Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnThu, 24 Apr 2025 07:00:24 +0000en-UShourly1Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-3)https://chanhkien.org/2022/05/cau-chuyen-luan-hoi-su-menh-cua-vuong-chieu-quan-phan-1-3.htmlFri, 06 May 2022 08:33:35 +0000https://chanhkien.org/?p=28555Tác giả: Tử Vi [ChanhKien.org] 4. Những sự việc bi thảm trong kiếp trước của Chiêu Quân, cái chết đau lòng của Điệt Châu Từ thời điểm Chiêu Quân xuất tái [1] (khoảng năm 33 TCN),  lùi về trước 180 năm nữa, kiếp trước của Chiêu Quân đã từng là một người phụ nữ xinh […]

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tử Vi

[ChanhKien.org]

4. Những sự việc bi thảm trong kiếp trước của Chiêu Quân, cái chết đau lòng của Điệt Châu

Từ thời điểm Chiêu Quân xuất tái [1] (khoảng năm 33 TCN),  lùi về trước 180 năm nữa, kiếp trước của Chiêu Quân đã từng là một người phụ nữ xinh đẹp ở thảo nguyên phương Bắc: Điệt Châu. Điệt Châu là một người phụ nữ không được nhắc đến trong lịch sử, nàng xuất hiện cùng thời với một vị thiền vu đại danh lừng lẫy Mặc Đốn. Đây cũng lại là một câu chuyện dài, để tôi từ từ kể cho bạn nghe.

Trong một thời kỳ lịch sử của Hung Nô, có một vị thiền vu vĩ đại tên là Mặc Đốn, khi Mặc Đốn còn là thái tử, cha của anh là thiền vu Đầu Mạn sủng ái một nữ nhân sinh hạ một người con trai, dưới sự xúi giục của nữ nhân, thiền vu Đầu Mạn muốn giết Mặc Đốn để lập người con trai nhỏ tuổi kia lên làm thái tử, bèn phái Mặc Đốn đến nước Nguyệt Thị làm con tin. Mặc Đốn vừa đến nước này, thiền vu Đầu Mạn lập tức tấn công Nguyệt Thị, người Nguyệt Thị muốn giết Mặc Đốn, Mặc Đốn bèn trộm một con ngựa tốt rồi cưỡi ngựa chạy trở về Hung Nô, thiền vu Đầu Mạn cho rằng Mạc Đốn dũng mãnh, bèn lệnh cho anh ta thống lĩnh một vạn kỵ binh.

Mặc Đốn bèn chế tạo ra một loại hưởng tiễn [2], huấn luyện thuộc hạ bản lĩnh cưỡi ngựa bắn cung, hạ lệnh rằng: “Ta hướng tên bắn đến mục tiêu nào, nếu ai không theo ta hướng tên bắn vào đó sẽ bị chém đầu.” Không lâu sau, Mặc Đốn dùng hưởng tiễn bắn vào con thiên lý mã của mình, thuộc hạ có người không dám bắn vào nó, Mặc Đốn lập tức giết luôn bọn họ. Qua vài ngày, Mặc Đốn dùng hưởng tiễn bắn vào nữ nhân mình sủng ái, thuộc hạ có người cảm thấy sợ hãi, không dám bắn tên, Mặc Đốn bèn giết bọn họ. Sau vài ngày, Mặc Đốn ra ngoài săn bắn, dùng hưởng tiễn bắn vào thiền vu Mạn Đầu, thuộc hạ đều bắn về phía mục tiêu. Mạn Đầu chết ngay lập tức. Mặc Đốn tự xưng là thiền vu. Mẹ kế và đệ đệ cùng một số đại thần phản đối thiền vu Mặc Đốn, Mặc Đốn cảm thấy mẹ kế quá ác độc, cái miệng điên đảo càn khôn của mẹ kế đã khiến phụ thân muốn mượn đao của Nguyệt Thị giết mình, còn người em trai kia muốn chiếm đoạt địa vị thái tử và nữ nhân của mình. Rất nhanh sau đó Mặc Đốn giết chết mẹ kế, đệ đệ và toàn bộ những đại thần không phục tùng.

Nói thêm một chút về thiền vu Mặc Đốn và nữ nhân bị giết, nữ nhân bị giết là Điệt Châu, là một người mà Mặc Đốn rất sủng ái. Điệt Châu không thể ngờ rằng, lúc buổi sáng Mặc Đốn còn dùng những lời ngọt ngào nói với nàng: “Điệt Châu, nàng hãy trang điểm đẹp hơn một chút, đến xem ta luyện binh như thế nào.”  Điệt Châu vui mừng đáp ứng, nàng trang điểm thật đẹp, hạnh phúc đi theo một viên quan truyền lệnh và xuất hiện trong tầm mắt của Mặc Đốn. Bất ngờ một mũi hưởng tiễn hướng về nàng, ngay sau đó, tên bắn ra như mưa, bắn liên tiếp vào người nàng, thật không ngờ người hạ lệnh lại chính là người đàn ông mà nàng hết mực yêu thương. Trong phút chốc, trái tim nàng tan nát, nỗi đau đớn về tinh thần vượt xa nỗi đau thể xác. Trong nỗi thống khổ cự đại, người phụ nữ đáng thương ấy mang nỗi ai oán trong lòng chết đi, chết mà không  cam lòng.

Thế nhưng cái chết của Điệt Châu lại có nguyên nhân sâu xa từ nguyện vọng của nàng. Sau khi Mặc Đốn trốn chạy từ Nguyệt Thị trở về, Điệt Châu vô cùng vui mừng, khóc vì vui sướng. Mặc Đốn muốn có chỗ đứng vững chắc trong hoàng tộc, Điệt Châu luôn thể hiện rằng sẽ thật tốt biết bao nếu mình có thể giúp Mặc Đốn. Điệt Châu còn kể một sự việc khác khiến Mặc Đốn phẫn nộ. Trong lúc Mặc Đốn bị phái tới Nguyệt Thị, người em trai tranh giành vị trí thái tử với Mặc Đốn nói với Điệt Châu: “Ca Ca của ta sẽ không trở về nữa, nàng sẽ trở thành nữ nhân của ta”. Điệt Châu nói ra sự việc này càng làm thúc đẩy kế hoạch của Mặc Đốn, do vậy, khi Điệt Châu lại một lần nữa bày tỏ, nếu như bản thân nàng có thể giúp đỡ Mặc Đốn thì sẽ tốt biết bao. Mặc Đốn cười nói: “Nàng sẽ có cơ hội”.

Điệt Châu muốn giúp đỡ Mặc Đốn nhưng tuyệt đối không nghĩ đến việc phải dùng đến tính mạng của mình. Thế nhưng số mệnh đã an bài, và như thế xuất hiện một người phụ nữ có tình cùng một cuộc đời vô tình. Trong số mệnh của Mặc Đốn có “Tam tiễn định thiên hạ”. Mũi tên thứ nhất bắn chết thiên lý mã, mũi tên thứ hai bắn chết Điệt Châu, mũi tên thứ ba bắn chết phụ thân thiền vu Đầu Mạn. Những tình tiết câu chuyện đều đã được định trước. Khi đại kịch lịch sử và cuộc đời bé nhỏ đan xen nhau, Điệt Châu đã trở thành quân cờ của Mặc Đốn. Khi tình cảm của vai nữ chính nhường chỗ cho thiên hạ của vai nam chính thì “yêu giang sơn chứ không yêu mỹ nhân” đã trở thành lựa chọn của Mặc Đốn. Do đó, việc Điệt Châu bị tên bắt chết đã trở thành sự việc tất nhiên được định trước.

Trong một thời đại đầy biến động như vậy, tại thảo nguyên phương Bắc, Hung Nô trở lên hùng mạnh, cha của thiền vu Mặc Đốn là thiền vu Mạn Đầu, đối đầu với ông là Doanh Chính của Đại Tần, người được mệnh danh là “Thiên cổ nhất đế” Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng di dân đến gần biên giới, tu sửa Trường Thành, phái Mông Điềm dẫn đại quân trấn thủ, chống lại cuộc xâm lược của người Hung Nô. Đối đầu với thiền vu Mặc Đốn là Hán Cao Tổ Lưu Bang, trận Bạch Đăng bao vây quân Hán lừng danh lịch sử chính là kiệt tác của thiền vu Mặc Đốn. Lưu Bang ngự giá thân chinh, kết quả bị hãm nhập trong sự bao vây của Mặc Đốn, đội kỵ binh tinh nhuệ của Mặc Đốn đông đến mức  tầng tầng lớp lớp khiến quân Hán khiếp sợ. Trần Bình sai người hối lộ yên chi (chính thê) của thiền vu, nữ nhân này khuyên giải thiền vu đừng làm khó quân Hán. Kỵ binh Hung Nô đã chừa ra một con đường, Lưu Bang nhờ đó mà chạy thoát thân. Sau này Lưu Bang qua đời, thiền vu Mặc Đốn đã viết một bức thư khiến Lữ Trĩ nổi giận, đại ý là: “Nam nhân của bà đã chết nên giờ rất cô độc, yên chi của ta cũng chết rồi, hay là bà và ta cùng chung sống đi.” Lữ Trĩ là một người có tính cách mạnh mẽ, muốn khai chiến với Hung Nô, nhưng các đại thần nhất mực khuyên giải, nói lúc tiên hoàng còn sống cũng từng bị vây khốn, Hung Nô cường đại, không thể khai chiến. Cuối cùng Lữ Trĩ không còn cách nào khác, bèn viết thư gửi lại, nói: “Ta già như hoa đã tàn, không còn khiến người ta thích nữa, tặng ngài mỹ nữ và tài phú, mong nhận lấy.”

Thiền vu Mặc Đốn, một quân vương hùng mạnh ở phương bắc, trên đời có ba thứ yêu thích là; thiên lý mã, mỹ nữ và giang sơn. Đối với thiên lý mã và mỹ nữ, anh ta đều có thể từ bỏ, mà không chỉ một lần từ bỏ. Sau khi anh ta giết cha kế vị, vua Đông Hồ lợi dụng tình hình Hung Nô chưa ổn định, muốn đoạt đất đai, phái người thăm dò, nói rằng muốn lấy thiên lý mã của thiền vu. Thiền vu triệu tập bộ hạ thảo luận, có người nói: Ngựa là sinh mệnh của nam nhân, làm sao có thể cho được? Thiền vu nói: không phải chỉ là một con ngựa sao? Cho. Không lâu sau, vua Đông Hồ lại phái người đưa tin, nói muốn yên chi của thiền vu, thiền vu lại triệu tập bộ hạ, có người tức giận nói, để nữ nhân đi là sự sỉ nhục của nam nhân, không thể cho được. Thiền vu nói: không phải chỉ là một nữ nhân thôi sao? Cho! Vua Đông Hồ trước sau nhận được thiên lý mã và  nữ nhân, cho rằng thiền vu bạc nhược, lại phái người đưa tin, muốn một vùng đất lớn của thiền vu, nếu không sẽ dẫn binh động võ. Thiền vu lại triệu tập bộ hạ, có người nói: cần đất, vậy cho thôi. Thiền vu tức giận: đất đai là căn bản của quốc gia, muốn chiếm đất đai, làm sao có thể cho được? Ai còn dám nói cho sẽ bị chém đầu. Sau đó, dẫn đại binh đột nhập Đông Hồ, chiếm được rất nhiều đất đai và tài phú. Hình ảnh của một nhân vật như vậy  rất có ý nghĩa, có phải vì muốn viết cho lịch sử trở nên muôn màu muôn vẻ hay không? Không phải. An bài của Thần không phải mục đích đơn nhất như vậy, phương thức bang giao của nhân loại, một là chiến tranh, hai là hòa bình, chiến tranh có thể tiêu trừ tội nghiệp, hòa bình có thể dung hợp dân tộc.

