Bầu trời của lịch sử | Tag | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 09 Apr 2025 00:17:25 +0000en-UShourly1Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháphttps://chanhkien.org/2024/11/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-ky-su-25-nam-tu-luyen-dai-phap.htmlSat, 09 Nov 2024 00:13:20 +0000https://chanhkien.org/?p=34893Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp. 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốchttps://chanhkien.org/2024/11/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-su-pho-thac-cua-thien-quoc.htmlSun, 03 Nov 2024 02:49:17 +0000https://chanhkien.org/?p=34842Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử Sự phó thác của thiên quốc. 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Mayahttps://chanhkien.org/2024/10/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-cai-chet-cua-hoang-hau-maya.htmlFri, 25 Oct 2024 23:28:23 +0000https://chanhkien.org/?p=34796Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya. 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạohttps://chanhkien.org/2024/10/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-tu-luyen-dong-chu-dai-dao.htmlSat, 12 Oct 2024 11:40:24 +0000https://chanhkien.org/?p=34701Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thànhhttps://chanhkien.org/2024/09/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-cong-chua-van-thanh.htmlFri, 27 Sep 2024 23:06:26 +0000https://chanhkien.org/?p=34498Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành

 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháphttps://chanhkien.org/2024/09/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-nhung-dieu-nhin-thay-trong-khong-gian-khac-khi-nghe-su-phu-giang-phap.htmlFri, 20 Sep 2024 23:35:19 +0000https://chanhkien.org/?p=34420Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lựchttps://chanhkien.org/2024/09/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-phu-dinh-hoan-toan-an-bai-cua-cuu-the-luc.htmlSat, 14 Sep 2024 15:27:20 +0000https://chanhkien.org/?p=34145Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãnhttps://chanhkien.org/2024/09/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-thanh-cat-tu-han.htmlFri, 06 Sep 2024 23:53:53 +0000https://chanhkien.org/?p=34079Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn.

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đốhttps://chanhkien.org/2024/08/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-tat-do.htmlFri, 30 Aug 2024 23:05:21 +0000https://chanhkien.org/?p=34011Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố. 

The post Phát thanh Chánh Kiến – Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Diệt trừ tâm sắc dụchttps://chanhkien.org/2024/08/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-diet-tru-tam-sac-duc.htmlFri, 23 Aug 2024 23:35:04 +0000https://chanhkien.org/?p=33927Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Diệt trừ tâm sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dục.

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Diệt trừ tâm sắc dục first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thần hành tại thếhttps://chanhkien.org/2024/08/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-than-hanh-tai-the.htmlSat, 17 Aug 2024 14:26:19 +0000https://chanhkien.org/?p=33830Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thần hành tại thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế. 

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thần hành tại thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/08/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-phan-4.htmlSat, 10 Aug 2024 00:43:43 +0000https://chanhkien.org/?p=33704Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỷ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2).

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/08/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-phap-duyen-phan-1.htmlSat, 03 Aug 2024 14:55:06 +0000https://chanhkien.org/?p=33676Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đồng tu Thiện Dũng có nhan đề: Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1).

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Pháp duyên (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Luyện tốt động tĩnh cônghttps://chanhkien.org/2024/07/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-phan-3.htmlSat, 27 Jul 2024 13:17:19 +0000https://chanhkien.org/?p=33637Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Luyện tốt động tĩnh công first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Luyện tốt động tĩnh công first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thiên quốchttps://chanhkien.org/2024/07/phat-thanh-chanh-kien-bau-troi-cua-lich-su-phan-1.htmlFri, 19 Jul 2024 18:36:09 +0000https://chanhkien.org/?p=33539Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn. […]

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chào mừng các bạn đến với chương trình phát thanh Chánh Kiến. Chúng tôi trân trọng gửi đến các bạn những câu chuyện chia sẻ tâm đắc thể hội của các học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện để chúng ta cùng nhau tỷ học tỉ tu, cùng nhau tinh tấn.

Chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn bài viết của đệ tử Đại Pháp Thiện Dũng có nhan đề Bầu trời của lịch sử: Thiên Quốc  

The post Phát thanh Chánh Kiến: Bầu trời của lịch sử – Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một vài chuyện tu luyện Chính Pháphttps://chanhkien.org/2021/03/mot-vai-chuyen-tu-luyen-chinh-phap.htmlMon, 22 Mar 2021 15:51:27 +0000https://chanhkien.org/?p=27338Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Lời mở đầu Đệ tử Đại Pháp lấy đặc tính vũ trụ Chân – Thiện – Nhẫn làm tiêu chuẩn chỉ đạo tu luyện, công năng hay thần thông hoàn toàn không thể đại biểu cho tầng thứ của một người tu luyện, mà tâm tính cao thấp mới là […]

The post Một vài chuyện tu luyện Chính Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Lời mở đầu

Đệ tử Đại Pháp lấy đặc tính vũ trụ Chân – Thiện – Nhẫn làm tiêu chuẩn chỉ đạo tu luyện, công năng hay thần thông hoàn toàn không thể đại biểu cho tầng thứ của một người tu luyện, mà tâm tính cao thấp mới là tiêu chuẩn đo lường cảnh giới của người tu luyện. Bài viết dưới đây chỉ là chứng ngộ tu luyện Đại Pháp của cá nhân, mong các đồng tu dĩ Pháp vi Sư, lý trí đối đãi những nội dung liên quan trong bài viết, có chỗ nào thiếu sót, mong đồng đu từ bi chỉ rõ.

Sư tôn yêu cầu đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp làm tốt ba việc: Học Pháp, phát chính niệm, giảng chân tướng. Trong đó đối với việc phát chính niệm, có đồng tu cá biệt mức độ coi trọng không đủ, số lần phát chính niệm mỗi ngày tương đối ít, thậm chí không thể đảm bảo được số lượng và chất lượng phát chính niệm đồng bộ toàn cầu. Tại cảnh giới tu luyện của tôi, Pháp triển hiện là: Trong trường không gian của những đồng tu phát chính niệm tương đối ít có lưu tồn rất nhiều quan niệm biến dị và nghiệp lực trong xã hội người thường, cũng như những vật chất phụ diện mà tự thân đồng tu cần đề cao để tiêu trừ đi; còn có rất nhiều tầng thứ không gian chưa hoàn toàn đồng hóa với Đại Pháp trong thể hệ vũ trụ khổng lồ mà đệ tử Đại Pháp đại biểu và nhân tố vật chất cựu vũ trụ của chúng sinh bên trong thể hệ vũ trụ đó, những nhân tố vật chất này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tu luyện Chính Pháp cứu độ chúng sinh của đồng tu, biểu hiện tại không gian người thường là đồng tu xuất hiện hiện tượng học Pháp không tĩnh, nhân tâm nhiều, khi gặp mâu thuẫn thì chính niệm không đủ. Thời gian lâu ở trong trạng thái này có thể sẽ dẫn đến bức hại nghiêm trọng của cựu thế lực, xuất hiện nghiệp bệnh, bị bắt giữ thậm chí bị cựu thế lực viện đến các cách thức khác nhau mà đoạt đi nhục thân, gây ra tổn thất cự đại không thể tính đếm cho tu luyện Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp. Làm một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, tôi ngộ rằng nhất định phải bảo đảm được số lần phát chính niệm, phát chính niệm tốt, đây là thể hiện uy đức của đệ tử Đại Pháp, cũng là thể hiện của việc đệ tử Đại Pháp duy hộ Pháp và cứu độ chúng sinh.

1. Chính niệm

Sư tôn giảng:

Công năng’ cũng gọi là ‘thần thông’; con người hiện đại gọi là ‘siêu năng lực’. (Công năng là gì – Tinh Tấn Yếu Chỉ II)

Có một thời gian, tôi đang trong quá trình vượt quan đề cao tâm tính mang tính giai đoạn: Áp lực công việc ở xã hội vô cùng lớn, phương diện tâm tính cá nhân không ngừng phản ánh ra nhân tâm, hạng mục Chính Pháp cũng gặp phải đủ loại can nhiễu.

Một ngày bận rộn, tôi ăn xong bữa tối trong một nhà hàng, trên đường về đột nhiên chiếc răng hàm bên má trái đau dữ dội, vừa nhức vừa sưng, rất khó chịu đựng. Tôi cảm thấy rõ ràng phần trái khuôn mặt bắt đầu nóng lên, dòng nhiệt từ chỗ sưng đau bắt đầu lan đến huyệt thái dương và cổ. Tôi lập tức bắt đầu phát chính niệm thanh lý loại trạng thái bất chính này: Ta là người tu luyện, cho dù có chấp trước cũng là Sư tôn của Đại Pháp quy chính, nếu không phải là an bài của Sư tôn Đại Pháp, ta kiên quyết không cần! Vừa nhẫn chịu cơn đau tôi vừa nghiêm túc hướng nội tìm, tìm ra những tạp niệm, nhân tâm phản ánh ra trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi thanh lý tâm cầu an dật, tư tưởng có xu hướng trở nên an tĩnh, cơn đau cũng từ từ dịu đi một chút, nhưng không hoàn toàn bị trừ bỏ.

Tôi đi đến chỗ vệ đường vắng người, dùng thần thông định trụ nhục thân lại, chủ nguyên thần quy vị hợp thể với thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng tại không gian khác và tiến nhập vào không gian vi quan đối ứng với chiếc răng đau, tôi trông thấy phía xa tại không gian đối ứng với chiếc răng đau có một vòng âm khí xanh đen, trong vòng âm khí này có một thứ giống như con nhện màu xám đen nhưng đã hóa thành một thứ âm linh mang đầu người, hai mắt của nó đỏ máu, miệng đầy răng nanh, cuối mỗi chi của nó đều có móc câu, đang móc vào phần thân thể chưa đồng hóa với Pháp tại không gian khác của tôi, không ngừng rít lên cắn một cách hung hiểm. Tối lập tức lập chưởng trước ngực, khóa cứng âm linh lại, trước tiên đả xuất thần thông khiến âm linh “định” trụ lại, âm linh lập tức không cắn tiếp được nữa, chỉ có tứ chi vẫn hơi run rẩy, phát ra tiếng kêu khe khẽ, xem chừng nó đang cố sức thoát khỏi sự khống chế từ công của tôi. Tôi tiếp tục niệm khẩu quyết Chính Pháp, thân thể âm linh bắt đầu phát sáng, trướng lên, rồi kèm theo một tiếng hét the thé vô cùng thảm thiết, âm linh bị nổ thành rất nhiều mảnh vụn phủ đầy chất lỏng xanh đen đặc quánh. Dần dần, những mảnh vụn chầm chậm biến thành một làn khói mờ nhạt tiêu đi mất. Sau khi xuất định, cảm thấy chiếc răng hàm của nhục thân tại không gian bề mặt chỉ còn hơi nhức khẽ, tôi lại phát chính niệm một hồi, thân thể hoàn toàn hồi phục về trạng thái bình thường. Toàn bộ việc này diễn ra trong khoảng 15 phút đồng hồ.

Toàn bộ nghiêp bệnh, khổ nạn của con người đều do nghiệp lực tạo thành, người tu luyện chịu khổ cũng là đang tiêu đi tội nghiệp vô tận đã tạo thành trong đời đời kiếp kiếp, đây còn là sau khi Sư tôn đã gánh chịu tuyệt đại đa số tội nghiệp của chúng ta, phần còn lại để chúng ta dùng để đề cao tâm tính. Gặp quan nghiệp bệnh thì coi bản thân là người tu luyện mà hướng nội tìm, coi nhẹ, loại bỏ nhân tâm, chính là người tu luyện ở trong trạng thái của các tầng thứ khác nhau đang vượt khỏi cảnh giới người thường, chính là có được uy lực của Pháp trong cảnh giới tương ứng, chính là có thể có được Pháp lực và thần thông trấn tà diệt loạn. Học Pháp tốt hướng nội tìm, thiết thực đề cao tâm tính là cơ sở và tiền đền cho việc phát chính niệm tốt.

2. Phối hợp

Tu luyện trong người thường, năng lực và trí huệ của người tu luyện là bị hạn chế, bất kỳ người nào còn đang trong tu luyện đều không thể toàn năng, đều cần trong phối hợp với đồng tu, trong chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh mà tận lực phát huy sở trường của bản thân, trợ Sư chính Pháp tốt hơn nữa. Trong mười tám năm tà ác đàn áp bức hại vô lý trí, tại các loại hoàn cảnh, làm một người tu luyện, được mọi người gọi là “đồng tu”, tôi đã thụ ích rất nhiều từ các đệ tử Đại Pháp khác. Khi đồng tu có nạn, tôi tất nhiên cũng nên phải đứng ra gánh vác trách nhiệm.

Trong nhóm nhỏ học Pháp có một vị nữ đồng tu trung niên, là một vị đệ tử Đại Pháp kiên định, nhưng hoàn cảnh công việc của chị vẫn chưa được khai sáng xuất lai, chị có một công việc tốt mà người thường ngưỡng mộ, chị làm việc tại một bộ phận “quyền lực” nhất định trong xã hội người thường, tiếp xúc xã hội với quan chức tương đối phức tạp, đồng nghiệp trong đơn vị có thói quen văn hóa đảng khá nặng. Nhắm đến loại tình huống này, các đồng tu đã cùng nhau hướng nội tìm, nữ đồng tu tìm ra tâm e sợ (lo lắng, nghi ngại) đang quấy phá mình, sau khi trao đổi giao lưu, mỗi ngày vào các khung giờ chẵn, các đồng tu và tôi đều giúp nữ đồng tu phát chính niệm, gia cường chính niệm cho đồng tu, thanh lý toàn bộ những nhân tố tà ác can nhiễu đến chính niệm chính hành của đồng tu. Trong quá trình phát chính niệm, tôi phát hiện ra chấp trước tình thân của vị nữ đồng tu này tương đối nặng: rất chấp trước vào cha mẹ, hơn nữa tổ tiên của chị ấy tạo nghiệp nghiêm trọng, cựu thế lực tà ác cố gắng lợi dụng chấp trước vào tình thân quyến của đồng tu mà bức hại nghiệp bệnh chị ấy. Tôi tức khắc tìm nữ đồng tu chỉ ra chấp trước đối với tình thân của chị ấy, nữ đồng tu rất thanh tỉnh lý trí, lập tức hướng nội tìm. Tôi nói: “Triển hiện tại cảnh giới tu luyện của tôi, trong không gian của người tu luyện, bất kỳ tâm chấp trước nào cũng đều có đối ứng, đối ứng với chấp trước vào tình thân quyến đều là hình tượng của cha mẹ chị, mang theo một trường nghiệp lực vật chất màu đen, nếu chị không thể từ Pháp mà xem nhẹ chấp trước tình thân quyến, vậy thì tại vấn đề này, chị vẫn ở tại cảnh giới của con người, con người nợ gì phải trả nấy, nghiệp lực của cha mẹ trong người thường của chị sẽ gây trở ngại chị làm tốt ba việc; nếu như chị coi bản thân mình là người tu luyện đề cao tâm tính, bỏ đi chấp trước vào tình thân quyến, chị chính là người tu luyện có được uy lực của Pháp tại các cảnh giới khác nhau, tất cả đều được thiện giải trong Đại Pháp.” Nữ đồng tu nói: “Mỗi người đều có vận mệnh của mình, tôi cần phóng hạ chấp trước vào tình thân quyến, nhưng phải viên dung tốt hoàn cảnh sinh hoạt gia đình.” Giờ đây, sau khi tâm tính của nữ đồng tu đề cao một cách thực chất, hình tượng cha mẹ cấu thành từ nghiệp lực trong trường không gian của chị đã tiêu đi, thay vào đó, trường không gian của đồng tu trở nên rất thuần tịnh và tươi sáng.

Không lâu sau, nữ đồng tu đột nhiên xuất hiện nghiệp bệnh đau tim nghiêm trọng, biểu hiện tại không gian người thường là lồng ngực đau buốt, toàn thân vô lực, thị lực kém, toát mồ hôi lạnh ướt cả quần áo, đứng không vững. Các đồng tu nhận được thông báo, liền bắt đầu tăng cường độ phát chính niệm nhắm vào nghiệp bệnh của đồng tu. Trong lúc phát chính niệm cho đồng tu, tôi dùng công năng nhìn thấy trong phạm vi trường không gian của đồng tu có một âm quỷ mang hình tượng nam nhân cường tráng, trong tay cầm một sào tre bên trên có treo một tấm vải trắng dài hai mét, trên tấm vải có viết tên của đồng tu, dưới cùng viết một chữ “tử”, phía sau nó còn có một trăm âm linh, có con là hình người, có con hình động vật, tất cả đồng thanh hét lên đòi đồng tu chết, hung hăng ngạo mạn. Thuận theo việc mọi người phát chính niệm, trên trời xuất hiện rất nhiều Phật Đạo Thần  với Pháp tướng nghiêm nghị nhìn xuống lũ âm linh, lũ âm linh vốn đang kêu gào lần lượt im miệng, biểu hiện sợ hãi, có con toàn thân không ngừng lắc động run rẩy.

Lúc này, Thần thể của đồng tu hiện ra trong không trung. Thần thể của đồng tu là hình tượng giác giả Phật gia ngồi kiết già, quấn quanh thân áo cà sa màu đỏ, ngồi trên một đài sen lớn màu trắng; quanh đầu có một vòng sáng màu vàng kim, thân thể cũng được bao quanh trong một vòng tròn màu vàng kim to lớn; Sắc mặt thánh khiết như ngọc, hai tay kết ấn, hai mắt khẽ nhắm, thần quang rõ ràng, thần sắc sung mãn. Thần thể của đồng tu mở to thần nhãn từ bi xót xa nhìn đám âm linh nói: “Trong luân hồi chuyển sinh vô minh nơi tam giới, bởi vì nhân tố của ta mà sinh mệnh các ngươi đã phải chịu tổn hại, ta gửi đến các ngươi lời xin lỗi chân thành nhất! Ta là đệ tử Chính Pháp của Phật Chủ, gánh vác tránh nhiệm và sứ mệnh lịch sử chứng thực Pháp cứu độ chúng sinh. Nếu các ngươi có thể buông bỏ được oán hận trong tâm, thì đợi đến khi ta tu luyện viên mãn, sẽ thiện báo các ngươi. Nếu vẫn khăng khăng hành ác, sẽ chịu trừng phạt của thiên thượng, muốn đi con đường nào, hy vọng các ngươi cân nhắc kỹ.” Những âm linh kia nghe xong, có con mặt đầy hoan hỷ quay người rời đi, một số thì thầm với nhau một hồi rồi cũng lần lượt rời đi. Không gian vốn dĩ huyên náo đã trở lại thanh tĩnh yên bình. Cứ như vậy, dưới sự bảo hộ từ bi của Sư phụ, cùng với sự phối hợp phát chính niệm của các đồng tu, chỉ vỏn vẹn trong vòng ba tiếng đồng hồ, thân thể của đồng tu đã hồi phục lại trạng thái bình thường. Làm một người tu luyện chân chính, thì “phóng hạ chấp trước vô sinh tử, phóng hạ sinh tử vô chấp trước”.

Cùng với việc các đồng tu xung quan phối hợp phát chính niệm, nữ đồng tu đã khai sáng được hoàn cảnh giảng chân tướng nơi làm việc. Tại đơn vị, nữ đồng tu chính niệm mười phần đầy đủ, vì chúng sinh có thể được cứu mà thiết lập được cơ sở tốt đẹp. Nữ đồng tu dùng tiêu chuẩn cao để yêu cầu bản thân, tại hoàn cảnh công tác nơi đơn vị, trong quá trình tiếp xúc với đồng nghiệp, thời thời khắc khắc coi mình là người tu luyện, không từ khó nhọc, từ chỗ không phát sinh mâu thuẫn với người khác, cho tới luôn luôn thực hiện tốt nhất công việc mình được giao. Trong tập thể, cô ấy rất nhiều lần được bình chọn là tiên tiến. Dùng lời của đồng tu mà nói thì chính là: Thực thi tốt công việc chính là chứng thực Pháp. Từ lãnh đạo phía trên cho đến nhân viên cấp dưới đều đánh giá rằng: Cô ấy thực sự là một người tốt. Có người còn biểu thị minh xác trước đám đông rằng muốn học và luyện Pháp Luân Đại Pháp.

Lần nọ có một nam đồng tu bị bắt, nữ đồng tu này đến căn nhà thuê của học viên bị nạn để chỉnh lý tài liệu Đại Pháp và bị cảnh sát tà ác bắt cóc phi pháp đến đồn cảnh sát. Sau khi lãnh đạo cấp cao của nữ đồng tu biết chuyện cô bị bắt cóc, đã lập tức nói chuyện với đồn cảnh sát, hỏi cảnh sát tà ác vì sao bắt người. Cảnh sát nói: “Cô ta tu luyện Pháp Luân Công, lại còn hô ‘Pháp Luân Đại Pháp Hảo’”, vị lãnh đạo nói: “Chẳng phải chỉ là hô một câu ‘Pháp Luân Đại Pháp Hảo’ sao? Có chuyện gì lớn đâu? Chỉ là có muốn xử lý hay không thôi, mau thả người!” rồi phái cấp dưới đến tìm cảnh sát tà ác đòi người, cảnh sát tà ác lắc đầu không còn cách nào, đành phải thả đồng tu về nhà và trả lại đồ đạc cá nhân cho cô. Trên đường cùng lãnh đạo về nhà, nữ đồng tu đã giảng rất nhiều chân tướng Đại Pháp cho những vị lãnh đạo trực tiếp ngồi trong xe, mọi người đều rất vui vẻ, chỉ nhắc cô chú ý an toàn bản thân.

Trong quá trình đồng tu kể lại câu chuyện này, tôi bắt đầu nhìn thấy hình tượng tại không gian khác của vị lãnh đạo cấp cao đang mặc một bộ quan phục cổ đại thêu hình hạc trắng, sau đó biến thành bộ quan phục màu tím thêu hình trăn vàng năm móng. Tôi nghĩ đây là do ông ấy đắc được phúc báo cải biến vận mệnh sau khi giúp đỡ đệ tử Đại Pháp trong lúc gặp nạn! Thế giới vi quan đối ứng với thân thể của ông ấy cũng phát sinh biến hóa vô cùng to lớn: Thế giới vốn dĩ hoang vu, bị bao phủ bởi ánh sáng nhá nhem mờ mịt, nhờ uy lực của Pháp, đã biến thành một thế giới mới vô lượng quang minh, lấp lánh ánh sáng may mắn cát tường. Trong thế giới mới có thảm cỏ xanh mướt, rừng rậm cây cối bao la, sông nước cuồn cuộn. Những dòng sông cạn nước nay lại đong đầy nước của sự sống, sóng vỗ bờ. Lầu gác, cung điện đổ nát hoang tàn nay được khôi phục lại hình dáng ban đầu. Vô số thiên cung đã xuất hiện trở lại. Những sinh mệnh đã từng “biến mất” lại được hát khúc hoan ca trên đại địa. Những sinh mệnh may mắn còn sống sót, ban đầu vô cùng kinh ngạc, sau đó khóc không thành tiếng, cuối cùng vui mừng nhảy cẫng lên lớn tiếng reo hò, khấu tạ ơn cứu độ của Đại Pháp, trong thế giới này, nơi nơi tràn ngập tiếng cười, nơi nơi vui vẻ giăng đèn kết hoa, đó là sự cứu rỗi vĩnh hằng của sinh mệnh!

3. Cứu độ chúng sinh hữu duyên

Thuận theo tiến trình Chính Pháp, bánh xe lịch sử không ngừng được đẩy về phía trước, đệ tử Đại Pháp đương đầu với áp lực bức hại to lớn của tà ác, kiên trì không mệt mỏi giảng chân tướng cho thế nhân trong suốt 18 năm. Trong 18 năm này, tôi nghĩ rằng mỗi đồng tu đều cảm nhận sâu sắc sự vất vả và những phó xuất của mỗi từng vị đệ tử Đại Pháp. Trong số thế nhân đã liễu giải chân tướng, có một bộ phận là viên chức trong hệ thống công an, kiểm sát, tư pháp ở đại lục, trong quá trình những người này chọn lựa vị trí cho bản thân mình, có một số sinh mệnh đã chọn lựa chính xác tương lai vĩnh hằng cho sinh mệnh bản thân. Trong số những đồng tu tôi quen thân, có vị có người nhà làm lãnh đạo cấp cơ sở của hệ thống công an địa phương. Trong những năm thực hành Chính Pháp tu luyện gần đây, trong quá trình tôi vận dụng các loại thần thông mà Đại Pháp ban cho, tuy rằng đại đa số là thể hiện tại không gian khác, nhưng cũng có đồng tu sát gần tôi tự thân kiến chứng, trải nghiệm quá trình thực tế vận dụng thần thông để phá trừ bức hại của cựu thế lực, chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh, đã có được lý giải khá sâu sắc về tính chuẩn xác và uy lực, hiệu năng thực tế của thần thông biểu hiện tại không gian bề mặt. Người nhà của anh ấy vốn công tác trong hệ thống công an cũng rất có chính niệm đối với Đại Pháp, đã nhiều lần tận lực trong khả năng của mình để giúp đỡ đồng tu đang gặp nạn.

Một lần nọ, anh Lâm (hóa danh), vốn người nhà của đồng tu, gọi điện tới nói có việc tìm tôi. Vừa gặp mặt anh liền đi thẳng vào vấn đề: Gần đây văn phòng thành phố triển khai hoạt động trấn áp nghiêm khắc nạn trộm cắp cướp giật, trong tay tôi đang nắm hai vụ án, anh xem có thể giúp tôi tìm ra manh mối phá án không? Anh ấy vừa nói vừa lấy ra hồ sơ và ảnh khổ A4 của các nghi phạm trong hai vụ án. Tôi nghiêm túc suy xét một hồi: Truy bắt phần tử phạm tội bỏ trốn là tục sự của người thường, tôi vốn không nên tham gia, nhưng vị người nhà của đồng tu này có thái độ đúng đắn với Đại Pháp, lại nhiều lần giúp đỡ đồng tu trong lúc gặp nạn. Tôi dùng công năng túc mệnh thông nhìn thấy anh ấy từng có Pháp duyên và thế duyên với tôi trong tiền kiếp. Anh ấy là người nên được tu luyện Đại Pháp. Vì để chứng thực Pháp, cổ vũ người thiện lương thiện đãi đệ tử Đại Pháp, tôi quyết định làm hết sức để giúp vị công an này.

