Văn hóa Thần truyền | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnSat, 23 Nov 2024 08:08:09 +0000en-UShourly1Tây Du luyện tâm (3): Lập đoàn tụ nhóm cùng đi thỉnh Kinhhttps://chanhkien.org/2024/11/tay-du-luyen-tam-3-lap-doan-tu-nhom-cung-di-thinh-kinh.htmlFri, 22 Nov 2024 02:21:16 +0000https://chanhkien.org/?p=35010Tác giả: Liễu Duyên [ChanhKien.org] Theo tôi, nói một cách thẳng thắn thì Đường Tăng và ba đồ đệ của ông lập thành nhóm đi thỉnh Kinh chính là kiểu mối quan hệ hợp tác phối hợp giữa chủ nguyên thần và phó nguyên thần của người tu luyện. Đường Tăng là chủ nguyên thần […]

The post Tây Du luyện tâm (3): Lập đoàn tụ nhóm cùng đi thỉnh Kinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Liễu Duyên

[ChanhKien.org]

Theo tôi, nói một cách thẳng thắn thì Đường Tăng và ba đồ đệ của ông lập thành nhóm đi thỉnh Kinh chính là kiểu mối quan hệ hợp tác phối hợp giữa chủ nguyên thần và phó nguyên thần của người tu luyện.

Đường Tăng là chủ nguyên thần thấy việc nghĩa thì dốc sức thực hiện, nhưng vì ông làm chủ tải thể nhục thân nên rơi vào thế gian. Đã có thân xác thịt phàm tục này cùng với một đôi mắt mê mờ thì bản tính bị vật chất bao phủ, cái gì cũng không rõ ràng, năng lực cũng phải phù hợp với Pháp lý của không gian này, bị kìm hãm đến mức gần như bị phong ấn, không còn bản sự gì nữa. Đường Tăng trở thành người vô năng nhất, nhưng lại phải dẫn dắt ba vị đồ đệ rất có năng lực – cũng chính là phó nguyên thần. Bởi vì Pháp được truyền cho chủ nguyên thần, nên phải là chủ nguyên thần nói mới tính, phó nguyên thần dù có năng lực lớn đến mấy cũng chỉ là hộ pháp, phải chịu sự khống chế của chủ nguyên thần, vai trò chính là được phân như thế. Nếu ngươi không phục thì hãy buông bỏ hào quang của Thần và bản lĩnh, tự đi mà làm chủ nguyên thần mê mờ đó. Trầm mê trong hồng trần sâu vạn trượng, còn không biết có được thức tỉnh để quay về hay không, nguy hiểm rất cao khó bề dự tính; nếu không có tinh thần mạo hiểm thì ngoan ngoãn mà làm phó nguyên thần. Cần biết rằng chẳng thể cùng có cả cá và tay gấu, việc tốt không thể đều cùng đến một bên, việc gì cũng có phần tốt và phần xấu, nguy hiểm và cơ hội cùng tồn tại, đây cũng là lý tương sinh tương khắc. Nhưng chỉ cần phó nguyên thần phối hợp tốt với tu luyện của chủ nguyên thần, không gây phiền phức, đến lúc mấu chốt khởi chút tác dụng chính diện thì cũng chính là việc công đức vô lượng, sau khi tu thành rồi thì hộ pháp cũng sẽ có nơi tốt đẹp để đến. Nếu rất may mắn, cả nhóm khá thành công, chủ nguyên thần và các phó nguyên thần liên kết chặt chẽ với nhau, phối hợp một cách ăn ý, khi đối mặt với khảo nghiệm đều tận tâm tận lực, mỗi người thể hiện khả năng của bản thân, đột phá tầng tầng quan ải, vượt chuẩn hoàn thành nhiệm vụ, tu thành Giác Giả cảnh giới cực cao, thì phó nguyên thần viên mãn cũng là điều có thể xảy ra. Trong tu luyện, điều gì cũng có thể xảy ra, chỉ cần bạn nguyện lòng xuất chân tâm, quyết hạ công phu, thì điều bất ngờ đang chờ đón bạn.

