thụ giới cho cô.

Sau đó, Đạo Thuấn đã vân du đến nhiều núi khác nhau. Không ai biết rõ tung tích của ông.

(Theo “Thần tăng truyện”, quyển 5)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/4/22/43319.html
http://pureinsight.org/node/4528


[1] Chú thích: Đơn vị thạch dùng để đo dung tích gạo, theo các tài liệu sử thì 1 thạch gạo tương đương với số gạo một người tiêu thụ trong 1 năm (còn 1 đấu là lượng gạo 1 người tiêu thụ trong 1 ngày). Tính ra thì 1 thạch gạo nặng 150 kilôgram (23,6 stone hay 330 pound).

The post Chuyện cổ Phật gia: Đạo Thuấn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/12/chuyen-co-phat-gia-dao-thuan.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Thông Huyềnhttps://chanhkien.org/2012/09/chuyen-co-phat-gia-thong-huyen.htmlhttps://chanhkien.org/2012/09/chuyen-co-phat-gia-thong-huyen.html#respondSun, 30 Sep 2012 03:00:21 +0000http://chanhkien.org/?p=20716Thông Huyền, nguyên họ là Lý, người Đông Bắc Thái Nguyên, người ta gọi là trưởng lão, cũng gọi là Táo Bách đại sĩ.

The post Chuyện cổ Phật gia: Thông Huyền first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Thông Huyền, nguyên họ là Lý, người Đông Bắc Thái Nguyên, người ta gọi là trưởng lão, cũng gọi là Táo Bách đại sĩ. Ông mình cao hơn bảy thước, mặt có sắc tím, mày dài quá mắt, môi đỏ răng chắc, đầu đội mũ hoa, mình mặc áo vải, eo không thắt lưng, chân không đi giày, hành vi cử chỉ khó đoán. Tính cách ông phóng khoáng, không chịu trói buộc, khiến người ta ngạc nhiên. Ông thông cổ bác kim, tinh thông Nho học, Phật học.

Ông chuyên tâm vào kinh Hoa Nghiêm. Năm Khai Nguyên thứ 7 (719 SCN), Thông Huyền mang theo bản dịch mới kinh Hoa Nghiêm tới nhà Cao Sơn Nô tại thôn Đại Hiền, xã Đồng Dĩnh ở Tây Nam huyện Vu. Ông một mình trong phòng nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm 3 năm không ra khỏi nhà. Mỗi ngày ông chỉ ăn 10 quả táo, 1 chiếc bánh, còn gì cũng không cần, khiến nhà họ Cao và hàng xóm đều thấy rất kỳ lạ. Thông Huyền từng mang kinh thư từ thôn Hàn trở về, trên đường gặp phải hổ. Ông vỗ về vào lưng hổ, để nó mang kinh thư về, và hổ nghe theo lời ông.

Nơi Thông Huyền ở không có dòng suối nào có thể uống được. Một ngày, một trận cuồng phong nổi lên làm bật gốc một cây tùng già. Chỗ đất nơi rễ cây bị quật lên trở thành cái ao sâu hơn mười thước. Nước trong ao rất ngọt và được gọi là suối trưởng lão. Ngoài ra, trong phòng của ông cũng không hề có nến; tuy nhiên mỗi khi đêm tới, trong phòng đều có ánh sáng trắng xuất hiện. Từ khi Thông Huyền tới nơi này, thường có hai cô gái tới chuyển đồ ăn. Sau khi dùng xong, hộp đựng thức ăn cũng không thấy đâu nữa. Cứ như thế 5 năm, đến nỗi giấy mực cũng dùng mãi không vơi.

Ngày 28 tháng 3 năm Khai Nguyên thứ 18, Thông Huyền viên tịch, thọ 96 tuổi. Khi ông viên tịch có một luồng sáng trắng từ đỉnh đầu thông thẳng lên không trung.

(Theo “Thần tăng truyện”, quyển 7)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/43606
http://pureinsight.org/node/4604

The post Chuyện cổ Phật gia: Thông Huyền first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/09/chuyen-co-phat-gia-thong-huyen.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Huyền Tônghttps://chanhkien.org/2012/08/chuyen-co-phat-gia-huyen-tong.htmlhttps://chanhkien.org/2012/08/chuyen-co-phat-gia-huyen-tong.html#respondSun, 19 Aug 2012 02:20:21 +0000http://chanhkien.org/?p=20712Thích Huyền Tông, họ tục là Ngô, người Vĩnh Gia, thuở thiếu thời đã xuất gia làm tăng, phong thái hào sảng.

The post Chuyện cổ Phật gia: Huyền Tông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Thích Huyền Tông, họ tục là Ngô, người Vĩnh Gia, thuở thiếu thời đã xuất gia làm tăng, phong thái hào sảng. Ông tu hành tại viện Bảo Thọ, núi Vĩnh Định, bái Thường Tĩnh pháp sư làm thầy.

Sau khi thụ giới, Huyền Tông liền bắt đầu vân du thiên hạ, trước bái kiến Lãng Lãng thiền sư ở Giang Lăng, sau lại đến Tử Kim Sơn ở Thọ Châu, trong lòng mừng rỡ, mới lưu lại thiền quán trên núi.

Núi Tử Kim Sơn vốn dĩ có hổ dữ, có lúc ăn thịt thương nhân qua đường, có lúc làm hại tiều phu đốn củi. Từ khi Huyền Tông ở tại nơi này, hổ biến mất tích, người lên núi không còn phải sợ gì nữa. Một ngày, khi Huyền Tông đang giảng Pháp, thấy một cụ già tới ngồi phía trước, quỳ bái ân cần. Huyền Tông hỏi ông là ai, cụ già đáp: “Con nguyên là cọp ở núi này, từng ăn thịt chúng sinh trên núi, nhờ đại sư cứu độ, con đã thoát khỏi ác nghiệp, chuyển sinh theo đạo trời, bởi vậy đến đây cảm tạ”. Nói đoạn biến đâu mất tăm.

Năm Đại Lịch thứ 2, Huyền Tông viên tịch, hưởng thọ 86 tuổi.

(Theo “Thần tăng truyện”, quyển 8.)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/43721
http://pureinsight.org/node/4656

The post Chuyện cổ Phật gia: Huyền Tông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/08/chuyen-co-phat-gia-huyen-tong.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Tăng Anhttps://chanhkien.org/2012/06/chuyen-co-phat-gia-tang-an.htmlhttps://chanhkien.org/2012/06/chuyen-co-phat-gia-tang-an.html#respondThu, 28 Jun 2012 07:53:24 +0000http://chanhkien.org/?p=20563Người ta không biết Thích Tăng An là người ở đâu, chỉ biết ông tu luyện tinh tấn, có thể tọa thiền giảng giải Pháp và rất có bản sự.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tăng An first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Người ta không biết Thích Tăng An là người ở đâu, chỉ biết ông tu luyện tinh tấn, có thể tọa thiền giảng giải Pháp và rất có bản sự.

Vào thời Văn Tuyên Vương nhà Tề, Tăng An tu luyện trong núi Vương Ốc và có hơn 20 đệ tử. Khi bắt đầu giảng Niết Bàn kinh, có một con chim trĩ cái đến ngồi bên cạnh mà nghe. Khi vị tăng nhân ăn cơm, nó lại ra ngoài uống nước. Vào những lúc khác, bất kể ngày hay đêm, nó đều tới nghe Pháp đúng giờ, nhưng điều kỳ lạ là quyển 3 còn chưa nghe xong, nó đã không đến nữa. Mọi người đều cảm thấy rất kỳ quái, Tăng An nói: “Chim trĩ cái đã chuyển sinh theo đạo người, không có gì lạ cả”.

Năm Võ Bình thứ tư, khi Tăng An đang dẫn chúng đồ đệ tới Việt Châu, ông đột nhiên nói: “Chim trĩ cái đã chuyển sinh tại đây”. Nói rồi bước tới một ngôi nhà nọ gọi chim trĩ. Bỗng một cô gái bước ra, giống như đã quen từ lâu, hành lễ với vị tăng nhân và có vẻ rất vui mừng. Cha mẹ cô gái cảm thấy lạ quá bèn mời Tăng An vào nhà. Tăng An hỏi: “Vì duyên cớ gì nữ tử đặt tên là Thư Trĩ”? Người nhà đáp: “Cháu mới sinh có lông của chim trĩ, lại là nữ, nên đặt tên Thư Trĩ”. Tăng An cười lớn, giảng thuật lại tiền duyên với họ. Cô gái minh bạch rồi, nước mắt chảy dài, thỉnh cầu xuất gia. Cha mẹ cô gái vui vẻ đồng ý. Tăng An lại giảng giải Niết Bàn kinh cho cô gái. Cô gái lĩnh ngộ rất nhanh, không sót chỗ nào, duy chỉ có quyển 3 là mù mờ không hiểu.

(Theo “Thần tăng truyện”, quyển 4)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/43217
http://pureinsight.org/node/4517

The post Chuyện cổ Phật gia: Tăng An first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/06/chuyen-co-phat-gia-tang-an.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Tâm từ bihttps://chanhkien.org/2012/04/chuyen-co-phat-gia-tam-tu-bi.htmlhttps://chanhkien.org/2012/04/chuyen-co-phat-gia-tam-tu-bi.html#respondThu, 26 Apr 2012 01:44:25 +0000https://chanhkien.org/?p=16544Trong một ngày đông vô cùng giá rét, một người lang thang tới phòng thiền của một vị tỳ kheo, vì đói rét mà ông run lên.

The post Chuyện cổ Phật gia: Tâm từ bi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Trong một ngày đông vô cùng giá rét, một người lang thang tới phòng thiền của một vị tỳ kheo, vì đói rét mà ông run lên.

“Ngài có thể xem, tôi không chỉ cơ hàn đến lạnh cóng, mà cả nhà tôi đều đang mắc bệnh hiểm nghèo và có thể chết trong sớm chiều. Nếu ngài có chút gì, xin giúp chúng tôi sống qua những ngày đáng sợ này, mong ngài rủ lòng thương”, người lang thang khẩn cầu.

Vị tỳ kheo rất đồng tình với ông, tuy nhiên tìm quanh mãi không thấy thứ gì có thể bố thí cho ông được. Ngẩng đầu lên, ông thấy thánh tượng Như Lai mà mình thờ cúng; thế là ông lấy chiếc vòng vàng treo phía sau bức tượng đưa cho người lang thang và nói: “Hãy đi đổi tiền từ chiếc vòng vàng này”.

Các đệ tử khác thấy tình hình này thì vô cùng kinh ngạc. Họ không vừa ý, và trách ông thậm tệ: “Làm sao ông có thể lấy chiếc vòng vàng xuống được?”

Vị tỳ kheo đáp: “Tôi chẳng qua chỉ chiếu theo lời dạy của Đức Phật mà thôi. Phật Đà hạ thế phổ độ chúng sinh, nếu nhìn thấy tình cảnh này, chẳng phải Ngài cũng lấy chiếc vòng vàng xuống cứu người hay sao…”

Đúng vậy, bái Phật, tu Phật, tâm từ bi của Phật, kỳ thực đều thể hiện ngay trong một việc nhỏ đó. Hỡi các bạn! Các bạn đi qua tượng Phật mà đặt lên rất nhiều tiền, nhưng trong tâm các bạn không lấy từ bi mà đãi người, thì Phật cũng không cao hứng đâu!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/15/38551.html
http://pureinsight.org/node/4139

The post Chuyện cổ Phật gia: Tâm từ bi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/04/chuyen-co-phat-gia-tam-tu-bi.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Thích Huyền Tảohttps://chanhkien.org/2011/09/chuyen-co-phat-gia-thich-huyen-tao.htmlhttps://chanhkien.org/2011/09/chuyen-co-phat-gia-thich-huyen-tao.html#respondFri, 16 Sep 2011 08:30:50 +0000https://chanhkien.org/?p=13086Tác giả: Mộc Mộc [Chanhkien.org] Huyền Tảo, nguyên họ là Lộ, là con gái của một người tên An Cẩu ở Ngô Quận. Khi hơn mười tuổi, Huyền Tảo thân mang trọng bệnh, đã uống bao nhiêu thuốc mà vẫn không hiệu quả. Khi ấy cao tăng Thích Pháp Tế ở chùa Huyền Đài nói […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Huyền Tảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Huyền Tảo, nguyên họ là Lộ, là con gái của một người tên An Cẩu ở Ngô Quận. Khi hơn mười tuổi, Huyền Tảo thân mang trọng bệnh, đã uống bao nhiêu thuốc mà vẫn không hiệu quả. Khi ấy cao tăng Thích Pháp Tế ở chùa Huyền Đài nói với An Cẩu: “E rằng bệnh này là do nghiệp lực gây ra, không phải điều mà thuốc có thể tiêu trừ được. Theo ý kiến của bần tăng, người quy y Phật Pháp, thỉnh cầu sám hối thì đều có thể được cứu độ. Nếu thí chủ cho nữ nhi thoát ly thế tục, tẩy sạch bụi trần, chuyên tâm hướng Phật, thì bệnh có thể được chữa khỏi.” An Cẩu cho rằng lời nói rất có đạo lý.

Do đó, An Cẩu cho lập trong nhà một đàn tràng Quan Thế Âm. Cả nhà sau đó tắm gội thay áo, thành tâm hướng Phật, chuyên tâm tụng niệm kinh văn và khấu đầu trước tượng Phật. Vào đêm ngày thứ bảy, họ bỗng nhiên nhìn thấy một hình tượng vàng kim cao mấy thước dùng tay vỗ lên thân thể Huyền Tảo ba lần, từ đầu đến chân. Huyền Tảo lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhõm, bao bệnh tật đều tiêu mất. Từ đó Huyền Tảo xuất gia và tu hành tại chùa Thái Huyền Đài.

(Theo “Câu chuyện về các ni cô”, quyển 2)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/6/4/44205.html
http://pureinsight.org/node/4674

The post Chuyện cổ Phật gia: Thích Huyền Tảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/09/chuyen-co-phat-gia-thich-huyen-tao.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Hòa thượng Đạo Khâmhttps://chanhkien.org/2011/08/chuyen-co-phat-gia-hoa-thuong-dao-kham.htmlhttps://chanhkien.org/2011/08/chuyen-co-phat-gia-hoa-thuong-dao-kham.html#respondThu, 11 Aug 2011 04:10:51 +0000https://chanhkien.org/?p=12803Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Vào triều Đường, có một hòa thượng tên là Đạo Khâm ngụ tại Kính Sơn. Nếu có người tới hỏi Đạo, ông lập tức giải đáp, ngôn ngữ giản đơn mà đạo lý cao thâm. Khi quan Thích sử Trung Châu là Lưu Yến tới hỏi Đạo, cầm lư hương […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Hòa thượng Đạo Khâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Vào triều Đường, có một hòa thượng tên là Đạo Khâm ngụ tại Kính Sơn. Nếu có người tới hỏi Đạo, ông lập tức giải đáp, ngôn ngữ giản đơn mà đạo lý cao thâm.

Khi quan Thích sử Trung Châu là Lưu Yến tới hỏi Đạo, cầm lư hương trong tay, Đạo Khâm nói: “Điều ác chớ làm, việc thiện nên theo”. Lưu Yến nói: “Điều ấy đứa trẻ ba tuổi cũng biết.” Đạo Khâm nói: “Đồng tử ba tuổi có thể biết, lão nhân trăm tuổi làm không được”.

Có vị quan to tên là Thôi Triệu Công tới hỏi ông: “Đệ tử hiện tại muốn xuất gia, liệu có được không?” Đạo Khâm nói: “Xuất gia là việc của đại trượng phu, không phải điều một quan tướng làm được.”

(Tư liệu gốc: «Dậu Dương tạp trở»)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/1/20/35388.html
http://pureinsight.org/node/3717

The post Chuyện cổ Phật gia: Hòa thượng Đạo Khâm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/08/chuyen-co-phat-gia-hoa-thuong-dao-kham.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đạo Longhttps://chanhkien.org/2011/06/chuyen-co-phat-gia-dao-long.htmlhttps://chanhkien.org/2011/06/chuyen-co-phat-gia-dao-long.html#respondFri, 10 Jun 2011 09:07:40 +0000https://chanhkien.org/?p=12334Tác giả: Mộc Mộc [Chanhkien.org] Đạo Long là một tăng nhân ở Vụ Châu. Ông đi vân du nhiều nơi và sau đó định cư tại chùa Năng Ẩn ở Giang Châu. Hành vi của Đạo Long kỳ dị đến mức người ta đặt cho ông cái tên là “hòa thượng điên”. Trong năm Thiệu […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Đạo Long first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Đạo Long là một tăng nhân ở Vụ Châu. Ông đi vân du nhiều nơi và sau đó định cư tại chùa Năng Ẩn ở Giang Châu. Hành vi của Đạo Long kỳ dị đến mức người ta đặt cho ông cái tên là “hòa thượng điên”.

Trong năm Thiệu Hưng đầu tiên, Đạo Long tới Thụy Xương và qua đêm tại chùa Thiên Hoa. Đến đêm, một nam tử tới bên ông khóc thút thít: “Đệ tử bất hạnh khi còn sống đã gây ra rất nhiều ác nghiệp. Giờ đệ tử phải mang thân trâu. Đuôi của đệ tử mọc trên đầu và hình dáng đệ tử xấu xí vô cùng. Pháp sư từ bi, giờ đệ tử đã sám hối, xin ngài giúp đệ tử thoát khỏi khổ cảnh này.” Ngày hôm sau, Đạo Long tới nhà họ Thang ở Nhược Sơn. Nam nữ trong nhà đều bước ra hành lễ, nói: “Hôm trước con trâu nhà chúng con đẻ ra một con nghé trông mười phần kỳ quái, đuôi mọc trên đầu, e rằng sẽ khiến nhà chúng con gặp tai nạn. Hy vọng pháp sư có thể giảng giải nhân duyên.”

Một lúc sau, con nghé được mang đến. Nó vẫy cái đuôi khi nhìn thấy Đạo Long, như thể đang cầu mong sự thương xót. Đạo Long trách mắng nó: “Đây chính là báo ứng do nghiệp chướng ngươi đã gây ra trước kia. Ngay cả khi chuyển sinh vào thân trâu, bản tính của ngươi vẫn không đổi. Ngươi có nghe nói rằng Ngụy Sơn hòa thượng có câu ‘Trong tiếng vang ẩn chứa tàng cơ’ hay không? Nếu minh bạch, thì ngươi sẽ biết phải làm thế nào.” Lúc ấy ánh sáng thần kỳ chói khắp mười phương, Đạo Long thụ ký cho con nghé. Sau đó con nghé đi theo ông vào chùa trước sự chứng kiến của hàng ngàn người.