Sau khi tôi dùng thiên mục nhìn thì biết rằng trong hai vụ án này, có một vụ án độ khó không quá lớn, dựa vào manh mối và tư nguyên mà hiện tại đã nắm được, bỏ thêm chút sức lực là có thể bắt được nghi phạm. Còn trường hợp kia, độ khó của việc phá án khá lớn, thủ phạm gây án là kẻ đã phạm tội nhiều lần, hơn nữa lại khá giảo hoạt, năng lực chống lại trinh sát tương đối mạnh, đã trốn chạy nhiều năm, là tội phạm chuyên nghiệp. Sau khi dùng công năng dự đoán và công năng cảm nhận xem qua, tôi phát hiện thời gian gần đây kẻ này xuất hiện trong một ngôi nhà cho thuê ở vùng núi gần thành phố của chúng tôi, cuối cùng xác nhận được rằng hắn sẽ xuất hiện trong ngôi nhà cho thuê này từ 9:00 – 12:30 sáng ngày hôm sau. Tôi nói với anh Lâm tình huống tôi nhìn thấy, nghe xong, anh Lâm nói: “Đi đến vùng khác để bắt tội phạm bỏ trốn khó không kém gì mò kim đáy bể. Anh có chắc là hắn ta nhất định sẽ có mặt ở đó không?” Tôi chăm chú nhìn vào mắt anh ấy và nói: “Hãy tin tôi, nhất định sẽ thành công!” Anh Lâm nói: “Được! Tôi sẽ ngay lập tức xin chỉ thị và phối hợp công an địa phương tiến hành bắt giữ vào ngày mai.” Tôi nói: “Để đề phòng xảy ra tình huống bất thường, ngày mai tôi có thể đồng hành không?” (lúc ấy tôi đang trong kỳ nghỉ phép) Anh Lâm nói: “Không vấn đề gì.”

Trong quá trình truy bắt nghi phạm ngày hôm sau, do không quen đường xá, lại nhiều đường vòng, dẫn đến việc chúng tôi bị đi nhầm đường và chậm mất hơn một tiếng đồng hồ, anh Lâm ngồi trong xe quay lại nhìn tôi, lo lắng nói: “Làm lỡ mất thời gian rồi, ảnh hưởng đến việc bắt người thì làm sao đây?” Tôi nói: “Không sao.” Sau đó, tôi tĩnh tâm lại và mở công năng Pháp nhãn thông khiến kẻ tình nghi phạm tội đang chuẩn bị rời đi bị “định” lại trong khu vực đang sinh hoạt, đồng thời theo dõi hành tung và suy nghĩ trong tư tưởng của hắn mọi lúc. Thể hiện ở một không gian khác là: Công của tôi “bao phủ” một phạm vi không gian bán kính 2km xung quanh ngôi nhà thuê của nghi phạm, tôi lại dùng thần thông đả nhập vào não của hắn, định trụ chủ nguyên thần của người này, khiến hắn tạm thời mất khả năng hoạt động chủ quan. Chúng tôi đến nơi vào lúc 1 giờ chiều và phối hợp cùng công an địa phương bắt giữ thành công kẻ bị truy nã tại vị trí gần khu nhà cho thuê. Trên đường trở về, tên tội phạm tự lẩm bẩm một mình: “Hôm nay thật đáng đời, đã định sớm rời đi, nhưng quái lạ, không hiểu sao lại không đi nổi.” Nghe vậy, anh Lâm quay lại nhìn tôi, đôi mắt sắc sảo đầy ý cười. Lúc anh quay người lại, xe của chúng tôi cũng chạy vào đường cao tốc. Nắng chiều chiếu vào gương mặt có chút mệt mỏi của anh Lâm, cả người anh ấy như được tráng một thứ ánh sáng vàng mờ ảo, chúng tôi đang cùng nhau đi trên đường về nhà. Sư tôn đã giảng:

Nếu khiến một đệ tử Đại Pháp nào đó có mang theo công năng khi tu thì nhất định là có nguyên nhân, nhất định là để đặt định điều gì đó cho các sinh mệnh tương lai; bởi vì các đệ tử Đại Pháp có trách nhiệm to lớn như vậy, chính là [bản] thân mang trách nhiệm trọng đại. (Giảng Pháp tại Pháp hội Chicago năm 2004)

Năng lực mà Đại Pháp ban cho tôi không chỉ có vậy, mà tôi còn có thể hội về việc vận dụng Phật Pháp thần thông vào thực tế và ảnh hưởng đến phạm vi rộng lớn hơn, khi cơ duyên chín muồi, tôi sẽ viết ra chia sẻ với các đồng tu.

Dựa vào uy đức vô lượng của Sư phụ và sự phó xuất vô tư trong chính niệm và chính hành của các đệ tử Đại Pháp, thế giới thực sự được cải biến vì chúng ta. Một trải nghiệm tu luyện cảm động được đăng trên trang web của đệ tử Đại Pháp là tập hợp những tinh túy trong kinh nghiệm tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp trong 18 năm bức hại tàn khốc; đó cũng là sự thu nhỏ toàn bộ quá trình của thời kỳ lịch sử đặc thù mà các đệ tử Chính Pháp đang trong quá trình làm tròn thệ tước của Thần – trợ Sư Chính Pháp, cứu độ chúng sinh. Trong tương lai, mỗi một thế giới thiên quốc trong đại khung vũ trụ mới đều sẽ có một bản tổng hợp hoàn chỉnh những thể hội tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp. Bất cứ khi nào một sinh mệnh cao cấp trong Thần giới đọc được kiệt tác lịch sử này, họ sẽ luôn luôn cảm động trước chính niệm chính hành và sự phó xuất thuần Thiện, vô tư của các đệ tử Chính Pháp; trong thế gian hồng trần, chính niệm chính hành của Các đệ tử Đại Pháp sẽ thời thời khắc khắc truyền cảm hứng và khích lệ vô số người tu luyện bước đi kiên định không sợ hãi trên con đường chứng thực chân lý của vũ trụ tương lai. Đây cũng là con đường mà các đệ tử Chính Pháp đã đi qua – con đường người tu thành Thần.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/237750

The post Một vài chuyện tu luyện Chính Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Bầu trời của lịch sửhttps://chanhkien.org/2021/03/bau-troi-cua-lich-su.htmlSat, 06 Mar 2021 20:14:02 +0000https://chanhkien.org/?p=27111Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Bầu trời của lịch sử: Thiên quốc Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1) Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2) Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế Bầu trời của lịch sử: Diệt […]

The post Loạt bài: Bầu trời của lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Bầu trời của lịch sử: Thiên quốc

Bầu trời của lịch sử: Luyện tốt động tĩnh công

Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 1)

Bầu trời của lịch sử: Pháp duyên (Phần 2)

Bầu trời của lịch sử: Thần hành tại thế

Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm sắc dục

Bầu trời của lịch sử: Diệt trừ tâm tật đố

Bầu trời của lịch sử: Thành Cát Tư Hãn

Bầu trời của lịch sử: Phủ định hoàn toàn an bài của cựu thế lực

Bầu trời của lịch sử: Những điều nhìn thấy trong không gian khác khi nghe Sư phụ giảng Pháp

Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành

Bầu trời lịch sử: Vương triều trên thiên quốc

Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc

Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya

Bầu trời của lịch sử: Hằng Nga

Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp

The post Loạt bài: Bầu trời của lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháphttps://chanhkien.org/2021/02/bau-troi-cua-lich-su-ky-su-25-nam-tu-luyen-dai-phap.htmlTue, 23 Feb 2021 15:54:59 +0000https://chanhkien.org/?p=27081Thiện Dũng [ChanhKien.org] Thể ngộ tu luyện trong trạng thái tiệm ngộ —— Tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp đã trải qua 20 năm gian khổ. Trong suốt hai thập kỷ trôi qua này, mỗi vị đồng tu đều đã dùng sinh mệnh bản thân để chứng thực Đại Pháp của […]

The post Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Thể ngộ tu luyện trong trạng thái tiệm ngộ ——

Tu luyện Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp đã trải qua 20 năm gian khổ. Trong suốt hai thập kỷ trôi qua này, mỗi vị đồng tu đều đã dùng sinh mệnh bản thân để chứng thực Đại Pháp của vũ trụ trong các hoàn cảnh tu luyện khác nhau. Do sự bức hại của cựu thế lực, một số học viên cá biệt đã bị nhân tâm quan niệm cản trở, không thể phát huy đầy đủ Pháp lực thần thông mà Đại Pháp ban cho. Mục đích ban đầu của bài viết này là giao lưu thảo luận ​​với các đồng tu để phá trừ quan niệm con người, dùng chính niệm của Thần để làm chủ tể chủ đạo quá trình tu luyện Chính Pháp, phá trừ bức hại của cựu thế lực, làm tròn thệ ước của Thần. Những chỗ còn thiếu sót xin từ bi chỉ rõ.

Sinh mệnh tại các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ đều là do tầng tầng lạp tử vi quan tổ hợp cấu thành nên sinh mệnh cá thể bề mặt. Đệ tử Đại Pháp tu luyện tại thế gian hồng trần, thuận theo việc trừ bỏ chấp trước nhân tâm, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ, cảnh giới tu luyện dần dần thăng hoa thì mật độ công của tự thân sẽ không ngừng được tăng lên. Sư tôn giảng:

“Khi lên đến tầng rất cao, mật độ năng lượng ấy so với phân tử nước thông thường có thể gấp 100, 1000, [hoặc] 100 triệu lần; tất cả đều có thể. Vì tầng càng cao, mật độ của nó càng lớn và càng tinh tế, uy lực càng lớn.” (Chuyển Pháp Luân – Bài giảng thứ hai)

Cảnh giới tư tưởng và diễn hóa thân thể của đệ tử Đại Pháp tại giai đoạn tu luyện này cách biệt rất lớn so với người thường. Kết cấu lạp tử của mặt đã đồng hóa với Pháp của mỗi đồng tu vi quan vô tỷ, Thần thể cũng lớn bằng thiên thể vũ trụ tại cảnh giới tu luyện tương ứng. Nhìn từ tầng thứ tu luyện đã đồng hóa với Pháp của tôi (tại không gian khác), thì địa cầu trông bé như một hạt bụi. Từ góc độ của Thần thể tại không gian khác mà nhìn thì hết thảy mọi thứ trên thế gian đều mỏng manh hư ảo như mây khói sương mù mà con người nhìn thấy. Vậy nên rất nhiều người tu luyện cổ đại đều nói hết thảy mọi thứ trên thế gian đều là giả tướng hư huyễn không thật.

Trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp chính là chứng thực Pháp, duy hộ Pháp, cứu độ chúng sinh, viên dung những gì Sư tôn yêu cầu. Sư tôn giảng:

“Bất kể là cứu độ chúng sinh, đề cao bản thân, [hoặc] phản đối bức hại, thì đó đều là chứng thực Pháp; bước đi thật ngay chính con đường của chư vị mới là chứng thực Pháp.” (Tinh Tấn Yếu Chỉ III – Tẩu chính lộ)

1- Công năng dự đoán

Đối với một người thường trong thế gian hồng trần, nhục thân chính là xiềng xích khóa lại chủ nguyên thần, là “dụng cụ” để chịu khổ hoàn nghiệp. Đối với người tu luyện mà nói, thân người là Pháp khí để tu luyện phản bổn quy chân, chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Triển hiện của Pháp tại cảnh giới tu luyện của tôi là: Nhục thân là một trường vật chất dày đặc sương mù do các nhân tố chính-phụ trộn lẫn vào nhau tổ hợp thành. Quá trình tiêu khứ tâm chấp trước, đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ cũng chính là con đường tiêu khứ nhân tố phụ diện của cựu vũ trụ trong trường không gian tự thân, thành tựu sinh mệnh của tân vũ trụ do Đại Pháp tạo nên. Biểu hiện trên phương diện tu luyện tâm tính chính là quá trình bỏ đi ma tính, bồi bổ Phật tính. Thuận theo tâm tính đề cao, cảnh giới thăng hoa, trường năng lượng mà tự thân đệ tử Đại Pháp mang theo sẽ bao trùm một phạm vi rất lớn trong không gian người thường cũng như phạm vi thiên thể vũ trụ tương ứng.

Làm một đệ tử Đại Pháp thì cần toàn diện phủ định an bài của cựu thế lực. Trong lúc tôi tĩnh tâm nhập định, trạng thái tu luyện của đồng tu bên cạnh hoặc chỉnh thể đồng tu trong khu vực đều sẽ triển hiện ra các hình thức khác nhau của Pháp. Có đồng tu thời gian dài không tu bỏ nhân tâm, không coi bản thân là người tu luyện mà lẫn lộn với người thường, từ phần đầu của nhục thân trên bề mặt cho đến trường không gian của thân thể đều sẽ trở nên tối tăm, thậm chí một số phần cục bộ còn có những cục nghiệp lực màu đen, kéo theo các lạn quỷ loạn Pháp của cựu thế lực tiến nhập vào trường vật chất phụ diện để bức hại nhục thân của đồng tu. Có đồng tu cá biệt không tu bỏ tâm sắc dục, thậm chí thụ nhận ô nhiễm từ những quan niệm biến dị của xã hội người thường, tiêu chuẩn tâm tính tại vấn đề này tương đối thấp, tà linh loạn Pháp bèn khống chế lạn quỷ hoặc ác nhân đến lợi dụng đủ loại thủ đoạn gia tăng bức hại việc tu luyện Chính Pháp của đồng tu.

Trong thời kỳ công tác ở phía Nam, tôi có gặp một nam đồng tu góa vợ, vì không buông bỏ tình cảm nam nữ con người nên luôn không tinh tấn lắm. Anh tiếp xúc với một vị nữ đồng tu ở địa phương, hai người phối hợp làm hạng mục Đại Pháp, ngày dài tháng rộng dần dần âm thầm phát sinh nhân tố tình, xuất hiện vướng mắc tình cảm. Tại trường không gian đối ứng với phần đầu của nhục thân hai đồng tu này có một linh thể ác long màu đỏ tàn tạ đang hấp hối, tứ chi mình mẩy, cặp sừng và toàn bộ vảy trên thân nó đều tàn khuyết bất toàn, hai mắt ác long nửa nhắm nửa mở không còn sắc sáng, đang “ngủ đông” tại không gian vi quan hắc ám đối ứng với tư tưởng chưa đồng hóa Pháp của đồng tu. Biểu hiện tại không gian người thường là đồng tu có nhân tố văn hóa đảng rõ rệt và tình cảm nam nữ. Khi hai người hễ động nhân tâm thì liền có các nhân tố phụ diện của cựu thế lực bắt đầu hướng đến trường không gian của họ mà tập kết, trên bề mặt, tại trường không gian của nhục thân liên tục sản sinh và tích lũy những vật chất màu đỏ thẫm của không gian người thường, con ác long màu đỏ đang “ngủ đông” trong trường không gian của họ dần dần tỉnh dậy, long nhãn vốn đang nhắm cũng từ từ hé mở, phóng ra quang diệm hung ác tàn bạo. Hắc thủ loạn Pháp của cựu thế lực mưu đồ dùng tình cảm nam nữ làm cái cớ để bức hại hai vị đồng tu. Sau khi phát hiện loại tình huống này, tôi lập tức giao lưu trao đổi từ Pháp lý với nam đồng tu, đồng thời chỉ ra cựu thế lực mưu tính nội trong ba tháng tiếp theo sẽ khống chế cảnh sát tà ác tiến hành bức hại bắt cóc phi pháp.

Nam đồng tu lý trí nghiêm túc hướng nội tìm và quy chính nhân tâm, trừ sạch tận gốc hết thảy các nhân tố phụ diện không phù hợp với Pháp trong không gian bản thân. Nhưng nữ đồng tu vẫn rất chấp trước, không nghiêm túc đối đãi. Một lần nọ khi nam đồng tu chuẩn bị đi lấy tài liệu giảng chân tướng, tôi “nhìn thấy” nữ đồng tu bị bức hại bắt cóc, sau đó cô ấy mất tích rất lâu. Sau này tôi mới biết rằng sau khi bị bức hại bắt cóc phi pháp, nữ đồng tu phải kinh qua trùng trùng khảo nghiệm sinh tử mới có thể xông ra khỏi động quỷ.

Tu luyện là vô cùng nghiêm túc, cho dù ở bất kỳ giai đoạn tu luyện nào cũng cần nghiêm khắc yêu cầu nhất tư nhất niệm của bản thân, kiên quyết xem nhẹ, trừ bỏ tình cảm nam nữ. Tôi ngộ rằng người tu luyện có thể xem nhẹ, trừ bỏ tình cảm nam nữ hay không chính là giới tuyến trọng yếu phân biệt giữa người và Thần.

2- Nhiếp hồn đại pháp

Các đệ tử Đại Pháp tu luyện trong hoàn cảnh Trung Quốc đại lục không những phải đối diện với áp lực bức hại khủng bố đỏ mà còn phải thanh trừ nhắm vào những nhân tố bức hại và can nhiễu nội bộ đệ tử Đại Pháp đề cao chỉnh thể.

Tại địa phương chúng tôi có một số người tà ngộ, vì một chút lợi cỏn con mà đi truyền bá các loại sản phẩm đa cấp trong (cộng đồng) đệ tử Đại Pháp, gây ra tổn thất kinh tế nhất định cho đệ tử Đại Pháp, thậm chí có một số đồng tu không lý trí còn bị dẫn động. Tôi tình cờ gặp một trong số những người tu luyện lầm đường lạc lối ấy, tóc của chị đã điểm bạc, khô cứng, làn da vàng vọt tối sắc, ánh mắt mờ mịt vô thần, khuôn mặt đầy vẻ cáu kỉnh, đôi mày nhíu lại. Tôi dùng công năng nhìn thấy chị ấy mang theo một trường vật chất âm tính màu xám đen, bình thường hô hấp rất yếu, ở giữa lồng ngực có một ác linh màu xanh đen to bằng quả hạnh nhân đang cắn xé nhai nuốt ngốn ngấu tội tạng của chị. Con ác linh ấy trông giống như một tảng thịt rữa, phần trên của tảng thịt mọc ra ba con mắt màu xám, phần dưới có một cái miệng to như miệng cá, bên trong mọc đầy răng nhọn. Tôi đã từng gặp loại tình huống này, thường phản ánh tại không gian người thường chính là ung thư ác tính giai đoạn cuối, đa phần những người này sống không quá ba tháng. Chồng của chị đến nói chuyện với tôi dăm ba câu, (sau đó) tôi nói với chị ấy: “Tôi biết chị từng là một đệ tử Đại Pháp chân tu, đã phải chịu bức hại khổ hình cực kỳ tàn khốc trong trong hắc động, rồi thụ nhận can nhiễu từ những kẻ tà ngộ “Judas” (phản Chúa) trong ngục. Hiện tại chị đã bị ung thư giai đoạn cuối, chẳng còn sống được bao lâu, chỉ có Sư phụ và Đại Pháp mới có thể chân chính cứu vớt sinh mệnh của chị. Nếu một người mất đi sinh mệnh, thì có nhiều tiền tài đến mấy cũng vô nghĩa.” Chị nói: “Ngày nào ngực tôi cũng vô cùng đau, tôi đau buốt đến mức chẳng nghĩ được gì nữa!” Tôi nói: “Mỗi sinh mệnh đắc Pháp đều là một sinh mệnh xuất sắc, chúng ta đến thế gian con người chính là ‘vì Pháp mà đến’, là đại biểu cho vô lượng chúng Thần và chúng sinh trong thể hệ vũ trụ khổng lồ đến đồng hóa với Đại Pháp. Thệ ước thần thánh của chúng ta là trợ Sư Chính Pháp. Nếu đem so với sinh tử của vô lượng chúng Thần, thì được mất cá nhân không đáng gì cả, chúng ta nhất định phải trân quý cơ duyên tu luyện Chính Pháp, chân tu Đại Pháp,…” Tôi giao lưu với đồng tu cũ này gần năm tiếng đồng hồ, bên ngoài phòng, các đồng tu cũng phối hợp với tôi phát chính niệm liên tục năm tiếng đồng hồ. Cuối cùng phần Thần của vị đồng tu cũ này cũng đã được thức tỉnh, chị quyết định một lần nữa quay lại tu luyện Đại Pháp, kiên quyết làm một đệ tử Đại Pháp chân tu. Ba tháng tiếp theo chúng tôi cùng học Pháp luyện công. Dưới sự gia trì từ bi của Sư phụ, triệu chứng nghiệp bệnh của đồng tu đã dần dần thuyên giảm và yếu đi, đến ngày hôm nay, đồng tu đã hồi phục lại trạng tháng tu luyện chính thường của một đệ tử Đại Pháp, khuôn mặt thanh tú thường nở nụ cười rạng rỡ, ánh mắt kiên định mà ung dung, thân thể dường như có được sinh lực vô tận.

Được các đệ tử Đại Pháp khuyến Thiện và giúp đỡ, có mấy vị làm bán hàng đa cấp đã từ bỏ hành vi phá hoại Pháp một cách không lý trí. Tuy nhiên cũng có những người tà ngộ cá biệt vẫn cứ khăng khăng hành ác, chỉ vỏn vẹn trong thời gian một tháng hoặc lâu hơn, tại một thành phố tương đối giàu có ở tỉnh chúng tôi, các nhóm bán hàng đa cấp đã lừa các học viên Đại Pháp gần 200 nghìn NDT. Họ cấu kết với ác nhân có phụ thể động vật để trường kỳ ác ý bức hại một cách tàn ác nhục thân của những đồng tu đã phơi bày hành vi ác của họ, lợi dụng hình thức tiếp thị đa cấp để can nhiễu bức hại việc tu luyện chính thường của mười mấy đồng tu, đi khắp nơi tung tin bịa đặt phỉ báng bôi nhọ thanh danh các đệ tử Đại Pháp chân tu đã (đứng ra) ngăn chặn họ hành ác, tạo ra gián cách nghiêm trọng giữa các đồng tu.

Đối với những ác nhân tà ngộ đã được các đệ tử Đại Pháp xuất phát từ thiện tâm khuyên can nhiều lần nhưng không nghe, vẫn tiếp tục bức hại việc tu luyện chính thường của đệ tử Đại Pháp trên diện rộng, thì ngoài việc phát chính niệm thông thường, tôi cũng dùng Phật Pháp thần thông mà Đại Pháp ban cấp để trừ ác. Đầu tiên tôi đả tọa nhập định – chủ nguyên thần quy vị, chủ nguyên thần hợp thể với thân kim cương bất hoại đã tu thành. Tôi mở Pháp nhãn nhìn thấy trong không gian đối ứng với nhục thân của người nữ cầm đầu nhóm tiếp thị đa cấp có một con mãng xà lớn màu đỏ nâu có hoa văn hình lăng trụ đang khống chế tư tưởng người này hành ác, khi cô ấy nghỉ ngơi, con mãng xà lớn sẽ từ trong thân thể bò ra, thân rắn uốn động quấn quanh nhục thân của cô, phủ trọn một chiếc giường đôi. Trong định, tôi đả xuất công năng, một chùm ánh sáng vàng kim bao trùm lấy đầu và thân mãng xà, tôi niệm khẩu quyết Chính Pháp, niệm chữ “Diệt”. Dưới sự gia trì của Sư phụ, trong chớp mắt, Pháp Luân lớn ở vị trí bụng dưới phân thân thành nhiều Pháp Luân nhỏ, giải thể yêu linh mãng xà, hóa thành khí đen tản đi mất. Sau đó, tôi dùng “nhiếp hồn đại pháp” trấn nhiếp chủ nguyên thần cùng thân thể tại không khác đối ứng với nhục thân của của ác nhân đến trước mặt, rồi bắt vào trong tay, dùng hóa công triệt để giải thể tiêu mất thân thể tại không gian khác của nó. Biểu hiện tại không gian người thường là người này đột nhiên cảm thấy mệt mỏi buồn ngủ, lập tức mất ý thức và chìm vào giấc ngủ sâu. Sau khi tôi thi triển Pháp xong, người này tỉnh lại, cảm thấy phần đầu vô cùng đau, toàn thân nhức mỏi vô lực; tức ngực, thở gấp, hô hấp khó khăn; các chức năng nội tạng bắt đầu suy giảm nhanh chóng. Dưới uy lực chính niệm của đệ tử Đại Pháp người này hiện nay đã liệt giường, thân thể xuất hiện đủ loại chứng bệnh nghiêm trọng đáng sợ, đây mới chỉ là mở đầu của ác báo.

Tôi ngộ rằng: Phật Pháp từ bi chúng sinh nhưng đồng thời cũng uy nghiêm. Duy hộ hoàn cảnh tu luyện chính thường của đệ tử Đại Pháp cũng là đang duy hộ Pháp, viên dung những gì Sư phụ yêu cầu.

3- Vô trung sinh hữu, ngự khí thành đao (Từ trong ‘không’ mà sinh ra có, chế ngự khí mà thành được đao)

Sư tôn đã giảng:

“Phật với năng lực rất cao, chỉ nháy mắt là thật sự có thể tạo ra một tầng trời, hơn nữa tầng thứ càng cao thì tạo ra càng đẹp. Ngoài ra không cần động tay, chỉ mở miệng hễ nói là thành; còn tầng thứ cao hơn nữa thì hễ động niệm là được rồi, hễ nghĩ là [tạo] xuất lai.” (Chuyển Pháp Luân (Quyển II) – Chuyện cổ về đất bùn tạo con người)

Tại vùng chúng tôi có một người tà ngộ tự tâm sinh ma, đặt mình lên trên các đệ tử Đại Pháp, tùy ý phỉ báng đệ tử Đại Pháp trong khu vực, phao tin rằng (bản thân) thường tu chỉnh đệ tử Đại Pháp. Người này tổ chức một số người không lý trí, học Pháp không sâu, mang theo nhân tâm công nhiên đốt một lượng lớn kinh văn kinh thư giảng Pháp của Sư phụ, nói là đến chỗ anh ta thỉnh pháp của tân vũ trụ, hành vi vô cùng tà ác, hung hăng càn quấy. Người này còn trường kỳ phỉ báng nhục mạ người điều phối địa phương trong hòm thư nội bộ của địa khu, lấy danh nghĩa là đệ tử Đại Pháp cảnh giới cao mà viết email đến trang web của đệ tử Đại Pháp để phỉ báng gièm pha những bài viết được đăng bình thường của đồng tu,…

Những sinh mệnh không lý trí này thiêu hủy kinh thư Đại Pháp xong thì liền tạo ra tội nghiệp to lớn vô tận. Tại không gian khác, tôi thấy các lạp tử từ vi quan đến bề mặt của thân thể nhục thân cho đến các lạp tử trong tất cả các không gian đối ứng với nhục thân của những người thiêu hủy kinh thư, toàn bộ đều đổ đầy nghiệp lực đặc quánh như nhựa đường màu đen. Những sinh mệnh như vậy, từ trong ra ngoài đã toàn bộ biến thành một “người nghiệp lực” màu đen rồi. Đối với những người hành ác không nghe khuyên can, ác ý thiêu hủy kinh sách Đại Pháp cũng như những sinh mệnh tà ác tiếp tục phá hoại Pháp, phá hoại hoàn cảnh tu luyện của đệ tử Đại Pháp thì nhất định cần dùng chính niệm nghiêm túc đối đãi.