Rốt cuộc thì nhóm chủ nguyên thần và phó nguyên thần là sao? Tất nhiên đó là việc do Thần cao hơn an bài. Còn như trong tu luyện thì phối hợp như thế nào? Vì quá trình quá phức tạp, phức tạp quá không nói hết được, cao hơn nữa tôi cũng không rõ ràng lắm, chỉ có thể nhìn được một, hai thiên cơ trong ‘Tây Du’, nếu có hứng thú thì mọi người hãy cùng ‘Tây Du’ với tôi vậy.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/265936

The post Tây Du luyện tâm (3): Lập đoàn tụ nhóm cùng đi thỉnh Kinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đại trí huệ về nhân sinh của người xưahttps://chanhkien.org/2024/11/dai-tri-hue-ve-nhan-sinh-cua-nguoi-xua.htmlTue, 19 Nov 2024 03:15:27 +0000https://chanhkien.org/?p=34984Tác giả: Cao Viễn [ChanhKien.org] Học sinh Đại Lục sau khi rời khỏi trường học bước ra ngoài xã hội sẽ phát hiện ra rằng: những thứ như công bằng, chính nghĩa được học trong nhà trường, sẽ không thực hành được ở trong xã hội văn hóa đảng của Trung Cộng, ngược lại còn […]

The post Đại trí huệ về nhân sinh của người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Cao Viễn

[ChanhKien.org]

Học sinh Đại Lục sau khi rời khỏi trường học bước ra ngoài xã hội sẽ phát hiện ra rằng: những thứ như công bằng, chính nghĩa được học trong nhà trường, sẽ không thực hành được ở trong xã hội văn hóa đảng của Trung Cộng, ngược lại còn bị người khác chê cười là “cổ hủ”, “không thức thời” v.v… Vậy điều gì mới là trí huệ nhân sinh đây? Rất nhiều người đều đang đúc kết. Có đồng nghiệp trong đơn vị của bạn tôi nghiên cứu về Lý thuyết đen dày (1) đã tổng kết ra một bộ “trí huệ” sinh tồn như sau: người trong đơn vị được chia thành bốn loại người.

– Loại thứ nhất là kiểu người nhẫn nhục, chịu thương chịu khó, không than khổ than mệt, bảo gì làm nấy.

– Loại thứ hai là tinh anh của đơn vị, nhân tài không thể thay thế.

– Loại thứ ba là người nắm được thóp của lãnh đạo.

– Loại người thứ tư là người nỗ lực làm việc, nhưng không thuộc về loại nhẫn nhục, chịu đựng, những người này dễ bị đào thải nhất.

Người bạn của tôi hỏi anh ấy thuộc loại người nào, anh ta nói: “Là loại người thứ ba”.

Những người không nhảy ra khỏi tư duy của văn hóa đảng rất dễ đồng tình, cho rằng phân tích rất có đạo lý, đúng là như thế. Người còn có chút quan niệm văn hóa truyền thống thì rất dễ nhìn ra thiếu sót ở trong đó, bởi vì nó đi ngược với Thiên lý, rằng cuộc đời của con người đều được định sẵn rồi, phủ định có nhân quả báo ứng rất dễ dẫn người ta đi theo con đường sai lầm.

Con người không phải chỉ có một đời. Con người ngày nay đều đã chuyển sinh qua đời đời kiếp kiếp cho đến hôm nay vì nhân duyên mà tụ họp, có thể là thiện duyên, cũng có thể là ác duyên. Con người ở trong mê không nhìn thấy những điều này, không nhìn thấy quan hệ nhân duyên trong đó, rất dễ rơi vào bẫy. Nếu như một mực trở nên xấu đi, chỉ vì lợi ích cá nhân mà tranh mà đấu thì vĩnh viễn cũng không thể nhảy thoát ra được, tích nhiều nghiệp rồi, đến khi thập ác bất xá tất sẽ bị Thần Phật triệt để tiêu hủy.

Văn hóa truyền thống 5000 năm của Trung Hoa là văn hóa Thần truyền. Thần truyền cấp cho con người văn hóa nửa Thần nửa nhân, dạy cho con người ức chế ác niệm, bổ sung thiện niệm, hành xử tuân theo những giá trị đạo đức đầy lòng nhân từ để cho sinh mệnh càng tiến xa hơn. Nếu như trong cuộc đời gặp được Chính Pháp độ nhân, bước vào tu luyện, phản bổn quy chân, vĩnh viễn giải thoát, đó mới là vận may đích thực của cuộc đời, là đại hảo sự. Vì thế, tận tâm hành thiện tích đức mới là đại trí huệ của cuộc đời.

