Câu chuyện lịch sử | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnTue, 08 Apr 2025 12:14:15 +0000en-UShourly1Câu chuyện lịch sử: Ngô Khởi không được chết yên lànhhttps://chanhkien.org/2025/01/cau-chuyen-lich-su-ngo-khoi-khong-duoc-chet-yen-lanh.htmlThu, 16 Jan 2025 23:53:04 +0000https://chanhkien.org/?p=35885Tác giả: Đồng tu Đại Lục [ChanhKien.org] Ngô Khởi là người nước Vệ thời đầu Chiến Quốc, ông là nhà quân sự, chính trị gia, nhà cải cách, và là nhân vật quân sự tiêu biểu có tiếng. Trong suốt cuộc đời của mình, ông làm quan cho ba nước Lỗ, Ngụy và Sở, ông […]

The post Câu chuyện lịch sử: Ngô Khởi không được chết yên lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đồng tu Đại Lục

[ChanhKien.org]

Ngô Khởi là người nước Vệ thời đầu Chiến Quốc, ông là nhà quân sự, chính trị gia, nhà cải cách, và là nhân vật quân sự tiêu biểu có tiếng. Trong suốt cuộc đời của mình, ông làm quan cho ba nước Lỗ, Ngụy và Sở, ông thông hiểu tư tưởng của Binh gia, Pháp gia và Nho gia, đồng thời có rất nhiều thành tựu to lớn trong các lĩnh vực quân sự và chính trị. Tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể tới “Ngô tử binh pháp”, ông và binh thánh Tôn Vũ được gọi là “Tôn Ngô”, có thể nói ông là một vị tướng lĩnh văn võ toàn tài. Thời Đường Túc Tông, ông được liệt vào Võ Thành Vương Miếu, trở thành một trong 10 triết gia trong Võ Miếu; thời Tống Huy Tông, ông được truy phong tước hiệu là Quảng Tông Bác, trở thành một trong 72 tướng của Võ Miếu.

Ngô Khởi trở thành tướng quân khi còn ở nước Lỗ, và đánh bại quân Tề khi nước Tề tấn công nước Lỗ. Mặc dù ông đã lập được đại công, nhưng sau lưng lại có người nói với Lỗ Hầu rằng: “Khi mẹ của Ngô Khởi chết, ông không về chịu tang, giờ lại giết vợ để cầu công danh, có thể thấy Ngô Khởi là một người tàn nhẫn mà đức hạnh nông cạn”. Ngô Khởi lo sợ vì công mà bị tội nên đã chạy sang nước Ngụy.

Lý Khắc nói với Ngụy Văn Hầu rằng, mặc dù Ngô Khởi tham lam mỹ sắc, nhưng lại là tướng tài có thể dẫn binh giết địch, nên Ngụy Văn Hầu phong Ngô Khởi làm đại tướng. Ngô Khởi không phụ sự ủy thác, một mạch chiếm được năm thành trì của nước Tần, chiếm lĩnh vùng Tây Hà, và đảm nhận chức thống đốc quận Tây Hà, giúp Ngụy Văn Hầu thành tựu bá nghiệp. Đến thời Ngụy Võ Hầu, tướng quốc mới vì tật đố và sợ Ngô Khởi, liền bày kế hãm hại ông, khiến Ngụy Võ Hầu không tín nhiệm Ngô Khởi nữa. Vì sợ bị giết nên ông đã chạy trốn đến nước Sở.

Sở Điếu Vương phong Ngô Khởi làm tướng quốc, trợ giúp Sở Điếu Vương thực hành cải cách. Ngô Khởi sửa đổi luật pháp, thẩm định lại các sắc lệnh, xóa bỏ các chức quan dư thừa, phế bỏ đi những quý tộc không thân với nhà vua, tiết kiệm kinh phí để cho việc huấn luyện quân đội, củng cố năng lực phòng ngự của nước Sở. Sức mạnh quốc gia được gia tăng lên mạnh mẽ, lại bình định được tộc Bách Việt ở phía nam, đánh bại nhà Tam Tấn ở phía bắc, chinh phạt nhà Tần hùng mạnh ở phía tây, trong một thời gian ngắn mà uy danh vang xa. Nhưng sau khi Sở Điếu Vương chết, đại thần Quý Thích Môn giành được quyền lực, thừa cơ truy sát Ngô Khởi, Ngô Khởi cuối cùng bị loạn tiễn bắn chết, hưởng thọ 59 tuổi.

Mặc dù Ngô Khởi tài năng xuất chúng, công trạng lớn lao, nhưng phẩm đức thấp kém. Ông ta thèm muốn công danh, tự cho mình có công lao mà kiêu ngạo, để đạt được thành công mà bất chấp thủ đoạn; mặc dù ông ta học qua Nho thuật nhưng bản thân lại không có lòng khoan dung và sự nhân ái, ngược lại, lại là một kẻ lạnh lùng vô tình, hà khắc tàn bạo, đam mê giết chóc.

Ngô Khởi sinh ra trong một gia đình giàu có, từ sớm có chí làm quan nhưng không thành, đã thế lại làm tiêu hao toàn bộ gia sản nên bị làng xóm chê cười, vì thế ông ta đã giết hơn 30 người chế nhạo mình. Khi từ biệt mẫu thân, ông ta cắn vào cánh tay mình mà nói: “Nếu Ngô Khởi con không làm được chức Khanh Tướng thì tuyệt sẽ không trở về nước Vệ”. Đến khi mẹ bị bệnh mà chết, ông ta cũng không về chịu tang. Ngô Khởi bái Tằng Thân con của Tằng Sâm làm Sư học Nho thuật, Tằng Thân nổi giận vì ông ta bất hiếu, nên đoạn tuyệt quan hệ thầy trò.

Ngô Khởi từng bảo vợ dệt một dây thắt lưng bằng lụa, nhưng vì dây lưng dệt xong không phù hợp với yêu cầu của mình, nên ông liền bỏ vợ. Khi làm quan ở nước Lỗ, nước Tề đem quân thảo phạt nước Lỗ, nước Lỗ muốn phong Ngô Khởi làm đại tướng, nhưng vì ông có vợ là người nước Tề, nên nước Lỗ không tin tưởng. Để được làm tướng quân, Ngô Khởi đã giết người vợ đó.

Ngụy Văn Hầu phong Điền Văn làm Tướng quốc, trong tâm Ngô Khởi bất bình, ở trước mặt Điền Văn so công trạng, cho rằng bản thân thống lĩnh ba quân, anh dũng giết địch, giúp Ngụy quốc xưng cường, sửa trị trăm quan, vỗ về bách tính, làm giàu cho ngân khố, trấn thủ Tây Hà, chấn nhiếp các nước láng giềng, chống lại quân địch xâm phạm bờ cõi v.v… phương diện nào cũng đều hơn hẳn Điền Văn, bất mãn vì chức quan của Điền Văn cao hơn bản thân mình. Mặc dù Ngô Khởi quý trọng binh lính, khuyên Ngụy Văn Hầu dùng đức trị quốc, nhưng mục đích chỉ vì để chiến tranh và cai trị, chứ không phải xuất phát từ thiện lương và nhân ái.

Chúng ta nhìn thấy được rằng, cho dù là anh hùng trong mắt con người thế gian, nhưng nếu như không biết trọng đạo đức, tùy tiện hành ác, bất luận là người đã lập được công lao to lớn đến đâu, thành tựu được tiếng tăm tới nhường nào, thì cuối cùng cũng không có phúc để hưởng thụ, chỉ có thể rơi vào kết cục bi thảm mà thôi. Công danh lợi lộc là vật ngoài thân, mộng ảo khói mây chẳng mấy chốc hóa thành không, chỉ lưu lại cho bản thân những làn sóng nghiệp lực đen cuồn cuộn, mà tự mình phải chịu thống khổ để tiêu giảm trong nhân quả báo ứng!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/291532

The post Câu chuyện lịch sử: Ngô Khởi không được chết yên lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Điền Đan dùng trâuhttps://chanhkien.org/2025/01/cau-chuyen-lich-su-dien-dan-dung-trau.htmlFri, 10 Jan 2025 07:04:10 +0000https://chanhkien.org/?p=35827Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Vào thời Chiến Quốc quân Yên tấn công và chiếm đóng gần như toàn bộ lãnh thổ nước Tề, chỉ còn lại hai thành Tức Mặc và Cử là chưa bị công hạ. Điền Đan, tướng giữ thành Tức Mặc vốn túc trí đa mưu, cuối cùng ông nói với […]

The post Câu chuyện lịch sử: Điền Đan dùng trâu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Vào thời Chiến Quốc quân Yên tấn công và chiếm đóng gần như toàn bộ lãnh thổ nước Tề, chỉ còn lại hai thành Tức Mặc và Cử là chưa bị công hạ. Điền Đan, tướng giữ thành Tức Mặc vốn túc trí đa mưu, cuối cùng ông nói với quân Yên: “Lương thực trong thành giờ đã cạn, xin hãy đợi đến ngày mai chúng tôi sẽ rời khỏi thành và đầu hàng”.

Đêm ấy Điền Đan thu trong thành được hơn một nghìn con trâu, ông cho người mặc lụa đỏ lên mình trâu, vẽ hình giao long, buộc dao găm ở đầu sừng trâu, buộc mồi lửa vào đuôi trâu rồi thả chúng đồng loạt xông ra và cho binh sĩ đi tiếp theo sau, còn dân trong thành thì cùng nhau đánh trống hò hét. Quân Yên đang ngủ giật mình tỉnh giấc thấy bao nhiêu con quái vật có sừng sắc nhọn, thân hình kỳ dị đang điên cuồng xông đến liền hoảng sợ bỏ chạy, Điền Đan thừa thắng truy kích quân Yên, chỉ trong vòng vài tháng sau đã thu về lãnh thổ nước Tề như cũ.

Ai có thể nghĩ ra được việc dùng trâu cày ruộng làm quân tiên phong đánh trận? Do đó mưu kế của Điền Đan đã thu được hiệu quả kỳ diệu. Tuy thế đội quân trâu lửa có thể thành công đại khái là vì vận mệnh nước Tề chưa đến lúc diệt vong.

Theo Sử ký

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/47947

The post Câu chuyện lịch sử: Điền Đan dùng trâu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Ba câu chuyện về lòng khoan dunghttps://chanhkien.org/2024/08/cau-chuyen-lich-su-ba-cau-chuyen-ve-long-khoan-dung.htmlThu, 29 Aug 2024 03:00:30 +0000https://chanhkien.org/?p=33976Tác giả: Kỷ Văn [ChanhKien.org] Câu chuyện thứ nhất: Thời Bắc Tống, ở huyện Sa Dương tỉnh Hồ Bắc nay là phía đông bắc Gia Ngư, có một học giả nổi tiếng tên là La Khả thông thạo thơ văn, tính tình khoan dung hào hiệp, sau khi bị bãi miễn chức quan ông đã […]

The post Câu chuyện lịch sử: Ba câu chuyện về lòng khoan dung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Kỷ Văn

[ChanhKien.org]

Câu chuyện thứ nhất:

Thời Bắc Tống, ở huyện Sa Dương tỉnh Hồ Bắc nay là phía đông bắc Gia Ngư, có một học giả nổi tiếng tên là La Khả thông thạo thơ văn, tính tình khoan dung hào hiệp, sau khi bị bãi miễn chức quan ông đã từ bỏ con đường làm quan. Vì học vấn cao thâm và tính cách khiêm nhường của mình nên ông được làng xóm kính trọng gọi là La tiên sinh.

Lần nọ, có một người đến vườn nhà ông lấy trộm rau và bị ông phát hiện ra. Ông rón rén nhẹ nhàng ẩn mình giữa những bụi cỏ vì sợ làm kinh động tên trộm, cho đến tận khi tên trộm rau rời đi ông mới đi ra. Lần khác, lại có một người lấy trộm và làm thịt con gà của ông. Ông mang theo một bình rượu đến nhà của người ăn trộm gà. Người ăn trộm gà vô cùng xấu hổ. La Khả lại cầm tay anh ta và nói: “Rất may mắn vì cùng là đồng hương với anh, nhưng lại không thể làm gà và chuẩn bị rượu ngon để chiêu đãi anh, tôi thực sự cảm thấy ngại quá”. Thế là ông cùng người trộm gà uống rượu cho đến tận lúc say mới về. Thậm chí ông không kể chuyện đó với ai. Từ đó không có ai đến lấy trộm thứ gì của ông nữa.

Câu chuyện thứ hai:

Ngụy Hiếu Văn Đế là vị quân vương thứ sáu thời Bắc Ngụy, ngay từ khi còn thơ ấu ông đã là người nhân từ thiện lương, vô cùng độ lượng.

Có một lần người hầu bưng đồ ăn tiến dâng lên cho ông, không may làm đổ canh nóng lên tay Hiếu Văn Đế. Người hầu sợ hãi vội quỳ xuống đất xin tha tội. Hiếu Văn Đế không hề trách phạt anh ta, cũng không giáng tội anh ta. Còn có một lần khác, trong khi Hiếu Văn Đế dùng bữa, bỗng nhiên ông phát hiện trong đồ ăn có côn trùng và rác bẩn, Hiếu Văn Đế chỉ cười mà không trách phạt Ngự Thiện phòng.

Câu chuyện thứ ba:

Khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Thái tổ Hoàng đế của nhà Thanh tấn công thành Ông Khoa Lạc, ông bị trúng một mũi tên từ đối thủ của mình là Ngạc Nhĩ Quả Ni, máu tươi chảy đến tận chân. Lại có một người tên là Lạc Khoa, bắn mũi tên trúng vào cổ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, mũi tên đó có móc ngược, ông rút mũi tên ra, máu lập tức tuôn như suối, khiến ông ngất đi. Sau này khi công hạ được thành Ông Khoa Lạc, Ngạc Nhĩ Quả Ni và Lạc Khoa đều bị bắt, nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Xích không trừng phạt họ, thậm chí còn phong chức quan cho hai người.

Trong từ điển văn hóa đảng của ác đảng Trung Cộng, hai chữ khoan dung chỉ có danh xưng chứ không có thực chất, nội hàm ý nghĩa của nó đã bị ép buộc thêm vào nhân tố giả – ác – đấu. Trên miệng người ta nói khoan dung nhưng thực chất lại sử dụng thủ đoạn và phương pháp đấu tranh – “người không phạm ta, ta không phạm người, nếu như người phạm ta, ta tất sẽ phạm người”. So với sự khoan dung trong văn hoá truyền thống là hoàn toàn ngược lại. Chỉ bằng cách thuận theo trào lưu tam thoái hiện nay, tuyển chọn thoái xuất khỏi các tổ chức đảng, đoàn, đội của tà giáo ác đảng Trung Cộng, nghiêm túc đọc kỹ hai cuốn kỳ thư “Cửu bình” và “Giải thể văn hoá đảng” mới có thể thoát khỏi sự khống chế của văn hoá đảng trong tư duy và tinh thần, mới có thể thực sự quay trở về với văn hoá truyền thống, mới có thể khôi phục lại sự huy hoàng của dân tộc Trung Hoa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/119343

The post Câu chuyện lịch sử: Ba câu chuyện về lòng khoan dung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Minh Thành Tổ quan sát thiên tượng, tiên đoán tướng quân Chu Năng gặp nạnhttps://chanhkien.org/2024/07/cau-chuyen-lich-su-minh-thanh-to-quan-sat-thien-tuong-tien-doan-tuong-quan-chu-nang-gap-nan.htmlTue, 02 Jul 2024 04:12:23 +0000https://chanhkien.org/?p=33450Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Người Trung Quốc cổ đại tin vào học thuyết thiên tượng (còn gọi là quan sát thiên văn), triều đình có những chức quan đặc biệt như “Khâm Thiên Giám” để báo cáo về những biến hoá của thiên tượng, cung cấp thông tin để các hoàng đế tham khảo. […]

The post Câu chuyện lịch sử: Minh Thành Tổ quan sát thiên tượng, tiên đoán tướng quân Chu Năng gặp nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Người Trung Quốc cổ đại tin vào học thuyết thiên tượng (còn gọi là quan sát thiên văn), triều đình có những chức quan đặc biệt như “Khâm Thiên Giám” để báo cáo về những biến hoá của thiên tượng, cung cấp thông tin để các hoàng đế tham khảo. Một số hoàng đế thậm chí còn tự mình nghiên cứu học thuyết thiên tượng, Minh Thành Tổ là một trong số đó.

Dưới thời Minh Thành Tổ có một vị đại tướng quân tên là Chu Năng, tự là “Sỹ Hoằng”, ông là người lập được nhiều chiến công dưới thời Minh Thành Tổ: Chiếm được Cửu môn Bắc Bình trong chiến dịch Tĩnh Nan, lại từng trong lúc nguy cấp không màng sinh tử bảo hộ Minh Thành Tổ. Vì Chu Năng có nhiều công lao nên được phong tới chức Tả quân Đô đốc phủ tả Đô đốc, phong tước Thành Quốc công, gia phong Thái tử Thái phó.

Năm Vĩnh Lạc thứ tư (năm 1406 Công nguyên), Chu Năng đảm nhận chức Chinh Di Tướng quân đi chinh phạt quân địch ở phía nam. Khi đại quân Tây Nam hành quân tiến về Quảng Tây, hoàng đế Minh Thành Tổ nhà Minh nói với các quan đại thần của mình, rằng: “Trẫm dạ sát thiên tượng, Tây soái hữu ưu, kỳ Chu Năng hồ? Nhiên năng túc bạn tư sự, trẫm đệ lự khí hậu phi sở tập nhĩ”. Đại ý nói rằng: “Ta quan sát thiên tượng vào ban đêm, Thống soái của ta hành quân về Tây sẽ gặp chuyện buồn, có lẽ nào là ứng trên thân Chu Năng? Tài năng của Chu Năng đủ sức chiến thắng quân địch, nhưng ta lại lo lắng ông ấy không thích nghi được với khí hậu miền nam”.

Mười mấy ngày sau đó, tin tức về cái chết của Chu Năng được truyền đi, hóa ra là khi ông dẫn quân đến Long Châu ở phía tây nam Quảng Tây, quả nhiên mắc bệnh qua đời đúng như Minh Thành Tổ đã nhìn thấy biến hoá của thiên tượng. Minh Thành Tổ nhìn thấy “Tây soái hữu ưu” ở đây hoá ra chính là “ưu” (âu lo) về sinh mệnh! Minh Thành Tổ chính vì vậy mà hết sức kinh hãi và đau buồn, ông đã cho bãi triều năm ngày, ban cho Chu Năng được an táng ở Xương Bình, truy phong tước Đông Bình vương, ban thụy hiệu là Võ Liệt. Kỳ thực thiên nhân cảm ứng của người Trung quốc cổ đại, học thuyết thiên tượng là vô cùng có đạo lý. Những biến hoá của thiên tượng xác thực là đối ứng với những sự việc lớn ở nhân gian. Cuộc chiến thương mại hiện nay, đại dịch viêm phổi và các sự kiện lớn khác, tất cả đều xảy ra dưới sự biến hoá của thiên tượng “Trời diệt Trung Cộng”, sự diệt vong của Trung Cộng là thiên ý không thể ngăn cản được. Con người trên trái đất nếu mong muốn được bình an, duy chỉ có thuận theo thiên ý, thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng, rời xa Trung Cộng mà thôi.

Tài liệu gốc: “Thành quốc Chu công Đông Bình Vũ Liệt vương thần đạo bia minh”, “Minh sử – Chu Năng truyện”

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/258847

The post Câu chuyện lịch sử: Minh Thành Tổ quan sát thiên tượng, tiên đoán tướng quân Chu Năng gặp nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Các nho sinh vượt biển nhìn thấy Thần biểnhttps://chanhkien.org/2024/06/cau-chuyen-lich-su-cac-nho-sinh-vuot-bien-nhin-thay-than-bien.htmlFri, 28 Jun 2024 03:38:29 +0000https://chanhkien.org/?p=33425Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào triều Minh thời Gia Tĩnh năm Đinh Dậu (Gia Tĩnh năm thứ 16, năm 1537 Công nguyên), các tú tài ở Quỳnh Châu (nay là tỉnh Hải Nam) lần lượt vượt biển tham gia thi khoa cử. Một hôm, một chiếc thuyền đang đi trên biển, đột nhiên có […]

The post Câu chuyện lịch sử: Các nho sinh vượt biển nhìn thấy Thần biển first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào triều Minh thời Gia Tĩnh năm Đinh Dậu (Gia Tĩnh năm thứ 16, năm 1537 Công nguyên), các tú tài ở Quỳnh Châu (nay là tỉnh Hải Nam) lần lượt vượt biển tham gia thi khoa cử.

Một hôm, một chiếc thuyền đang đi trên biển, đột nhiên có người nhìn thấy Thần biển đứng trên mặt biển. Thần biển thân cao hơn một trượng, tóc màu đỏ ửng, râu rất dài, đầu đội mũ miện, thân đeo bảo kiếm, khí thế uy nghiêm phi phàm. Những người đi cùng phía sau đều nhìn thấy, lúc đó tất cả mọi người đều hết sức kinh ngạc, có người hiểu biết sâu rộng liền lập tức nhận ra đây là Thần biển hiển hiện, liền cùng mọi người quỳ xuống khấu bái, kính bái Thần biển. Tiếp đó mọi người nhìn thấy Thần biển bay rất nhanh ngang qua thuyền của họ, lưu lại một dải Thần quang rất lâu mà không hề biến mất. Ngày thứ hai, lại có ba chiếc thuyền vượt biển, người trên thuyền cũng nhìn thấy cảnh tượng đó. Nhưng đáng tiếc thay, những người trên thuyền kể cả những vị tú tài cũng đều không biết đó là Thần biển, sôi nổi đánh trống reo hò, phát ra các loại âm thanh, mong rằng như thế sẽ nhanh chóng xua đuổi “vật cản” đó, kết quả Thần biển đột nhiên biến mất, không lâu sau ba chiếc thuyền gặp phải sóng to gió lớn đều bị chìm.

Câu chuyện rất ngắn gọn, hai đoàn thuyền vượt biển có thái độ đối với Thần biển hoàn toàn khác nhau: đoàn thuyền thứ nhất nhận ra đó là Thần linh liền tiến hành kính bái, nên đã bình an vào bờ; đoàn thuyền thứ hai không biết đó là hiển hiện của Thần, đánh trống reo hò để xua đuổi, kết quả gặp phải sóng to gió lớn nên đã bị chìm thuyền.

Câu chuyện này nói rõ tính trọng yếu của việc tôn kính Thần, con người có tín ngưỡng chân chính và tâm kính úy đối với Thần Phật, thì Thần sẽ bảo hộ cho họ; ngược lại con người khinh nhờn Thần Phật ắt sẽ có báo ứng. Trung Cộng hiện giờ, làm giàu từ thuyết vô thần và làm đủ thứ việc xấu xa, khinh nhờn Thần Phật, kết quả chắc chắn sẽ bị chìm giống như ba chiếc thuyền phía sau như trong ghi chép của lịch sử. Trên thực tế, Trung Cộng như một con thuyền bị hỏng, trong nhiều thập kỷ đối kháng với làn sóng dân chủ mạnh mẽ, con đường thuận buồm xuôi gió thì nó không đi, cứ ngược dòng mà đi, sóng gió tự nhiên càng ngày càng lớn.

Hiện tại Trung Cộng trên trường quốc tế ngày càng bị cô lập, kẻ cầm đầu hiện tại của nó cũng cảm thấy có gì đó không ổn, trong báo cáo của mình trước Đại hội 20, ông ta nói: “Hãy chuẩn bị tinh thần để đối mặt với sóng to gió lớn, và thậm chí là khảo nghiệm của phong ba bão táp”. Thật ra nhiều quan chức tham nhũng lớn nhỏ trong Trung Cộng đều giống như chuột và mối, từ sớm đã khiến chiếc thuyền bị thủng lỗ chỗ, một khi gặp phải sóng to gió lớn sẽ bị giải thể đắm chìm.

Những người sáng suốt từ sớm đều biết rõ Trung Cộng đã hoàn toàn bước tới con đường giải thể và hủy diệt không lối thoát. Tất cả những người đã từng tham gia các tổ chức của Trung Cộng, nếu không thoái xuất khỏi các tổ chức đó sẽ giống như Trung Cộng mà bị tiêu hủy, hủy diệt, nếu muốn được bình an chỉ có thể nhanh chóng tuyên bố thanh minh thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/278977

The post Câu chuyện lịch sử: Các nho sinh vượt biển nhìn thấy Thần biển first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Địch Nhân Kiệt không tham sắc dục, thành tựu sự nghiệphttps://chanhkien.org/2023/06/cau-chuyen-lich-su-dich-nhan-kiet-khong-tham-sac-duc-thanh-tuu-su-nghiep.htmlThu, 15 Jun 2023 02:40:10 +0000https://chanhkien.org/?p=30459Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Địch Nhân Kiệt là người Thái Nguyên, tỉnh Tịnh Châu, nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, tự là Hoài Anh, sinh vào năm Trinh Quán thứ tư triều Đường (năm 630), mất vào những năm Võ Tắc Thiên thời kỳ […]

The post Câu chuyện lịch sử: Địch Nhân Kiệt không tham sắc dục, thành tựu sự nghiệp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Địch Nhân Kiệt là người Thái Nguyên, tỉnh Tịnh Châu, nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, tự là Hoài Anh, sinh vào năm Trinh Quán thứ tư triều Đường (năm 630), mất vào những năm Võ Tắc Thiên thời kỳ đầu (năm 700), là tể tướng nổi tiếng của Đại Đường dưới triều Võ Tắc Thiên. Địch Nhân Kiệt làm quan thanh liêm, chính trực và nghiêm minh, lấy thân mình làm gương cho người khác, vì lợi ích của bách tính mà dám lên tiếng, một mực bảo vệ chăm lo cho bách tính, không sợ thế lực cường quyền, người đời sau gọi ông là “trụ cột của nhà Đường”. Sau đây tôi xin kể cho mọi người nghe một câu chuyện nhỏ về thời trẻ của Địch Nhân Kiệt.

Thời niên thiếu, Địch Nhân Kiệt có tài văn chương hơn người, tướng mạo lại càng khôi ngô xuất chúng. Có một lần, trên đường lên kinh thành dự thi ông ở lại một quán trọ, đêm khuya tĩnh lặng, khi Địch Nhân Kiệt đang chăm chú tập trung đọc sách dưới ánh đèn thì có người gõ cửa bước vào, hoá ra là cô con dâu xinh đẹp của người chủ quán trọ. Cô ấy là một góa phụ trẻ, ban ngày nhìn thấy Địch Nhân Kiệt khí chất nho nhã tới tìm chỗ trọ, không kìm được nảy sinh tình cảm, nhân cơ hội này để được gần gũi.