Tôi dùng công năng nhìn thấy chủ nguyên thần và phó nguyên thần của những kẻ cầm đầu hành ác đã sớm bị đả nhập địa ngục, chờ khi Pháp chính nhân gian, Sáng Thế Chủ sẽ cân nhắc quyết định tương lai vĩnh viễn cho sinh mệnh của họ. Nhục thân của những người này đã chứa đầy nghiệp lực, bị cựu thế lực và đủ loại tà linh phụ thể khống chế tại nhân gian đi hành ác vô độ giữa các đệ tử Đại Pháp một cách không còn bất kỳ giới hạn đạo đức nào. Nhắm thẳng vào loại tình huống này, trong định, chủ nguyên thần của tôi ly thể tách ra đi đến bên cạnh nhục thân của những người này, mượn dùng “khí binh đao” có trong không gian đất trời để diễn vật hóa vật. Tôi dùng Phật Pháp thần thông diễn hóa khí binh đao của trời đất thành một lưỡi dao sắc – rồi diễn hóa thành rất nhiều con dao dài cấu thành từ vật chất cao năng lượng. Tôi dùng dao đâm xuyên vào từ huyệt bách hội, cắt dọc toàn bộ thân xương rồi rút ra ở huyệt hội âm, lại dùng dao chọc xuyên qua kẽ hở giữa xương sườn, đâm thẳng vào quả tim bên trong nhục thể của sinh mệnh tà ác. Biểu hiện trong không gian người thường là phần tim trong nhục thân của sinh mệnh này trở nên đau đớn kịch liệt, hô hấp khó khăn; não sẽ dần dần mất hết chức năng cho đến khi bị hoại tử, khiến tà linh phụ thể tại không gian khác mất khống chế đối với thân thể ác nhân. Nếu đồng tu đều có thể dĩ Pháp vi Sư, nhận rõ tà ác, không bị lôi kéo, không bị lừa đi nuôi dưỡng nhóm loạn Pháp này thì những kẻ hành ác sẽ rất nhanh gặp báo ứng đến chết. Bản thân việc nhận rõ tà ác phá hoại Đại Pháp chính là đang thanh lý tà ác.

Tu luyện trong thế gian thập ác thời mạt pháp này, bất kỳ nhân tâm nào cũng đều có thể chiêu mời ma nạn cự đại, trong tu luyện tâm nhất định phải chính. Nếu như điều kiện cho phép, khi phát chính niệm tại bốn khung giờ chính tôi xin kiến nghị các đồng tu triệt để thanh trừ, giải thể hết thảy các nhân tố và sinh mệnh tà ác phá hoại Pháp, gây gián cách giữa đệ tử Đại Pháp.

4- Công năng siêu cảm

Xung quanh nhục thân của mỗi sinh mệnh trên thế gian đều tồn tại một trường vật chất, có lúc ngồi đả tọa nhập định, tôi cảm thấy bản thân đang tu luyện trong một thiên thể vũ trụ mênh mông tĩnh lặng, có lúc cảm thấy thân thể đang ngồi bên trong những vật chất vô tận giống như loại nước có mật độ cao tràn đầy không gian vũ trụ. Khi chủ ý thức không động niệm, trong trường vật chất giống như “nước” này sẽ ánh xạ ra hết thảy tín tức của toàn bộ các sinh mệnh có linh tính bên trong (trường vật chất). Trong những tín tức của các sinh mệnh này bao gồm cả toàn bộ tín tức liên quan đến quá khứ, hiện tại, “tương lai” đối ứng với sinh mệnh.

Trong nhóm nhỏ học Pháp, tôi gặp một đồng tu tu luyện Chính Pháp làm ba việc rất tinh tấn. Trong quá trình giảng chân tướng cho người nhà, em gái của cô ấy tiếp nhận mê hoặc từ tuyên truyền của tà đảng, mang theo nhận thức không rõ ràng với Đại Pháp, mặc dù đã làm tam thoái nhưng đối với chân tướng Đại Pháp vẫn có chỗ không lý giải. Đồng tu nhận được tin em gái nhập viện cũng không để tâm. Trong lúc tôi giao lưu cùng đồng tu này, Pháp triển hiện ra rằng em gái của cô ấy đã từng là một sinh mệnh vĩ đại, vì nhân tâm mê trong hồng trần, bị tình vây hãm nên đời này mặc dù Đại Pháp ngay bên cạnh nhưng lại không biết trân quý, bệnh tình nghiêm trọng (lần này) tính mệnh rất đáng lo ngại. Tôi đem cảnh tượng kể lại cho đồng tu và đề nghị cô ấy nhất định phải đến bệnh viện thăm em gái, tiến thêm một bước giảng rõ chân tướng. Nếu không có thể khiến người hữu duyên mất đi sinh mệnh, mất đi cơ duyên với Đại Pháp có thể sẽ khó vãn cứu. Sau khi đồng tu đi đến nơi thì phát hiện bệnh tình của em gái nghiêm trọng bất thường, bác sỹ nói bệnh của cô ấy rất nặng và có thể nguy hiểm đến sinh mệnh. Đồng tu nhẫn nại giảng rất nhiều chân tướng Đại Pháp một cách đầy đủ kỹ lưỡng cho em gái, dặn em gái niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo.” Em gái của đồng tu sau khi phẫu thuật trọng bệnh thì thân thể nhanh chóng hồi phục lại trạng thái bình thường, các bác sỹ đều rất kinh ngạc! Sau khi phẫu thuật xong, em gái đồng tu thường niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, vết mổ cũng không đau lắm, còn bệnh nhân cùng phòng thì vùng bệnh đau đớn kịch liệt, cả đêm khó ngủ.

Người trên thế gian đều là vì Pháp mà đến, đệ tử Đại Pháp cần trân quý mỗi từng cơ hội giảng chân tướng. Nếu không, một khi mất đi cơ duyên có thể sẽ cả đời khó bù đắp lại.

Một dì đồng tu mà tôi quen có con gái là một nhân viên văn phòng rất thời thượng, có một thời gian thân thể cô ấy luôn không thoải mái, toàn thân vô lực, mệt mỏi buồn ngủ, thường kèm theo đau nhói ở đầu, thắt lưng và bụng, cảm giác đau ngày càng nặng hơn. Dì ấy tìm đến tôi kể đầu đuôi, qua trao đổi tôi được biết con gái của dì đã tu luyện Đại Pháp suốt khoảng thời gian học cấp 2 và cấp 3, nhưng sau khi tốt nghiệp và lập gia đình thì bắt đầu giải đãi, dần dần lẫn lộn với người thường. Sau khi giao lưu, tôi khuyến khích con gái của đồng tu quay lại tu luyện từ đầu, học Pháp luyện công nhiều hơn, năng niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp hảo – Chân, Thiện, Nhẫn hảo”.

Sau một thời gian, con gái đồng tu tìm tôi, trạng thái thân thể vốn không tốt của cô ấy đã cải biến rất nhiều, nhưng do sự tình nơi người thường phức tạp khiến cô ấy hao tổn nhiều tinh lực, không đủ tinh tấn trong tu luyện. Cô vẫn còn thường xuyên có cảm giác đau nhói ở thắt lưng và bụng. Tôi tĩnh tâm xuống mở công năng Pháp nhãn thông xem rõ toàn bộ câu chuyện: Thì ra bên cạnh cô có một người phụ nữ trung niên đã ly hôn nay có bạn trai, đến lúc tính chuyện cưới xin thì do tính cách của người phụ nữ này nên bạn trai không chấp nhận và họ đã chia tay. Người phụ nữ trung niên luôn nghi ngờ rằng bạn trai của mình đã bị cô hấp dẫn nên đã tìm đến một ác nhân bị phụ thể, thu thập tóc của cô, dùng tà pháp yểm cổ thuật (yểm chú) hung tàn hãm hại cô. Thực ra cô và bạn trai của người phụ nữ trung niên chưa hề qua lại. Người phụ nữ đó là vì tật đố dung mạo xinh đẹp của cô mà hành tà thuật hại người. Người phụ nữ bị một âm linh phụ thể đáng sợ khống chế, hình dạng âm linh giống như một bộ xương khoác áo đen, xương của nó có màu đen xám, đỉnh đầu là một mớ tóc dài khô ráp. Thời cổ đại, những kẻ hành ác dùng vu thuật (phép phù thủy) để hại người đều sẽ bị pháp luật nhân gian trừng trị nghiêm khắc, kẻ hành ác sau khi chết sẽ bị đả nhập địa ngục, không bao giờ được siêu sinh.

Đối với việc sử dụng tà thuật để gây loạn trật tự xã hội bình thường và các hành vi tà ác làm hại người tu luyện, thì tất phải bị trừ sạch. Đây là trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp, là biểu hiện của việc đệ tử Đại Pháp duy hộ trật tự xã hội chính thường của xã hội nhân loại, (cũng là duy hộ) tầng thứ thấp nhất được Đại Pháp vũ trụ tạo ra. Trong định, tôi đả xuất ra thần thông hình trụ, triệt để giải thể, tiêu hủy âm linh hình bộ xương tại không gian khác đã điều khiển ác nhân hành ác. Tôi lại nhắm thẳng vào toàn bộ các nhân tố vật chất phụ diện hại người trong trường không gian của con gái đồng tu, đem chúng tập hợp lại toàn bộ (dùng công diễn hóa những vật chất âm tính đã được thu thập lại thành quả cầu nghiệp lực) rồi đẩy trở lại thân thể của kẻ hành ác. Nhưng trong mấy ngày tiếp theo, người phụ nữ trung niên vẫn tà tâm không chừa, dùng tiền mua chuộc ác nhân phụ thể sử dụng tà pháp của hồ ly phụ thể để hành ác, can nhiễu người tu luyện Đại Pháp. Vì vậy, đối với tất cả những âm linh dùng ác niệm nguyền rủa con gái đồng tu, tạo thành trường nghiệp lực màu đen khiến nhục thân của con gái đồng tu bị bức hại thống khổ, tôi bèn bắt toàn bộ chúng vào trong tay và ném ngược lại thân thể của người phụ nữ trung niên đã hành ác. Tôi phát chính niệm mật độ cao vào các khung giờ chẵn: “Kẻ hành ác phát ra ác niệm nhiều bao nhiêu sẽ nhận ác báo lớn bấy nhiêu.” Sau đó không lâu, tôi được biết, biên bản khám sức khỏe định kỳ hàng năm của đơn vị công tác phát hiện người phụ nữ trung niên này đã mắc các bệnh ác tính như hoại tử chỏm xương đùi bên phải và xuất hiện khối u ở gan thận.

Sau lần ma nạn này, cô con gái của đồng tu đang kiên định bước trên con đường tu luyện Đại Pháp phản bổn quy chân. Bất kỳ bức hại nào nhắm vào các đệ tử Đại Pháp chân tu, thực ra đều là tổn hại lớn nhất cho chính bản thân những kẻ hành ác.

5- Pháp thân

Sư phụ giảng:

“Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian pháp, thì sẽ sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền người ta, là do Pháp và công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác.” (Chuyển Pháp Luân – Bài giảng thứ năm)

Tôi ngộ ra rằng điều mà đệ tử Đại Pháp tu luyện là Đại Pháp căn bản của vũ trụ, là sinh mệnh của tân vũ trụ do Đại Pháp vũ trụ vĩ đại tạo ra. Sinh mệnh tồn tại là vì để chứng thực Pháp, duy hộ Pháp và cứu độ chúng sinh. Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp là những sinh mệnh đặc thù được cấu thành từ những nhân tố đặc thù trong vũ trụ mới.

Sư tôn giảng đến Pháp lý phát chính niệm, và tôi ngộ ra rằng vào thời gian phát chính niệm hàng ngày, mỗi vị đệ tử Đại Pháp đều đang vận dụng Phật Pháp thần thông mà Đại Pháp ban cấp để chứng thực Pháp, diệt trừ tà ác và cứu độ chúng sinh. Các đồng tu đang tu luyện trong mê chỉ dựa vào chính tín kiên định vào Đại Pháp, mặc dù tạm thời chưa nhìn được triển hiện tại không gian khác, nhưng uy lực của chính niệm phát ra không hề yếu chút nào, mà thậm chí còn rất mạnh!

Pháp triển hiện trong cảnh giới tu luyện của tôi là: Do mỗi đồng tu có một tầng thứ nguyên lai khác nhau và cảnh giới tu luyện Chính Pháp trong đời này cũng khác nhau, nên số lượng Pháp thân sinh ra tại đan điền không hoàn toàn tương đồng. Có đồng tu đã tu luyện được hàng chục triệu Pháp thân; có đồng tu mà tế bào nhục thân nhiều bao nhiêu thì Pháp thân nhiều bấy nhiêu; còn có cả đồng tu tu xuất ra được số lượng Pháp thân nhiều bằng số lượng lạp tử trong thân thể. Khi một người tu luyện vứt bỏ quan niệm con người và coi mình là một đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, tư tưởng của người này càng thuần tịnh, càng chính thì càng có thể phát huy được năng lực của mặt đã tu thành, bao gồm cả việc phát huy trọn vẹn tác dụng của Pháp thân. Pháp thân phát huy tác dụng trọng yếu trong cứu độ chúng sinh, sẽ không bị chấp trước quan niệm của con người chi phối.

Hết thảy con người trên thế gian đều được sinh ra từ nguồn nguyên lai sinh mệnh của chính họ, ngoại trừ những nhân tố do cựu thế lực an bài khởi tác dụng phụ diện đối với Đại Pháp, thì có rất nhiều thế nhân chính là sinh mệnh chúng sinh được bao phủ trong thể hệ vũ trụ mà đệ tử Đại Pháp đại biểu, cũng chính là có liên hệ mật thiết với đệ tử Đại Pháp trên hai phương diện: nhân tố cấu thành sinh mệnh và thể hiện tại không gian khác của sinh mệnh. Đệ tử Đại Pháp tu luyện cá nhân tốt, chính là cảnh giới cao, uy đức lớn. Trong lúc đệ tử Đại Pháp phát chính niệm, thì Pháp thân của đồng tu cũng như các loại hình thái của công được đồng tu tu luyện ra trong Đại Pháp đều đang khởi tác dụng diệt trừ tà ác, cứu độ chúng sinh. Công và Pháp thân của đệ tử Đại Pháp còn khởi tác dụng bảo vệ trong mọi thời khắc đối với đủ loại hình thái sinh mệnh có duyên với đệ tử Đại Pháp đã được Đại Pháp cứu độ. Nhờ vào uy đức vĩ đại và sự gia trì từ bi vô lượng của Sư phụ: Lựa chọn của các đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp là cứu người!

Trong bài viết này, tôi chỉ thảo luận trao đổi ​​với các đồng tu trên Pháp lý, khi chỉnh thể các đồng tu có nhận thức sâu sắc hơn đối với Đại Pháp thì rất nhiều những bức hại tà ác sẽ tự diệt. Bản thân việc các đệ tử Chính Pháp phát chính niệm đóng một vai trò quan trọng trong việc cứu độ chúng sinh. Nếu một người tu luyện có cảnh giới nguyên lai cao muốn quay trở lại cảnh giới nguyên lai tiên thiên, người đó phải có tiêu chuẩn tâm tính cao tương ứng và uy đức vô lượng cao tương ứng, đồng thời khởi được tác dụng chính diện với mức độ lớn tương ứng trong quá trình tu luyện Chính Pháp cũng như trong chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Tôi phát hiện rằng đôi khi những sinh mệnh cao tầng ở các không gian khác không chỉ nhìn vào cảnh giới nguyên lai bản chất sinh mệnh của người tu luyện, mà điều được xem trọng hơn là người tu luyện ấy khởi được tác dụng trường kỳ và cụ thể trong trợ Sư Chính Pháp. Các vị thần vô cùng kính phục những người tu luyện có thể khởi tác dụng chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh tại phạm vi lớn trong người thường, ngay cả khi người đó không được ai biết đến trong xã hội cũng như giữa các đồng tu.

(Chúng ta) không được thờ ơ trước các loại hình thức can nhiễu bức hại đối với các đệ tử Đại Pháp trong xã hội người thường. Khi gặp phải những nhân tố và sinh mệnh tà ác bức hại việc tu luyện của đệ tử Đại Pháp và cản trở cứu độ thế nhân, thì những đệ tử Đại Pháp vốn được tạo tựu bởi Đại Pháp vũ trụ nhất định cần chính niệm, chính hành, nghiêm túc thanh lý. Nếu bạn thờ ơ coi nhẹ những sinh mệnh tà ác bức hại người tu luyện chân chính và người tốt trong xã hội, thì tiêu chuẩn tâm tính của bạn còn không bằng một người tốt có đạo đức cao thượng trong xã hội người thường, còn nói gì đến tu luyện Chính Pháp? Đứng trước bức hại đối với đệ tử Đại Pháp và tổn hại đến việc chúng sinh đắc cứu nhưng lại hờ hững, nhắm mắt làm ngơ, nhìn mà không thấy, thì đó là quan niệm bại hoại của xã hội biến dị, tất phải trừ bỏ. Đệ tử Đại Pháp phải hoàn toàn phủ nhận an bài của cựu thế lực, không phải là trong (khi bị) bức hại mới phản bức hại, mà là tiêu diệt những bức hại vô hình. Bất kỳ sinh mệnh nào cũng không động đến được những đồng tu nào bình thường tu luyện tốt bản thân, làm tốt ba việc một cách vững chắc và đi trên con đường Sư phụ an bài.

Hồng trần phồn hoa là huyễn tượng hư giả đan xen giữa những hình ảnh và màu sắc, đen và trắng; là thời không mộng ảo, nơi giao nhau của cảnh mộng và hiện thực, lịch sử và ký ức. Trải qua hai mươi năm tu luyện Chính Pháp, hết thảy những thứ nơi con người đối với tôi đều là những tín tức không thật, là quang ảnh huyễn hóa trong không gian tầng thấp, nó khác xa với chân tướng của vũ trụ. Trong Chính Pháp vũ trụ, hết thảy những gì hữu hình và vô hình trong vũ trụ cũ đều sẽ được Đại Pháp đồng hóa, tịnh hóa và quy chính, phục hồi trở lại là một bộ phận trong các tầng thứ khác nhau trong trật tự mới của Đại Pháp vũ trụ.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/255432

The post Bầu trời của lịch sử: Ký sự 25 năm tu luyện Đại Pháp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốchttps://chanhkien.org/2020/03/bau-troi-cua-lich-su-su-pho-thac-cua-thien-quoc.htmlSun, 22 Mar 2020 09:20:08 +0000https://chanhkien.org/?p=26118Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Khi phối hợp trong một hạng mục Chính Pháp, tôi được tiếp xúc với một đồng tu. Cô ấy là một học viên lâu năm đắc Pháp trước năm 1999, một người lặng lẽ, ít nói. Trong quá trình giao lưu chia sẻ, những kỳ tích trong Chính Pháp và […]

The post Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org] Khi phối hợp trong một hạng mục Chính Pháp, tôi được tiếp xúc với một đồng tu. Cô ấy là một học viên lâu năm đắc Pháp trước năm 1999, một người lặng lẽ, ít nói. Trong quá trình giao lưu chia sẻ, những kỳ tích trong Chính Pháp và chính niệm kiên định của cô khiến tôi vô cùng chấn động. Tại khu vực trọng điểm bức hại của tà ác ở đại lục, đồng tu bằng chính niệm không lay động đã đường đường chính chính bước qua 19 năm bão táp. Trong hoàn cảnh tà ác khủng bố đỏ ở đại lục, dù phải đối diện với hàng chục cảnh sát tà ác bắt giữ phi pháp hay dưới các loại áp lực xã hội, áp lực gia đình, đồng tu đều vì Pháp mà xả bỏ bản thân, không ký kết, không thỏa hiệp với tà ác. Vì chứng thực Pháp đồng tu đã tận lực phó xuất tất cả những gì mà bản thân có thể phó xuất được. Nghe cô kể về những thể ngộ tu luyện của mình bằng giọng điệu thật bình thản, tự nhiên, dùng lời của đồng tu mà nói: “Đây đều là uy lực của Đại Pháp, tôi chỉ làm những việc mà một đệ tử Đại Pháp nên làm thôi”.

Trong lúc cùng đồng tu phát chính niệm, Pháp đã triển hiện cho tôi thấy thế giới thiên quốc ở vi quan đối ứng với thân thể của đồng tu. Hình tượng Thần thể của đồng tu là hình tượng nữ trong Đạo gia. Thần thể của đồng tu ngồi ngay ngắn trên một đóa sen hồng có 18 tầng cánh hoa, mặc trang phục cổ đại màu trắng, tóc màu lam tím búi lệch sang bên trái, xung quanh đầu tỏa ra một vầng sáng màu trắng và một vòng sáng lớn màu trắng bao quanh thân thể. Do sự sai biệt về thời không, mà trong nháy mắt ở thế gian con người thì ở các không gian khác nhau tương ứng sẽ có khái niệm thời không khác nhau. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, tôi thấy được quá trình chuyển sinh qua nhiều đời của đồng tu trong quá khứ, thấy được toàn bộ thiên quốc của cô và không gian khác đối ứng với quá trình tu luyện Chính Pháp trong đời này của cô đã đạt được công đức to lớn vô tỷ.

Vì đồng tu có chính niệm kiên định đối với chân lý vũ trụ nên tuyệt đại bộ phận thể hệ vũ trụ mà cô ấy đại biểu đều được bảo lưu và đồng hóa với vũ trụ mới trong Chính Pháp của vũ trụ.

Thế giới thiên quốc của đồng tu được kết cấu bằng pha lê, tỏa ánh quang ngũ sắc lấp lánh. Mọi vật chất và sinh mệnh trong thế giới đều tỏa ánh quang rực rỡ, tươi sáng, đầy màu sắc.

Thiên quốc của đồng tu trang nghiêm, thần thánh, rộng lớn, phồn vinh. Trang phục của chúng Thần và lối kiến trúc mang phong cách triều Thương ở Trung Quốc cổ đại: Cổ xưa mà hùng vĩ, đơn giản mà thần bí.

Trong thiên quốc có núi sông tráng lệ, có rừng rậm, thảo nguyên mênh mông, có sông hồ chằng chịt, các loài động thực vật phong phú sinh sôi, phát triển. Có một số loại động thực vật chưa từng xuất hiện ở nơi trần thế. Tôi thấy một số loài Thần thú trong nhiều truyền thuyết và thần thoại của nhân gian như tì hưu, loan, huyền điểu v.v. Ở thế gian, trong văn hóa triều Thương có truyền thuyết rằng tổ tiên của người triều Thương là hậu duệ của huyền điểu, đây có lẽ là thể hiện văn hóa Thần truyền của nhân loại đối ứng với văn hóa của thiên thể vũ trụ. Huyền điểu ở trong thiên quốc là một loài chim Thần lớn cỡ chim hạc, phần đầu có lông màu trắng, thân thể có lông ngũ sắc, tiếng kêu trong trẻo, thánh thót.

Hồ trên thiên quốc dày đặc khắp nơi, ánh sáng lấp lánh, trong suốt, tĩnh lặng, những hình ảnh phản chiếu nhấp nhô trên mặt hồ. Trong cánh rừng giữa hồ có rất nhiều cánh đồng vuông vắn, lúc này đã đến mùa thu hoạch, nhiều chúng sinh bách tính của thiên quốc đang làm việc trên cánh đồng. Có những thôn xóm nằm trong rừng rậm hoặc nằm giữa rừng, trong thôn cây cối um tùm, bờ ruộng ngang dọc, ngõ hẻm đan xen, ánh sáng chiếu qua những tán lá cây xanh vàng tạo thành một bức tranh thi vị, đầy màu sắc.

Thành thị và làng mạc các nơi đều rất sầm uất, rất nhiều cửa hàng với các loại hàng hóa vô cùng phong phú, người người đi lại san sát, dòng người qua lại như mắc cửi. Có những hàng hóa dùng hàng đổi hàng, tiền tệ lưu thông ở đây có vẻ như đúc từ đồng thau.

Các công trình kiến trúc đa phần được xây từ loại khoáng thạch giống như pha lê màu xanh và trắng. Nhà dân chủ yếu là nhà năm gian ba cửa, đồ dùng được chế tạo từ pha lê hoặc gỗ mộc, bốn phía nhà có hành lang bao quanh sân.

Thân thể của chúng sinh trong thiên quốc tỏa ánh hào quang màu trắng nhạt, trang phục của họ là áo bên trên, váy bên dưới, áo dài qua đầu gối, đa số mặc màu sáng. Còn những chính Thần có quả vị thì quanh đầu có vòng tròn màu sắc rực rỡ, y phục màu sắc tươi sáng, lưng đeo ngọc bội.

Thành thị ở các nơi phần lớn được quy hoạch theo hình vuông, tùy vào quy mô thành thị lớn hay nhỏ  mà có hai hoặc ba cổng thành. Trên mỗi cổng thành đều có hai chòi tháp canh. Trong thành có hàng vạn ngôi nhà cao cửa rộng, cao thấp đan xen, các nhà lầu san sát nối nhau với phong cách rất khác biệt.

Cung thành hình vuông nằm ở trung tâm của thế giới thiên quốc, xây dựng trên một diện tích rất rộng lớn theo hướng bắc nam, có chín cửa. Các công trình kiến trúc chủ yếu trong cung thành như hoàng cung đại điện, tẩm cung được phân bố đối xứng ở hai bên. Các tòa kiến trúc này được xây dựng bằng pha lê trắng, mái lợp bằng pha lê xanh. Ở giữa và bên trong các tòa kiến trúc có các hình điêu khắc và vật trang trí bằng đồng vô cùng tinh xảo, mỹ diệu. Hoàng cung đại điện với mái nhiều tầng được xây dựng trên đài lớn hùng vĩ, gồm có ba tòa nhà đặt song song thẳng hàng, một tòa ở giữa và hai tòa ở hai bên trái phải, ba tòa kiến trúc vô cùng nguy nga, tráng lệ. Hoàng cung đại điện phân thành chín cửa, các cột trụ trong điện đều khắc các phù điêu trang trí hình rồng. Ở dưới đài có tượng năm con Thần thú đúc bằng đồng dài 9m đặt song song, ở giữa có bốn con đường dẫn đến hoàng cung đại điện. Thần thú ở trạng thái nửa đứng nửa ngồi, hình dạng giống như đầu hổ, mình báo, mồm sói, đuôi dài, đỉnh đầu có một sừng. Mắt thú nhìn thẳng, răng nanh chìa ra ngoài, khí thế ngạo nghễ. Phía trước đại điện có một quảng trường lớn, hai bên mỗi bên có chín cột trụ đồng to lớn. Cột trụ đồng cao 18m, đường kính khoảng 2m. Ở giữa hai hàng cột trụ đồng là một cái đỉnh đồng lớn có bốn chân, bên trên có khắc tranh sơn thủy. 18 cột trụ đồng này tượng trưng cho 18 châu phủ hành chính trong thiên quốc, đỉnh đồng là đại biểu cho vương triều thiên quốc gánh vác thiên hạ. Cấm vệ đứng san sát xung quanh hoàng cung đại điện, trong không khí tĩnh lặng đầy trang nghiêm.