Dưới đây xin được kể một vài câu chuyện nhỏ của cổ nhân, để triển hiện trí huệ nhân sinh của người xưa.

Trí huệ nhân sinh của vị quan nhỏ

Vào năm Thiên Hội thứ 11 thời nhà Kim, Cao Xương Phúc đảm nhận chức quan nhỏ là Lệnh sử ở Phủ Nguyên Soái.

Những năm đầu Hoàng Thống, Phủ Nguyên Soái cai trị đất Biện Kinh (nay gọi là Khai Phong, Hà Nam), hễ phát hiện người khả nghi liền bắt lại, tất cả họ sẽ bị coi là gián điệp cho nhà Tống mà bị xử tử. Cao Xương Phúc thẩm vấn tra rõ sự tình, đã phóng thích rất nhiều người vô tội.

Hàn Thường, một quan lại ở Từ Châu, là người chấp hành luật pháp rất nghiêm, ông phái người áp giải tù nhân đến Biện Kinh. Trên đường đi có tù nhân đào tẩu, quan tiểu lại phụ trách giám sát sợ bị trừng phạt vì lơ là để tù nhân chạy trốn nên đã lên kế hoạch giết tất cả những tù nhân còn lại chưa trốn thoát hòng che đậy việc có người đã trốn thoát. Cao Xương Phúc nhận thấy ý đồ của viên tiểu lại và để ngăn chặn âm mưu giết người diệt khẩu ông đã cứu bảy đến tám trong số 10 tù nhân thoát khỏi việc bị giết chết. Vì thế, những quan tiểu lại khác rất oán hận Cao Xương Phúc, dự định lên kế hoạch ám hại ông.

Khi đó sắp xảy ra chiến tranh, ở dải đất giữa nước Lương và nước Sở, ban đêm trời đổ mưa dầm, Phủ Nguyên Soái chọn người đi theo dõi động tĩnh của quân đội triều Tống. Các tiểu lại liền xúi giục phái Cao Xương Phúc đi trinh sát, muốn để Cao Xương Phúc đi vào chỗ chết. Cao Xương Phúc vì làm việc có ích cho người dân nên nhận được sự bảo hộ của ông Trời, làm tròn việc thám thính tình hình thực hư quân đội của địch, bình an trở về báo cáo tin tức cho Phủ Nguyên Soái.

Những tiểu lại khác nghĩ rằng Cao Xương Phúc đi thám thính tình hình quân địch là tìm đến chỗ chết, nhưng Cao Xương Phúc chuyển họa thành phúc, sau khi quân đội nhà Kim chiến thắng khải hoàn trở về, ông đã trở thành một viên võ quan, trong những năm Thiên Đức, ông còn làm tới chức Viên ngoại lang Bộ binh.

Sau khi Kim Thế Tông lên ngôi, Cao Xương Phúc dâng thư góp ý cho vua, Hoàng đế ba lần đọc đi đọc lại thư của Cao Xương Phúc, rồi nói với cận thần: “Quan lại trong ngoài đều dâng thư bày tỏ ý kiến, thì có thể biết được điểm tốt và xấu của nhân tài. Nếu không, trẫm làm sao mà biết được chứ”. Các vị hoàng đế hiền minh thời xưa vô cùng hoan nghênh, tán thưởng với việc có người dâng thư góp ý cho vua.

Sau này, Cao Xương Phúc được bổ nhiệm làm quan lớn “Tiết độ sứ”, ông dâng thư lên tấu thuế má quá nặng, tấm lòng vì bách tính không hề thay đổi.

(Theo “Lịch sử nhà Kim, quyển 128, Liệt truyện tập 66, Tuần lại”)

Tận hiếu cũng là trí huệ của nhân sinh

Năm Giáp Thìn Càn Long, ở Tế Nam thường hay xảy ra hỏa hoạn. Cuối tháng tư, một đám cháy bùng phát ở phía Nam đường Tây Hoành, lửa cháy từ đông sang tây, con hẻm đã nhỏ còn chật hẹp, sức gió lại mạnh khiến hai bên đường lửa cháy cao ngút trời. Có một lão Trương nọ, nhà có ba gian nhà tranh ở phía bắc con đường, khi lửa chưa cháy đến, ông vốn có thể đem vợ con chạy thoát ra ngoài, nhưng linh cữu của mẹ ông đang đặt trong nhà, vì di chuyển linh cữu nên không kịp chạy thoát, cả gia đình bị mắc kẹt trong đám cháy. Vợ chồng và bốn người con ôm lấy quan tài khóc lóc thảm thiết, thề rằng cùng với quan tài hóa thành tro bụi.