Khi thiền vu Mặc Đốn còn trẻ, thành đại sự không luyến tình, giết người phụ nữ mình yêu thương nhất, nữ nhân và thiên hạ, trong con mắt của người đàn ông đầy dã tâm tham vọng, thiên hạ vẫn là trọng yếu. Thiền vu Mặc Đốn nợ tình cảm với Điệt Châu, phải hoàn trả thế nào đây? Đại chiến trong lịch sử, an bài rất có ý nghĩa, luân hồi hai trăm năm sau, trên thảo nguyên, người từng là thiền vu Mặc Đốn chuyển sinh thành thiền vu Phục Chu Luy, vẫn được làm vua; Điệt Châu năm xưa, thay đổi dung nhan và trang sức, trở thành công chúa được gả để cầu hòa (hòa thân). Vốn dĩ bi kịch của vai nữ chính, cái gọi là có tình mà không thành người thân, kỳ thực chính là một màn đại kịch đang được dọn dẹp, vì để chuẩn bị cho một màn đại kịch khai mở vài trăm năm sau. Thế nhưng trong lần tương ngộ này, thiền vu Phục Chu Luy bảo vệ Chiêu Quân, Chiêu Quân hồi báo thảo nguyên, hai người nắm tay nhau, cùng hoàn thành sứ mệnh, để Hung Nô kết duyên với văn hóa người Hán, món nợ vay trả trước đây không được nhắc đến trong màn kịch này. Lại qua 1600 năm, màn kịch trả món nợ nghiệp mới bắt đầu khai diễn, lại có một kịch bản xuất hiện, kịch bản được an bài với một nỗi đau đớn triền miên, là một câu chuyện đầy màu sắc khác.

5. Chiêu Quân hậu thế Hải Lan Châu, Quân vương lụy tình mất sớm

Tôi xem tới đây, trong lịch sử, một hoàng đế trứ danh Hoàng Thái Cực, thần phi Hải Lan Châu được ông sủng ái, chính là kiếp sau của Chiêu Quân. Tại thiên giới, vị thiên nhân sẽ diễn vai hoàng đế Hoàng Thái Cực sau đọc kịch bản nhân sinh thì nói với tiên tử sắp diễn vai Hải Lan Châu: “Tình cảm của tôi trong kịch bản chính là: tôi vì nữ thần mà mất sớm, suy xét đều do món nợ nhân quả, thế nhân luận rằng si tình, đừng bỏ đi chương sử này.”

Tôi nghĩ: Kịch bản này rất có ý nghĩa, nợ ân tình, cuối cùng phải hoàn trả bằng ân tình, thậm chí là đến mức sống chết cùng nhau.

Hoàng Thái Cực trong lịch sử, văn võ song toàn, tôn sùng văn hóa người Hán, được ca tụng là  “Hiền Minh”, ông binh chinh thiên hạ, chiến công lẫy lừng, trí dũng siêu quần, đông chinh Triều Tiên, bắc phạt Tác Luân, tây chinh Mông Cổ, nam chinh Đại Minh, lãnh thổ của Thanh Triều được mở rộng đáng kể. Ông vì tranh đoạt thiên hạ với Minh Triều mà dũng cảm dùng binh. Năm 1629, ông hạ lệnh tránh Ninh Viễn, nơi được canh giữ bởi tổng đốc Liêu Đông Viên Sùng Hoán, từ Hỷ Phong Khẩu vượt Vạn Lý Trường Thành, tiếp cận thành Bắc Kinh. Viên Sùng Hoán trở về từ Sơn Hải Quan để chi viện, sau khi đánh bại quân Hậu Kim thì đóng ở bên ngoài cửa Quảng Cừ tại Bắc Kinh. Lúc này, hoàng đế Sùng Trinh trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực, xử tử Viên Sùng Hoán, khiến Minh Triều mất đi một vị danh tướng kháng Kim.

Thế nhưng một nam nhân uy dũng như Hoàng Thái Cực cũng có điểm yếu. Điểm yếu của ông chính là Hải Lan Châu. Liên hôn với Mông Cổ, củng cố phương Bắc là một sách lược của Hoàng Thái Cực. Hoàng hậu, bốn phi tử của Hoàng Thái Cực, đều là nữ nhân Mông Cổ. Hoàng Thái Cực sủng ái đối với Hải Lan Châu, trong cung ai cũng biết, kỳ thực cũng là duyên phận tất nhiên của lịch sử.

Mẹ của Hải Lan Châu là vợ lẽ, Hải Lan Châu từng có chồng, chồng của nàng hỏi thầy phù thủy về con nối dõi, thầy phù thủy lắc lắc đầu, sau khi người chồng rời đi, một người phụ nữ nhiều chuyện đã nghe thấy thầy phù thủy tự nói một mình: “Hải Lan Châu sẽ sinh con cho người khác, đứa trẻ đó sẽ giết bọn họ”. Người phụ nữ ấy thêm mắm thêm muối, đem chuyện này đi kể khắp nơi, cuối cùng đến tai của chồng Hải Lan Châu, anh ta uống rượu đánh đập Hải Lan Châu, tức giận hỏi nàng: “Ta đối tốt với cô như vậy, cô tại sao lại muốn phản bội ta.”

Sau nhiều lần bị đánh mà không hiểu lý do, Hải Lan Châu sợ hãi, nhờ một thiếu niên đưa tin cho ca ca Ngô Khắc Thiện, Ngô Khắc Thiện đến, đánh cho người đàn ông kia một trận và đưa muội muội về nhà, kết thúc cuộc hôn nhân của họ. Thân thể của Hải Lan Châu bị bầm tím dấu vết của những trận đòn roi, mẫu thân nàng rất đau khổ, bà đã xin thuốc  từ vị thượng sư lạt ma để chữa trị vết thương cho Hải Lan Châu. Bóng đen trong lòng Hải Lan Châu quá lớn, nếu có bóng dáng cao lớn che khuất ánh sáng trước mặt cũng đủ khiến nàng sợ hãi. Đôi khi nàng gặp ác mộng, sau khi tỉnh lại rùng mình run sợ. Nhìn thấy muội muội khi xưa giỏi ca hát, tính tình vui vẻ trở thành như vậy, Ngô Khắc Thiện rất đau lòng nên dành thời gian chăm sóc muội muội. Thế nhưng, nam nhân thường có những việc khác mà bản thân cần phải làm.

Vị lạt ma nói với mẫu thân: “Hãy để cô ấy tĩnh tâm niệm kinh Phật, sẽ giúp chữa lành tâm linh cô ấy.” Hải Lan Châu với cháu của lạt ma cùng nhau tĩnh tâm niệm kinh. Một ngày nọ, lạt ma bảo người cháu đưa Hải Lan Châu đến lều trại Khoa Nhĩ Thấm. Lạt ma nói với Hải Lan Châu: “Vận mệnh sẽ chăm sóc cho những người khổ tận cam lai”.

Thảo nguyên lúc này tiếp đón một vị khách quý Hoàng Thái Cực. Người Mông Cổ nhiệt tình đãi tiếp bằng ca hát, yến tửu, quang cảnh mười phần náo nhiệt, chủ khách cùng vui vẻ. Sau khi lửa trại kết thúc, tỳ nữ của Hải Lan Châu đã hết sức cố gắng  thuyết phục nàng, và cuối cùng đã kéo được Hải Lan Châu vào trong đám đông, sự vui vẻ của đám đông đã lan tỏa đến Hải Lan Châu. Trong màn ca vũ náo nhiệt khi Hoàng Thái Cực bắt được tay của Hải Lan Châu, ông cảm giác được bản thân mình nảy sinh cảm tình với người phụ nữ xinh đẹp này, bàn tay của nữ nhân rất mềm mại, nụ cười giản dị, ánh mắt sáng ngời, Hoàng Thái Cực đột nhiên không muốn buông tay. Bàn tay của phúc tấn Triết Triết thì khô, bàn tay của phúc tấn Bố Mộc Bố Thái thì mát mẻ, bàn tay của Hải Lan Châu thì ấm áp, đôi mắt trong veo, trái tim rộng mở, vô dục vô cầu. Một người phụ nữ như vậy, tại thời khắc như vậy khiến trái tim của một Hoàng Thái Cực lý tính cảm thấy như đã thuộc về nàng. Về phần Hải Lan Châu có cảm giác gì? Nàng cảm thấy vị khách nhân tôn quý này che giấu khí chất đế vương, nở nụ cười ấm áp và tràn đầy tình cảm, Hải Lan Châu cảm thấy giữa họ có một thứ kỳ lạ càng lúc càng lớn, nàng không cảm thấy sợ người đàn ông này, hai tay nắm lấy nhau, truyền cho nhau hơi ấm từ từ tuôn trào trong trái tim cô quạnh.

Sau khi Ngô Khắc Thiện chứng kiến ​​tình cảm nảy sinh giữa Hoàng Thái Cực và Hải Lan Châu, anh ta đã làm một việc rất nôn nóng kích động, đó là yêu cầu những người hầu cận bỏ một thứ gì đó an thần (thuốc mê) vào nước mà Hải Lan Châu uống, và đắp chiếc chăn mỏng cho Hải Lan Châu trở lại lều của Hoàng Thái Cực. Hoàng Thái Cực đã làm một việc rất trượng nghĩa, ông đã đưa Hải Lan Châu về và nói với Ngô Khắc Thiện: “Tôi sẽ đường đường chính chính cưới Hải Lan Châu làm trắc phúc tấn, và anh hãy đích thân đưa cô ấy đến phủ của tôi.” Ngô Khắc Thiện nhận lời, đó là một lời hứa giữa những người đàn ông. Người đẹp ngủ say không biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm hôm đó, nàng đã gặp hai con người thực sự thương yêu mình. Anh trai sợ nàng không lấy chồng mà đi tu, anh rất lo lắng, đem nàng đưa vào trong bao đưa đến chỗ Hoàng Thái Cực, nghĩ rằng thân càng thêm thân, rất tốt; Mà người nam nhân kia đã yêu Hải Lan Châu từ cái nhìn đầu tiên, nhất định sẽ cưới nàng, cưới một cách quang minh lỗi lạc, sau này nhất định sẽ chiều chuộng, sủng ái hết mực.

Tôi thấy được trên đồng cỏ, khi chia tay, Hoàng Thái Cực và Hải Lan Châu đã trao nhau tín vật, Hoàng Thái Cực đã đưa cho Hải Lan Châu chiếc bùa hộ mệnh đeo trên cổ, bùa hộ thân này là ngạch nương đã mất của ông đeo cho, ông đã đeo nó mười năm, vẫn luôn coi đó như báu vật. Hoàng Thái Cực hứa với Hải Lan Châu sẽ cưới nàng và bảo vệ nàng suốt đời. Hải Lan Châu đã tặng cho Hoàng Thái Cực chiếc tràng hạt mà nàng dùng để tụng kinh. Tràng hạt đó được làm từ mã não, như một người bạn đi theo cô vượt qua những khó khăn suốt bốn năm. Hải Lan Châu nói: yêu một người đàn ông mình đã ngưỡng mộ bấy lâu, tâm đã có chỗ dựa, cũng có những mất mát;  nàng không muốn Hoàng Thái Cực rời đi. Hoàng Thái Cực nói rằng khi bản thân quay lại sẽ đặt hôn nhân đại sự lên hàng đầu. Hai người tạm biệt nhau với ánh mắt lưu luyến và cảm xúc rạo rực.