Trong các công trình kiến trúc ở hậu cung có kiến trúc hình tháp, còn có quần thể các loại kiến trúc hùng vĩ phức hợp, tổ hợp, tầng tầng lớp lớp, đan xen tinh xảo và mỹ diệu. Tẩm cung đa số dùng những tấm vải lụa mỏng nhẹ như sương màu hồng hoặc màu trắng làm màn trướng. Đồ dùng sử dụng là những đồ gốm sứ tinh xảo. Trên đỉnh vách tường trong tẩm cung có treo một viên dạ minh châu đường kính 1,5m xung quanh có bốn viên dạ minh châu nhỏ. Dạ minh châu tỏa ánh sáng rực rỡ và êm dịu. Cột trụ của tẩm cung được làm bằng chất liệu pha lê màu hồng, trên đó có khắc những hoa văn trang trí hình tròn, hai bên phía trước đầu giường có một bức tượng huyền điểu bằng đồng vàng cao bằng nửa người, miệng đang nhả khói, làn khói nhẹ nhàng lan tỏa, hương thơm như mùi đàn hương. Trên chiếc bàn gỗ kê sát tường có những nhạc cụ như đàn sắt, đàn tỳ bà v.v. được sắp xếp chỉnh tể. Cung nữ trong cung mặc y phục trang nhã, thần thái ôn hòa, dịu dàng, khéo léo, phong thái diễm lệ.

Trong kiến trúc hậu cung có các hành lang và chòi nhỏ bao quanh, phân bố đồng đều, cung điện sâu hút. Hồ nước trong vườn thượng uyển hơi sương mù mịt, biển hoa dập dờn, hoa sen tím nở rộ trên mặt hồ, đung đưa theo gió, tỏa hương thơm sâu lắng…

Sau khi phát chính niệm xong, tôi kể cho đồng tu nghe những hình ảnh thiên quốc mà Pháp triển hiện, đồng tu kinh ngạc về sự thần thánh và mỹ lệ của thế giới thiên quốc. Tôi lại nói tiếp: Mỗi đệ tử Đại Pháp đều có mối liên hệ bản nguyên sinh mệnh với vô lượng chúng sinh trong thiên quốc mà mình đại biểu. Thệ ước thần thánh của đệ tử Đại Pháp và sự chờ đợi vô hạn mà vô lượng chúng Thần ký thác lên đệ tử Đại Pháp, vượt qua hết thảy thời không liên hệ mật thiết chúng ta với thiên quốc.

Trước khi mỗi đệ tử Chính Pháp hạ thế đều từng thệ ước sẽ dùng sinh mệnh của Thần để trợ sư chính Pháp, Pháp chính càn khôn; thề sẽ dùng sinh mệnh để bảo vệ thế giới thiên quốc mà mình đại biểu mãi mãi phồn vinh. Vào lúc rời thiên quốc để đi xuống, vô lượng chúng Thần và chúng sinh trong thiên quốc đều từng nói: “Vương của chúng con lần này đi trợ giúp Phật Chủ Pháp chính càn khôn, trên đường đi gặp nhiều nguy hiểm, chúng con vạn lần hy vọng Ngài tự giữ vững, tự cảnh tỉnh bản thân, tinh tấn không ngừng. Vương vĩ đại, cuộc sống của Ngài tức là cuộc sống của chúng con, sai lầm của Ngài tức là sự diệt vong của chúng con. Trên thân Ngài mang theo sự an nguy của vô lượng chúng sinh, vạn lần hy vọng Vương của chúng con thời khắc đều tự cảnh tỉnh, chúc Ngài sớm ngày khải hoàn quy vị”. Cuối cùng chúng sinh thiên quốc lại đồng thời quỳ gối dập đầu nói: “Vạn lần hy vọng Vương của chúng con tinh tấn tự cảnh tỉnh, trân trọng giữ vững bản thân”. Lúc đó đồng tu ngẩng đầu ngước nhìn lên trời xanh, cúi đầu nhìn xuống mặt đất, vẻ mặt trầm ngâm hướng về các chúng Thần nơi thiên quốc, lúc quay người bước đi, bỗng dưng nước mắt tuôn trào, đồng tu không lau nước mắt, chỉ kiên định đi trên con đường tương lai hỗn độn mù mịt phía trước.

Tôi lại nói tiếp: Từ thời khắc mỗi đệ tử Đại Pháp bắt đầu đi xuống, thiên quốc đã phái một thiên thần vào mọi thời khắc quan tâm đến mọi việc của chúng ta, đặc biệt là tình hình chuyển sinh của chúng ta trong các thời kỳ ở thế gian con người. Sau khi Chính Pháp bắt đầu, các khảo nghiệm quan trọng trong từng giai đoạn tu luyện mà chúng ta gặp phải cho đến quá trình thăng hoa đề cao cảnh giới của đệ tử Đại Pháp, đều được Thiên thần ghi chép thông báo cho các chúng Thần đại biểu cho các nơi trên thiên quốc.

Chúng sinh và chúng Thần thiên quốc của mỗi đồng tu đều đang từng thời khắc quan sát tiến trình tu luyện của Vương của mình, cùng với cảnh giới tu luyện của đồng tu được đề cao, Thần tính dần dần giác ngộ thức tỉnh, trong mắt chúng Thần, mỗi lần thăng hoa tâm tính của đệ tử Đại Pháp đều là một bước tiến gần tới thiên quốc trên con đường phản bổn quy chân. Mỗi khi chúng Thần nhìn thấy tâm tính của đồng tu thực sự được thăng hoa, chúng Thần đều vì đồng tu mà mừng rỡ reo lên “Vương của chúng ta thật vĩ đại!” Giai đoạn hiện nay, chúng Thần thiên quốc nhìn thấy hoặc cảm nhận được đệ tử Đại Pháp chỉ sai khác một niệm, chỉ cách một bước là đạt đến viên mãn cuối cùng và trở về được quê nhà thiên quốc. Nhưng giữa một niệm này, một bước này ẩn chứa vô vàn gian khổ, hiểm nguy.

Tất cả chúng Thần thiên quốc đều dự đoán vị đồng tu này sẽ viên mãn quy vị vào năm thứ 7000 (theo lịch của thiên quốc) kể từ khi đồng tu rời thiên quốc. Vào ngày kỷ niệm 7000 năm kể từ khi đồng tu rời thiên quốc, họ đã tổ chức lễ kỷ niệm trang nghiêm để cảm tạ ân cứu độ từ bi của Sáng Thế Chủ! Khi màn đêm buông xuống, hệ ngân hà sáng chói. Vô số pháo hoa chiếu sáng rực trời đêm, rất nhiều bông pháo hoa nhỏ hợp thành những bông pháo hoa lớn lơ lửng giữa bầu trời, ở chính giữa những bông pháo hoa đó có những chữ lớn viết theo lối chữ triện: Vương của chúng con, tưởng nhớ ngài! Chúng lơ lửng rất lâu trên bầu trời đêm của thiên quốc, ánh hào quang rực rỡ cứ mãi chiếu sáng khuôn mặt của chúng sinh. Vô lượng chúng Thần và chúng sinh thiên quốc ngắm nhìn bầu trời đêm diễm lệ, ngắm nhìn rất lâu.

Thông qua học Pháp tôi ngộ được rằng: Đệ tử Đại Pháp gánh vác sứ mệnh lịch sử vĩ đại và hy vọng, ký thác toàn bộ sinh mệnh của vô lượng chúng Thần. Chỉ có coi mình là người tu luyện chân chính, vứt bỏ nhân tâm, dùng chính niệm của Thần đối đãi với bản thân và tất cả mọi thứ thế gian, chính niệm chính hành, thì mới có thể thực sự chứng thực được Phật Pháp vĩ đại và cứu độ vô lượng chúng sinh.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/246644

The post Bầu trời của lịch sử: Sự phó thác của thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Hằng Ngahttps://chanhkien.org/2019/12/bau-troi-cua-lich-su-hang-nga.htmlMon, 23 Dec 2019 20:45:26 +0000https://chanhkien.org/?p=25697Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org 19-2-2019] Trên vùng đất Thần Châu, nền văn minh 5000 năm của dân tộc Trung Hoa là nền văn hóa Thần truyền đặt định cơ sở cho Chính Pháp hồng truyền. Rất nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng hiện nay đã chuyển sinh thành đệ tử Đại Pháp thời […]

The post Bầu trời của lịch sử: Hằng Nga first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org 19-2-2019] Trên vùng đất Thần Châu, nền văn minh 5000 năm của dân tộc Trung Hoa là nền văn hóa Thần truyền đặt định cơ sở cho Chính Pháp hồng truyền. Rất nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng hiện nay đã chuyển sinh thành đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp. Trong đó, mọi người đều biết đến truyền thuyết về Hậu Nghệ và Hằng Nga, đời này họ lần lượt bước vào tu luyện Đại Pháp, phối hợp tham gia hạng mục Chính Pháp trong thời gian dài, khởi tác dụng chính diện tích cực trong chứng thực Pháp, cứu độ chúng sinh. Trên thế gian bất cứ sự vật gì đều không tồn tại ngẫu nhiên, phải có nhân thì mới có quả. Hôm nay, tôi muốn kể về một giai đoạn truyền kỳ kết duyên chuyển sinh đời đời kiếp kiếp của Hậu Nghệ và Hằng Nga.

Chương 1

Cách đây 3000 năm, Thương Thang diệt nhà Hạ đóng đô ở Bặc Đô (Thương Khâu, tỉnh Hà Nam), truyền đến đời vua thứ 5 là Thương Hiếu, vua có bảy người con gái, Hằng Nga chuyển sinh thành công chúa cả tên là Vi Cơ, 16 tuổi gả cho Thế Tập Hầu tước Hạo Tử (Hậu Nghệ), sau khi tổ chức đại lễ thành hôn ở kinh đô, nàng theo gia đình chồng về đất phong Triều Ca (Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam), Hầu tước Tử Hạo được phong mấy ngàn mẫu ruộng tốt ở đất Ốc Dã, gia binh gần 5.000 người, đồng thời thống lĩnh đội quân 75.000 người của triều Thương. Lúc đó, dân số triều Thương khoảng 5 triệu người, quân thường trực khoảng 180.000 người, phạm vi địa bàn hoạt động ở vùng trung và hạ lưu sông Hoàng Hà. Kinh tế, văn hóa và quân sự khá phát triển. Các quân vương đời đời nối tiếp nhau dẫn quân chinh chiến khắp nơi, mở mang bờ cõi, lập chiến công huy hoàng. Triều Thương kế thừa văn hóa triều đình trước đồng thời phát triển và sáng tạo ra “chữ Giáp Cốt”. Quân vương triều Thương kính thiên trọng Đạo, thuật bói toán giáp cốt được lưu truyền rộng rãi, các chế tác đồ đồng, đồ gốm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Người thời đó đã trồng cấy thóc gạo để cung cấp cho các gia đình hoàng gia và quý tộc ăn. Lễ nhạc thịnh hành trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt là tầng lớp cao.

Sau khi Tử Hạo và Hằng Nga thành thân được mấy chục năm, một buổi đầu thu hai người cùng ngồi trong đình ở phủ Hầu tước, Tử Hạo nói: “Ta ở thế nhân phúc lộc đầy đủ, nhưng đời người ngắn ngủi, không thể dài lâu, buồn thay!” Hằng Nga nói: “Phu quân là người chí lớn, sao lại nhụt chí như thế?! Nếu đã có nguyện vọng này, thiếp tuy là nữ nhân, cũng biết rõ chỉ có cách tìm tiên nhân tu đạo mới có thể thoát được sinh tử, trường tồn với đất trời”. Tử Hạo nói: “Công chúa nói rất phải, nhưng không biết Thần tiên ở nơi nào mà tìm?” Hằng Nga nói: “Thiếp cũng không biết, hay là tìm Quốc sư coi bói xem?” Hằng Nga bèn sắp xếp chuyến đi trở về kinh thành, tìm Quốc sư triều Thương coi bói, nàng mang về quẻ bói đại khái như sau: Đại Đạo vốn không có đường, cầu Đạo phải chân thành, đến phía tây sẽ gặp pháp duyên, một lòng hướng Đạo ắt sẽ thành. Vậy là Tử Hạo phái rất nhiều gia binh đi về phía tây để tìm kiếm Đạo pháp tiên duyên (phương pháp tu Đạo), bản thân cũng ngày đêm thắp hương thỉnh cầu.

Đầu mùa hè, Tử Hạo cưỡi chiến xa dẫn theo 800 kỵ binh tuần tra khắp vùng đất do ông cai quản, tình cờ gặp một kỳ nhân, thấy người này mặc áo bào đen, tóc bạc, khuôn mặt hồng hào, tướng mạo khôi ngô, hai mắt sáng rực như sao, hoàn toàn khác với người bình thường nơi thế tục. Tử Hạo xuống chiến xa, bước tới trước mặt dị nhân, cung kính hành lễ nói: “Không biết tiên nhân định đi đâu?” Dị nhân đưa mắt nhìn Tử Hảo, ung dung nói: “Vì sao ngươi biết ta là Thần tiên?” Tử Hạo cúi người nói: “Con nhìn tiên nhân khí độ siêu phàm, hai mắt sáng rực, chắc chắn không phải khí chất của người thường, cho nên mới cả gan đến hỏi, mong rằng Thần tiên thứ lỗi. Con có tâm hướng Đạo, khổ sở tìm Đạo mà không gặp, mong Thần tiên hóa độ!” Nói xong lại cung kính hành đại lễ với dị nhân. Dị nhân trầm mặc một hồi rồi nói: “Ngươi là người phú quý, công thành danh toại, vì sao lại cầu Đạo?” Tử Hạo nói: “Đời người ngắn ngủi, không biết đi về đâu, con một lòng hướng Đạo, chỉ mong được giải thoát”. Dị nhân nói: “Theo ta tu Đạo cần phải bỏ hết danh lợi, ân ái ở thế gian, ngươi có làm được không?” “Người tu Đạo nhất định xả bỏ mọi thứ”. Dị nhân nghe xong mỉm cười nói: “Ba ngày nữa hãy đợi ta ở đây, ta chính là Quảng Thành Tử!” rồi quay đầu rời đi. Tử Hạo về phủ giao lại chức vụ triều đình, sắp xếp việc trong nhà ổn thỏa. Trước khi từ biệt, ông đến cổng lớn của phủ Hầu tước, Hằng Nga đứng cạnh cửa, cúi người hành lễ nói: “Phu quân, lần này đi không biết bao giờ mới gặp lại, phu quân hãy bảo trọng! Đợi đến khi phu quân tu thành đại Đạo, xin phu quân hóa độ!” Tử Hạo thần sắc ưu tư trả lời: “Ta nhất định sẽ không phụ kỳ vọng của nàng…”

Tử Hạo (tôi) cưỡi xe ngựa đến nơi hẹn với Quảng Thành Tử, một mạch đi về hướng tây, đến núi Không Động (thuộc tỉnh Cam Túc). Thấy địa thế núi Không Động hùng vĩ, rừng cây bát ngát, sương mù dày đặc, núi non trùng điệp, xanh biếc, mây khói tuôn trào, hoang xơ ít bóng người. Sau khi vào động tiên trong núi hành lễ bái sư xong, Quảng Thành Tử nói: “Môn của ta chính là Tiên Thiên Hỗn Nguyên Tu Đạo Đại Pháp, kế thừa Nguyên Thủy Thiên Tôn, không ai biết được. Pháp đại Đạo, hóa sinh vạn vật, huyền diệu cao thâm, kỳ diệu không thể diễn tả; Pháp tu Đạo, nhiều vô số, huyền diệu cao thâm, mở ra cánh cửa kỳ diệu; Pháp thành Đạo, chủ tể thiên địa, huyền diệu cao thâm, ảo diệu vô tận. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên (Tạm dịch: người tuân theo đất, đất tuân theo trời, trời tuân theo đạo, đạo tuân theo tự nhiên). Tuân theo địa pháp, đức dày tải vật; tuân theo thiên pháp, xoay chuyển càn khôn; tuân theo Đạo pháp, tiêu dao giữa bát hoang vô cực. Đây là thể ngộ của ta, ngươi trước tiên hãy tham khảo, sau này sẽ giảng chi tiết về Đạo pháp”.

Tôi tu luyện ở trong căn nhà đất ba gian dưới núi, sau lại khai hoang một ít đất trồng ngô, ngũ cốc, đậu để ăn. Cứ ba ngày lại lên núi nghe sư phụ giảng pháp một ngày, sau khi trở về thì đả tọa thực tu, ngày đêm, đông hạ hấp thu khí tinh hoa của trời đất. Cách một thời gian phải uống một viên đan dược do sư phụ đặc chế để gia tăng tốc độ tịnh hóa nhục thể, dần dần thần hóa. Đan dược màu đỏ sậm, vị rất đắng, sau khi uống cần kết hợp với phương pháp dẫn khí để lưu thông kinh mạch, cả ngày cả đêm đả tọa hóa giải vận hành của dược lực. Dược lực đến tận cùng lỗ chân lông trên bề mặt da của cơ thể thì bài xuất ra chất keo màu nhạt to cỡ hạt ngô, tùy theo số lần dùng đan dược, loại vật chất này dần dần biến thành chất keo màu trắng trong suốt. Da biến thành trắng nõn, thân thể dần dần trở nên nhẹ. Tôi liên tục nghe sư phụ giảng Đạo, tinh tấn không ngừng, sau 50 năm, thân thể đã có thể nâng lên, bay lên dễ dàng, các loại công năng, pháp thuật cũng triển hiện.

Sư phụ cùng lúc giảng Đạo và dạy ngoại công cho tôi. Sư phụ nói: “Đạo là vật, mờ mờ ảo ảo, Đạo sinh thái cực, bao hàm vạn sự vạn vật thế gian. Trong con người có chính và tà, trong tam giới cũng có tiên và ma, vạn vật đều tuần hoàn trong thiên lý Đạo pháp. Khi có kẻ xấu bắt đầu phạm thiên ý gây họa loạn, cần có người tu Đạo chúng ta thế thiên hành Đạo, duy hộ thiên lý nhân đạo. Từ nay về sau, con sẽ học pháp trừ ma giữ gìn Đạo, ngoài chưởng pháp và kiếm pháp, còn có phép bùa chú. Trong ba pháp này ẩn chứa huyền cơ tạo hóa thiên địa, trong đó có ý lục dã bát hoang cửu cửu quy chân. Ta truyền thụ cho con rất nhiều pháp môn, biết được thuật pháp cũng giống như binh khí. Lúc thi triển pháp hãy nghĩ tới quy luật nhân quả, phổ độ chúng sinh, hãy thận trọng khi sử dụng!” Tôi cúi lạy đáp: “Xin tuân lời tôn sư chỉ dạy”.

Sự phụ truyền thụ cho tôi chưởng pháp có tên là Hỗn Nguyên chưởng pháp, tổng cộng có 6 chiêu 48 đường, khi phát công thì có thể tiêu trừ ma lực âm tà, hóa giải thành khí hỗn độn. Kiếm pháp tên là Độn Thiên kiếm pháp, có 9 chiêu 81 bộ, kiếm pháp cuối cùng cần đạt đến trình độ tay không có kiếm nhưng trong tâm có kiếm, dùng kiếm vô hình, diệt yêu ma không phát ra tiếng động; khi cầm kiếm trong tay, vận chính khí thiên địa chém hạ tất cả âm quỷ. Còn phép bùa chú lại căn cứ theo pháp ra hiệu lệnh, sai khiến chính thần trong thiên địa, tuân theo pháp của thiên địa, bảo vệ chúng sinh trong thiên hạ.

Tôi ban ngày luyện tập chưởng pháp, kiếm pháp và phép bùa chú, cả đêm thì ngồi đả tọa, tinh tấn không ngừng, chỉ nhìn thấy trên núi bốn mùa nối tiếp nhau, năm tháng đổi thay, thời gian trôi qua.

Một hôm, tôi vào động tiên trong núi, sư phụ nói: “Tử Hạo, con có biết con theo ta tu luyện đã bao nhiêu năm rồi không?” Tôi đáp: “Con chưa từng tính, xin sư phụ khai thị”. Sư phụ nói: “Đã hơn 200 năm rồi. Những năm này, đồ nhi tinh tấn không ngừng, ta rất hài lòng, tuy nhiên tu Đạo còn có chỗ khiếm khuyết, con hãy xuống núi đi vân du, giải hết duyên trần, luyện đan dược để bổ trợ cho Đạo pháp, tôi hành lễ nói: “Đệ tử tuân lệnh sư phụ”.

Tôi sửa soạn hành lý, tay cầm Độn Thiên kiếm từ biệt sư phụ, xuống núi một mạch đi về phía đông, sau khi ăn hết lương thực mang theo thì hàng ngày vừa đi vừa xin ăn. Tôi vượt sông Hoàng Hà tiến vào lãnh thổ nhà Thương, thời thế thay đổi, trên đường đi thấy cảnh vật và người đã đổi thay. Đến đất xưa Triều Ca, những chuyện trước kia lần lượt hiện ra trước mắt, nơi từng là phủ Hầu tước xưa kia nay đã trở thành nha môn của triều đình, gia đinh trước cửa ngày trước nay đã là quân lính nhà Thương đứng canh gác. Nghỉ chân một hồi lâu, tôi tiếp tục hành trình về phía đông.

Đến hồ Hồng Trạch, mặt hồ sóng nước dập dềnh, lau sậy ngút mắt, khói nước mênh mông. Tôi ngồi đả tọa trên một tảng đá bên hồ, giữa mùa hè, vạn vật sinh sôi, chim kêu hoa nở, xanh non mỡ màng, tôi dần nhập định thâm sâu, không còn nghe thấy tiếng động. Chợt nghe thấy âm thanh của trẻ nhỏ, nhìn thấy trên bờ hồ có hai, ba đứa trẻ đang nô đùa, một đứa trẻ đi vào vùng nước sâu, đột nhiên một con vật lớn cách đáy nước không xa lao nhanh tới. Tôi lập tức xuất định chộp lấy đứa trẻ khỏi mặt nước, cầm Độn Thiên kiếm đâm vào con vật lớn ở dưới nước, con yêu quái to lớn bị kiếm khí làm bị thương nổi lên khỏi mặt nước, hóa ra là một con trăn lớn, thân của nó dài gần 30 mét, to gần 5 mét. Nó ngẩng đầu nói với tôi bằng ngôn ngữ của loài rắn, phát ra tiếng xì xì, hai mắt lớn mầu đỏ vàng, con ngươi màu nâu sậm. Nhìn thấy tôi đứng bên bờ sông, con ngươi của nó lập tức thu nhỏ lại, tôi lại đâm kiếm lần nữa, con trăn lớn lập tức lặn sâu xuống nước bỏ chạy mất. Tôi đưa đứa trẻ trở về thôn, nghe người dân trong thôn kể rằng những năm gần đây trong thôn thường vô cớ bị mất trâu, dê và cả trẻ nhỏ. Đêm đến tôi quan sát trong định, thấy con trăn lớn này đã tu hành gần 1000 năm, nó được sinh ra ở đầm Vân Mộng phía tây nam (vùng Vân Mộng, Hồ Bắc), dùng yêu pháp làm hại nhân gian, tôi liền dò theo yêu khí tìm đến nơi ở của nó.

Đầm Vân Mộng chu vi gần nghìn dặm, ao hồ sông suối rất nhiều, cỏ cây dày đặc, các loài động thực vật phong phú, trong đó còn có các loài thú lớn như voi, tê giác, hổ… sinh sống. Giờ tý, gió nổi lên, sương khói mênh mang trong đầm. Tôi dùng pháp nhãn nhìn thấy con trăn lớn đang ẩn thân trong một hang động bên núi, khu vực này là nơi hội tụ của các dãy núi, sông sâu nước cả, chằng chịt âm u, âm khí phủ đầy. Tôi đến miệng hang thấy từ trong hang có khí đen tuôn ra, xương trắng chất thành đống, tôi vận thần thông triệu hồn phách của con trăn lớn ra trước mặt, hồn phách của con trăn lớn mang hình dáng một bà lão cao 1,5m, đầu tóc rối bù, quần áo rách rưới, hai mắt đen như mực, mồm đầy răng nanh, móng tay sắc nhọn. Tôi nói: “Súc sinh, ngươi sao lại làm hại dân lành?” Con trăn yêu tinh nói với giọng khàn khàn, sợ hãi: “Tôi ở đây đã 1000 năm, sống cộng sinh với vùng sông nước này, tôi làm vậy chỉ vì tìm thức ăn giữ mạng sống mà thôi”. Tôi nói: “Thiên đạo luân hồi, pháp tắc uy nghiêm, há lại để súc sinh nhà người khinh nhờn, giết người hại mệnh tất phải lấy mạng ngươi”. Nói xong không đợi nó đáp lời, tôi liền cầm Độn Thiên kiếm chém đầu nó, hồn của nó hóa thành một luồng khí đen tiêu tán mất. Tôi lấy hai vật báu trên thân con trăn rồi phong kín cửa động lại.

Sau đó tôi tiếp tục đi vân du, đến núi Tiểu Thất. Tôi tìm một động thần tiên ngồi đả tọa, nhập định thâm sâu không biết đến thời gian. Một hôm tôi xuất định, cảm thấy một âm thanh thăm thẳm trong núi! Xem xét kỹ thì ra là tiếng thở dài của một cây sâm núi gần vạn năm. Tôi đến bên cây nhân sâm, linh thể trong thân cây nhân sâm hóa thành một ông lão cao 1m, mày râu bạc trắng, hành lễ với tôi, nói: “Chân nhân ở đây tu Đạo, vô ý quấy rối tiên nhân thanh tu!” Nói xong lại hành lễ. Tôi nói: “Không sao”. Linh thể của cây nhân sâm nói: “Tôi đã sống trong núi này vạn năm, tham ngộ thiên cơ, nhưng không đắc pháp, quả là đáng tiếc! Không biết tiên nhân có thể chỉ giáo cho tôi không?” Tôi mang nó vào trong động và giảng Đạo pháp cho nó vài ngày. Một hôm, cây nhâm sâm nói: “Đa tạ chân nhân ban pháp, tôi cảm tạ sâu sắc không quên, không đắc Đạo pháp, phí hoài vạn năm. Tôi tuổi thọ đã tận, nguyện mang thân thể ở thế gian dâng cho chân nhân, xin chân nhân độ hóa”. Tôi lại giảng Đạo pháp thiên tiên cho nhân sâm, nhân sâm hành đại lễ từ biệt tôi, vãng sinh vào tầng trời vô sắc giới.

Ngày hôm sau, tôi nhổ thân thể nhân sâm từ dưới đất lên. Cây nhân sâm có ba thân, nặng khoảng 10kg, sau đó tôi thu lượm tất cả các dược liệu cần thiết theo phương pháp luyện tiên đan của sư phụ rồi mang về núi Không Động.