Vào đêm Giao thừa, con nghé đột nhiên lăn ra chết. Cũng trong đêm ấy, hồn con nghé hiện ra trong giấc mơ của Đạo Long và bày tỏ sự cảm tạ ông. Đạo Long liền dẫn mọi người đem xác con nghé đi hỏa thiêu.

(Theo «Thần tăng truyện», quyển 9)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/5/21/43851p.html
http://pureinsight.org/node/4631

The post Chuyện cổ Phật gia: Đạo Long first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/06/chuyen-co-phat-gia-dao-long.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Tu khẩuhttps://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-tu-khau.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-tu-khau.html#respondMon, 09 May 2011 03:55:50 +0000https://chanhkien.org/?p=11893Tác giả: Quả Chính [ChanhKien.org] Vào thời Già Diệp Như Lai, có một nhà sư trẻ tuổi hát rất hay. Cậu thường coi thường những tăng nhân khác khi cậu cùng họ hát những bài hát ca ngợi Phật. Cậu tin rằng giọng hát của cậu là hơn hẳn người khác, cả về sự trong […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu khẩu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[ChanhKien.org] Vào thời Già Diệp Như Lai, có một nhà sư trẻ tuổi hát rất hay. Cậu thường coi thường những tăng nhân khác khi cậu cùng họ hát những bài hát ca ngợi Phật. Cậu tin rằng giọng hát của cậu là hơn hẳn người khác, cả về sự trong trẻo và sâu sắc. Cậu đã hành xử kiêu ngạo và luôn thể hiện mình là siêu thường.

Một vị sư già với giọng khàn khàn không thể hát tốt những bài hát ca ngợi Phật. Nhà sư trẻ luôn nhạo báng vị sư già này và nói với ông rằng giọng ông thật tồi tệ. Tất nhiên, cậu không biết rằng vị sư già đã tu đến quả vị La Hán.

Một ngày nọ, vị sư già hỏi nhà sư trẻ: “Cậu biết tôi không?”

Nhà sư trẻ đáp: “Tôi đã biết ông từ lâu lắm rồi. Ông là nhà sư già với giọng hát khàn khàn khiến người ta khó chịu.”

Vị sư già nói với cậu: “Mặc dù tôi không thể hát hay, tôi đã giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của sinh tử và không còn khổ não nơi thế gian này.”

Sau khi nghe điều này, nhà sư trẻ cảm thấy hoang mang và xấu hổ. Cậu hướng về vị sư già để sám hối, thế nhưng ác nghiệp đã được thiết lập. Cậu phải chịu đựng 500 năm luân hồi trong khổ báo vì ác khẩu.

Một lần nọ, có 500 lái buôn tụ tập lại để tới một nơi xa. Một trong số họ mang theo một con chó để canh gác vào ban đêm. Trên đường đi, con chó đã cắp mất một miếng thịt khi chủ nó đang ngủ. Khi người lái buôn thức giấc và thấy điều đã xảy ra, ông rất giận dữ và đánh đập con chó thậm tệ. Ông đã bỏ rơi con chó sau khi đánh gãy chân nó.

Lúc ấy, Xá Lợi Phất nhìn thấy điều này bằng thiên mục; ông đã tới cho con chó ăn uống và rồi thuyết pháp cho nó. Sau khi nghe thuyết pháp, con chó lập tức lăn ra chết và chuyển sinh vào một gia đình Bà La Môn ở thành Xá Vệ.

Khi Xá Lợi Phất đang một mình hành khất, một Bà La Môn trông thấy ông và hỏi: “Tôn giả, ông đi một mình hay đi với ai?”

Xá Lợi Phất đáp: “Ông có một cậu con trai. Ông có thể để nó làm sa di cho tôi được không?”

Vị Bà La Môn nói: “Nó mới chỉ lên bảy. Nó quá ít tuổi phải không?

Xá Lợi Phất đáp: “Vừa đúng tuổi.”

Bởi vì Xá Lợi Phất đã cho con chó ăn uống và thuyết pháp cho nó nghe, con chó đã chuyển sinh thành tiểu sa di để báo đáp ân cứu mạng của ông.

Khi nghe Xá Lợi Phất giảng pháp, tiểu sa di lĩnh ngộ rất nhanh và mau chóng đắc chính quả. Khi tự giải thoát, cậu nhận thấy mình đã phải chịu đựng 500 năm luân hồi trong khổ báo chỉ vì ác khẩu với vị sư già.

Cố sự này đã nói với chúng ta rằng: Ngay cả trong các đệ tử, người ta không thể lấy thế mạnh của mình để so sánh với thiếu sót của người khác. Đó là bởi vì chúng ta vĩnh viễn không thể đo lường mức độ tâm tính của người khác cũng như tầng thứ chứng ngộ Pháp lý của họ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/6/27/38280.html
http://pureinsight.org/node/4078

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu khẩu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-tu-khau.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đệ tử của Phật không được chấp vào sắc dụchttps://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-de-tu-cua-phat-khong-duoc-chap-vao-sac-duc.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-de-tu-cua-phat-khong-duoc-chap-vao-sac-duc.html#respondFri, 06 May 2011 09:18:36 +0000https://chanhkien.org/?p=11855Tác giả: Học viên tại Đại Lục [Chanhkien.org] Trong những năm Phật Thích Ca Mâu Ni mới bắt đầu truyền Pháp, không hề có phụ nữ xuất gia. Về sau người dì tục gia của Phật Thích Ca Mâu Ni—phu nhân Mahā-prājapati—dẫn 500 phụ nữ tộc Thích Ca xuất gia thành ni cô; đây là […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Đệ tử của Phật không được chấp vào sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Học viên tại Đại Lục

[Chanhkien.org] Trong những năm Phật Thích Ca Mâu Ni mới bắt đầu truyền Pháp, không hề có phụ nữ xuất gia. Về sau người dì tục gia của Phật Thích Ca Mâu Ni—phu nhân Mahā-prājapati—dẫn 500 phụ nữ tộc Thích Ca xuất gia thành ni cô; đây là những ni cô đầu tiên của Phật giáo.

Sau khi phu nhân Mahā-prājapati xuất gia không lâu, có một vị tăng nhân trẻ tuổi hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: “Ngài xem 500 người của phu nhân Mahā-prājapati xuất gia, các cô ấy cạo đầu mặc áo giống như tăng nhân, chúng ta có thể không coi họ là nữ nhân nữa; nhưng những phụ nữ ngoài xã hội, chúng ta nên mang thái độ như thế nào để đối đãi với họ?”

Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Tốt nhất là tránh họ, không nên nhìn họ; nếu không thể tránh họ, thì cần xem như không nhìn thấy họ, không nên nói chuyện với họ; nếu vẫn không thể không nói chuyện, thì khi nói chuyện với họ nhất định phải có tâm thuần khiết; nên nghĩ rằng mình đã xuất gia, giống như hoa sen mọc giữa đám bùn mà không bị ô uế; mà hoa sen thì cần thanh tĩnh không dơ bẩn. Sắc dục là ngọn nguồn tội ác nơi thế gian, người xuất gia cần sống với thân tâm thanh tịnh trong sạch. Gặp phụ nữ lớn tuổi thì coi như mẹ mình, gặp phụ nữ nhiều tuổi hơn thì coi như chị gái mình, gặp phụ nữ ít tuổi hơn thì coi như em gái mình mà đối đãi.”

“Tại nhân gian gây phiền não lớn nhất chính là lực sắc dục, điều đáng sợ nhất cũng chính là lực sắc dục… Nam nhân học Đạo mê muội bởi nữ nhân mỹ lệ; nữ nhân học Đạo say đắm nam tử anh tuấn; dâm dục chính là đóng kín trí tuệ người ta, khiến không dễ tiếp thu chân lý… hãy cẩn thận quản chế tâm của chính mình, không được để tâm phóng túng.”

Sau khi đọc xong đoạn cố sự này, tôi nghĩ rằng trong lịch sử tâm sắc dục chính là chấp trước mà đệ tử của Phật không thể không loại bỏ. Người tu luyện ngày nay chẳng những tuyệt đối không thể phát sinh bất cứ hành vi bất chính nào, mà còn nhất định phải tu bỏ tâm sắc dục, nghiêm túc đối đãi với từng niệm đầu của mình, bảo trì chính tín chính niệm trong mọi thời khắc.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2010/4/18/65599.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Đệ tử của Phật không được chấp vào sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/chuyen-co-phat-gia-de-tu-cua-phat-khong-duoc-chap-vao-sac-duc.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Công năng túc mệnh thông của Huệ Nănghttps://chanhkien.org/2011/04/chuyen-co-phat-gia-cong-nang-tuc-menh-thong-cua-hue-nang.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/chuyen-co-phat-gia-cong-nang-tuc-menh-thong-cua-hue-nang.html#respondWed, 13 Apr 2011 15:01:34 +0000https://chanhkien.org/?p=11462Tác giả: Hoằng Nghị [Chanhkien.org] Bởi vì danh tiếng của lục tổ Thiền tông Huệ Năng truyền khắp vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông và Quảng Tây), tăng chúng các nơi, cùng rất nhiều người quan to tước quý đều muốn đến nghe Huệ Năng thuyết pháp. Danh vọng của ông càng ngày càng lớn, khiến […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Công năng túc mệnh thông của Huệ Năng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hoằng Nghị

[Chanhkien.org] Bởi vì danh tiếng của lục tổ Thiền tông Huệ Năng truyền khắp vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông và Quảng Tây), tăng chúng các nơi, cùng rất nhiều người quan to tước quý đều muốn đến nghe Huệ Năng thuyết pháp. Danh vọng của ông càng ngày càng lớn, khiến Bắc phái của Thần Tú ở Ngọc Tuyền Tự, xa tận Kinh Nam vô cùng bất an. Thần Tú bản thân không để ý lắm, nhưng các môn đồ của ông thì lại sợ hãi mưu tính, đều muốn cho Huệ Năng thấy một chút lợi hại. Họ đều nghĩ đến rất nhiều biện pháp, trong đó có chủ ý của một hòa thượng tên là Chí Minh, ông ta nói rằng mình có một bằng hữu tục gia tên là Trương Hành Xương, rất thích bênh vực kẻ yếu, hơn nữa võ nghệ hơn người, có thể thay mặt họ tới dạy bảo Huệ Năng một phen.

Mọi người đều thấy rằng biện pháp này quả là bất hảo, nhưng nhất thời không nghĩ được biện pháp nào khác, nên đành căn dặn: “Điểm tới là dừng, để Huệ Năng chú ý là được rồi, đừng làm tới tuyệt tình.” Thế là Chí Minh ra đi tìm Trương Hành Xương, nói với ông ta rằng Huệ Năng có rất nhiều điều không phải, nhờ ông ta dạy cho Huệ Năng một bài học. Việc xong xuôi rồi thì biếu 10 lạng vàng gọi là tạ ơn.

Đêm hôm đó, Trương Hành Xương sửa soạn lên đường, giắt bên mình một con dao nhọn, đi gấp ngày đêm, một mạch đến thẳng Tào Khê. Cũng hôm ấy, khi Huệ Năng đăng đàn giảng pháp như thường lệ thì đột nhiên thấy trước mắt xuất hiện bầu trời mênh mông, thấu tận ngoài vạn lý, chỉ thấy một người nét mặt lộ rõ sát cơ, đang gấp rút hướng về Tào Khê truy sát.

Huệ Năng lập tức minh bạch là việc gì rồi, nhưng ung dung không biến sắc, vẫn thuyết pháp như thường lệ. Đêm hôm ấy, Huệ Năng lấy ra 10 lạng vàng đem treo lên chiếc ghế vẫn thường dùng để ngồi thiền đặt bên cạnh giường, để ngỏ cửa lớn, thổi tắt nến rồi thản nhiên kê cao gối mà ngủ.

Trương Hành Xương núp bên ngoài Bảo Lâm Tự, đợi khi đêm xuống thì mới vượt tường vào trong. Lại qua hai thời thần (4 giờ đồng hồ) nữa, ông ta mới nhẹ nhàng đẩy cửa vào phòng phương trượng, lần theo nơi có tiếng thở đều đều, rút dao nhọn ra, thì đột nhiên nhớ lại Chí Minh năm lần bảy lượt căn dặn đừng làm đến tuyệt tình, nên bèn cất dao vào bao. Nhưng rồi nghĩ lại rằng mình đã lặn lội đến đây chuyến này rồi, cớ sao không làm cho đến triệt để, nếu hôm nay mình giết được Huệ Năng, trở về biết đâu lại được thưởng nhiều vàng hơn.

Một niệm sai lầm khiến Hành Xương bạo gan làm điều ác, ông ta bước nhanh về phía trước, nhắm vào cổ Huệ Năng mà chém một nhát. Chỉ nghe thấy một tiếng keng, Hành Xương tưởng như vừa chém vào một tảng đá vậy, dao bật trở lại, cổ tay tê rần. Không kịp suy nghĩ, ông ta chém thêm liền hai nhát nữa, thì cũng đều bị bật trở lại. Vừa định tiếp tục thì nghe tiếng Huệ Năng nói: “Ác đồ to gan, còn không mau hạ con dao xuống! Gươm chính không tà, gươm tà không chính, ngươi bị người ta lợi dụng, ám sát người thiện lương, há có thể làm hại một sợi lông tơ của ta sao! Ta nợ ngươi chỉ là 10 lạng vàng, chẳng hề nợ ngươi mảy may một mạng người!”

Hành Xương thất kinh, vội vàng vứt bỏ con dao nhọn, nằm bò trên đất khấu đầu mãi không thôi, cầu xin Huệ Năng tha thứ, nguyện ý xuất gia tu hành, suốt đời phụng dưỡng Huệ Năng. Huệ Năng túm lấy 10 lạng vàng đưa cho ông ta, nói: “Nhà ngươi đi cho mau, nếu đệ tử của ta mà biết ngươi là thích khách, thì thế nào cũng làm hại ngươi. Nếu muốn xuất gia, đợi ngày khác ngươi thay trang phục rồi quay trở lại đây.” Hành Xương nuốt nước mắt tạ ơn, không lâu sau bèn xuất gia trở thành tăng nhân.

Ngày mùng 1 tháng 7 năm Huyền Tông thứ 2 triều Đường (năm 713 SCN), Huệ Năng đột nhiên triệu tập tất cả tăng chúng trong chùa và nói: “Bần tăng sẽ ly thế vào tháng 8 này, các ngươi ai còn nghi vấn gì, thì nói cho mau.” Mấy ngày sau, có đệ tử hỏi: “Đại sư cho con biết sau này còn có tai nạn gì nữa?”

“Sau khi bần tăng tạ thế được 5,6 năm, sẽ có người tới lấy đầu ta, còn xuất hiện tình huống gì nữa? Có thể dùng bốn câu dự ngôn như sau: Đầu còn thì sống, nơi miệng cần ăn, đợi hết nạn rồi, dương liễu làm quan.” Đến sớm ngày mùng 3 tháng 8, Huệ Năng không nói chuyện nữa, ngồi liền một mạch tới canh ba, nói một câu: “Ta đi đây!” rồi bình an tạ thế.

Huệ Năng chết rồi, rốt cuộc còn phát sinh sự việc lấy đầu nào nữa đây? Theo sử ghi chép, sau khi Huệ Năng qua đời 9 năm, tức vào những năm Khai Nguyên triều Đường, có một vị tăng nhân nước Tân La tên là Kim Đại Bi, nghe danh đại sư Huệ Năng đã lâu, muốn đưa đầu Huệ Năng trở về cung để cung phụng, thế là ông ta mướn một người tên là Trương Tịnh Mãn để đi lấy trộm đầu. Trương Tịnh Mãn là một người con có hiếu, nhiều năm ở nhà phụng dưỡng mẫu thân đã già, không có tiền phải ăn cháo để cầm hơi, nên mới nhận lời đi lấy trộm đầu. Chẳng ngờ Tịnh Mãn vừa đột nhập vào Bảo Lâm Tự ở Tào Khê thì sự tình bại lộ, đầu không lấy được, mà còn bị kết án truy nã. Chính như dự ngôn của Huệ Năng nói, xét xử vụ án này là quan Thích sử tên Liễu Vô Thiểm, còn Huyện lệnh Khúc Giang vùng Tào Khê tên là Dương Khản, đúng là “dương liễu làm quan”!

Công năng túc mệnh thông là gì? Trong «Chuyển Pháp Luân» giảng rằng:

“Ấy là có thể biết được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết được sự thịnh suy của xã hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật biến hoá của toàn thiên thể; đó chính là ‘công năng túc mệnh thông’.”

Trong lịch sử có rất nhiều dự ngôn cổ xưa, chẳng hạn như «Các Thế Kỷ» của nhà tiên tri người Pháp Nostradamus, «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc, «Mã Tiền Khóa», «Thôi Bối Đồ», «Thiêu Bính Ca» của Trung Quốc, v.v. dự ngôn phi thường chuẩn xác, kỳ thực tác giả đều là có công năng túc mệnh thông. Họ đều dự ngôn rằng nhân loại ngày nay sẽ phát sinh một sự kiện trọng đại, dự ngôn về xu thế “Trời diệt Trung Cộng” không cưỡng lại được. Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp càng hiểu rõ hơn những biến đổi cự đại trong vũ trụ, do đó mới toàn lực truyền «Cửu Bình», khuyên tam thoái, chính là mang đến tương lai tươi sáng cho con người thế gian.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/12/3/41198.html
http://pureinsight.org/node/4355

The post Chuyện cổ Phật gia: Công năng túc mệnh thông của Huệ Năng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/chuyen-co-phat-gia-cong-nang-tuc-menh-thong-cua-hue-nang.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Ma Ha Lư “ngu ngốc”https://chanhkien.org/2010/11/chuyen-co-phat-gia-ma-ha-lu-ngu-ngoc.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/chuyen-co-phat-gia-ma-ha-lu-ngu-ngoc.html#respondTue, 30 Nov 2010 18:26:00 +0000https://chanhkien.org/?p=9858Tác giả: Quả Chính [Chanhkien.org] Xưa tại nước Ma La ở Ấn Độ cổ, cách đô thành ước chừng sáu, bảy lý là một tịnh xá, có khoảng 500 người xuất gia, họ đều là thầy tu giữ giới luật Phật giáo, trong đó có một người khá nhiều tuổi, tên là Ma Ha Lư. […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Ma Ha Lư “ngu ngốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Xưa tại nước Ma La ở Ấn Độ cổ, cách đô thành ước chừng sáu, bảy lý là một tịnh xá, có khoảng 500 người xuất gia, họ đều là thầy tu giữ giới luật Phật giáo, trong đó có một người khá nhiều tuổi, tên là Ma Ha Lư. Ông nổi tiếng ngốc nghếch, vô luận chỉ bảo như thế nào cũng đều không được, thậm chí một câu kệ ngữ cũng chẳng thể đọc thuộc. Vì vậy trong số 500 thầy tu, mọi người đều coi thường ông, cũng không có nguyện ý ở cùng ông, cho nên ông luôn luôn cô độc.