Có thể có người cho rằng đây là một câu chuyện tình yêu xảy ra do tình cờ gặp gỡ, kỳ thực, tất cả những cuộc gặp gỡ trên thế gian này đều là những cuộc tái ngộ ở một thời gian và không gian khác sau một thời gian dài biệt ly. Trong biển người rộng lớn giữa nghìn vạn giai nhân, chỉ có hai người yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên và được kết duyên với nhau. Có câu “tu trăm năm mới đi chung thuyền, tu ngàn năm mới cùng chung chăn gối.” Những mối tình vương vấn ấy, dù là tan nát cõi lòng hay là tình yêu sét đánh, hóa ra đều là tiền duyên định sẵn. Các vị Thần cao hơn, căn cứ theo hàng trăm ngàn năm luân hồi, duyên phận của hai người quyết định cuộc hôn nhân. Căn cứ những việc mà người ta đã từng làm trong luân hồi đời đời kiếp kiếp, cuối cùng định ra hôn nhân trong đời này.

Vùng Đông Bắc lúc bấy giờ là một đại vũ đài lịch sử, tình tiết của vở đại kịch này đã được an bài rất chi tiết, hết thảy những cuộc gặp gỡ tưởng chừng như tình cờ đều được sắp đặt một cách khéo léo. Vợ chồng là duyên phận quan trọng trong chốn hồng trần, tình cảm mặn nồng “nắm chặt tay người, cùng đi đến lúc bạc đầu”, hòa hợp như đàn cầm đàn sắt, sẽ che lấp đi việc trả những món nợ đã tích lại ở thế gian mà viết nên một chương tình sử vô cùng vang dội trong sử sách.

Hoàng Thái Cực rất sủng ái Hải Lan Châu, sử sách ghi rằng, Hải Lan Châu mới vào cung hơn một năm đã được phong là đại phúc tấn của Đông cung, vị trí của nàng trong hậu cung chỉ đứng sau cô của nàng, Hoàng hậu Triết Triết, và đứng cao hơn em gái của nàng, Trang phi. Thần phi Hải Lan Châu sinh hạ hoàng bát tử. Vào ngày thứ tám sau khi đứa bé được sinh ra, Hoàng Thái Cực tuyên bố vì hoàng tử giáng sinh, sẽ đại xá thiên hạ. Hai mẹ con được Hoàng Thái Cực sủng ái nhất. Nhưng chưa được một tuổi tiểu hoàng tử đã yểu mệnh. Hải Lan Châu chịu đựng nỗi đau mất con, vừa bị tổn thương về thể chất lẫn tinh thần, nàng rất khó hồi phục. Nàng nhớ vẻ mặt hạnh phúc khi Hoàng Thái Cực nắm tay mình, dạy nàng viết chữ bằng bút lông và viết câu “Tôi rất hạnh phúc”; nàng nhớ lại Hoàng Thái Cực nói nếu giành được thiên hạ rồi thì sẽ để lại cho con, vậy mà hoàng nhi lại mất sớm, trong lòng đau buồn tinh thần bị thương tổn. Hoàng Hậu từng khuyên nàng, rằng “là con thì không chết, là tiền tài thì không mất, việc bảo vệ thân thể mới là quan trọng.” Hoàng Thái Cực cố gắng làm mọi cách nhưng cũng không thể giải khai được nút thắt trong tâm nàng.

Vào tháng 9 năm 1641, Hoàng Thái Cực thống lĩnh đội quân tinh nhuệ bát kỳ và quân thiết kỵ của các bộ lạc như Khoa Nhĩ Thẩm của Nội Mông chiến đấu chống lại quân đội của Hồng Thừa Trù nhà Minh trong trận chiến quyết định Tùng Sơn Cẩm Châu. Đúng lúc hàng chục vạn quân của cả hai bên đang giao tranh sinh tử  thì các sứ thần từ Thịnh Kinh đến hoảng hốt báo tin: “Quan Thư cung thần phi có bệnh”. Hoàng Thái Cực lập tức triệu tập các tướng và lệnh cho họ ở lại cố thủ, sáng sớm hôm sau ông phi ngựa trở về Thịnh Kinh, cuộc hành trình dọc đường hết sức vội vã, sứ thần của Thịnh Kinh lại báo rằng “Thần phi bệnh nặng.” Hoàng Thái Cực nhổ trại giữa đêm, thúc ngựa chiến, hận không thể mọc ra đôi cánh để có thể bay trở về bên cạnh ái phi. Sứ thần Thịnh Kinh lần thứ ba báo tin “Trần phi đã qua đời”, Hoàng Thái Cực phóng ngựa vào Thịnh Kinh, xông vào Đại Thanh Môn, đến thẳng cung Quan Thư, nhưng chỉ nghe tiếng khóc mà không thấy giai nhân. Ái phi đã ngọc nát hương tan, Hoàng Thái Cực ôm thi thể nàng than khóc và ngất đi nhiều lần. Kể từ đó, ông suy sụp về thể chất và tinh thần, và đột ngột băng hà vào ngày 9 tháng 8 năm 1643.

Nhìn lại quá khứ tôi thấy một cảnh tượng như sau, trên đường trở về Thịnh Kinh của Hoàng Thái Cực, Hải Lan Châu đã qua đời, linh hồn của nàng đến nghênh đón Hoàng Thái Cực và xuyên qua thân thể của Hoàng Thái Cực. Hoàng Thái Cực tất nhiên có cảm nhận được, thúc ngựa chạy nhanh, sau đó, Thịnh Kinh sứ giả tấu báo lần thứ ba “Thần Phi đã qua đời”, Hoàng Thái Cực như bị ngũ lôi oanh đỉnh, lúc này còn có linh hồn của một người, nhân cơ hội đi xuyên qua cơ thể của Hoàng Thái Cực và cắt đứt một mạch máu tim của ông. Do đó, việc Hoàng Thái Cực tâm trí thương tổn và không còn khả năng tự phục hồi có liên quan đến tim mạch thương tổn. Tôi vốn nghĩ rằng chính linh hồn của Viên Sùng Hoán đã cắt đứt mạch máu tim của Hoàng Thái Cực, khi tôi viết bài này, tôi đã kiểm tra linh hồn này và phát hiện ra rằng đó không phải của Viên Sùng Hoán mà là chồng cũ của Hải Lan Châu. Vì quá sa đọa và say xỉn, anh ta đã chết cóng trên thảo nguyên. Người này tuy đã đánh đập Hải Lan Châu nhưng hắn không bao giờ quên nàng, thậm chí còn muốn đưa Hải Lan Châu về, không ngờ người đẹp lại đi nơi khác và được sủng ái, người đàn ông lưu lạc này sau khi chết thì không đầu thai. Linh hồn người chết cũng có thể đố kỵ và oán hận sao? Có thể.

Chồng cũ của Hải Lan Châu đã từng là ai? Anh ta là người em trai cùng cha khác mẹ của thiền vu Mặc Đốn hai nghìn năm trước, vốn dĩ anh ta nghĩ rằng anh ta là người kế vị, nhưng không ngờ  đã bị Thiền vu Mặc Đốn giết chết. Tôi muốn nói rằng ở góc độ duyên oán nợ nghiệp thì luân hồi rất nghiệt ngã, người người đều nói “không phải oan gia thì không gặp”. Đây là một việc không thể tránh khỏi, những việc làm ở kiếp trước, kiếp này phải chịu nhận, nợ thì phải trả. Nhưng đôi khi, người đòi nợ sẽ xuất hiện rất dịu dàng, khiến người ta cảm thấy rằng luân hồi là có tình. Năm 209 trước Công nguyên, Thiền vu Mặc Đốn đã giết chết người phụ nữ yêu quý của mình, Điệt Châu, đây là nợ mệnh; năm 1634, cả hai gặp nhau tại một bữa tiệc lửa trên thảo nguyên, mở đường cho Hoàng Thái Cực sủng ái đối với Hải Lan Châu, sau bảy năm, duyên nợ đã trả, Hải Lan Châu đi chuyển sinh đầu thai, Hoàng Thái Cực đã thương tổn tinh thần. Cái gọi là mỹ nữ khí tuyệt, anh hùng tâm tan [nát], tất cả đều là kịch bản được an bài.

Hoàng Thái Cực muốn nhất thống thiên hạ, ông có ý chí lớn như vậy  nhưng không có vận mệnh ấy, bởi vì sân khấu ở quan nội được dành cho người khác. Cái chết của Hoàng Thái Cực có thể nói là một giấc mộng để lại trong lịch sử, hoàng tuyền chôn vùi anh tài. “Thanh sử cảo” đã nhận xét về Hoàng Thái Cực như sau: “Thái Tông thông thạo văn võ, nội tu chính sự, ngoại cần thảo phạt, dụng binh như thần, lập công to lớn. Tuy đại sự chưa thành, nhưng đến những năm Thế Tổ, thiên hạ đã thống nhất, mưu lược mà đế lưu lại thật sâu xa.”

Về vị lạt ma khuyên Hải Lan Châu niệm kinh,  ngài biết rõ chuyện trong thiên hạ và cũng biết nguồn gốc uyên nguyên giữa Hoàng Thái Cực và Hải Lan Châu. Khi nhìn thấy sợi chỉ hôn nhân quấn quanh mắt cá chân của Hải Lan Châu, ngài đã yêu cầu Hải Lan Châu quay trở lại lều của bộ tộc, thành toàn một đoạn nhân duyên. Sau khi Hải Lan Châu hạ sinh hoàng bát tử, trong đám người đến chúc mừng, có cháu gái của lạt ma, mang theo một bức thư của lạt ma,  bí mật trình lên Hoàng hậu Triết Triết. Triết Triết đã bị sốc sau khi nhìn thấy nó, bức thư nói rằng “Hoàng tử bất tường,  đó chính là người đến đòi nợ, Viên Sùng Hoán.” Triết Triết đốt lá thư.

Sau khi Hải Lan Châu qua đời, trong số những người đến chia buồn còn có cháu gái của lạt ma, cô đã mang theo lá thư của Lạt ma và đưa bức thư bí mật cho Trang phi, trong thư yêu cầu bà phải hết lòng chăm sóc con trai mình, mẹ con thân phận tôn quý, chớ phụ thiên mệnh. Trang phi cũng đốt bức thư này.

Nhìn lại kiếp trước của Hoàng hậu Triết Triết và của Trang phi, đó là an bài vở kịch lớn của lịch sử, quả đúng là trả nợ tình duyên. Trước tiên hãy nói về Triết Triết. Vào thời đại của Thiền vu Mặc Đốn, Triết Triết là mẹ ruột của Thiền vu Mặc Đốn. Bà không thể bảo vệ con trai mình. Chồng bà sủng ái nữ nhân mới, có ý lập thái tử khác, muốn giết chết Mặc Đốn. Mẫu thân tìm trăm phương ngàn kế để người con biết được thông tin, tìm đường sống. Trong kịch bản về “Chiêu Quân xuất tái”, bà là chính thê của thiền vu Hô Hàn Tà và là mẹ của thiền vu Phục Chu Luy, là một người phụ nữ có tấm lòng rộng rãi, bà kiến nghị thiền vu Hô Hàn Tà lập Chiêu Quân làm yên chi, bà cực kỳ thiện hữu đối với Chiêu Quân, thích những điệu múa của cung đình nhà Hán, mê những điệu múa của Chiêu Quân, người phụ nữ hào sảng này từng cười nói với Chiêu Quân: “Nếu ta là đàn ông, ta cũng sẽ lấy muội”. Trong thời Hoàng Thái Cực, bà là Triết Triết, trở thành phúc tấn của Hoàng Thái Cực, Hoàng Thái Cực xưng đế, bà được phong là Hoàng hậu, quản lý hậu cung, Hoàng Thái Cực rất tôn trọng Triết Triết.