Về đến núi Không Động thì đã đến mùa đông, tuyết rơi dày đặc, vạn vật náu mình, trong núi cũng bao phủ bởi một lớp tuyết trắng, tuyết phủ nghìn dặm. Tôi kể cho sư phụ toàn bộ quá trình vân du, sư phụ cho các dược liệu vào lò luyện, trầm mặc một lúc rồi nói: “Đạo pháp thiên thành! Việc đại thiện trên thế gian, chính là nghiêm khắc tiết chế bản thân hướng Đạo, đây là việc thiện lớn lao. Người tu Đạo có bổn phận diệt trừ yêu ma gây họa, duy hộ thiên Đạo, có cơ duyên đắc được sâm núi vạn năm, thật đáng mừng!” Tôi lấy ra cây sâm, lại lấy ra túi mật và nội đơn của yêu trăn nghìn năm đặt trước mặt sư phụ. Sư phụ xem xong nói: “Túi mật của yêu trăn có thể làm dược liệu chính, có công dụng giúp con người bài trừ tà khí, giải trừ độc tính, giúp tỉnh táo tinh thần; sư phụ lại cầm viên nội đơn màu xanh nhạt nặng khoảng 1kg của yêu trăn lên rồi nói: “Thứ này tập hợp linh khí của trời đất, có thể giải trừ độc tính của trăm loại côn trùng và thú vật. Sau khi dùng Đạo pháp luyện hóa thì có thể sử dụng linh thể ở trong đơn để hộ pháp”. Sau đó sư phụ lại giảng cho tôi phương pháp luyện chế nhân sâm, Đạo pháp luyện hóa nội đơn của yêu trăn. Những ngày tiếp theo ngoài việc hàng ngày tu hành ra, tôi mất 81 ngày dùng các loại dược liệu quý giá luyện chế cây nhân sâm thành 100 viên Cửu Chuyển Huyền Tham, lấy sáp bọc lại; lại mất 3 năm đem hóa luyện nội đan của trăn tinh thành pháp khí, bỏ vào trong hộp gỗ để dùng về sau. Tôi liên tục nghe sư phụ giảng pháp tu Đạo, ở trong núi thanh tu, thanh lọc bản tính, phản bổn quy chân, lánh xa thế tục, đạt đến cảnh giới siêu phàm.

Chương 2

Vật đổi sao rời, thời không biến ảo, thoáng chốc lại qua 200 năm, tôi từ biệt sư phụ xuống núi đi vân du. Vân du đến Đông Hải, biển trời xanh ngắt, sóng lớn vỗ bờ, hải âu bay lượn, trong lòng tôi thấy khoáng đạt. Men theo bờ biển vài ngày, tôi gặp một một cậu thanh niên, sắc mặt xanh xao, môi tím bầm, bước đi lảo đảo, dáng vẻ như người bị trúng độc rất nặng, tôi đến gần hỏi: “Có phải cậu sức khỏe không tốt? Có cần chữa trị không, ta có đan dược cấp cứu của tiên gia, có thể trị khỏi bệnh này”. Cậu thanh niên đó nghe xong hành lễ nói: “Tôi là Thanh Mộc đệ tử của Thái Ất chân nhân, phụng lệnh sư phụ đến Đông Hải long cung mượn pháp khí đỉnh lô (cái vạc), khi quay về bị thủy yêu làm hại trúng yêu độc, đang trở về Tiên Sơn vừa may gặp chân nhân, xin chân nhân cứu giúp”. Tôi liền bắt mạch xem bệnh, lấy ra một viên đan giải độc được luyện chế từ nội đơn của yêu trăn nghìn năm cho anh ta uống, lại dùng trâm bạc trích máu bài độc, điều trị hai ngày thì khí độc trong thân thể tan dần, Thanh Mộc cảm tạ cáo từ tôi rồi trở về núi theo lệnh sư phụ.

Tôi vân du đến núi Thái Sơn. Núi Thái Sơn hùng vĩ tráng lệ, dưới chân núi suối chảy ào ạt, núi cao sông dài, trời cao trong xanh, gió mát hây hẩy, núi đứng sừng sững một mình. Thấy nơi này non xanh nước biếc, mây mù ẩn hiện, khung cảnh thần tiên, là nơi thích hợp để tu Đạo, tôi liền tìm một động phủ trong các ngọn núi của Thái Sơn, đả tọa tĩnh tu ở đó.

10 ngày sau, trong định tôi cảm giác ngọn núi phía đông có oán khí ngút trời, tiếng khóc chói tai, tôi giải trừ định ấn, đứng dậy bay đến đỉnh núi gần đó. Tôi thấy một cô gái trẻ đang đi lên núi, vừa đi vừa khóc, tiếng khóc vô cùng bi thiết, đến đỉnh núi lại khóc to hơn, thấy cô ấy đi đến bờ vực định gieo mình xuống tìm cái chết, tôi bay đến phía sau cách cô ấy mấy trượng, nhẹ nhàng nói: “Cô nương hãy khoan đã, ta có lời muốn nói”. Cô gái trẻ giật mình quay đầu lại, hai mắt trợn tròn, nước mắt lưng tròng, vẻ mặt đầy kinh ngạc hỏi: “Ngài là ai, vì sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Ta là người tu Đạo, ở trong núi tĩnh tu, nghe thấy tiếng khóc bi thiết của cô nương, dường như có oan tình, nên đến đây hỏi”. Cô gái hành lễ nói: “Tiểu nữ đã thất lễ. Tôi sống ở thôn dưới núi, cha mẹ nhận của người họ Triệu 10 lạng bạc để gả tôi cho hắn. Tôi không đồng ý, không nghe theo, nên tìm đến cái chết”. Nói xong cô gái lấy tay bưng mặt khóc thút thít. Tôi nói: “Đạo sinh âm dương, hóa sinh vạn vật, tất cả đều tuân theo pháp tắc thiên lý. Con người sinh ra có số mệnh, tất cả đều có nhân duyên. Thân thể là do cha mẹ ban cho, nên nghe theo mệnh trời, nghe theo lời cha mẹ”. Cô gái ngừng khóc đáp: “Tôi từ khi sinh ra đã ngưỡng mộ Đạo tu tiên, không muốn làm ô uế thân trong sạch, nếu ngài là Thần tiên, xin ngài hóa độ”, nói xong cúi đầu hành lễ với tôi, lớn tiếng nói: “Xin Thần tiên hóa độ!” Trong phút chốc tôi đột nhiên nhớ lại lời hứa 400 năm trước. Nhìn cô gái này tóc đen óng ả, mắt phượng mày ngài, da trắng nõn nà, ánh mắt trong veo như mặt nước mùa thu. Lại dùng thần thông quan sát, cô gái này hóa ra là Hằng Nga chuyển sinh đời sau! Tôi liền nói: “Cô nương có duyên tu Đạo, nhưng căn cơ còn thấp, cần chịu nhiều khổ nạn mới có thể thành Đạo. Hằng Nga nói: “Con xin xả thân cầu Đạo!”

Tôi đưa “Hằng Nga” về sơn động rồi nói: “Người tu hành tất phải xả bỏ những ràng buộc tình ái nơi hồng trần, không lưu lại một chút nào. Xả bỏ hết tâm người thường, khổ tu tinh tấn, vô tâm vô vật, trống không nhập định, phản bổn quy chân, chứng ngộ chân Đạo”. Hằng Nga đáp: “Xin tuân theo lời Thần tiên dạy bảo…” Từ tôi đó hàng ngày giảng Đạo, đến tối khi Hằng Nga đả tọa, tôi tìm một động phủ trên đỉnh núi gần đó đả tọa tu định. Hoa nở hoa tàn, xuân qua hạ đến, vào mùa thu Hằng Nga đi hái quả dại, tìm thấy một con hồ ly nhỏ bị thương, thỉnh cầu tôi chữa trị, con hồ ly khỏi bệnh nhưng không rời đi mà ở lại với Hằng Nga, vì để tâm đến con hồ ly mà Hằng Nga dần dần có chút buông lơi tinh tấn.

Một hôm, tôi thấy Thanh Mộc đến trước động hành lễ nói: “Gia sư Trúc Đỉnh luyện đan thành công, sai Thanh Mộc mang tặng chân nhân một viên tiên đan để cảm ơn ân cứu mạng của ngài hôm đó, viên đan này được Tây Vương Mẫu trên núi Côn Luân ban thưởng ở tiên hội Giao Trì”. Tôi nhìn thấy viên đan này là tiên đan thiên Đạo, người tu đại Đạo như tôi không thể dùng được, liền đem cất viên đan đi.

Đến mùa đông, Hằng Nga đóng cửa động bế quan, ngồi đả tọa tu định trong động, tiểu hồ ly cũng vào trong động, để phòng tiểu hồ ly chết đói, Hằng Nga lén trộm một viên đan nhân sâm vạn năm cho tiểu hồ ly ăn. Sau khi ăn viên đan đó, linh tính của tiểu hồ ly tăng mạnh, cũng có thể tịch cốc điều khí như Hằng Nga. Mùa xuân năm sau, tôi nhìn tiểu hồ ly nói: “Con hồ ly này đã ăn đan dược và điều khí, nó không còn là con vật bình thường nữa, thêm một thời gian nữa nó sẽ trở thành yêu ma làm loạn thế gian, con cũng khó thoát tội!” Hằng Nga vô cùng lo sợ, cầu xin không giết tiểu hồ ly. Tôi thấy tâm người thường của Hằng Nga còn nặng, liền nói: “Phàm phu cõi tục, thất tình đủ cả, mê mất bản tính chân ngã, trầm luân trong biển nghiệp. Người tu Đạo cần thanh tu ngộ chân, xả bỏ chấp trước hồng trần, con còn nặng tình như thế, không phải là hành vi của người tu luyện, làm trái với Đạo, e rằng khó thành chính quả, con xuống núi đi”. Hằng Nga van xin ba ngày không còn cách nào đành rời đi. Nửa ngày sau, tiểu hồ ly đến trước động của tôi, do dự ngập ngừng, thấy tôi nhìn về hướng nó, nó quỳ chân trước xuống đất, vẫy đuôi liên hồi, kêu chít chít gấp gáp. Thấy bộ dạng tiểu hồ ly, tôi hiểu ngay sự tình, liền cưỡi gió bay lên không trung, tới sườn núi trước đây gặp Hằng Nga, nhìn thấy Hằng Nga đứng bên sườn núi.

Tôi gọi lớn tên cô gái, Hằng Nga hờ hững quay đầu, thần thái bi lụy, trên khuôn mặt nhợt nhạt hai hàng lệ lặng lẽ chảy xuống. Khuôn mặt cô giống như bông hoa mảnh mai nở ra trong gió tuyết, vẻ đẹp khiến người ta đau xót. Hằng Nga đột nhiên dứt khoát, quyết đoán lao người nhảy xuống sườn núi. Lúc sắp rơi đến đáy vực, tôi dùng pháp thuật định trụ cô ấy lại, dần dần chầm chậm hạ Hằng Nga xuống đáy vực, tôi đến bên cạnh khẽ gọi tên cô gái, Hằng Nga mở mắt nói: “Con đã chết thật rồi sao?” Tôi nói: “Nợ nghiệp chưa trả hết, không thể rời đi”. Hằng Nga nói: “Ngài đã không truyền pháp cho con, tại sao lại cứu con! Thân thể này không thể tu Đạo, lại để cho tình dục chốn nhân gia ô uế, chi bằng sớm kết thúc sự đau khổ!” Tôi nói: “Con đã chết một lần, nghiệp duyên thế gian đã giảm bớt, có thể chính thức thụ pháp tu Đạo. Vì tội nghiệp đời trước của con chưa sạch hết, không làm như thế thì không thể tiếp tục tu Đạo, bây giờ nghiệp to lớn kia đã tiêu đi, có hy vọng tu thành pháp thiên Đạo”. Hằng Nga vẫn còn hơi nghi hoặc, tôi nghiêm nghị nói: “Còn không mau đứng dậy lên núi tu Đạo …”

Từ đó Hằng Nga bắt đầu quá trình tu Đạo chân chính, cầu xin tổ sư gia trì, uống đan dược khai mạch, đả tọa tu định. Tôi hàng ngày đều tuyên giảng Đạo pháp, không còn tội nghiệp vãng sinh can nhiễu, Hằng Nga trở nên tinh tấn không ngừng, thanh tĩnh tự nhiên, dần đạt đến cảnh giới Phản Phác Quy Chân. Đồng thời tôi còn truyền cho Hằng Nga phép bùa chú, sau mấy chục ngày, Hằng Nga đã vận dụng thông thạo pháp thuật thần thông.

Một năm vào mùa hè, Hằng Nga xuất quan sau mấy năm bế quan đả tọa. Cô tình cờ gặp một phụ nữ trung niên trong sơn cốc, sắc mặt trắng xanh, giữa hai hàng lông mày ẩn chứa sát khí, mặc áo màu xanh đen, váy màu xanh, eo đeo thắt lưng, trên đầu quấn khăn màu lam, lưng đeo gùi trúc, bên trong gùi là một bé gái 7-8 tuổi, trên ấn đường của cô bé tỏa ra khí đen, mặt màu xanh đen, ánh mắt đờ đẫn, u ám. Nhìn y phục không giống như người triều Thương, mà giống như người vùng dân tộc man di ở phía tây nam. Người phụ nữ đó nói bằng một thứ tiếng hán trúc trắc: “Xin hỏi cô có phải là người tu luyện trên núi không?”, Hằng Nga đáp: “Tôi là người tu Đạo trên núi”. Người phụ nữ nói với giọng điệu vui mừng: “Con gái tôi bị bệnh nan y, thuốc bình thường nơi thế gian không thể chữa được, cần dùng tiên đan để cứu mạng. Tôi là thần nữ của “Thần Thiên Môn” ở Tây Nam, nếu được ban cho đan tôi tất sẽ có hậu tạ để bổ trợ đạo pháp tu luyện”. Hằng Nga nói: “Tiên đan quả thật là có, tuy nhiên nó được Thần tiên giữ gìn trân quý, nếu quả thật cần, vẫn phải xin tiên nhân cho phép”. Người phụ nữ nói: “Làm phiền Thần tiên cứu giúp”, nói xong hành lễ nói: “Tôi sẽ ở tạm bên con suối phía sau núi chờ tin vui của cô”.

Trở về núi, Hằng Nga kể lại chuyện này cho tôi, tôi nhập định mở pháp nhãn xem xét xong rồi nói: “Người này là hậu duệ của Xi Vưu thuộc dân tộc man di ở phía Tây Nam, tên là Vưu Lệ Hòa. Từng là “thánh nữ” của Vu Thần giáo. Giáo phái này có quy tắc là thánh nữ cả đời không được lấy chồng. Vưu Lệ Hòa phạm vào sắc giới, đi ngược lại với quy tắc của giáo phái, bị trúng lời nguyền cực mạnh, cô ta đã phản bội giáo phái ra đi, lưu lạc đến đây. Con của cô ta đã qua đời, Vưu Lệ Hòa thi triển vu pháp, nhập vong hồn của con gái vào thân thể, kéo dài sự sống cho con gái bằng tà thuật sát sinh tá mệnh, cô ta đã sát sinh rất nhiều người, thường xuyên bắt cóc trẻ nhỏ để cho vong hồn con gái ăn thịt uống máu. Cô ta đã thi triển vu pháp 38 năm, thi thể của con gái đã bị Vưu Lệ Hòa luyện hóa thành cương thi, đi lại trên mặt đất như bay, sức mạnh to lớn, thích ăn động vật sống, tà pháp hại mệnh, ắt sẽ bị trời phạt. Hằng Nga kinh sợ nói: “Sao con có thể chống lại được?” Tôi nói: “Tà không thể thắng chính, có chính khí ở bên trong, tà không thể làm gì được. Con có Đạo pháp trên người, lại có tổ sư hộ pháp bên cạnh, không có gì lo sợ”.

Thấy Hằng Nga vẫn không chú ý, tôi lại nói: “Người phụ nữ này hành sự độc ác, giảo hoạt, ma lực vu pháp tà ác, con phải cẩn thận! Vưu Lệ Hòa tu tập vu pháp hơn 200 năm, tinh thông các loại tà pháp, lấy mạng người trong phút chốc. Trúng độc của cô ta sẽ sống không bằng chết, đau đớn vô cùng. Có câu rằng mười năm nuôi cổ, trăm năm nuôi hoặc. Cổ chính là chọn các loại côn trùng độc bỏ vào một cái chum để chúng ăn thịt lẫn nhau, cuối cùng chỉ còn lại một con, con đó chính là cổ. Dùng các loại dược liệu nhỏ thêm máu ở ngón giữa của chủ nhân để nuôi dưỡng cổ, rồi lại thi triển vu thuật, sau một thời gian cổ sẽ tương thông tâm ý với chủ nhân, có thể sai khiến như ý. Gồm các loại như độc nga cổ, ngô công cổ (con rết độc) cổ, cáp mô cổ (con cóc độc), âm xà cổ (con rắn độc) v.v.  Còn hoặc là lựa chọn những loài động vật bốn chân vừa mới ra đời như chó, mèo, thằn lằn v.v. để chúng ăn thịt lẫn nhau, đến khi chỉ còn lại một con, mỗi ngày dùng máu tươi của chủ nhân trộn với các loại dược liệu để cho ăn. Đến khi trưởng thành, dùng các loại biện pháp tàn nhẫn để hành hạ nó trong chín ngày, sau đó cho nó dần dần chết đói, dùng tà pháp luyện hóa khống chế hồn phách của nó, sau 100 năm mới hoàn thành. Loại âm linh này cực kỳ hung ác, tàn bạo, sức phá hoại kinh người. Vưu Lệ Hòa đã luyện được linh miêu hoặc, con hoặc trăm năm này mà xuất hiện ở thế gian, nhân gian ắt sẽ có nạn diệt vong. Cô ta còn tinh thông luyện chế thuốc độc và thuốc mê, người thế gian chỉ cần hơi không cẩn thận một chút là có thể gặp nguy hiểm ngay. Vài ngày nữa ta sẽ quay trở về phục mệnh sư phụ, con cần cẩn thận hơn, tịch cốc phục khí ở trong động, đả tọa tu định chờ ta quay về. Nếu gặp nguy hiểm, có thể niệm tên ta, dù ở đâu ta sẽ tức khắc biết được”.

Lúc rời đi, tôi dùng pháp thuật lấy đá phong kín cửa động lại. Hằng Nga đả tọa trong động hơn 100 ngày, dùng công năng cảm nhận trên trời, dưới đất đều không thấy hơi thở của Vưu Lệ Hòa (cô ta ẩn sâu ở trong động dưới đất). Hằng Nga bèn đi ra khỏi động phủ, buông lơi cảnh giác, đi đến bên khe suối, dùng tay vốc một vốc nước, uống vào trong miệng, lập tức cảm thấy có gì khác lạ, đầu choáng váng, Hằng Nga nghĩ trong tâm: Không hay rồi! Lập tức quay về trong động, uống viên đan nhân sâm còn trong động, lúc này đã nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài động, đến rất nhanh. Hằng Nga liền nuốt viên tiên đan được Tây Vương Mẫu ban cho, cương thi con gái của Vưu Lệ Hòa lập tức nhảy đến, Hằng Nga tránh qua, linh miêu hoặc lập tức đi vào động, phi thân cắn vào cổ của Hằng Nga, Hằng Nga vận dụng pháp lực đấu với hai con tà ma. Lúc đó Vưu Lệ Hòa cũng đã vào trong động, vung tay ném nắm bột phấn độc màu vàng đen về phía Hằng Nga, Hằng Nga tránh không kịp, người bị trúng độc, một lúc sau thì thấy trước mắt toàn là màu đen, bèn nhanh chóng niệm tên tôi. Tôi đang tu định ở trong núi Không Động, cảm nhận được Hằng Nga gặp nguy hiểm, liền nâng kiếm vận pháp lực, xuyên vượt thời không, nháy mắt đến cửa động, thấy tình hình nguy cấp liền hét lớn: “Yêu nhân đáng chết!” Vưu Lệ Hòa và cương thi cả kinh, quay đầu nhìn về phía tôi, linh miêu hoặc nhanh chóng nhảy lên không trung, chĩa móng vuốt bổ về phía tôi, tôi giơ kiếm chĩa đến trước người linh yêu, vung kiếm mạnh mẽ chém từ dưới lên trên, tiếp đó một tiếng mèo kêu lên chói tai, linh miêu hoặc đã bị chém thành hai khúc. Tôi vung tay đánh ra một chưởng Cách Không đả xuất thần thông (quả cầu năng lượng hình tròn) vào huyệt bách hội của cương thi, một luồng khí đen từ trong người cương thi xuất ra, cương thi lập tức ngã xuống đất. Vưu Lệ Hòa thấy thế, dường như mất lý trí, điên cuồng chạy về phía tôi, tay trái ném ra một nắm bột phấn độc màu đen, tay phải giơ móng vuốt hướng về phía tim tôi. Tôi tra Độn Thiên Kiếm vào vỏ ở sau lưng, nghiêng người tránh bột phấn độc, tay trái đỡ, tay phải tung chưởng đánh trúng vào huyệt Thiên Trung trên ngực cô ta, Vưu Lệ Hòa lập tức lùi lại mấy bước, tôi bước lên tung một chưởng trúng vào huyệt bách hội, phá trừ hết ma lực tà pháp của cô ta. Vưu Lệ Hòa ngã xuống miệng thổ máu tươi, thấy thế tôi không rút kiếm nói: “Dựa vào tà thuật giết người hại mệnh. Con gái ngươi đã chết nhiều năm, sinh cơ đã hết, dùng tà pháp kéo dài sinh mệnh, làm việc nghịch thiên, làm trái thiên đạo. Hôm nay vì nổi lòng tham, dùng tà thuật mưu hại người tu Đạo, việc ác đầy rẫy, thiên lý bất dung, ta hôm nay thay trời hành đạo, trừ ma diệt yêu, yêu nhân tự lo lấy đi”. Vưu Lệ Hòa thở dài trong phút chốc, thấy tôi đứng yên bất động, liền cựa mình đứng dậy, ôm lấy thi thể con gái, cúi đầu chầm chậm bước đi khó khăn, vừa đi vừa khóc nấc, bóng dáng tiều tụy, cô độc đi xuống núi.

Tôi quay lại trừ độc trị thương cho Hằng Nga, biết Hằng Nga đã ăn nhầm tiên đan tôi nói: “Con đã ăn tiên đan Tây Vương Mẫu ban, bảy ngày sau sẽ bạch nhật phi thăng, Đạo duyên đời này đã hết”. Hằng Nga nghe xong tròn mắt, ngây người, vô cùng hối hận nói: “Vậy con nên làm thế nào thì tốt?” Tôi nói: “Trong mệnh của con phải có kiếp nạn này, vì nuốt đan nhân sâm vạn năm, 700 năm sau con lại tiếp tục Đạo duyên với ta. Hằng Nga thổn thức cảm thán, đêm đến dần dần ngủ thiếp đi, tôi ngồi đả tọa ở cửa động, ánh trăng trong vắt như nước, sương mù bốc lên, tiếng chim nhạn mùa đông bi ai, tiếng gió gào rít. Đến sáng sớm, trong định tôi nhìn thấy Vưu Lệ Hòa ngồi trong động đất ở ngọn núi phía xa, cô ta bỏ khăn quấn đầu ra, rút từ ngực áo ra một chiếc lược, chầm chậm chải mái tóc hoa râm. Chỉ qua một đêm, dung mạo Vưu Lệ Hòa trở nên vô cùng già nua, ánh mắt vẩn đục tối tăm, miệng như đang lẩm bẩm, nghe kỹ thì là một bài dân ca. Nghe lời bài dân ca, tôi phảng phất thấy một thiếu nữ mặc trang phục dân tộc vùng tây nam, ngồi bên dòng suối trong rừng trúc, cất tiếng hát cùng tiếng chim vàng anh lanh lảnh, ước mơ về tương lai. Lời bài hát nói rằng: Gió mùa thu thổi, cánh hoa rơi chầm chậm, rơi xuống dòng suối; mưa thu bay bay, làm ướt trái tim tôi, tràn ngập lòng tôi. Hoa rơi là nỗi lòng của gió thu, mưa thu là tâm tình của tôi, người tôi thương nhớ ơi, chàng giờ này ở đâu? Người tôi thương nhớ ơi, chàng giờ này ở đâu…

Tiếng hát dần dần nhỏ lại, tay cô ta từ từ buông xuống, chiếc lược gỗ rơi xuống đất, nụ cười phảng phất vĩnh viễn đọng lại trên khuôn mặt già nua. Một lúc sau, một thiếu nữ 16, 17 tuổi bước ra từ thi thể, ngơ ngác nhìn về phía trước, lúc này trước mắt cô ta xuất hiện một không gian đen tối, vô số âm linh u ám trôi nổi đang nhìn cô ta, thiếu nữ chầm chậm bước vào không gian “Dị độ”, càng lúc càng xa, rồi biến mất trong bóng tối.

Tôi bất giác thốt một tiếng thở dài! Nhân sinh như giấc mộng, vì tình mà si mê, điên đảo mộng tưởng, mê trong hồng trần, thiên bất lão, tình khó tuyệt. Yêu và hận rối ren như tơ vò, đã dấn sâu vào trong đó, làm sao thoát khỏi tình ái này? Thật đáng thương!

Lời nói xuất phát từ tình, tình xuất phát từ trái tim, trong thời khắc cuối cùng của sinh mệnh cô ta, bài ca từ đáy lòng đó cũng là bài điếu văn cuối cùng tiễn đưa sinh mệnh của cô. Sát sinh tá mệnh, nghịch thiên hành sự, cuối cùng cũng là vi phạm thiên Đạo. Trong tâm vô Đạo, linh hồn không có nơi cư ngụ sẽ không được bình yên, sinh mệnh của cô ta sẽ chìm đắm trong bi thương vĩnh viễn. Thần chết Đạo tiêu, đây chính là lựa chọn của sinh mệnh cô ấy.

Từ hôm đó Hằng Nga không ăn uống đồ ăn của người thường. Từ lỗ chân lông trên da cô bài xuất ra rất nhiều viên tròn dẻo trong suốt hoặc hơi trong suốt, lớp da cũ dần dần bong ra. Đến đêm ngày thứ sáu, động phủ nơi Hằng Nga ở sáng như ban ngày, những tiên nữ dung mạo xinh đẹp mặc áo gấm qua lại mỉm cười, nhục thân Hằng Nga bắt đầu tỏa ra mùi hương thoang thoảng giống như mùi gỗ đàn hương, ngày hôm sau mùi hương ngày càng đậm. Đến sáng sớm ngày thứ bảy, da thịt của Hằng Nga biến thành mịn màng như ngọc trắng Dương Chi, tinh khiết như tuyết đầu đông. Hai con ngươi tỏa ánh thần quang, sáng chói như sao giữa trời đêm. Đến giữa trưa, có ba con chim phượng bay đến đỉnh núi, miệng nói tiếng người: “Chúc mừng chân nhân thành đạo! Cung thỉnh tiên nhân lên tiên giới, chung hưởng thiên phúc!” Hằng Nga đứng dậy bay lên không trung, tôi nói: “Đừng quay đầu lại, đừng khởi niệm ấy, 700 năm sau ta lại tiếp tục Đạo duyên”. Sau đó Hằng Nga và các tiên nữ cưỡi gió bay lên trên trời …

Tôi tiếp tục đi vân du ở thế gian, gặp sao yên vậy, luyện tâm trong hồng trần, đề cao trong tu hành, siêu thoái lưới trần, giữa tạo hóa thiên địa, thể ngộ bản nguyên đại Đạo. Trải qua các loại khảo nghiệm nơi trần thế cuối cùng tu thành Đạo pháp, thời gian tu Đạo tổng cộng 1200 năm thành tựu Đạo pháp, thông hành giữa vũ trụ, biết hết những việc quá khứ tương lai, không gì không thể làm được, cũng không gì không thể có được.