Địch Nhân Kiệt thấy người thiếu phụ lưu luyến không rời đi, liền nói một cách ôn hoà: “Cô còn trẻ lại xinh đẹp như vậy, đang lúc đêm thâu tịch lặng cùng ta nỉ non tâm sự, e khó tránh làm lòng người rung động. May thay trước kia có vị hòa thượng già đã từng nhắc nhở ta không được tham sắc phạm dâm! Ta đã khắc ghi trong lòng, lúc nào cũng giữ ở trong tâm! Cho dù cô có xinh đẹp như vậy, cũng nên nghiêm cẩn tuân thủ lễ tiết, chớ nên vượt ngoài khuôn phép!”

Người thiếu phụ tò mò hỏi Địch Nhân Kiệt: “Rốt cuộc hòa thượng đã nói những lời gì mà khiến ngài vào lúc then chốt lại khắc chế được bản thân vậy?”

Địch Nhân Kiệt cười đáp: “Vị lão tăng ấy từng nói, từ tướng mạo của ta mà suy đoán thì là người vinh hiển phú quý, tương lai định sẵn sẽ là vị quan nổi danh trong thiên hạ, nhưng nhớ phải giữ giới sắc! Lão hòa thượng đã nhắc nhở vậy rồi, ta sao lại có thể mạo hiểm đem tiền đồ một đời để đổi lấy một phút hoan lạc nam nữ?”

Nhưng mà người bình thường đa phần khó qua được ải mỹ nhân.

Lúc ấy ta đã thỉnh giáo vị lão tăng: “Yêu thích mỹ sắc là việc thường tình của con người. Với loại việc sắc dục này thì trước khi chuyện xảy ra ai ai cũng đều biết tự giữ gìn, việc xong rồi cũng biết hối hận, nhưng khi tâm sắc dục bùng lên, thì hết thảy mọi hậu quả đều không để vào đầu, cho rằng là chuyện vô hại ngẫu nhiên, lần sau sẽ không làm như vậy nữa, do đó mỗi lần gặp phải sự việc của lần sau đều nghĩ như vậy, lần nào cũng nghĩ như vậy, cứ mãi tiếp tục trầm luân như vậy thì rốt cuộc phải dùng cách gì mới dập tắt được ngọn lửa sắc dục, không để nó tiếp tục bùng cháy?”

Lão tăng đã khuyên răn ta rằng, mỗi khi có ai đó dẫn động làm khởi cái tâm sắc dục của cậu, cậu hãy nghĩ như thế này: “Vạn ác dâm vi thủ, đây là con ma sắc đang lợi dụng cô ấy (anh ấy) để dẫn dụ ta phạm đại tội tà dâm, đồng thời cũng là con ma sắc đang lợi dụng ta để khiến cô ấy (anh ấy) phạm đại tội tà dâm, vẻ mỹ lệ nhu mì của cô ấy (hay vẻ anh tuấn phong độ của anh ấy) càng xâm nhập vào tâm trí ta, làm ta khó tự chủ, thì con ma sắc ấy càng có thể đạt được mục đích của nó. Một khi tâm trí bị mê mờ và làm ra những chuyện thất đức tạo nghiệp, thì cậu sẽ vì lẽ đó mà chịu đựng khổ nạn kéo dài”. Ta kính phục và tuân theo lời giáo huấn của lão hòa thượng, không dám quên và làm trái lời giáo huấn một chút nào.

Người thiếu phụ nghe Địch Nhân Kiệt nói, lặng lẽ suy nghĩ một hồi rồi quỳ xuống trước Địch Nhân Kiệt cảm tạ, nét mặt lộ vẻ hổ thẹn: “Cảm tạ lời dạy bảo và khuyên răn của ngài, ngài đã giúp tôi bảo toàn được danh tiết, cũng giúp tôi từ nay về sau biết được làm sao diệt được si tâm và vọng niệm của chính mình, sống đến ngày hôm nay tôi mới biết, rằng việc khống chế cái tâm của mình là cần phải học”.

Địch Nhân Kiệt sau này cũng đúng như lời vị lão tăng nói, không tham sắc dục, tương lai làm quan nổi danh thiên hạ, trở thành tể tướng nổi tiếng của Đại Đường, là danh thần của một triều đại. Lối suy nghĩ của Địch Nhân Kiệt rất trí huệ, làm sao chỉ có thể vì một khắc truy hoan mà huỷ đi tiền đồ tươi sáng của cả một đời? Người ta vẫn thường nói “anh hùng khó qua ải mỹ nhân”, kỳ thực những ai qua được quan sắc dục mới là anh hùng thực sự.

Nguồn tư liệu: Những câu chuyện về Địch Nhân Kiệt

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/50554

http://www.pureinsight.org/node/5201c

The post Câu chuyện lịch sử: Địch Nhân Kiệt không tham sắc dục, thành tựu sự nghiệp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Huyện lệnh nói chuyện với người chếthttps://chanhkien.org/2023/04/cau-chuyen-lich-su-huyen-lenh-noi-chuyen-voi-nguoi-chet.htmlSat, 08 Apr 2023 02:49:28 +0000https://chanhkien.org/?p=29863La Chân chỉnh lý [ChanhKien.org] Chu Hu thời Đông Hán, trong thời gian làm huyện lệnh chấp pháp nghiêm minh, không sợ quyền thế, được bách tính hết sức ủng hộ. Tuy nhiên cũng đắc tội với không ít quan lại. Một buổi sáng sớm, Chu Hu nghe thấy bẩm báo: trên cổng của một […]

The post Câu chuyện lịch sử: Huyện lệnh nói chuyện với người chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
La Chân chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Chu Hu thời Đông Hán, trong thời gian làm huyện lệnh chấp pháp nghiêm minh, không sợ quyền thế, được bách tính hết sức ủng hộ. Tuy nhiên cũng đắc tội với không ít quan lại.

Một buổi sáng sớm, Chu Hu nghe thấy bẩm báo: trên cổng của một ngôi đền gần đây, có treo một thi thể không chân tay. Chu Hu giật mình, ông trị lí nơi này bao năm, trong vùng thái bình vô sự, đến cả hiện tượng trộm cướp cũng rất hiếm thấy, hôm nay đột nhiên lại trồi ra đại án giết người, vậy là làm sao!

Chu Hu lập tức đến ngôi đền, nhìn thấy ở đó sớm đã có không ít kẻ vây quanh xem náo nhiệt. Ông bước lên phía trước, quả nhiên nhìn thấy một thi thể không chân không tay bê bết máu me treo trên cổng ngôi đền.

Ông lệnh cho người dân tản ra, đích thân đến bên thi thể, tỉ mỉ xem xét, phát hiện bên mép miệng thi thể không dính máu mấy, có vẻ là sau khi người chết đi rồi mới bị chặt ra như vậy.

Chu Hu thấy thế, trong lòng lóe lên một suy nghĩ, bèn làm bộ như đang nói chuyện với tử thi, ông hướng đến thi thể mà hỏi và không ngừng gật gật đầu. Người dân xem từ đằng xa, cảm thấy thật kì lạ. Hồi lâu, Chu Hu mới lệnh cho quân lính chuyển thi thể đi, lại nói thầm với một binh lính một hồi.

Về đến nha môn, Chu Hu bèn cho gọi các quan lại đến, nghiêm túc nói: “Bản quan đến nơi đây đã nhiều năm, chưa từng phát sinh qua án mạng nghiêm trọng như vậy, ta cần chịu trách nhiệm cho chuyện này. Án này làm sao để phá, bản quan đã có manh mối. Vừa rồi ta đã hỏi người chết rồi, tình hình vụ án cơ bản đã nắm được, có thể phá án ngay. Mời các vị đợi ở đây một chút, không được ra ngoài; chân tướng sắp được tiết lộ.”

Các quan lại trong lòng cười thầm: Ông ta làm sao có thể nói chuyện được với người chết cơ chứ? Nhưng cũng có kẻ cảm thấy kinh động và lo sợ. Thanh quan Chu Hu xử án cẩn thận, quan sát sắc bén, đối với các loại biểu cảm của mỗi người tại đó ông nhìn cái là thấu tỏ.

Không bao lâu, từ bên ngoài một người lính chạy vào, ghé bên tai Chu Hu mà nói nhỏ mấy câu. Chu Hu gật gật đầu, tủm tỉm cười nói: “Các vị chú ý, án này đã rõ ràng rồi, Đình Duyện (tiểu phó quan phụ trách xử án trong huyện nha, Duyện Đậu Viện) đứng ra đây!” Đình Duyện hoảng hốt đứng dậy, bước đến giữa công đường. Chu Hu nói rằng: “Ngươi thông minh lắm, có điều ngươi hãy nói cho rõ, vì sao làm ra việc tai ác như thế?” Đình Duyện tức khắc mặt mày tái mét, miệng lí nhí nói rằng: “Tiểu nhân không rõ đại nhân nói đến điều gì?” Chu Hu liền nghiêm mặt nói: “Ngươi không thành thực khai báo, thì ta sẽ xử theo tội giết người!”

Đình Duyện biết đại họa ập xuống, chỉ đành thú nhận: Thì ra hắn trước đây làm việc trong nha môn, khoản lót tay rất nhiều; tuy nhiên từ sau khi Chu Hu nhậm chức, làm quan thanh liêm, quản lý thuộc cấp nghiêm ngặt, hắn không tư lợi được gì, vì thế trong lòng mưu đồ tìm cơ hội làm giảm uy phong của Chu Hu. Đêm đó lúc hắn ra ngoài trở về thành, nhìn thấy trên gò đất hoang có một ngôi mộ mới chôn bị kẻ trộm mộ đào bới, thi thể bị vất chỗ hoang vu, mặt mày bị bọn trộm mộ đập nát không ra hình nữa. Hắn liền sinh ác ý, bèn đem thi thể nhét vào cái bao đựng lúa mang theo bên mình, do thi thể lớn không nhét vào được nên bèn lấy dao cắt bỏ chân tay rồi nhét vào bao. Sau khi vào thành, lặng lẽ đem thi thể treo trên cổng ngôi đền gần nha môn, tạo dựng như một vụ án giết người, hòng dùng việc này làm giảm uy phong của Chu Hu. Không ngờ Chu Hu đã biết được chân tướng.

Thì ra khi Chu Hu quan sát thi thể, sau khi phát hiện vỏ trấu và vết cắt, bèn lệnh cho lính đến chỗ binh sỹ canh cổng thành dò hỏi: “Đêm qua có kẻ nào vác bao lúa vào thành không?” Binh sỹ trả lời là: “Có một mình Đình Duyện.” Do đó, Chu Hu nhận định tất cả là do Đình Duyện làm.

Sau khi vụ án được phá, bách tính toàn huyện càng thêm tôn kính và khâm phục huyện lệnh Chu!

Có người nói: “Huyện lệnh Chu cát nhân thiên tướng, có biết bao quỷ thần tương trợ, cho nên phá án thần tốc, chính xác.”

Có người thì nói: “Huyện lệnh Chu là quan thanh liêm, phúc chí tâm linh. Là người có vận khí tốt, thường sẽ đột phá linh cảm. Xác thực có thần linh tương trợ!”

Chính tích và sự thanh liêm của Chu Hu, lại thêm một lần nữa chấn nhiếp bọn tham quan ô lại. Tình hình trị an toàn huyện càng thêm tốt đẹp.

[Theo «Thông giám ký sự bản mạt» của Viên Xu thời Tống]

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/112267

The post Câu chuyện lịch sử: Huyện lệnh nói chuyện với người chết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vì sao mù mắt lại may mắn?https://chanhkien.org/2023/03/vi-sao-mu-mat-lai-may-man.htmlMon, 27 Mar 2023 04:49:10 +0000https://chanhkien.org/?p=29811Tác giả: Vũ Văn Long chỉnh lý [ChanhKien.org] Sách Liệt tử – Thuyết phù đệ bát [1] có ghi lại một câu chuyện như sau: Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc ở nước Tống có một người sống rất nhân nghĩa, cả ba đời nhà ông đều kiên trì làm nhiều việc nhân nghĩa. Một […]

The post Vì sao mù mắt lại may mắn? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vũ Văn Long chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Sách Liệt tử – Thuyết phù đệ bát [1] có ghi lại một câu chuyện như sau: Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc ở nước Tống có một người sống rất nhân nghĩa, cả ba đời nhà ông đều kiên trì làm nhiều việc nhân nghĩa. Một lần nọ, con trâu đen trong nhà bỗng đẻ ra một con nghé trắng, cảm thấy rất lạ ông bèn đi hỏi Khổng Tử, Khổng Tử nói đó là điềm lành.

Chưa đến một năm, đôi mắt của ông bỗng bị mù mà không rõ nguyên do. Cùng lúc đó, con trâu đen lại sinh thêm một con nghé trắng, ông bèn sai con đến hỏi Khổng Tử rốt cục là chuyện gì. Con ông đáp: “Lần trước cha đã đi hỏi, sau đó thì bị mù mắt, cha còn hỏi để làm gì nữa?” Ông cười bảo con: “Lời của thánh nhân trước sai sau đúng. Chuyện này vẫn chưa xong xuôi, ta nên hỏi thêm lần nữa”. Người con chỉ còn cách đi hỏi Khổng Tử, đáp án vẫn là “điềm lành”. Khổng Tử còn dặn anh nhớ phải tế trời. Người con trở về nhà thuật lại, cha anh nói: “Hãy theo lời của Khổng Tử mà làm”. Qua một năm nữa thì người con trai cũng vô duyên vô cớ bị mù mắt.

Không lâu sau nước Sở tiến đánh nước Tống, bao vây thành, người dân trong thành bị mất hết lương thực, phải đổi con cho nhau mà ăn thịt, còn đào cả xác chết lên để nấu mà ăn (Đây là cuộc chiến rất khốc liệt xảy ra vào năm 595 TCN. Nước Sở vây khốn thành Thương Khâu – kinh đô của nước Tống trong chín tháng, khiến người dân trong thành phải đổi con cho nhau mà ăn thịt, cuộc sống vô cùng bi thảm). Tất cả đàn ông đều phải sung quân đi đánh trận, trong chiến tranh số người chết quá nửa. Hai cha con người đàn ông nhân nghĩa kia vì bị mù nên được miễn ra trận.

Sau khi chiến tranh kết thúc, đôi mắt của hai cha con họ đã được chữa sáng lại.

[1] Sách Liệt Tử còn được tôn xưng là Xung Hư Chân Kinh, tương truyền do một người thuộc phái đạo gia là Liệt Ngự Khấu (430-349 TCN) viết.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/26484

The post Vì sao mù mắt lại may mắn? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Vì dân vì nước trảm gấp nịnh thầnhttps://chanhkien.org/2023/01/cau-chuyen-lich-su-vi-dan-vi-nuoc-tram-gap-ninh-than.htmlTue, 31 Jan 2023 07:17:07 +0000https://chanhkien.org/?p=29613Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] Tề Hoàn Công chết rồi, nước Tề mất đi ngôi vị bá chủ, thực lực quốc gia dần dần suy thoái. Thời Tề Cảnh Công tại vị, nước Tần và nước Yên thừa cơ đánh chiếm một vùng rộng lớn của nước Tề. Cảnh Công vô cùng kinh sợ, đã […]

The post Câu chuyện lịch sử: Vì dân vì nước trảm gấp nịnh thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

Tề Hoàn Công chết rồi, nước Tề mất đi ngôi vị bá chủ, thực lực quốc gia dần dần suy thoái. Thời Tề Cảnh Công tại vị, nước Tần và nước Yên thừa cơ đánh chiếm một vùng rộng lớn của nước Tề. Cảnh Công vô cùng kinh sợ, đã hỏi tướng quốc là Yến Anh rằng: “Phải làm sao đây?” Yến Anh bèn tiến cử lên vua tướng Điền Nhương Thư vốn là một người tinh thông binh pháp. Tề Cảnh Công tuy e ngại Điền Nhương Thư xuất thân hèn mọn nhưng vì đại binh đang áp tới nên cũng không thể suy nghĩ quá nhiều. Bèn tập hợp 500 binh xa, phong cho Điền Nhương Thư làm thống soái, đi đầu chống địch quân đang xâm phạm.

Điền Nhương Thư đắn đo về xuất thân thấp hèn của mình, e tướng sĩ sẽ không phục, nhỡ như hai bên đang đối đầu mà quân sĩ không có nhuệ khí thì chẳng phải sẽ là đại sự sao? Điền Nhương Thư bèn thỉnh cầu với Tề Cảnh Công phái một đại thần mà nhà vua tín nhiệm nhất làm giám quân. Tề Cảnh Công đã lệnh cho người tâm phúc của mình là đại phu Trang Giả làm giám quân.

Điền Nhương Thư và Trang Giả cùng bàn bạc việc quân binh, lúc giã biệt ông nói với Trang Giả: “Ngày mai sẽ tập hợp ba quân, xin giám quân hãy đến đại doanh vào giờ ngọ, vạn lần không được sai hẹn!” Trang Giả đã hoàn toàn đồng ý.

Nhưng Trang Giả lại là một tên nịnh thần, bình thường chỉ biết a dua nịnh hót hoàng thượng, là kẻ hai mặt, ngoài miệng nói đồng ý [với Điền Nhương Thư] nhưng trong lòng lại nghĩ khác, thấy bản thân mình vốn là một đại thần được nhà vua tin yêu nhất, ngay cả tướng quốc Yến Tử (Yến Anh) cũng phải nể ông ta ba phần, còn một tên tướng quân nhỏ bé có xá gì đâu? Khi Trang Giả trở về, lũ quan viên bình thường vẫn tìm trăm phương ngàn kế kết giao với ông ta giờ như thấy được cơ hội, bọn họ đều đến chỗ Trang Giả tiễn biệt, phủ đệ của Trang Giả bỗng chốc trở nên vô cùng náo nhiệt, trên bàn tiệc bày đầy những món ngon rượu quý, tiếng a dua tâng bốc cứ liên tục không ngớt, người người thi nhau nâng chén mời Trang Giả, Trang Giả uống đến say tuý luý, yến tiệc cứ vậy mà kéo dài từ tối đến hôm sau mới tàn. Trang Giả đã sớm có hẹn với Điền Nhương Thư nhưng lại quăng mất lời hẹn đó tận ngoài chín tầng mây.

Ở bên này Điền Nhương Thư đã tập hợp ba quân rồi cho dựng một cây cột gỗ [làm nêu] trước doanh trại để nhìn bóng mặt trời tính thời gian, mấy vạn người ngựa lặng thinh đứng dưới bóng mặt trời, áo giáp và binh khí hắt ra ánh sáng xanh lam, cả ba quân đều mỏi mắt đợi Trang Giả đến. Tuy nhiên quân binh cứ đợi mãi dưới bóng nắng, bóng của cây cột gỗ càng lúc càng ngắn, cuối cùng cái bóng cũng biến mất mà chẳng thấy bóng dáng Trang Giả đâu; Điền Nhương Thư đã hạ lệnh đốn cây gỗ, ý là không đợi Trang Giả nữa, ông nén cơn giận trong lòng xuống, nêu cao kỷ luật với quân binh đang đứng dưới cái nắng gay gắt.

Mãi đến chạng vạng, một chiếc xe ngựa mới đưa Trang Giả đang say khướt về doanh trại. Điền Nhương Thư nhìn thấy ông ta, mặt lạnh như đồng nói: “Sao giám quân bây giờ mới đến?” Trang Giả đáp đầy vẻ thờ ơ: “Người đến tiễn ta đông quá, không cách nào khác, ta phải uống đến tận giờ”. Điền Nhương Thư lời lẽ nghiêm túc, chính nghĩa nói: “Một vị tướng hễ khi nhận mệnh lệnh của quân vương, thì đã gánh vác an nguy của quốc gia trên thân, cần phải quên đi gia đình nhỏ của mình, một lòng vì nước. Khi thống lĩnh ba quân thì cần phải công chính vô tư {thiết diện vô tư}; khi đối diện với quân địch thì cần coi thường sinh tử. Nay cường địch đang áp sát biên ải, đại vương lòng như lửa đốt, nhân dân lo lắng không yên, chúng ta thân làm tướng lĩnh đảm trách an nguy của quốc gia, sao ngài có thể vì tửu yến mà làm lỡ mất việc chinh chiến đại sự?”

Lời nói mạnh mẽ của Điền Nhương Thư làm Trang Giả vừa xấu hổ vừa khó chịu, ông ta đương sắp nổi giận thì Điền Nhương Thư bỗng cao giọng hô lớn: “Quan pháp quân đâu”? Vị quan coi pháp luật trong quân ngũ đáp lại, Điền Nhương Thư hỏi rành rọt từng chữ: “Chiểu theo quân pháp, nếu hẹn mà đến muộn, thì tội thế nào?”

“Đáng chém!”

Trang Giả nghe vậy tinh thần hoảng hốt, thấy tình thế không xong vội sai thủ hạ ruổi ngựa về cầu cứu Tề Cảnh Công. Tề Cảnh Công nghe Trang Giả sắp bị xử theo quân pháp đã vội vã phái một sứ giả cầm phù tiết (vật làm tin khi vua sai đi sứ hoặc điều binh) đến cứu Trang Giả.

Trong quân doanh, Điền Nhương Thư hạ lệnh một tiếng thì đại phu Trang Giả có địa vị hiển hách thế cũng bị đao phủ lôi đi, Trang Giả lúc bấy giờ vẫn còn chưa tin một tên tướng quân nhỏ bé lại có thể chém đầu mình, ông ta vẫn rất bình tĩnh, trong lòng thầm nguyền rủa Điền Nhương Thư: “Đợi lão gia ta gặp được Đại Vương rồi sẽ kiện tên vũ phu ngươi, để xem lúc đó đầu ai sẽ rơi xuống đất?” Nhưng ông ta vĩnh viễn cũng không thể đợi được đến ngày đó, chỉ thấy ánh sáng của cây quỷ đầu đao lóe lên thì đầu của kẻ tham lam kiêu ngạo đã lăn lông lốc trên mặt đất.

Lúc này sứ giả của Tề Cảnh Công mới cấp tốc đến. Sứ giả biết Trang Giả là sủng thần của nhà vua, vội thúc ngựa phi như bay, chiếc xe ngựa không màng trời đất băng trên đường phố Lâm Tri, húc văng không biết bao nhiêu người đi đường. Sứ giả đến doanh trại, phi xe ngựa đến trước đại trướng của trung quân hét lớn: “Đại vương có lệnh, miễn tội cho đại phu Trang Giả!” Điền Nhương Thư lạnh lùng đáp: “Viên tướng đã ở trong quân ngũ thì có khi không nghe theo lệnh nhà vua. Giám quân Trang Giả đã bị chém rồi”. Điền Nhương Thư lại hỏi quan pháp quân một cách nghiêm nghị: “Chiểu theo quân pháp, kẻ xông vào doanh trại thì xử trí thế nào?”

“Đáng chém!”

Hai tiếng “đáng chém” vừa được thốt ra thì viên sứ giả bỗng kinh hoảng thất sắc, cái uy phong ban nãy biến đâu mất, hắn chỉ biết run rẩy cầu xin. Điền Nhương Thư trầm ngâm một lúc rồi nói: “Sứ giả của Đại vương thì không thể giết, nhưng quân pháp như núi, không thể không chấp hành, vậy hãy làm thế này”. Rồi Điền Nhương Thư hạ lệnh chém cái cây gỗ ở bên trái thành xe và con ngựa đi bên trái của xe ngựa [để nêu gương cho ba quân].

Ba quân tướng sĩ thấy Điền Nhương Thư chấp hành quân pháp mà không sợ quyền quý, chém gấp nịnh thần, lòng quân chợt cảm thấy kính nể. Điền Nhương Thư đã [tranh thủ] nhân dịp này chỉnh đốn quân binh. Ông đi đến các doanh trại tuần tra, quan tâm tới binh sĩ từ bữa ăn cho đến các phương diện khác, còn lấy thực phẩm được cấp của mình chia cho binh sĩ. Những hành động của Điền Nhương Thư đã làm cho ba quân đối với chủ soái của mình vừa kính vừa quý, nhuệ khí của quân đội nước Tề tăng mạnh, người người đều tranh nhau vì nước giết địch lập công.

Ba ngày sau, Điền Nhương Thư thống lĩnh đại quân của nước Tề xông pha ra tiền tuyến, tướng lĩnh của nước Tần và nước Yên đã được thám mã báo cáo từ trước, bọn họ thấy đại quân nước Tề sĩ khí rực rỡ như cầu vồng, dũng tiến mạnh mẽ như cơn đại hồng thuỷ không gì cản được, đã gấp rút lui binh trong lặng lẽ.

Điền Nhương Thư thống lĩnh quân Tề với uy chấn làm quân địch khiếp vía, nước Tề không chiến mà thắng. Tề Cảnh Công nhận được tin thắng trận đã vô cùng mừng rỡ, tự mình dẫn hết bá quan văn võ ra khỏi thành Lâm Tri để nghênh tiếp đoàn quân đang hát khúc khải hoàn. Điền Nhương Thư được phong làm đại tư mã đứng đầu quân đội cả nước, thế nên, người đời sau đã gọi vị danh tướng này là Tư Mã Nhương Thư.

Đó chính là:

Toàn tâm vi quốc vong gia tiểu,

Thống soái tam quân phát lệnh hào;

Thiết diện vô tư trừ nịnh thần,

Toàn quân chấn phấn đảm khí hào!

Quân quyền tại ác bất tuần tư,

Vi quốc vi dân bất động diêu;

Thời đại hô hoán Điền Nhương Thư,

Chính nghĩa tương quân ứng tri hiểu!

Tạm dịch:

Toàn tâm vì nước quên việc nhà

Thống soái ba quân phát hiệu lệnh uy nghiêm

Thiết diện vô tư trừ nịnh thần,

Toàn quân chấn phấn lòng dũng cảm lên cao!

Nắm quân quyền trong tay mà không tư lợi

Vì nước vì dân mà vững vàng không lung lay

Thời đại gọi tên Điền Nhương Thư,

Tướng quân chính nghĩa nên biết rõ!

Dựa theo Sử ký

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/56486

The post Câu chuyện lịch sử: Vì dân vì nước trảm gấp nịnh thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: “Bán nhang giả phát thề độc mà chết”https://chanhkien.org/2022/10/cau-chuyen-lich-su-ban-nhang-gia-phat-the-doc-ma-chet.htmlSat, 29 Oct 2022 04:41:10 +0000https://chanhkien.org/?p=29217Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, ở phủ Gia Hưng (nay là thành phố Gia Hưng tỉnh Chiết Giang) có người tên là Chu Đại Lang, kiếm sống bằng nghề bán nhang. Khách hàng mua nhang đều là để tỏ lòng thành kính Thần Phật, nhưng ông ta vì để kiếm được […]

The post Câu chuyện lịch sử: “Bán nhang giả phát thề độc mà chết” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào thời Nam Tống, ở phủ Gia Hưng (nay là thành phố Gia Hưng tỉnh Chiết Giang) có người tên là Chu Đại Lang, kiếm sống bằng nghề bán nhang. Khách hàng mua nhang đều là để tỏ lòng thành kính Thần Phật, nhưng ông ta vì để kiếm được nhiều tiền hơn nên đã làm giả nguyên liệu. Có lúc khách hàng thấy chất lượng nhang không tốt, hỏi thẳng trực tiếp thì ông ấy phát lời thề độc: “Nếu nhang này không tốt, thề rằng ra khỏi cửa sẽ bị ác Thần đập chết.” Người xưa đều rất tín Thần, khi thấy ông ấy phát ra lời thề [như vậy] thì cũng không truy vấn tiếp nữa.