Lại nói đến Trang phi, ở thời đại Thiền vu Mặc Đốn, nàng từng là yên chi của thiền vu Mặc Đốn, vì yêu cầu của Vua Đông Hồ, nàng đã bị gả cho Vua Đông Hồ. Trước khi bị đuổi đi, Thiền vu Mặc Đốn đã nói với Trang phi: “Hãy cố mà sống cho tốt”. Tuy nhiên, ở chỗ của vua Đông Hồ, nàng đã bị sỉ nhục, chế giễu và bị coi như nô bộc, bắt phải nuôi thiên lý mã. Nàng không chịu khuất nhục, quyết định tự sát. Người phụ nữ tội nghiệp này đã mang thai cốt nhục của Thiền vu được bốn tháng, nàng không biết rằng khi vào buổi sáng nàng cắt cổ tay để tự sát thì buổi chiều, quân của thiền vu Mặc Đốn đột kích vào doanh trại của vua Đông Hồ. Khi Thiền vu Mặc Đốn tìm thấy Trang phi, anh nhìn thấy xác nàng và rất tức giận, anh hận nàng không nghe lời, không “cố mà sống cho tốt” nên ra lệnh cho quân lính chôn cất người phụ nữ không có tinh thần nỗ lực này. Suy nghĩ của thiền vu Mặc Đốn, nữ nhân nào có thể theo kịp? Đối với người phụ nữ này, Mặc Đốn cũng đã nợ một món lớn, sau này phải hoàn trả! Do đó, sau 1800 năm, Hoàng Thái Cực đem giang sơn lưu lại cho Trang phi và con.

Thuận nói một chút về Đa Nhĩ Cổn, là em trai cùng cha khác mẹ của Hoàng Thái Cực, rất có năng lực về quân sự. Ông là ai trong lịch sử? Thời Chiêu Quân, ông là con của thiền vu Hô Hàn Tà và Chiêu Quân, trong kịch bản được lưu truyền sau này thì nói rằng ông đã bị giết. Trong kịch bản gốc, ông không bị giết. Ông không thể nối dõi tông đường vĩ đại của thiền vu, trên những cánh đồng cỏ, người ta chỉ thừa nhận vị vua mang dòng máu Hung Nô thuần khiết.

Chuyện kể rằng khi Đa Nhĩ Cổn dẫn quân vào Trung Nguyên, trên đường đi gặp một vị lạt ma, Đa Nhĩ Cổn đã hỏi vị lạt ma về vận số của Đại Thanh. Lạt ma nói: “Quả phụ cô nhi đắc thiên hạ, quả phụ cô nhi mất thiên hạ.” Một câu nói của Lạt Ma đã tiết lộ thiên cơ. Chẳng bao lâu, Đa Nhĩ Cổn đã đưa vị hoàng đế nhỏ lên ngôi, hoàng đế Thuận Trị tại Bắc Kinh tế cáo thiên địa tổ tiên, tuyên bố rằng ông là quân chủ hợp pháp duy nhất toàn thiên hạ. Thật đúng là “Quả phụ cô nhi đắc thiên hạ”. Sau này, khi nhà Thanh chấm dứt đế chế, cũng là trong tình trạng quả phụ cô nhi. Thiên cơ có thể đã được tiết lộ. Tôi đã kiểm tra và thấy rằng vị lạt ma này và vị lạt ma đã viết bức thư là cùng một người, là một người biết thiên cơ.

Kết luận

Khi tôi nhìn vào kiếp luân hồi của chính mình từ bên ngoài bức tranh luân hồi, tôi thường cảm thấy xúc động. Câu chuyện từ “yêu giang sơn không yêu mỹ nhân” của Thiền vu Mặc Đốn, đến “yêu giang sơn nhưng yêu mỹ nhân hơn” của Hoàng Thái Cực, đều là luân hồi nghiệp báo. Một số cảnh trong đó  khiến tôi động tâm. Ví dụ, tôi đã thấy một cảnh như thế này: Hải Lan Châu nguyên thần ly thể, sau khi thân thể vi quan của nàng xuyên qua thân thể của Hoàng Thái Cực tiếp tục đi về phía nam và đến Quan Nội đầu thai; trong khi Hoàng Thái Cực phi ngựa vào Thịnh Kinh và đi thẳng về phía Quan Tư cung, nhưng nghe thấy người trong cung đang khóc, không thấy giai nhân vui cười nghênh đón, Hoàng Thái Cực ôm thi thể bi thương, liền ngất đi mấy lần. Khi cảnh tượng này diễn ra trước mắt, tôi không muốn chứng kiến ​​Hoàng Thái Cực đau khổ, nên đã nghỉ ngơi, dừng bút để uống một tách trà, nhưng nước mắt lại rơi vào trà. Cảnh đầu thai vẫn đang diễn ra trước mắt, Hải Lan Châu được đầu thai vào một gia đình giàu có, đang tập nói. Hoàng Thái Cực không thể quên tình cũ, thường bất chợt đau thương. Thở dài buồn bã trong ảo mộng, đa tình cười nhạo chính mình, đây cũng là tâm người thường, giữa động tâm và tĩnh tâm, xem vở kịch lớn luân hồi, nếm trải hàng trăm hương vị cuộc đời. Không tính toán sướng khổ của người thường, xem nhẹ cái mê khổ của thế gian, cũng là sự tu hành của nhân sinh.

Sự hiểu biết của tôi là: cuộn tranh luân hồi, ở một chiều không gian cao hơn, tương ứng với hoạt động của một bộ cơ chế, cơ chế này được triển hiện từng bước từng bước một, rất có trật tự, khi quá trình luân hồi trong quá khứ lần lượt triển hiện trước mắt, các chủng cảm tình và vật chất phong ấn trong nhân thể đồng thời được giải phóng, người đó sẽ vô tình cảm thấy đau đớn buồn bã hoặc suy sụp. Kỳ thực, đây cũng là một cơ chế do cựu thế lực an bài khởi tác dụng đối với người tu luyện. Nhưng ngược lại, nếu bạn có thể nghĩ được rằng, tôi không muốn loại đắng cay ngọt bùi này, không chìm đắm trong cảm giác đã qua, nhận ra rằng đó không phải là bản thân mình, không muốn lạc lối, không muốn bị khống chế; quá khứ đều là diễn kịch, đang đặt định văn hóa, còn bây giờ tôi có con đường hiện tại mà tôi cần phải đi. Lựa chọn như vậy, thì có thể tránh được can nhiễu không cần thiết, có thể tương kế tựu kế, lợi dụng thành một cơ hội để đề cao cho người tu luyện. Lúc này, còn phải xem phản ứng “phanh hãm” của bạn. Do vậy nói, người viết bài luân hồi, đừng nên trầm mê vào luân hồi, cần thoát khỏi luân hồi, không nếm trải hương vị trong đó. Đây là nhận thức của tôi. Có được nhận thức này phải trải qua một quá trình.

Vì có một niệm muốn viết về nhân duyên tam thế, tôi lần lượt viết về từng lần luân hồi, để triển hiện biến cố thế gian, đã viết cạn bút lực, bí ẩn luân hồi được sáng tỏ, tôi thở dài trước sự sắp đặt luân hồi, cảm khái số phận tạo hóa. Quá trình viết bài, đều là một quá trình như vậy, đứng lặng trong luân hồi chứng kiến ​​bao nhiêu biến cố đã qua, vượt qua hồng trần tẩy sạch những vết tích của sinh mệnh.

Hồi tưởng lại luân hồi kiếp trước, tôi cũng thấy được tín tức của chồng mình ở kiếp này. Ở thời đại thiền vu Mặc Đốn, anh là vị quan truyền lệnh, truyền cho Điệt Châu, chứng kiến ​​toàn bộ quá trình Điệt Châu từ một mỹ nữ trở thành người phụ nữ bị chết dưới trăm ngàn mũi tên, anh nhận lệnh chôn cất Điệt Châu, anh cảm thấy có lỗi. Thời Chiêu Quân là người hộ tống bảo vệ nàng trên thảo nguyên, khi Chiêu Quân phi ngựa trên thảo nguyên, Chiêu Quân cầm cây đàn tỳ bà tấu khúc nhạc ưu oán, khi gần khi xa, người hộ vệ bảo hộ cô, người hộ vệ còn phải trông chừng [sự tấn công từ con] người, trông chừng sói và chim ưng (loài chim dữ) đối với Vương Chiêu Quân. Trong thời Hải Lan Châu, anh là người thanh niên giúp Hải Lan Châu gửi thư cho Ngô Khắc Thiện, anh thấy Hải Lan Châu đau đớn và không thể chịu đựng được. Đây là người ít người biết đến, lại là người có duyên với tôi, ở kiếp này, anh ít khi bày tỏ tình cảm, nhưng anh quý trọng duyên phận, có trách nhiệm có đạo lý, nguyện ý vì người nhà mà phó xuất. Ở Trung Quốc, trong cuộc bức hại các đệ tử Đại Pháp, chồng tôi luôn lo lắng cho sự an toàn của tôi, anh ấy nói với tôi: “Em chưa nhìn thấy cái ghế sắt (dụng cụ tra tấn), cái ghế có dính máu. Em sẽ không thể chịu được cái khổ đó, anh sợ em sẽ bị bắt đưa đi.” Đôi mắt anh ấy nhìn tôi luôn rất sâu, cuối cùng một ngày, tôi muộn màng nhận ra, đôi mắt sâu ấy chứa đầy tình cảm và lo lắng.

Người ta nói rằng “Nhân thế có luân hồi, đạo trời không lọt ai”. Mang mang nhân hải, cửu biệt tương phùng, trở thành một nhà, đều là tiền duyên định trước, đó là quan hệ trọng đại nhất ở nhân gian. Đâu có chuyện ai đó nhất thời khởi niệm tùy tiện là có thể định được? Lẽ nào lại có thể cho phép tùy ý ly hôn? Hôn nhân là sự sắp đặt của thiên giới dựa trên duyên nợ và ước nguyện của con người. Thiên giới có pháp lý của thiên giới. Người hiện đại tùy ý phá hoại an bài của thần tiên, có thể không hoàn trả nợ nghiệp sao?

Thời gian trôi đi, lịch sử trôi qua vẫn không thay đổi, năm tháng dài đằng đẵng và ký ức phong ấn vẫn còn. Phồn hoa phai tận thấy đìu hiu, mây khói bay qua làm dịu mắt, ai có thể chứng kiến được hành trình đã qua? Có người thấy và hiểu được được thiên cổ luân hồi. Trong tiếng thở dài, nhìn lại quá khứ, xúc động làm sáng tỏ những nghiệp báo nhân duyên, thông qua đó, tôi chỉ muốn nói với độc giả rằng: chớ coi thường nhân quả nghiệp báo ở thế gian, nhân duyên giữa người với người chính là sự vướng mắc của nhiều thế hệ. Bề ngoài của nhân sinh có thể là phong quang vô hạn, thanh nhã triền miên, nhưng đằng sau là nghiệp lực luân báo, có nợ phải trả. Do vậy gọi là kiếp trước thiếu nợ nhau, thì kiếp này tất gặp; nếu không thiếu nợ nhau, thì cũng không cần gặp mặt.