Trong núi không có năm tháng, ngày tháng thần tiên dài đằng đẵng. Trăm năm nơi phàm trần tang thương, như bóng câu qua cửa sổ. Phong vân hội tụ, tôi vận thuật năng Đạo pháp, đoán biết Hằng Nga đã chuyển sinh ở thế gian tám năm, thấy cô chuyển sinh vào vùng đất Thương triều khi xưa, cách Triều Ca không xa. Ở thế gian, thiên tượng đã thay đổi, nhà Chu thay thế nhà Thương đã nhiều năm, chúng sinh nhân gian đã có diện mạo mới.

Tôi đến một cửa tiệm buôn bán, thấy một bé gái mặc quần xanh áo hồng đứng trước cửa, ngước đôi mắt tròn to nhìn tôi không chớp mắt, tôi mở pháp nhãn nhìn bé gái, bé gái nở nụ cười vẫy vẫy bàn tay nhỏ về phía tôi, miệng cười giống như vầng trăng khuyết cong cong.

Tôi thầm nghĩ: Hằng Nga! Nàng và ta lại tiếp tục Đạo duyên…

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/249678

The post Bầu trời của lịch sử: Hằng Nga first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Mayahttps://chanhkien.org/2019/01/bau-troi-cua-lich-su-cai-chet-cua-hoang-hau-maya.htmlThu, 03 Jan 2019 04:48:07 +0000http://chanhkien.org/?p=25523Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện […]

The post Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Mỗi sinh mệnh trên thế gian đều có đặc điểm, đặc tính riêng, giống như mỗi chiếc lá trên cây cổ thụ tươi tốt, tuy hình dạng giống nhau nhưng không thể tìm thấy hai chiếc lá hoàn toàn giống nhau. Ngày nay, mỗi đệ tử Chính Pháp tu luyện nơi thế tục đều có hoàn cảnh tu luyện và trạng thái tu luyện khác nhau, đều chứa đựng nội hàm lịch sử thâm sâu. Trong quá trình luân hồi lâu dài trong tam giới, lịch sử sinh mệnh của mỗi đệ tử Đại Pháp đều nhằm đặt định ra cảnh giới và tố chất mà mỗi đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp cần phải có.

Cách đây khoảng 40.000 năm, người Maya sinh sống và phát triển trên vùng đất rộng lớn, phì nhiêu ở lục địa Nam Mỹ, họ đã xây dựng lên một đế quốc hùng mạnh – đế quốc Maya. Đế quốc Maya là quốc gia nửa phong kiến nửa nô lệ, quyền lực tập trung ở trung ương, có dân số khoảng 45 triệu người. Tín ngưỡng của phần lớn dân chúng giống với tín ngưỡng của người da vàng ở vùng Trung Á và Tây Á ngày nay, đó là Phật giáo, vị Phật mà họ thờ phụng là Phật Tích Lư Già Na. Lãnh thổ của đế quốc rộng lớn bao la, nằm ở trung tâm của cao nguyên Braxin, bao phủ phần lớn các nước Venezuela, Colombia, Peru, Argentina ngày nay. Ngành luyện kim khá phát triển, các thiết bị cơ khí họ sử dụng đa số được làm từ đồng và sắt. Về lĩnh vực chăn nuôi, họ chăn nuôi các loại gia súc lớn như trâu, ngựa, lạc đà, lợn v.v. số lượng lên đến hơn 300 triệu con. Những vùng đất nông nghiệp rộng lớn trồng ngô, lúa mỳ, mía, bông, khoai tây, cà chua, thuốc lá v.v., ngoài ra còn có rất nhiều các loại cây ăn quả nhiệt đới. Ngành hàng hải và ngư nghiệp cũng rất phát triển. Đội tàu lớn của đế quốc thường xuyên vượt biển liên lục địa, ngoài thực phẩm mang trên thuyền, các thuyền viên thường săn bắt những loài cá to như cá voi làm thức ăn.

Các đời vua của đế quốc Maya đều tiến hành chiến tranh với các quốc gia thờ phụng tà giáo ở các châu lục trên thế giới. Các quốc gia tà giáo đa phần đều thờ phụng một loại tà linh có mắt của rắn hổ mang và có cánh.

Vua của đế quốc Maya bấy giờ đã đến tuổi trung niên, nhưng có một điều khiến ông rất khổ tâm đó là ông chưa có con để kế thừa ngôi vua. Do vậy, sau bảy ngày tịnh tâm, gột rửa, ông đến trước tượng Phật cầu xin ban cho một đứa con. Vị vua Maya này đời trước từng là một cư sỹ thiện tâm, ông đã từng cúng dường thức ăn cho một người xuất gia khổ hạnh độc tu. Về sau người tu luyện này vì tâm tranh đấu không bỏ mà không đắc chính quả, chuyển sinh thành vua của đạo A Tu La. Vì xã hội thời đó đạo đức suy đồi, nhân tâm bất chính, tà giáo hoành hành, chúng sinh bị nghiệp lực báo ứng, vua của đạo A Tu La đã chuyển sinh thành con trai của vua Maya, được đặt tên là Hồng Thạch.

Ba năm sau, ngành chăn nuôi và nông nghiệp của Maya được một mùi bội thu, cả trăm năm mới có một lần, cây lúa phần lớn đều trổ hai bông, gia súc phần lớn đều đẻ hai con. Đến đầu mùa thu, một số loại hoa trái mùa vẫn nở rộ. Trong một căn nhà gỗ giữa rừng sâu, ngày nay thuộc lãnh thổ Venezuela, một thai phụ trẻ đang mang thai sắp sinh, liên tục mấy ngày có rất nhiều loài chim màu sắc rực rỡ đậu trên những cành cây quanh căn nhà gỗ hót líu lo ríu rít, còn có hàng trăm động vật nhỏ vây quanh căn nhà gỗ, thấy người trong thôn, chúng cũng không khiếp sợ, dù người dân trêu chọc thế nào chúng cũng không bỏ chạy, tất cả đều giương những con mắt lớn nhỏ chăm chú nhìn vào căn nhà gỗ như đang nóng lòng chờ đợi điều gì. Trong một cái hồ nhỏ cách thôn làng không xa, thỉnh thoảng những con cá lớn nhảy lên khỏi mặt nước, phát ra những âm thanh lớn, người dân trong thôn đều rất ngạc nhiên.

Thai phụ trẻ sinh hạ một bé gái, hương thơm đầy khắp phòng, sau khi bé gái cất tiếng khóc chào đời, các loài chim nhỏ, động vật nhỏ đều cất những âm thanh huyên náo như tiếng reo mừng, một thời gian lâu sau chúng mới dần dần lũ lượt rời đi. Quan lại địa phương biết chuyện lập tức trình báo lên triều đình về hiện tượng dị thường này. Vua Maya cũng rất kinh ngạc, liền tìm đến một vị cao tăng đại đức gần 400 tuổi để hỏi nguyên do. Vị cao tăng nhìn về hướng nơi bé gái vừa được sinh ra, hợp thập nói: “Đây là điềm lành của đế quốc”. Bé gái này là Nguyệt Quang Bồ Tát từ thượng giới chuyển sinh, đến để cứu độ chúng sinh khỏi khổ nạn. Vua Maya hợp thập quỳ trước cao tăng nói: “Đệ tử vẫn còn một vấn đề không hiểu, xin pháp sư chỉ giáo, vì sao khi bé gái đó sinh ra có rất nhiều chim thú tụ tập xung quanh, gặp người mà như không thấy, dù con người trêu chọc cũng nhất quyết không chịu rời đi”. Cao tăng tuy tuổi tác đã cao, lông mày và râu trắng như tuyết, nhưng khi từ từ mở mắt thì ánh mắt sáng rực và mạnh mẽ giống như ánh sao, ông chăm chú nhìn vua Maya nói: “Đó là do Phật tính từ bi, ân đức cảm hóa vạn vật. Những con vật nhỏ này được Phật tính từ bi cảm hóa đến tụ tập xung quanh cô bé, trong ánh hào quang của Phật tính mà cảm thấy thiện lương, hạnh phúc và bình tĩnh, quên hết tất cả sợ hãi”. Cao tăng nói xong khép hai mắt lại và không nói gì nữa, vua Maya cung kính cúi đầu rồi rời đi. Sau khi trở về cung, ông liền hạ lệnh: “Cô bé này sau khi thành niên sẽ trở thành vương phi của Hồng Thạch, triều đình sẽ chu cấp mọi thứ mà cô bé cần dùng, đến khi năm tuổi sẽ được đưa vào chùa của nữ tăng để tu hành, phái các nữ quan có đạo đức cao thượng đến bảo vệ và chăm sóc cho cô bé”, ông đặt tên cô bé là Minh Nguyệt Nhi.

Mười mấy năm sau, vua Maya đưa Hồng Thạch đến chùa của nữ tăng để thăm Minh Nguyệt. Minh Nguyệt nghe tin đã đến tiếp kiến nhà vua. Cô chưa kịp vào phòng đã nghe thấy âm thanh vui tai phát ra từ chiếc ngọc bội cô đeo trên người, đi đến cửa đã ngửi thấy mùi hương kỳ lạ hiếm có ở thế gian thoang thoảng khắp phòng. Sau khi gặp nữ tăng trụ trì và vua Maya, Minh Nguyệt đứng dậy rời đi. Hồng Thạch nhìn Minh Nguyệt không rời mắt, thấy Minh Nguyệt dung mạo thanh tú, dáng người uyển chuyển, thần thái đoan trang, đặc biệt là đôi mắt to mỹ lệ, trong sáng rạng ngời, như biển lớn sâu thẳm, như ánh mặt trời ấm áp. Hồng Thạch dần dần say đắm vẻ mỹ lệ của Minh Nguyệt. Vua Maya quay sang nữ tăng hỏi: “Vì sao trên thân của Minh Nguyệt Nhi lại có mùi hương kỳ lạ đến vậy?” Nữ tăng đáp: “Cô bé ấy từ nhỏ đến nay thân thể luôn tỏa ra mùi hương tự nhiên như vậy, chưa từng trang điểm gì”. Vua Maya và nữ tăng tiếp tục nói chuyện, bàn đến chuyện hôn sự của Thạch Hồng và Minh Nguyệt, chọn ngày lành tháng tốt để Minh Nguyệt và vương tử Maya chính thức thành thân.

Sau khi kết hôn, vương phi Minh Nguyệt sinh hạ một bé gái, Thạch Hồng rất vui mừng khi có cô con gái hoạt bát hiếu động này, mỗi khi xử lý xong chính sự quốc gia, anh thường ở bên cô bé. Bảy năm sau, vua Maya đã già và mắc bệnh qua đời, Hồng Thạch kế thừa ngôi vua, vương phi Minh Nguyệt trở thành hoàng hậu. Việc làm đầu tiên của hoàng hậu là giúp cho Phật giáo được truyền bá rộng rãi trên toàn quốc, cô sử dụng nguồn lực quốc gia để phổ cập văn hóa, giáo dục; gia tăng đãi ngộ phúc lợi xã hội cho dân chúng; thành lập hiệp hội phụ nữ toàn quốc, quan tâm, chăm sóc cho địa vị, cuộc sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ trong xã hội. Cô còn khuyến khích vua Maya hãy lấy đức trị quốc, thống lĩnh thiên hạ. Cô nhiều lần giúp vua Maya xử lý, giải quyết xung đột biên giới, tránh xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia.

Hoàng hậu đối xử với rất từ bi với mọi người, dù các nô bộc trong cung phạm lỗi, hoàng hậu Minh Nguyệt cũng sẽ giảng rõ đạo lý để các nô bộc sửa chữa sai lầm, không tái phạm lại sai lầm nữa. Tất cả những người tiếp xúc với cô đều vô cùng kính phục phẩm cách cao thượng của hoàng hậu Minh Nguyệt. Trí huệ và sự từ bi siêu thường của hoàng hậu Minh Nguyệt đã cảm phục dân chúng toàn đế quốc. Tất cả phụ nữ trong đế quốc Maya đều lấy hoàng hậu Minh Nguyệt làm gương, hoàng hậu ăn chay nên phụ nữ toàn quốc đều dấy lên phong trào ăn chay, mỗi loại trang phục và trang sức mới dù giản dị hay cao quý của hoàng hậu sẽ ngay lập tức trở nên thịnh hành trong giới nữ toàn quốc. Thậm chí dầu tắm gội chế từ thảo dược mà hoàng hậu thường dùng cũng trở thành mục tiêu tìm kiếm của những phụ nữ quý tộc. Nhưng quan trọng hơn là sự từ bi của hoàng hậu Minh Nguyệt đã giáo hóa mọi người phụ nữ thời đó, từ những bé gái cho đến những bà lão tóc bạc đều biết rõ những việc hành thiện của hoàng hậu. Hoàng hậu Minh Nguyệt khơi nguồn cho các phong trào thịnh hành thời đó. Sau khi Hồng Thạch lên ngôi vua đã thực hiện các biện pháp để củng cố thêm quyền thống trị, tăng cường xây dựng quân đội, gia tăng số lượng cấm vệ quân từ 1 vạn người lên đến 4 vạn người, quân đội chính quy thường trực trên toàn quốc tăng từ 40 vạn người lên đến 100 vạn người, quân đội dự bị tăng lên đến 300 vạn người. Tiêu chuẩn tuyển chọn cấm vệ quân là ngoài việc phải được rèn luyện trong chiến tranh và có kỹ năng chiến đấu cực kỳ cao siêu ra thì trước khi được phục vụ chính thức, những người này còn được phái đến những quốc gia đối địch ở Bắc Mỹ, sống tối thiểu một tháng trong hoàn cảnh không có bất kỳ sự chi viện nào của hậu phương, đồng thời phải mang về ít nhất một thủ cấp và vật biểu tượng quân hàm của quân nhân phe địch. Những cấm vệ quân này đa phần là những thuộc hạ A Tu La chuyển sinh theo vua A Tu La.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Các quốc gia tà giáo ở đại lục phương Bắc lo sợ trước sự hùng mạnh của đế quốc Maya, đã tìm mọi cách ngăn cản và phá hoại sự ổn định và phồn vinh của đế quốc Maya. Họ dùng rất nhiều vàng để mua chuộc một tín đồ tà giáo ẩn trong các quan của vương triều, âm mưu đầu độc hoàng hậu nhưng kế hoạch bất thành, họ liền ra tay hạ độc con gái của vua Maya.

Vua Maya biết được sự thật đã nổi trận lôi đình, đem xử tử toàn bộ những người liên quan. Qua nhiều ngày suy nghĩ, vua Maya triệu tập hội nghị quân sự cấp cao. Đứng trước các tướng lĩnh, vua Maya nghiêm túc và trang nghiêm, ánh mắt của ông sắc bén như chim ưng từ từ nhìn qua mỗi cấm vệ quân hung hãn bên mình, nhìn qua từng khuôn mặt của mỗi vị tướng lĩnh chiến công lừng lẫy bên cạnh mình, cuối cùng ánh mắt ông dừng lại trước một vị tướng quân một mắt và bình tĩnh ra lệnh: “Tập hợp toàn bộ quân đội của đế quốc, ban lệnh động viên chiến tranh trên toàn quốc”. Nói xong rời đi, theo sau là đội cấm vệ quân.

Những ngày tiếp theo, vua Maya trước tiên xuất quân bình định các quốc gia ở Nam Mỹ thờ phụng “Dực mãng thần”. Trong chiến tranh, vua Maya đã truyền lệnh tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành: Hễ gặp người chống cự lại thì giết không tha, hễ gặp người tín ngưỡng tà giáo mà không cải biến giết không tha. Sau khi vua Maya mang sư đoàn Hổ Lang của mình bình định toàn bộ Nam Mỹ, ông tập kết gần vạn chiến hạm vượt đại dương và gần 120 vạn quân viễn chinh, với lòng phẫn nộ và hận thù bừng bừng đặt chân lên đại lục phương Bắc (đại lục Bắc Mỹ). Ngoài việc tấn công chính diện, vua Maya còn bí mật phái ba đạo cấm vệ quân, mỗi đội có quân số một vạn người, đi đánh úp thủ đô của ba quốc gia tà giáo chủ chốt ở đại lục Bắc Mỹ, ám sát quốc vương của các quốc gia đó. Mệnh lệnh đặt ra là bằng mọi giá phải thực hiện được mục tiêu chiến lược.

Sau một tháng quân viễn chinh tấn công thẳng vào đại lục Bắc Mỹ, ba đạo quân cấm vệ quân đã tập kích thành công, đô thành của ba nước bị phá hoại thiêu hủy thành tro, chỉ có một vị quốc vương bị trọng thương chưa chết và đã được cứu sống. Quân đội ba nước bị mất đi đầu não chỉ huy thống nhất nên hỗn loạn không chống trả được, bị vua Maya tập trung ưu thế binh lực đánh bại. Đại quân Maya đi đến đâu thì chó gà cũng không còn, thành bang làng mạc đều bị thiêu trụi, trong suốt một thời gian ở đại lục Bắc Mỹ đâu đâu cũng trở thành những vùng đất chết chóc, hoang tàn. Hoàng hậu Minh Nguyệt sau khi biết được tình hình chiến tranh đã lập tức viết thư khuyên nhà vua hãy nhân từ với người dân, khoan dung, tha thứ cho phụ nữ và trẻ nhỏ. Sau nhiều lần khuyên bảo, vua Maya đều không động lòng, vẫn tiếp tục thực thi các chính sách chiến tranh diệt chủng. Sau năm năm, chiến tranh tàn khốc cũng bước vào giai đoạn cuối, vị quốc vương tà giáo cuối cùng đã bị đại quân Maya vây khốn trong một thung lũng, trong lúc hấp hối, ông ta đã cho gọi một thầy phù thủy nắm vững ma pháp hắc ám của ‘Dực mãng thần’ đến và nói: “Ta sẽ dùng tất cả mọi thứ mà ta có để đánh đổi, xin ngài nhất định phải thực hiện nguyện vọng của ta, xin ngài hãy báo thù cho ta và thần dân của ta”. Thầy phù thủy mặc áo bào đen nhìn quốc vương đang hấp hối bằng con mắt đỏ ngầu, chậm rãi gật đầu đồng ý, sau đó quay người biến mất trong dãy núi tối đen. Chiến tranh kết thúc, vua Maya thống lĩnh đại quân A Tu La của mình trở về đô thành ở Nam Mỹ.

Nhà vua quay trở về bên hoàng hậu Minh Nguyệt, nhưng hoàng hậu không biểu lộ một chút vui mừng nào, ánh mắt nghiêm nghị nhìn vua Maya. Vua Maya nhìn vào đôi mắt to mỹ lệ của Minh Nguyệt và hỏi: “Vương hậu, ta đã báo được thù cho con gái chúng ta, đại quân của chúng ta đã bình định được tất cả các quốc gia tà giáo, ta đã trở về bên cạnh nàng, vì sao nàng lại không vui vậy?” Minh Nguyệt đứng dậy hành lễ với vua Maya và nói: “Đại vương, trời cao có đức hiếu sinh, nhưng ngài lại giết hại sinh linh khắp nơi, khiến cho gần 40 triệu người dân ở năm nước bị tàn sát hết, tội nghiệp sát sinh sâu nặng như trời như biển, Thần Phật đã cảnh báo cho thiếp rằng thần dân, con cháu của ngài cũng sẽ bị lời nguyền rủa diệt chủng”. Vua Maya nghe xong, trở nên trầm mặc không nói gì, hạ giọng hỏi lại: “Không có cách nào có thể bù đắp sao?” Hoàng hậu Maya đáp: “Có, thứ nhất là ngài cần phải tích đức hành thiện, không được dẫn quân đi tàn sát sinh linh nữa; thứ hai là cần phải toàn tâm hướng Phật, chỉ có tu Phật mới có thể bù đắp tội lỗi trước đây; ba là thiếp sẽ thỉnh cầu Thần Phật, chúng ta sẽ cùng gánh chịu trừng phạt”. Sau khi nghe xong, vua Maya run run người nhìn hoàng hậu mà không nói được lời nào.

Năm sau đó, vì vua Maya vô đức tàn sát sinh linh, quốc gia của ông đã phải gánh chịu sự trừng phạt của Thần: động đất, núi lửa phun trào; bệnh dịch hoành hành, dân số giảm mạnh; nước biển dâng, khí hậu biến đổi, sản lượng nông nghiệp thấp và mất mùa; gia súc chết rất nhiều, khắp quốc gia đâu đâu cũng đầy mùi tử khí. Tử thần tự do hoành hành trên vùng đất đã từng rất màu mỡ này. Vua Maya ăn ngủ không yên, thân thể tiều tụy, hoàng hậu nhìn thấy cảnh ấy, trong tâm rất đau khổ. Sau khi biến mất trong suốt một tháng, hoàng hậu Maya lại xuất hiện trước mặt nhà vua, dáng vẻ vẫn thuần khiết, dịu dàng, mỹ lệ như lần đầu tiên Hồng Thạch gặp hoàng hậu. Vua Maya vội vàng hỏi: “Những ngày qua, vương hậu đã đi đâu, ta thực sự rất nhớ nàng!” Hoàng hậu lấy cuốn sách dày bằng vải lụa trong tay người thị nữ bên cạnh mình và nói: “Trong một tháng qua, thiếp đã đến nhờ ba vị cao tăng để hỏi xem thần dân Maya sau này còn phải gặp những đại nạn gì, kết hợp với những điều mà Thần Phật đã khai thị cho thiếp biết mà viết thành cuốn sách này, để cảnh báo cho con cháu đời sau của người Maya cách tránh khỏi tai họa. Cuốn sách này ghi chép lại lời tiên tri về những sự kiện sẽ xảy ra liên tục cho đến khi vị Phật Chủ vĩ đại nhất vũ trụ tương lai giáng hạ nhân gian để cứu vớt tất cả sinh mệnh trong vũ trụ, con cháu của người Maya chúng ta cũng sẽ được Phật Chủ cứu vớt, đến lúc đó lời tiên tri sẽ kết thúc”.

Vua Maya nghe xong vô cùng chấn động, ông xem một lượt cuốn sách tiên tri, liên tục mấy ngày ăn ngủ rất ít, tập trung toàn bộ tinh thần xem từng chương từng đoạn của cuốn sách tiên tri. Mấy ngày sau, hoàng hậu Maya lâm bệnh nặng, phải nằm liệt giường không dậy được. Sau hơn chục ngày, vua Maya đến thăm hoàng hậu, vừa ngồi xuống thì thấy hoàng hậu tinh thần tươi tỉnh hơn so với những ngày trước, vua Maya rất vui mừng. Hoàng hậu nói: “Đại vương, thiếp thỉnh cầu ngài giao cuốn sách tiên tri này cho một vị pháp sư đại đức gìn giữ, lưu truyền cho hậu thế”. Vua Maya gật đầu đồng ý. Hoàng hậu lại nói tiếp: “Đại vương, nơi đây sắp trở thành vùng đất bị nguyền rủa, sau khi thiếp qua đời, thỉnh cầu ngài lập tức rời đô để duy trì nòi giống con cháu người Maya”.

Vua Maya nói: “Vương hậu nói gì vậy, nàng sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi”. Minh Nguyệt chỉ khẽ cười, tiếp tục nói: “Đừng vì sự ra đi của thiếp mà bi thương, có thể vì người mà thiếp yêu, vì những người dân mà thiếp đã nhiệt thành yêu mến mà phó xuất sinh mệnh của mình, đối với thiếp thì đó đã là một điều hạnh phúc rồi. Mặc dù biệt ly nhưng sẽ có ngày gặp lại. Ngài sẽ vĩnh viễn sống trong tim thiếp!” Nói xong hoàng hậu Maya chỉ lặng lẽ nhìn vua Maya, ánh mắt của nàng rất chăm chú, như muốn vĩnh viễn khắc ghi hình ảnh của vua Maya trong tim mình. Trong khoảnh khắc, đôi mắt cô phát ra ánh sáng kỳ lạ, cô mỉm cười, nụ cười của cô giống như ánh mặt trời sưởi ấm trái tim của nhà vua. Cứ như thế, hoàng hậu Maya mang theo nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời rời xa tất cả mọi thứ mà cô đã yêu mến.

Sau lễ quốc tang của hoàng hậu, vua Maya rời đô đến đại lục Bắc Mỹ, thuộc địa phận của Mexico ngày nay, xây dựng lại kinh đô mới. Kể từ khi hoàng hậu qua đời, cuộc sống hàng ngày của vua Maya đều chìm trong nỗi nhớ nhung da diết, bất cứ sự việc gì cũng không thể làm ông vui vẻ trở lại. Nhiều năm sau, khi vua Maya đã về già, ông đến quỳ trước tượng Phật, nhớ đến nỗi đau mất đi con gái yêu và hoàng hậu mà không cầm được nước mắt, than rằng: “Phật đà vĩ đại! Con biết con phạm tội nghiệp sâu nặng, con xin thành tâm sám hối trước mặt người vì tất cả những tội nghiệp của con. Con tuy là đế vương, nắm giữ tất cả mọi quyền lực và tài sản trong thiên hạ, nhưng con lại không thể giữ được người mà con yêu! Con không còn muốn làm một con người bình thường nơi trần thế nữa, xin ngài ban cho con trí huệ và sức mạnh để con có thể cứu vãn được sinh mệnh của những người khác. Ngay cả khi con không còn gì cả, con cũng muốn có năng lực cứu người”.

Vài năm sau, vua Maya qua đời, thế hệ sau của ông sinh sống tại đại lục Bắc Mỹ rộng lớn, cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của hoàng hậu Maya được lưu truyền rộng rãi trong những người Maya. Trong số những người lưu truyền cuốn sách các đời sau có một số là người tu luyện trong tôn giáo đã đạt đến cảnh giới rất cao, họ đã thêm một số lời tiên tri của mình vào cuốn sách tiên tri này. Cho đến ngày nay, nhân loại chúng ta thời kỳ này gọi nó là lời tiên tri Maya, trong suốt mấy vạn năm lưu truyền, một số nội dung đã bị mất đi, nhưng những nội dung chủ yếu vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.