Sau này vào một ngày nọ, lúc đang đi qua cầu phía sau phủ, ông ta bất ngờ ngã xuống mặt cầu trong khi phía trước không có vật cản nào hết, thật giống như bị người khác đẩy ngã vậy, khi mọi người đến đỡ dậy thì phát hiện rằng Chu Đại Lang đã tắt thở tử vong. Mọi người đều hiểu ra rằng: Lời thề độc mà ông ấy phát ra đã ứng nghiệm, đúng lúc đi ra khỏi cửa đã bị Thần lấy mạng, ngã xuống đường mà chết. Người ghi lại sự việc này cảm thán rằng: Mọi người mua nhang đều là để cúng dường Thần linh, Thánh hiền, Chu Đại Lang lại dựa vào việc này để kiếm tiền bất chính, lại dùng lời thề độc mà che đậy việc xấu, kết quả lời thề độc đã ứng nghiệm mà chết, đó là một bài học cho hậu nhân. Thực ra khi con người phát ra lời thề, trong không gian khác thật sự có Thần đang nghe, giám sát lời thề và khiến cho nó được ứng nghiệm. Chu Đại Lang ứng lời thề mà chết là một minh chứng.

Lịch sử ngày hôm nay, có rất nhiều người giống Chu Đại Lang đã phát ra lời thề đáng sợ. Điển hình nhất là các thành viên trong tổ chức Trung Cộng khi gia nhập nó đều phát thề “hy sinh tất cả” vì đảng, “không bao giờ phản bội đảng”. Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đi lên bằng chủ nghĩa vô Thần và không bao giờ tin vào nhân quả, đã làm ra các cuộc vận động phá hoại văn hóa truyền thống, bức hại người dân, hành động cực đoan và điên rồ, tạo ra vô số tội, tất nhiên sẽ bị Thần diệt trừ. Đến khi Trung Cộng bị Thần tiêu diệt, thì lời thề của các thành viên khi gia nhập nó đều sẽ ứng nghiệm, sẽ thật sự phải hy sinh hết thảy mà đi theo nó, bị thanh trừ cùng nó.

Đây chính là bi kịch lớn nhất trong đời người, để tránh kết cục bi thảm này, cách duy nhất là rút khỏi tất cả các tổ chức của ĐCSTQ, đoạn tuyệt với ĐCSTQ, không còn là thành viên của ĐCSTQ nữa, vậy thì lời thề lúc gia nhập ấy tự nhiên sẽ được bỏ đi, sẽ được bình an vượt qua được kiếp nạn khi Trung Cộng bị giải thể. Có rất nhiều người tu luyện hiểu được sự đáng sợ của lời thề khi đã phát ra, đồng thời họ cũng thấy được kết cục của Trung Cộng, lòng từ bi khiến họ không thể khoanh tay ngồi nhìn sinh mệnh bị tiêu hủy, vì vậy mới khuyên mọi người thoái đảng bảo bình an, đây không phải là làm chính trị, mà chính là từ bi cứu độ con người.

Nguồn tài liệu: Nam Tống “Nhàn Song Quát Dị Chí”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/276357

The post Câu chuyện lịch sử: “Bán nhang giả phát thề độc mà chết” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Tiêu Hà công caohttps://chanhkien.org/2022/08/cau-chuyen-lich-su-tieu-ha-cong-cao.htmlWed, 03 Aug 2022 00:06:47 +0000https://chanhkien.org/?p=28853Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Hán Cao Tổ Lưu Bang có thể thâu đoạt được thiên hạ là nhờ công lao rất lớn từ những trợ thủ của ông. Trong số đó Tiêu Hà chính là một nhân vật kiệt xuất nhất. Triều Tần suy bại, anh hùng trong thiên hạ nổi dậy khắp nơi. […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tiêu Hà công cao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Hán Cao Tổ Lưu Bang có thể thâu đoạt được thiên hạ là nhờ công lao rất lớn từ những trợ thủ của ông. Trong số đó Tiêu Hà chính là một nhân vật kiệt xuất nhất.

Triều Tần suy bại, anh hùng trong thiên hạ nổi dậy khắp nơi. Lưu Bang là người đầu tiên vào được kinh đô Hàm Dương của nhà Tần, lúc chư tướng còn đang tranh nhau đến kho đoạt lấy vàng bạc lụa là tài vật, thì duy chỉ có Tiêu Hà đi thu gom các quy định pháp luật, các tập bản đồ địa lý, sổ ghi chép hộ tịch, tài liệu lịch sử trong kho. Sau này khi Lưu Bang và Hạng Vũ tranh đoạt thiên hạ, nhờ những tư liệu sổ sách mà Tiêu Hà lưu giữ lại đó mà Lưu Bang có thể biết được chi tiết cách bố trí các cửa ải trong nước, dân số nơi nào đông thưa, sản vật cũng như địa thế hiểm yếu các nơi v.v., nhờ đó mà chiếm được ưu thế.

Hàn Tín người Hoài Âm là một nhân tài hiếm có trong thiên hạ, khi ông đến với Lưu Bang thì vẫn luôn không được Lưu Bang xem trọng, khiến Hàn Tín chán nản định đi đầu quân sang nơi khác. Tiêu Hà nghe nói Hàn Tín bỏ trốn thì ngay trong đêm đã đuổi theo. Nhờ sự tiến cử của Tiêu Hà, Lưu Bang đã một bước thăng Hàn Tín lên làm đại tướng quân thống lĩnh quân đội, từ đấy Lưu Bang liên tục giành được thắng lợi, cuối cùng đánh bại được đối thủ Hạng Vũ hùng mạnh.

Sau khi bình định được thiên hạ, Lưu Bang ban thưởng cho công thần, trong đó Tiêu Hà được phong thưởng nhiều nhất; quần thần không phục, nói: “Chúng thần thân mang chiến giáp, tay cầm binh khí, không màng sinh tử xông pha bao nhiêu trận mạc mới có được ngày hôm nay. Còn Tiêu Hà không ra tiền tuyến, chỉ [ở nhà] khua văn múa bút, sao lại được thưởng hơn cả chúng thần?” Lưu Bang nói: “Khi săn mồi, chó săn đuổi theo con mồi, tất nhiên là có công, nhưng người biết con mồi ở đâu thì công lao lại càng lớn hơn nữa: các khanh không thể so bì với Tiêu Hà được”.

Nguồn: Sử ký

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/44914

The post Câu chuyện lịch sử: Tiêu Hà công cao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Kết cục bi thảm của Ngô Khởihttps://chanhkien.org/2022/07/cau-chuyen-lich-su-ket-cuc-bi-tham-cua-ngo-khoi.htmlTue, 26 Jul 2022 04:31:31 +0000https://chanhkien.org/?p=28836Tác giả: Tần Tự Tỉnh [ChanhKien.org] Ngô Khởi (mất năm 381 TCN) là một nhà quân sự thời Chiến quốc. Ông là một người chuyên sửa người khác mà không tu sửa chính mình (nghĩa là ông ta dùng lý để sửa người khác, chứ không dùng lý để sửa bản thân mình). Đầu tiên, […]

The post Câu chuyện lịch sử: Kết cục bi thảm của Ngô Khởi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tần Tự Tỉnh

[ChanhKien.org]

Ngô Khởi (mất năm 381 TCN) là một nhà quân sự thời Chiến quốc. Ông là một người chuyên sửa người khác mà không tu sửa chính mình (nghĩa là ông ta dùng lý để sửa người khác, chứ không dùng lý để sửa bản thân mình).

Đầu tiên, xin hãy xem Ngô Khởi đã dùng lý lẽ để tu chỉnh người khác như thế nào:

Có một lần Ngụy Vũ Hầu thả thuyền xuôi dòng Tây Hà, ở giữa dòng, quay lại nhìn nói với Ngô Khởi: “Thật là tráng lệ, núi sông hiểm trở như thế, đây đúng là của quý đối với nước Ngụy!”

Ngô Khởi cười, đáp: “Quốc gia là dựa vào đức để trị, chứ không phải dựa vào địa thế hiểm yếu. Xưa nước Tam Miêu có bên trái là hồ Động Đình, bên phải là con rạch lớn Bành Lãi. Nhưng vì họ không trau dồi đạo đức nhân nghĩa nên bị Vua Đại Vũ diệt. Đô thành của vua Hạ Kiệt, bên trái là sông Hoàng Hà, sông Tế, bên phải là núi Thái Sơn, núi Y Khuyết ở phía Nam, núi Dương Trường ở phía bắc. Nhưng vua Hạ Kiệt khi chấp chính thì không nghĩ đến nhân ái. Cuối cùng ông ta bị vua Thương Thang bắt đi đày. Kinh đô của Trụ vương, bên trái là núi Mạnh Môn, bên phải là núi Thái Hành Sơn, núi Hằng Sơn ở phía bắc, sông Hoàng Hà chảy ở phía nam. Nhưng thời Trụ vương chấp chính thì không thi hành việc ân đức, nên Chu Vũ Vương đã diệt ông ta. Từ đó thấy rằng, giữ nước là ở chỗ đức chứ không phải ở chỗ địa thế hiểm trở. Nếu như quân vương ngài không làm tốt việc dùng đức trị nước, thì những người ngồi trên thuyền hiện giờ đều sẽ biến thành địch nhân của ngài vậy”. Ngụy Vũ Hầu đáp: “Nói rất hay!”

Ngô Khởi muốn người khác học tập việc lấy đức trị nước, học tập nhân ái, thực thi rộng việc ân đức. Nhưng bản thân ông ta lại tham lam công danh lợi lộc, thậm chí còn “sát thê cầu tướng” [1]. Sau khi làm được tướng quân, Ngô Khởi lại tranh công danh với người khác, tham luyến nữ sắc. Thời còn theo học thầy Tăng Tử, mẫu thân của Ngô Khởi lâm trọng bệnh, ông ta đã không về nhà hiếu dưỡng; mẫu thân mất rồi, ông ta cũng không về nhà chịu tang, giữ hiếu. Tăng Tử đã khinh bỉ và đoạn tuyệt mối quan hệ thầy trò với ông ta. Có thể thấy Ngô Khởi quả thực đã không thể dùng đạo đức để ước thúc chính mình.

Thái Sử Công Tư Mã Thiên đã nói trong Sử ký rằng: “Thế tục khi khen tài năng quân sự đều nói đến mười ba thiên của Tôn Tử. Sách binh pháp của Ngô Khỏi thế gian nhiều người có, nên không bàn, chỉ bàn những sự việc các ông ấy làm. Tục ngữ nói: ‘Người làm được chưa chắc đã nói được; người nói được chưa chắc làm được’. Tôn Tẫn trù tính đối phó với Bàng Quyên thật rõ ràng. Thế nhưng vẫn không thể sớm tự lo cứu mình khỏi bị hình phạt. Ngô Khởi bàn với Vũ Hầu rằng hình thế không quan trọng bằng đức; nhưng khi thi hành ở Sở, thì lại vì khắc bạc, ít ân đức, mà bỏ thân mình (Ngô Khởi bị những người phản đối bắn chết bằng loạn tiễn). Đáng thương thay!”

Ấy chính là:

“Nhân giai tri địch kỳ khí, mạc tri tẩy kỳ tâm (Tạm dịch: Người ta đều biết rửa sạch các đồ vật bẩn, nhưng lại không biết tẩy tịnh cái tâm của mình – học giả thời Trung Đường Mã Tổng)

“Cẩu năng dĩ công nhân chi tâm công kỷ, tắc quá thất bất thắng kỳ công hĩ” (Tạm dịch: người ta nêu có thể dùng cái tâm thái phê bình người khác để phê bình mình thì những lỗi lầm mình mắc phải sẽ rất dễ sửa chữa – thi nhân thời Bắc Tống Vương Lệnh)

“Kiến lợi tư nghĩa, kiến hiền tư tề” (Tạm dịch: Thấy lợi thì suy nghĩ tới đạo nghĩa, thấy bậc hiền tài thì suy nghĩ cách để mình cũng được như họ – Cổ Huấn)

“Thân gia nhất nhật trường, tâm giác khứ niên phi” (diễn nghĩa, vào những ngay cuối năm, cứ một ngày qua đi, trong tâm lại cảm thấy như một năm cũ đã sắp hết, nhà triết học thời Đường Lưu Vũ Tích)

[1] sát thê cầu tướng: Giết vợ để được làm tướng: Ngô Khởi lấy vợ là người nước Tề, khi ông ta muốn làm tướng nước Lỗ, người nước Lỗ nghi ngờ ông thân với nước Tề, ông ta đã giết vợ mình để được vua nước Lỗ tin dùng.

(Dựa theo Sử ký Tư Mã Thiên)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/77996

The post Câu chuyện lịch sử: Kết cục bi thảm của Ngô Khởi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Vương Thiều gặp sự cố không hoảng hốthttps://chanhkien.org/2022/07/cau-chuyen-lich-su-vuong-thieu-gap-su-co-khong-hoang-hot.htmlWed, 20 Jul 2022 04:47:43 +0000https://chanhkien.org/?p=28809Tác giả: Nhã Khách [ChanhKien.org] Vương Thiều, một danh tướng thời Bắc Tống, khi gặp sự cố thì không hề hoảng hốt, lại rất độ lượng. Thời Vương Thiều sống ở kinh thành, vào đúng ngày rằm tiết Nguyên Tiêu năm nọ, con trai thứ 13 của ông là Vương Thải mới năm tuổi đội […]

The post Câu chuyện lịch sử: Vương Thiều gặp sự cố không hoảng hốt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhã Khách

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế.

Vương Thiều, một danh tướng thời Bắc Tống, khi gặp sự cố thì không hề hoảng hốt, lại rất độ lượng. Thời Vương Thiều sống ở kinh thành, vào đúng ngày rằm tiết Nguyên Tiêu năm nọ, con trai thứ 13 của ông là Vương Thải mới năm tuổi đội một chiếc mũ cườm, được gia nhân cõng ra phố xem hoa đăng, trên phố biển người đông đúc, tiếng kèn sáo vang động, quang cảnh hết sức náo nhiệt, gia nhân trong một phút sơ suất đã không thấy Vương Thải đâu nữa. Khi gia nhân quay về báo tin, cả nhà đều kinh hãi bất an, muốn lập tức báo quan nhưng Vương Thiều lại nói: “Nếu là đứa con khác của ta bị thất lạc thì nhất định phải báo quan tìm kiếm, nhưng hiện giờ là đứa con trai thứ mười ba, nó nhất định sẽ tự mình trở về”. Biểu hiện của ông hệt như chẳng có chuyện gì xảy ra, còn người nhà thì ai nấy đều thấp thỏm lo lắng.

Qua mười mấy ngày sau có một vị quan thái giám đến nhà Vương Thiều tuyên chỉ, rằng nhà vua ban thưởng cho Vương Thiều một con tê giác vàng để trấn an, rồi bế Vương Thải từ trên kiệu xuống trả lại cho Vương Thiều, gia nhân thảy đều vui mừng khôn xiết. Chuyện là, ngày hôm ấy khi gia nhân cõng Vương Thải ra khỏi cửa thì có kẻ gian “để mắt” đến phục sức trên người đứa bé liền đi theo sau, nhân lúc đám đông hỗn loạn đã bế Vương Thải lên vai đi ra khỏi thành. Vương Thải phát hiện người cõng mình là một kẻ lạ mặt bèn gỡ chiếc mũ cườm xuống giấu vào trong ngực, khi đến cổng thành có mấy cái kiệu đi ngang qua Vương Thải, Vương Thải vươn tay ra níu lấy rèm kiệu hô lớn: “Có trộm!”, kẻ gian vội quăng Vương Thải xuống đất rồi tháo chạy thoát thân. Người ngồi trong kiệu là một viên thái giám đang chuẩn bị vào cung, nhìn thấy Vương Thải mặt mũi khôi ngô tuấn tú liền ôm vào lòng rồi cùng nhau đi diện kiến hoàng đế Tống Thần Tông. Hoàng đế hỏi: “Ngươi là con cái nhà ai?” Vương Thải đáp: “Thần họ Vương, là tiểu nhi tử của đại thần Vương Thiều”. Rồi thuật lại hết sự việc đã xảy ra. Hoàng đế thấy đứa bé mặt mày thanh tú, ăn nói mạch lạc liền tấm tắc khen: “Vương Thiều thật có một đứa con ngoan”. Tống Thần Tông đã lưu Vương Thải lại trong cung và truyền cho cung nhân đến gặp đứa bé để gặp điềm lành sinh con trai [1]. Mười mấy ngày sau khi vụ án được phá xong, Vương Thải được đem trả về cho Vương Thiều.

[1] Nguyên tác là “nghi nam chi tường” (宜男之祥). Nghi nam (宜男) là tên gọi khác của cỏ huyên (萱草). Tương truyền phụ nữ mang thai mà đeo cỏ huyên thì sẽ sinh nam hài tử, vì vậy khi bạn cũ chúc phụ nữ nhiều con trai thường gọi là nghi nam.

Theo Thỉnh sử của Nhạc Kha thời Nam Tống

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/64233

The post Câu chuyện lịch sử: Vương Thiều gặp sự cố không hoảng hốt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Quý phi mắc bệnh hohttps://chanhkien.org/2022/07/cau-chuyen-lich-su-quy-phi-mac-benh-ho.htmlWed, 06 Jul 2022 04:28:53 +0000https://chanhkien.org/?p=28773Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Những năm Tuyên Hòa thời vua Tống Huy Tông, trong cung có một vị quý phi mắc bệnh ho, Lý ngự y đã chữa trị cho cô ấy, dùng cả hơn trăm đơn thuốc mà bệnh ho của quý phi chỉ càng thêm trầm trọng, mặt cô sưng to như […]

The post Câu chuyện lịch sử: Quý phi mắc bệnh ho first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Những năm Tuyên Hòa thời vua Tống Huy Tông, trong cung có một vị quý phi mắc bệnh ho, Lý ngự y đã chữa trị cho cô ấy, dùng cả hơn trăm đơn thuốc mà bệnh ho của quý phi chỉ càng thêm trầm trọng, mặt cô sưng to như cái đĩa. Tống Huy Tông nhìn thấy quý phi như vậy vô cùng lo lắng và nói với Lý ngự y rằng: “Ngươi còn thời hạn ba ngày”.

Lý ngự y rơi vào bước đường cùng, trở về nhà khóc từ biệt vợ con, buổi tối chợt ông nghe ngoài đường có tiếng người rao lớn: “Thuốc chuyên trị ho đây, một thang thuốc một đồng, vĩnh viễn sẽ không tái phát”. Lý ngự y phái người đi mua 10 thang, vì e ngại dược tính của thuốc quá mạnh nên đã tự mình dùng thử hai thang, thấy không vấn đề gì, sáng sớm hôm sau ông mang thuốc vào cung. Quý phi vừa dùng thang thuốc đầu tiên đã ngừng ho, đến tối thì bình phục. Tống Huy Tông rất vui mừng, tiền thưởng từ hai cung của vua và quý phi ban cho lên đến 1000 quan tiền, Lý ngự y sợ rằng trong cung sẽ đòi tìm phương thuốc bén phái người đi tìm lão bán thuốc hôm nọ và tặng cho ông ấy 200 lượng vàng, ông đáp rằng: “Ta chỉ là một gã lính già nghèo khó, biết dùng số vàng nhiều như vậy vào đâu?” Hỏi ông về đơn thuốc, ông lão bảo: “Chẳng qua là hai vị thiên hoa phấn và thanh đại, vì chúng dễ bào chế nên ta đem bán để mưu sinh mà thôi”.

Trời sinh vạn vật đều có công dụng của nó.

Theo Ngũ Tạp Trở của Tạ Triệu Chiết triều Minh

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/40272

The post Câu chuyện lịch sử: Quý phi mắc bệnh ho first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Tổ bà Lâm Mặc Nương chữa bệnh dịch cho quan huyện lệnhhttps://chanhkien.org/2022/06/cau-chuyen-lich-su-to-ba-lam-mac-nuong-chua-benh-dich-cho-quan-huyen-lenh.htmlFri, 17 Jun 2022 08:23:51 +0000https://chanhkien.org/?p=28684Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Vào những năm đầu triều đại Bắc Tống, trên đảo My Châu, Phủ Điền, Phúc Kiến có một người phụ nữ kỳ lạ tên là Lâm Mặc. Bà tu Đạo từ nhỏ, dần dần có được những năng lực phi thường như tiên đoán được phúc họa, cứu người trên […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tổ bà Lâm Mặc Nương chữa bệnh dịch cho quan huyện lệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Vào những năm đầu triều đại Bắc Tống, trên đảo My Châu, Phủ Điền, Phúc Kiến có một người phụ nữ kỳ lạ tên là Lâm Mặc. Bà tu Đạo từ nhỏ, dần dần có được những năng lực phi thường như tiên đoán được phúc họa, cứu người trên biển và rất nhiều thần tích khác, theo thói quen người ta tôn kính gọi bà là “Lâm Mặc Nương”. Sau khi chết, bà vẫn hiển linh để bảo hộ bách tính, vì vậy qua các triều đại bà đã được các triều đình phong tặng nhiều danh hiệu tôn quý như “Thiên Phi”, “Thiên Hậu”, “Thánh Mẫu”, dân gian thì trực tiếp gọi bà là “Mẫu Tổ”. Hôm nay tôi sẽ kể một chuyện thần kỳ về Lâm Mặc Nương lúc còn sống đã chữa bệnh cho người dân.

Khi đó, cả gia đình quan huyện lệnh Phủ Điền bị mắc bệnh dịch, ông đã mời thầy thuốc đến cứu chữa nhưng không cách nào trị được, lúc đó Lâm Mặc Nương đã bắt đầu hiển thần tích, thể hiện khả năng siêu thường chữa bệnh cho mọi người, không bệnh nào không khỏi mà không nhận một xu. Huyện lệnh đại nhân là người đứng đầu địa phương, ông vốn có thể dùng quyền lực để đưa Lâm Mặc Nương đến phủ trị bệnh. Nhưng ông biết rõ bà là người tu Đạo có pháp lực thần thông, vì vậy sau khi thành tâm trai giới, ông đích thân đến đảo My Châu khẩn cầu Lâm Mặc Nương cứu chữa. Lâm Mặc Nương thấy ông là một vị quan thanh liêm, từ thiện, lại một lòng cung kính Thần Phật, bèn nhắc nhở huyện lệnh rằng: “Đây là thiên tai, sao dám tùy tiện can thiệp? Nhưng ông xưa nay luôn nhân từ, nên ta sẽ sám hối thay ông”. Thế là Lâm Mặc Nương dùng chín khúc cây xương bồ, viết bùa chú lên, bảo cả nhà quan huyện sắc lấy nước uống, cả nhà ông lập tức khỏi bệnh. Kể từ đó, thần tích này đã lan truyền khắp bốn phương.

Câu chuyện tuy ngắn nhưng nội hàm rất thâm sâu: Mẫu Tổ Lâm Mặc Nương nói với quan huyện: “Đây là thiên tai, sao dám tùy tiện can thiệp?”. Câu này cho thấy rằng bệnh dịch kỳ thực là do Thiên thượng an bài, thì ngay cả nữ thần Mẫu Tổ cũng không thể tùy ý can thiệp. Có thể thấy rằng đằng sau bệnh dịch là Ôn Thần đang chấp hành Thiên ý, làm cho những con người có tội nghiệp hoặc những người đặc biệt xấu nơi nhân gian bị nhiễm bệnh, cũng có nghĩa là bệnh dịch có mắt. Hiện nay những người tu luyện ở cảnh giới cao đều thấy rằng: ôn dịch Covid-19 đến là nhắm vào ĐCSTQ, một thế lực tà ác, độc tài, tham nhũng, xấu xa, mang họa cho đất nước, hại dân. Tất cả các thành viên của tổ chức đảng đoàn đội của ĐCSTQ, cũng như những người đi theo, những người ủng hộ và đi cùng đường với nó, đều bị dính líu vào tội ác của nó ở những mức độ khác nhau, đã trở thành một phần sức mạnh của nó, cuối cùng họ cũng không thể thoát khỏi tai họa bệnh dịch.

Vậy làm thế nào để có thể thoát khỏi kiếp nạn này? ĐCSTQ không chỉ gây ra cái chết bất thường cho hơn 80 triệu người dân Trung Quốc trong bảy thập kỷ qua mà còn mở rộng ảnh hưởng sang các nước khác trong những năm gần đây. Những hành động phá hoại của nó đã làm lung lay nền tảng văn minh phương Tây truyền thống vốn coi trọng đức tin, tự do ngôn luận, nhân quyền và đạo đức. Với sự hậu thuẫn của phố Wall, những gã khổng lồ công nghệ, các chính trị gia hủ bại và các doanh nhân tìm kiếm lợi nhuận, ĐCSTQ đang mưu đồ thống trị thế giới khi thay đổi trật tự thế giới bằng kế hoạch truyền bá chủ nghĩa cộng sản của nó.

Thế giới đang đứng trước một bước ngoặt. Mỗi chính phủ và cá nhân đều phải lựa chọn cho bản thân: bảo vệ đức tin, nhân quyền, tự do, các giá trị và đạo đức truyền thống; hay là xoa dịu ĐCSTQ và đứng về phía lừa dối, bạo lực, hủ bại?

Nguồn tư liệu: Thiên Hậu Thánh Mẫu sự tích đồ chí

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/274738

The post Câu chuyện lịch sử: Tổ bà Lâm Mặc Nương chữa bệnh dịch cho quan huyện lệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Tâm sắc dục chiêu mời ma quỷ dẫn đến mất mạnghttps://chanhkien.org/2022/06/cau-chuyen-lich-su-tam-sac-duc-chieu-moi-ma-quy-dan-den-mat-mang.htmlSun, 12 Jun 2022 09:00:57 +0000https://chanhkien.org/?p=28667Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Việc con người có hành vi tình dục ngoài hôn nhân do sắc dục dẫn động là điều vô cùng nguy hiểm và sẽ chiêu mời những điều tà. Trong tập sách Tuý trà chí quái có ghi lại một câu chuyện như […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tâm sắc dục chiêu mời ma quỷ dẫn đến mất mạng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Việc con người có hành vi tình dục ngoài hôn nhân do sắc dục dẫn động là điều vô cùng nguy hiểm và sẽ chiêu mời những điều tà. Trong tập sách Tuý trà chí quái có ghi lại một câu chuyện như thế. Vào cuối triều Thanh, ở làng nọ có một thư sinh sau khi tốt nghiệp học viện thì trở về nhà. Một hôm, đến canh ba thư sinh này bỗng nổi tà niệm sắc dục. Ngoài thành Tây có một kỹ viện, nhưng anh ta cho rằng nơi đó chỉ toàn liễu nát hoa tàn không đáng để mắt tới.