Trên thực tế, ngay cả một chi tiết của cuộc sống cũng có thể là biểu hiện của số phận. Năm hai mươi sáu tuổi, một buổi chiều thu tôi đi làm về, hoàng hôn rực rỡ, cửa sổ đối diện mạ vàng ánh vàng, tiếng đàn hát vang lên: “Hoàng hôn trên Sa mạc. Ai đó đang chơi đàn tỳ bà”. Lời bài hát này đập vào mắt tôi ngay lập tức, và sau đó một nỗi buồn không thể giải thích được cuốn lấy tôi. Trước mắt tôi là hình ảnh buồn bã của một người phụ nữ đang đánh đàn tỳ bà dưới ánh hoàng hôn trên sa mạc, hình ảnh này như định lại trước mắt tôi, nỗi buồn ấy bao trùm lấy tôi. Vài ngày sau tôi mới có thể nguôi ngoai, mới có thể hít thở bình thường.

Văn nhân nói: “Thế gian là một giấc mộng lớn, cuộc đời được mấy lần cảm nhận sự mát mẻ của mùa thu.” (Tô Thức), tôi muốn nói: “Nhân thân nan đắc nay đã đắc, và Phật pháp khó có cơ hội được nghe nay đã nghe. Trải qua những tang thương của cuộc đời, biển người trôi nổi chớ mê mang”. Đối với người tu luyện, nếu chúng ta có thể thoát ra khỏi màn đại kịch luân hồi, dùng sự thanh tỉnh của giác giả, nhìn thấu an bài của cựu thế lực, đừng lẫn lộn trong đó, và giải thoát ra, giống như hùng sư dũng mãnh tinh tấn, không cô phụ sự kỳ vọng của thiên giới.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/273239

Chú thích:

[1] Xuất tái: Đi ra khỏi vùng biên ải xa xôi

[2] Loại tên mà khi bay thì phát ra âm thanh

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-2)https://chanhkien.org/2022/04/cau-chuyen-luan-hoi-su-menh-cua-vuong-chieu-quan-phan-1-2.htmlSat, 02 Apr 2022 04:34:40 +0000https://chanhkien.org/?p=28463Tác giả: Tử Vi [ChanhKien.org] 3. Ứng mệnh trời, Chiêu Quân ra nơi biên cương xa xôi, hoằng dương văn hóa nhà Hán an định biên cương Người Hán không hề biết gì về đời sống của Chiêu Quân tại biên ải, chỉ dựa trên những hiểu biết và giả định của bản thân mà […]

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tử Vi

[ChanhKien.org]

3. Ứng mệnh trời, Chiêu Quân ra nơi biên cương xa xôi, hoằng dương văn hóa nhà Hán an định biên cương

Người Hán không hề biết gì về đời sống của Chiêu Quân tại biên ải, chỉ dựa trên những hiểu biết và giả định của bản thân mà cho rằng Chiêu Quân ai oán. Tôi cho rằng Chiêu Quân có nhớ nhà, nhưng tuyệt đối không phải là ai oán. Hơn nữa Chiêu Quân tại biên ải có rất nhiều trải nghiệm, nhưng người Hán lại không hề biết được việc này.

Chiêu Quân lấy thân phận công chúa xuất giá ở phương xa. Thiền Vu Hô Hàn Tà coi Chiêu Quân là yên chi (cách gọi vợ vua của người Hung Nô – chú thích của người dịch). Vì để vơi bớt nỗi khổ nhớ quê hương của Chiêu Quân, ông cho người xây dựng cung điện của người Hán, ban tặng cho Chiêu Quân ở. Vào mùa đông năm thứ hai Chiêu Quân ở thảo nguyên, một đêm tối nọ trời đột nhiên giáng tuyết lớn, rất nhiều đàn dê bị tuyết vùi chết, Thiền Vu cùng Chiêu Quân đồng thời cùng gửi thư về triều đình nhà Hán để nhờ cứu trợ. Nhờ có vật tư cứu viện của Hán triều nên mối nguy nan của thảo nguyên đã được giải quyết. Một thời gian sau, Chiêu Quân sinh một người con cho Thiền Vu. Duyên phận phu thê của Thiền Vu Hô Hàn Tà và Chiêu Quân chỉ kéo dài ba năm, do Thiền Vu Hô Hàn Tà bị người khác đầu độc chết.

Sau khi Thiền Vu Hô Hàn Tà qua đời, con trai trưởng của Hô Hàn Tà Thiền Vu là Điêu Đào Mạc Cao kế vị, lịch sử gọi là Thiền Vu Phục Chu Luy. Chiêu Quân biết rằng bản thân cần phải tuân thủ tập tục của Hung Nô, gả cho Thiền Vu kế thừa. Người Hung Nô có tập tục mẹ kế sau khi chồng chết phải gả cho người kế thừa. Ba năm sinh sống ở biên ải, Chiêu Quân hiểu biết sâu sắc cuộc sống sinh hoạt của người Hung Nô. Đặc biệt là sự ngoan cường và lạc quan của người phụ nữ Hung Nô, để lại cho Chiêu Quân một ấn tượng sâu sắc.

Trong lòng Chiêu Quân, có một lý niệm trước sau như một, trong huyết mạch mang đậm dấu ấn văn hóa của người Hán. Nhưng ở tại đất người Hung Nô, Chiêu Quân phát hiện rằng quyết định của cô không chỉ liên quan đến bản thân, mà còn quan hệ đến an nguy của hai vùng đất. Nếu bản thân cô ôm giữ lý niệm của người Hán, không gả cho Thiền Vu kế tục, tự sát chết đi, thì sẽ dẫn khởi chiến tranh; cô bỏ đi, cũng sẽ dẫn khởi chiến tranh, cô chỉ có thể tuân theo tập tục tái giá của vùng đất này. Nhưng cô muốn thiên tử nhà Hán biểu thị một thái độ cho mình, cô ấy viết thư cho Hán Thành Đế, thỉnh cầu cho được hồi hương. Trong lúc viết thư, Chiêu Quân cũng biết câu trả lời của thiên tử nhà Hán tất nhiên là muốn cô tuân thủ tập tục của Hung Nô. Nhưng trong lòng Chiêu quân cũng rõ ràng rằng bản thân cô tất phải viết bức thư này, cô muốn chiếu thư của Hoàng thượng mở cho mình một con đường, như vậy, lựa chọn của mình sẽ tuân theo chỉ ý của thiên tử (chú thích của người dịch: Thời xưa, người con gái khi lấy chồng cần hỏi ý của cha mẹ, Vương Chiêu Quân có thân phận là công chúa nhà Hán, như vậy đương nhiên phải xin ý kiến của Hoàng đế nhà Hán). Quả đúng như vậy, Hán Thành Đế hạ chiếu thư, để Chiêu Quân theo tập tục của Hung Nô tái giá.

Trong lúc Chiêu Quân viết thư, đã xảy ra một sự việc như sau. Thư của Chiêu Quân rơi vào tay thuộc hạ của Thiền Vu Phục Chu Luy. Bắt được thư, Thiền Vu đến lều của Chiêu Quân, thấy Thiền Vu ném ra phong thư, Chiêu Quân sững sờ một lúc, đối mặt với chất vấn của Thiền Vu, Chiêu Quân quỳ xuống đất giải thích: “Thiếp viết thư thỉnh cầu quay về là xin chỉ ý. Quan niệm về phụ nữ Hán khác với quan niệm của người Hung Nô, nếu như bản thân không nói lời nào mà tái giá, thì sẽ là bất kính với triều đình nhà Hán, dù gì thiếp cũng đã cưới Thiền Vu trước đây. Sau khi chồng chết, dựa theo tập tục, người phụ nữ thỉnh cầu trở về là việc nên làm, không sai”. Thiền Vu hỏi: “Nếu như Hoàng đế cho phép nàng về quê, ta còn thể diện nào nữa đây? Nàng nghĩ kết cục sẽ ra sao? Muốn khơi mào chiến tranh sao?” Chiêu Quân đáp: “Hoàng đế triều Hán sẽ không cho thiếp về quê, Hoàng thượng sẽ không vì thiếp mà gây ra chiến tranh, hãy tin thiếp, thư phúc đáp của Hoàng thượng sẽ để thiếp lưu tại nơi này”. Trước ánh mắt đầy nghi hoặc của Thiền Vu, Chiêu Quân nói: “Chàng và thiếp có thể đánh cược, nếu Hoàng đế triều Hán đáp ứng thiếp ở lại, Hung Nô và Hán tộc sẽ không có chiến tranh; vạn nhất Hoàng đế triều Hán đáp ứng để thiếp quay về, chàng muốn chiến tranh với Hán Triều, hãy giết thiếp đi rồi tuyên chiến”. Lời nói của Chiêu Quân khiến Thiền Vu vô cùng kinh ngạc. Anh luôn cho rằng người phụ nữ yếu đuối này không thể nói ra những lời lẽ cứng rắn như vậy.

Thư gửi đi, đúng như dự đoán, Hán Thành Đế muốn Chiêu Quân tái giá theo tập tục Hung Nô. Chiêu Quân tuân theo tập tục thảo nguyên, gả cho Thiền Vu kế nhiệm Phục Chu Luy, khi ấy, Thiền Vu Phục Chu Luy ba mươi tuổi, Chiêu Quân hai mươi mốt tuổi. Trong số vợ của Phục Chu Luy Thiền Vu, còn có một người phụ nữ cứng rắn đến từ một bộ tộc Hung Nô khác, Chiêu Quân biết rằng, Thiền Vu coi cô là một viên ngọc quý, lúc cần thiết, là một bảo bối có thể giải thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, dù gì thì đằng sau cô cũng là thế lực hùng mạnh của triều Hán.

Chiêu Quân nỗ lực thích ứng thảo nguyên, không oán trời trách người. Cô đã dần hòa nhập với cuộc sống sinh hoạt của người dân thảo nguyên, dần thích ứng với mùa đông dài đằng đẵng cũng như bầu trời âm u, cái lạnh thấu xương, thức ăn hôi tanh và cuộc sống trong căn lều vải nỉ. Thiền Vu Phục Chu Luy cũng giúp Chiêu Quân trong việc thích ứng với thảo nguyên. Anh cho Chiêu Quân biết về nữ nhân mặt sói, người nữ nhân đó là một người bị thương khi chiến đấu với chó sói, khuôn mặt bị móng vuốt của sói xé toạc, sau đó chồng của cô chết đi, người em trai tiếp nhận tất cả từ anh trai, người phụ nữ mặt sói rất ít nói, một mực làm việc, tránh xa lều của người khác. Chiêu Quân biết cái khổ của nữ nhân đó, cũng biết được sự khổ tâm của Thiền Vu Phục Chu Luy, anh muốn Chiêu Quân hiểu sâu sắc rằng, điều quan trọng nhất với con người là vấn đề sinh tồn.