13.000 năm sau khi vua Maya qua đời, một vương tộc người Maya nắm giữ ma pháp hắc ám đã sử dụng năng lực thần giao cách cảm của ma pháp để liên hệ với những sinh mệnh đến từ hành tinh Orion, họ đã ký kết với ma giới. Người ngoài hành tinh dùng khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh giúp vương tộc này phát triển quân sự, gây chiến với các nước xung quanh, họ bắt rất nhiều tù binh và các loại động thực vật, cung cấp cho người ngoài hành tinh làm mẫu vật sống nghiên cứu. Ngoài ra, họ còn sử dụng ma pháp hắc ám để kéo dài tuổi thọ cho những người ngoài hành tinh cao cấp. Người ngoài hành tinh cao cấp để tỏ lòng cảm ơn, đã tặng cho vương tộc Maya một chiếc hộp sọ pha lê. Trong tầng nguyên tử của chiếc hộp so pha lê này có lưu trữ lịch sử phát triển của người ngoài hành tinh, một số lý luận và thành quả về vũ trụ mà người ngoài hành tinh tìm hiểu và nhận biết được. Về sau, một số người tu luyện chính pháp thấy rằng hộp sọ pha lê là một phương tiện lưu giữ thông tin rất tốt, nên một số người tu luyện ở cảnh giới cao đã sử dụng khoa học ngoài hành tinh mà con người lúc bấy giờ nắm vững được để chế tạo ra một số hộp sọ thủy tinh nữa, họ dùng công năng đưa những pháp lý vũ trụ mà mình chứng ngộ được lưu vào trong hộp sọ pha lê. Họ dùng chúng làm pháp khí tôn giáo lưu lại cho những người tu luyện hậu thế; cũng có một số hộp sọ pha lê là do đế vương đời sau nhờ các pháp sư trong tôn giáo chế tạo để kỷ niệm những vĩ nhân hoặc một thời kỳ lịch sử đặc thù nào đó trong quá khứ.

Chỉ có 13 hộp sọ pha lê được lưu truyền đến ngày nay. 13 hộp sọ pha lê này được những người khác nhau chế tạo trong các thời kỳ khác nhau với các mục đích khác nhau. Người Maya ký kết giao ước với người ngoài hành tinh đã phát triển gần 5000 năm, họ muốn dùng khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh để thoát khỏi sự khống chế của người ngoài hành tinh nhưng họ đã bị người ngoài hành tinh tiêu diệt hoàn toàn bằng vũ khí biến đổi gien và vũ khí hạt nhân. Trước khi họ bị tiêu diệt, căn cứ cuối cùng của họ ở khu vực trung và hạ lưu sông Amazon.

Năm tháng vô tình. Hôm nay sau hàng vạn năm, hoàng hậu Maya đã chuyển sinh thành một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp, cô vẫn thừa hưởng vẻ đẹp mỹ lệ truyền kỳ thời tiền sử, chỉ là đôi mắt to đẹp luôn u sầu, bất cứ ai từng gặp cô đều không khỏi chấn động trước khí chất của cô, thân thể cô vẫn tỏa ra mùi hương rất kỳ diệu như trước đây. Cô tích cực tham gia các hạng mục Chính Pháp của đệ tử Đại Pháp và đạt hiệu quả rất tốt. Vua Maya cũng là một đệ tử Chính Pháp, anh ấy thực sự có được năng lực cứu người mà Đại Pháp ban cho, nhưng cũng đúng như thệ ước của anh: đời này anh đúng là không có gì cả, chỉ có năng lực cứu người. Có lúc hồi tưởng lại từng giai đoạn sinh mệnh mà đồng tu đã trải qua trong lịch sử, quả thực khiến người ta cảm xúc thăng trầm, xúc động tận tâm can.

Đứng từ giác độ con người ngày nay để tìm hiểu lịch sử, chúng ta không còn thấy được đế quốc Maya hùng mạnh đã từng xuất hiện tại đại lục Châu Mỹ nữa, chỉ có thể qua một số di tích cổ đại mà cảm nhận được sự huy hoàng của thời đại Maya tiền sử. Tôi phảng phất nhìn thấy những cung điện hùng vĩ, những tường thành, cột trụ và lăng mộ, dường như vẫn đứng sừng sững qua những năm tháng lịch sử đau thương, hiển hiện cho chúng ta thấy sự phồn hoa năm xưa.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/118575

The post Bầu trời của lịch sử: Cái chết của hoàng hậu Maya first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạohttps://chanhkien.org/2018/12/bau-troi-cua-lich-su-tu-luyen-dong-chu-dai-dao.htmlWed, 26 Dec 2018 03:44:31 +0000http://chanhkien.org/?p=25519Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Lời dẫn Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những […]

The post Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Lời dẫn

Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ, được Sư tôn từ bi chăm sóc, chỉ trong vòng mấy chục năm tu luyện ngắn ngủi có thể có hi vọng tu thành đạo, so với họ thì chúng ta quả là vô cùng may mắn.

Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

Phần thứ nhất

Vào những năm cuối thời Đông Chu, vua quan vô đạo, chư hầu cát cứ, quần hùng tranh giành Trung Nguyên. Thiên tai, nhân họa hoành hành, dân chúng thống khổ, lầm than.

Tôi chuyển sinh vào một gia đình nô lệ ở vùng núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khi mới lớn lên, 12 tuổi tôi phải chăn dê cho nhà chủ. Vào mùa hè trong một trận mưa bão, số lượng đàn dê bị thất lạc quá nửa, vì sợ bị đánh phạt nên tôi không dám về nhà chủ nữa. Khi lên núi tìm đàn dê, tôi bị lạc trong rừng sâu, đi bộ ba ngày, vừa đói vừa giá rét, tôi ngã gục dưới một gốc cây cổ thụ. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ trong bụi rậm, ngoảnh đầu lại thấy một con mãnh hổ trắng đang tiến lại gần. Nó chuẩn bị nhe nanh cắn tôi, bỗng nhiên có một người quát: “Lục Nhi, dừng lại”, con hổ trắng ngoan ngoãn chạy về nơi phát ra tiếng nói và nằm phủ phục ở đó.

Một kỳ nhân mặc trang phục kỳ dị từ trong bụi rậm đi ra. Nhìn thấy tôi nằm dưới gốc cây, người đó hỏi: “Cậu bé, tại sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Cháu làm mất đàn dê của ông chủ nên phải vào rừng tìm dê, cháu bị lạc trong rừng đã ba ngày rồi”. Vị kỳ nhân búi tóc cao trên đỉnh đầu và cài một cái trâm bằng trúc, ông nói: “Hãy theo ta”. Thế là tôi đi theo ông ấy vào rừng, con hổ trắng cũng đi theo hai người chúng tôi. Đi được nửa ngày, chúng tôi đến một căn nhà cỏ tranh ở giữa rừng, căn nhà có hai phòng. Kỳ nhân lấy nước cho tôi, rồi sắp xếp chỗ ngủ cho tôi. Con hổ trắng đứng ở ngoài cửa không vào trong, nó cứ nhìn tôi tỏ vẻ hiếu kỳ. Một lúc lâu sau, nó vẫn nằm ở cửa và quan sát tôi. Kỳ nhân bước vào trong phòng, rồi hỏi tôi: “Cháu bé, cháu tên gì?” Tôi đáp: “Cháu không có tên”. Kỳ nhân trầm mặc suy nghĩ, ánh mắt lóe lên, nói: “Ta là Thần tiên, con và ta có duyên. Con có thể ở lại đây để tu luyện thành tiên, nếu con không muốn, ta có thể đưa con trở về nhà”. Tôi nghĩ: “Mình làm mất của chủ nhân 74 con dê non, nếu quay về thì thể nào cũng bị chủ nhân trách phạt, sống chết thế nào còn chưa biết, mình quyết sẽ không quay về”. Tôi đứng dậy hành lễ với kỳ nhân, tôi quỳ xuống nói: “Thưa Thần tiên, con quyết không trở về, xin ngài thu nhận con làm đồ đệ, con nguyện đi theo Thần tiên”. Kỳ nhân vuốt râu, mỉm cười nói: “Được, ngày mai ta sẽ thu con làm đồ đệ. Con không phải sợ con hổ này, con hổ này tên là Lục Nhi, nó cũng là Thần thú”. Kỳ nhân vẫy tay với Lục Nhi, con hổ đi vào phòng và bước đến trước mặt ông, ông chỉ tay vào tôi và nói với con hổ rằng: “Đây là đồ đệ của ta, ngươi hãy chăm sóc cho cậu ấy”. Con hổ như hiểu tiếng người, quay người bước đến dựa vào tôi biểu thị sự thân thiết, tôi rất vui mừng, lấy tay vuốt lưng nó, nó cũng dịu dàng dụi đầu vào tôi.

Ngày hôm sau, sư phụ chính thức thu nhận tôi làm đồ đệ, sau khi tôi bái tổ sư của các thời đại, hành đại lễ với sư phụ, sư phụ nói: “Pháp môn tu luyện của chúng ta là pháp môn Vô Cực của Tiên Thiên Đại Đạo. Vũ trụ bản nguyên hỗn độn gọi là vô cực; sau đó sinh ra vân khí gọi là hữu cực; thanh khí (khí tốt) thăng lên, trọc khí (khí xấu) hạ xuống gọi là thái cực, thái cực sinh ra vạn vật… Ta là chưởng môn đời thứ 374 của pháp môn Vô Cực, pháp hiệu là “Tịnh Huyền”, con là đệ tử đời thứ 375, pháp hiệu là “Đạo Minh”, hãy nhớ kỹ!” Sư phụ lấy ra một thanh kiếm màu đen đưa cho tôi và nói: “Kiếm này có tên là ‘Tịch Thiên Kiếm’, có nghĩa là khai thiên tịch địa. Kiếm mà ta sử dụng mang tên ‘Thánh Thiên Kiếm’, có nghĩa là thánh kiếm mà thánh nhân sử dụng để thay trời hành đạo”. Sư phụ nói tiếp: “Pháp môn chúng là pháp môn tính mệnh song tu thượng thừa của Đạo gia. Trước tiên con phải tu luyện ngoại công bổ trợ cho nội lực. Ta sẽ truyền cho con Ngũ Hành quyền”. Sư phụ lấy một viên đan màu đỏ đưa cho tôi uống và nói: “Sau này cứ một tháng uống một viên. Đan dược này ta đã dùng các dược liệu quý của thiên hạ, mất gần 100 năm mới luyện thành, nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, nâng cao tố chất thân thể. Người thường dùng ba viên có thể sống thọ đến trăm tuổi. Sau khi uống vào, tôi cảm thấy bụng ấm nóng, rồi dần dần lan ra khắp tứ chi, không còn cảm thấy buồn ngủ và đói nữa.

Ngày tiếp theo, sư phụ dạy tôi Ngũ Hành quyền. Buổi chiều, Lục Nhi bắt được hai con thỏ rừng, tôi nhặt một ít củi khô, hầm chín thịt thỏ và mời sư phụ cùng ăn, sư phụ nói: “Ta không ăn”. Ông lấy một viên đan dược hòa với nước uống, sau đó vào trong phòng ngồi đả tọa không nói gì. Tôi lại mang một ít thịt ra ăn cùng với Lục Nhi, nhưng nó cũng không ăn, ăn xong tôi đi ngủ. Cứ như thế, tôi luyện quyền và luyện trạm trang hơn 100 ngày, sư phụ lại dạy tôi một số phương pháp đả tọa điều tức. Vài ngày sau, sư phụ dựng một cây cọc gỗ lớn trước nhà cỏ, sau đó gọi tôi đến và nói: “Con cần luyện thông kinh điều tức, không được để bị can nhiễu, cũng không được cử động, nên ta phải trói con lên cây cọc gỗ này để phòng bất trắc. Tôi đặt chân song bàn, lấy vải buộc lại, hai tay kết ấn, thân trên buộc chặt vào cọc gỗ. Sư phụ nói: “Ta đi vào núi sâu tìm thuốc, ba ngày sau sẽ về”, nói xong nhẹ nhàng bay đi. Chỉ còn Lục Nhi ở lại nằm ngủ say bên cạnh.

Cứ cách năm ngày tôi lại phải luyện song bàn thông kinh ba ngày như thế. Lúc đầu không đủ sức duy trì được, sau đó có thể duy trì được, cuối cùng không còn cảm thấy khổ nữa. Ban ngày thì luyện tập ngoại công trạm trang, đến chiều và tối cũng không ngơi nghỉ, lại ngồi đả tọa điều tức, tuy không ngủ nhưng tinh thần lại rất phấn chấn.

Năm thứ hai tôi đã luyện tập thành thục Ngũ Hành quyền, sư phụ lại dạy tôi thương pháp 13 đường.

Năm thứ ba Sư phụ bắt đầu dạy tôi luyện tập kiếm pháp, kiếm pháp này có tên là “Ngự kiếm thuật”, phân thành hai bộ là “Thủ kiếm thuật” và “Thần kiếm thuật”. Thần kiếm thuật tức là dùng thần thông để điều khiển kiếm từ khoảng cách xa diệt trừ yêu quái.

Hàng ngày, ngoài việc dạy ngoại công và điều tức, sư phụ còn giảng pháp lý tu Đạo về vận hành kinh mạch trên thân thể, sự chuyển vận của các ngôi sao, những bí mật về các hành tinh, mối liên hệ giữa thân thể người và tự nhiên, các quan hệ đối ứng giữa chúng; làm thế nào để đồng hóa, thuận theo tự nhiên.

Tám, chín năm sau, tôi luyện ngoại công ngày càng thành thục, pháp lực thần thông cũng dần dần triển hiện.

Một ngày nọ, sư phụ nói: “Con vào núi theo ta tu Đạo đã được gần 10 năm, ngoại công đã bắt đầu có thành tựu, từ hôm nay cần phải trú trọng vào điều tức định lực. Sinh mệnh vạn vật vì Đạo mà sinh, không có Đạo sẽ vong. Nhân pháp địa, trầm trầm bất động, vi địa tiên; nhân pháp thiên, lãng lãng không minh, vi thiên tiên; nhân pháp đạo, nhất thiết tẫn vô, tắc vi thần tiên (Người thuận theo pháp của đất, thâm trầm ổn định, chính là địa tiên, người thuận theo pháp của trời, sáng sủa minh không, chính là thiên tiên, người thuận theo đạo, hết thảy vô vi, thì chính là thần tiên).

Thuận theo định lực tăng trưởng, mỗi lần tôi có thể ngồi đả tọa liền mấy ngày không ăn không uống, thân thể và tinh thần vẫn an định, khỏe khoắn. Một vài năm sau, vào mùa đông, tôi cùng Lục Nhi mang da lông động vật và các loại thảo mộc xuống chợ dưới chân núi để đổi lấy lương thực và dầu. Khi quay về, đi qua một làng ở trên núi, Lục Nhi có biểu hiện bồn chồn khác thường, tôi nghĩ ở làng này chắc chắn có yêu quái. Đi vào làng, tôi được biết gần một năm nay trong làng bị hồ tinh quấy nhiễu, đã có bảy nam thanh niên bị hồ tinh hại chết. Nhớ đạo pháp mà sư phụ dạy phải thay trời hành đạo, diệt trừ tà yêu, duy trì đạo lý của con người, tôi cùng Lục Nhi yên lặng chờ đợi trong núi. Nửa đêm canh ba, từ phía tây nam có một làn yêu khí màu xanh bay vào trong làng, đến trước cửa một ngôi nhà trong làng, làn yêu khí tụ lại thành hình một thiếu phụ, xuyên qua tường đi vào trong nhà. Tôi và Lục Nhi nhanh chóng tiến đến trước cửa và quát lớn: “Yêu nghiệt dám gây họa loạn nhân gian, còn không mau ra chịu chết”. Một lúc sau, nghe thấy tiếng đẩy cửa, một mỹ nhân mặc y phục màu trắng đứng trước cửa, một tay chống nạnh, một tay cầm một cây trùy gỗ, định nói gì đó. Đột nhiên, Lục Nhi gầm lên một tiếng rồi lao lên phía trước, người phụ nữ áo trắng nhìn thấy tình hình bất ổn, quay đầu lập tức hóa thành một làn khí xanh, bỏ chạy về phía tây nam. Tôi rút Tịch Thiên kiếm phóng lên không trung, rồi vận pháp lực điều khiển Tịch Thiên kiếm bay nhanh đuổi theo, tôi nghe thấy trong không trung một tiếng kêu bi thương, lần theo âm thanh, tôi thấy Lục Nhi đang đi quanh con hồ ly lông màu bạc bị thương, liên tục gầm gào. Con hồ ly bị trọng thương chỉ còn thoi thóp. Tôi thu lại Tịch Thiên kiếm, bỏ con hồ ly vào túi, mang về cho sư phụ xử lý.

Sư phụ nhìn nó rồi nói: “Thật tội nghiệp, con yêu hồ ly này đã tu luyện 1300 năm, cũng là linh vật. Chỉ tiếc là không đi theo chính đạo, lại hấp thu tinh huyết của con người, làm hại chết bảy người, gây tội nghiệp”. Sư phụ thở dài, giao cho tôi mang con yêu hồ đã chết này đi chôn phía sau núi. Ngày hôm đó, Lục Nhi hưng phấn lạ thường như được ban cho chức tướng quân vậy, nó lắc đầu vẫy đuôi, đi qua đi lại trước mặt tôi.

Những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong núi thấm thoắt lại qua bốn năm nữa. Một hôm, sư phụ gọi tôi vào trong nhà cỏ, thần sắc nghiêm trang nói với tôi: “Đồ nhi, con theo sư phụ tu Đạo đã được 20 năm, đã có một chút thành tựu, đã đến trạng thái bách mạch giai thông. Nếu muốn trường sinh bất tử, tiêu diêu trong vũ trụ thì còn phải đi vân du thế gian, nếm trải đủ mọi nỗi khổ trên thế gian, ma luyện tâm tính, thì mới của thể có thành tựu Đại Đạo”. Tôi hợp thập đáp: “Con xin tuân theo mệnh lệnh của sư phụ”. Sư phụ nói tiếp: “Đi vân du thế gian không thể đi một cách bình thường. Thứ nhất là phải đi xin ăn, không được xin nhiều, mỗi ngày chỉ ăn một bữa; thứ hai là không được thuê nhà trọ, không được ở nhà người thường và đền miếu; thứ ba là thời gian đi vân du là 81 năm. Đồ nhi, con có yêu cầu gì không?” Tôi đáp: “Con không”. Sư phụ nói: “Con về chuẩn bị lên đường đi”. Tôi đáp: “Vâng”.

Thế là tôi bắt đầu 81 năm vân du khổ tu.

Phần thứ hai

Từ biệt ân sư, tôi xuống núi đi vân du. Từ xa xa tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng gầm kéo dài của Lục Nhi, phảng phất nhìn thấy hình ảnh của Lục Nhi lưu luyến lúc chia tay.

Ngày thứ hai đi vân du, tôi vào một thôn sơn. Ngôi làng đổ nát thê lương, những người dân bị thổ phỉ cướp hết sạch của cải trong cảnh chiến tranh loạn lạc, xác chết đầy đường. Con người nơi nhân thế làm nhiều việc ác, nghiệp lực luân báo không bao giờ kết thúc. Điều này càng khiến tôi thêm kiên định tu Đạo. Không có gì ăn, tôi đành phải vào rừng tìm quả dại và rau dại ăn tạm. Ăn xong, tôi tìm một nơi kín gió ngồi đả tọa nhập định. Ngày hôm sau, trời đổ mưa, gió lạnh thấu xương, quần áo tôi ướt hết, tôi vẫn bất động, ba ngày sau tôi xuất định tiếp tục lên đường. Thời tiết dần dần trở nên mát mẻ, thu qua đông tới, những ngày mùa đông ở phương bắc lạnh lẽo khác thường, nước đóng thành băng. Từ sáng đến tối, gió tuyết ngày càng mạnh hơn, tôi nhìn xung quanh mờ mịt, không một bóng người, tôi ngồi trong tuyết tu luyện thiền định. Quần áo mỏng manh, phải chịu đựng đói rét. Tôi vận công điều hòa mạch lạc vài lần, rồi tiến nhập vào trạng thái nhập định thâm sâu, trong thân có đạo pháp, cái lạnh không thể cản trở nổi tôi. Mười mấy ngày sau tôi xuất định. Sau nhiều ngày bão tuyết, tuyết đã cao đến ngực tôi, chỉ có đầu ở trên mặt tuyết, sau này may mắn được người có duyên tặng cho cái áo bông, chịu khổ cực đợi đến mùa xuân. Lời ân sư dạy bảo luôn khắc ghi trong tâm tôi, tôi chưa bao giờ gián đoạn việc tập luyện công pháp, ngày qua ngày tiến bộ không ngừng.

Chớp mắt 20 năm vân du nơi nhân thế qua đi như cơn gió thổi. Tôi đi vân du tới cao nguyên Quý Châu, tại đây tôi gặp những người nước ngoài, xin ăn không được bao nhiêu lại còn chịu nhiều lời nhục mạ. Tôi tự nhủ trong tâm rằng: “Ta là người tu Đạo, một nửa là thần, không thể giống như người phàm tục được, nếu ta tranh cãi với họ thì chẳng khác chi người phàm tục, đạo pháp sẽ mất hết”. Nghĩ vậy tôi không để tâm đến họ nữa.

Đến tam phục (thời kì nóng nhất trong năm), tôi ở trong rừng trúc hóng mát. Một cô gái người nước ngoài đi qua mỉm cười hỏi thăm tôi, tôi đứng dậy hành lễ. Trước khi đi, tôi tìm một nơi yên tĩnh, luyện một lượt Ngũ Hành quyền và kiếm pháp, ngồi đả tọa điều tức đến chiều tối, rồi đi vào trong làng xin ăn. Nhìn thấy một ngôi lầu trúc, tôi đến gõ cửa, vừa hay là cô gái người nước ngoài gặp buổi sáng. Nhận ra tôi, cô ấy cho tôi rất nhiều đồ ăn, còn giới thiệu tôi với lão phu nhân và rất nhiều người. Sau khi ăn xong tôi lập tức rời đi, trở lại rừng trúc đả tọa nhập định tu luyện. Buổi trưa hôm sau, cô gái người nước ngoài đến trước mặt tôi, dùng hán ngữ nói với tôi: “Tôi là giáo chủ Thần Nữ giáo, anh có thể ở lại bản giáo làm rể không? Giáo chúng của Thần Nữ giáo của tôi cũng nguyện cung phụng tiên nhân”. Nghe cô gái nói những lời ấy, tôi lập tức nói: “Tôi là người tu đạo khổ tu, phải giới sắc, cảm ơn ý tốt của giáo chủ”. Giáo chủ Thần Nữ vẫn không đi, kiên trì ở lại thuyết phục, tôi không nói gì và cũng không cử động, đột nhiên cô ấy lấy từ trong túi ra một nắm thuốc bột ném lên không trung, tôi vội nín thở, ra tay điểm huyệt vào lưng cô ấy, tôi đứng dậy mang cô ấy về lầu trúc, hành lễ rồi rời đi.

Vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi nên thiếu rất nhiều con trai để kế tục hương hỏa, nên tình huống này cũng hay xảy ra.

Người tu luyện phải giữ nghiêm giới luật, bài trừ sắc tâm. Nếu ở lại nhân gian sống cuộc sống của con người thì chính là người thường trong nhân gian, khí huyết khô kiệt thì phải chết, phải luân hồi trong tam giới, ở trong biển khổ vô tận, không thể giải thoát bản thân.

Hoa nở hoa tàn, năm này qua năm khác, mọi thứ đều hóa thành tro bụi. Đạo pháp của tôi ngày một tinh thâm, đã hiểu thấu nhân duyên của vạn sự trên thế gian. Một lần nhập định thâm sâu có thể nhập định vài năm, vài năm ngồi bất động như núi. Thời gian trôi qua như chớp, đông qua hè tới, vân du thế gian đã bình yên qua 20 năm.

Một hôm, tôi đi vân du đến vùng duyên hải Triết Giang. Vùng đất này sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, ít xảy ra chiến tranh loạn lạc, trong chợ người người mua bán tấp nập. Tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ kêu khóc. Mọi người bàn tán: “Con của chị ta chơi trên bãi biển, đột nhiên bị một cơn sóng lớn cuốn đi, chị ta vì mong mỏi nhớ con mà trở nên điên điên rồ rồ như vậy”. Người ta lại nói: “Ở bờ biển dạo này có nhiều trẻ con bị bắt cóc, không biết vì sao”. Nghe mọi người nói, tôi nhìn về phía biển, vận dụng pháp nhãn thông trông thấy khí đen đầy trời, thấy một con giao long (là loài lai giữa hải long và giao long ở sông) chuyên ăn thịt trẻ con. Vào lúc nửa đêm, tôi đến bờ biển, dùng thần thông bắt con giao long ra khỏi mặt nước. Con giao long phủ phục dưới mặt đất, tôi hỏi nó: “Tại sao ngươi lại bắt trẻ con ăn thịt? Gây tội họa loạn nhân thế tất sẽ bị trời phạt!” Con giao long khẽ đáp: “Chân nhân có thể không biết đó, ngư dân vùng này gây tổn hại nghiêm trọng cho thủy tộc của tôi, lần này tôi đến đây chính là để đòi nợ”. “Nhân quả có quy luật, thiên lý rõ ràng, ngươi cũng không nên làm như thế. Nếu bắt trẻ con như thế, tất sẽ bị trừng phạt”. Giao long trả lời: “Tôi sẽ làm theo chỉ dạy của chân nhân”. Giao long chầm chậm lặn xuống nước. Ba ngày sau, nó hóa thành một đạo sĩ đi tới bờ sông, nói dối mọi người rằng: “Ba năm hạn hán ở đây là do ngư dân vùng này đã giết hại rất nhiều thủy tộc nên bị trời trách phạt. Phải cúng một đôi đồng nam đồng nữ cho Long vương thì mới có thể thoát tội”…

Tôi tu luyện thiền định trong núi, nhìn thấy con giao long  tính ác không hối cải, liền cầm Tịch Thiên kiếm định truy sát nó. Nhưng nhớ tới lời ân sư từng nói: “Yêu tà gây họa loạn nhân thế thì phải giết. Nhưng đối với long tộc thì khác, phải giao cho Thiên đình xử lý, vì đa phần chúng được Thần bảo hộ”. Tôi bèn dùng pháp lực bắt lấy nó, giao cho thiên thần trên Thiên đình thẩm tra xử lý. Nhờ vậy mà Thiên đình biết rõ căn nguyên và cử thiên nhân hỗ trợ.