Lại nói đêm hôm ấy mây đen mù mịt, ánh trăng lờ mờ, ngay cả đường đi dưới chân cũng không nhìn rõ được. Vị thư sinh không thể lần ra phương hướng đành lững thững đi đến một nơi không rõ, chỉ thấy vài gian nhà tranh lụp xụp cao hơn đầu người một chút, dưới mái hiên có chút ánh sáng hắt ra. Vị thư sinh cúi xuống mở cửa, thấy căn nhà rất hẹp, chỉ vừa đủ dung thân mà thôi, có một người phụ nữ ngồi quay lưng lại với ánh đèn. Thư sinh kia bị tâm sắc dục mê hoặc tiến tới sàm sỡ người phụ nữ, rồi cởi y phục lên giường ngủ cùng, sau đó dần dần chìm vào giấc mộng.

Trong mộng thư sinh đột nhiên cảm thấy gió bấc rít qua, cảm giác lạnh thấu xương, nên giật mình tỉnh giấc, nhìn quanh bốn bề không thấy căn nhà tranh đâu cả, mà chỉ thấy mình đang nằm trên mảnh ván quan tài cũ nát. Trên trời tuyết bay dày đặc, lớp tuyết trên mặt đất dày đến gần nửa mét. Bên cạnh anh ta hoàn toàn không có người phụ nữ nào cả, chỉ có một bộ xương khô đang bị tuyết trắng xóa bao phủ.

Thư sinh biết rằng mình đã gặp quỷ, lúc ấy anh ta cảm thấy sợ khiếp vía, vội đứng dậy tìm giày và y phục, nhưng trong đêm tuyết rơi này không thể nào tìm được. Anh ta đứng dậy đi được vài bước mới phát hiện ra chiếc áo da cũ hôm qua mình mặc đang ở trong đống tuyết, chiếc áo đã bị tuyết thấm ướt đẫm gần hết, anh ta vội nhặt áo lên, mặc vào và đi về nhà trong bộ dạng thảm hại. Anh ta sau đó bị một trận bệnh nặng, không lâu sau thì chết. Bởi vì đây không phải là một câu chuyện vẻ vang gì nên tác giả cuốn Tuý trà chí quái đã ẩn đi danh tính nhân vật.

Vị thư sinh trong câu chuyện bởi vì trong đầu chứa toàn những ý niệm sắc dục nên đã bị quỷ tà dẫn dụ, cuối cùng mất đi tính mạng, quả thật vừa đáng thương vừa đáng tiếc, mà cũng đáng xấu hổ. Có thể thấy rằng ngay cả với những ý niệm sắc dục thôi cũng đã nguy hiểm rồi.

Nguồn tư liệu: Sách Tuý trà chí quái của Lý Khánh Thần triều Thanh

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/247697

The post Câu chuyện lịch sử: Tâm sắc dục chiêu mời ma quỷ dẫn đến mất mạng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Hứa Dung khiêm tốn, nhân hậuhttps://chanhkien.org/2022/02/cau-chuyen-lich-su-hua-dung-khiem-ton-nhan-hau.htmlSat, 19 Feb 2022 02:15:20 +0000https://chanhkien.org/?p=28367Tác giả: Chu Hiểu Huy chỉnh lý [ChanhKien.org] Những năm Hoằng Trị triều Thanh, vùng Chiết Giang có một người giỏi nghề văn chương nức tiếng tên là Hứa Dung. Nhưng anh vô cùng khiêm tốn, chưa bao giờ đem tài năng của mình ra so sánh với người khác, càng không dám ví mình […]

The post Câu chuyện lịch sử: Hứa Dung khiêm tốn, nhân hậu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chu Hiểu Huy chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Những năm Hoằng Trị triều Thanh, vùng Chiết Giang có một người giỏi nghề văn chương nức tiếng tên là Hứa Dung. Nhưng anh vô cùng khiêm tốn, chưa bao giờ đem tài năng của mình ra so sánh với người khác, càng không dám ví mình với các bậc thánh hiền thời cổ.

Bấy giờ trong một kỳ thi ở trường dành cho các sĩ tử, một người bạn của Hứa Dung đã lấy trộm bài văn của anh và giành được giải nhất. Người bạn này vênh vênh đắc ý, gặp ai cũng khoe khoang, thậm chí còn ở trước mặt tác giả thực sự của bài văn là Hứa Dung mà tự khoe mình. Nhiều bạn bè cảm thấy bất bình thay cho Hứa Dung, đều muốn đến nói phải trái với người bạn vô sỉ kia. Nhưng Hứa Dung lại ra sức khuyên can mọi người: “Văn chương tao ngộ có quan hệ đến vận mệnh của một người. Vận mệnh của cậu ấy là đỗ đầu thì có quan hệ gì tới năng lực viết văn đâu? Huống hồ rằng bài văn ấy xác thực không phải do tôi viết, mọi người đừng hiểu lầm”. Người bạn vốn đạo văn kia nghe xong câu nói ấy thì mình trần chạy đến trước mặt Hứa Dung nhận lỗi, lại xin thêm bản thảo bài văn. Hứa Dung đã đưa bản thảo tốt nhất của mình cho người bạn này.

Sau này khi có kỳ thi, người bạn có được bản thảo bài văn kia lại nhờ bài văn của Hứa Dung mà nghiễm nhiên đỗ tiến sĩ còn Hứa Dung thì trượt mất. Người bạn này không những không cảm tạ Hứa Dung, mà ngược lại sau khi nhậm chức huyện lệnh thì gặp Hứa Dung còn tỏ ra không quen biết. Tuy nhiên ngay cả như vậy thì Hứa Dung cũng không so đo tính toán với anh ta.

Sau này Hứa Dung thi đỗ tiến sĩ, được đích thân Hoàng đế ban cho chức tuần phủ Sơn Đông, và là quan thượng cấp trực tiếp của người bạn kia. Người bạn ấy không còn mặt mũi nào đến gặp Hứa Dung bèn viết thư cáo ốm. Hứa Dung nhân hậu lại còn an ủi người bạn, vẫn đối đãi với anh ta như trước.

(Nguồn: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/51404

The post Câu chuyện lịch sử: Hứa Dung khiêm tốn, nhân hậu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Tống Cao Tông tuyển chọn thái tửhttps://chanhkien.org/2022/02/cau-chuyen-lich-su-tong-cao-tong-tuyen-chon-thai-tu.htmlMon, 14 Feb 2022 05:03:12 +0000https://chanhkien.org/?p=28355Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Tống Cao Tông sau khi làm hoàng đế được 20 năm thì muốn chọn một trong hai người là Phổ An vương và Ân Bình vương làm thái tử. Có một lần Cao Tông sao chép tay hai bản Lan đình tự rồi đưa cho hai người yêu cầu mỗi người chép […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tống Cao Tông tuyển chọn thái tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Tống Cao Tông sau khi làm hoàng đế được 20 năm thì muốn chọn một trong hai người là Phổ An vương và Ân Bình vương làm thái tử.

Có một lần Cao Tông sao chép tay hai bản Lan đình tự rồi đưa cho hai người yêu cầu mỗi người chép tay 500 bản dâng lên. Mấy ngày sau Phổ An vương chép được 700 bản đem dâng còn Ân Bình vương nói không có thời gian nên không chép lấy một chữ.

Lại có một lần Cao Tông ban cho hai vị vương mỗi người 10 cung nữ, một tháng sau ông cho triệu hồi các cung nữ này lại hỏi han, họ nói Phổ An vương đối với họ vô cùng giữ lễ còn Ân Bình vương thì tuỳ tiện bỡn cợt. Thế là Cao Tông lập Phổ An vương làm thái tử, mấy năm sau lại nhường ngôi cho, lịch sử gọi là Tống Hiếu Tông.

Người biết tôn kính bậc trưởng bối và ân cần với người yếu thế mới có thể trở thành hoàng đế được.

(Theo Bảo Khánh Tứ Minh Chí)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/40810

The post Câu chuyện lịch sử: Tống Cao Tông tuyển chọn thái tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: La Quán Trung tập trung viết sách, vẫn thường nhập mêhttps://chanhkien.org/2022/02/cau-chuyen-lich-su-la-quan-trung-tap-trung-viet-sach-van-thuong-nhap-me.htmlSun, 13 Feb 2022 03:35:50 +0000https://chanhkien.org/?p=28352Tác giả: Tăng Kính Hiền [ChanhKien.org] 1) Thi Nại Am leo lên cây để quan sát hổ Thi Nại Am (sống vào khoảng năm 1296 – 1370) là một tiểu thuyết gia thời cuối Nguyên đầu Minh. Khi soạn bản thảo Thuỷ Hử, vì cần phải viết về nhiều cảnh đánh hổ nhưng ông chưa bao […]

The post Câu chuyện lịch sử: La Quán Trung tập trung viết sách, vẫn thường nhập mê first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tăng Kính Hiền

[ChanhKien.org]

1) Thi Nại Am leo lên cây để quan sát hổ

Thi Nại Am (sống vào khoảng năm 1296 – 1370) là một tiểu thuyết gia thời cuối Nguyên đầu Minh. Khi soạn bản thảo Thuỷ Hử, vì cần phải viết về nhiều cảnh đánh hổ nhưng ông chưa bao giờ nhìn thấy một con hổ thực sự, chưa nắm rõ về thói quen và khả năng săn mồi của loài hổ, chỉ dựa vào truyền thuyết và trí tưởng tượng, với sự hiểu biết chung chung, chưa từng thấy cảnh anh hùng đánh hổ thì làm sao thể hiện được sức mạnh siêu phàm của người anh hùng đánh hổ?

Để bổ sung cho chỗ thiếu sót này, có một hôm, ông một mình đơn độc chạy đến vùng núi non trùng điệp thường có hổ qua lại, trèo lên một cái cây to, ngồi trên cành cây rồi lẳng lặng quan sát bốn bề. Đột nhiên, một con hươu chạy “xoạt” ngang qua trước mắt ông, sau đó một tiếng hổ gầm vang như sấm, từ trong rừng nhảy ra một con hổ lớn. Bỗng nhiên trường cảnh đầy máu với một con hổ đói săn mồi và con hươu sợ hãi bỏ chạy hiện ra trước mắt. Thi Nại Am ngẩn nhìn, mãi đến khi con hổ đi xa rồi ông mới từ trên cây nhảy xuống; ông còn đi đến những nơi khác quan sát hổ hoặc tìm những người thợ săn giàu kinh nghiệm để tìm hiểu cách họ săn hổ hoặc đọ sức với lũ hổ.

Nhờ thế, sau này khi Thi Nại Am tả những cảnh như anh em họ Giải săn hổ, Lý Quỳ giết hổ hay Võ Tòng đánh hổ trên đồi Cảnh Dương thì đều lột tả hết sức chân thực và sinh động.

2) La Quán Trung tập trung viết sách, vẫn thường nhập mê

La Quán Trung (sống vào khoảng năm 1330 – 1400) là một tiểu thuyết gia và nhà viết kinh kịch nổi tiếng sống vào cuối triều Nguyên đầu triều Minh, là ông tổ của tiểu thuyết thể loại chương hồi Trung Quốc. Khi ông soạn thảo truyện Tam quốc diễn nghĩa thường tập trung tinh thần cao độ, đến mức quên ăn quên ngủ, nhiều lần nhập mê.

Một buổi sáng nọ, phu nhân của La Quán Trung đi chợ và dặn ông nhớ đóng cổng lớn lại. Ông vẫn đáp lời bà nhưng lại chuyên tâm vào viết, quên cả việc đóng cổng. Một lúc sau có một tên trộm đi ngang qua nhà ông, hắn làm ra vẻ đáng thương và nói: “Quý ngài tốt bụng ơi, xin hãy làm ơn làm phước! Đã mấy ngày nay tôi chưa được ăn gì, xin ông hãy bố thí cho tôi chút thức ăn!” Lúc này La Quán Trung đang chỉnh sửa chương “Hội quần anh, Tưởng Cán trúng kế”, trong đầu ông toàn những cảnh như Chu Du dẫn Tưởng Cán đến sau trại xem lương thực chất chồng như núi, chợt nghe có người nói đến hai chữ “lương thực”, La Quán Trung thuận miệng đáp lại: “Lương thực trong trại chất cao như núi, anh cứ đến lấy đi!” Tên trộm nghe xong bỗng ngẩn ra, hắn nhìn La Quán Trung nghĩ: “Người này không ngẩng đầu lên, đang tập trung viết sách”, liền lấy can đảm rón rén bước vào nhà trong, gom lương thực và những đồ có giá trị trong nhà La Quán Trung nhét đầy hai cái bao to rồi rời đi.

Khi phu nhân của La Quán Trung đi chợ về thấy lương thực trong nhà đã bị trộm bèn quay sang nói với ông: “Lương thực trong nhà đã bị trộm khoắng sạch, giờ chẳng còn gì nữa, ông muốn cả nhà chết đói hết hay sao?” Lúc này La Quán Trung đang chỉnh sửa chương “Ra Lũng Thượng, Gia Cát giả Thần”, nghe phu nhân nói “không có gì để ăn”, “chết đói” bèn vội đáp: “Bây giờ lúa ngoài đồng chín cả rồi, sao không đi gặt?”

Phu nhân nghe xong biết là ông viết sách đến mức nhập thần, không giống người sống nữa. Quả thật bà không biết nên cười hay nên khóc.

Đến ngày mùa, lúa chín gặt về nhà chất thành đống, lũ chuột thường kéo cả đàn cả lũ đến ăn trộm thóc, phu nhân mới nhờ La Quán Trung tìm cách xử lý lũ chuột. Lúc này La Quán Trung đang viết đến chương “Gia Cát Lượng hoả thiêu Tân Dã” nên cũng không để ý đến lời bà. Phu nhân bèn giật lấy cây bút của La Quán Trung, khiến ông nổi giận đùng đùng quăng cả ngọn đèn, vừa chạy vào trong vừa hét lên: “Mau dùng hoả công, dùng hoả mà thắng!” Vô tình ngọn đèn làm cháy cái vách sậy, ngọn lửa nhanh chóng lan ra!

Phu nhân la lớn: “Cháy rồi! Cháy rồi! Dập lửa mau!” Hàng xóm nghe tiếng kêu vội chạy đến, mọi người cùng nhau dập tắt ngọn lửa. Sau đó mọi người hỏi La Quán Trung: “Có chuyện gì vậy?” Lúc này ông mới quay đầu lại, nhưng lại nhớ ngay đến “cẩm nang diệu kế, Triệu Vân cứu chúa” trong phần “Muốn lui quân Đông Ngô, phải cầu người Đông Ngô” liền quỳ xuống dưới chân phu phân, không ngừng dập đầu cầu xin: “Tôn phu nhân! Tôn phu nhân! Ngàn lần sai, vạn lần sai, tất cả là do Lưu Huyền Đức ta đã sai! Xin hãy niệm tình phu thê mà tha lỗi cho ta một lần này!”

Mọi người (những người đến giúp dập lửa) đều bị hành động của La Quán Trung làm kinh ngạc đến sững sờ. Sau khi được phu nhân của La Quán Trung giải thích, tất cả mới hiểu ra: Thì ra là ông ấy đang viết tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, giờ đã nhập mê rồi!

(Theo Uyên giám loại hàm của tác giả Trương Anh triều Thanh)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/158720

The post Câu chuyện lịch sử: La Quán Trung tập trung viết sách, vẫn thường nhập mê first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Dự ngôn của Quan Vũ về Lý Nhược Thủy và biến cố Tĩnh Khanghttps://chanhkien.org/2021/12/cau-chuyen-lich-su-du-ngon-cua-quan-vu-ve-ly-nhuoc-thuy-va-bien-co-tinh-khang.htmlFri, 03 Dec 2021 15:30:05 +0000https://chanhkien.org/?p=28164Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Quan Vũ là người thời Tam quốc, còn Lý Nhược Thủy vốn tên là “Nhược Băng”, tự “Thanh Khanh”, làm quan to cuối thời Bắc Tống, chết trong biến cố Tĩnh Khang. Hai người không cùng một thời đại thì làm sao có thể gặp nhau, tuy nhiên vào đầu […]

The post Câu chuyện lịch sử: Dự ngôn của Quan Vũ về Lý Nhược Thủy và biến cố Tĩnh Khang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Quan Vũ là người thời Tam quốc, còn Lý Nhược Thủy vốn tên là “Nhược Băng”, tự “Thanh Khanh”, làm quan to cuối thời Bắc Tống, chết trong biến cố Tĩnh Khang. Hai người không cùng một thời đại thì làm sao có thể gặp nhau, tuy nhiên vào đầu thời Nam Tống, cuốn sách cổ Khuê Xa Chí lại ghi chép rằng Quan Vũ đã từng có dự ngôn về biến cố Tĩnh Khang cho Lý Nhược Thủy.

Theo ghi chép của sách này, vào năm Tuyên Hòa của triều đại Bắc Tống, Lý Nhược Thủy từng đảm nhiệm chức huyện úy Nguyên Thành, Nguyên Thành lúc đó thuộc phủ Đại Danh, nằm ở huyện Đại Danh tỉnh Hà Bắc ngày nay. “Huyện úy” là chức quan phụ trách trị an, tương tự như cảnh sát trưởng một quận ngày nay. Một ngày nọ, có một thôn dân đến gặp Lý Nhược Thủy và nói rằng: Quan Đại Vương có một cuốn sách gửi cho đại nhân. “Quan Đại Vương” chính là chỉ Quan Vũ hay còn gọi là Quan Công. Dân gian cho rằng sau khi qua đời Quan Vũ đã trở thành một vị thần, thời Bắc Tống sớm đã thờ Quan Công, tỷ như Tống Huy Tông đã phong cho Quan Công là “Chiêu Liệt Vũ An Vương” và “Nghĩa Dũng Vũ An Vương”. Lý Nhược Thủy nghe không hiểu liền mở ra xem, đoạn đầu sách viết: “Sách gửi đến Nguyên Thành huyện úy Lý Thượng Thư, Hán tiền tướng quân Quan Vân Trường ký tên”. Lý Nhược Thủy thấy trong sách mình được gọi là “huyện úy Lý Thượng Thư”, lẽ nào tiên đoán rằng một huyện úy như ông trong tương lai có thể làm tới chức Thượng thư, vì vậy ông ta vội hỏi thôn dân xem đây là chuyện gì.

Thôn dân nói: Một đêm nọ, tôi nằm mơ thấy vị tướng quân mặc kim giáp nói với tôi rằng: mấy ngày tới ngươi dành thời gian đến huyện lỵ, đến đó sẽ gặp được một vị thiết quan đạo sĩ, ngươi nói là tới nhận sách của Quan Đại Vương, ông ấy sẽ đưa sách cho ngươi, ngươi hãy đưa cuốn sách đó cho Lý Nhược Thủy. Khi tỉnh dậy, thôn dân cảm thấy rất thần kỳ liền làm theo lời của tướng quân kim giáp trong giấc mơ, quả thực đã gặp được vị thiết quan đạo sĩ và nhận được cuốn sách của Quan Đại Vương, thế là liền mạnh dạn đến cầu kiến Lý huyện úy. Lý Nhược Thủy nghe xong liền mở ra đọc kỹ, càng xem càng kinh hãi, trong sách viết về biến cố bi thảm Tĩnh Khang mà sau này triều đại Bắc Tống sẽ gặp phải. Vì nội dung quá kỳ lạ và liên quan đến những người đương quyền trong triều nên ông ta không dám để lại mà đuổi thôn dân đi rồi đốt sách. Sau đó, ông viết một bài thơ để ghi lại: “Kim Giáp tướng quân truyền hảo mộng, Thiết quan đạo sĩ ký tân thư. Ngã dữ Vân Trường cách dị đại, Phiên nghi thử sự đại hoang hư” (dịch nghĩa: Kim giáp tướng quân truyền mộng đẹp, Thiết quan đạo sĩ gửi sách mới. Ta cùng Vân Trường cách biệt nhau thế hệ, nghi ngờ chuyện này chỉ là hư vô).

Sau đó, Lý Nhược Thủy quả thật ngày càng được thăng tiến, đến năm Tĩnh Khang thứ nhất, ông được hoàng đế trọng dụng, làm tới chức Lại Bộ Thị Lang. Triều đình thời xưa có 6 bộ chủ yếu như Lại bộ, Hộ bộ, Binh bộ…, chức quan cao nhất của mỗi bộ là “Thượng thư”, tương đương với bộ trưởng thời nay; chức quan cao thứ nhì ở mỗi bộ là “Thị lang”, tương đương với chức Thứ trưởng thời nay, như vậy chức quan của ông chỉ cách chức Thượng thư mà Quan Vũ tiên đoán một bậc. Vào năm Tĩnh Khang thứ hai, quân Kim bao vây Khai Phong, kinh đô của triều đại Bắc Tống. Quân Kim ép buộc Hoàng đế của triều đại Bắc Tống đến trại quân Kim để đàm phán. Hoàng đế vốn dĩ không muốn đi, nhưng Lý Nhược Thủy đã thuyết phục Hoàng đế không cần lo lắng nhiều, và tự mình làm tùy tùng cũng cùng đi theo. Kết quả là hoàng đế bị giam giữ ngay khi đến trại quân Kim, Lý Nhược Thủy tuyệt thực và mắng nhiếc quân Kim bội bạc nên bị chúng đánh đập, cắt lưỡi và chặt cổ mà chết. Sau khi Hoàng đế Cao Tông lên ngôi vào triều đại Nam Tống, ông đã phong cho Lý Nhược Thủy thụy hiệu là “Trung Mẫn”. Con trai của Lý Nhược Thủy là Lý Tuấn Thuần, đã khắc câu chuyện Thần linh cảnh báo cha mình về biến cố Tĩnh Khang lên bia đá để lưu truyền hậu thế.

Quách Thoán, tự “Bá Tượng”, tác giả cuốn Khuê Xa Chí, đỗ tiến sỹ và ra làm quan thời bấy giờ, đã ghi lại tất cả những điều kỳ lạ mà ông đã mắt thấy tai nghe tại thời điểm đó nên độ tin cậy được bảo đảm. Tại sao Lý Nhược Thủy không làm đến chức Thượng thư? Chẳng lẽ năm đó Quan Công đã tiên đoán không chính xác? Kỳ thực, hãy phân tích một chút, năm đó Quan Công thông qua thiết quan đạo sĩ cùng thôn dân đã có dự ngôn về biến cố Tĩnh Khang, đáng tiếc Lý Nhược Thủy không những chỉ đem Dự Ngôn thư đốt đi, mà còn làm thơ nói rằng “Phiên nghi thử sự đại hoang hư” (nghi ngờ chuyện này chỉ là hư vô), rõ ràng là thái độ không tin. Hành vi của ông ta trong sự kiện Tĩnh Khang cũng xác nhận ông không tin vào lời tiên tri: Ông ta không những không rời khỏi Khai Phong đang bị bao vây, mà còn tin tưởng vào lời hứa hẹn của quân Kim mà xúi giục hoàng đế cùng đi đến bản doanh của quân Kim, dẫn đến việc hoàng đế bị giam giữ còn mình thì chết thảm. Nếu năm đó ông tin vào dự ngôn, rời đi đúng lúc hoặc thuyết phục hoàng đế không tin tưởng quân Kim, ông sẽ có thể sống sót sau biến cố Tĩnh Khang, như vậy tương lai có thể làm đến Thượng thư.

Tư liệu tham khảo: Khuê Xa Chí

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/269663

The post Câu chuyện lịch sử: Dự ngôn của Quan Vũ về Lý Nhược Thủy và biến cố Tĩnh Khang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễnhttps://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-chiec-tram-cai-toc-bang-vang-cuu-mang-ly-thoi-mien.htmlSat, 28 Aug 2021 15:13:48 +0000https://chanhkien.org/?p=27805Tác giả: Hải Tân, Nhất Đấu [ChanhKien.org] Vào thời nhà Minh, Lý Thời Miễn giữ chức quan Hàn Lâm (chức quan thời xưa nắm giữ những văn kiện bí mật mà hoàng đế trực tiếp ban hành), một hôm đang trên đường đi xem hội hoa đăng vào đêm rằm tháng Giêng, ông nhặt được […]

The post Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hải Tân, Nhất Đấu


[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Minh, Lý Thời Miễn giữ chức quan Hàn Lâm (chức quan thời xưa nắm giữ những văn kiện bí mật mà hoàng đế trực tiếp ban hành), một hôm đang trên đường đi xem hội hoa đăng vào đêm rằm tháng Giêng, ông nhặt được một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, ngày hôm sau ông dán chiêu lệnh (yết thị cho người mất của đến nhận) lên trước cửa nhà mình. Không lâu sau có một người phụ nữ hoảng hốt chạy đến nhà của Lý Thời Miễn và nói với ông rằng: “Chồng của tôi là Thiên hộ [1] của cẩm y vệ, mấy hôm trước ông ấy đã đi làm nhiệm vụ ở nước ngoài, đêm qua tôi đi xem hội đèn lồng đã vô tình đánh rơi một chiếc trâm cài tóc bằng vàng, tôi vẫn còn giữ một chiếc cài tóc khác giống như vậy để làm chứng”. Sau khi kiểm tra, Lý Thời Miễn trả lại chiếc trâm cài tóc cho người phụ nữ. Chẳng bao lâu sau vị quan Thiên hộ kia từ nước ngoài trở về, ông ta đã mang theo nhiều quà đến để cảm ơn Lý Thời Miễn nhưng Lý Thời Miễn đều từ chối. Vị quan Thiên hộ nói: “Nếu như ngài không nhận thì tôi cũng không miễn cưỡng, chỉ là ở đây có chút thuốc tên là Huyết Kiệt, loại thuốc này tôi mua ở nước ngoài, là thứ hiếm có trên đời, vậy nên hy vọng ngài hãy nhận lấy nó”. Lý Thời Miễn đành nhận vị thuốc Huyết Kiệt này.

Vài năm sau, Lý Thời Miễn đảm nhiệm chức quan Ngự sử (chức quan ở gần vua giữ việc can ngăn vua). Một lần trên triều ông đã thẳng thắn can ngăn làm hoàng đế Minh Nhân Tông nổi giận, hoàng đế lệnh cho quân sĩ dùng chiếc chuỳ nặng 9 cân đánh ông bán sống bán chết, gãy cả xương sườn, sau đó ông bị đày vào nhà tù nơi cẩm y vệ cai quản. Vừa hay ông gặp lại vị quan Thiên hộ đang làm chức vụ cai ngục tại đây, vị quan Thiên hộ kinh ngạc nói: “Có phải ông là Lý tiên sinh đảm nhiệm chức quan Hàn Lâm không, thánh chỉ của hoàng đế đâu có nói bắt ông phải chết ở nơi này đâu!”. Vì thế vị quan Thiên hộ đã bí mật gọi thầy thuốc tới xem tình trạng của Lý Thời Miễn, vị thầy thuốc sau khi xem xong nói rằng: “Tình trạng của ông có thể chữa được, nhưng cần phải dùng đến một loại thuốc tên là Huyết Kiệt, mà đây lại là thứ rất khó kiếm được”. Vị quan Thiên hộ nói: “Vừa may ở nhà Lý tiên sinh lại có thuốc Huyết Kiệt này”. Nói rồi, ông nhanh chóng phái người đến gặp phu nhân của Lý Thời Miễn và lấy được thuốc Huyết Kiệt. Nhờ được chữa trị kịp thời, Lý Thời Miễn đã có thể bảo toàn tính mạng. Không lâu sau hoàng đế Minh Tuyên Tông lên ngôi, đã khôi phục lại chức quan cho Lý Thời Miễn.