Yên Chi của Thiền Vu Phục Chu Luy là một người phụ nữ không dễ chung sống, cô ấy đố kỵ với diện mạo của Chiêu Quân, lại dễ bị người khác xúi giục, Chiêu Quân vẫn luôn dung nhẫn, cô ấy lại không biết điểm dừng. Địa vị của nữ nhân trên thảo nguyên được quyết định bởi sự cống hiến của người đó, sự cống hiến này sẽ đem lại vinh diệu cho họ. Chiêu Quân từng giúp đỡ thảo nguyên nhiều lần, mỗi khi thảo nguyên gặp tai nạn, mưa đá, bệnh dịch muỗi, bệnh dịch gia súc, người thiếu thức ăn nước uống, bệnh tật, Chiêu Quân có thể giải quyết nguy nan đó của thảo nguyên. Do đó, cả Thiền Vu Hô Hàn Tà và Thiền Vu Phục Chu Luy, đều đã dạy Chiêu Quân cách phân biệt thịt cừu bị ngâm trong độc, lúc đó, Chiêu Quân nhận ra hoàn cảnh của mình, cô là một người phụ nữ khôn ngoan, âm thầm tự bảo vệ mình.

Chiêu Quân khi rời khỏi cung điện nhà Hán đã mang theo rất nhiều sách, trong đó có một bức vẽ kỳ lạ do công chúa Giải Ưu mang về từ Tây Vực. Thời đó có người cho rằng nó có thể khiến tứ chi linh hoạt dẻo dai, từ hình ảnh mà tôi nhớ được, tôi cho rằng là yoga đến từ Ấn Độ, nhưng tâm pháp của nó đã thất truyền. Chiêu Quân sử dụng nó như một thuật mềm thân để rèn luyện thân thể. Thực hiện đúng từng động tác, mỗi động tác đều có thể kiên trì trong một thời gian dài, thường đổ mồ hôi nhiều, nhưng cũng cảm thấy thoải mái. Thói quen tốt này khiến thân thể không chỉ duy trì sự dẻo dai mà còn giữ được dung nhan.

Thiền Vu Phục Chu Luy ý thức được sự tiên tiến của văn hóa Hán, ông ủng hộ Chiêu Quân tại thảo nguyên dạy mọi người văn hóa Hán. Chiêu Quân mang phương thức trồng trọt, dệt may, nấu ăn, y dược, ca vũ… của người Hán đến thảo nguyên. Chiêu Quân là đại biểu của văn hóa người Hán ở thảo nguyên, cô quan tâm đến bách tính, dung nhập với thảo nguyên, có tấm lòng bác ái, vì vậy mọi người cũng dần yêu thích người con gái đẹp đa tài đa nghệ này, coi cô như là phúc âm của thảo nguyên.

Chiêu Quân có vài lần sớm nhận thức được nguy nan của thảo nguyên, có lần cô nằm mộng thấy dịch bệnh ở thảo nguyên, hoặc có lần khi nhẩm đọc Đạo Đức Kinh cô nhìn thấy các hình thức tai nạn giáng xuống, thấy được những hình ảnh đáng sợ, thấy những người du mục trên thảo nguyên, gia súc trong chuồng, người ở trước lều, chẳng mấy chốc, gia súc bị nhiễm bệnh, có người bị lây bệnh.

Ở trên thảo nguyên, còn có một người cũng có thể sớm biết trước được tai nạn giáng xuống, ông là Thông Nhãn Vu. Ông là người có công năng, có thể biết được thiên ý, chữa trị được các loại bệnh kỳ lạ, người ở thảo nguyên rất tôn kính ông. Thông Nhãn Vu cho rằng, tai nạn là do Thần linh muốn đào thải sinh mệnh, con người sẽ không thể trốn thoát, chỉ có thể bị động tiếp thụ, sống chết tại số. Thông Nhãn Vu ngồi xếp bằng trong chiếc lều của mình rồi nhìn vào thảo nguyên, ông thấy thảm họa sắp đến, rất nhanh chóng, ông phát hiện ra bức thư của Chiêu Quân đã được gửi đi, trong bức thư đó báo về một thảm họa phát sinh, để người Hán chuẩn bị vật tư cứu tai nạn. Thông Nhãn Vu giật mình, ông đột nhiên đứng dậy, nhưng lại ngồi trở lại. Ông cho rằng, Chiêu Quân không phải là người thường, ông muốn quan sát Chiêu Quân, nếu như Chiêu Quân gây hại cho thảo nguyên, ông sẽ trừ khử Chiêu Quân, ông muốn thảo nguyên an toàn, để ông có thể ở nơi an toàn này luyện những thứ của mình.

Khi tai nạn thật sự đến, khi bức thư cầu viện của Thiền Vu gửi đi, Thông Nhãn Vu phát hiện, vật tư cứu viện đã đang trên đường chuyển đến. Trong đó có các loại thuốc, có thể giải trừ chướng khí (là một loại khí lạnh hay hơi độc phát ra từ xác chết) của thảo nguyên, có thể cứu giúp mọi người. Thông Nhãn Vu đã yên tâm, ông ta cho rằng Chiêu Quân có thể trở thành người bạn tôn quý của thảo nguyên. Chẳng mấy chốc, mọi người đã truyền tai nhau: Bức thư của công chúa gửi đi có hiệu quả thần kỳ, có thể giải cứu nguy nan của thảo nguyên. Những vị đại phu người Hán sẽ cứu trị cho người và gia súc, họ đem những người bệnh cách ly, điều trị riêng. Người ta đồn rằng, công chúa làm việc chăm chỉ với các đại phu người Hán, không sợ bị lây nhiễm.

Thông Nhãn Vu cũng phát hiện, những thứ cuồn cuộn từ trong ký ức của Chiêu Quân, có thể phát ra năng lượng, giống như dòng sông, không đứt đoạn, có những sinh mệnh mặc giáp vàng kỳ lạ đang bảo hộ Chiêu Quân. Đồng thời, trên người Chiêu Quân có một thứ gì đó bảo vệ, trên đó có hai con cá đang đuổi nhau và còn có những văn tự xem không hiểu. Có một lần, Thông Nhãn Vu quyết định thử một chút độ thâm sâu của những thứ này, kết quả phát hiện, những thứ ông niệm chú gọi đến đều bị chặn lại ở ngoài lều của Chiêu Quân, có thiên binh thiên tướng đang bày trận bảo hộ vị công chúa đó. Trong thời gian này còn phát sinh một sự việc kỳ lạ, từ trong lều của Thiền Vu Phục Chu Luy xông ra một lực lượng hình con rồng gia nhập vào hàng ngũ bảo vệ; từ trong lều của mẫu thân của Thiền Vu Phục Chu Luy (vợ chính của Thiền Vu Hô Hàn Tà), cũng xông ra một lực lượng gia nhập vào hàng ngũ bảo vệ. Thông Nhãn Vu nhanh chóng thu lại những thứ mình gọi đến, Thông Nhãn Vu còn chuyển đi, rời xa nơi sống của vị công chúa người Hán, ông cho rằng, những thứ không động được tốt nhất không nên động, nên chuyên tâm làm việc của mình thì hơn.

Tôi giải mã một chút cảnh tượng mà Thông Nhãn Vu nhìn thấy. Dòng năng lượng mà Thông Nhãn Vu nhìn thấy, là cảnh tượng triển hiện ra ở không gian khác khi Chiêu Quân đọc Đạo Đức Kinh. Thông Nhãn Vu nhìn thấy đồ hình Thái Cực, nhìn thấy bùa hộ thân của Chiêu Quân, bùa hộ thân đó là do người nhà mẹ đẻ của Hoàng hậu Vương Chính Quân xin từ một vị đạo sĩ, nó đã được đạo sĩ gia trì, rồi sau đó Hoàng hậu đem nó tặng cho Chiêu Quân. Khi Thiền Vu Hô Hàn Tà đưa Chiêu Quân về phương Bắc, có một vị đạo sĩ cản đường thỉnh cầu gặp công chúa, đạo sĩ nói với công chúa, bùa hộ mệnh này được ba vị tôn sư gia trì, bùa này nếu qua khỏi quan ải phía Bắc thì nhất định phải do người có tướng mệnh lớn nắm giữ, không thể rời khỏi thân thể, mong công chúa thường đọc niệm Đạo Đức Kinh để được bình an và bảo vệ tính mạng cho nhân dân.

Nhân đây, tôi giải thích một chút về người có tướng mệnh lớn, người có tướng mệnh lớn, tự thân có Thần hộ pháp. Thiền Vu có hộ pháp Thần binh, thì Chiêu Quân cũng có, trong số hộ pháp của Chiêu Quân, có loan phụng, Chiêu Quân mang danh phận công chúa, đó là danh phận có trong mệnh. Toàn bộ trang phục của công chúa là phục sức của thiên giới, mang theo sự uy nghi của thiên giới ở trong đó. Mỗi khi sứ thần của nhà Hán đến, Chiêu Quân đều xuất hiện với đầy đủ trang phục, dung nhan mỹ lệ, y phục đẹp đẽ, mũ áo tinh xảo, lễ nghi phức tạp đều khiến Thiền Vu Phục Chu Luy trong lòng tán thưởng.

Trên thảo nguyên cũng có thế lực phản đối công chúa, đó là một người phụ nữ thuộc tộc Bắc Hung Nô được gả cho Thiền Vu Phục Chu Luy, người phụ nữ này luôn bí mật sinh sự, xúi giục yên chi làm khó Chiêu Quân, nhằm phá hoại yên bình của thảo nguyên, cô ta đố kỵ với công chúa, muốn hại chết công chúa. Vì thế Thông Nhãn Vu quyết định mang những thứ vốn luyện dùng cho bản thân mình ra để bảo vệ công chúa. Thông Nhãn Vu nói với Thiền Vu Phục Chu Luy, Chiêu Quân là quý nhân của thảo nguyên, cần thiện đãi cô ấy, bảo vệ cô ấy. Thiền Vu biết rằng có người đang sinh sự, sau khi biết được người đứng đằng sau, ông đã bí mật hạ lệnh cho giải quyết người phụ nữ kia. Thiền Vu cảnh cáo Yên Chi, chớ có sinh sự, chớ có đố kỵ, rồi nói với Chiêu Quân, ở trên thảo nguyên, nàng không cần nhìn sắc mặt của người khác, nàng chỉ cần nhìn sắc mặt của ta là được rồi.

Thông Nhãn Vu nghĩ rằng công chúa đã thiết lập một trường năng lượng trên thảo nguyên, mang đến hơi thở của vương triều phương Nam. Dùng mắt mà xét, công chúa rất xinh đẹp, lại không già đi; về tâm mà xét, công chúa rất thiện lương không có tâm xấu; luận trí huệ mà xét, công chúa không ngốc nghếch, rất biết linh hoạt. Thông Nhãn Vu phát hiện, thiên ý cũng đứng về phía công chúa. Sau cùng, điều duy nhất khiến ông ta không bằng lòng với công chúa đó là, khi công chúa nhớ nhà, công chúa gảy cây đàn tì bà phát xuất ra thanh âm khiến người ta não lòng. Thông Nhãn Vu quyết định nói với Chiêu Quân, ông nói, cô đã kết rễ ở thảo nguyên, không nên cứ lưu luyến phương Nam, thảo nguyên cũng có bóng dáng của cô, cuộc sống sau này của cô không thể tách rời thảo nguyên, cô cần có một tâm hồn lớn như thảo nguyên vậy. Nếu cô đàn lại những giai điệu u sầu, thì tôi chỉ có thể làm thế này (Trong khi nói chuyện, Thông Nhãn Vu lấy ra hai viên cỏ nhung và nhét chúng vào tai). Chiêu Quân hiểu ý của thuật sĩ, lại không thể không cười.