Một ngày nọ, quốc vương phái sứ giả đến tịnh xá, yêu cầu các thầy tu đi phụng dưỡng, riêng Ma Ha Lư ngốc nghếch xấu hổ cảm thấy mình là đần độn, không dám tham gia cuộc tập hợp các tăng nhân của quốc vương. Đến khi mọi người đều rời đi, thì ông là người duy nhất còn ở lại, tự cảm thấy khổ sở bèn đi tìm một sợi dây, tới một cây cổ thụ định tự vẫn. Đúng lúc này, Đức Phật trang nghiêm trên bảo tượng bỗng hiện ra trước mặt ông, nghiêm túc quở trách ông, nói: “Hỡi Ma Ha Lư! Con không nỗ lực chịu khó tinh tiến, tìm ra chỗ không đủ tốt của bản thân, trái lại làm ra chuyện càng ngu ngốc hơn nữa?” Đức Phật dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Con vốn dĩ kiếp trước là một người tu Đạo học vấn uyên bác, nhưng vì lúc ấy không chịu chỉ bảo người khác, sinh khởi tâm ngạo mạn, coi thường người khác, cho nên kiếp này phải chịu báo ứng là bị đần độn. Con không thể trách móc người khác đâu, tự mình làm sai gây chuyện, tự mình cần phải sám hối thật sâu sắc, nếu không thì chẳng thể chấm dứt tội nghiệp được.”

Ma Ha Lư sau khi được Đức Phật điểm hóa cảm thấy vô cùng xấu hổ, quỳ gối trước mặt Đức Phật sám hối. Đức Phật rất từ bi, bất kể lỗi lầm quá khứ của ông, chỉ cần thấy ông biết lỗi mà sửa đổi, thì vẫn coi ông là người tốt.

Lúc này, Đức Phật kiên nhẫn thuyết Pháp cho Ma Ha Lư, gợi mở huệ ngộ của ông, vừa đúng lúc cơ duyên cũng chín muồi. Sau khi nghe Đức Phật thuyết Pháp xong, Ma Ha Lư giác ngộ thành chính quả, đầu óc ngu độn lập tức khai sáng, khiến ông có thể liễu giải Pháp ngữ vi diệu của Đức Phật, có thể nhìn thấu hết thảy điều thế gian. Đức Phật biết ông đã ngộ Đạo, thúc giục ông khẩn trương tham gia phụng dưỡng quốc vương, đồng thời vì dân chúng mà thuyết Pháp. Lúc ông sắp rời đi, Đức Phật nói với ông: “Ma Ha Lư! Quá khứ khi con còn là trưởng lão, con đã thu nạp 500 đệ tử, nay 500 người ấy chính là 500 thầy tu đang phụng dưỡng quốc vương, giờ con mau chóng đi đi, họ đang chờ đợi sự chỉ bảo của con đó.”

Sau khi lạy chào Đức Phật, Ma Ha Lư đi tới vương cung, đúng lúc bữa tiệc vừa mới bắt đầu. Ma Ha Lư nhìn thấy vị trí ghế thượng tọa chưa có ai ngồi, ông không chút do dự đi tới ngồi xuống, mọi người nhìn thấy thái độ của Ma Ha Lư đều cho rằng ông điên rồi, nhưng trong hoàn cảnh trang nghiêm như vậy, ở ngay trước mặt quốc vương, không ai dám nói gì. Đến khi mọi người đã ăn no thì Ma Ha Lư đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt mọi người không chút sợ hãi. Với giọng nói xúc động lòng người và tướng mạo trang nghiêm, ông thuyết Pháp cho 500 thầy tu và tất cả mọi người ở đó nghe, ai ai cũng đều kính nể.

Năm trăm thầy tu vô cùng xấu hổ vì đã từng cho rằng ông là kẻ ngốc, ấy vậy mà cuối cùng ông lại là người giác ngộ và chứng đắc quả vị.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/6/25/38262.html
http://pureinsight.org/node/4080

The post Chuyện cổ Phật gia: Ma Ha Lư “ngu ngốc” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/chuyen-co-phat-gia-ma-ha-lu-ngu-ngoc.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Thần thông không thắng được nghiệp lựchttps://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-than-thong-khong-thang-duoc-nghiep-luc.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-than-thong-khong-thang-duoc-nghiep-luc.html#respondSun, 27 Dec 2009 21:38:09 +0000https://chanhkien.org/?p=4458Tác giả: Quả Chính [Chanhkien.org] Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể câu chuyện sau về Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất cho các đồ đệ của Ông nghe. Một ngày, khi hai người tu đạo này đi ngang qua một thôn trang thì gặp một nhóm trẻ rất tinh nghịch. Những đứa trẻ […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Thần thông không thắng được nghiệp lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể câu chuyện sau về Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất cho các đồ đệ của Ông nghe.

Một ngày, khi hai người tu đạo này đi ngang qua một thôn trang thì gặp một nhóm trẻ rất tinh nghịch. Những đứa trẻ quyết định trêu đùa họ. Một trong số chúng đứng giữa đường để chắn lối đi và hỏi: “Khi nào thì trời chuyển sang lạnh?”

”Bất luận là xuân, hạ, thu, đông, khi trời có gió và mưa thì sẽ chuyển sang lạnh”, người tu đạo đi trước cười đáp. Những đứa trẻ bèn tránh đường cho ông đi. Nhưng chúng chạy theo sau ông và chặn không cho người tu đạo thứ hai đi ngang qua. Một đứa trẻ hỏi người tu đạo đi sau: “Khi nào thì trời chuyển sang lạnh?” “Mùa đông là mùa lạnh do sự xoay chuyển của nhật nguyệt tinh tú (mặt trời, mặt trăng và các vì sao). Khi trái đất ở cách xa mặt trời trong mùa đông thì trời lạnh. Chỉ có những kẻ ngu si mới không biết điều đó.”

Sau khi nghe điều này, những đứa trẻ bèn ném đá vào người tu đạo đi sau này. Xá Lợi Phất là người đi trước và Mục Kiền Liên là người đi sau.

Trong số 16 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là những nhân vật xuất chúng, đặc biệt là về thần thông của họ.

Mục Kiền Liên có thần thông thật phi thường. Khi ông đụng đầu ngón chân vào cung điện của Thiên Đế Thích, ông có thể làm cung điện rung chuyển, thậm chí là đổ sụp. Tại sao ông không vận dụng thần thông để đối phó với đám trẻ tinh nghịch này?

Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất thường đi cùng nhau. Họ đi lại giữa thiên đường và hạ giới, địa ngục và cõi súc sinh. Họ vận dụng thần thông để cứu độ người khổ nạn và giáo hóa các chúng sinh ngu si.

Một lần, họ đi xuống tận địa ngục vô gián. Ở đó cực kỳ nóng. Hơi nóng bốc lên từ chảo dầu đầy khắp bầu không khí trong địa ngục. Những kẻ khốn khổ phải chịu nhận hình phạt này đang khóc lóc và kêu la vì đau đớn. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã làm mưa để giảm nhẹ sự thống khổ của họ trong một phút chốc.

Lúc ấy họ trông thấy một tội nhân, với thân thể thô đại cùng cái lưỡi lớn và rất dài. Năm trăm cái cày sắt nằm trên đầu lưỡi của ông ta. Ông ta đang dùng những cái cày được gắn trên lưỡi để cày một mảnh đất hoang. Máu tươi nhỏ giọt từ lưỡi của ông ta. Ngay khi người tội nhân trông thấy Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, ông ta chạy đến bên họ và khóc lóc: “Hai vị tôn giả, tôi tên là Bộ Lợi Nô, lúc còn sống là một giáo sĩ truyền tà giáo. Tôi chuyên thuyết tà pháp, phỉ báng Phật giáo, nên mới bị khổ báo thế này đây. Nếu các Ngài đi qua Nam Thiêm Bộ Châu (một trong bốn Châu lớn trên trái đất,  theo Phật giáo), thỉnh các Ngài nói với những môn đồ của tôi rằng đừng thờ cúng những thứ tôi đặt trong tháp gỗ nữa. Nó sẽ chỉ làm tăng khổ báo của tôi thôi. Cũng xin các Ngài nói với họ rằng đừng phỉ báng Phật Pháp, theo tà giáo để lừa gạt chúng sinh nữa, nếu không sẽ theo dấu chân của tôi và bị đọa xuống nơi này, nghìn vạn lần van xin các Ngài.”

Sau khi rời khỏi địa ngục vô gián, hai vị tôn giả bèn trở lại thành Vương Xá, và gặp một nhóm ngoại đạo. Tất cả họ đều mang theo gậy chống, gậy lớn làm vũ khí để chặn đánh những người xuất gia. Xá Lợi Phất là người đi trước. Khi những kẻ ngoại đạo kia cầm vũ khí định đánh hai người, Xá Lợi Phất đã nói chuyện với họ bằng ngữ khí ôn hòa. Họ bèn dừng lại và để Xá Lợi Phất đi qua. Nhưng khi Mục Kiền Liên bước tới, họ lại giương vũ khí lên.

“Khoan đã!” Mục Kiền Liên giơ tay lên chặn họ lại và nói: “Hai chúng tôi vừa mới trở về từ ngục vô gián. Chúng tôi đã thấy sư phụ Bộ Lợi Nô của các ông phải chịu khổ báo cực đại như thế nào trong địa ngục. Ông ấy phải dùng lưỡi cày gắn trên lưỡi để cày đất. Máu tươi rỉ ra từ đầu lưỡi của ông ấy. Ông ấy đang phải chịu khổ báo cực đại. Ông ấy nhờ tôi chuyển lời tới các ông rằng hãy dừng phỉ báng Phật Pháp, tuyên truyền tà giáo, nếu không sẽ đi theo bước chân của ông ấy. Đồng thời các ông đừng có triều bái cái tháp gỗ thì mới có thể giảm bớt thống khổ cho ông ấy”. Mục Kiền Liên nói vậy là có hảo tâm muốn họ hối cải và tiêu trừ sự hằn thù giữa hai bên. Nhưng ngay khi ông vừa nói xong, đám ngoại đạo lao vào và tấn công ông vô cùng hung hãn.

“Đánh! Hắn phỉ báng sư phụ chúng ta. Đánh hắn. Đánh sa môn này!”

Gậy gỗ và gậy chống đập vào đầu Mục Kiền Liên như mưa, đến nỗi ông bị thương tích đầy mình.

Nhiều người trông thấy cảnh ngộ của Mục Kiền Liên bèn nảy sinh tâm nghi ngờ về thần thông của ông.

Phật Thích Ca Mâu Ni nói: “Thần thông của Mục Kiền Liên không phải là điều hư giả, ông có thể lên trời xuống đất, biến hóa khôn lường, thân thể không có chướng ngại, tự do tự tại. Năng lực thần thông của ông là bất khả tư nghị. Thần thông của Mục Kiền Liên không hề bị tiêu mất, nhưng khi đối mặt với nghiệp lực trước mắt, ông biết rằng nợ nghiệp thì tất phải hoàn trả. Đây là luật nhân quả, không ai có thể vi phạm. Khi nghiệp lực tới, người ta phải nhận nó; phù hợp với luật nhân quả mới là đạo lý. Mọi người đều cần phải hiểu rằng khi nghiệp lực tới, đừng cố gắng chạy trốn và mang tâm oán hận. Một người cần phải biết rõ rằng tạo nghiệp là đáng sợ như thế nào. Hãy tu luyện tinh tấn và cẩn thận với hành vi của chính mình.”

Mục Kiền Liên có sở trường về thần thông, nhưng ông đã không dùng nó để che đậy sai lầm của mình và tránh bị nghiệp báo. Ông đã nêu lên một tấm tương tốt cho chúng ta.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/4/38334.html

http://pureinsight.org/node/4094

The post Chuyện cổ Phật gia: Thần thông không thắng được nghiệp lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-than-thong-khong-thang-duoc-nghiep-luc.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Xuất giahttps://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-xuat-gia.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-xuat-gia.html#respondSat, 19 Dec 2009 22:35:43 +0000https://chanhkien.org/?p=4382Tác giả : Quả Chính [Chanhkien.org] Trong số các đệ tử của Phật Đà, có một nữ đệ tử thần thông quảng đại, cuộc sống của cô là khắc khổ phi thường trước lúc xuất gia. Dưới đây là thân thế của cô: Xưa ở thành Taxila,  có một lão nhân đáng kính, có một […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả : Quả Chính

[Chanhkien.org] Trong số các đệ tử của Phật Đà, có một nữ đệ tử thần thông quảng đại, cuộc sống của cô là khắc khổ phi thường trước lúc xuất gia. Dưới đây là thân thế của cô:

Xưa ở thành Taxila,  có một lão nhân đáng kính, có một người con gái rất mỹ lệ, khi cô gái được 16 tuổi, phụ mẫu gả cô cho một thanh niên anh tuấn. Sau khi kết hôn, sinh hoạt cũng rất bình an. Cô mang thai sau đó không lâu. Từ khi phụ thân mất đi thì bất hạnh phát sinh, mẫu thân cô đã tư thông với chồng cô, bị cô biết được, thật là đau xót không còn muốn sống, nhưng vì không muốn người ngoài nghị luận, sau khi sinh hạ con gái, cô rời đi, một mình ra đi lang thang.

Vì vấn đề sinh hoạt, không có lựa chọn nào khác, cô lại tái giá với một thương nhân. Thời gian bất giác đã hơn 10 năm trôi qua như nháy mắt. Một ngày nọ, người thương nhân mang từ thành Taxila về một tiểu thiếp mà ông ta mua hàng trăm lượng vàng kim, lúc đầu còn giấu diếm thê tử của mình, sau thì mang tiểu thiếp đó về nhà,  nói với thê tử của mình, “nếu như cô cảm thấy không vui, thì có thể rời đi”.

Nhìn cô nương 16 tuổi kia, cô biết rằng đây là người đến từ quê hương mình,  sau khi hỏi biết tên phụ mẫu của cô nương kia, cô biết mình chính là người thân sinh của cô nương đó. Tuy là ly biệt đã lâu, gặp nhau không biết nhau, nhưng với cô nương kia là nhìn giống hệt, cô nương kia chính là mình thời 16 tuổi, thật là đau xót cùng cực, thê thảm mà hỏi trời cao: “Số phận tôi bi thảm thế này sao!  Chung chồng với mẹ. Chung chồng với con? Cuối cùng là vì sao?”

Đối diện với đả kích cự đại, tinh thần cô đã đến bên bờ vực sụp đổ, cô không còn muốn sống nữa. Cô tìm phương thức kết thúc sinh mệnh của mình, gặp được Tôn giả Mục Kiền Liên, hướng đến Mục Kiền Liên mà hỏi đạo: “Tôi là người tội nghiệp sâu nặng, cả thế gian này đối với tôi là quá khủng khiếp, tôi nhất định là vì vướng vào nhân quả, khiến ngày nay sống ngập trong bùn lầy, thỉnh Ngài khai thị, tôi có thể đã gần đến con đường tử rồi không? ”

Tôn giả Mục Kiền Liên an ủi cô mà nói: “Cô đừng thoái chí, đừng mất hy vọng, Lão sư Phật Đà của tôi đây cứu khổ cứu nạn, Pháp của ông có thể tẩy tịnh tâm lý không thanh tĩnh của cô, cứu độ cô đến vùng đất tịnh độ vĩnh viễn không còn chịu đau khổ“.

Cô đến diện kiến Phật Đà, thỉnh cầu được xuất gia, Phật Đà khiến cô dụng công tu hành dũng mãnh, rất nhanh chứng đắc quả vị La Hán, trở thành nhân vật đệ nhất thần thông trong số các đệ tử Phật Đà.

Cô là Liên Hoa Sắc, trước đó có một thân thế thống khổ, tu hành kiên định đắc đạo, cùng với Mục Kiền Liên là rất giống, đều chứng đắc quả vị, thần thông đại hiển.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/6/38430.html
http://pureinsight.org/node/4092

The post Chuyện cổ Phật gia: Xuất gia first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/chuyen-co-phat-gia-xuat-gia.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đừng đánh giá người khác bởi vẻ bề ngoàihttps://chanhkien.org/2009/11/chuyen-co-phat-gia-dung-danh-gia-nguoi-khac-boi-ve-be-ngoai.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/chuyen-co-phat-gia-dung-danh-gia-nguoi-khac-boi-ve-be-ngoai.html#respondSat, 07 Nov 2009 22:20:36 +0000https://chanhkien.org/?p=3871Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chanhkien.org] Phật Thích Ca Mâu Ni có một đệ tử vẻ ngoài rất xấu xí. Mặc dù anh ta tu luyện rất tốt, anh vẫn luôn bị những thầy tu khác xem thường bởi vẻ ngoài khó coi của mình. Một ngày nọ đệ tử đó đến nghe Phật […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Đừng đánh giá người khác bởi vẻ bề ngoài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org] Phật Thích Ca Mâu Ni có một đệ tử vẻ ngoài rất xấu xí. Mặc dù anh ta tu luyện rất tốt, anh vẫn luôn bị những thầy tu khác xem thường bởi vẻ ngoài khó coi của mình. Một ngày nọ đệ tử đó đến nghe Phật Thích Ca Mâu Ni giảng pháp.