(Trích Hình Thế Ngôn – sách do Lục Nhân Long viết vào cuối triều nhà Minh)

Chú thích của người dịch: [1]: Thiên hộ – tên một chức quan võ, đặt ra từ thời nhà Nguyên (Trung Quốc), đứng đầu 1.000 binh, giữ việc phòng vệ địa phương.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2007/3/13/42722p.html

http://www.pureinsight.org/node/4488

The post Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì?https://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-thuong-tru-vuong-so-dieu-gi.htmlFri, 27 Aug 2021 15:01:29 +0000https://chanhkien.org/?p=27802Tác giả: Nhất Đẩu [ChanhKien.org] Vào thời nhà Thương, Tây Bá hầu Cơ Phát [1] xem trọng chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức trị quốc, khiến cho vùng Tây Kỳ được cai quản rất tốt. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế xảy ra tranh chấp, bởi vì hai nước không thể giải quyết […]

The post Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Thương, Tây Bá hầu Cơ Phát [1] xem trọng chiêu hiền đãi sĩ, lấy đức trị quốc, khiến cho vùng Tây Kỳ được cai quản rất tốt. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế xảy ra tranh chấp, bởi vì hai nước không thể giải quyết nên đã cùng tìm đến Tây Bá hầu nhờ ông xét xử. Khi người nước Ngu và người nước Nhuế đặt chân tới vùng Tây Kỳ thấy rằng người dân nơi đây nhường đất trồng cho nhau, người đi đường đều nhường khiêm kính người già. Người của hai nước Ngu và người nước Nhuế thấy thế nói với nhau rằng: “Điều mà chúng ta tranh giành chính là điều mà người ở đây cho là một sự ô nhục, chúng ta còn tìm Tây Bá hầu làm gì, chỉ là làm nhục chính mình mà thôi”. Thế là họ theo đường cũ trở về, người dân hai nước nhường nhịn lẫn nhau, không còn xảy ra tranh chấp.

Có người vì vậy đã nói với Trụ Vương rằng: “Tây Bá hầu tích đức hành thiện, khiến cho các nước chư hầu đều noi gương ông ta, điều này sẽ không có lợi cho ngài”. Trụ Vương từ đó đã giam Tây Bá hầu vào trong nhà ngục.

(Trích từ Sử ký

Chú thích của người dịch:

[1] Cơ Xương (1152 TCN – 1046 TCN), còn hay được gọi là Chu Văn Vương, vua nước chư hầu Chu cuối thời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã xây nền móng triều đại nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. (Nguồn: Wikipedia).

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/7/29/44995.html

http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4773

The post Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quanghttps://chanhkien.org/2021/08/cau-chuyen-lich-su-giai-thoai-ve-tu-ma-quang.htmlThu, 26 Aug 2021 14:38:47 +0000https://chanhkien.org/?p=27799Tác giả: Thiện Ngôn [ChanhKien.org] Tư Mã Quang, tự Quân Thực, là người ở thôn Thúc Thủy, huyện Hạ, Thẩm Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), nên người đời gọi ông là Thúc Thuỷ tiên sinh. Năm Bảo Nguyên thứ hai ông đỗ tiến sỹ, và làm tới chức quan Tả bộc dạ môn hạ […]

The post Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Ngôn

[ChanhKien.org]

Tư Mã Quang, tự Quân Thực, là người ở thôn Thúc Thủy, huyện Hạ, Thẩm Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), nên người đời gọi ông là Thúc Thuỷ tiên sinh. Năm Bảo Nguyên thứ hai ông đỗ tiến sỹ, và làm tới chức quan Tả bộc dạ môn hạ thị lang. Ông được phong chức Thái Sư, Văn Quốc Công, tên thuỵ (tên đặt sau khi chết để cúng giỗ) là Văn Chính. Tư Mã Quang là nhà sử học nổi tiếng thời Bắc Tống, ông là người đã chủ trì biên soạn nên cuốn biên niên sử đồ sộ là “Tư trị thông giám”, ngoài ra ông còn có tác phẩm nổi tiếng là “Tư Mã Văn Chính công tập” v.v.

Khi Tư Mã Quang tự nhận xét bản thân mình, ông đã nói rằng: “Ta không có điều gì hơn người khác, chỉ là cả đời ta không làm những việc hổ thẹn với lương tâm”. Người dân ở vùng Thẩm Châu, Lạc Dương đều bị cảm hoá bởi đức hạnh của ông đến nỗi mỗi khi có người phạm sai lầm thì họ sẽ nói: “Tư Mã Quân Thực tiên sinh lẽ nào không biết điều này sao?”

Khi Tư Mã Quang đảm nhiệm chức Thông phán tại Tịnh Châu (Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây ngày nay), người Tây Hạ thường xuyên xâm lấn biên giới, điều đó đã trở thành mối lo ở nơi đây. Vì vậy Tư Mã Quang đã kiến nghị lên cấp trên của ông là Bành Tịch cho tu sửa hai tòa thành và chiêu mộ người dân trồng trọt, canh tác nhằm ngăn chặn và kiểm soát người Tây Hạ. Bành Tịch đã nghe lời kiến nghị và phái Quách Ân thi hành việc đó, nhưng bởi vì Quánh Ân phòng ngự không chu toàn cho nên dẫn tới thất bại. Bành Tịch vì chuyện này mà bị cách chức. Tư Mã Quang ba lần viết thư lên triều đình tự nhận trách nhiệm, xin được từ quan, nhưng đều bị từ chối. Sau khi Bành Tịch qua đời, Tư Mã Quang đã đối xử với vợ của Bành Tịch như mẹ của mình, ông chăm sóc con trai của Bành Tịch như đối với huynh đệ thân thiết. Người thời đó đều cho rằng Tư Mã Quang là một người hiền đức.

Thời Tư Mã Quang còn ở Lạc Dương, Văn Ngạn Bác thường dẫn theo các kỹ nữ đi du xuân. Ngày nào ông cũng mời rủ Tư Mã Quang đi cùng. Một ngày khi đang du ngoạn tới “Độc Lạc Viên”, trông thấy người trông giữ khu vườn nhìn về phía mình thở dài, Tư Mã Quang hỏi người đó vì sao thở dài, người trông vườn đáp: “Bây giờ là lúc hoa cỏ cây cối sinh trưởng tươi tốt, mỗi lần ngài ra ngoài du ngoạn là mấy chục ngày, không chỉ khiến cho thanh xuân của ngài trôi đi, mà thậm chí đến một dòng sách ngài cũng không đọc. Đáng tiếc rằng ngài đã phóng túng bản thân, lãng phí thời gian cuộc đời vào những thú vui vô bổ!” Tư Mã Quang nghe xong cảm thấy vô cùng hổ thẹn, ông đã phát thề sẽ không bao giờ ra ngoài du ngoạn nữa. Sau này, mỗi khi có người mời ông ra ngoài du ngoạn, Tư Mã Quang lại dùng lời của người trông vườn để khước từ.

Tư Mã Quang sống một đời giản dị, thanh liêm, ông không màng đến những điều xa hoa. Có người nói, khi vợ ông qua đời, trong nhà ông cũng không có tiền để lo việc tang lễ, vì vậy con trai ông là Tư Mã Khang chủ định mượn tiền để làm việc tang lễ được phô trương một chút, nhưng Tư Mã Quang đã không đồng ý. Ông dạy bảo con mình rằng lập thân, xử thế quý ở chỗ tiết kiệm, không thể tùy ý mượn tiền người khác. Vì thế Tư Mã Quang đã đem cầm cố một miếng đất của mình và dùng số tiền đó để tổ chức một tang lễ bình thường. Đây chính là câu chuyện: “Điển địa táng thê” (Cầm cố đất để làm tang lễ cho vợ) của Tư Mã Quang.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/7/27/44997.html

The post Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quang first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Câu chuyện lịch sửhttps://chanhkien.org/2021/03/loat-bai-cau-chuyen-lich-su.htmlSun, 07 Mar 2021 21:00:01 +0000https://chanhkien.org/?p=27242Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [Chanhkien.org] Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt (04-10-2020) Câu chuyện lịch sử: Tấn Hiếu Vũ Đế uống rượu khinh nhờn Thần nên qua đời (02-09-2020) Câu chuyện lịch sử: Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình xử tội chém […]

The post Loạt bài: Câu chuyện lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[Chanhkien.org]

Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt (04-10-2020)
Câu chuyện lịch sử: Tấn Hiếu Vũ Đế uống rượu khinh nhờn Thần nên qua đời (02-09-2020)
Câu chuyện lịch sử: Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình xử tội chém ngang lưng (2 câu chuyện) (22-12-2019)
Câu chuyện lịch sử: Bài học về đạo nghĩa vợ chồng của người xưa (10-11-2014)
Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử luận về đạo lý bắt ve (23-06-2013)
Câu chuyện lịch sử: “Phong tăng tảo Tần” (16-06-2011)
Câu chuyện lịch sử: Thành Thang Chúc Võng (26-10-2010)
Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử hết lương thực (07-03-2010)
Câu chuyện lịch sử: Tướng Vệ Thanh (03-08-2009)
Câu chuyện lịch sử: Tưởng Hiếu chạy nạn (31-07-2009)
Câu chuyện lịch sử: Tào Tham khéo giữ gìn những điều tốt đẹp (28-07-2009)
Câu chuyện lịch sử: Thiện ngôn của Khuất Đột Thông (07-03-2009)
Câu chuyện lịch sử: Học và suy nghĩ (20-11-2007)
Câu chuyện lịch sử: Tào Xung giải cứu các viên quan (08-10-2007)
Câu chuyện lịch sử: Giai thoại về Tư Mã Quang
Câu chuyện lịch sử: Thương Trụ Vương sợ điều gì?
Câu chuyện lịch sử: Sự nhẫn nại của Vương Hãn (08-06-2007)
Câu chuyện lịch sử: Chiếc trâm cài tóc bằng vàng cứu mạng Lý Thời Miễn
Câu chuyện lịch sử: Lữ Khôn xây dựng lại thành Ninh Lăng quê nhà của ông (11-04-2007)
Câu chuyện lịch sử: Phó Thuyết khuyên Vua Vũ Đinh (04-12-2006)
Câu chuyện lịch sử: Làm việc thiện tích đức thì tự nhiên có thiện báo (20-11-2006)
Câu chuyện lịch sử: Đun nồi cháo gạo nóng cho người hầu (20-11-2006)
Câu chuyện lịch sử: Tế thế an dân, hậu đức tải vật (13-11-2006)
Câu chuyện lịch sử: Tôn kính sư phụ như cha (01-01-2004)
Câu chuyện lịch sử: Hy sinh mạng sống với mục đích cao thượng làm kẻ địch cảm động (01-01-2004)
Câu chuyện lịch sử: Người sống tinh khiết (01-01-2004)
Câu chuyện lịch sử: Đạo đức xúc động lòng người (01-01-2004

Những câu chuyện về tính kiên nhẫn

The post Loạt bài: Câu chuyện lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệthttps://chanhkien.org/2020/10/cau-chuyen-lich-su-cao-tinh-gia-mao-bo-tat-cuoi-cung-bi-diet.htmlSun, 04 Oct 2020 01:05:20 +0000https://chanhkien.org/?p=26698Tác giả: Đức Huệ [Chanhkien.org] Vào thời Đường, tại một thôn trang vùng Đại Châu (nay là huyện Đại, thành phố Hãn Châu, Sơn Tây), gia đình nọ có một cô con gái, anh của cô đóng quân ở xa, trong nhà chỉ có hai mẹ con. Một ngày nọ, họ bỗng nhiên thấy có […]

The post Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đức Huệ

[Chanhkien.org] Vào thời Đường, tại một thôn trang vùng Đại Châu (nay là huyện Đại, thành phố Hãn Châu, Sơn Tây), gia đình nọ có một cô con gái, anh của cô đóng quân ở xa, trong nhà chỉ có hai mẹ con. Một ngày nọ, họ bỗng nhiên thấy có một sinh mệnh mang hình dáng Bồ Tát cưỡi mây tới nhà, nói với bà mẹ: Nhà của ngươi tốt, ta muốn ở tại nơi này, phải chỉnh trang sửa chữa nhanh một chút, không lâu sau ta sẽ quay lại. Người trong thôn sau khi nghe chuyện, đều tranh nhau đến nhà hai mẹ con hỗ trợ, vừa mới sửa sang xong, thứ gọi là “Bồ Tát” kia liền cưỡi mây ngũ sắc đến ở trong nhà, người trong thôn đều đến cung dưỡng, đồ dâng lên rất nhiều.

“Bồ Tát” này còn lệnh cho mọi người chớ nói ra ngoài, lấy lý do là: sợ rằng tín đồ bốn phương tám hướng qua lại không ngớt. Người trong thôn bởi vậy mà dặn dò nhau, không được đem việc này truyền ra ngoài. Qua một khoảng thời gian, “Bồ Tát” làm dơ bẩn con gái nhà đó, lâu dần cô con gái cũng mang thai. Khi “Bồ Tát” đó đến ở chừng một năm thì anh trai cô gái trở về, “Bồ Tát” nói: Ta không muốn thấy nam nhân, lệnh cho bà mẹ đuổi con trai đi. Bà mẹ nghe theo, khiến cho người con trai có nhà mà không thể về. Anh con trai biết nhất định là mẹ và em gái bị loại tà ma yêu quái lừa gạt, bởi vậy đem hết tiền bạc đi cầu đạo sĩ giúp, cầu thời gian lâu mới tìm được một vị đạo sỹ có đạo thuật, thi triển phép thuật giúp anh ta, kiểm tra thứ gọi là “Bồ Tát” kia, phát hiện thấy đó là một con hồ ly già thành tinh biến hóa ra. Anh con trai liền cầm đao về nhà chém chết hồ ly tinh.

Từ câu chuyện yêu tinh cáo có thể biến thành hình dạng Bồ Tát gạt người lừa tình, có thể thấy được tà ác hại người thường trước tiên tiến hành ngụy trang, đem giấu đi bộ mặt thật xấu ác của nó, thậm chí ngụy trang thành chính nghĩa và thiện lương để mê hoặc thế nhân. Ai có thể nghĩ được rằng hơn một ngàn năm sau tại Trung Quốc lại xuất hiện loại tà ác mê hoặc chúng sinh giống như vậy, nó chính là Đảng cộng sản Trung Quốc. Yêu tinh cáo ngụy trang thành Bồ Tát; Trung Cộng lấy danh nghĩa “vì nhân dân phục vụ”, tạo dựng thiên đường nhân gian chủ nghĩa cộng sản, đủ loại khẩu hiệu êm tai lừa dối nhân dân. Yêu tinh cáo tham đồ cung dưỡng, nữ sắc; Trung Cộng dùng các loại danh nghĩa, chiêu bài để cướp đoạt tài sản nhân dân, không ngừng phát động các cuộc vận động chỉnh người trị người, quan chức của nó tham tài háo sắc thành nghiện. Yêu tinh cáo e ngại bộ mặt thật của mình bị nhìn thấu, cấm thôn dân truyền ra ngoài; Trung Cộng biến tất cả phương tiện truyền thông thông tin thành cơ quan ngôn luận của mình, tạo ra tường lửa phong tỏa trên internet, sợ nhân dân “vượt tường” xem được tin tức báo cáo sự thật, Trung Cộng hiểu rất rõ rằng một khi nhân dân hiểu chân tướng, thì những lời nói dối và hành vi phạm tội của nó đều triệt để bại lộ. Yêu tinh cáo khiến cho bà mẹ xua đuổi anh con trai, phá hoại gia đình; Trung Cộng trong nhiều lần vận động làm không biết bao nhiêu gia đình nhà tan cửa nát, vợ con ly tán.

Đương nhiên yêu tinh cáo chỉ đáng làm học trò nếu so sánh với Trung Cộng. Yêu tinh cáo chỉ có thể khống chế một thôn, Trung Cộng lại nắm trong tay một quốc gia to lớn, bóp méo tư tưởng nhân dân coi Trung Cộng như là Trung Quốc, một mặt lợi dụng tư tưởng yêu nước của người ta để duy hộ nó, một mặt khi làm chuyện xấu thì đều dùng danh nghĩa Trung Quốc, làm bại hoại danh dự Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc. Đương nhiên tà ác chính là tà ác, chung quy cũng phải bị lộ tẩy. Yêu tinh cáo cho dù lừa đảo như thế nào, nó chính là sợ kẻ sĩ có hiểu biết nhìn thấu nó; Trung Cộng cho dù khoe khoang nó là đại biểu nhân dân, thế nhưng nó cũng không hỏi xem nhân dân có cần đảng cộng sản đại biểu cho mình hay không, lại càng không dám cho người dân bỏ phiếu lựa chọn, quyết định xem ai lãnh đạo quốc gia. Yêu tinh cáo cuối cùng bị người nhìn rõ bộ mặt thật giết chết; Trung Cộng tương lai cũng nhất định sẽ bị lật đổ bởi những nhân dân Trung Quốc đã thức tỉnh.

Nguồn: “Quảng dị ký”

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/255119

The post Câu chuyện lịch sử: Cáo tinh giả mạo Bồ Tát, cuối cùng bị diệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình xử tội chém ngang lưng (2 câu chuyện)https://chanhkien.org/2019/12/cau-chuyen-lich-su-cao-chi-thu-phi-bang-phat-bi-trieu-dinh-xu-toi-chem-ngang-lung-2-cau-chuyen.htmlSun, 22 Dec 2019 04:50:56 +0000https://chanhkien.org/?p=25694Tác giả: Trang Kính (chỉnh lý)   [ChanhKien.org] 1. Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình trảm ngang lưng Cao Chi Thụ không tin vào Thần Phật, lại còn cực lực tham gia vào phỉ báng Thần Tiên và Phật Pháp. Hắn ta đã dùng hồ để dán kinh Pháp hoa lên các […]

The post Câu chuyện lịch sử: Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình xử tội chém ngang lưng (2 câu chuyện) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trang Kính (chỉnh lý)

 

[ChanhKien.org]

1. Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình trảm ngang lưng

Cao Chi Thụ không tin vào Thần Phật, lại còn cực lực tham gia vào phỉ báng Thần Tiên và Phật Pháp. Hắn ta đã dùng hồ để dán kinh Pháp hoa lên các bức tường. Có người đã gửi cho hắn một bức tượng Phật, Cao Chi Thụ nói: “A! Bức tượng Phật này tựa như có thể lấy làm thành vật dụng để dùng!”. Vì vậy, hắn đã dùng cưa để cưa tượng làm thành một vật trang trí hình chiếc nhẫn, tổng cộng là mười chiếc.

Về sau, vì chế giễu và tham gia phỉ báng triều đình, Cao Chi Thụ đã bị hoàng đế gửi đến “Bộ hình”, anh ta đã bị xét xử, hỏi tội, và cuối cùng, bị phán xử chém ngang lưng và bị xử tử công khai ngoài chợ.

2. Thích Kế Quang niệm lại kinh một cách thành kính

Đại tướng triều Minh Thích Kế Quang, thường tụng kinh Kim Cương vào các ngày trong tuần.

Một ngày nọ, bỗng nhiên ông mộng thấy một binh sĩ đã chết đến gặp ông thỉnh cầu: “Thỉnh cầu Ngài hãy niệm cho tôi một quyển kinh Kim Cương, như vậy sẽ tạo thêm phúc báo cho tôi tại âm gian”

Sau khi Thích Kế Quang thức dậy vào buổi sáng, ông đã tụng niệm một quyển kinh Kim Cương cho người binh sĩ ấy

Tuy nhiên, đêm hôm sau, ông lại mộng thấy người lính kia, anh ta nói: “Cảm ơn đại ân đại đức của đại tướng vì Ngài đã niệm cho tôi một quyển kinh Kim Cương. Tuy nhiên, tôi chỉ được hưởng công đức của nửa quyển, bởi vì trong khi Ngài đọc kinh văn, đã mang theo cả những thứ hỗn tạp vào trong ấy, Ngài đã thêm hai chữ ‘bất dụng’ vào khi niệm kinh!”

Thích Kế Quang suy nghĩ nửa ngày rồi mới mới nhớ ra nguyên nhân thêm vào hai từ “bất dụng”. Nguyên nhân là khi ông đang tụng kinh, tỳ nữ có đem trà vào cho ông dùng, lúc này ông ấy vẫy tay ra hiệu rằng “bất dụng” (Không cần). Mặc dù ông ấy chưa nói điều ấy ra miệng, nhưng đã nghĩ tới hai từ ấy ở trong đầu khi niệm kinh.

Do đó, vào buổi sáng ngày thứ ba, ông đã đóng cửa và dành thời gian để tụng kinh. Sau đó, ông lại mộng thấy người lính đã chết kia đến cảm ơn: “Bẩm tướng quân, cảm ơn Ngài! Bây giờ tôi chuẩn bị được đi đầu thai rồi”.

(Tất cả đều được biên soạn theo Tập phúc tiêu tai chi Đạo (Cái Đạo để tích phúc tiêu trừ tai ương)).

 

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254360

The post Câu chuyện lịch sử: Cao Chi Thụ phỉ báng Phật bị triều đình xử tội chém ngang lưng (2 câu chuyện) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử luận về đạo lý bắt vehttps://chanhkien.org/2013/06/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-luan-ve-dao-ly-bat-ve.htmlhttps://chanhkien.org/2013/06/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-luan-ve-dao-ly-bat-ve.html#respondSun, 23 Jun 2013 10:24:33 +0000http://chanhkien.org/?p=21957Một ngày nọ, Khổng Tử cùng các môn đệ chu du đến nước Sở. Khi đi ngang qua một khu rừng, Khổng Tử và các môn đệ gặp một ông lão gù lưng đang dùng gậy tre để bắt ve.

The post Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử luận về đạo lý bắt ve first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một học viên Đại Pháp

[Chanhkien.org] Một ngày nọ, Khổng Tử cùng các môn đệ chu du đến nước Sở. Khi đi ngang qua một khu rừng, Khổng Tử và các môn đệ gặp một ông lão gù lưng đang dùng gậy tre để bắt ve. Khi ông lão bắt ve, chỉ đơn giản giống như ông dễ dàng nhặt cái gì đó ở dưới đất lên; ông đơn giản không để sẩy con ve nào.

Khổng Tử đến gần và cúi đầu chào ông lão. Khổng Tử hỏi ông: “Tiên sinh, kỹ thuật bắt ve của tiên sinh thật thành thục, tiên sinh có đạo lý gì?” Ông lão ngước lên và trả lời: “Ta có đạo lý. Thời điểm tốt nhất để bắt ve là vào tháng Năm hoặc tháng Sáu. Khi không đúng thời điểm, đừng vội vàng mà phải kiên nhẫn; khi thời điểm đến, phải tận dụng đầy đủ và bắt được càng nhiều ve càng tốt, nếu không phải đợi sang năm. Khi ta mới đầu bắt ve, ta chỉ bắt được giống như những người khác. Ta để sẩy thường xuyên. Sau đó ta quyết định tự rèn luyện. Ta đặt một viên bi nhỏ trên đầu gậy tre và đứng im giữ cây gậy để giữ cho viên bi không rơi xuống. Ta mất một vài tháng để làm điều này và cuối cùng ta có thể giữ được viên bi trên cây gậy. Sau đó, gần như mỗi lần bắt ve ta đều bắt trúng. Sau đó, ta quyết định đặt ba viên bi trên đầu gậy tre và tự rèn luyện mình giữ viên bi đúng vị trí. Khi ta có thể giữ được ba viên bi trên đầu gậy tre, tỷ lệ bắt trượt của ta còn ít hơn nữa. Sau đó ta quyết định đặt năm viên bi trên gậy tre và lại rèn luyện bản thân giữ viên bi không rơi xuống. Sau khi ta có thể làm điều đó, việc bắt ve trở nên dễ như nhặt cái gì đó ở dưới đất lên vậy; ta không bắt trượt con nào cả.”

Khổng Tử khen ngợi: “Thật tuyệt vời!”

Ông lão tiếp tục: “Khi đang bắt ve, ta giữ cơ thể mình bất động như khúc gỗ. Ta giữ chặt cánh tay mình. Cho dù trời đất rộng lớn ra sao, cho dù mọi thứ xung quanh ta thế nào, ta sẽ không thấy gì ngoài đôi cánh của con ve mà ta đang bắt. Ta sẽ không nhìn lại, không nghiêng người và sẽ không bận tâm đến bất kỳ phiền nhiễu nào. Ta chỉ hoàn toàn để tâm vào con ve; không gì khiến ta thay đổi sự chú ý của ta vào nó. Làm sao ta có thể bắt trượt con ve khi ở trong trạng thái như vậy?”

Khổng Tử cảm thán không thôi; ông quay về phía các đệ tử và nói: “Dụng tâm chuyên nhất, tinh thần tập trung cao độ, sẽ có thể đạt đến cảnh giới thần kỳ. Vị lão nhân gù lưng này hoàn toàn đạt đến tầng thứ đó!”

Khổng Tử nói tiếp: “Tất cả các ngươi đều ăn no mặc ấm, nhưng các ngươi cũng hiểu đạo lý này đúng không? Trước tiên phải buông bỏ truy cầu danh lợi quyền thế, thì mới có thể đạt đến cảnh giới đó.”

Phụ ngôn của tác giả:

Bắt ve chỉ là một nỗ lực đơn giản của con người. Nhưng Đạo gia học từ những những việc nhỏ và dùng đạo lý đằng sau câu chuyện để tu Đạo. Do vậy có thể thấy Đạo hiện hữu ở khắp nơi. Ông lão trong câu chuyện giữ cơ thể bất động như khúc gỗ khi bắt ve, đôi mắt chỉ chú ý vào cánh ve và không thấy gì xung quanh. Chính là ông lão đã bài trừ tất cả can nhiễu bên ngoài, dụng tâm chuyên nhất, tinh thần tập trung cao độ, xuất thần nhập hóa, mới có thể giúp ông bắt được ve. Đây là một cách bắt ve và cũng là cách học Đạo, tu hành. Đạo lý này cũng áp dụng đối với nỗ lực của con người để tạo sự đột phá trong việc học tập và nghiên cứu của họ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/node/113507
http://pureinsight.org/node/6366

The post Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử luận về đạo lý bắt ve first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2013/06/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-luan-ve-dao-ly-bat-ve.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: “Phong tăng tảo Tần”https://chanhkien.org/2011/06/cau-chuyen-lich-su-phong-tang-tao-tan.htmlhttps://chanhkien.org/2011/06/cau-chuyen-lich-su-phong-tang-tao-tan.html#respondThu, 16 Jun 2011 03:30:16 +0000https://chanhkien.org/?p=12407Tác giả: Thẩm Phán [ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, tại Trung Quốc xuất hiện hai vị hòa thượng nổi tiếng, thứ nhất là “tăng điên” Tế Công, thứ hai là “phong tăng” Phong Ba hòa thượng. Hai vị hòa thượng điên điên khùng khùng này đều trở thành La Hán, được dân gian cung phụng […]

The post Câu chuyện lịch sử: “Phong tăng tảo Tần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thẩm Phán

[ChanhKien.org] Vào thời Nam Tống, tại Trung Quốc xuất hiện hai vị hòa thượng nổi tiếng, thứ nhất là “tăng điên” Tế Công, thứ hai là “phong tăng” Phong Ba hòa thượng. Hai vị hòa thượng điên điên khùng khùng này đều trở thành La Hán, được dân gian cung phụng kính ngưỡng.