Sự phó xuất của Chiêu Quân đối với thảo nguyên đã được sự công nhận của những người trên thảo nguyên, bao gồm cả sự sủng ái của Thiền Vu Phục Chu Luy. Người trên thảo nguyên đều hát hay múa giỏi, thượng tôn sức mạnh, năm nào trong đại hội đấu vật đều có dũng sĩ quyết thắng, Thiền Vu Phục Chu Luy cũng là cao thủ đấu vật, trong những ngày lễ sau này, khi vui vẻ, anh thường hát lên một ca khúc. Âm thanh cao bao la đó vang vọng khắp bầu trời. Lúc này, mẫu thân của Thiền Vu Phục Chu Luy, đã động viên Chiêu Quân tham gia cuộc vui, hoặc có người quỳ xuống hô to, thỉnh cầu công chúa phụ hát. Chiêu Quân xuất hiện rất nổi bật, khúc hát của Chiêu Quân rất uyển chuyển, thanh âm trong trẻo. Thiền Vu Phục Chu Luy rất kinh ngạc, có chút mê hoặc, thân thể mảnh mai của Chiêu Quân làm sao có thể phát ra giọng hát có sức xuyên thấu đến như vậy.

Trong lễ kỷ niệm sau đại hội đấu vật hàng năm, Thiền Vu có thể mang đi cô gái mà anh ta muốn, và vào ngày thứ hai, ban tặng danh hiệu cho cô ấy để cô ấy thành người phụ nữ của mình. Tuy nhiên, anh ta đã có một số lần làm ra những hành động kỳ lạ, dưới sự theo dõi của mọi người, anh đã đưa tay ra với Chiêu Quân. Khi Chiêu Quân còn đang ngạc nhiên, xung quanh cô ấy sẽ có tiếng vỗ tay và tiếng huýt sáo thiện ý, người hầu bên cạnh vội đẩy Chiêu Quân về phía Thiền Vu.

Thiền Vu Phục Chu Luy cũng có chỗ không hài lòng đối với Chiêu Quân, anh cảm thấy Chiêu Quân gầy rộc, ăn quá ít, cảm thấy cháo mà Chiêu Quân ăn không bổ dưỡng, bèn sai người cho sữa tươi vào nồi cháo của Chiêu Quân, đun thành váng sữa. Chiêu Quân cũng có nỗi lòng đau buồn, nên Thiền Vu rất lo cho Chiêu Quân, lo cô sống không lâu. Trong một đêm vào mùa hè, bên ngoài mưa rất to, Thiền Vu đột nhiên tỉnh dậy, cảm nhận có người đang cầu cứu anh, anh chạy thật nhanh tới lều của Chiêu Quân, phát hiện bên trong không có người, mò mẫm tìm quanh lều dưới mưa, anh đã tìm được Chiêu Quân bị mưa bão đánh ngã, liền cõng cô trở lại lều. Trong thời khắc đó, Thiền Vu Phục Chu Luy rất sợ hãi, sợ mất Chiêu Quân, sau việc này, anh nhất quyết gặng hỏi Chiêu Quân, có phải có một niệm đầu không muốn sống, muốn bị mưa bão cuốn chết. Chiêu Quân liên tục biện bạch rằng cô tỉnh dậy và muốn ra ngoài hít thở nhưng cơn mưa đến trút xuống quá nhanh. Trận mưa xối xả này chính là số mệnh của Chiêu Quân, những sinh mệnh ở không gian khác đang bảo vệ Chiêu Quân, họ biết rằng Chiêu Quân gặp phải tai họa này nhưng không tổn hại đến tính mạng.

Thiền Vu Phục Chu Luy thích nhìn Chiêu Quân tràn đầy sức sống, thích Chiêu Quân mặc áo choàng và ôm cây đàn tì bà trên tay, nhưng anh không thích Chiêu Quân chơi những bản nhạc buồn, và cũng không thích cô ấy đau lòng và cau mày. Kỳ thực, sau này mới xuất hiện sự việc Chiêu Quân đau lòng. Sau khi kết hôn với Thiền Vu Phục Chu Luy, trong một bữa tiệc lửa tại một lễ hội, người kể chuyện già râu tóc bạc trắng đã hát những bài ca cổ của Hung Nô, để tưởng nhớ lại vinh quang của tổ tiên, ca ngợi Mặc Đốn Thiền Vu huy hoàng nhất trong lịch sử Hung Nô. Khi nghe đến đoạn Thiền Vu Mặc Đốn giết người phụ nữ yêu dấu của mình, bất giác đột nhiên Chiêu Quân cảm thấy đau lòng, một cảm giác bi thương. Sau này, cảm giác này cũng bất chợt xuất hiện. Chiêu Quân không biết rằng, sự đau lòng này có quan hệ với mối hận trong lịch sử, có quan hệ với Thiền Vu Phục Chu Luy, Thiền Vu Phục Chu Luy trong quá khứ đã từng làm tổn thương bản thân cô, anh có ân oán kiếp trước với Chiêu Quân, ở kiếp sau cũng quyến luyến đối với Chiêu Quân, trong các vị Quân vương của phương Bắc, anh cũng có thể tính vào hàng cực phẩm (hạng nhất) rồi.

Nhìn lại quá khứ, tôi thấy hành trình đã trải qua của một người phụ nữ từ cung đình nhà Hán hướng đến thảo nguyên đảm nhận thiên mệnh, nhìn thấy hành trình của một người phụ nữ xinh đẹp gánh vách trên vai sứ mệnh với trái tim tràn ngập ánh nắng và niềm tự hào. Đã là một anh hùng hào kiệt, Thượng Thiên ban cho họ tài văn có thể an bang, tài võ có thể trị quốc. Với một người phụ nữ, liệu có thể làm được như vậy? Câu trả lời là có. Chiêu Quân được Thượng Thiên giao cho một sứ mệnh như vậy, và để cô ấy đảm nhận sứ mệnh hòa thân, ổn định biên giới giữa nhà Hán và Hung Nô, đồng thời để họ kết duyên với nền văn hóa Hán. Người đời sau đánh giá rất cao vai trò của Chiêu Quân: “Kể từ khi Chiêu Quân ra nơi biên thùy, hai tộc Hán và Hung Nô không có chiến tranh, nhân khẩu đông đúc, vùng biên cương yên ổn, ngựa trâu đầy đàn, ba đời không phát sinh chiến loạn, không có cảnh bắt người đi chiến đấu”.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/273221

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-1)https://chanhkien.org/2022/03/tinh-duyen-noi-tam-gioi-su-menh-cua-vuong-chieu-quan-phan-1-1.htmlMon, 28 Mar 2022 06:39:59 +0000https://chanhkien.org/?p=28454Tác giả: Tử Vi [ChanhKien.org] Trong chương trình biểu diễn Thần Vận năm 2021 có câu chuyện “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”; câu chuyện nói về Chiêu Quân là một mỹ nữ, có hiểu biết sâu sắc đại nghĩa; còn Mao Diên Thọ là một họa sĩ đức hạnh và có mưu lược an […]

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tử Vi

[ChanhKien.org]

Trong chương trình biểu diễn Thần Vận năm 2021 có câu chuyện “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”; câu chuyện nói về Chiêu Quân là một mỹ nữ, có hiểu biết sâu sắc đại nghĩa; còn Mao Diên Thọ là một họa sĩ đức hạnh và có mưu lược an bang trị quốc. Tôi cho rằng câu chuyện đưa lên sân khấu Thần Vận, là diễn theo kịch bản nguyên gốc ban đầu, khôi phục lại lịch sử chân thực. Bộ lịch sử chân thực này là do Sáng Thế Chủ dẫn dắt chúng Thần, vì diễn dịch lịch sử đã tạo nên màn kịch nhân loại. Thiên giới đã an bài cho cuộc đời của Chiêu Quân bao gồm cả việc hoàn thành thiên mệnh, khiến khu vực biên ải đồng hóa Hán pháp (Hán pháp có thể hiểu là chế độ pháp luật của Nhà Hán – chú thích của người dịch) cùng nhiều dụng ý khác. Sau này, thuận theo sự biến dị của đặc tính vũ trụ, đạo đức nhân loại bại hoại, kịch bản nguyên gốc ban đầu bị một số thế lực biến dị ở thiên giới ác ý cải biến, khiến diễn biến sau đó của câu chuyện Vương Chiêu Quân trở nên ai oán, Mao Diên Thọ bị hoàng đế xử tội chết.

Trong tu luyện, tôi có công năng túc mệnh thông, khi đả tọa đã nhìn thấy Vương Chiêu Quân, chứng kiến được hình bóng mỹ lệ, phong tư thoát tục đó, đoạn câu chuyện luân hồi đã qua triển hiện ngay trước mắt tôi như một bộ phim.

Theo tình tiết của câu chuyện, tôi bất ngờ biết về kiếp trước và kiếp sau của Chiêu Quân, một sự an bài trong luân hồi như vậy khiến tôi không khỏi cảm thán: an bài của Thần tuyệt đối không phải vì mục đích đơn nhất, đây là một bút tích danh tác thần truyền, một sự thiết lập luân hồi chu đáo và hoàn mỹ. Luân hồi này lấy vạn lý giang sơn làm vũ đài, lấy những món nợ nghiệp nhân duyên trong luân hồi để dẫn dắt, hơn hai nghìn năm trôi qua, lại tiếp tục tiền thế duyên, hóa giải những món nợ nghiệp, đã viết lên trang sử muôn màu sắc.

Thế nhân say sưa thưởng thức “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”, cho rằng Chiêu Quân là một kỳ nữ đã an định biên giới giữa người Hán và người Hung Nô, là điển tích thành công của chính sách cầu thân “An nguy phó thác nữ nhân”, ca ngợi vẻ đẹp và vai trò chính trị của Chiêu Quân. Khi kể về một sự việc, người ta thường thích kể lại ngọn nguồn của câu chuyện; thường căn cứ trên những gì mà mình đã biết để bình phẩm, xuất phát từ quan điểm và cảm tình của bản thân để đàm luận kiến giải. Thế nhưng hầu hết mọi người thường chỉ biết trên bề mặt, nhìn sự việc luận sự việc, phát biểu ý kiến, chứ không hề biết được thiên cơ ẩn chứa mà thượng giới an bài cho “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”.

Tại không gian mà mắt thường của chúng ta không nhìn thấy có một cơ chế vận chuyển, bạn có thể lý giải thành đĩa xoay thời gian, chúng đang vận chuyển, đang triển hiện thiên tượng. Tôi cho rằng thế gian mỗi lần xuất hiện một câu chuyện xuất chúng, thì đều là kiệt tác của thiên thượng, đều có Thần tác động ở phía sau, đều là bộ phận tổ thành của cơ chế đó.

Đối với sứ mệnh của Vương Chiêu Quân, đối với đoạn lịch sử này, không chỉ đơn giản là tôi muốn mở rộng câu chuyện đã qua trong luân hồi, mà còn muốn từ góc độ luân hồi nhìn lại sự trải nghiệm của nhân sinh; muốn thông qua bút tích của một người tu luyện, để trả lại nguyên gốc cho một câu chuyện lịch sử, đối chiếu lại nhân duyên dẫn dắt, xem xét nhân quả nghiệp báo và an bài của thiên ý. Đây là bản gốc của câu chuyện, hy vọng rằng câu chuyện này có thể hoán tỉnh ký ức của bạn, dẫn khởi sự đồng cảm của bạn.