Lúc đó quan tuần phủ dưới quyền tham tướng đang đốc thúc binh lính dập lửa, mơ hồ nghe thấy âm thanh tiếng khóc, lệnh cho binh lính trèo lên nóc nhà sau hẻm, thuận theo âm thanh tìm được nhà của lão Trương, binh lính ném dây xuống để cứu họ thoát ra ngoài. Vợ chồng lão Trương hét lên: “Linh cữu của mẫu thân ta còn nằm ở đây, làm sao có thể bỏ mặc không quản được chứ?” Mấy người con của họ cũng hét lên: “Cha mẹ của chúng cháu vì cha mẹ của mình mà chết theo, chúng cháu chẳng phải cũng nên chết cùng cha mẹ của mình sao?”, đám trẻ cũng quyết không chịu trèo lên.

Một lúc sau, ngọn lửa bùng cháy, các binh sĩ nhảy qua mái nhà để tránh và suýt bị bỏng. Họ đều cho rằng cả gia đình lão Trương nhất định bị thiêu thành tro bụi rồi, chỉ có thể đứng từ xa nhìn thở dài mà thôi. Đợi cho đến khi lửa tắt, các binh sĩ tuần tra hiện trường vụ hỏa hoạn thấy chỉ có duy ngôi nhà của lão Trương được bảo toàn nguyên vẹn không hề bị cháy. Hóa ra lúc đó cơn gió đột ngột quay trở lại, đầu lửa quay về hướng Bắc, đi vòng ra phía sau nhà ông ấy, đốt cháy tiệm cầm đồ của hàng xóm rồi quay trở lại phía Tây.

(Theo “Duyệt Vi Đường Thảo Bút Ký” của Kỳ Hiểu Lam)

Minh bạch nhân quả báo ứng, cải ác hồi lương cũng là trí huệ của nhân sinh

Vào thời nhà Đường, tại thôn Diêm, huyện Vạn Niên, Ung Châu, ở giữa sông Bá Hà và sông Vị Hà, có một người phụ nữ họ Tạ được gả cho một gia đình họ Nguyên ở huyện Châu. Người phụ nữ sinh được một người con gái, gả cho Lai A Chiếu ở thôn Hồi Long. Vào những năm cuối Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, Tạ thị qua đời.

Đến tháng tám năm Long Sóc đầu tiên, Tạ thị báo mộng cho con gái, nói: “Ta khi còn sống bán rượu đã làm thăng đong rượu bé hơn bình thường hòng kiếm lời, rượu bán ra thì ít, tiền thu về lại nhiều nên nay phải chịu tội, thác sinh vào một gia đình ở núi Bắc Sơn làm kiếp trâu bò. Gần đây ta lại bị bán cho sư phụ Hạ Hầu của “Chùa Pháp Giới”, hôm nay họ đưa ta đến phía Nam thành để cày ruộng, vô cùng vất vả”. Sau khi con gái tỉnh dậy, vừa khóc vừa kể lại với chồng Lai A Chiêu. Đến tháng đầu tiên của năm Long Sóc thứ hai, có một vị ni cô đến từ chùa Pháp Giới, sau khi đến thôn của Lai A Chiêu, con gái bèn hỏi ni cô. Ni cô trả lời: “Chùa của chúng tôi quả thực có một sư phụ là Hạ Hầu”.

Người con gái sau đó đi đến chùa Pháp Giới viếng thăm sư phụ Hạ Hầu. Sư phụ nói: “Gần đây ta đã mua một con bò từ chân núi Bắc Sơn, bây giờ đang cày ruộng ở phía nam thành”. Cô con gái khóc lóc van xin, sư cô trong chùa bèn sai người đưa cô đi xem bò.