Phong Ba hòa thượng sống vào đầu thời Nam Tống. Ông là người gan dạ sáng suốt, nổi tiếng với sự tích “Phong tăng tảo Tần”.

Tương truyền thời bấy giờ, anh hùng chống quân Kim Nhạc Phi bị gian thần Tần Cối hãm hại; ông ta bịa đặt tội danh “mạc tu hữu” để giam Nhạc Phi vào đại lao. Sau đó, Tần Cối không quyết định được phải làm thế nào với Nhạc Phi, vì thế ông ta đã tới chùa Linh Ẩn cầu xin quẻ và gặp Phong Ba hòa thượng. Vừa thấy Tần Cối, Phong Ba hòa thượng đã cười ầm lên, hỏi Tần Cối: “Tào Tháo gian hùng cả đời, hôm nay hỏi đã đến đâu?” Tần Cối không hiểu sao; Phong Ba đáp: “Đạo Trời rõ ràng, trung-gian tự thấy, thiện ác hữu báo. Tướng công thân là Tể tướng, một tay có thể nâng cả bầu trời, cớ sao phải sát hại trung thần lương đống? An nguy của quốc gia, lẽ nào không thèm đếm xỉa tới?” Tần Cối hỏi: “Ai là lương đống?” Phong Ba hòa thượng nghiêm mặt nói: “Nhạc Phi tướng quân!” Tần Cối táng tận lương tâm vẫn giả làm ngơ; Phong Ba hòa thượng cười lớn: “Thật là ngu xuẩn, vẫn chưa tỉnh ngộ, về sau hối hận e rằng đã muộn.” Sau đó phẫn nộ, lấy cây chổi cùn quét lia lịa vào mặt Tần Cối, quét xong ngênh ngang bỏ đi, bỗng chốc mất hút bóng dáng. Tần Cối bị quét đến hồn xiêu phách lạc, nhếch nhác bỏ đi. Đây chính là cố sự nổi tiếng “Phong tăng tảo Tần”.

Sau khi cố sự “Phong tăng tảo Tần” được truyền rộng, dân gian càng thêm yêu quý Nhạc Phi, cũng như khoái chí trước sự trừng phạt đối với kẻ gian thần; họ đã đưa vị “phong tăng” vào hàng ngũ La Hán. Tượng hai vị kỳ tăng thời Nam Tống, một “điên” một “phong”, được đặt bên trong đại điện tại nhiều chùa chiền trên khắp Trung Quốc, tôn vinh lẫn nhau.

Bên trong Đại Hùng bảo điện tại rừng Đàn Hương, núi Cửu Hoa có hai bức tượng nhỏ; một là Tế Công hòa thượng, tạo hình như tiên nhân; một là Phong Ba hòa thượng, dưới sườn trái là một cây chổi, tay phẩy phất trần, nhất tâm muốn quét sạch gian tặc Tần Cối. Chỉ cần là nơi nhân quần tụ tập, cho dù sàn nhà có sạch sẽ bao nhiêu, thì ông vẫn khua chổi rơm quét đất, nói là “tảo Tần”, thường thường cảnh tỉnh thế nhân không được quên mất phải cùng nhau trừ bỏ gian tặc.

*  *  *  *  *

Ghi chú của người dịch:

Phong tăng tảo Tần: tăng điên quét Tần Cối (diễn theo nghĩa bề mặt).

Mạc tu hữu: có lẽ có. Vào thời Nam Tống, gian thần Tần Cối vu cho Nhạc Phi là mưu phản; Hàn Thế Trung bất bình, bèn hỏi Tần Cối có căn cứ gì không; Tần Cối trả lời “có lẽ có”. Về sau từ này dùng với nghĩa bịa đặt không có căn cứ.

Lương đống: trụ cột, rường cột, ví với người đảm nhiệm chức trách nặng nề của quốc gia.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/1/30/6914.html
http://pureinsight.org/node/1458

The post Câu chuyện lịch sử: “Phong tăng tảo Tần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/06/cau-chuyen-lich-su-phong-tang-tao-tan.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Thành Thang Chúc Võnghttps://chanhkien.org/2010/10/cau-chuyen-lich-su-thanh-thang-chuc-vong.htmlhttps://chanhkien.org/2010/10/cau-chuyen-lich-su-thanh-thang-chuc-vong.html#respondTue, 26 Oct 2010 14:56:43 +0000https://chanhkien.org/?p=7104Tác giả: Một học viên Đại Pháp [Chanhkien.org] Trong lịch sử Trung Hoa, Thành Thang là Hoàng đế đầu tiên của triều Thương (1766 – 1122 TCN). Khế Đại là người sáng lập bộ lạc Thương thời cổ đại, cùng thời với Hạ Vũ (Vũ Đế). Từ năm 1.700 hoặc 1.600 TCN, bộ lạc Thương […]

The post Câu chuyện lịch sử: Thành Thang Chúc Võng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một học viên Đại Pháp

[Chanhkien.org] Trong lịch sử Trung Hoa, Thành Thang là Hoàng đế đầu tiên của triều Thương (1766 – 1122 TCN). Khế Đại là người sáng lập bộ lạc Thương thời cổ đại, cùng thời với Hạ Vũ (Vũ Đế). Từ năm 1.700 hoặc 1.600 TCN, bộ lạc Thương ngày càng lớn mạnh. Hạ Kiệt là một bạo vương triều Hạ, không được lòng dân, Thương xuất binh chinh phạt nhà Hạ và quét sạch quân Hạ trong trận chiến cuối cùng năm 1.600 TCN. Vua Thang, hay còn gọi là Thành Thang, lập nên triều Thương định đô tại Bạc. Sau này, vào năm 1.300 TCN, Hoàng Đế triều Thương là Bàn Canh dời đô về Ân đến khi triều đại suy dần dưới thời cai trị của bạo chúa Thương Chu. Kéo dài hơn 270 năm, thường được gọi là Ân triều. Toàn bộ triều đại tồn tại hơn 500 năm, sau này được gọi là Thương Ân hay Ân Thương.

Sau đây là một câu chuyện về vua Thang đã ban đức hạnh cho con người và cả loài vật như thế nào.

Một ngày nọ, vua Thang đi thị sát và thấy vài người đang căng một tấm lưới lớn trong thôn. Họ cầu nguyện, “Ta ước những con vật kia từ trên bầu trời, trên mặt đất, và tứ phương vào trong lưới của ta.” Vua Thang thấy vậy liền nói, “Họ muốn bắt hết các con vật sao!” Vua Thang bèn lệnh cho họ cắt đứt tấm lưới từ ba phía và bảo họ cầu nguyện: “Những con vật muốn thoát sang trái, hãy đi bên trái, và muốn thoát sang phải, hãy đi bên phải. Chỉ con vật nào không nghe theo lời chỉ dẫn của ta sẽ bị bắt vào lưới.” Tất cả các lãnh chúa phong kiến nghe thấy đều đồng thanh nói, “Đức hạnh của vua Thang thậm chí bao dung cả loài vật.”

Vua Thang, được sự dạy bảo của hiền tướng Y Duẫn, tôn kính Trời, và cai trị bằng lòng nhân từ, luôn luôn đặt lợi ích của dân chúng lên hàng đầu. Ông được dân chúng kính trọng và yêu mến. Câu chuyện về lời thỉnh cầu đến tấm lưới của vua Thang bên trên đã khắc họa toàn diện lòng tốt và đức hạnh của người cai trị. Ông trở thành gương mẫu và mọi người trong xã hội đều theo ông. Chúng ta có thể hình dung ra mỗi người trong cuộc đời phải chú ý đức hạnh và toàn xã hội phải có lòng tốt, với sự trung thực và hạnh phúc.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/11/47963.html
http://pureinsight.org/node/5583

The post Câu chuyện lịch sử: Thành Thang Chúc Võng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/10/cau-chuyen-lich-su-thanh-thang-chuc-vong.html/feed0
Câu chuyện chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Nihttps://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-chua-ke-trong-lich-su-lao-tu-khong-tu-va-thich-ca-mau-ni.htmlhttps://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-chua-ke-trong-lich-su-lao-tu-khong-tu-va-thich-ca-mau-ni.html#respondSat, 20 Mar 2010 14:15:21 +0000http://chanhkien.org/?p=5196Tác giả: Bất Danh [Chanhkien.org] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca […]

The post Câu chuyện chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Bất Danh

[Chanhkien.org] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

Lão Tử

“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.

Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.

Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.

“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).

Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.

Tài liệu Tham khảo

1. Giảng Pháp tại Pháp hội châu Âu
2. Chuyển Pháp Luân
3. Giảng pháp tại Pháp hội Houston

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/5/7/37440.html
http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4004

The post Câu chuyện chưa kể trong lịch sử: Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-chua-ke-trong-lich-su-lao-tu-khong-tu-va-thich-ca-mau-ni.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử hết lương thựchttps://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-het-luong-thuc.htmlhttps://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-het-luong-thuc.html#respondSun, 07 Mar 2010 15:54:12 +0000https://chanhkien.org/?p=4919[Chanhkien.org] Khổng Tử (551-479 TCN) được coi là một trong những thầy giáo và triết gia vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông có ảnh hưởng rất lớn đến nền nghệ thuật và đạo đức của người Trung Quốc. Trong những năm sau này, ông đã chu du nhiều nước để truyền rộng […]

The post Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử hết lương thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Khổng Tử (551-479 TCN) được coi là một trong những thầy giáo và triết gia vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông có ảnh hưởng rất lớn đến nền nghệ thuật và đạo đức của người Trung Quốc. Trong những năm sau này, ông đã chu du nhiều nước để truyền rộng học thuyết của mình nhưng kết quả không thật khả quan.

Một lần, Khổng Tử cùng các môn đồ của mình tới nước Trần thì bị cạn lương thực. Một số môn đồ của ông ngã bệnh. Một trong số họ, Tử Lộ, người cũng là một học giả nổi tiếng than rằng: “Than ôi, người quân tử cũng có lúc phải khốn cùng vậy ư!” Khổng Tử đáp: “Người quân tử khi khốn cùng vẫn có thể giữ được tiết tháo; còn kẻ tiểu nhân khi khốn cùng thì sẽ hành động theo sở dục.”

Tiêu chuẩn đạo đức để làm người không thể tùy theo hoàn cảnh mà biến đổi. Nghịch cảnh nhiều khi là phép kiểm nghiệm đối với phẩm chất đạo đức của chúng ta, xem chúng ta có thể kiên trì bất động trong các loại tình huống hay không. Nhiều người sẽ thỏa hiệp trước hoàn cảnh, và họ dần dần rời xa các nguyên tắc của chính họ.

Khổng Tử đã dạy chúng ta đạo lý làm người, từ đó duy trì quy phạm đạo đức của dân tộc Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Nhưng con người hiện đại lại chế nhạo những lời dạy của Khổng Tử. Đó chính là nguyên nhân khiến tiêu chuẩn đạo đức xã hội trượt dốc nhanh chóng.

Khi các học viên Pháp Luân Công nói về “làm người tốt”, một số người lại trở nên nghi ngờ và nghĩ rằng họ có động cơ chính trị ẩn giấu, hoặc họ có tinh thần không bình thường. Con người ngày nay không còn biết được tiêu chuẩn để làm người nữa.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2003/8/28/22601.html
http://pureinsight.org/node/3995

The post Câu chuyện lịch sử: Khổng Tử hết lương thực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/03/cau-chuyen-lich-su-khong-tu-het-luong-thuc.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tướng Vệ Thanhhttps://chanhkien.org/2009/08/nhung-cau-chuyen-lich-su-tuong-ve-thanh.htmlhttps://chanhkien.org/2009/08/nhung-cau-chuyen-lich-su-tuong-ve-thanh.html#respondMon, 03 Aug 2009 07:25:52 +0000https://chanhkien.org/?p=2373Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Vệ Thanh là một đại tướng dưới trướng Hán Vũ Đế của Hán triều. Một lần, tướng quân Vệ Thanh nhận lệnh chinh phạt tộc Hung Nô. Thuộc hạ của ông là Tô Kiến sau đó chạm trán Đan Vu, thủ lĩnh của tộc Hung Nô. Họ đã đánh nhau […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tướng Vệ Thanh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Vệ Thanh là một đại tướng dưới trướng Hán Vũ Đế của Hán triều. Một lần, tướng quân Vệ Thanh nhận lệnh chinh phạt tộc Hung Nô. Thuộc hạ của ông là Tô Kiến sau đó chạm trán Đan Vu, thủ lĩnh của tộc Hung Nô. Họ đã đánh nhau một trận ác liệt suốt một ngày và hơn một ngàn lính đã chết trong trận chiến. Tô Kiến trốn thoát và trở về một mình.

Khi Vệ Thanh bàn bạc với các tướng khác, có người nói, “Đại tướng quân từ khi xuất chinh chưa bao giờ giết một tướng nào của mình để thị uy. Giờ đây, Tô Kiến bỏ lính mà chạy, là một cơ hội tốt để dùng hắn lập uy”.

Một số tướng lĩnh khác nói, “Làm điều đó thật là không phải. Tô Kiến đã đánh một trận kịch liệt và ông ấy chỉ dẫn có một ngàn quân đi đánh nhau với hàng vạn quân địch. Nếu xử trảm ông ấy, thì cũng cho tướng sỹ biết rằng, kể từ bây giờ, nếu thua một trận thì ngàn vạn lần không nên trở về nữa”.

Vệ Thanh nói, “Mặc dù Đại vương tin tưởng ta và trao ta binh quyền, ta không nên lạm dụng. Ta sẽ bẩm báo việc này lên Đại vương và để Đại vương anh minh quyết định. Làm thế chẳng tốt sao?”. Mọi người ai cũng cho rằng làm vậy là hợp lý.

Vệ Thanh cầm quân trong một thời gian dài, nhưng ông không bao giờ nghĩ đến quyền lực của mình. Kết quả là không một ai nghi sợ ông và cũng không ai đố kỵ với ông.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/7/48234.html
http://www.pureinsight.org/node/4887

The post Câu chuyện lịch sử: Tướng Vệ Thanh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/08/nhung-cau-chuyen-lich-su-tuong-ve-thanh.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tưởng Hiếu chạy nạnhttps://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tuong-hieu-chay-nan.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tuong-hieu-chay-nan.html#respondFri, 31 Jul 2009 04:34:37 +0000https://chanhkien.org/?p=2327Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Đại tướng quân triều Thanh là Niên Canh Nghiêu khi ấy đang trấn thủ thành Tây An và muốn tìm người hiền tài trong nước làm phụ tá. Có một học trò tên là Tưởng Hiếu nghe bạn bè khuyên bèn đến xin đầu quân. Tướng Niên Canh Nghiêu đánh […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tưởng Hiếu chạy nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Đại tướng quân triều Thanh là Niên Canh Nghiêu khi ấy đang trấn thủ thành Tây An và muốn tìm người hiền tài trong nước làm phụ tá. Có một học trò tên là Tưởng Hiếu nghe bạn bè khuyên bèn đến xin đầu quân. Tướng Niên Canh Nghiêu đánh giá cao năng lực của anh. Ông bảo Tưởng Hiếu: “Tiên sinh năm sau chắc chắn sẽ là trạng nguyên”. Bởi lúc ấy Niên Đại Tướng Quân thanh thế hiển hách, các quan giám khảo không ai dám chống đối ý muốn của ông ấy.

Sau vài ngày ở lại đó, Tưởng Hiếu thấy Đại tướng quân quá sức kiêu ngạo, bèn nói với một bằng hữu: “Niên Đại tướng quân Đức không bằng Uy. Tôi e đại họa thế nào cũng giáng xuống đầu ông ấy. Chúng ta nên tránh khỏi nơi này ngay thôi”. Người bạn không nghe, Tưởng Hiếu cáo ốm xin về nhà.

Chưa đầy năm, Niên Đại tướng quân bị giết, tất cả gia nhân và phụ tá đều bị liên lụy. Chỉ một mình Tưởng Hiếu là an nhiên vô sự.

Dường như tai họa luôn tránh xa những ai không màng danh lợi.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/7/13/44744.html
http://www.pureinsight.org/node/4755

The post Câu chuyện lịch sử: Tưởng Hiếu chạy nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tuong-hieu-chay-nan.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tào Tham khéo giữ gìn những điều tốt đẹphttps://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tao-tham-kheo-giu-gin-nhung-dieu-tot-dep.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tao-tham-kheo-giu-gin-nhung-dieu-tot-dep.html#respondTue, 28 Jul 2009 21:43:16 +0000https://chanhkien.org/?p=2295Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Vì Tào Tham lập được đại công trong chiến trận, Hán Cao Tổ Lưu Bang, người dựng nên nhà Hán, phong ông làm Thừa tướng nước Tề. Người nước Tề nổi tiếng là cường hoành, hay xuất hiện hào kiệt, xưa nay khó cai trị. Tào Tham biết trách nhiệm […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tào Tham khéo giữ gìn những điều tốt đẹp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Vì Tào Tham lập được đại công trong chiến trận, Hán Cao Tổ Lưu Bang, người dựng nên nhà Hán, phong ông làm Thừa tướng nước Tề.

Người nước Tề nổi tiếng là cường hoành, hay xuất hiện hào kiệt, xưa nay khó cai trị. Tào Tham biết trách nhiệm trọng đại, vì vậy ông mời hơn một trăm nhà hiền triết lớn tuổi bàn bạc cách giữ cho nước Tề hòa bình thịnh vượng. Chẳng may, mỗi người một ý, Tào Tham chẳng thể tự quyết định. Khi ông nghe tiếng Cái Công ở Giao Tây hết sức uyên bác học thuyết Hoàng Lão, ông sai người mang nhiều lễ vật đến thỉnh mời Cái Công đến. Cái Công gặp mặt Tào Tham, nói “Để cai trị một nước, quý ở chỗ thanh tịnh vô vi, ông cần ít can thiệp và để người ta chọn lựa con đường riêng của họ”. Tào Tham dành những phòng thượng hạng trong nhà để tiếp đãi Cái Công, để tiện việc đêm ngày thỉnh giáo. Kết quả là, nước Tề được an hòa trong suốt 9 năm.

Khi quan tướng quốc nước Hán là Tiêu Hà chết, Tào Tham thay thế. Tào chọn người hiền đức, trọng thanh danh thay thế những quan lại cũ những người theo đuổi danh lợi tiền đồ và những kẻ chuyên bợ đỡ nịnh hót. Ông theo những pháp lệnh cũ của Tiêu Hà, không thay đổi gì, vì vậy mà ông có được nhiều thời gian rảnh rỗi thanh nhàn.

Một ngày, Hán Huệ Đế hỏi Tào Tham, “Ta nghe đồn khanh suốt ngày uống rượu thưởng nhạc, làm sao khanh cai quản việc quốc gia đại sự được?”. Tào Tham trả lời, “Xin bệ hạ suy nghĩ một chuyện này, so bệ hạ với Cao Tổ hoàng đế, thì ai hơn?”.

“Làm sao ta dám sánh bằng tiên đế cho được!”.

“Bệ hạ xem Tiêu Hà và thần, ai tài đức hơn?”.

“Có lẽ Tiêu Hà hơn”.

“Hoàn toàn đúng. Từ khi một người đức cao vọng trọng đã chế định luật pháp và đưa đất nước vào tình trạng tốt như thế, hậu nhân như thần chỉ nên chiếu theo đó mà làm, không thay đổi luật lệ, thì quốc gia dễ cai trị và mọi người có thể thoải mái tận hưởng cuộc sống”.

Nghe vậy, Huệ Đế không còn gì để nói nữa.

Tào Tham cho dân chúng được nghỉ ngơi dưỡng sức, khiến người trong thiên hạ kính trọng và khâm phục ông.

Trong xã hội ngày nay, người người cho rằng mình giỏi hơn, có bản sự cao hơn người khác, một khi nắm quyền hành, việc đầu tiên kẻ đó làm là chế định luật lệ mới, ban bố quy định mới, gọi với cái tên đẹp đẽ là “đổi mới”. Thực tế, mọi người cần phải học tập Tào Tham ở chỗ quản việc một cách vô vi.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/8/8/47647.html
http://www.pureinsight.org/node/4808

The post Câu chuyện lịch sử: Tào Tham khéo giữ gìn những điều tốt đẹp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/cau-chuyen-lich-su-tao-tham-kheo-giu-gin-nhung-dieu-tot-dep.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Thiện ngôn của Khuất Đột Thônghttps://chanhkien.org/2009/03/cau-chuyen-lich-su-thien-ngon-cua-khuat-dot-thong.htmlhttps://chanhkien.org/2009/03/cau-chuyen-lich-su-thien-ngon-cua-khuat-dot-thong.html#respondSat, 07 Mar 2009 19:02:19 +0000https://chanhkien.org/?p=1444Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Khuất Đột Thông là một viên tướng dũng cảm đời nhà Tùy. Một lần, Tùy Văn Đế ra lệnh cho ông đi kiểm tra sổ sách ghi chép số lượng gia súc ở Lũng Tây và ông phát hiện ra có 20 ngàn con ngựa không được ghi chép trong […]

The post Câu chuyện lịch sử: Thiện ngôn của Khuất Đột Thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Khuất Đột Thông là một viên tướng dũng cảm đời nhà Tùy. Một lần, Tùy Văn Đế ra lệnh cho ông đi kiểm tra sổ sách ghi chép số lượng gia súc ở Lũng Tây và ông phát hiện ra có 20 ngàn con ngựa không được ghi chép trong sổ sách. Tùy Văn Đế vô cùng giận dữ, ra lệnh bắt giữ 1.500 viên quan liên quan đến vụ việc và định xử tử tất cả bọn họ.

Khuất Đột Thông bèn nói: “Đây là vấn đề giữa sự sống và cái chết. Sự nhân đức của Bệ hạ đã lan ra khắp bốn biển, vậy cớ chi lại nhất định muốn giết 1.500 nhân mạng chỉ vì một đám gia súc?”

Tùy Văn Đế vẫn tức giận và còn quở trách ông. Khuất Đột Thông bèn quỳ xuống trước vị Hoàng Đế và nói: “Hạ thần xin được chết thay cho bọn họ!”

Tùy Văn Đế chợt tỉnh ngộ và nhận ra sự nghiêm trọng của vấn đề. Ông nói: “Ta nhất thời hồ đồ, may nhờ thiện ngôn của khanh mà thức tỉnh.” Sau đó ông chiếu theo pháp luật mà trị tội các viên quan kia và không xử tử một ai trong số họ. Hoàng Đế thăng Khuất Đột Thông lên làm Tả Vũ Vệ Tướng Quân để bày tỏ lòng kính trọng với ông.

Khuất Đột Thông tuy là một võ tướng nhưng ông cũng rất nhân từ. Ngược lại, hàng chục triệu người dân Trung Quốc đã chết đói dưới sự cai trị của các viên tướng Đảng Trung Cộng. Tướng Zhu Chenghu, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Trung Cộng đã từng trả lời Wall Street Journal rằng nếu có xung đột xảy ra ở eo biển Đài Loan và nếu Hoa Kỳ can thiệp, Trung Cộng sẽ xem xét đến khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử để phá hủy vài trăm thành phố của Hoa Kỳ; và rằng Trung Cộng đã được chuẩn bị để hy sinh một tỷ người Trung Quốc cùng với phía đông thành Tây An. Làm sao mà mạng sống của những người dân Trung Quốc dưới tay những viên tướng như vậy lại không bị nguy hiểm?

(Nguồn: “Tân Đường Thư”)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/4/17/52341.html
http://www.pureinsight.org/node/5324

The post Câu chuyện lịch sử: Thiện ngôn của Khuất Đột Thông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/03/cau-chuyen-lich-su-thien-ngon-cua-khuat-dot-thong.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Học và suy nghĩhttps://chanhkien.org/2007/11/hoc-va-suy-nghi.htmlhttps://chanhkien.org/2007/11/hoc-va-suy-nghi.html#respondTue, 20 Nov 2007 20:01:00 +0000[Chanhkien.org]  Đức Khổng Tử nói: “Có lần tôi không ăn trong một ngày và không ngủ suốt một đêm để suy nghĩ. Nhưng tôi không được lợi lộc gì. Nó không tốt như là học”. Đức Khổng Tử còn nói: “Nếu một người chỉ học và không suy nghĩ, người đó sẽ bị mù mờ. Và […]

The post Câu chuyện lịch sử: Học và suy nghĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org]  Đức Khổng Tử nói: “Có lần tôi không ăn trong một ngày và không ngủ suốt một đêm để suy nghĩ. Nhưng tôi không được lợi lộc gì. Nó không tốt như là học”.

Đức Khổng Tử còn nói: “Nếu một người chỉ học và không suy nghĩ, người đó sẽ bị mù mờ. Và nếu một người chỉ suy nghĩ mà không học, người đó sẽ hoài nghi”.

Dưới đây là một vài câu chuyện lịch sử về Lu Jiuyuan đặt những câu hỏi về vũ trụ.  Lu Jiuyuan (1139-1192) là một triết gia và giáo dục đời nhà Tống. Trí thông minh của ông rất khác với những người thường. Khi ông ta mới 3, 4 tuổi, ông đã hỏi cha của ông: “Có phải Trời và Đất có biên giới không?” Cha của ông chỉ cười và không trả lời. Lu Jiuyuan suy nghĩ mãi về câu hỏi và suy nghĩ nhiều đến nỗi ông ta quên ăn uống và ngủ.  Sau này, khi đi học, ông ta rất khác với người thường.

Một ngày, ông ta đọc một quyển sách nói về vũ trụ: “Trời là đủ mọi phương hướng và Đất là tồn tại muôn đời”. Ông ta chợt hiểu và nói: “Tất cả vạn sự trên vũ trụ là bổn phận của chúng ta và bổn phận của chúng ta là vạn sự trong vũ trụ”. Chúng ta có thể thấy rằng Lu Jiuyuan xem rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ là bổn phận của chúng ta. Nhưng có rất nhiều người không dùng hết khả năng để làm tròn bổn phận của họ.