Khi nhiều thầy tu trông thấy anh từ đàng xa, vài người đang tại đó lắng nghe giảng pháp bắt đầu cảm thấy khinh thường thậm chí còn có ác cảm với anh. Đức Phật nhanh chóng biết được cảm nghĩ của các đệ tử. Phật Thích Ca Mâu Ni bèn nói với chúng đệ tử: “Các con đều trông thấy vị thầy tu đến đây và bề ngoài của anh ta thì rất xấu xí. Chẳng ai muốn nhìn anh ta. Khuôn mặt xấu xí khiến các con cảm thấy khinh thường anh ta. Đúng không?”. Chúng đệ tử đều trả lời: “Vâng”.

Phật Thích Ca Mâu Ni bảo chúng đệ tử: “Các con không được có suy nghĩ coi thường vị thầy tu ấy. Tại sao? Bởi anh ta đã buông bỏ hết thảy các loại tâm chấp trước, không còn gì cả … Tâm anh ta tràn ngập từ bi, trí anh ta không còn truy cầu nữa. Các con không thể tùy tiện đánh giá người khác. Chỉ có Giác Giả mới có thể đánh giá được người khác”. Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni tiếp tục bảo đệ tử: “Không được chỉ nhìn bề ngoài một người để rồi ghét bỏ người ấy”.

Sau khi đọc câu chuyện, tôi nghĩ rằng chúng ta thực sự không nên phán xét một người nào chỉ bởi vẻ ngoài của họ. Chúng ta có thiện cảm đối với những ai xinh đẹp, và muốn ngắm nhìn họ nhiều lần; ngược lại, với những ai chẳng được dễ nhìn, chúng ta không muốn ngắm nhìn họ nhiều như thế. Đó chẳng phải là ta thiếu lòng từ bi và không thể đối xử với mọi chúng sinh như nhau đó sao? Hơn nữa, dùng hình thức mà phán xét người khác thì chứng tỏ chúng ta chỉ đánh giá một con người một cách nông cạn, không quan tâm đến phẩm chất đức hạnh và tấm lòng của họ. Chẳng phải ấy chính là dục vọng đang ẩn náu nơi nào đó sao?

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/6/13/60053.html
http://pureinsight.org/node/5827

The post Chuyện cổ Phật gia: Đừng đánh giá người khác bởi vẻ bề ngoài first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/chuyen-co-phat-gia-dung-danh-gia-nguoi-khac-boi-ve-be-ngoai.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Sau khi Huyền Trang thỉnh kinh trở vềhttps://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-sau-khi-huyen-trang-thinh-kinh-tro-ve.htmlhttps://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-sau-khi-huyen-trang-thinh-kinh-tro-ve.html#respondThu, 17 Sep 2009 02:29:40 +0000https://chanhkien.org/?p=2829Tác giả: Lục Hân Văn [Chanhkien.org] Tiểu thuyết cổ điển Tây Du Ký đã khéo léo thuật lại những trải nghiệm và Huyền Trang trải qua khi đi tới Thiên Trúc thỉnh kinh Phật bất chấp khó khăn. Nhưng, ông đã làm gì sau khi lấy được chân kinh và trở về Trung Thổ? Ở […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Sau khi Huyền Trang thỉnh kinh trở về first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Hân Văn

[Chanhkien.org] Tiểu thuyết cổ điển Tây Du Ký đã khéo léo thuật lại những trải nghiệm và Huyền Trang trải qua khi đi tới Thiên Trúc thỉnh kinh Phật bất chấp khó khăn. Nhưng, ông đã làm gì sau khi lấy được chân kinh và trở về Trung Thổ? Ở đây là một vài tóm tắt sơ lược một vài câu chuyện được ghi lại trong lịch sử về Huyền Trang sau khi trở về quê hương để thỏa mãn trí tò mò của độc giả.

Huyền Trang đã mất tròn hai năm trở về Trung Thổ, và khi trở lại quê hương tính ra ông đã xa nhà gần 20 năm. Chính xác là ngày 24 tháng 1, năm thứ 19 thời Trinh Quán triều Đường. Vào ngày đó, mọi người tụ tập ở ngoại thành phía Tây kinh thành và hàng trăm nghìn sư tăng và thường dân và tập hợp và chào đón Huyền Trang, trở về từ Tây Trúc mang theo kinh Phật. Vào ngày hôm sau, Huyền Trang đã tặng kinh và tượng Phật ông mang về cho chùa Hồng Phúc. Vào lúc đó, xung quanh mặt trời xuất hiện những đám mây sặc sỡ, và tượng Phật tỏa ra những bánh xe ánh sáng hòa lẫn với sắc đỏ và trắng. Đám đông liên tục thốt ra những cử chỉ tín ngưỡng. Do sự trở về của Huyền Trang, mười nghìn người ở kinh thành đã tạm ngừng công việc và rất nhiều người đã theo đạo Phật. Đại lễ đón Huyền Trang có thể nói là hiếm có trong lịch sử.

Khi Huyền Trang trở về Trường An, Đường Thái Tông (một vị Hoàng Đế nhà Đường) đang ở trong thành Lạc Dương và chuẩn bị xuất chinh. Vì vậy, Huyền Trang đã tới Lạc Dương yết kiến Thái Tông và hiến cống rất nhiều kì trân dị bảo mang về từ chuyến đi. Hai người đã đàm đạo trong cung điện cho đến tận lúc trống khởi hành xuất chinh nổi lên. Đường Thái Tông yêu cầu Phòng Huyền Linh sắp xếp người để bảo hộ Huyền Trang và ban cho lộ phí và các vật dụng cần thiết. Sau này, Huyền Trang yêu cầu tuyển lựa những người có khả năng để dịch kinh cùng ông và Thái Tông đã đồng ý. Vì vậy, Huyền Trang đã rất tích cực trong việc dịch kinh sách và phổ truyền Phật Pháp sau khi trở về, và trở thành một trong tứ đại dịch giả kinh điển phật giáo.

Sau khi thảo tặc, Đường Thái Tông trở về Kinh đô Trường An, Huyền Trang đã dâng biểu xin Hoàng Đế viết lời tựa cho những kinh phật ông dịch. Ông tâu, “Trí tuệ của bệ hạ như bạch vân che phủ mặt trời và uy danh cao hơn cả trăm vua. Thần nghĩ rằng Phật pháp là vô biên, vì vậy một người nếu không có tư tưởng của thần thì chẳng thể giải thích được nghĩa lý của Pháp. Thánh giáo là huyền viễn, nếu không phải là những lời của thánh thần thì không thể dùng để làm lời tựa cho nó. Vì vậy, thần mạo phạm cầu xin bệ hạ hạ bút viết lời tựa cho thánh kinh. Lời của Hoàng thượng có hàm nghĩa thâm sâu, vì vậy xin đừng khiêm nhường về việc này thêm nữa.”

Cuối cùng, đáp lại ba lần thỉnh cầu của Huyền Trang, Thái Tông đã viết “Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo Tự”. Khi học hết bộ này, tất cả quan lại đều bày tỏ sự ca tụng, và việc chưa từng có trước đây, các quan lại trong hoàng tộc bắt đầu đọc kinh phật và Phật Pháp được thăng tiến chưa có tiền lệ trong lịch sử.

Về sau, đáp lại yêu cầu của Đường Thái Tông, Huyền Trang cũng hoàn thành cuốn nổi tiếng “Đại Đường Tây Vực Ký”, nội dung mô tả những trang phục, văn hóa, địa lý, lịch sử, tôn giáo … của 110 nước ông đã du hành qua và 28 nước ông nghe đến. Câu chuyện của ông lời tự thuật chân thật, ngôn ngữ phong phú, đẹp và tao nhã, cuốn sách đã được xem như là một tác phẩm lớn trong kho tàng sách cổ Trung Hoa. Sau này nó đã được dich thành nhiều ngôn ngữ và phổ truyền rộng rãi.

Từ khi Huyền Trang bước chân vào Phật môn, ông đã luôn mong muốn được về nơi thiên giới Di Lặc. Năm 664, năm đầu thời kỳ vua Lân Đức (Đường Cao Tông), Huyền Trang nói với các sư tăng dịch kinh thư cùng ông và các đệ tử: “Ta chắc sẽ viên tịch năm ta 65 tuổi. Nếu ai còn câu hỏi gì, hãy mau hỏi sớm.”

Ai nghe được lời này cũng vô cùng ngạc nhiên: “Tại sao Sư phụ nói vậy khi chưa được 70, 80, hay 90 tuổi?” Huyền Trang trả lời: “Ta biết tự ta.” Ông sau đó đi đến trước tượng Phật cáo biệt. Khi một số tăng sư muốn đi, Huyền Trang nói: “Các con có thể đi. Ta đang từ biệt các con lúc này. Các con không cần phải đến để gặp ta thêm nữa và sẽ chẳng gặp được ta dù các con có đến.”

Vào ngày 9 tháng giêng, Huyền Trang nói với các sư tăng trong chùa: “Ta sắp viên tịch. Sau khi ta chết, hãy an tang thi thể ta ở một nơi an tĩnh gần chùa.” Sau khi nói xong, ông nằm xuống và khép mắt lại. Ông thấy một bông hoa sen lớn và một hình ảnh lớn của ông. Ông đã tỉnh giác ở thời điểm ông nhập vào niết bàn. Huyền Trang tập hợp tất cả các sư tăng trong chùa và nói lời từ biệt họ một lần nữa. Ông cũng nhớ lại vị Hoàng Đế và sau đó niệm thầm tên của Di Lặc.

Vào ngày mồng 4 tháng 2, Huyền Trang một tay đặt trên đầu, nằm yên bất động. Tăng sư hỏi: “Tư thế này là gì?” Huyền Trang đáp: “Đừng hỏi. Sẽ can nhiễu đến chính niệm của ta.” Vào lúc nửa đêm ngày mồng 5, một vài đệ tử hỏi: “Thầy có chắc sẽ đi về thế giới của phật Di Lặc?” Huyền Trang trả lời: “Chắc chắn.” Sau đó ông ngừng thở. Hai tháng sau khi Huyền Trang mất, màu sắc và vẻ ngoài của thi thể ông vẫn giống như là khi ông còn sống.

Thi thể Huyền Trang được sơ táng trong quan tài bạch lộc. Về sau, Hoàng Đế hạ chiếu cải táng thi thể Huyền Trạng ở Phiền Xuyên. Khi thi thể ông được đưa ra khỏi lòng đất, thân thể vẫn y nguyên màu sắc vẻ ngoài như khi ông còn sống. Đám đông xem nó là một cảnh tượng kỳ lạ và cảm thấy rằng Huyền Trang đích thị là một vị tăng siêu phàm và đã đắc Đạo.

Huyền Trang đã bất chấp sinh tử, vượt qua muôn vàn khó khăn để tới Thiên Trúc thỉnh kinh Phật, và như thế đã làm rạng rở thêm nền văn hóa bán thần Trung Hoa. Những di tích văn hóa ông để lại về sau đã viết lên những trang huy hoàng trong lịch sử văn minh Trung Hoa.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/11/22/41056.html
http://www.pureinsight.org/node/4331

The post Chuyện cổ Phật gia: Sau khi Huyền Trang thỉnh kinh trở về first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-sau-khi-huyen-trang-thinh-kinh-tro-ve.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đường Tăng thực trong lịch sửhttps://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-duong-tang-thuc-su-trong-lich-su.htmlhttps://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-duong-tang-thuc-su-trong-lich-su.html#respondSun, 13 Sep 2009 20:32:27 +0000https://chanhkien.org/?p=2801Tác giả: Trần Ý [Chanhkien.org] “Tây Du Ký” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học cổ điển Trung Hoa. Trong tác phẩm này, Đường Tăng dẫn ba đồ đệ tới Tây Thiên và đạt được viên mãn sau khi kinh qua rất nhiều khó khăn và thử thách. Một số […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Đường Tăng thực trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trần Ý

[Chanhkien.org] “Tây Du Ký” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học cổ điển Trung Hoa. Trong tác phẩm này, Đường Tăng dẫn ba đồ đệ tới Tây Thiên và đạt được viên mãn sau khi kinh qua rất nhiều khó khăn và thử thách. Một số người coi nó chỉ là tiểu thuyết hư cấu. Trong lịch sử, có một vị tăng sư đời Đường đã mạo hiểm cuộc sống và du hành hàng chục nghìn dặm đường từ Trung Quốc tới Ấn Độ để mang kinh phật về Trung Thổ. Hành trình ông đã đi cũng là quá trình tu luyện của một người tu, cuối cùng đã có thể vượt ra khỏi sinh tử.

1. Trở thành một Độ Tăng ở tuổi 13

Đường Tăng, tên hiệu là Đường Tam Tạng, tên tục là Trần Danh Vĩ, là người huyện Huyền Nhân, Tỉnh Hà Nam. Hầu hết các tài liệu ghi chép rằng ông sinh vào năm 600 sau công nguyên (C.N), dưới thời Tùy Văn Đế, cũng có thuyết cho rằng ông sinh năm 602 hoặc 596 sau C.N. Ông viên tịch vào năm 664 sau C.N. Về sau xuất gia lấy pháp danh là Huyền Trang, vì vậy ông cũng được gọi là Pháp Sư Huyền Trang.

Phụ thân của Trần Vĩ là người tận tâm với nho học và kinh thuật. Trong gia đình có bốn người con trai. Người anh trai thứ hai của Trần Vĩ cũng xuất gia từ nhỏ. Ông lấy pháp danh là Trường Tiệp và tu tại chùa Dương Tự tại Lạc Dương. Trần Vĩ là con út trong gia đình. Từ nhỏ đã thông minh, sáng dạ, tướng mạo phi phàm. Lên 8 tuổi đã bắt đầu theo phụ thân học tập. Trần Vĩ chuyên cần học hỏi không ngừng nghỉ. Một lần, phụ thân kể với chàng câu chuyện về Khổng Dung đứng dậy khỏi chỗ ngồi để thể hiện sự kính trọng những bậc lão niên. Ngay khi Trần Vĩ nghe được câu chuyện, cũng lập tức đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Phụ thân hỏi tại sao. Chàng trả lời, “Khổng Dung đã rời khỏi chỗ ngồi để thể hiện sự kính trọng với người nhiều tuổi hơn. Nay phụ thân đã giảng giải cho con. Làm sao con có thể ngồi?”. Người cha rất ngợi khen. Thêm vào đó, Trần Vĩ khi còn thơ ấu có tố chất đặc biệt, ông không chơi với những đứa trẻ nghịch ngợm và không nghe những tà ngôn mị ngữ, thường cùng nhị huynh Trường Tiệp học tập kinh điển Phật giáo.

Trong thời đại nhà Tùy và nhà Đường, phật giáo rất thịnh hành. Triều đình thiết lập một chế độ thi cử nghiêm khắc để tuyển lựa những người muốn xuất gia và tu luyện các các chùa. Người phàm muốn xuất gia học phật cần phải tham dự vào các kì thi được tổ chức bởi triều đình. Chỉ những người vượt qua được các kỳ thi mới được chấp nhận như là các vị tăng sư và được xưng là “Độ Tăng” (chữ “Độ” trong từ “Cứu Độ”). Vào năm thứ 10 triều đại Tùy Dương Đế (614 sau C.N) triều đình bố cáo tìm kiếm 10 Độ Tăng. Lúc đó, Trần Vĩ mới chỉ 13 tuổi và chưa đủ tuổi để trở thành Độ Tăng. Chàng không được phép thậm chí đi vào khu vực thi (khảo trường). Chàng rất thất vọng. Chàng đi xung quanh khảo trường và chẳng muốn dời. Chủ khảo là vị đại quan tên Trịnh Thiện Quả, cũng là một tín đồ phật giáo. Khi nghe thấy Trần Vĩ, ông gọi chàng vào nói chuyện. Trịnh Thiện Quả cảm thấy Trần Vĩ là hiền lành, cao quý, am hiểu văn chương và khác xa với người thường mặc dù còn rất ít tuổi. Trịnh Thiện Quả hỏi chàng, “Tại sao muốn trở thành tăng sư?”. Chàng đáp, “Chí nguyện của tôi là trở thành Như Lai trong tương lai xa và làm rạng danh Phật Pháp trong ngắn hạn.” Mặc dù chàng còn trẻ, nhưng khẩu khí thực sự rất lớn và làm cho vị chủ khảo kinh ngạc trong một lúc lâu. Trịnh Thiện Quả đã phá cách và cho phép Trần Vĩ trở thành tăng sư. Sau này, Trịnh thường nói với những người khác, “Phong trúc nan đắc. Nếu người trẻ tuổi này được phép xuất gia, anh ta sẽ là một phật môn đại khí!”.

2. Bất chấp sinh tử đi thỉnh kinh Phật

Sau khi trở thành tăng sư, Pháp sư Huyền Trang dành thời gian nghiên cứu kinh Phật và thăm các chùa khác nhau. Ông cảm thấy rằng những gì nghe được trong các bài giảng khác nhau ở nhiều nơi năm này qua năm khác là bất nhất, các trường phái khác nhau, các nhánh khác nhau đưa ra những giải thích khác nhau cho cùng một câu hỏi. Thực tế, sự khác biệt đến mức gay gắt. Ông cảm thấy rằng rất khó để điều chỉnh những sự khác biệt này và quyết định sẽ du hành tới Ấn độ để mang về các bản kinh nguyên gốc.

Trong những năm đầu dưới thời vua Đường Thái Tông (627 sau C.N), Huyền Trang đã quyết định sẽ du hành tới Ấn độ để mang về các bản kinh nguyên gốc. Nhưng lúc đó, nhà Đường vừa mới dựng lập. Khu vực biên giới đang ở trong tình trạng hỗn loạn, việc xuất quốc là nghiêm cấm. Ông đã gửi biểu chính thức xin đi tới Ấn độ hai lần. Nhưng yêu cầu của ông đều bị từ chối. Ông không còn sự lựa chọn nào khác là phải bí mật rời khỏi đất nước.