1. Thiên giới an bài nhân gian kịch, chư thần lãnh mệnh nhập thế gian

Mọi người đều nói “Vạn cổ nhân gian thần an bài”, đây là sự thật không cần bàn cãi. Câu chuyện “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân” này cũng là an bài của thiên giới. Thậm chí trải nghiệm nhân sinh khi hạ thế của những vị Thần Tiên, cũng đã được an bài từ khi ở thiên giới rồi. Thiên giới có một kịch bản “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”, Chiêu Quân đại biểu cho văn hóa của người Hán, lai nguyên của triều đại nhà Hán rất thâm sâu, có uyên nguyên với tầng vũ trụ thứ tư. Chiêu Quân được chọn là đại biểu của tầng thiên thể đó, để cùng kết duyên với tộc Hung Nô, phương thức biểu hiện là hòa thân (là một chính sách chính trị của các quân vương Đông Á, khi quyết định gả con gái chính mình hoặc nội tộc cho quân chủ nước khác đổi lấy mối quan hệ hữu hảo giữa hai nước – người dịch chú thích). Mà Hung Nô tộc, cũng là những sinh mệnh đến từ những thiên thể xa xôi, họ hy vọng kết duyên với vùng đất người Hán, đồng hóa với Hán pháp.

Thần Tiên trên thiên giới cân nhắc cẩn thận, đã an bài tường tận vở kịch “Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân”. Khi triển hiện kịch bản này, các vị Thần Tiên cùng ngồi lại với nhau. Trong đó có một tiên tử mỹ lệ, tên là Hựu Ninh, đôi mắt sáng và cổ tay trắng ngọc ngà, vẻ mặt rạng rỡ. Nàng mặc một bộ váy trắng, trong chiếc áo choàng có những đường viền, trên tay cầm một cuộn giấy, trên đó có thiên mệnh an bài những sự việc mà nàng cần tiếp nhận. Đi cùng nàng hoàn thành sứ mệnh còn có một số Thần Tiên khác, trong đó có một vị tên là Vĩnh Khôn với bộ trang phục của thiên tướng, uy vũ siêu phàm, vị ấy cười với Hựu Ninh tiên tử và nói: “Tôi và tiên tử cùng nhau hoàn thành thiên mệnh, giúp khu vực biên ải đồng hóa Hán pháp, đảm đương sự giao phó của thiên giới, hoàn thành sứ mệnh, thế nhưng hồng trần cuồn cuộn, nhân thế ô trọc, chỉ e rằng bản tính trong khiết bị bụi trần bao phủ, ký ức thanh minh bị vấy bẩn, tiên tử có vật định ước không, khiến ký ức của tôi khi cần có thể chợt lóe sáng lên”. Hựu Ninh tiên tử cười nói: “Tôi mang theo làn da của mình, khuôn mặt cũng giống như khi ở thiên giới, ngài hãy nhớ trang phục của tôi lúc này, đến lúc đó, phần linh quang trong ký ức của ngài sẽ chợt sáng lên. Vĩnh Khôn chăm chú nhìn Hựu Ninh tiên tử, ghi nhớ kỹ dung nhan và trang phục của nàng trong ký ức, khóa chặt trong tâm trí.

Còn có một vị tiên tử khác nói với Vĩnh Khôn: “Tôi có thể đưa cho bạn một phần ký ức”. Trong lúc nói, tiên tử đưa cho Hựu Ninh một cái đàn tì bà ánh vàng kim. Hựu Ninh tiên tử tiện tay đơn tấu tì bà, chiếc đàn phát ra âm thanh dễ chịu, thiên âm đó cũng khóa tại trong tâm trí Vĩnh Khôn. Chúng Thần Tiên tiếp nhận sứ mệnh lần lượt hạ xuống phàm trần, một màn kịch lớn trong lịch sử sắp bắt đầu khai diễn.

Trong kịch bản đã định, những sinh mệnh đến từ cao tầng này sẽ mê lạc mà coi màn kịch nhân gian này là cố hương và thực sự bị ràng buộc bởi ái tình thế gian.

2. Chiêu Quân nhập cung bị bỏ rơi, Thiền Vu nam tiến kết nhân duyên

Vương Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, từ nhỏ học rộng và có trí nhớ rất tốt, đọc thuộc các kinh điển thời Tiên Tần, rất thích đọc “Đạo Đức Kinh”, dung mạo tú mỹ, tâm địa thiện lương, được cha mẹ yêu quý. Hán Nguyên Đế muốn mở rộng nội cung, phái người tuyển mỹ nữ nhập cung, Vương Tường bị quan lại cưỡng ép rời khỏi gia đình. Vì là một cô gái xinh đẹp và tài năng, trong tâm nàng từng có những mộng tưởng đẹp, hy vọng có được sự coi trọng của quân vương, khao khát được gặp lại cha mẹ. Thế nhưng trong mệnh chủ định rằng nàng và thiên tử triều Hán không có duyên vợ chồng. Hán Nguyên Đế vô luận thế nào cũng nghĩ không ra được rằng, bản thân mình mở rộng hậu cung, nhưng trong hữu ý vô ý, chuẩn bị cống nạp một giai nhân cho người Hung Nô ở phương bắc.

Họa gia Mao Diên Thọ, kỹ năng hội họa tuyệt vời, nhìn thấy Chiêu Quân, đôi mắt sáng ngời, cho rằng người con gái này nhất định sẽ được quân vương yêu thích. Nhưng nô tài trong cung lại dùng tay che trời, khiến hoàng đế không tiếp kiến Chiêu Quân, cho dù có đẹp như hoa như ngọc, không tiền tài đút lót sẽ bị gièm pha. Dù tranh của Mao Diên Thọ có đẹp đến mấy, cũng không thể xuất hiện trước mắt hoàng đế.

Phương Bắc của Hán Triều là một Hung Nô hùng mạnh, lãnh thổ rộng lớn, nhưng vì nội bộ phân liệt, khiến họ chinh chiến mãi không thôi. Triều đình nhà Hán giúp Thiền Vu Hung Nô là Hô Hàn Tà có được quyền lực, Thiền Vu vì muốn biểu thị thành ý cảm tạ, tự thân tới Trường An. Trong cung, Thiền Vu nhìn thấy công chúa mỹ lệ, nên đã nhiều lần thỉnh cầu kết thân công chúa, hy vọng hoàng đế sẽ đồng ý. Công chúa cầu xin phụ hoàng rằng đừng đồng ý hứa hôn với Thiền Vu, hoàng hậu cũng cùng thỉnh cầu khiến hoàng đế lâm vào thế khó xử.

Mao Diên Thọ hiến một kế sách với hoàng đế, tâu rằng trong số những người con gái nhập cung, có một mỹ nữ tuyệt sắc, có thể thay thế công chúa hứa hôn, rồi đưa ra bức tranh. Hoàng đế nhìn thấy bức tranh, rất vui mừng, cho rằng có thể giải quyết khó khăn trước mắt. Hoàng đế cho triệu kiến Vương Tường, nhìn thấy Vương Tường có nước da như ngọc, lông mày thanh tú, đôi mắt sáng trong, phong thái duyên dáng, quả là một người con gái thoát tục siêu phàm. Hoàng đế sững sờ, hai mắt sáng rực, đầu óc quay cuồng, muốn đổi ý giữ Vương Tường lại. Hoàng hậu lại khóc lóc khiến hoàng đế không biết phải làm thế nào.

Mao Diên Thọ trợ giúp Vương Tường gả cho Hô Hàn Tà Thiền Vu, khi Vương Tường do dự, Mao Diên Thọ giải thích cho Vương Tường tình thế của biên cương: Hung Nô tuy rằng phân liệt, nhưng thế lực cường đại, quốc gia có mỗi lo ngoại hoạn, chính sách “hòa thân” có thể an định biên cương, Vương Tường hiểu rõ đại nghĩa nên đã nghe theo lời khuyên giải của họa gia.

Thiền Vu Hô Hàn Tà nhìn thấy Vương Tường có khí chất tao nhã, đoan trang và xinh đẹp, trong lòng rất vui, quyết ý có được Vương Tường. Hoàng thượng đặc cách ban tặng cho Vương Tường chữ “Chiêu Quân”, phong làm “Công chúa Vĩnh An”, giao phó trách nhiệm nặng nề: Sau khi gả sang biên ải, cần giữ hòa khí với nước láng giềng, gia đạo yên ổn. Hoàng hậu ban cho một cây đàn tỳ bà vàng. Chiêu Quân ôm đàn tì bà và hát, hoàng đế rất buồn bã. Người đời sau giễu cợt Hán Nguyên Đế rằng dùng cách xem tranh để chọn mỹ nữ thị tẩm, nhưng lại để lỡ mất Chiêu Quân. Kỳ thực, đây chính là an bài của thiên thượng, bởi vì sứ mệnh của Chiêu Quân là tại biên ải hoằng dương Hán văn hóa, kết duyên Hung Nô.

Chiêu Quân trong lúc chờ xuất giá thì ở trong cung, học tập ngôn ngữ và tập tục Hung Nô. Các cuốn sách trong Tàng thư các thì Chiêu Quân đều có thể đọc. Trong một mật thất, Chiêu Quân tìm thấy thấy bức thư của công chúa Giải Ưu (được gả đi tới nước Ô Tôn ở xa), trong thư Chiêu Quân thấy được hành trình gian nan và tấm lòng trung trinh với quốc gia của công chúa Giải Ưu, từ đó đã có cái nhìn khác đối với chính sách “hòa thân”.

Thu cao khí thanh, ngựa hí vang trời, Chiêu Quân trang phục đầy đủ rời khỏi cung, hoàng đế vẫn còn lưu luyến. Đoàn người “hòa thân” đi lên phía bắc, thời tiết mát mẻ, phong cảnh rất khác biệt, nhìn đàn ngỗng trời bay về phương nam, thấy cảnh đường mịt mù, Chiêu Quân vừa nhớ nhà vừa buồn, liền thốt lên “Con đường phía trước còn xa”, rồi rơi lệ. Thiền Vu Hô Hàn Tà nắm tay người đẹp, hỏi lý do rơi nước mắt. Chiêu Quân đáp: “Nhớ quê hương”. Thiền Vu Hô Hàn Tà thuyết phục người đẹp, Chiêu Quân thì diễn giải câu nói của Thiền Vu bằng tiếng Trung như sau: “Chồng ở đâu, đó là nhà, hãy quên quê hương ở phương Nam, thích nghi cuộc sống phương Bắc. Người phụ nữ ở miền quê ta, mặt trời mọc đi ra khỏi nhà làm việc, mặt trời lặn vẫn chưa nghỉ ngơi, người chồng chưa trở về, sói tấn công vào ban đêm, phụ nữ cầm gậy đánh sói, đàn chó dữ xông lên, người phụ nữ rất mạnh mẽ, coi giữ chòi nỉ, nuôi con, bảo vệ đàn gia súc, không yếu mềm. Nàng là vợ của ta, sẽ không có việc bị vất vả như vậy, ta sẽ đối xử với nàng như ngọn nguồn của trái tim ta, vui lên đi.” Chiêu Quân lau nước mắt gật đầu, trong lòng ghi nhớ, đây là lời dạy của chồng.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/273221

The post Câu chuyện luân hồi: Sứ mệnh của Vương Chiêu Quân (Phần 1-1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>