Vài chục năm sau, tôi vẫn chuyên cần tu Đạo, Đạo pháp phát triển không ngừng. Có người ở Sắc Giới Thiên đến cầu pháp, tôi đã giảng Đạo pháp cho chúng tiên ở Sắc Giới Thiên một thời gian. Lại có rất nhiều thiên nhân đến cầu pháp, đáp ứng không xuể. Chúng tiên có ý muốn tôi lưu lại ở Thiên cung cùng chúng tiên hưởng thiên phúc. Tôi nghĩ trong tâm rằng Sắc Giới Thiên vẫn ở trong tam giới, vẫn phải nhập lục đạo luân hồi, không phải là vĩnh cửu, chỉ là tạm hưởng thiên phúc, khi thiên phúc hưởng hết thì vẫn phải xuống địa ngục, cũng không thể vĩnh viễn bất tử, vẫn nên rời đi. Tôi từ biệt chúng tiên trở về nhân thế, tiếp tục đi vân du khổ tu. Năm này qua năm khác, thời gian như thoi đưa, tính ra đi vân du cũng đã nhiều năm, cũng sắp đến thời hạn mà ân sư định ra rồi. Tôi lại đi vân du đến Hoa Sơn, tìm một động tiên để nhập định thâm sâu. Trong định, thân và tâm của tôi đều biến mất, tất cả mọi thứ hữu hình, vô hình trên thế giới đều biến thành hỗn độn, chỉ còn là hỗn độn vô tận.

Mấy năm sau, đã đến thời hạn, tôi xuất định chuẩn bị trở về theo ý lệnh của sư phụ. Bỗng nhiên nghe thấy ngoài động có tiếng của sư phụ: “Đồ nhi, sư phụ đến rồi”. Tôi vội ra ngoài động hành lễ với sư phụ. Sư phụ nói: “Đồ nhi, con đã vất vả rồi. Vô Cực pháp môn của chúng ta là tu luyện Đại Đạo. Tổ sư di huấn rằng: thế gian mỗi 800 năm mới xuất hiện một người đại đức có thể truyền thừa pháp môn đạo pháp của ta, cần phải khổ tu trăm năm mới có thể thành đạo. Tương lai, đệ tử của con 800 năm sau sẽ giáng sinh ở Hoa Sơn, hãy nhớ kỹ! Thời hạn ta định đã đến”. Nói xong sư phụ đơn thủ lập chưởng hành lễ với tôi nói: “Chúc mừng chân nhân thành đạo”. Trong nháy mắt, tôi cảm giác mình biết được mọi điều về quá khứ và tương lai, lên trời xuống đất không nơi nào không thể đi… Đây thực sự là đắc đạo rồi. Tôi thấy trên không trung mây trắng bồng bềnh, hương thơm lan tỏa khắp nơi, những cảnh tượng kỳ diệu chốn thần tiên hiện rõ ràng trước mắt. Có câu thơ rằng:

Chứng quả thánh nhân

Khán thế gian phong khởi vân dũng, tuế nguyệt thương tang,

Ngộ thiên cơ thần hành tự tại, vạn cổ trường tồn.

Tạm dịch:

Nhìn thế gian gió mưa vần vũ, trải qua năm tháng tang thương

Ngộ ra thiên cơ, tự tại trên con đường thành Thần, vạn cổ trường tồn.


Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/55568

The post Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thànhhttps://chanhkien.org/2018/11/bau-troi-cua-lich-su-cong-chua-van-thanh.htmlFri, 09 Nov 2018 04:52:06 +0000http://chanhkien.org/?p=25501Tác giả: Thiện Dũng [ChanhKien.org] Phần thứ nhất Núi Thần Sơn Thánh Hồ trên cao nguyên Thanh Tạng là núi Thần được thế giới công nhận, đồng thời được Phật giáo Tạng truyền, Ấn Độ giáo, tôn giáo nguyên thủy Tây Tạng coi là trung tâm của thế giới. Trong những năm Trinh Quán triều […]

The post Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Phần thứ nhất

Núi Thần Sơn Thánh Hồ trên cao nguyên Thanh Tạng là núi Thần được thế giới công nhận, đồng thời được Phật giáo Tạng truyền, Ấn Độ giáo, tôn giáo nguyên thủy Tây Tạng coi là trung tâm của thế giới. Trong những năm Trinh Quán triều Đường, quân vương Tùng Tán Cán Bố của vương triều Thổ Phồn đã nổi dậy ở tại lưu vực sông Nhã Lỗ Tàng Bố. Sau khi thất bại trong việc xâm phạm biên giới Đại Đường, ông đã dâng thư lên Thiên triều Đại Đường xin chịu tội và cầu hôn công chúa Đại Đường, hy vọng có thể có thể bang giao hữu hảo, thuận hòa với Đại Đường. Thái tôn hoàng đế Đại Đường vì muốn ổn định biên cương, vì muốn nhân dân hai dân tộc Hán-Tạng tránh khỏi lầm than bởi chiến tranh, đã chọn từ trong hoàng thất ra Lý Uyển Nhi, một cô công chúa dịu dàng, đài các, đoan trang, phong cho công chúa hiệu là Văn Thành, để kết hôn với vua nước Thổ Phồn. Trước lúc lên đường, công chúa Văn Thành đến kim điện ở hoàng cung khấu tạ ân điển của hoàng thượng. Thái tôn hoàng đế nói: “Văn Thành, con đi Thổ Phồn chuyến này đường xá xa xôi, trách nhiệm nặng nề. Là công chúa của Thiên triều mà lại gả cho Thổ Phồn, hãy nhớ trách nhiệm của con là giữ cho hai nước bang giao hữu hảo, hoằng dương văn hóa của Thiên triều, giáo hóa dân tộc man rợ. Con hãy đừng để tâm đến được mất của cá nhân, hãy nên đặt hạnh phúc của bách tính Thổ Phồn và Thiên triều ở trong tâm. Ta sẽ phái vua của thành Giang Hạ và tùy tùng tiễn con vào Tây Tạng. Văn Thành, con còn mong cầu gì không?” Văn Thành đáp: “Con xin đa tạ ân điển của Thánh thượng. Văn Thành không có mong cầu nào khác, con sẽ dốc hết sức để báo đáp long ân của phụ hoàng…”

Công chúa Văn Thành đi vào Tây Tạng cùng với đội tùy tùng đưa dâu vô cùng long trọng, thiên tử Đại Đường ban cho cô rất nhiều của hồi môn và tư trang quý giá. Trong đó có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni màu vàng đến nay vẫn được thờ cúng tại Đại Chiêu tự ở Lạp Tát (vùng đất của Thần). Đoàn tùy tùng đi theo công chúa Văn Thành vào Tây Tạng còn có các văn sỹ, nhạc sỹ, nông dân, thợ kiến trúc lành nghề của Đại Đường v.v.. Công chúa Văn Thành phải trèo đèo, lội suối cực khổ hàng tháng trời mới đến được tỉnh Thanh Hải nơi đầu nguồn của con sông Hoàng Hà. Vua Thổ Phồn đã chờ đợi công chúa ở đó một thời gian dài, bị thu hút bởi vẻ đoan trang, cao quý của công chúa, vua Thổ Phồn lập tức cho tổ chức đại hôn lễ tại kinh thành Lạp Tát. Nhân dân tưng bừng ca hát, nhảy múa chúc mừng hôn lễ, cả kinh thành tràn ngập niềm vui.

Thời gian trôi đi, công chúa Văn Thành hàng ngày tỉ mỉ chăm chút cho cuộc sống của Tùng Tán Cán Bố, nàng tự mình nấu các món ăn của Đại Đường và may các y phục của Đại Đường. Khi Tùng Tán Cán Bố ăn các món ăn tinh tế do đích thân công chúa nấu, khoác lên thân những y phục của Đại Đường, trong tâm ông vô cùng kinh ngạc, từ đó càng thêm kính trọng và yêu thương nàng công chúa đến từ Thiên triều này. Công chúa Văn Thành cũng thường dạy chữ Hán cho Tùng Tán Cán Bố, lúc quốc vương không bận việc triều chính, công chúa thường chơi đàn tỳ bà cho Tùng Tán Cán Bố nghe những khúc nhạc của triều Đường, kể cho Tùng Tán Cán Bố những giai thoại của Trung Nguyên, khiến cho Tùng Tán Cán Bố bị cuốn hút sâu sắc bởi văn hóa triều Đường. Công chúa Văn Thành quan sát tỷ mỉ cuộc sống của dân chúng Thổ Phồn, rồi đề xuất các kiến nghị hợp lý giúp vua Thổ Phồn điều hành quốc gia. Trước khi Tùng Tán Cát Bố đưa ra những quyết sách trọng đại quyết định vận mệnh của quốc gia, công chúa Văn Thành đều đóng góp những ý kiến chân thành và phù hợp, giúp vua Thổ Phồn trị vì tốt quốc gia. Tuy được Tùng Tán Cán Bố tin tưởng nhưng công chúa không cầu công danh địa vị, mà vẫn thiện đãi những thần dân xung quanh, mang lại nhiều lợi ích cho quảng đại dân chúng Tây Tạng, nhờ vậy mà cô nhận được sự ủng hộ của đa số các đại thần của vương triều Thổ Phồn.

Vẻ đẹp và trí tuệ của công chúa Văn Thành khiến cho đại phi (vợ cả) của Tùng Tán Cán Bố vô cùng đố kỵ, bà ta đã dùng rất nhiều tiền để mời hai pháp sư hãm hại công chúa. Vì công chúa chính khí lẫm liệt, từ bi, lương thiện, nên được thiên thần bảo hộ. Đại phi không những không thể làm hại được công chúa, mà bản thân còn bị Thần linh trừng phạt, bà đột nhiên mắc một căn bệnh quái ác, ban ngày bà thường thấy những ác quỷ vây xung quanh, ban đêm thì cả đêm không ngủ được, ngày một suy nhược, thời gian dài hô hấp khó khăn như có gì đó nghẹn trong họng. Công chúa Văn Thành biết chuyện đã hỏi ý kiến quốc y của Thiên triều đi theo mình. Quốc y nói: “Loại bệnh này dễ chữa, nhưng thuốc dẫn thì khó tìm!” Công chúa nói: “Xin hỏi cần loại thuốc dẫn gì?” Quốc y nét mặt tỏ vẻ miễn cưỡng, công chúa lại thúc giục, ông đành trả lời rằng: “Cần dùng máu của kim chi ngọc thể (con gái nhà quyền quý) làm thuốc dẫn”. Công chúa trầm tư rời đi, không bao lâu sau quay lại mang theo một bình máu nhỏ và nói: “Ta là công chúa, là kim chi ngọc thể, có thể dùng máu của ta làm thuốc dẫn, xin quốc y điều chế để trị bệnh cho đại phi”. Đại phi nhờ có thuốc dẫn mà bệnh tình mau chóng thuyên giảm, khi biết được nguyên nhân khỏi bệnh của mình, bà nước mắt đầm đìa, vội đến chỗ của công chúa xin tha tội. Công chúa nói: “Chúng ta là chị em, lẽ nào không nên giúp đỡ nhau, em hy vọng chị có thể nhanh chóng khỏi bệnh”. Đại phi cảm động không nói nên lời.

Từ khi công chúa vào đất Tạng sinh sống, để giúp công chúa sớm thích nghi với cuộc sống ở cao nguyên, vua Thổ Phồn đã ban cho nàng hai tỳ nữ. Trong đó có một tỳ nữ vì cha mắc trọng bệnh không có tiền chữa trị nên đã lấy trộm một ít trang sức bằng vàng của công chúa để chữa bệnh cho cha. Sự việc sau đó bị bại lộ, theo pháp luật của vương triều Thổ Phồn, nếu nông nô lấy trộm vật quý của chủ nhân thì sẽ bị lột da. Công chúa Văn Thành với lòng từ bi đã tha tội cho tỳ nữ đó, công chúa còn phái thầy thuốc chữa bệnh miễn phí cho cha cô ấy. Đó là hai sự việc được lưu truyền rộng rãi trong người Tạng.

Cứ cách vài tháng, công chúa lại đi vi hành đến các gia đình người Tạng để tìm hiểu những nỗi khổ của họ, quan tâm đến đời sống của họ, đồng thời dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ họ. Đức hạnh cao thượng của công chúa khiến dân chúng Tây Tạng đều xem công chúa là người trời.

Thời ấy, ở Thổ Phồn có một tập tục xấu là nếu cha mẹ già yếu, không có khả năng lao động thì con cái có thể bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã, phó mặc cho tự sinh sống và tự chết. Công chúa Văn Thành khi đi vi hành gặp sự việc này rất lo lắng, nàng đến nói với Tùng Tán Cán Bố rằng: “Thưa Tùng Phổ (Đại vương), đất nước chúng ta vì sao có thể lập quốc?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Nhờ Phật Pháp”. Công chúa lại hỏi tiếp: “Vậy tại sao lại vứt bỏ cha mẹ ở nơi hoang dã không ai chăm sóc, giương mắt nhìn cha mẹ chết có phải là tàn nhẫn không?” Tùng Tán Cán Bố trả lời: “Tập tục này đã có từ thượng cổ, sinh tử luân hồi, con người chết đi thì cuối cùng cũng trở về với cát bụi”. Công chúa nói: “Cha mẹ sinh ra ta, nếu không hiếu thuận với cha mẹ, không phụng dưỡng cha mẹ lúc già cả thì có khác chi loài cầm thú? Thần Phật sáng tạo ra vạn vật, vạn vật đều tuân theo quy tắc của nó, mọi thứ đều phải thuận theo thiên lý. Nếu làm trái với thiên lý, làm sai việc nhỏ thì một người sẽ phải chết, làm sai việc lớn thì một quốc gia sẽ diệt vong, từ xưa đến nay đã có rất nhiều bài học về điều này. Người xưa có câu: Quân vi thần cương; Phụ vi tử cương; phu vi thê cương (ý nghĩa là người trên ‘quân, phụ, phu’ phải chăm sóc, bảo vệ, bao dung người dưới ‘thần, thê, tử’), đó là luân lý của con người, nếu không tuân theo đạo làm người thì không phải là con người, tất sẽ bị trời diệt. Quốc gia như vậy cũng là đi ngược lại với thiên ý và cũng không thể trường tồn. Xin Tùng Phổ suy nghĩ kỹ, lệnh cho thiên hạ từ nay trừ bỏ đi tập tục xấu này. Trên là thuận với thiên ý, dưới là hợp với lòng dân, có như thế vương triều của chúng ta mới có thể thiên thu vạn đại”. Vua Thổ Phồn trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Lời của công chúa rất phải, ta sẽ tức khắc ban bố pháp lệnh, người già trong gia đình cần phải được an hưởng tuổi già, con cháu cần phải tận tình chăm sóc cho đến lúc lâm chung”. Do công chúa dùng chính lý của Phật Pháp cứu được rất nhiều người nên ngày càng được thần dân yêu mến, kính trọng. Trong thời gian ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã phái thợ thủ công tham gia thiết kế, xây dựng Đại Chiêu Tự và Tiểu Chiêu Tự. Đồng thời, công chúa còn phái những người nông dân của Thiên triều đã cùng theo mình vào Tây Tạng dạy người Tạng cách khai hoang, cày ruộng, gieo trồng, nuôi tằm dệt vải. Những kỹ năng này đã giúp cải thiện cuộc sống của người Tạng. Vua Thổ Phồn tiếp thu ý kiến của công chúa, phái con cháu dòng dõi quý tộc đi sứ sang Đại Đường, đến kinh thành Trường An để học tập văn hóa triều Đường mang về Thổ Phồn. Trong 40 năm sống ở đất Tạng, công chúa Văn Thành đã nỗ lực hết sức nâng cao các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự của Thổ Phồn, giúp Thổ Phồn trở thành một quốc gia biên giới vô cùng quan trọng bảo vệ lãnh thổ Đại Đường.

Công chúa Văn Thành sau khi vào đất Tạng đã góp phần cải thiện rất nhiều mức sống và chất lượng cuộc sống của người dân Thổ Phồn, thúc đẩy xã hội Thổ Phồn phát triển, củng cố vùng biên thùy của Đại Đường. Dân chúng Tây Tạng coi công chúa như Thần tiên. Sau khi công chúa qua đời, dân chúng Tây Tạng đã lập miếu thờ tưởng niệm công chúa tại Thanh Hải Ngọc Thụ, thành phố Lạp Tát và nhiều nơi khác, các miều thờ vẫn được duy trì đến ngày nay.

Phần thứ hai

Trong lịch sử 5000 năm Hoa Hạ, từng màn kịch lịch sử lớn diễn ra trên vũ đài Trung Nguyên lần lượt hạ màn, các nhân vật trong màn kịch người buồn kẻ vui, người sống kẻ chết, tất cả cuối cùng đều tan biến theo khói mây lịch sử. Hôm nay, 1300 năm sau khi công chúa Văn Thành đến đất Tạng, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp thế giới, rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử giờ đã trở thành đệ tử Đại Pháp. Trong một cơ duyên trùng hợp, tôi gặp một đồng tu tên là Hồng Liên (hóa danh), khi chia sẻ với cô ấy, tôi thấy được chính tín kiên định của Hồng Liên đối với Sư phụ và quá trình tu luyện Chính Pháp mà cô ấy đã trải qua, điều này khiến tôi chấn động sâu sắc.

Hồng Liên đắc pháp ngày 27/7/2000, ngày 29/9/2000 cô đã bắt đầu bước ra giảng thanh chân tướng trực diện và phát tài liệu Đại Pháp cho người dân. Sau khi Hồng Liên và đồng tu mở pháp hội giao lưu chia sẻ, cô cho rằng mình nên đến Bắc Kinh hộ Pháp. Nhưng cô còn lo lắng vì mình đắc Pháp muộn, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Đại Pháp. Các đồng tu khích lệ cô ấy: “Tâm cô thuần tịnh như vậy chắc chắn sẽ không có vấn đề gì đâu, Sư phụ sẽ gia trì cho cô”. Thế là Hồng Liên hạ quyết tâm cùng bốn đồng tu giăng biểu ngữ tại quảng trường Thiên An Môn vào buổi trưa ngày 1/12/2000 để chứng thực Đại Pháp. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp tại trại giam Triều Dương, Bắc Kinh. Trong thời gian bị giam giữ phi pháp, cô dẫn dắt các đồng tu tuyệt thực để kháng nghị việc bị bắt giữ phi pháp, cảnh sát sai các nữ tội phạm hình sự đánh đập tàn bạo các nữ đệ tử Đại Pháp. Vì để bảo vệ đồng tu, cô nói với họ rằng: “Chính tôi đã bảo mọi người tuyệt thực, các cô đừng đánh họ, hãy đánh tôi đây này!” Một nữ tội phạm hình sự nói: “Chúng tôi không đánh cô, chúng tôi phải đánh họ, tôi không ưa họ”, nói xong bốn nữ tội phạm hình sự không ngừng đánh vào mặt và đầu của một nữ đồng tu. Thấy tình huống nguy cấp, Hồng Liên gọi một nữ tội phạm hung ác nhất đến và nói với cô ấy đạo lý thiện ác hữu báo, chân tướng về Đại Pháp… Sau khi hiểu rõ sự thực, nữ tội phạm cảm động nói: “Nể mặt Hồng Liên, chúng ta đừng đánh nữa”. Trận bức hại này đã dừng lại. Trong các hoàn cảnh khác, Hồng Liên cũng nhiều lần bảo vệ các đồng tu, cuối cùng cô tuyệt thực, không chịu để tà ác bức thực, phản đối giám thị, không mặc áo tù, không làm lao dịch, cô liên tục giảng chân tướng Đại Pháp, chính niệm mà phá trừ bức hại của cựu thế lực, nhờ đó cô đã đường đường chính chính bước ra khỏi động quỷ.

Tháng 10 năm 2001, vì bị người xấu bán đứng, Hồng Liên bị tịch biên tài sản và bị đuổi việc, cô buộc phải sống lưu lạc, cô tham gia các công việc Đại Pháp ở vùng khác và đạt hiệu quả rõ rệt. Không may là do đồng tu có sơ hở bị cảnh sát lần ra tung tích, xông vào nơi ở Hồng Liên và đồng tu. Đồng tu tâm sợ hãi lớn, sau khi trốn thoát đã khóa mất lối ra duy nhất, khiến cho Hồng Liên không cách nào thoát thân. Tâm của cô trở nên rất nặng nề, nhưng cô lập tức lấy Pháp lý của Đại Pháp điều chỉnh lại tâm thái, quay lại đường đường chính chính đối diện với cảnh sát. Sau đó cô bị giam giữ phi pháp ở trại giam tà ác nhất trong vùng, hắc lao này được xem là nơi đạt 100% tỷ lệ chuyển hóa đệ tử Đại Pháp. Những hành vi bức hại tàn khốc đối với các đệ tử Đại Pháp ở trong hắc lao này đã nhiều lần được vạch trần trên internet.

Trước khi bị thẩm tra, Hồng Liên xuất ra một niệm cường đại: Tà ác không thể nhắc đến hai chữ “chuyển hóa” với ta, ta phải giảng chân tướng Đại Pháp cho chúng. Liên tục nhiều lần thẩm tra, Hồng Liên bằng tâm thái từ bi, không oán không hận đã nói cho cảnh sát về vẻ đẹp của Đại Pháp. Tất cả cảnh sát đều im lặng chăm chú nghe chân tướng Đại Pháp, lần nào cũng kết thúc cuộc thẩm tra bằng việc giảng chân tướng. Cuối cùng cảnh sát trong vùng phải thông báo cho công an ở nơi cư trú của Hồng Liên, họ đã cử ba người đến nơi Hồng Liên bị bắt giữ phi pháp để xác nhận thân phận của cô. Vì Hồng Liên liên tục nhiều ngày tuyệt thực, không phối hợp với cảnh sát, khiến họ thất bại trong việc chuyển hóa cô, cảnh sát ở quê nhà của Hồng Liên nói: “Người này thân phận không rõ ràng, chúng ta không chịu trách nhiệm, không quản được cô ấy”. Thế là cảnh sát trại giam giao Hồng Liên cho trạm trục xuất, tuy đã tuyệt thực nhiều ngày nhưng cô vẫn từ bi giảng chân tướng Đại Pháp cho những người mà cô gặp. Buổi trưa hôm sau, cảnh sát ở trạm trục xuất chỉ nói với Hồng Liên một câu: “Cô đi đi”. Vậy là đến ngày thứ chín, dưới sự từ bi coi sóc của Sư tôn, Hồng Liên đã được phóng thích vô điều kiện. Nhưng nhiều đồng tu cùng bị bắt với cô đã bị kết án phi pháp lên đến trên 10 năm, tối đa bị kết án 18 năm. Hôm đó là ngày 23/7/2002, khi đó Hồng Liên mới đắc Pháp vỏn vẹn hai năm.

Tháng 4 năm 2004, Hồng Liên trở về quê nhà nơi cô đã xa cách nhiều năm. Để cứu độ chúng sinh, phá trừ bức hại của cựu thế lực về kinh tế, Hồng Liên bắt đầu một quá trình khó khăn giảng chân tướng để được quay trở lại đơn vị công tác. Trải qua bốn tháng giảng chân tướng kiên trì không nản và liên tục tu chính bản thân, cô đã khiến cho đơn vị công tác cũ từ lãnh đạo cấp cao cho đến đa số các đồng nghiệp xung quanh minh bạch chân tướng Đại Pháp, cuối cùng đã phá trừ được tầng tầng ngăn cản và bức hại của cựu thế lực, Hồng Liên chính thức được trở lại vị trí công tác cũ với mức lương không thay đổi, và còn được truy lĩnh tất cả số tiền lương trong thời gian cô phải đi lưu lạc. Đồng thời thông qua quá trình giảng chân tướng, Hồng Liên còn giúp những đồng tu khác tại đơn vị công tác cũng bị bức hại đòi được tiền lương đã bị lấy mất.

Hồng Liên cũng thường xuyên giúp những đồng tu bên cạnh mình viên dung hoàn cảnh gia đình, khai sáng hoàn cảnh tu luyện trong gia đình của họ. Một lần một đồng tu vì bình thường làm việc không lý trí mà không viên dung được hoàn cảnh gia đình, khiến cho người nhà không thể lý giải được Đại Pháp, thậm chí công kích Đại Pháp, lên mạng bôi nhọ Đại Pháp. Sau khi biết chuyện, Hồng Liên lập tức quyết định tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời đồng tu và gia đình đến, phá trừ những hiểu lầm của người nhà đồng tu đối với Đại Pháp, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh.

Trong bữa tiệc, người nhà đồng tu hỏi Hồng Liên rằng: “Các cô tu luyện Đại Pháp mà sao ích kỷ thế, làm việc nhà thì cẩu thả, nói năng bất thiện, điên điên rồ rồ?” Hồng Liên từ bi, ôn tồn nói: “Người tu luyện giống như đi học vậy, chúng tôi chắc chắn có chỗ tu chưa tốt, mong mọi người thông cảm. Chúng tôi có điểm nào chưa tốt cũng mong mọi người tha thứ! Sư Phụ của chúng tôi dạy chúng tôi phải vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã. Bây giờ chúng tôi chưa làm được, nhưng tương lai nhất định sẽ làm được, bởi vì chúng tôi đang không ngừng tu chính bản thân. Mọi người hãy yên tâm, chúng tôi sẽ làm được tốt. Chỉ cần chúng tôi làm theo yêu cầu của Đại Pháp thì nhất định sẽ khiến cho mọi người hài lòng”. Sự đoan chính, thiện lương cùng cử chỉ, lời nói lễ phép của Hồng Liên đã gây ấn tượng cho người nhà của đồng tu, chính niệm của cô đã thay đổi cái nhìn không tốt của người nhà đồng tu đối với đệ tử Đại Pháp, giúp đồng tu có một hoàn cảnh tu luyện tốt hơn.

Chính niệm chính hành của Hồng Liên thể hiện trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt, từ ăn mặc, đối nhân xử thế, thói quen sinh hoạt, thói quen làm việc đều khiến những người xung quanh và đồng tu khen ngợi. Sự từ bi, lương thiện, quang minh chính đại, chính niệm kiên định vào Đại Pháp của cô đã khích lệ các đồng tu xung quanh, cải biến nhận thức của đồng nghiệp, bạn bè, người thân quanh cô về Đại Pháp. Cô rất ít nói, nhưng lại khiến cho mọi người cảm thấy cô rất thiện lương và cao thượng. Trong khi chia sẻ, tôi hỏi Hồng Liên: “Vì sao cô có thể làm được như vậy?” Hồng Liên đáp: “Kiên định tin vào Sư Phụ, tin vào Đại Pháp! Tôi là một lạp tử của Đại Pháp, tôi nên làm những việc ấy, đó cũng là những việc tôi phải làm”. Nghe xong lời ấy, tôi bất giác xúc động rưng rưng nước mắt. (Trên đây chỉ là một phần quá trình tu luyện mà Hồng Liên kể lại cho tôi)

Nhìn nụ cười rạng ngời của Hồng Liên, tôi phảng phất trông thấy Văn Thành, nàng công chúa lặng lẽ cầu nguyện cho chúng sinh trong ánh nắng ban mai. Cô giống như bông tuyết liên nở rộ trên cao nguyên, lặng lẽ tỏa hương thơm ngát. Khoảnh khắc thần thánh ấy sẽ tồn tại vĩnh viễn trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử, vĩnh viễn tồn tại trong ký ức của tôi…

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/68526

 

The post Bầu trời của lịch sử: Công chúa Văn Thành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>