Nạn đói xảy ra. Triều đình cho phép người dân rời bỏ nhà cửa để tìm việc ở khắp nơi. Huyền Trang tận dụng cơ hội để rời kinh đô Trường An và du hành về phía tây. Ông vượt qua thành Tần Châu, Lan Châu và tới thị trấn biên giới Lương Châu. Ở đó ông gặp một người Mông Cổ tên là Thạch Bàn Đà đã dẫn đường cho ông. Ngày nghỉ đêm đi, xuất Ngọc Môn quan. Sau khi ra khỏi Ngọc Môn quan, Thạch Bàn Đà không thể chịu đựng những khó khăn của chuyến du hành xa xôi cách trở thêm nữa và khăng khăng đòi bỏ cuộc. Anh ta chỉ ra một vài thành lũy có lính canh ở biên giới và khuyên Huyền Trang nên cẩn thận.

Ngay sau đó, Huyền Trang bị một lính canh bắt. Ông đã bị giam giữ và tra khảo. Người lính cũng biết sự tình của đồ môn phật giáo. Khi này anh đã nghe được chí nguyện của Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh, ý chí kiên định của ông, nên đã thả ông ra. Huyền Trang đi bộ ngày đêm không nghỉ. Ông cứ thẳng bước đi ba ngày ba đêm không nghỉ vậy mà vẫn không ra khỏi được sa mạc rộng 400 km.

Ông bắt đầu kiệt sức và mê man bất tỉnh vì khát. Ông bị đánh thức bởi cơn gió lạnh và tiếp tục tiến về phía trước. Thật may mắn, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Một vùng đất xanh hiện ra giữa sa mạc hoang vắng. Huyền Trang uống nước từ một con suối và được cứu thoát. Thật khó mà dùng từ ngữ để mô tả những khó khăn mà ông phải chịu đựng. Trong một đoạn Tây Du Ký đã mô tả rất đúng, “Trên trời không một cánh chim, Dưới đất không một muông thú. Không có cỏ, cây nào có thể sống nổi, không có bất cứ dấu vết nào của sự sống xung quanh. Lúc thì, cát và đá bay mù mịt, lúc thì mưa bão. Không nước, không thức ăn. Lúc tỉnh lúc mê. Lúc thì thấy xương cốt chết khô, di tích chiến trường. Lúc thì thấy những cảnh hung ác, hình tượng ma quỷ.” Sau khi đi qua sa mạc, Huyền Trang tới vương quốc Cao Xương. Quốc vương Cao Xương – Khúc Văn Thái – cũng là một tín đồ phật giáo. Khi nghe về Huyền Trang, ông đã cử sứ giả ra nghênh đón. Gặp được Huyền Trang, nhà vua đã bằng mọi cách thể hiện sự kính trọng và mến mộ và tổ chức nghi lễ trịnh trọng kết nghĩa huynh đệ. Nhà vua cố gắng ép buộc Huyền Trang ở lại nước Cao Xương, và uy hiếp, “Nếu ông khăng khăng không ở lại, sẽ gửi trả ông về Trung Thổ.” Huyền Trang tuyệt thực phản đối và từ chối ở lại Cao Xương. Cuối cùng, ý chí kiên định của ông đã làm nhà vua cảm động. Nhà vua đã đồng ý để ông ra đi. Vua gửi 20-30 lính theo ông và cấp cho ông rất nhiều ngựa và những đồ dùng giá trị. Thêm vào đó, vua còn viết một bức thư riêng tới các vị vua láng giềng, đề nghị đối xử với Huyền Trang thật tử tế.

Huyền Trang tiếp tục cuộc du hành về phía tây dọc theo phía Bắc núi Thiên Sơn. Ông vượt qua cao nguyên Tây Vực, xuyên qua Afghanistan, và tới vương quốc Jiashiminou (ngày nay là Kashmir). Đường đi càng về sau càng ngày càng khó khăn hơn. Ông đã leo qua những đỉnh núi tuyết phủ quanh năm cũng như những sa mạc hoang vu rộng lớn. Ông dắt ngựa trắng và đi bộ dọc theo những con đường nhỏ hẹp trên các đỉnh núi tuyết. Nếu chẳng may bước một bước quá dài cũng có thể rơi xuống vực thẳm. Có một nhóm thương nhân đi cùng với Huyền Trang. Theo thời gian, nhóm thương nhân hoặc chết vì lạnh, hoặc rơi xuống vực thẳm. Trong nhật ký du hành của mình, ông viết, “Tôi thậm chí không dám nhìn xuống bởi có vô số những thây người chết lạnh đông cứng ở phía dưới.” Trong những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc hành trình, Huyền Trang đã gặp không biết bao nhiêu nguy hiểm. Ông đã phải mất tới 7 ngày 7 đêm để leo qua đỉnh núi và đi vào tới lãnh thổ Ấn độ.

3. Được Bồ Tát điểm hóa và cao tăng truyền thụ

Sau hai năm du hành khổ cực, Huyền Trang đã đi qua 110 nước trong hành trình tới Ấn Độ. Thậm chí ông đã tới biên giới phía tây bắc của Ấn Độ trong năm thứ ba thời Trinh Quán. Ông đã du hành tới nhiều thành phố Ấn Độ của nước Jiashimiluo và Jiantuluo và nghiên cứu kinh điển Phật giáo tiểu thừa (Hinayana) từ các thầy tu địa phương. Để hiểu rõ hơn lý thuyết Phật giáo, ông học triết học Phệ Đà từ các học giả Bà la môn. Ông cũng tập trung vào học chữ Phạn để có thể dùng nó như công cụ để nghiên cứu các sách cổ phật giáo bằng tiếng Phạn. Ông đã sống ở khu vực đó từ 2 đến 3 năm. Sau đó ông du hành tới miền trung Ấn. Khi Huyền Trang sắp vượt qua sông Hằng, ông gặp một toán cướp. Khi chúng nhìn thấy ông tướng mạo đẹp đẽ, phi phàm, chúng muốn giết ông để tế thần. Ở thời khắc nguy hiểm, bỗng nhiên một cơn lốc mạnh thổi đến, cùng với sấm và chớp. Bầu trời trở nên đen kịt với cát bay mù mịt và đất đá cuốn trên mặt đất. Những tên cướp sợ hãi đến mức khuôn mặt chúng trở nên xám ngắt. Chúng không dám làm bất cứ điều gì nữa bởi vì nghĩ rằng chúng ta làm các vị thần giận dữ. Chúng hỏi Huyền Trang là ai. Khi chúng biết rằng ông là một tăng sư từ Trung Thổ, chúng quỳ lậy xuống mặt đất sám hối, hứa từ này sẽ cải tà quy chính. Tin tức lan rộng làm Huyền Trang nức tiếng gần xa.

Chùa Na Lạn Đà là một ngôi chùa trứ danh nhất ở Trung Ấn. Nó là nơi phủ học Phật giáo tối cao trên toàn Ấn độ. Ba ngàn tăng nhân sống trong chùa này. Trong số họ có những vị cao Tăng và học giả uyên thâm. Khi Huyền Trang nhập tự, bốn vị cao tăng của chùa đã ra nghênh tiếp ông. Hơn hai trăm tăng ni và tín đồ phật tử cũng đứng thành vòng tròn bên ngoài chào đón ông.

Huyền Trang trở thành đệ tử của trụ trì Giới Hiền. Trụ trì khoảng một trăm tuổi là lãnh đạo Phật giáo ở Ấn độ. Ông được nhà vua Ân độ vô cùng kính trọng. Mặc dù trí huệ cao thâm, ông cũng bị đau yếu vì những bệnh lạ. Gần đây ông cảm thấy đau nhiều hơn và muốn viên tịch. Một đêm, ba bồ tát xuất hiện trong giấc mơ của ông. Một người là Văn Thù Bồ Tát trong sắc vàng, một người là Quan Âm Bồ Tát trong sắc bạc, và người thứ ba là Phổ Hiền Bồ Tát trong sắc pha lê. Phổ Hiền Bồ Tát nói với ông, “Con là vị vua ở đất này trong tiền kiếp. Vì con đã sát hại rất nhiều sinh mệnh, nên con phải chịu đau đớn trong kiếp này để trả nghiệp. Dù cho nó đau đớn đến mấy, con cũng đừng mong muốn chết. Ba năm kể từ lúc này, một vị tăng từ Trung Thổ sẽ tới Ấn độ để tìm Pháp. Con hãy dạy những gì con biết để người đó có thể phổ truyền trên mảnh đất Trung Thổ. Bằng cách này, nghiệp chướng sẽ bị tiêu trừ và những đau đớn của con sẽ biến mất.” Sau giấc mơ, Giới Hiền mong mỏi ngày Đường Tăng xuất hiện. Khi Huyền Trang cuối cùng đã đến, Giới Hiền nhận ra rằng giấc mơ của ông đã thành hiện thực. Ông vô cùng mừng rỡ và truyền cho Huyền Trang mọi điều ông biết. Ông cũng sắp xếp cho Huyền Trang đi du hành bên ngoài chùa và học hỏi những những vị thầy khác những năm sau đó.

Huyền Trang đã ở Ấn Độ tổng cộng 17 năm, gồm cả 5 năm ở chùa Na Lạn Đà, nơi rất nhiều học giả Phật giáo tập trung vào thời đó. Ông muốn hành hương về Trung Thổ để phổ truyền những gì ông đã tiếp thụ. Vào tháng một năm thứ 19 thời vua Trinh Quán (645 sau C.N), cuối cùng ông đã về tới Trường An sau một cuộc du hành dài. Hàng trăm quan lại triều đình với hơn một vạn thường dân đã ra đón chào ông ở Trường An và tổ chức đại lễ chưa từng có trước đây.

Cuộc du hành diệu kỳ của Huyền Trang đã khiến cho vua Đường Thái Tông vô cùng trọng thị. Hoàng Đế hội kiến với Đường Tăng ở Lạc Dương, và đề nghị nhà sư ghi lại những việc đã tiếp thụ được trong cuộc hành trình để người khác có thể học hỏi kinh nghiệm. Huyền Trang đã viết ra và hiện nay còn được lưu tồn đó chính là cuốn “Đại đường Tam Tạng Tây Vực ký”. Toàn bộ có 12 quyển ghi lại tất cả những sự kiện ở 110 nước mà ông đã đi qua và thêm 28 nước và vùng lãnh thổ ông nghe đến.

Bắt đầu từ năm thứ 19 đời Trịnh Quán (645 sau C.N), Huyền Trang đã tập trung sức lực vào việc dịch kinh phật. Trong 19 năm tiếp theo, ông đã dịch trên 1000 cuốn kinh điển. Đồng thời, ông cũng dịch những cuốn triết học Trung Quốc nổi tiếng như “Đao Đức Kinh” của Lão Tử thành tiếng Phạn và cho phép nó phổ truyền tại Ấn Độ.

Một năm sau, ông hoàn thành công việc dịch thuật, và viên tịch vào tháng hai năm 664 sau C.N tại chùa Ngọc Hoa ở Đồng Xuyên. Di thể phụng chỉ Hoàng Đế chuyển về Trường An an táng. Vào ngày an táng, hàng triệu người nội trong vòng 500 dặm (khoảng 250km) Kinh thành đến để thể hiện niềm kính ngưỡng. Ba nghìn người đã túc trực ở mộ của ông để tỏ lòng tôn kính ông.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2004/8/12/28629.html
http://www.pureinsight.org/node/4142

The post Chuyện cổ Phật gia: Đường Tăng thực trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/09/chuyen-co-phat-gia-duong-tang-thuc-su-trong-lich-su.html/feed0
Nhà sư Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh Phậthttps://chanhkien.org/2009/08/nha-su-duong-huyen-trang-di-thinh-kinh-phat.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/nha-su-duong-huyen-trang-di-thinh-kinh-phat.html#respondTue, 11 Aug 2009 18:21:11 +0000https://chanhkien.org/?p=2464Tác giả: Biên dịch bởi Âu Dương Tử Vân [Chanhkien.org] Nhà sư Huyền Trang là người huyện Huyền Nhân, dòng họ Trần. Từ thủa nhỏ đã thông minh, trí tuệ, tu tâm tích đức. Vào những năm đầu triều đại Hoàng đế Đường Cao Tổ, nhà sư đã phát nguyện đi Tây Trúc (ngày nay […]

The post Nhà sư Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Biên dịch bởi Âu Dương Tử Vân

[Chanhkien.org] Nhà sư Huyền Trang là người huyện Huyền Nhân, dòng họ Trần. Từ thủa nhỏ đã thông minh, trí tuệ, tu tâm tích đức. Vào những năm đầu triều đại Hoàng đế Đường Cao Tổ, nhà sư đã phát nguyện đi Tây Trúc (ngày nay là Ấn Độ) thỉnh kinh Phật. Một lần khi đi qua vương quốc Jibin, đường đi hiểm trở, hổ báo rình rập. Huyền Trang không biết rằng tất cả đó chỉ là những khảo nghiệm dành cho ông. Nên ông chỉ biết khóa cửa và ngồi tĩnh tọa trước cửa. Vào nửa đêm, nhà sư mở cửa rồi rất ngạc nhiên, nhìn thấy một lão tăng đang ngồi trên giường. Không ai biết làm thế nào vị sư vào được trong phòng. Đường Tăng cẩn thận thi lễ bái kiến lão tăng và xin chỉ cho cách vượt qua khu vực nguy hiểm phía trước để tiếp tục con đường thỉnh kinh. Lão tăng rất cảm phục trước tấm lòng thành của Đường Tăng, và truyền cho nhà sư một quyển trong bộ “Đa Tâm Kinh” và bảo Đường Tăng hãy tụng kinh. Tụng kinh hoàn tất, tất cả núi đá biến thành bình địa, đường đi khai mở, hổ báo đều lẩn trốn, ma quỷ cũng biến mất không còn tung tích. Đường Tam Tạng bình an tiến bước về nước Tây Trúc, thỉnh được hơn sáu trăm bộ kinh. Ông đã tụng thuộc bộ kinh “Đa Tâm Kinh”.

Trước khi Đường Tăng xuất khởi Tây Trúc, ông đã đến chỗ cây Tùng cổ thụ ở chùa Linh Nham. Đứng ở sân chùa, ông vuốt ve nhành cây, và nói: “Ta sẽ lên đường sang Tây Trúc thỉnh chân kinh, vì vậy con hãy luôn hướng về phía tây mà sinh trưởng. Khi ta lấy được chân kinh quay trở về, con hãy quay đầu và hướng về phía đông, để các đệ tử của ta biết rằng ta đang trên đường trở về.” Sau khi Đường Tăng lên đường, cành cây Tùng đã theo đúng hướng tây mà sinh trưởng, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Rồi một năm kia, cành Tùng đột nhiên quay về phía đông, các đệ tử của Đường Tăng vui mừng reo “Sư phụ sắp trở về”. Các đệ tử vội lên đường để đi đón Đường Tăng. Nhà sư đã thực sự trở về từ Phật quốc, mang về theo chân kinh mong chờ. Người đời sau phong cành cây Tùng này là ma đính tùng.

(Nguồn: “Thái Bình Quảng Ký”)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/12/6/19534.html
http://www.pureinsight.org/node/1349

The post Nhà sư Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/nha-su-duong-huyen-trang-di-thinh-kinh-phat.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Đàm Duhttps://chanhkien.org/2007/08/chuyen-co-phat-gia-dam-du.htmlhttps://chanhkien.org/2007/08/chuyen-co-phat-gia-dam-du.html#respondMon, 06 Aug 2007 21:27:00 +0000[Chanhkien.org] Trúc Đàm Du, còn có tên Vân Pháp Du, sinh quán tại Đôn Hoàng. Ông đã trở thành một thầy tu khi còn là một đứa trẻ và chăm học Thiền tông. Sau đó, ông lang thang đến núi Thạch Thành và khất thực trong quá trình tu Phật. Đàm Du một lần xin […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Đàm Du first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Trúc Đàm Du, còn có tên Vân Pháp Du, sinh quán tại Đôn Hoàng. Ông đã trở thành một thầy tu khi còn là một đứa trẻ và chăm học Thiền tông. Sau đó, ông lang thang đến núi Thạch Thành và khất thực trong quá trình tu Phật. Đàm Du một lần xin thức ăn từ một gia đình làm thuốc chuột. Khi ông ta đang ăn, một con rết đột nhiên nhảy ra khỏi thức ăn, nhưng ông vẫn không ngạc nhiên và tiếp tục ăn. Sau đó, Đàm Du đã đến một nhà đá để tu luyện tại Xích Thành Sơn (Thành Núi Đỏ) tại Thủy Phong. Có hơn 10 con hổ đã ngồi trước mặt ông ta trong khi ông ta đang đọc kinh Phật như mọi khi. Một trong những con hổ này không thể tiếp tục chăm chú nhìn ông ta và đã ngủ đi. Đàm Du đã rờ vào đầu con hổ như ý của ông ta và bảo nó tại sao không lắng nghe kinh. Rồi từng con cọp đã rời đi. Tuy nhiên, một con mãng xà khổng lồ hiện ra và lượn quanh Đàm Du. Sau nữa ngày, con mãng xà đã bỏ đi.

Vào ngày thứ hai, một vật linh đã đến và nói với Đàm Du: “Vì sư phụ đến ở trong núi, tôi sẽ rời bỏ nơi của tôi.”

Đàm Du đã trả lời: “Ta đến núi này và chỉ choán một khoảng nhỏ. Tại sao ngươi không ở với ta?”

Vật linh nói: “Tôi thật sự không quan tâm, tuy nhiên những bộ hạ của tôi chưa từng tu Phật vì thế họ sẽ có lẽ gây khó khăn và tạo phiền phức cho ngài. Bên cạnh đó, các vật linh khác với con người, tôi sẽ phải rời đi.” Đàm Du đã hỏi vật linh là loại gì, anh ta nói anh ta là con trai của Hoàng Đế Xia và đã sống ở đấy hơn 2 ngàn năm. Anh ta di chuyển đến Hàn Thạch Sơn (Núi Đá Lạnh) để ở cùng với chú anh ta. Khi vật linh ra đi, anh ta cho Đàm Du 3 bó nhang, múa thanh kiếm của mình, và rồi anh ta cùng những bộ hạ đã biến mất trên bầu trời.