Ngày thường con bò này chỉ có một người có thể khống chế nó, nếu gặp người lạ, nó nhất định sẽ nhảy nhót điên cuồng. Hôm đó nhìn thấy con gái đến, bèn liếm khắp người cô ấy, từ trong mắt rơi ra những giọt lệ. Con gái đến nơi gặp Hạ Hầu sư phụ, mua lại con bò, con bò theo cô về nhà. Con bò này hiện nay đang được nuôi dưỡng tại nhà của Lai A Chiêu, cô con gái luôn chăm sóc cho mẹ rất tốt, không thiếu thứ gì. Các vương hậu và phi tần ở trong cung, thường tới xem con bò, và bố thí cho rất nhiều tài vật.

Các vương hậu và phi tần, người đông, miệng lại nhanh, chẳng mấy chốc câu chuyện Tạ thị bán rượu gian dối, sau khi chết biến thành bò, rất nhanh chóng truyền đi khắp nơi.

Từ đó trở đi, hầu hết người trong triều đình đều kính trọng và tín ngưỡng Thần Phật, cải ác hồi lương!

Theo “Thái Bình Quảng Ký” thời Tống

Lời kết

Con người ở trong mê, vì danh, lợi, sắc, nóng giận… rất dễ làm ra những việc không tốt, dễ tạo nghiệp, nhưng con người một khi minh bạch chân tướng thiện ác báo ứng, lựa chọn tích đức hành thiện, chịu trách nhiệm với bản thân, với gia đình, chịu trách nhiệm với con cháu, lẽ nào đó không phải là một loại trí huệ của nhân sinh ư?!

Học viên Pháp Luân Công nói cho con người biết chân tướng, đem đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ nói cho con người, khuyên bảo con người thế gian thành tâm kính niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, khuyến khích thế nhân tuân theo Chân Thiện Nhẫn làm người tốt; nói cho con người biết thiên cơ “Trời diệt Trung Cộng”, khuyên con người thoái xuất khỏi các tổ chức của Trung Cộng (tam thoái), thoát ly khỏi tổ chức tà giáo Trung Cộng, rời xa khỏi tai nạn. Con người có thể nghe hiểu chân tướng, nghe theo chân tướng mà đưa ra lựa chọn, đồng thời đem chân tướng nói cho bạn bè thân quyến, nói cho càng nhiều người hơn nữa biết, đó chính là làm việc đại thiện, tích đại phúc, đó là trí huệ nhân sinh còn lớn hơn nữa!

Những ai cười nhạo chân tướng, nhiều lần từ chối chân tướng, tự cho rằng đi theo Trung Cộng có thể thăng quan phát tài, có thể đắc được một chút xíu lợi ích, mới là người thật sự đáng thương!

Chú thích:

(1): Lý thuyết đen dày (tiếng Trung :厚黑學; bính âm: Hòu hēi xué) là một chuyên luận triết học do Lý Tông Vũ (李宗吾, 1879–1943), một chính trị gia và học giả bất mãn sinh vào cuối thời nhà Thanh, biên soạn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/291257

The post Đại trí huệ về nhân sinh của người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (7)https://chanhkien.org/2024/11/van-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-7.htmlSun, 17 Nov 2024 03:21:12 +0000https://chanhkien.org/?p=34956(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Tranh giành ngôi vị sau khi Đại Đường phục quốc Sau khi Võ Tắc Thiên mất, Đường Trung Tông lên ngôi. Trung Tông là một hoàng đế bất tài ngu muội, mà Hoàng hậu Vi Thị của ông lại tàn bạo, dâm loạn và […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Tranh giành ngôi vị sau khi Đại Đường phục quốc

Sau khi Võ Tắc Thiên mất, Đường Trung Tông lên ngôi. Trung Tông là một hoàng đế bất tài ngu muội, mà Hoàng hậu Vi Thị của ông lại tàn bạo, dâm loạn và đầy dã tâm. Vi Thị hy vọng có thể giống Võ Tắc Thiên bước lên ngôi vua, do đó bà đã cùng với An Lạc Công chúa, và tông tộc Võ Thị kết thành đồng đảng, cùng nhau nắm giữ triều chính. Năm 710, Vi Hoàng hậu hạ độc mưu sát Trung Tông Lý Hiển, đồng thời phong tỏa tin tức, mưu đồ đăng cơ noi theo Võ Tắc Thiên. Nhưng trên thực tế, bà đã làm cho triều chính hủ bại thậm tệ, “công tư câu phế” (công tư đều suy bại), “thập thất cửu không” (mười nhà thì trống không hết chín, chỉ quang cảnh tiêu điều). Lúc ấy thế lực của người con trai thứ tư của Võ Tắc Thiên là Đường Duệ Tông Lý Đán và người con gái của bà là Thái Bình Công chúa vẫn khá lớn, là chướng ngại cho việc Vi Hậu chuyên quyền, do đó họ đã trở thành đối tượng cần tiêu diệt của bè đảng Vi Hậu.