Một số người có tài trí rất cao nhưng chỉ khoe khoang và nghĩ rằng người khác không bằng họ. Thật ra, tài trí của những người này rất nông cạn và hạn hẹp. Họ không có những suy nghĩ to tát và mở mang như Lu Jiuyuan.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/10/29/48942.html
http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=5040

The post Câu chuyện lịch sử: Học và suy nghĩ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/11/hoc-va-suy-nghi.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tào Xung giải cứu các viên quanhttps://chanhkien.org/2007/10/cau-chuyen-lich-su-tao-xung-giai-cuu-cac-vien-quan.htmlhttps://chanhkien.org/2007/10/cau-chuyen-lich-su-tao-xung-giai-cuu-cac-vien-quan.html#respondMon, 08 Oct 2007 20:32:00 +0000Tác giả: Yi Dou [Chanhkien.org] Tào Xung, con trai của hoàng đế Tào Tháo của nước Ngụy vào thời Tam Quốc, là một người tử tế và ân cần. Vào lúc đó, đã có nhiều sự kiện xảy ra tại Ngụy mà Tào Tháo đã phải sử dụng những hình phạt nghiêm khắc. Ngày nọ, […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tào Xung giải cứu các viên quan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Yi Dou

[Chanhkien.org] Tào Xung, con trai của hoàng đế Tào Tháo của nước Ngụy vào thời Tam Quốc, là một người tử tế và ân cần. Vào lúc đó, đã có nhiều sự kiện xảy ra tại Ngụy mà Tào Tháo đã phải sử dụng những hình phạt nghiêm khắc.

Ngày nọ, các viên chức giữ nhà kho đã tìm thấy trên yên ngựa của Tào Tháo chứa trong nhà kho đã bị chuột cắn khoét thành lỗ. Họ rất lo sợ bị xử tử vì việc này. Họ đã nghĩ đến việc cột nhau lại và đi đến Tào Tháo để nhận lỗi và chịu phạt. Nhưng họ vẫn lo sợ nếu không được tha thứ. Tào Xung bèn nói với họ: “Hãy đợi thêm 2 ngày nữa rồi hãy đi chịu tội. ”

Trong 2 ngày chờ đợi, Tào Xung đã dùng một con dao để chọc thủng những cái lỗ lên quần áo mà anh ta đang mặc. Rồi mỗi ngày anh ta làm như trông có vẻ lo lắng. Sau khi Tào Tháo nhìn thấy anh ta, ông đã hỏi Tào Xung lý do tại sao. Tào Xung thưa rằng: “Tất cả mọi người đều cho rằng một người sẽ gặp rủi ro nếu quần áo của anh ta bị cắn thành từng mãnh bởi chuột. Một con chuột đã cắn một cái lỗ thật to trên đồ của con vì thế con thật lo lắng. ” Tào Tháo nói: “Đừng lo lắng. Sẽ chẳng có chuyện đó đâu.” Ngay sau đó, các viên chức nhà kho đã đi đến Tào Tháo để chịu tội. Tào Tháo đã cười và nói: “Ngay cả quần áo con trai của ta đang mặc cũng bị mấy con chuột cắn. Thì làm sao ai có thể bảo quản yên ngựa treo trên cái cọc kia chứ?” Vì thế ông đã không phạt ai cả.

(Từ “Những ghi chép lịch sử Trung Hoa thời Tam Quốc“).

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/9/5/48168.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4907

The post Câu chuyện lịch sử: Tào Xung giải cứu các viên quan first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/10/cau-chuyen-lich-su-tao-xung-giai-cuu-cac-vien-quan.html/feed0
Những câu chuyện về lòng bao dunghttps://chanhkien.org/2007/07/nhung-cau-chuyen-ve-long-bao-dung.htmlhttps://chanhkien.org/2007/07/nhung-cau-chuyen-ve-long-bao-dung.html#respondTue, 17 Jul 2007 15:21:00 +0000Tác giả: Trí Chân [Chanhkien.org] Giữ lời hứa Vào năm 403 trước Công Nguyên,  nước Hàn đã mời nước  Ngụy để tấn công nước Triệu. Ngụy Văn Hầu, người thành lập nước  Ngụy, đã khước từ và nói rằng, “Nước Triệu và nước Ngụy như là anh em và chúng tôi đã có một hiệp […]

The post Những câu chuyện về lòng bao dung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Trí Chân


[Chanhkien.org]

Giữ lời hứa

Vào năm 403 trước Công Nguyên,  nước Hàn đã mời nước  Ngụy để tấn công nước Triệu. Ngụy Văn Hầu, người thành lập nước  Ngụy, đã khước từ và nói rằng, “Nước Triệu và nước Ngụy như là anh em và chúng tôi đã có một hiệp ước hòa bình với nhau. Tôi thật xin lỗi.” Công sứ của nước Hàn rất giận dữ và bỏ đi.

Sau khi vua nước Triệu biết điều này, ông ta rất cảm kích về tình bạn bè giữa ông ta và Ngụy Văn Hầu, nhưng ông ta, cũng vậy, cố mời nước  Ngụy để tấn công nước Hàn. Ngụy Văn Hầu đã từ chối lời mời và đã đưa ra cùng lý do. Công sứ nước Triệu đã bỏ đi giận dữ.

Sau đó, vua của cả 2 nước Triệu và Hàn đã nghĩ về lòng tốt của Ngụy Văn Hầu. Cả hai họ đã khâm phục lòng bao dung của Ngụy Văn Hầu và rất cảm kích về tình bạn của ông. Họ đã đến nước Ngụy để tò lòng kính phục. Sau đó, nước Ngụy đã trở thành nước mạnh nhất trong các nước Ngụy, Triệu, Hàn và không còn nước nào dám nghĩ đến việc tấn công Ngụy.

Những điều mà một người nên biết và nên nhớ

Khi Tín Lăng Quân, một chính khách và một nhà chiến lược nổi tiếng trong suốt thời kỳ Chiến Quốc, đã thắng trận đánh chống lại nước Tần và đã cứu nước Triệu, vua nước Triệu đã đích thân đón chào Tín Lăng Quân từ bên ngoài cung điện. Đường Duy đã nói với Tín Lăng Quân: “Tôi đã nghe người ta nói có những việc không thể biết và có những việc không thể không biết. Có những việc không thể quên và những việc không thể không quên.”

Tín Lăng Quân đã nói rằng, “Ý của anh là gì?”

Đường Duy nói, “Khi những người khác oán hận tôi, thì việc này là không thể không biết. Nếu tôi cô phụ người ta, tôi phải tìm cách để đền bù. Nếu người ta hiểu nhầm tôi, tôi cần phải giải thích một cách rõ ràng. Nếu tôi oán hận ai đó, đó là thái độ tôi không nên có và tôi cần phải khoan dung để lý giải và hóa giải. Nhưng trong quá trình lý giải và hóa giải ấy, không nên đi khắp nơi kể chuyện mà tạo cho người ta phiền phức và căng thẳng. Khi người khác có ân với tôi, thì việc này không thể quên, phải tìm cách báo đáp. Nếu tôi có ân với ai đó, thì việc này không thể không quên đi, nếu không sẽ khiến bản thân mình và người ta chịu áp lực rất lớn. Giờ đây Ngài đã đánh bại quân Tần, cứu Hàm Đan, bảo toàn nước Triệu, đây là ân đức rất lớn mà Ngài tạo được, Triệu Vương đích thân ra ngoại ô nghênh tiếp anh. Sau khi anh gặp Triệu Vương, tôi chỉ mong Ngài sẽ quên đi những gì mà anh đã làm cho ông ta.

Tín Lăng Quân đã nói, “ Tôi nhất định sẽ cẩn thận tuân theo lời khuyên của anh.”

Bố chồng nên giả vờ ngốc và điếc

Tướng Quách Tử Nghi đã lập công lớn trong cuộc nổi loạn An Shi và một trong những người cải tổ triều đại nhà Đường. Nhà vua Đại Tông đã rất khâm phục tướng Quách Tử Nghi, vì thế ông đã gả con gái của mình, công chúa Thăng Bình, cho con trai của Quách Tử Nghi, Quách Ái.

Một lần đôi trẻ tranh cãi. Khi Quách Ái thấy vợ mình tỏ vẻ là một công chúa, anh ta đã đối lại, “Cô thì có cái gì tốt nào? Có phải bởi vì cha cô là một hoàng đế? Nói cho cô biết, nếu cha tôi đã không đánh thắng An Lộc Sơn, cha cô sẽ không có triều đại này. Cha tôi đã không thèm cái ngai vàng ấy, nên mới không làm hoàng đế!”

Sau khi công chúa Thăng Bình nghe những lời cuồng vọng như thế, cô đã lập tức hồi cung và bẩm báo lên hoàng thượng.

Đường Đại Tông đã lắng nghe sự phàn nàn của con gái mình và đã nói một cách bình tĩnh: “Con chỉ là một đứa trẻ con. Có nhiều điều con không hiểu. Những gì chồng con nói là sự thật. Cha chồng con đã cứu triều đại này. Nếu ông ta đã muốn làm vua, ông ta có thể trở thành vua từ lâu. Thiên hạ đã không phải là của nhà họ Lý chúng ta rồi.” Rồi Đường Đại Tông khuyên con gái không nên xem nặng lời của chồng mình, rồi chụp bừa lên anh ta cái mũ làm phản, mà phải sống một cuộc sống tử tế và bình an. Công chúa Thăng Bình từ từ trở lại điềm tĩnh và trở về với chồng mình.

Trong lúc đó, tướng Quách Tử Nghi đã biết về những gì con trai mình đã nói, hết sức lo sợ. Khi ông nghe nói con tri mình nói ra lời cuồng ngôn, cũng gần như mưu phản, ngay lập tức ông trói con trai lại và đưa anh ta đến cung điện cho nhà vua để xử tội.

Tuy nhiên, Đường Đại Tông rất bình tĩnh và an ủi vị tướng: “Đó là chuyện cãi nhau của con trẻ. Có lẽ đã có lời nói quá. Nhưng chúng ta là người lớn, không nên coi việc quá nghiêm trọng. Có một câu nói xưa rằng “không giả ngố giả điếc, không làm được cha chồng” sao. Coi như chưa nghe thấy gì là được rồi.”

Sau khi Quách Tử Nghi nghe thế, ông thấy thật nhẹ nhõm và thật sự cảm thấy rất vui mừng.

Sự thật về điểm mạnh và yếu

Trong suốt thời đại Bắc Tề, Thôi La làm tới chức tả thừa tướng và đã đạt được sự tín nhiệm và kính trọng của nhà vua Thế Tông. Thôi La rất thích tiến cử nhân tài. Khi ông ta đề bạt Hình Thiệu làm trợ tướng với trọng trách phân loại vật liệu, vua Tề đã chấp thuận Hình Thiệu.

Từ khi Hình Thiệu được trông coi việc chính sự cơ mật, anh ta đã có nhiều cơ hội gặp gỡ vua Thế Tông. Anh ta thường xem thường Thôi Lao trước mặt nhà vua, vua Thế Tông đã rất không hài lòng về thái độ này của Hình Thiệu.

Một dịp nọ, Vua Thế Tông bảo Thôi Lao: “Ngươi thường nói với ta Hình Thiệu tốt như thế nào, nhưng anh ta thường phê bình ngươi. Ngươi thật ngu ngốc!”

Thôi Lao đã nói với một sự khoáng đạt, “Hình Thiệu nói về sở đoản của thần, thần nói về sở trường của Hình Thiệu, cả hai chúng thần đều nói sự thật, điều này cũng đâu có gì không đúng?”

Thôi Lao rất rộng lượng với những người khác nhưng lại rất nghiêm khắc đối với mình. Ông không chỉ khẳng định điểm mạnh và bao dung những điểm yếu của người khác mà còn có thể thản nhiên đối mặt với những thiếu sót của mình. Đó thật là sự là khí độ khoan dung!

* * * * * * * * *

Có một câu nói của người xưa: “Hữu dung nãi đại, vô dục tắc cương” (bao dung nên to lớn, không có dục nên mạnh mẽ). Bao dung là một đức tính phi phàm, một tâm hồn rộng mở, là một cảnh giới vô tư mang đầy nhân ái. Tính bao dung là một đức tính truyền thống của người Trung Quốc và được Thần truyền xuống cho con người. Điều này cũng có nghĩa các vị Thần trên thiên đình đã muốn tất cả nhân loại có những đặc tính cao quý đó.

Dịch từ:

http://big5.minghui.org/mh/articles/2007/6/19/157197.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4708

The post Những câu chuyện về lòng bao dung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/07/nhung-cau-chuyen-ve-long-bao-dung.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Sự nhẫn nại của Vương Hãnhttps://chanhkien.org/2007/06/cau-chuyen-lich-su-su-nhan-nai-cua-vuong-han.htmlhttps://chanhkien.org/2007/06/cau-chuyen-lich-su-su-nhan-nai-cua-vuong-han.html#respondFri, 08 Jun 2007 12:52:00 +0000Tác giả: Nhất Đẩu [Chanhkien.org] Vào đời nhà Tống (năm 960-1279 SCN) có một quan viên tên là Vương Hãn. Khi ông còn là quan Tri huyện Tân Châu, có một phụ nữ điên đến đánh trống kêu oan. Trước đây, khi bà nói chuyện một cách không có đầu có đũa, các quan viên […]

The post Câu chuyện lịch sử: Sự nhẫn nại của Vương Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhất Đẩu

[Chanhkien.org] Vào đời nhà Tống (năm 960-1279 SCN) có một quan viên tên là Vương Hãn. Khi ông còn là quan Tri huyện Tân Châu, có một phụ nữ điên đến đánh trống kêu oan. Trước đây, khi bà nói chuyện một cách không có đầu có đũa, các quan viên đã la mắng bà. Nhưng ngay sau đó bà liền chửi lại, và cuối cùng các quan viên đã từ chối xử giúp bà. Điều này cứ lập đi lập lại với các quan Tri huyện trước đây. Nhưng lần này, vị quan huyện Vương Hãn đã để cho người phụ nữ này vào và bảo bà hãy bình tĩnh trình bày. Ông lắng nghe bà một cách thận trọng và đã hỏi nhiều câu hỏi.

Một lúc sau thì câu chuyện mới vỡ lẽ ra. Bà trước đây là vợ của một người đàn ông nào đó, nhưng bà không thể sinh con. Người vợ lẽ của chồng bà lại sinh được một đứa con. Sau khi chồng bà chết, người vợ lẽ đã lấy đi gia sản của chồng bà và tống bà ra khỏi nhà. Bà đã cố đánh trống kêu oan lên quan huyện nhiều lần nhưng không tìm được công lý. Bà đã thất vọng và đau khổ đến nỗi trở thành khùng điên.

Vương Hãn đã nhận xử vụ án và ra lệnh rằng tài sản phải được hoàn trả về cho bà. Sau đó người phụ nữ bình phục rất nhanh chóng và ai cũng ngạc nhiên. Khi triều đình biết chuyện, Hoàng thượng đã ban một bản thông cáo vinh danh Vương Hãn và thưởng ông 300 bó vải và lụa.

Một người gần như đã bị buộc phải trở thành điên khùng chỉ vì một việc đơn giản, và vụ việc đã không thể giải quyết chỉ vì người khác đã không có sự nhẫn nại để lắng nghe.

(Từ “Tốc Thủy Kí Văn”)

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/5/20/43971.html
http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4628

The post Câu chuyện lịch sử: Sự nhẫn nại của Vương Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/06/cau-chuyen-lich-su-su-nhan-nai-cua-vuong-han.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Lữ Khôn xây dựng lại thành Ninh Lăng quê nhà của ônghttps://chanhkien.org/2007/04/cau-chuyen-tu-lich-su-lu-khon-xay-dung-lai-thanh-ninh-lang-que-nha-cua-ong.htmlhttps://chanhkien.org/2007/04/cau-chuyen-tu-lich-su-lu-khon-xay-dung-lai-thanh-ninh-lang-que-nha-cua-ong.html#respondWed, 11 Apr 2007 00:27:00 +0000[Chanhkien.org] Ninh Lăng là một thành phố nhỏ và thành lũy cũng sơ sài. Trong triều đại nhà Minh, Lữ Khôn trở về quận Ninh Lăng an hưởng tuổi già. Ông đề nghị dân chúng xây dựng lại thành này nhưng  nhiều vùng trong thành không đồng ý và phẫn nộ. Lữ Khôn nói với họ: “Ba […]

The post Câu chuyện lịch sử: Lữ Khôn xây dựng lại thành Ninh Lăng quê nhà của ông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Ninh Lăng là một thành phố nhỏ và thành lũy cũng sơ sài. Trong triều đại nhà Minh, Lữ Khôn trở về quận Ninh Lăng an hưởng tuổi già. Ông đề nghị dân chúng xây dựng lại thành này nhưng  nhiều vùng trong thành không đồng ý và phẫn nộ. Lữ Khôn nói với họ: “Ba mươi năm sau, các người sẽ hiểu tại sao tôi đề nghị xây lại thành này.”

Ba mươi năm sau, trong thời Sùng Trinh của nhà Minh, cướp giật nổi lên khắp nơi, không còn chỗ nào được yên tỉnh cho nhân dân sống. Nhưng tại thành Ninh Lăng có khả năng che chở cho hàng mười ngàn người kể cả những vùng lân cận cũng chạy đến để trốn giặc cướp. Người trong vùng bấy giờ mới rõ Lữ Khôn đã biết trước sự kiện xảy ra, họ rất cảm động và xây một ngôi chùa để tưởng nhớ ông.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2007/3/7/42560.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4446

The post Câu chuyện lịch sử: Lữ Khôn xây dựng lại thành Ninh Lăng quê nhà của ông first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/04/cau-chuyen-tu-lich-su-lu-khon-xay-dung-lai-thanh-ninh-lang-que-nha-cua-ong.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Phó Thuyết khuyên Vua Vũ Đinhhttps://chanhkien.org/2006/12/cau-chuyen-lich-su-pho-thuyet-khuyen-vua-vu-dinh.htmlhttps://chanhkien.org/2006/12/cau-chuyen-lich-su-pho-thuyet-khuyen-vua-vu-dinh.html#respondMon, 04 Dec 2006 18:01:00 +0000Tác giả: Lý Kiếm [Chanhkien.org] Lịch sử Trung Quốc vào triều đại nhà Thương, có ông vua tên là Vũ Đinh. Sau khi vua cha băng hà, Vũ Đinh không tham gia chính sự suốt 3 năm để khóc thương và tận hiếu với cha. Sau 3 năm mãn tang cha, Vũ Đinh vẫn không […]

The post Câu chuyện lịch sử: Phó Thuyết khuyên Vua Vũ Đinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lý Kiếm

[Chanhkien.org]Lịch sử Trung Quốc vào triều đại nhà Thương, có ông vua tên là Vũ Đinh. Sau khi vua cha băng hà, Vũ Đinh không tham gia chính sự suốt 3 năm để khóc thương và tận hiếu với cha. Sau 3 năm mãn tang cha, Vũ Đinh vẫn không tham gia chính trị. Các quan trong triều đều lo lắng về điều này, vì thế Vũ Đinh viết một bức thư cho các quần thần rằng, “Ta muốn trở thành mẫu mực của muôn dân, nhưng ta sợ rằng mình không đủ phẩm hạnh, vì thế ta không dám nói thuyết. Ta đã học đạo lý chân chính để trị vì thiên hạ. Ta nằm mộng thấy tiên vương, cha ta, sẽ cho ta một bậc đại thần ưu tú để giúp đỡ ta trong việc chấp chính, và vị đại thần ấy sẽ thay ta mà nói ra những lời chính kiến”. Rồi Vũ Đinh vẽ hình của vị đại thần mà ông đã nằm mộng thấy, và lệnh cho quần thần tìm kiếm người này.

Bấy giờ Phó Thuyết đang xây thành ở Phó Nham. Và là người giống nhất với bức hình vẽ mô tả. Vua Vũ Đinh liền gia phong Phó Thuyết làm Tể Tướng, và hỏi lời khuyên để giúp ông cai quản quần thần và trị vì thiên hạ.

Phó Thuyết bèn tâu với Vũ Đinh: “Vị Quân chủ anh minh thì thuận theo đạo trời, kiến lập quốc gia, lựa chọn thủ đô, và gia phong chức tước cho các quan một cách thích hợp. Làm như thế không phải vì để cho vua an dật hưởng lạc, mà vì để trị vì lê dân bá tánh. Các vị Thần biết mọi thứ với trí huệ thần thông. Vị Vua anh minh nên trị vì đất nước giống như cách mà các vị Thần đối đãi với con người. Nếu quần thần và bách tính đều thuận theo thiên mệnh, thì lê dân bá tánh sẽ dễ trị vì”.

Phó Thuyết nói thêm: “Nếu bề trên nói với kẻ dưới với thái độ khinh mạn tùy ý, thì cuối cùng sẽ chuốc nhục vào mình. Nếu vua sử dụng bạo lực và ý chí độc quyền, thì ông ta sẽ dẫn khởi xung đột chiến loạn. Điều trọng yếu cho một chính quyền tốt đẹp là quần thần biết tuân thủ luật pháp. Và vị vua bổ nhiệm vị trí cho họ dựa theo năng lực giải quyết những vấn đề chính sự, chứ không phải dựa theo sở thích và sự thiên vị của Vua. Tước vị không nên giao cho những kẻ tiểu nhân có phẩm hạnh thấp kém, mà nên giao cho người quân tử hiền đức và khiêm nhường. Vua không nên nuông chiều những kẻ tiểu nhân nịnh hót và dung nhẫn họ đến khinh nhờn đối với luật và nguyên lý. Đừng cố chấp làm điều sai để tránh chỉ trích. Luôn suy nghĩ hai lần trước khi quyết định. Như thế vị vua sẽ giải quyết mọi việc theo cách của một đấng minh quân”.

Vũ Đình nghe xong lời khuyên thì rất vui mừng cảm hứng. Phó Thuyết bái tạ đại lễ và nói tiếp: “Biết được phương pháp thì không khó, làm được điều chân chính mới thật khó. Người phải biết ức chế dục vọng nội tâm, cần mẫn chăm lo chính sự. Như thế bệ hạ sẽ luôn đề cao năng lực trị quốc. Luôn canh cánh trong tâm lợi ích của muôn dân và gấm vóc của giang sơn, như thế vị vua anh minh luôn đề cao hiền đức và sự uy nghiêm của mình. Kiêu căng và tự cao tự đại sẽ làm lu mờ phẩm hạnh của người quân tử, làm mất đi giá trị của bản thân”.

Vũ Đình nói: “Chỉ khi có sự trợ tá của một hiền thần, vua mới có được sự thánh minh. Trước đây, tiên vương, phụ thân ta được Y Doãn phò tá mà thành tựu đại nghiệp, vậy mà ông ta vẫn nói, “ta lấy làm hổ thẹn không thể phò tá minh chủ của ta thành vị thánh vương như vua Nghiêu vua Thuấn. Khi nghĩ về điều này, ta tưởng như mình đang bị những trận roi vọt trên đường phố”. Nếu một người có phẩm hạnh mà không được bổ nhiệm xứng đáng, Y Doãn sẽ cảm thấy tự xấu hổ với mình. Y Doãn đã phò tá tiên vương tận tụy mà thành tựu công đức và đại nghiệp, ta hy vọng thần sẽ giúp ta đi theo con đường của tiên vương, mang đến cho muôn dân hòa bình và an định”.

Phó Thuyết chắp tay bái lễ đáp: “Kẻ sỹ sẽ vì minh chúa mà hết lòng thờ phụng đại nghiệp”. Phó Thuyết giữ trọn lời hứa của mình, giúp vua Vũ Đinh kiến lập một triều đại Nhà Thương thịnh vượng.

Dịch từ

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/7/31/38795.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4287

The post Câu chuyện lịch sử: Phó Thuyết khuyên Vua Vũ Đinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/12/cau-chuyen-lich-su-pho-thuyet-khuyen-vua-vu-dinh.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Làm việc thiện tích đức thì tự nhiên có thiện báohttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-lam-viec-thien-tich-duc-thi-tu-nhien-co-thien-bao.htmlhttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-lam-viec-thien-tich-duc-thi-tu-nhien-co-thien-bao.html#respondMon, 20 Nov 2006 13:17:00 +0000Tác giả: Lý Kiếm [Chanhkien.org] Vào Triều đại Nhà Tống, có một số tội nhân được thả ra khỏi nhà tù và bị đày tới đảo Sa Môn. Luật pháp của triều đại đó quy định số người giới hạn trên đảo không quá 300 người. Chính quyền chỉ cung cấp đủ thực phẩm cho 300 tội […]

The post Câu chuyện lịch sử: Làm việc thiện tích đức thì tự nhiên có thiện báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lý Kiếm

[Chanhkien.org] Vào Triều đại Nhà Tống, có một số tội nhân được thả ra khỏi nhà tù và bị đày tới đảo Sa Môn. Luật pháp của triều đại đó quy định số người giới hạn trên đảo không quá 300 người. Chính quyền chỉ cung cấp đủ thực phẩm cho 300 tội nhân mà thôi. Hơn nữa, hòn đảo rất nhỏ và không thể chứa được nhiều người. Thông thường, quan phủ sẽ nhấn chìm số tội nhân dư ra xuống biển. Trại chủ của đảo Sa Môn là Lý Khánh, đã nhấn chìm 700 tù nhân xuống biển vào thời ấy.

Khi Mã Mặc lên nhậm chức quan phủ Đăng Châu (ngày nay là vùng Bồng Lai thuộc tỉnh Sơn Đông), ông ta rất bất mãn với chính sách tàn ác đó. Ông quyết định thay đổi nó. Ông viết sớ tâu lên nhà vua: “Ban Hành pháp của Hoàng cung đã tha tội cho những tội nhân và cho họ sống trên hòn đảo đó, nhấn chìm họ xuống biển khi số người vượt quá 300 là một việc làm chống lại ý muốn của Hoàng Đế. Trong tương lai, nếu số người vượt quá 300, sao không thả những tù nhân đã sống trên đảo một thời gian lâu và yêu cầu họ tự lo cho cuộc sống?”. Hoàng Đế nghe xong bèn nghĩ rằng đó là một ý kiến hay và ra lệnh thay đổi luật lệ. Từ đó trở đi, nhiều tù nhân trên đảo khỏi bị mất mạng oan uổng.

Mã Mặc không có con. Một hôm ông ta nằm mộng thấy một sứ giả của Ngọc Hoàng, (một vị Thần lớn nhất, Thượng Đế, trên trời), đến nói với ông rằng, ông sẽ được cho một đứa con trai và một đứa con gái vì ông đã làm việc thiện cho những người trên đảo. Sau đó, vợ ông thật đã mang thai hai đứa con, một trai và một gái.