Xích Thành Sơn (Thành Núi Đỏ) được nối với Thiên Thai và Tứ Minh Lưỡng Sơn. Núi Thiên Thai có những vách đá dựng cao. Được biết rằng có một tòa nhà lộng lẫy trong núi và chỉ vài người mà đã đạt cao trong tu Phật có thể vào đó. Tòa nhà ở phía bên kia, cần một chiếc cầu băng qua. Có một tảng đá chặn và rêu bám trơn trượt, vì thế không ai có thể băng qua cây cầu này. Ngày nọ, Đàm Du đã quyết định thử. Khi ông vừa đến cầu, ông đã nghe một tiếng từ trên trời: “Mặc dù ngươi tin vào Phật, người vẫn không thể được nhận vào. Ngươi có thể quay lại sau đây 10 năm.” Đàm Du đã rút lui với sự thất vọng. Trên đường trở về, khi ông ta nghĩ ngơi trong nhà đá. Bầu trời trở nên mây mù và đã có tiếng khắp phòng, nhưng Đàm Du không cảm thấy sợ. Sáng hôm sau, một vật linh trong quần áo chơn đi vào và nói: “Đây là chỗ ở tầm thường của ta. Ta đã không có nhà đêm qua. Tôi thật xin lỗi ông đã bị quấy rầy.” Ông ta mời Đàm Du ở lại vài ngày và Đàm Du đã ở lại.

Vì không thể vượt qua cầu đá, Đàm Du đã cảm thấy thất vọng. Một ngày nọ, ông đã đi lại cầu đá lần nữa sau khi nhịn đói. Tảng đá chắn lần này mở ra và Đàm Du đã băng qua cầu và thấy tòa nhà và các thần linh tuyệt đẹp. Đàm Du đã ở đó và dùng bữa với họ. Sau bữa ăn tối, các thần linh bảo Đàm Du: “10 năm sau ngươi sẽ đến đây một cách tự nhiên, nhưng giờ người không thể ở lại đây.” Rồi Đàm Du quay lại và tảng đá chắn trở lại bình thường.

Vào thời Tấn Thái Nguyên (công nguyên 376-396), một yêu tinh xuất hiện. Hoàng đế ra lệnh tất cả các thầy tu chuyên cần tu luyện trong tu Phật, hy vọng thảm họa biến mất. Đàm Du đã thành khẩn niệm Phật. Vào buổi sáng thứ 6, một người trai trẻ trong bộ đồ màu đen đã đến nói: “Xin lỗi gây phiền phức đến sư phụ”. Từ đêm đó, ngôi sao yêu tinh không xuất hiện nữa.

Trong năm cuối của Thái Hòa, Đàm Du đã chết trong phòng của ông ấy trên núi. Toàn thể người ông ta màu xanh. Sau đó vài người đến leo núi và thấy rằng xác thân của ông ta đã không bị phân rã.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/6/23/42952.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4724

The post Chuyện cổ Phật gia: Đàm Du first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/08/chuyen-co-phat-gia-dam-du.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Vu Pháp Lanhttps://chanhkien.org/2007/05/chuyen-co-phat-gia-vu-phap-lan.htmlhttps://chanhkien.org/2007/05/chuyen-co-phat-gia-vu-phap-lan.html#respondWed, 09 May 2007 01:20:00 +0000Tác giả: Mộc Mộc [Chanhkien.org] Vu Pháp Lan được sinh tại Cao Dương và đã có những đức tính rất độc đáo từ lúc còn trẻ thơ. Pháp Lan đã trở thành một thầy tu khi anh ta 15 tuổi. Anh ta đã cũng rất siêng năng, anh đã học kinh Phật cả ngày và […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Vu Pháp Lan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Vu Pháp Lan được sinh tại Cao Dương và đã có những đức tính rất độc đáo từ lúc còn trẻ thơ. Pháp Lan đã trở thành một thầy tu khi anh ta 15 tuổi. Anh ta đã cũng rất siêng năng, anh đã học kinh Phật cả ngày và đêm. Bất cứ khi nào có một cuộc đàm luận về Phật Pháp, Pháp Lan cũng luôn luôn là một học sinh tích cực nhất.

Theo tự nhiên, Pháp Lan rất thích sống bên cạnh suối và các núi đá, đặc biệt vào mùa đông tuyết lạnh băng giá. Một lần nọ, một con cọp đi đến nơi anh ta đang sống. Pháp Lan đã cho thấy mình không sợ và giữ được sự bình tĩnh, vì thế con cọp trở nên ngoan ngoãn và bỏ đi. Các thần thánh của núi cũng thường đến để nhận Pháp, vì thế họ cũng ngộ bởi đức hạnh của Pháp Lan.

Sau đó, Pháp Lan biết rằng nước non Diêm Huyện ở Giang Đông rất đẹp. Anh ta đã đi bộ rất xa đến đó và trú ngụ tại chân của núi Thạch Thành tức nay là chùa Nguyên Hoa ấy vậy. Khi Pháp Lan ở tại Ở Diệm Huyện ít lâu, một lần ông đã thở dài:“Mặc dù Phật Pháp rất phổ biến, kinh thì không đủ. Tôi thà chết để biết được phương pháp dạy hoàn hảo. ”Vì thế, Pháp Lan đã quyết định tìm đọc Phật Pháp thật sự ở miền Tây. Không may thay ông ta đã mắc bệnh khi ông ở tại Giao Châu và đã chết tại Tượng Lâm.

(Từ “Huyền thoại về những cao tăng”, tập 4)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/4/9/42894.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4505

The post Chuyện cổ Phật gia: Vu Pháp Lan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/05/chuyen-co-phat-gia-vu-phap-lan.html/feed0
Câu chuyện Phật gia: Đạt Mahttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-bo-de-dat-ma.htmlhttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-bo-de-dat-ma.html#respondMon, 30 Apr 2007 18:20:00 +0000Tác giả: Mộc Mộc [ChanhKien.org] Bồ Đề Đạt Ma, sinh ra trong gia đình đạo Bà La Môn đến từ miền Nam Ấn Độ, ông là người trí huệ tinh thông, ngộ tính cao và chuyên chú vào Đại thừa Phật giáo. Vào những năm đầu niên hiệu Phổ Thông thời vua Lương Vũ Đế […]

The post Câu chuyện Phật gia: Đạt Ma first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[ChanhKien.org]

Bồ Đề Đạt Ma, sinh ra trong gia đình đạo Bà La Môn đến từ miền Nam Ấn Độ, ông là người trí huệ tinh thông, ngộ tính cao và chuyên chú vào Đại thừa Phật giáo.

Vào những năm đầu niên hiệu Phổ Thông thời vua Lương Vũ Đế ông đến Quảng Châu, Vũ Đế sai sứ đến đón ông tại Kim Lăng (nay là Nam Kinh). Vũ Đế đích thân hỏi ông rằng: “Từ khi lên ngôi đến nay, ta đã xây dựng không biết bao nhiêu là chùa, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, vậy có công đức gì không?”, Bồ đề Đạt Ma trả lời: “Không có công đức gì”. Vũ Đế hỏi ông ấy tại sao, Đạt Ma nói: “Đây là vì có nhân hữu lậu ở đây. Mặc dù nhìn thấy thì như là có công đức nhưng thực sự lại không phải như thế”. Vũ Đế lại hỏi: “Vậy như thế nào mới được tính là có công đức thực sự?” Đạt Ma nói: “Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn, thể phải được trống không vắng lặng, và công đức như vậy không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, độ tăng) mà cầu được”. Vũ Đế lại hỏi: “Ý nghĩa tối cao của Thánh đế là thế nào?” Đạt Ma trả lời “Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là Thánh”. Vũ Đế không hiểu được huyền cơ trong đó.

Sau đó Đạt Ma rời khỏi Lương, bẻ một cọng lau vượt sông, đi đến biên giới Bắc Ngụy. Ông đến Lạc Dương, và tu tập ở chùa Thiếu Lâm Tự tại núi Tung Sơn, quay mặt vào vách chín năm. Sau khi công thành viên tịch, ông được chôn cất ở núi Hùng Nhĩ.

Tống Vân của triều đại Bắc Ngụy phụng mệnh đi sứ từ Tây vực trở về, đã gặp Đạt Ma ở dãy núi Thông Lĩnh (Pamir), nhìn thấy ông đi một mình, trong tay cầm một chiếc giầy. Tống Vân hỏi ông đi đâu, Đạt Ma trả lời là đi Tây Thiên, rồi nói với Tống Vân: “Quân vương của ông đã chán thế gian này rồi”. Tống Vân không hiểu nói vậy là có ý gì. Đợi đến lúc đến kinh thành, mới biết Minh đế đã băng hà, Hiếu Trang đã lên ngôi. Tống Vân kể cho hoàng đế về cuộc gặp gỡ của ông với Bồ Đề Đạt Ma trên đường, hoàng đế ra lệnh mở quan tài và phát hiện bên trong chỉ có một chiếc giày mà thôi.

(Thần tăng truyền kỳ – Quyển thứ tư)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/43185

The post Câu chuyện Phật gia: Đạt Ma first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-bo-de-dat-ma.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Huệ Viễnhttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-hue-vien.htmlhttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-hue-vien.html#respondTue, 24 Apr 2007 17:44:00 +0000Tác giả: Thiên Hinh [Chanhkien.org] Thích Huệ Viễn đến từ Nhạn Môn của Lâu Phiền. Ông rất thích đọc sách từ lúc còn rất bé. Khi ông được mười ba tuổi thường đi theo chú để học tại Từ Xương và Lạc Dương. Ông thành thạo về sáu cuốn cổ thi và đặc biệt giỏi […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Huệ Viễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Hinh

[Chanhkien.org] Thích Huệ Viễn đến từ Nhạn Môn của Lâu Phiền. Ông rất thích đọc sách từ lúc còn rất bé. Khi ông được mười ba tuổi thường đi theo chú để học tại Từ Xương và Lạc Dương. Ông thành thạo về sáu cuốn cổ thi và đặc biệt giỏi về thuyết của Đạo giáo. Người ta rất khâm phục những thành tích của ông. Khi ông hai mươi mốt tuổi, ông muốn đến vùng phía đông sống trong nơi hẻo lánh với Phạm Tuyên Tử là một trong những nhân vật cao cấp của thời đại nhà Tấn. Bất hạnh thay, vừa khi tướng Thạch Hồ bị giết và vùng này trở nên biến loạn. Những con đường đến vùng phía nam của đất nước không thể đi được nên ông phải kiên nhẫn đợi chờ. Khi ông biết được có một vị sư xuất sắc tên là Thích Đạo An đang truyền Phật Pháp ở núi Thái Hàng, ông liền đến nghe và trở thành sáng tỏ. Cùng với em trai là Huệ Trì cả hai đều trở thành tăng sư.

Huệ Viễn tu luyện rất tinh tấn sau khi trở thành một vị sư. Đạo An tán dương Huệ Viễn: “Chúng ta cần nhờ Huệ Viễn truyền rộng ra con đường tu luyện tốt trong vùng phía Đông.”

Vì sự hỗn loạn của chiến tranh, Huệ Viễn tiếp tục di chuyển vòng quanh cùng với sư phụ Đạo An. Sau đó, họ đã tới Tương Dương, họ ở đó trong vòng mười lăm năm để truyền Pháp. Không lâu sau, Huệ Viễn và Hơn chục đồ đệ đi đến Kinh Châu sống trong chùa Thượng Minh. Sau đó họ quyết định đến núi La Phù. Nhưng khi họ đi ngang qua núi Lư Sơn, Huệ Viễn thấy vùng này rất yên tĩnh nên quyết định ở lại. Lúc bắt đầu, họ ở tu viện Long Tuyền, một nơi hơi xa nguồn nước. Huệ Viễn dùng cây gậy trúc đập vào đá và nói: “Nếu vùng này sẽ chấp nhận chúng ta ở lại, thì đất này hãy rỉ ra nước ngay đi.” Giọng nói cứng rắn của ông đã mở đất và nước phun lên và tạo thành một dòng suối nhỏ. Tu viện vì vậy được đặt tên là chùa Rồng Xuân. Sau đó, khi hạn hán, Huệ Viễn đến một cái ao niệm kinh của vua rồng của biển cả. Một lát sau, một con rồng khổng lồ nhảy trên bầu trời và trời bắt đầu mưa.

Trong thời gian tướng quân Đào Khản đang trấn thủ thành Quảng Châu, một vài ngư phủ nhìn thấy một tia sáng của trời trên biển. Nó trở thành bức ảnh của vua A Dục. Đào Khản có ảnh đó và gửi tới chùa Hàn Khê tại Vũ Xương. Tăng Trân, là người chủ trì chùa Hàn Khê, đã đến Hạ Khẩu và nằm mộng thấy chùa bị cháy và một con rồng chúa bao quanh nhà bảo vệ bức ảnh vua A Dục. Khi Tăng Trân thức giấc, ông vội vả trở về chùa thì ra ngôi chùa đã bị cháy ruội chỉ còn lại căn phòng để bức ảnh vua A Dục là vẫn nguyên vẹn. Sau đó khi Đào Khản chuyển thành một bức ảnh lớn để gửi đi. Ngay khi bức ảnh được mang lên thuyền, nó chìm ngay xuống nước. Sau khi Huệ Viễn xây chùa Đông Lâm, ông cầu nguyện một cách thành tâm vua A Dục đã xuất hiện.

Huệ Viễn tu luyện hơn ba mươi năm tại núi Lư Sơn để truyền Phật Pháp và không rời khỏi nơi đó. Ôngngười tìm ra môn phái Tịnh Độ tông.

Vào tháng tám, Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 12 của thời đại nhà Tấn, Huệ Viễn lìa trần hưởng thọ 83 tuổi.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4485

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/4/2/42954.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Huệ Viễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-hue-vien.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Kỳ Vựchttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-ky-vuc.htmlhttps://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-ky-vuc.html#respondTue, 24 Apr 2007 17:41:00 +0000Tác giả: Mộc Mộc [Chanhkien.org] Kỳ Vực Từ Thiên Trúc. Ông ta rất độc đáo và huyền bí, khó có thể biết một chút gì về ông ấy. Ông thường xuất hiện ở khu vực miền nam sông Hoàng Hà và các khu vực miền Tây Trung Quốc cổ xưa, nhưng không ai biết ông […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Kỳ Vực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Mộc Mộc

[Chanhkien.org] Kỳ Vực Từ Thiên Trúc. Ông ta rất độc đáo và huyền bí, khó có thể biết một chút gì về ông ấy. Ông thường xuất hiện ở khu vực miền nam sông Hoàng Hà và các khu vực miền Tây Trung Quốc cổ xưa, nhưng không ai biết ông ta ở đâu.

Ngày nọ, Kỳ Vực muốn qua sông tại khu vực Tương Dương (ngày nay là tỉnh Hồ Bắc). Người đưa đò thấy quần áo rách rưới nên khi dễ ông ta và từ chối không nhận ông. Khi đò ghé bến bên kia, mọi người sững sốt, vì thấy Kỳ Vực đã ở đó rồi. Đột nhiên, 2 con cọp xuất hiện. Nhưng ngay sau khi chúng thấy Kỳ Vực, chúng đã quịt tai vẫy đuôi. Kỳ Vực sờ lên đầu của con cọp, và chúng đã quay đầu rời đi nơi khác. Mọi người thấy thế liền bám theo chân người thầy tu huyền bí này và đã không rời đi.

Trong những năm cuối của vua Tấn Huệ (290-306) thuộc triều đại nhà Tấn (265-316), Kỳ Vực đến thành phố Lạc Dương để truyền Phật Pháp. Suốt trong những buổi thuyết giảng của ông với các thầy tu, ông đã kể cho họ vài điều về những cuộc đời trong quá khứ. Ví dụ, ông đã nói cuộc đời của Chi Pháp Uyên trước đây là một con cừu, và cuộc đời của Trúc Pháp Hưng trước đây là một con người. Khi nhìn thấy quốc vương của Lạc Dương, ông nói với vài người khác rằng, “Nó trông giống như cung điện của thiên đình Travastrimsas. (Thiên đình thứ hai). Chỉ có cung điện được tạo ra từ thiên nhiên, và người ta đã xây dựng nên quốc vương. Những người mà xây quốc vương này đã đến từ thiên đình Trayastrimsas và đã quay về sau khi họ xây xong. Họ đã đặt 1, 500 đồ vật dưới nóc nhà cao.” Vào lúc đó, thật sự đã có lời đồn rằng những người đàn ông xây quốc vương đã đặt các đồ vật dưới chóp đỉnh nóc nhà và đã bị giết chết sau khi xây xong.

Người cai trị vùng Hành Dương tỉnh Hồ Nam, Đằng Vĩnh Văn, đã trọ tại chùa Mãn Thuỷ tại Lạc Dương. Ngày nọ, chân của ông ta đột nhiên bị co giật mất điều khiển và ông ta không thể đi được. Kỳ Vực đến xem ông ta. Cầm một cái ly nước trong và niệm các câu thần chú, Kỳ Vực đã chấm một cành liễu vào ly và rẫy nước lên Đằng Vĩnh Văn. Sau khi ông ấy làm như vậy 3 lần, Đằng Vĩnh Văn đã có thể đi lại được như chưa hề xảy ra điều gì. Kỳ Vực bảo với ông ta nguyên nhân của bệnh lạ thường này là vì những hành động không thận trọng của ông ta. Đằng Vĩnh Văn đã rất hối tiếc về những việc làm của mình trong quá khứ. Một lác sau, trong khi đi bộ với Đằng Vĩnh Văn quanh chùa, Kỳ Vực thấy vài chục cây bị chết. Ông liền hỏi, “Chúng đã chết được bao lâu?” Đằng Vĩnh Văn trả lời, “Đã nhiều năm rồi.” Khi đó Kỳ Vực bắt đầu niệm thần chú lên cây. Trong chốc lát, những cành cây chết đã bắt đầu ngã màu xanh, mọc chồi và lá, và nở hoa. Mọi người quá đổi ngạc nhiên về những thần thông của ông ta.

Có một người đàn ông chết vì một căn bệnh rất lạ thường. Kỳ Vực đã đặt một cái bát lên trên bụng của bệnh nhân, che nó lại bằng một tấm vải trắng, và niệm thần chú. Một chập sau, trong phòng toàn mùi hôi, và người bệnh nhân đã nói, “Tôi sống trở lại.” Kỳ Vực lấy miếng khăn trắng ra. Người ta đã thấy cái bát chứa đầy chất bẩn như bùn, mà hôi ghê gớm. Người bệnh đã bình phục nhanh chóng ngay sau đó.

Do chiến tranh tại Lạc Dương, Kỳ Vực đã rời khỏi Ấn Độ. Vài trăm thầy tu đã mời ông cùng ăn cơm trưa trước khi đi. Hôm sau, 500 người đã dùng bữa trưa với Kỳ Vực tại nhà riêng của họ, và mỗi người đã nghĩ rằng Kỳ Vực chỉ đến nhà của mình thôi. Nhưng khi họ kể về chuyện đó với nhau, thì mới hiểu ra rằng những người đó chính là sự phân chia thân thể của Kỳ Vực.

Khi trở lại miền Tây, thì không ai biết Kỳ Vực ở đâu.

(Từ “Huyền thoại về các cao tăng”, chương I)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/3/27/42931.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4486

The post Chuyện cổ Phật gia: Kỳ Vực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/04/chuyen-co-phat-gia-ky-vuc.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Áo cà sa của Huệ Nănghttps://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-ao-ca-sa-cua-hue-nang.htmlhttps://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-ao-ca-sa-cua-hue-nang.html#respondTue, 16 Jan 2007 01:47:00 +0000Tác giả: Hoằng Nghị [ChanhKien.org] Trong lịch sử Trung Quốc có câu chuyện về một vị cao tăng khá truyền kỳ, ông ấy chính là Lục tổ Thiền Tông Huệ Năng. Huệ Năng sau khi dựa vào bốn câu kinh ngôn mà giác ngộ, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn quyết định đưa y bát của Thiền […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Áo cà sa của Huệ Năng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hoằng Nghị

[ChanhKien.org]

Trong lịch sử Trung Quốc có câu chuyện về một vị cao tăng khá truyền kỳ, ông ấy chính là Lục tổ Thiền Tông Huệ Năng. Huệ Năng sau khi dựa vào bốn câu kinh ngôn mà giác ngộ, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn quyết định đưa y bát của Thiền Tông truyền thừa cho ông ấy. Khi Hoằng Nhẫn lấy áo cà sa bằng vải bông, trịnh trọng nói với Huệ Năng: “Đây là bảo vật mà Sư tổ Đạt Ma mang về từ Thiên Trúc. Áo cà sa không phải là Phật Pháp, nhưng nó và Phật Pháp không thể phân khai. Cà sa là tín vật của Phật Pháp, áo cà sa đi theo Pháp, truyền Pháp phải truyền áo, có áo cà sa thì chính là có Pháp. Hôm nay ta truyền cho con chiếc áo này, con đã trở thành tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông rồi”.

Huệ Năng cung kính nhận lấy áo cà sa, quan sát cẩn thận, quả nhiên là báu vật vô giá. Bộ cà sa này may rất tinh tế, màu sắc tươi sáng, cầm trên tay trơn như thoa mỡ, nhẹ như không, chiếc áo được dùng vải bông của cây bông gòn nơi Thiên Trúc may thành. Huệ Năng đoán trước việc mình kế thừa y bát từ Ngũ tổ nhất định sẽ dấy khởi lên sự căm ghét của các huynh đệ khác, đợi qua canh tư, ông bèn đem theo hành trang lặng lẽ rời khỏi núi, đi gấp về phía Lĩnh Nam.

Huệ Năng đi gấp không kể đêm ngày, trước mắt đã thấy dãy núi Đại Dữu Lĩnh, đột nhiên ông thấy vài trăm người hò hét đuổi tới. Một vị tăng nhân chạy phía trước tên là Huệ Minh, ông ta là người đầu tiên chạy ra khỏi núi để cướp lấy áo cà sa, cả đoạn đường dài luôn chạy ở phía trước, trong tâm vô cùng đắc chí, còn phảng phất thấy chiếc áo cà sa vải bông độc nhất vô nhị đã khoác lên thân mình rồi.

Huệ Năng lúc này vừa đói vừa mệt, quả thực đã chạy không nổi, ông biết rằng hôm nay vô luận như thế nào cũng không thể thoát khỏi lòng bàn tay của đám người này, đành phải để cái bọc gói cà sa lên một phiến đá bên đường, hướng về nhóm người đang đến mà hô to: “Áo cà sa là tín vật truyền Pháp, sao có thể dùng vũ lực để cướp đoạt? Có cà sa mà không có Pháp thì cũng như hoa trong gương!” rồi xoay mình chui vào bụi cỏ bên đường.

Lúc này Huệ Minh vội vã chạy đến, nhìn thấy cà sa trên phiến đá, vươn tay ra để lấy, nhưng điều kì lạ đã xuất hiện. Cái bọc gói đó giống như mọc rễ, khiến ông ta dùng hết sức lực toàn thân cũng không thể di chuyển được một chút nào. Huệ Minh cực kỳ sợ hãi, nhất thời ông đã thể nghiệm được uy lực vô biên của Phật Pháp, ngay lập tức cung kính tiến đến Huệ Năng thi lễ, thỉnh cầu Huệ Năng giảng Pháp cho ông ta.

Sau khi Huệ Năng chia tay Huệ Minh để đến địa phận Lĩnh Nam, ông dừng chân tại chùa Bảo Lâm. Vài tháng sau vào một đêm tối, một đám hòa thượng lặng lẽ từ sau lưng núi đến, mỗi người đều mặc áo ngắn, tay cầm đuốc, đến cổng phía sau chùa ra sức đập cửa. Huệ Năng vội vàng bật dậy, thận trọng lắng nghe, một âm thanh lạ lẫm kêu lên: “Tiểu tử Huệ Năng, nhanh đưa áo cà sa giao ra đây, nếu không thì chúng ta không khách khí nữa!”

Lại muốn cướp cà sa! Huệ Năng không kịp nghĩ nhiều, lấy bọc gói cà sa gói lại rồi vội vã ra ngoài từ cổng trước, chạy như bay về phía ngọn đồi nhỏ trước chùa Bảo Lâm. Đợi lúc ông chạy đến dốc núi, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy hàng chục ngọn đuốc giống như một con rắn dài, đang hướng về phía này chuyển động với tốc độ nhanh chóng. Huệ Năng quá mệt và có chạy cũng không chạy nổi nữa, bèn chui vào trong khe hở của một tảng đá lớn.

Không biết đã qua bao lâu, Huệ Năng đột nhiên ngửi thấy một mùi khói nồng nặc. Ông vươn đầu ra nhìn thì thấy toàn bộ sườn núi đã biến thành biển lửa. Thì ra những tăng nhân kia đã tìm kiếm khắp cả triền núi nhưng không thấy bóng dáng Huệ Năng đâu, trong cơn giận dữ đã phóng hỏa đốt núi, nghĩ rằng như thế thì Huệ Năng sẽ ngoan ngoãn xuất hiện.

Trong lúc vô cùng nguy hiểm, điều đầu tiên Huệ Năng nghĩ đến là chiếc áo cà sa trong tay. Tuy tính mạng bản thân không đáng tiếc, nhưng chiếc áo báu vật của Phật môn này tuyệt không thể có một chút tổn hại, phải làm sao đây? Trong lúc cấp bách, ông nghĩ đến việc lúc Huệ Minh cướp áo cà sa nhưng thế nào cũng không nhấc lên được. Cà sa trên tay ta này là chiếc áo quý báu, chính là Pháp khí! Lửa thường sẽ không thể đốt cháy nó. Nghĩ đến đây, Huệ Năng nhìn đám lửa càng lúc càng gần, ung dung mặc áo cà sa vào, ngồi trên một tảng đá rồi nhắm mắt nhập định. Lập tức, ông ấy cảm thấy toàn bộ thân thể của mình trầm xuống dưới, hết thảy mọi thứ xung quanh đều rời xa, không còn nhìn thấy ánh lửa, làn khói cũng tản mất, thế giới trở nên yên tĩnh phi thường….

Khoảng bốn giờ đồng hồ trôi qua, Huệ Năng bị một đạo ánh sáng mạnh mẽ chói lóa mắt, ông mở mắt ra thì thấy một vầng mặt trời đỏ mọc lên từ phía đông của ngọn núi. Hôm qua ở đây vẫn còn cây cỏ xanh um tươi tốt, mà giờ đây toàn bộ đã bị thiêu thành tro bụi. Ông nhìn lại trên thân mình thì thấy cà sa lấp lánh chỉ có một lớp tro tàn rơi trên áo, nhưng mà không hề có một chút hư hại nào.

Chính vào lúc ông ấy quay mình rời đi, Huệ Năng chợt liếc thấy tảng đá dưới chân, ông giật hết cả mình. Chỉ nhìn thấy trên tảng đó in rõ hai vết lõm do đầu gối tạo ra, nhìn một cách tỉ mỉ, đến cả hoa văn của vải bông cũng đã in lên tảng đá, Huệ Năng lại một lần nữa cảm thụ được uy lực của Phật Pháp. Sau này Huệ Năng quay về Tào Khê, các đệ tử của ông đưa tảng đá này vận chuyển về đây, để dễ bề quỳ lạy cúng bái,và gọi tảng đá này là “Đá tránh nạn”.

Trước khi Huệ Năng viên tịch, đã nói với đệ tử rằng: Xưa kia sư tổ Đạt Ma có nói rằng:

Ta đến đây với nguyện
Truyền Pháp cứu người mê
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.

Từ sư tổ Đạt Ma đến Huệ Năng vừa đúng là đã truyền năm đời.

Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại sư cũng nói với ta: “Xảy ra việc tranh giành y bát thì hãy dừng truyền Pháp”, vậy nên áo cà sa của Thiền Tông truyền đến Huệ Năng là dừng, không còn truyền thừa nữa. “Áo cà sa đi theo Pháp, truyền Pháp phải truyền áo, có áo cà sa thì chính là có Pháp”, y bát không còn truyền nữa, Pháp môn Thiền Tông này tự nhiên cũng đã đi đến phần cuối rồi.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/41114

The post Chuyện cổ Phật gia: Áo cà sa của Huệ Năng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-ao-ca-sa-cua-hue-nang.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Thoát khỏi bể khổhttps://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-thoat-khoi-be-kho.htmlhttps://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-thoat-khoi-be-kho.html#respondTue, 16 Jan 2007 01:36:00 +0000Tác giả: Quả Chính [Chanhkien.org] Ấn Độ cổ xưa có một hệ thống giai cấp rất nghiêm ngặt phân chia người dân thành nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tầng lớp nghèo nhất và thấp nhất là tầng lớp Thủ đà la, được coi là “tiện dân”. Người thuộc tầng lớp này luôn […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Thoát khỏi bể khổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[Chanhkien.org] Ấn Độ cổ xưa có một hệ thống giai cấp rất nghiêm ngặt phân chia người dân thành nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tầng lớp nghèo nhất và thấp nhất là tầng lớp Thủ đà la, được coi là “tiện dân”. Người thuộc tầng lớp này luôn luôn bị khinh rẻ. Hầu hết họ là nô tì, nô lệ. Họ phải làm tất cả những việc nặng nhọc, khổ cực và thường bị đối xử bất công. Nếu người Ấn Độ ở các tầng lớp cao hơn chẳng may chạm vào người của Thủ đà la thì coi như họ bị ô uế.

Thành Xá Vệ có một người tên là Ni Đề, người này thuộc tầng lớp Thủ đà la. Công việc của anh ta là chùi rửa phân ở các hố xí, vốn là một công việc không có ai muốn làm. Ni Đề rất hiền lành và lương thiện. Bình thường, anh cũng rất ít nói. 

Một hôm, Đức Phật đang tọa thiền thì nhìn thấy Ni Đề. Ngài biết rằng nghiệp lực của Ni Đề đã trả gần xong và đã đến lúc cho Ni Đề giải thoát khỏi biển khổ, đó là thế giới loài người. Vì thế Đức Phật đã cùng một đệ tử của Ngài là A Nan đi tìm Ni Đề. Họ đi vào một con đường nhỏ. Lúc đó, Ni Đề đang quẩy một gánh phân đầy và đi ra khỏi con đường nhỏ. Nhìn thấy Đức Phật, Ni Đề rất vui mừng, nhưng nghĩ mình địa vị thấp kém nên anh muốn đi vòng quanh để tránh Đức Phật. Ni Đề cũng không dám nhìn thẳng vào mặt Đức Phật. 

Tuy nhiên con đường quá hẹp, khiến Ni Đề không thể tìm được chỗ tránh, và anh trở nên luống cuống. Gánh phân thình lình bị đứt, đổ vào người Ni Đề. Cả người anh bị dính đầy phân dơ bẩn và bốc mùi hôi thối. Ni Đề hoảng sợ không biết phải làm sao. Anh cúi đầu xuống thấp và không dám nhìn mặt của Đức Phật. 

Đức Phật liền tiến đến gần Ni Đề và nói, “Ni Đề, con có muốn làm hòa thượng không? Con có muốn thoát khỏi bể khổ này không?” 

Ni Đề rất bối rối và đáp, “Đức Phật thật là cao quý và thiêng liêng. Đệ tử của Ngài là những hoàng tử từ các tầng lớp quý tộc, còn con là tầng lớp tiện dân… Làm sao có thể so sánh với họ? Làm sao con có cơ hội tốt để vào chùa và thoát khỏi bể khổ?” 

Đức Phật nói: “Pháp của Phật như nước sạch. Có thể tẩy tịnh mọi điều dơ bẩn. Dù là thứ gì trên thế giới loài người, một khi được rửa bằng nước sạch, liền trở thành vật mới thanh tịnh. Pháp của Phật như lửa thánh, có thể đốt mọi điều thành tro bụi. Dù đó là vật gì, một khi lửa thiêng chạm đến, lập tức biến thành thuần tịnh. Pháp của Phật rất mực bình đẳng, chưa hề phân biệt giàu, nghèo. Bất cứ ai có tâm tin Phật và muốn thoát khỏi đau khổ, đều có thể đến chùa và tu hành tinh tấn”. 

Lời nói của Phật khiến Ni Đề cảm động từ tận đáy lòng. Sau đó, anh theo Đức Phật đến một ngôi chùa tĩnh lặng tại Chi Viên, xuống tóc, và trở thành một hòa thượng. Ni Đề không ngừng đặt tâm vào tu luyện và vô cùng tinh tấn. Anh đề cao tầng thứ của mình rất nhanh. Sau khi nghe xong bài giảng của Đức Phật, học Phật Pháp, và thiền định, Ni Đề thực sự đã tu đến tầng thứ trí huệ giác ngộ. Chẳng bao lâu, Ni Đề đã đạt đến cảnh giới A-La-Hán. 

Hãy kể về thời gian lúc đầu khi Ni Đề trở thành hòa thượng. Nhiều kẻ học giả hợm hĩnh trong xã hội thời đó không cảm thấy hài lòng. Họ nghĩ, “Sao một tên tiện dân mà lại có thể trở thành một hòa thượng và hưởng thụ đồ ăn bố thí của mọi người?” Họ càng nghĩ, càng bất bình và giận giữ. Vì thế họ đã bẩm tấu lên Quốc vương và xin đức vua hãy nói với Đức Phật rằng Ngài không thể xem Ni Đề là đệ tử. 

Quốc Vương liền đi xe ngựa đến tịnh xá ở Chi Viên và hỏi Đức Phật về chuyện này. Khi xe ngựa đến trước cửa tịnh xá,  Quốc Vương phải bước xuống và đi bộ qua một cánh rừng nhỏ. Lúc đó, ông nhìn thấy một hòa thượng tôn nghiêm và tĩnh lặng ngồi thiền trên một tảng đá lớn. 

Quốc Vương nhã nhặn hỏi, “Ta muốn gặp Đức Phật, Ngài có thể vào trong và bẩm báo Đức Phật được không?” 

Vị hòa thượng đồng ý và lập tức biến mất khỏi tảng đá. Rất nhanh sau đó ông quay lại và nói: “Đức Phật nói rằng Quốc vương có thể đi vào trong và gặp Ngài”. 

Quốc Vương rất kinh ngạc khi nhìn thấy rằng vị hòa thượng này có thể nhập vào và xuất ra khỏi tảng đá mà không để lại bất cứ một dấu vết nào. 

Khi Quốc vương gặp Đức Phật, sau khi bày tỏ sự kính trọng, ông liền nói, “Thưa Đức Phật, vị hòa thượng đã chuyển lời giúp tôi lúc nãy có một năng lượng siêu phàm hiếm thấy. Ngài có thể cho tôi biết cao danh quý tánh của vị ấy không?” 

Đức Phật mỉm cười và nói với Quốc Vương, “Lý do mà Quốc vương đến chỗ ta hôm nay là để hỏi vì sao ta lại độ cho một người mà Ngài xem là thành viên của tầng lớp tiện dân. Ta độ người không phân biệt giàu nghèo. Ta xem chúng sinh đều như nhau. Vị hòa thượng lúc nãy chính là Ni Đề. Anh ta đã chứng ngộ được cảnh giới A-La-Hán. Ni Đề chính là người mà Quốc vương vừa gặp”. 

Quốc Vương cảm thấy rất hổ thẹn. Đức Phật nói tiếp, “Một người giàu hay nghèo, phú quý hay bần tiện là do nghiệp của anh ta quyết định. Nếu người đó lương thiện, đạo đức, lễ nghĩa, kính trên nhường dưới, có thể rèn luyện tư tưởng và phẩm chất đạo đức, thì người này sẽ được sinh vào một gia đình phú quý, lễ nghĩa. Ngược lại, nếu một người thô lỗ, tục tĩu, kiêu căng và tội lỗi, anh ta sẽ có số mệnh của một người nghèo và thấp kém.”

Quốc Vương liền hỏi Đức Phật, “Vậy tại sao Ni Đề lại đầu thai vào tầng lớp tiện dân?” 

Đức Phật nói: “Trong quá khứ, sau khi Như Lai Ca Diếp rời khỏi thế giới, có một hòa thượng trong số 100,000 đệ tử của ông rất kiêu căng, ngạo mạn và khinh thường người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, anh ta đối xử với người khác rất bất công và không biết kính trọng người khác. Anh ta bắt người khác làm việc cho anh ta. Khi anh ta cảm thấy không khỏe, anh ta sẽ thức dậy trễ, và đi ngủ muộn. Anh ta ra lệnh cho những người khác chùi rửa phòng cho anh ta và xem các hòa thượng khác như người hầu của mình. Anh ta không kính trọng những vị cao tăng. Vì điều này, trong 500 năm tiếp đó, anh ta phải chịu nghiệp trở thành người đi dọn phân suốt đời này đến đời khác. Đến đời này anh ta đã trả hết nghiệp và gặp Đức Phật để được độ. Đó cũng là mối quan hệ tiền duyên mà anh ta đã có trước khi anh ta trở thành một hòa thượng để tu luyện”. 