Mã Mặc cứu những người trên đảo Sa Môn và ngăn cản người khác phạm tội ác giết người. Ông ta được nhận Thiện báo.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/8/6/38860.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4286

The post Câu chuyện lịch sử: Làm việc thiện tích đức thì tự nhiên có thiện báo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-lam-viec-thien-tich-duc-thi-tu-nhien-co-thien-bao.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Đun nồi cháo gạo nóng cho người hầuhttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-dun-noi-chao-gao-nong-cho-nguoi-hau.htmlhttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-dun-noi-chao-gao-nong-cho-nguoi-hau.html#respondMon, 20 Nov 2006 13:13:00 +0000Tác giả: Hoằng Nghị [Chanhkien.org] Vào thời Triều đại nhà Tống,  có người tên là Dương Vạn Lý, vợ của ông ta tuổi đã ngoài 70. Bà luôn thức giậy rất sớm mặc dù trời rất lạnh. Rồi Bà nhanh chóng châm lửa đun nước sôi để làm một nồi cháo gạo lớn. Bà phải mất một thời […]

The post Câu chuyện lịch sử: Đun nồi cháo gạo nóng cho người hầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hoằng Nghị

[Chanhkien.org] Vào thời Triều đại nhà Tống,  có người tên là Dương Vạn Lý, vợ của ông ta tuổi đã ngoài 70. Bà luôn thức giậy rất sớm mặc dù trời rất lạnh. Rồi Bà nhanh chóng châm lửa đun nước sôi để làm một nồi cháo gạo lớn. Bà phải mất một thời gian khá lâu mới nấu xong được một nồi cháo gạo. Bà Dương nhẫn nại chờ đợi. Sau một hồi, mùi hương gạo thơm tỏa khắp nhà bếp và lan ra khắp cả sân nhà.

Mùi hương thân thuộc này đã đánh thức những người hầu ở Phía bên kia sân. Sau khi tắm rửa, họ đến nhà bếp để nhận một bát cháo gạo lớn và đầy ắp từ tay Bà Dương. Sau khi họ uống xong bát cháo gạo nóng,  trong lòng họ cũng như toàn thân thể của họ trở nên ấm nóng lạ thường.

Người con trai của bà Dương thấy mẹ sáng nào cũng rất bận thì trong lòng lo lắng.  Anh nói: “Trời thì quá lạnh, sao mẹphải lo toan giậy sớm và làm công việc khó nhọc như vậy?” Bà Dương hiền từ nói, “Mặc dù họ là những người hầu, ta cũng như cha mẹ của chúng yêu thương và lo lắng cho chúng. Bây giờ trời rất lạnh, và họ cần làm việc cho gia đình ta. Ta cho họ uống bát cháo gạo nóng cho họ ấm áp lên để chống lại cái lạnh khi làm việc.”

Văn hóa truyền thống Trung Quốc nói, “Kính trọng người già như cha mẹ, yêu mến trẻ nhỏ như con cái.” Nó dạy chúng ta biết yêu mến người khác như mình muốn được người khác yêu mến. Truyền thống kính trọng người già và yêu mến trẻ nhỏ phản ánh tư tưởng đạo đức trong văn hóa truyền thống tốt đẹp của Trung Quốc về trang trải lòng yêu thương đến mọi vật trên thế gian.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/10/20/40446.html
http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4283

The post Câu chuyện lịch sử: Đun nồi cháo gạo nóng cho người hầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-dun-noi-chao-gao-nong-cho-nguoi-hau.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tế thế an dân, hậu đức tải vậthttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-mang-lai-an-binh-va-su-tu-te-cho-nguoi-dan.htmlhttps://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-mang-lai-an-binh-va-su-tu-te-cho-nguoi-dan.html#respondMon, 13 Nov 2006 12:04:00 +0000Tác giả: Hoằng Nghị [ChanhKien.org] Trình Hạo sống ở thời Bắc Tống, ông là một nhà Nho ôm chí lớn tế thế an dân, dù làm quan ở đâu, ông đều lấy bốn chữ “Thương dân như con” làm kim chỉ nam cho mình, nỗ lực vì nước vì dân. Khi nhậm chức ở huyện […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tế thế an dân, hậu đức tải vật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hoằng Nghị

[ChanhKien.org]

Trình Hạo sống ở thời Bắc Tống, ông là một nhà Nho ôm chí lớn tế thế an dân, dù làm quan ở đâu, ông đều lấy bốn chữ “Thương dân như con” làm kim chỉ nam cho mình, nỗ lực vì nước vì dân. Khi nhậm chức ở huyện Phù Câu, ông đã giúp người dân giải quyết không ít những chuyện khó khăn.

Khi vừa đến nhậm chức, ông nghe được tin nguồn nước trong vùng bị nhiễm mặn, ông hỏi phụ tá: “Lẽ nào người dân từ trước tới giờ đều uống loại nước này sao?” Phụ tá đáp: “Ngài không biết đấy thôi, quanh đây chỉ có một giếng nước ngọt nằm trong tăng viện, nhưng mà nơi đó không cho phép phụ nữ đến lấy nước”. Trình Hạo sau nhiều lần suy nghĩ và bàn bạc kỹ với các phụ tá, ông ra lệnh cho đào giếng từ mạch nước ngầm đó, thế là vấn đề nước uống của người dân đã được giải quyết. Mọi người đều nói: “Vấn đề nhiều năm như vậy, Trình huyện lệnh vừa tới liền giúp chúng ta giải quyết xong!”

Quan tuần duyệt Vương Trung Chính rất được Hoàng đế sủng ái, bất cứ nơi nào ông đến tuần tra, các quan chức địa phương đều tiêu rất nhiều tiền để làm vừa lòng ông. Khi ông đến huyện Phù Câu, một ti lại đã hỏi Trình Hạo cách thức tiếp đãi Vương Trung Chính, Trình Hạo trả lời dứt khoát: “Huyện chúng ta nghèo khó, sao có thể bắt chước các huyện khác bỏ nhiều tiền dâng lên ông ấy được? Hơn nữa, số tiền này đều lấy từ người dân. Theo lý mà nói, chúng ta không nên tiêu dùng tiền một cách không thận trọng”. Sự chính trực của Trình Hạo đã làm Vương Trung Chính kinh sợ, trong suốt nhiệm kỳ của Trình Hạo ông ta cũng không đến huyện Phù Câu một lần nào.

Trình Hạo đã viết thư cho một người bạn: “Đối với người dân, tôi chủ trương việc dùng nhân đức để giáo hóa”. Có một người vì ăn trộm mà bị bắt giữ, Trình Hạo nói người đó: “Nếu ngươi từ nay có thể cải chính, ta sẽ giảm nhẹ tội cho ngươi”. Người đó sau lại tái phạm, trong lúc bị áp giải, người đó rất hổ thẹn không còn mặt mũi nào để gặp Trình Hạo vì thế đã tự vẫn.

Lúc Trình Hạo rời huyện Phù Câu chuyển đến nơi khác nhậm nhức, người dân địa phương khóc nhớ thương xin ông ở lại đừng rời đi.

Trình Hạo từng đảm nhiệm nhiều chức quan, nguyên tắc làm quan của ông là dùng đức hạnh để cảm hóa người dân. Khi ông đến làm huyện lệnh Thượng Nguyên, bờ kè của hồ nước bị vỡ cần phải sửa chữa gấp, nếu không sẽ ảnh hưởng đến đồng ruộng. Nhưng việc sửa chữa đòi hỏi nhiều nhân lực, nếu chờ sự chấp thuận của cấp trên để tiến hành sửa chữa sẽ không kịp, nên ông nhanh chóng tập hợp dân chúng sửa chữa phần bờ kè bị vỡ rồi mới bẩm báo lên cấp trên về việc này. Trợ thủ của ông khuyên rằng: “Ngài lẽ nào không biết làm như thế sẽ bị cấp trên trách tội sao?” Trình Hạo đáp: “Ta không còn sự lựa chọn nào khác, nếu chờ đợi cấp trên đến phê chuẩn thì đồng ruộng chẳng bao lâu sẽ bị khô hạn, vậy thì năm sau người nông dân lấy gì để ăn đây? Ông còn nói: “Ta vì dân không tiếc mạng này, ngay cả vì thế mà bị phạt cũng không do dự”.

Thế là, dưới sự chỉ huy và giám sát của ông, bờ kè đã nhanh chóng được tu sửa. Vụ mùa năm đó thu hoạch kết quả quả rất tốt, các nông dân đều nói rằng: “Chúng ta may mắn gặp được vị quan tốt là Trình huyện lệnh, người có tấm lòng rộng mở, nhân ái và đức hạnh, đồng cảm với nỗi khổ của người dân”.

Văn hóa truyền thống Trung Quốc dạy rằng: “Lạc dĩ thiên hạ, ưu dĩ thiên hạ” (Vui nỗi vui của thiên hạ, lo cái lo của thiên hạ). Tư tưởng này đã giáo dục nên những người làm quan ôm chí lớn tế thế an dân, một lòng vì dân. Họ vừa hết lòng quan tâm đến những nỗi khổ và lợi ích của người dân, yêu thương nhân dân; vừa nỗ lực “dĩ đức phục nhân”, dùng đạo đức để cảm hóa bách tính. Đây cũng là nền chính trị lý tưởng mà Nho gia xưa nay vẫn luôn hướng tới.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/40442

 

The post Câu chuyện lịch sử: Tế thế an dân, hậu đức tải vật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/11/cau-chuyen-lich-su-mang-lai-an-binh-va-su-tu-te-cho-nguoi-dan.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Lấy đại cục làm trọng, không màng phẫn nộ cá nhânhttps://chanhkien.org/2006/10/cau-chuyen-lich-su-lay-dai-cuc-lam-trong-khong-mang-phan-no-ca-nhan.htmlhttps://chanhkien.org/2006/10/cau-chuyen-lich-su-lay-dai-cuc-lam-trong-khong-mang-phan-no-ca-nhan.html#respondSat, 28 Oct 2006 11:48:00 +0000Tác giả:  Hong Yi [Chanhkien.org ] Kuo Xun, quan tổng trấn ở Yinchuan trong thời Đông Hán, là một người biết cân nhắc đến đại cục. Một lần nọ khi Jia Fu, một viên chức ở kinh đô, đi đến quận Runan, một thuộc hạ của ông phạm tội giết người ở Yingchua. Kuo Xun […]

The post Câu chuyện lịch sử: Lấy đại cục làm trọng, không màng phẫn nộ cá nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả:  Hong Yi

[Chanhkien.org ] Kuo Xun, quan tổng trấn ở Yinchuan trong thời Đông Hán, là một người biết cân nhắc đến đại cục. Một lần nọ khi Jia Fu, một viên chức ở kinh đô, đi đến quận Runan, một thuộc hạ của ông phạm tội giết người ở Yingchua. Kuo Xun ra lệnh bắt và chặt đầu phạm nhân nơi công cộng. Khi Jia Fu nghe vậy, ông rất tức giận. Ông nghĩ rằng Kuo Xun cố tình làm cho ông xấu hổ. Chẳng bao lâu, Jia Fu trên đường về kinh đô Lạc Dương. Khi họ đến gần Yingchua, Jia Fu nói vớithuộc hạ, “Khi ta gặp Kuo Xun, chính tay ta phải giết hắn!”

Kuo Xun biết rằng Jia Fu không muốn bỏ qua việc này. Do đó ông ta tránh gặp mặt Jia Fu. Một thuộc hạ của Kuo Xun nói: “Ông sợ Jia Fu? Tôi sẽ cầm đao ở bên cạnh ông. Nếu hắn dám hành động gì, tôi không để hắn được dể dàng.”

Kuo Xun thành thật nói, “Anh có biết câu chuyện của Lian Po và Lin Xiang Ru không? Lin Xiang Ru rất can đảm và khôn ngoan, cả đến Tần vương cũng phải sợ hắn. Ling Xioang Ru đã dàn xếp khi Lian Po gây phiền toái cho ông ta. Tại sao vậy? Bởi vì ông ta để quyền lợi nước non trên sự va chạm cá nhân. Nếu ông ta có thể làm như vậy thì tại sao tôi không thể làm được?”

Nhưng Jia Fu là viên chức quan trọng của triều đình. Khi ông ta dừng lại ở Ying Chuan, thì Kuo Xun không lý do nào để không tiếp đón ông. Vì vậy Kuo Xun bảo người làm sửa soạn bữ̉a tiệc thịnh soạn cho Jia Fu. Khi Jia Fu và thuộc hạ đến, Kuo Xun chính thức nhiệt tình đem rượu va thức ăn cho họ. Khi họ vừa ăn xong. Kuo Xun thình lình bước đến và hoan nghênh chào đón. Kế đó ông vịn cớ và rời nơi đó một cách vội vàng. Jia Fu liền ra lệnh thuộc hạ đuổi theo, nhưng tất cả thuộc hạ đều say mèm, họ không thể làm gì được chỉ nhìn Kuo Xun đi ra.

Kuo Xun không chống lại Jia Fu không phải vì ông yếu hay không có khả năng. Nếu ông không lùi lại thay vì chạm trán với Jia Fu, thì sự oán ghét giữa hai người càng thêm sâu đậm và sự phẫn nộ càng lớn, và vấn đề không được giải quyết. Lùi lại một bước, ông tìm được cách có lợi cho ông và cho nước nhà.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/pi/index.php?news=4246
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/9/10/39895.html

The post Câu chuyện lịch sử: Lấy đại cục làm trọng, không màng phẫn nộ cá nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/10/cau-chuyen-lich-su-lay-dai-cuc-lam-trong-khong-mang-phan-no-ca-nhan.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Tôn kính sư phụ như chahttps://chanhkien.org/2004/01/ton-kinh-su-phu-nhu-cha.htmlhttps://chanhkien.org/2004/01/ton-kinh-su-phu-nhu-cha.html#respondThu, 01 Jan 2004 00:00:00 +0000[Chanhkien.org] “Sư phụ là người thuyết giảng về nguyên tắc đạo đức, dạy bảo sự khéo léo và xóa tan những nhầm lẫn”. Đó là lời giải thích của Hàn Du vào triều đại nhà Đường. Mạng sống là do cha mẹ cho mình. Đời sống, bản thân hạnh kiểm của con người, phần lớn […]

The post Câu chuyện lịch sử: Tôn kính sư phụ như cha first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] “Sư phụ là người thuyết ging về nguyên tắc đạo đức, dạy bảo sự khéo léo và xóa tan những nhầm ln”. Đó là lời giải thích của Hàn Duvào triều đại nhà Đường. Mạng sống là do cha mẹ cho mình. Đời sống, bn thân hạnh kiểm của con người, phần lớn là do sư phụ hướng dn. Ở Trung Quốcthầy” là sư “cha” là phụ, cả hai ghép lại thành một làsư phụ”. Thời xưa, châm ngôn thường nói “Ai là thầy tôi một ngày, như là cha tôi một đời. Đó có nghĩa làm người phải tôn kính sư phụ như cha mình. Theo tục lệ c truyền Trung Quốc, sự tôn kính sư phụđược xem là quan trọng. Những bài vị như: Thiên địa, hoàng đế, tổ tiên và sư phụ được trưng bày trong gia đình cổ truyền. Điều này chứng t sự tôn kính đối với sư phụ. Sau đây là câu chuyện lấy từ văn kiện lich sử Thư Trì Thông Giám.

Ngụy Triệu đã tốt nghiệp trong triều đại Đông Hán. Lúc trẻ Ngụy ngưng mộ Guo Tai và xin Guo để làm việc quét dọn phòng. Guo chấp nhận.

Một ngày nọ, Guo thấy trong người không được khe. Ông bèn sai Ngụy Triệu nấu cháo đặc. Khi cháo đã chín, Ngụy mang cháo đến cho Guo. Guo mắng Ngụy rằng: “Khi nấu cháo cho người trưởng thượng mà mi không tỏ lòng kính trọng. Do đó ta ăn không ngon miệng.” Guo liệng chén cháo xuống đất. Ngụy phải nấu cháo khác, xong mang đến cho Guo. Nhưng Ngụy cũng bị Guo mắng một lần nữa. Ngụy phải đi nấu cháo lần thứ ba, nhưng vẫn không thay đi thái độ, và không hề t một chút bất mãn. Guo bèn nói: “Lúc trước ta chỉ biết ngươi ngoài mặt thôi, bây giờ thì ta biết được tấm lòng ngươi.”

The post Câu chuyện lịch sử: Tôn kính sư phụ như cha first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2004/01/ton-kinh-su-phu-nhu-cha.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Hy sinh mạng sống với mục đích cao thượng làm kẻ địch cảm độnghttps://chanhkien.org/2004/01/chuyen-xua-hy-sinh-mang-song-voi-muc-dich-cao-thuong-lam-ke-dich-cam-dong.htmlhttps://chanhkien.org/2004/01/chuyen-xua-hy-sinh-mang-song-voi-muc-dich-cao-thuong-lam-ke-dich-cam-dong.html#respondThu, 01 Jan 2004 00:00:00 +0000[Chanhkien.org] Xun Jubo là người có tinh thần cao thượng, ông sống dưới sự cai trị của Hán Đế vào thời Đông Hán. Một hôm, ông đi xa để thăm người bạn bị bệnh nặng. Lúc đó có một nhóm vô thần cũ ở Trung Quốc đang đánh chiếm tại thị trấn Xiongnu, nơi mà […]

The post Câu chuyện lịch sử: Hy sinh mạng sống với mục đích cao thượng làm kẻ địch cảm động first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Xun Jubo là người có tinh thần cao thượng, ông sống dưới sự cai trị của Hán Đế vào thời Đông Hán. Một hôm, ông đi xa để thăm người bạn bị bệnh nặng. Lúc đó có một nhóm vô thần cũ ở Trung Quốc đang đánh chiếm tại thị trấn Xiongnu, nơi mà ông đang viếng thăm. Người bạn nói với XunJubo, “Tôi sắp chết rồi, anh phải gấp rút rời khỏi nơi này”. Ông bèn tr lời: “Tôi từ xa đến để thăm anh, mà anh bảo tôi phải rời nơi đây, tôi, Xun Jubo sẽ không làm điều chi, tôi ở đây là vì muốn sống sót với bạn”.

Sau đó thì kẻ địch đã vào thành phố. Họ hi Xun Jubo, “Chúng tôi chiếm cứ một thị trấn đã bỏ hoang, ông là ai mà dám ở lại đây một mình”. Xun Jubo trả lời, “Bạn tôi bị bệnh nặng, tôi không thể ra đi mà bỏ anh ta ở lại. Tôi thà hy sinh mạng sống của mình để đi mạng cho bạn tôi.”

Kẻ địch nói với nhau: “Chúng ta là những người không có lòng trung nghĩa, nhưng hôm nay thấy được bằng chứng trung nghĩa thật sự.” Kết qu là k địch rút lui ra về. Do đó c thị trấn không bị tổn hại nào.

Sự trung tín rất quan trọng khi chúng ta làm bạn với những người khác. Tình bạn bè không phi tùy thuộc hay nhắm vào sự giàu có, sang trọng, nghèo hèn, và cũng khôngảnh hưởng bởi sự mạnh khe, hay sắp chết, đau khổ hay hạnh phúc. Thay vì lòng trung tín được phán xét bi sự chịu đựng nguy him và biết hy sinh cho nhau. Bằng chứng là một đời sống có tinh thần cao thượng biết hy sinh và giúp đỡ những người khác, thêm vào đó là tượng trưng sự trung thành và chân chính.

The post Câu chuyện lịch sử: Hy sinh mạng sống với mục đích cao thượng làm kẻ địch cảm động first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2004/01/chuyen-xua-hy-sinh-mang-song-voi-muc-dich-cao-thuong-lam-ke-dich-cam-dong.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Người sống tinh khiếthttps://chanhkien.org/2004/01/nguoi-song-tinh-khiet.htmlhttps://chanhkien.org/2004/01/nguoi-song-tinh-khiet.html#respondThu, 01 Jan 2004 00:00:00 +0000[Chanhkien.org] Nếu nguồn suối tinh khiết, nước sẽ trong sạch. Cai trị quốc gia bằng cách tạo sự tin tưởng và tự tin của quần chúng. Trong những năm đầu của triều đại nhà Đường (627 – 647). Một nhóm người khẩn cầu Hoàng đế thanh trừ những nịnh thần. Hoàng Đế Đường Thái Tông […]

The post Câu chuyện lịch sử: Người sống tinh khiết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Nếu nguồn suối tinh khiết, nước sẽ trong sạch. Cai trị quốc gia bằng cách tạo sự tin tưởng và tự tin của quần chúng.

Trong những năm đầu của triều đại nhà Đường (627 – 647). Một nhóm người khẩn cầu Hoàng đế thanh trừ những nịnh thần. Hoàng Đế Đường Thái Tông đã đã lời họ: “Trẫm đã suy xét trước khi đề cử những vị quan, theo ý Trẫm họ rất đạo đức, làm sao các ngươi biết ai là nịnh thần?” Những người đưa thỉnh nguyện thưa: “Chúng thần không thể nói ai là nịnh thần vì chúng thần sống giữa người thường. Nhưng Bệ Hạ có thể biết, xin Ngài hãy thử họ bằng cách giả vờ nổi giận. Người nào không bị ảnh hưởng và vẫn bình tĩnh, người đó chính là quan chính trực, người nào họa theo và nịnh bợ Bệ Hạ, đó là nịnh thần”.

Đường Thái Tông nói với Phùng Đức: “Nước dơ hay sạch là tùy nguồn. Người cai trị quốc gia cũng như nguồn nước. Nếu người cai trị lừa dối mà dòi hỏi thần dân phải ngay thẳng, thật thà, thế cũng giống như muốn nước sạch mà nguồn lại dơ bẩn, như vậy không hợp lý. Trẫm luôn nghĩ Hòang đế Weiwu là người dối trá, Trẫm thật khinh bĩ lối cai trị của ông ta. Làm sao ông ta có thể làm gương tốt với lối hành xử như vậy?”

Nhà Vua nói với những người đưa thỉnh nguyện rằng: Trẫm muốn cai trị dân bằng cách tạo sự tin tưởng và tự tin của dân. Trẫm không muốn khuyến khích dân dối trá. Dù rằng đề nghị của các ngươi rất có lý, nhưng Trẫm không thể thực hành lời khuyên này.

Vào năm thứ 17 trong thời cai trị của Vua Đường Thái Tông, ngài đã nói với một vị cận thần rằng: “Giả dụ Trẫm không có sự lựa chọn, là phải bỏ một trong hai thứ thực phẩm hoặc lòng tín nhiệm của toàn dân. Trẫm sẽ bỏ thực phẩm”.

Khổng Tử đã nói: “Người cai trị không thể tồn tại nếu không được tin tưởng. Ngày tháng qua Xiang Yu cai trị toàn cỏi. Nếu Hòang đế khuyến khích từ bi và sự tin tưởng, ai có thể lấy được quyền lực của ngài”? Quan cận thần thưa: “Từ bi – chính trực – đứng đắn – trí tuệ và chân thật là 5 điều đạo đức căn bản không thể thiếu một thứ nào. Ai cố gắng theo những tiêu chuẩn này thì người đó sẽ được lợi lạc lớn lao.

Hoàng Đế Zhou của triều đại Yên, luôn khinh miệt chế diễu 5 điều này. Kết quả ông đã bị mất nước vào tay Nhà Wu. Xiang Yu mất nước vào tay Hoàng đế Gaozu Nhà Hán vì ông thiếu thành thật”.

The post Câu chuyện lịch sử: Người sống tinh khiết first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2004/01/nguoi-song-tinh-khiet.html/feed0
Câu chuyện lịch sử: Lấy đức cảm hóa lòng dân, lấy chân thành thiện giải điều áchttps://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-lich-su-dao-duc-xuc-dong-long-nguoi.htmlhttps://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-lich-su-dao-duc-xuc-dong-long-nguoi.html#respondThu, 01 Jan 2004 00:00:00 +0000Tác giả: Lý Kiếm [ChanhKien.org] Dựa theo ghi chép trong “Tư trị thông giám”, vào thời nhà Tùy, Tham quân (tên một chức quan thời Tùy) Tề Châu (ngày nay là Tế Nam, Sơn Đông) – Vương Gia phụng mệnh áp giải Lý Tham và hơn 70 phạm nhân vào kinh thành. Các phạm nhân […]

The post Câu chuyện lịch sử: Lấy đức cảm hóa lòng dân, lấy chân thành thiện giải điều ác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lý Kiếm

[ChanhKien.org]

Dựa theo ghi chép trong “Tư trị thông giám”, vào thời nhà Tùy, Tham quân (tên một chức quan thời Tùy) Tề Châu (ngày nay là Tế Nam, Sơn Đông) – Vương Gia phụng mệnh áp giải Lý Tham và hơn 70 phạm nhân vào kinh thành. Các phạm nhân đều bị đeo xiềng xích, leo núi lội nước, vượt qua vô vàn khó khăn, khổ nạn mới đến được Huỳnh Dương. Vương Gia hạ lệnh cho mọi người nghỉ ngơi, các phạm nhân cứ hai hoặc ba người ngả nghiêng nằm rạp xuống như rạ dọc ven đường, đau khổ khóc lóc, các sai dịch phụ trách áp giải cũng đã kiệt sức. Vương Gia nhìn thấy vậy, không cầm lòng được, ông tập hợp mọi người lại rồi nói: “Các ngươi đã vi phạm quốc pháp, nhục thân phải chịu khổ cũng xem như là đúng người đúng tội. Chỉ là lại làm liên lụy đến những người phải áp giải các ngươi, vô tội mà theo các ngươi phải chịu khổ, các ngươi không thấy xấu hổ sao?”

Một lời nói ấy đã làm cho các phạm nhân thấy xấu hổ không dám chường mặt ra. Vương Gia ra mệnh lệnh cởi xiềng xích trên thân các phạm nhân, cho sai dịch hộ tống ai về nhà nấy. Vương Gia nói với Lý Tham và các phạm nhân rằng: “Tốt rồi, bây giờ các ngươi không phải chịu khổ vì xiềng xích nữa, các sai dịch cũng không phải theo các ngươi chịu thêm tội khổ. Các ngươi có thể tự đi đến kinh thành, nhưng nhất định phải theo ngày giờ quy định đến kinh đô, nếu không, ta chỉ còn nước chết thay các ngươi”.

Lý Tham và những người khác đều thấy cảm động trước tình ý chân thành của Vương Gia, nhất loạt đồng thanh nói:

“Tạ ơn Vương Tham quân đã khoan dung độ lượng”.

“Vương Tham quân đã thông cảm châm chước và tin tưởng chúng tôi, chúng tôi nhất định sẽ không thất hứa”.

“Ai mà dám làm sai, liên lụy đến Vương Tham quân thì sẽ chết không được yên!”

Đến ngày đã hẹn, tất cả phạm nhân quả nhiên đều đến đầy đủ, không có một người nào bỏ trốn.

Tùy Văn Đế Dương Kiên sau khi nghe câu chuyện thì hết sức kinh ngạc. Dương Kiên đã triệu Vương Gia đến và khen ngợi cách làm của ông, không những thế, còn cho triệu kiến cả phạm nhân và vợ con của họ đến gặp, bày yến tiệc khoản đãi, đặc xá tội lỗi cho họ. Dương Kiên còn ra chỉ dụ bố cáo thiên hạ: “Làm quan phải noi gương Vương Gia, dùng đức hành cảm hóa dân chúng. Người dân nên giống như đám người Lý Tham kia, từ ác hành thiện, như vậy thiên hạ sẽ thái bình, ngày không cần đến hình luật cũng sẽ đến rất nhanh”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/35646

The post Câu chuyện lịch sử: Lấy đức cảm hóa lòng dân, lấy chân thành thiện giải điều ác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2004/01/cau-chuyen-lich-su-dao-duc-xuc-dong-long-nguoi.html/feed0