Nghe xong lời của Đức Phật, Quốc Vương càng ngưỡng mộ uy đức của Đức Phật. Pháp của Phật là từ bi vô lượng và là Pháp cứu người thoát khỏi bể khổ.

Khi một người bắt nạt, không tôn trọng người khác, và thậm chí nói những lời xấu về người khác và làm tổn thương họ mà không có một lý do gì, thì sẽ phải bồi thường cho việc ấy. Hãy nhớ Ni Đề đã phải trải qua 500 năm làm nghề gánh phân để hoàn trả tội lỗi chỉ vì anh ta ngạo mạn!

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/19/38588.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4288

The post Chuyện cổ Phật gia: Thoát khỏi bể khổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/01/chuyen-co-phat-gia-thoat-khoi-be-kho.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người giàuhttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-giau.htmlhttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-giau.html#respondThu, 05 Oct 2006 02:21:00 +0000[Chanhkien.org] Học trò của đức Phật là Subhuti chỉ đi xin bố thí của những người giàu. Ông ta không bao giờ đếnvới người nghèo vì ông biết rằng họ đã có đời sống gian khổ và rất khó khăn cho họbố thí. Khi các học trò của đức Phật rời am để đi khất […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người giàu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Học trò của đức Phật là Subhuti chỉ đi xin bố thí của những người giàu. Ông ta không bao giờ đếnvới người nghèo vì ông biết rằng họ đã có đời sống gian khổ và rất khó khăn cho họbố thí. Khi các học trò của đức Phật rời am để đi khất thực thì Subhuti chỉ đi một mình. Không cần biết ông phải đi bao xa và đói bụng bao nhiêu, ông không bao giờ đến xin của bố thí từ người nghèo.

Ngày nọ, một bạn sư hỏi ông: “Subhuti tôn kính, ông đi tìm của bố thí của người giàu ở nơi xa xăm mà khi đó lại quên người nghèo ở gần nơi đây. Ông có nhìn người nghèo thấp hay không?”

Subhuti trả lời: “Vâng, tôi không xin của bố thí từ người nghèo vì tôi biết họ sống gian khổ họ không thể giúp đỡ lấy họ. Đôi khi họ ước muốn cho chúng ta thức ăn, nhưng họ không thể làm được. Mặc dầu họ có một ít thức ăn thừa, tôi miễn cưỡng phải tăng gánh nặng cho họ. Nhưng rất dễ dàng đối với người giàu có cho tôi thức ăn.

Nhà sư cười Subhuti: “Ông có bị ràng buộc vào thức ăn ngon của người giàu?”

Subhuti ân cần giải thích với nhà sư, “Tôi đã không thành nhà sư nếu tôi chú trọng đến thức ăn ngon.”

Một ngày nọ, Subhuti hỏi người bạn học trò đức Phật, Dajaye, “Quan điểm khất thực của ông khác với tôi. Xin tha lỗi sự kém lịch sự của tôi nếu tôi hỏi ông lý do tại sao ông chỉ đến khất thực với người nghèo?”

Dajaye giải thích: “Subhuti tôn kính, chúng ta là nhà sư và được người trợ giúp thức ăn. Người mà cung cấp thức ăn cho chúng ta có thể tích tụ may mắn và trí tuệ. Tôi xin thức ăn của người nghèo là cho họ sự tưởng thưởngvận may mắn trong tương lai. Những sự tưởng thưởng sẽ làm cho người nghèo thoát khỏi nghèo khó trong những kiếp tới. Nhưng mà những người giàu có họ đã có vận may mắn. Xin thức ăn của họ và cho họ vận may trong tương lai thì giống như có thêm một cánh hoa trong bó hoa.”

Sau khi nghe Dajayenói Subhuti gật đầu và dẫn giải, “Chúng ta có sự hiểu biết khác nhau. Mọi người chỉ phải đi theo sự hiểu biết riêng của mình về lời dạy của đức Phật.”

Trên thật tế, đức Phật nói rằng “phương pháp thành thật để xin bố thí không phân biệt người giàu hay nghèo, dơ hay sạch. Đến với phong cách long trọng và nghiêm túc. Viếng từng nhà một không bỏ sót nhà nào hết.”

Thật ra, không biết một người giàu hay nghèo, khi mà người ấy đến thế giới loài người, họ đang chịu đau khổ đắng cay của chính riêng họ. Chỉ có tuluyện Phật Pháp mới cứu độ người ta trong sự cay đắng.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4154
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/7/38431.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người giàu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-giau.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người nghèohttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-ngheo.htmlhttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-ngheo.html#respondThu, 05 Oct 2006 02:16:00 +0000[Chanhkien.org] Khi Phật Thích Ca còn sống, ngài dạy đệ tử đi khất thực mỗi ngày. Theo lời chỉ dẫn các đệ tử phải đi đến từng nhà một không cần biết gia chủ có bố thí hay không. Đức Phật có nhiều đệ tử. Subhuti và Dajiaye là hai người trong đám đệ tử. […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Khi Phật Thích Ca còn sống, ngài dạy đệ tử đi khất thực mỗi ngày. Theo lời chỉ dẫn các đệ tử phải đi đến từng nhà một không cần biết gia chủ có bố thí hay không.

Đức Phật có nhiều đệ tử. Subhuti và Dajiaye là hai người trong đám đệ tử. Hai người có quan điểm khác nhau khi xin đồ ăn của người ta. Dajiaye chỉ xin bố thí từ những người nghèo trong khi đó Subhuti thì chỉ xin bố thí của những người giàu có. Dajiaye tin rằng những người nghèo cần giúp đỡ để được cứu độ từ trong những kiếp sốngđau khổ và được đến bờ cứu rỗi, và xin đồ ăn của họ thì họ được tích đức. Riêng Subhuti thì tin rằng người nghèo đời sống khó khăn và sẽ thêm gánh nặng cho họ khi các nhà sư xin bớt phần ăn của họ, nhưng người giàu việc bố thí cho các nhà sư thì dễ dàng.

Nói về Dajiaye. Một hôm đến thành phố Wangshe gặp một lão bà rất nghèo. Bà không nhà cửa, không có thân nhân và con cái. Bà đi lang thang trên các đường phố lúc ban ngày và ban đêm thì ngủ ở góc hẻm nhỏ. Bà mặc vải rách làm bằng lá tre. Một ngày kia bà bị bệnh không ngồi dậy được. Bà đang chờ chết. Chỗ bà nằm có nhiều mảnh ngói bể. Một người đầy tớ của nhà giàu cảm thấy thương xót bà nên đổ nước vo gạo trên miếng gói bể. Lảo bà sẽ uống nước đó khi bà khát hay đói.

Dajaiye đến thăm bà khi biết bà như vậy. Chưa có người nào đến thăm từ khi bà mắc bệnh. Khi Dajiaye xuất hiện trước mặt bà, bà cố ngồi dậy và nhìn thấy nhà sư trang nghiêm đang đến xin thức ăn.

Bà liền hỏi: “Ông nghèo hơn tôi sao? Tôi rất yếu, vì tôi không có thức ăn trong bụng và không có vải để che thân tôi. Tôi đang sống trong cát bụi và đang chờ chết. Không có một người nào trên thế gian nầy có thể nghèo hơn tôi. Ông là người có thể trợ giúp tôi, tại sao lại xin tôi thức ăn?”

Dajiaye ôn tồn nói với bà: “Đức Phật là đấng tôn kính và từ bi nhất trên thế gian nầy. Những ai sống trong sự dạy dỗ nhân từ của Ngài là những người hạnh phúc nhất trên thế gian nầy. Lý do mà ngày hôm nay tôi xin thức ăn của bà là để giúp bà. Tôi nghĩ đến giúp bà về tài chánh, nhưng sau đó nó sẽ làm cho bà nghèo hơn nữa. Nếu bà cho tôi cái gì bà sẽ tích đức, bà sẽ tái sinh vào gia đình giàu có hoặc được lên thiên đàng để hưởng hạnh phúc lâu dài hơn.”

Lảo bà xúc động vì lời nói của Dajiaye. Nhưng bà không thể tìm được cả một món đồ nhỏ để cho Dajiaye. Bà buồn bả nức nở nói, “Tôi nhớ lời ân cần dạy dỗ của ông, nhưng tôi không có thức ăn hay quần áo để cho ông.”

Dajiaye nói: “Người nghèo nhất là những người giàu có mà không muốn cho.”

Khi nghe lời dạy, lảo bà trở nên sung sướng và rất hy vọng. Hai tay bà nâng lên những miếng ngói bể có nước vo gạo cho Dajiaye. Dajiaye kính cẩn tiếp nhận và uống nước trước mặt bà.

Sau đó không lâu bà lảo chết và được lên thiên đàng. Bà trở thành tiên nữ vì hành động đạo đức cho nhà sư nước vo gạo. Khi bà nghĩ bến lòng nhân từ của Dajiaye, bà luôn đến thế giới loài người để truyền bá sự ban ơn của bề trên và đức hạnh của Dajiaye.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4155
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/3/38376.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Chỉ nhận bố thí của người nghèo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-chi-nhan-bo-thi-cua-nguoi-ngheo.html/feed0
Chuyện cổ Phật gia: Tu đức hay tu huệhttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-tu-duc-hay-tu-hue.htmlhttps://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-tu-duc-hay-tu-hue.html#respondThu, 05 Oct 2006 02:12:00 +0000Tác giả: Quả Chính [ChanhKien.org] Ngày xưa, nhiều người tu luyện tập hợp nhau ở trong vùng núi non xa các thành thị để tu hành. Họ đến từ các viện tu học và có phương pháp tu luyện riêng của họ. Trong những người đó, có hai người cùng học chung một thầy, nhưng […]

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu đức hay tu huệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quả Chính

[ChanhKien.org] Ngày xưa, nhiều người tu luyện tập hợp nhau ở trong vùng núi non xa các thành thị để tu hành. Họ đến từ các viện tu học và có phương pháp tu luyện riêng của họ. Trong những người đó, có hai người cùng học chung một thầy, nhưng vì sự hiểu biết của họ khác nhau, cho nên mỗi người có một cách tu luyện khác nhau. Họ tu hành theo cách riêng của từng người, và họ không can nhiễu lẫn nhau. Người học trò lớn chú trọng đến tu hành để được đức mà không lưu ý đến tu cho trí huệ. Người học trò trẻ thì chỉ chú trọng tu luyện cho trí huệ mà không chú ý đến tu tích đức. Vì người học trò lớn chỉ đeo đuổi tu luyện để được đức chứ không phải để được trí huệ, anh ấy ở trong tình trạng u mê và không thể phân biệt được tốt xấu trong suốt cuộc đời của anh ta. Kết quả anh ta cũng không đạt được quả vị sơ khởi và vẫn bị dốt nát.

Còn người học trò trẻ chỉ nhận thức được tầm quan trọng của trí huệ và nghĩ rằng trí huệ như là cặp mắt của con người; nếu mất nó, anh ta sẽ bị mù và chắc là sẽ bị nguy hiểm. Do đó anh ta quyết tâm tu luyện trí huệ và lơ đễnh sự quan trọng của đức. Sau đó anh ta siêng năng tu luyện cho trí huệ và đạt đến quả vị A La Hán.

Trong khi đó, người học trò lớn đã chết vì già. Người học trò trẻ trở lại thành thị, vì muốn truyền Pháp cho dân chúng ở chốn này. Nhưng vì anh ta không có tích đức trong cuộc đời của anh ta, nên cũng không có một người nào muốn bố thí cho anh ta. Mặc dầu anh ta bảo với mọi người là anh ta đã giác ngộ đến bậc A La Hán, cũng chẳng có ai buồn để ý đến anh ta. Bởi vì anh ta không chú ý tu luyện đức, thì làm sao mà nhận được bố thí và sự kính trọng của người?

Anh ta đến nơi cung điện nhà vua. Trước lối vào nguy nga, anh ta chợt thấy một con voi trắng mang rất nhiều ngọc ngà châu báu. Nó thong thả đi chung quanh cung điện. Khi ở trạng thái yên tĩnh để quan sát, người học trò trẻ nhận ra rằng con bạch tượng chính là hóa thân của người học trò lớn chỉ chăm lo tu đức mà thôi.

Người học trò trẻ yên lặng bước đi và thở dài: “Người bạn học chỉ tu đức. Kết quả trở thành con bạch tượng mang nhiều châu báu. Trong khi đó thì tôi chỉ tu luyện cho trí huệ mà không tu đức kết quả là sống rất khó khăn. Điều này chỉ rõ rằng người tu luyện nên cần cả hai tu đức và tu trí huệ.”

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4157
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/14/38352.html

The post Chuyện cổ Phật gia: Tu đức hay tu huệ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/10/chuyen-co-phat-gia-tu-duc-hay-tu-hue.html/feed0
Câu chuyện về hòa thượng Đại Hưnghttps://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-ve-hoa-thuong-dai-hung.htmlhttps://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-ve-hoa-thuong-dai-hung.html#respondThu, 01 Jan 2004 00:00:00 +0000Tác giả: Quảng Hoa [Chanhkien.org] Nhiều thi hài của các vị hòa thượng đại đức tại núi Cửu Hoa đã qua đời nhiều năm mà vẫn không bị phân rã. Hòa thượng Đại Hưng vào triều đại nhà Minh (1636-1911 SCN) là một trong những người này. Khi ông qua đời, xác của ông được […]

The post Câu chuyện về hòa thượng Đại Hưng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quảng Hoa

[Chanhkien.org] Nhiều thi hài của các vị hòa thượng đại đức tại núi Cửu Hoa đã qua đời nhiều năm mà vẫn không bị phân rã. Hòa thượng Đại Hưng vào triều đại nhà Minh (1636-1911 SCN) là một trong những người này. Khi ông qua đời, xác của ông được đặt vào một cái thùng, sau ba năm mở thùng ra, thi hài của hòa thượng Đại Hưng vẫn còn mềm và giống như mới qua đời.

Hòa thượng Đại Hưng là một người độ lượng và từ bi. Cuộc đời của ông, đã trải qua nhiều gian khổ tủi nhục nhưng rất thành tâm trong tu Phật. Câu chuyện sau đây nói đến cái nhẫn phi thường của ông.

Tại chân núi Cửu Hoa, có một gia đình rất giàu có. Họ có một người con gái tên Tiểu Hội, cô có hôn ước với người con trai của một gia đình giàu có khác.

Ba năm trước khi chọn ngày hôn lễ, Tiểu Hội đã sinh một bé trai. Gia đình cô ta điên đảo lo sợ và thất vọng. Họ bắt cô phải khai ra sự thật. Cuối cùng Tiểu Hội đã nói với gia đình cô ta “Có một lần tôi đi chùa cúng phật tại Núi Cửu Hoa và bị hòa thượng Đại Hưng hãm hiếp. Sau đó tôi mang thai bé trai này.” Cha cô ta tức giận. Ông đem gia nhân của ông đến núi Cửu Hoa làm náo động cả ngôi chùa. Ông và gia nhân đánh đập, chửi bới nguyền rủa hòa thượng Đại Hưng về những tội ác đã làm kể trên. Cuối cùng ông ném thằng bé này cho hòa thượng Đại Hưng và bắt phải nuôi dưỡng nó. Hòa thượng Đại Hưng lặng lẽ nhận đứa bé và nói khẽ “A di Đà Phật!”

Từ đó danh tiếng của hòa thượng sụp đổ hoàn toàn. Ông đã từng là một vị hòa thượng rất được kính nể, nhưng bây giờ đã bị nguyền rủa là một hòa thượng hiếp dâm phụ nữ. Nơi nào ông đến, đều bị thiên hạ khinh khi cười cợt, phỉ báng. Nhưng, ông không để ý đến. Hằng ngày ông xuống núi xin bố thí để mua sữa nuôi đứa bé. Được sự dưỡng dục chu đáo của ông, đứa trẻ trông rất khỏe mạnh và thông minh.

Ba năm trôi qua rất nhanh.

Tuy rằng cô bị hãm hiếp, những ngày lẽ cuới không thay đổi. Trong đêm tân hôn, người chồng muốn biết sự thật xuất xứ của đứa bé đó, cô ta vừa khóc vừa nói với ông tất cả. Ngay sáng hôm sau, người chồng nói sự thật với gia đình của anh ta là hai người đã lén lút gặp nhau và đó cũng là lý do tạ sao Tiểu Hội đã mang thai và sinh đứa bé ba năm qua. Đó cũng là lý do tại sao anh ta khăng khăng muốn đám cuới với Tiểu Hội dù rằng cô không còn trong trắng. Vì muốn giữ danh tiếng của chồng tương lai của cô, Tiểu Hội đã đổ tội cho hòa thượng Đại Hưng.

Ba ngày sau hôn lễ, Tiểu Hội về thăm gia đình của mình theo phong tục của người Trung Hoa. Cô đã nói với gia đình cha mẹ cô về sự thật đó. Gia đình cô vô cùng kinh ngạc, nhất là đứa bé con của cô ta. Họ rất hối hận là đã làm điều sai trái đối với vị hòa thượng và đã bỏ bê cháu của họ trong ba năm qua.

Hai gia đình gấp rút tới chùa. Họ quỳ trước mặt hòa thượng Đại Hưng, và thành tâm xin lỗi và mong được xin lại đứa cháu. Hòa thượng đã nuôi được một đứa bé khỏe mạnh, và luôn có nụ cười trên môi, Hòa Thượng với dáng bình yên thanh thản như chưa từng xảy ra chuyện gì, ông bế đứa bé trả lại cho Tiểu Hội một cách trang trọng, và nói với họ “Đem đứa bé này về! A di dà Phật!”. Ông chấp hai tay trước ngực để ra dấu tạm biệt họ, và thản nhiên trở vào phòng thiền định.

Kể từ đó trở đi, tất cả hòa thượng trong chùa và mọi người càng kính trọng hòa thượng Đại Hưng hơn nữa.

Dịch từ:

The post Câu chuyện về hòa thượng Đại Hưng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-ve-hoa-thuong-dai-hung.html/feed0