Con trai của Duệ Tông là Lý Long Cơ rất có tầm nhìn chính trị, ông liên kết với con gái của Võ Tắc Thiên là Thái Bình Công chúa dẫn cấm quân tấn công vào hậu cung, giết chết Vi Hậu, An Lạc Công chúa và tông tộc Võ Thị, dùng vũ lực đập tan giấc mộng nữ hoàng của họ. Đồng thời khôi phục ngôi vị của Duệ Tông Lý Đán, và Lý Long Cơ được lập làm thái tử. Tuy nhiên Duệ Tông lại nhu nhược vô năng, nên Thái Bình Công chúa trở thành người nắm giữ triều chính. Sự bành trướng thế lực của Thái Bình Công chúa đã xảy ra xung đột kịch liệt với Lý Long Cơ, bà muốn phế bỏ ngôi vị thái tử của Lý Long Cơ. Năm 712, Đường Duệ Tông nhường ngôi cho thái tử, Lý Long Cơ trở thành người kế vị hợp pháp, lịch sử gọi là Đường Minh Hoàng (tức Đường Huyền Tông), quốc hiệu Khai Nguyên. Năm sau, Thái Bình Công chúa phát động chính biến, nhưng thất bại và bị ban chết. Từ đó, cuộc tranh giành đế vị kéo dài gần 10 năm cuối cùng cũng kết thúc, cục diện chính trị cũng bắt đầu ngày càng ổn định.

Thân thế và dị tướng của Huyền Tông Lý Long Cơ

Huyền Tông Lý Long Cơ là con trai thứ ba của Duệ Tông. «Cựu Đường Thư» có nói về ông rằng “Tính anh đoạn đa nghệ, vưu tri âm luật, thiện bát phân thư. Nghi phạm vĩ lệ, hữu phi thường chi biểu”. (Tính anh minh quả đoán đa nghệ, hiểu biết âm luật, thành thạo chữ bát phân, phong thái vĩ lệ, dáng vẻ phi thường).

Năm Huyền Tông ba tuổi, được phong làm Sở vương, năm vừa bảy tuổi, được mở phủ đệ và bố trí quan thuộc. Sau khi trưởng thành, lại cải phong làm Lâm Tri vương. Năm Thần Long thứ nhất trong thời Võ Tắc Thiên, được đổi thành Vệ úy thiếu khanh, sau kiêm chức Lộ Châu biệt giá, rồi thăng làm Ngân Thanh Quang Lộc đại phu. Nghe nói, ở Lộ Châu có rồng vàng bạch nhật thăng thiên. Có lần, Lý Long Cơ đang đi trên đồng ruộng, trên đỉnh đầu xuất hiện vầng mây tím bao phủ, tùy tùng đều có thể nhìn thấy. Ngoài ra, bên ngoài nơi ở của ông có cái ao, nước đầy tràn ra ngoài, những thầy vọng khí (một học thuật phong thủy) cho rằng đó là long khí. Những điềm lành như vậy đã xảy ra hơn mười lần. Phỏng theo cách nói của người xưa, thì Lý Long Cơ có tướng đế vương.

Thời kỳ Khai Nguyên chi trị của Đường Huyền Tông

*Sách lược củng cố cơ đồ khi mới lên ngôi

Huyền Tông lên ngôi hoàng đế ở tuổi 28, ông biết rõ khó có được cục diện chính trị an định và hòa bình nên ngay sau khi lên ngôi, đã lập tức tái bổ nhiệm Diêu Sùng là một vị quan tài năng làm tể tướng. Huyền Tông đã nói rằng: “Trẫm phó thác Diêu Sùng xử lý chính sự, các việc đại sự thì cùng bàn với trẫm, còn các việc nhỏ thì tự quyết lấy”. Các đại thần đều cho rằng Huyền Tông thấu hiểu quần thần, có phong thái của một đại tướng.

Năm Khai Nguyên thứ tư (năm 716) sau khi Diêu Sùng từ chức tể tướng, Huyền Tông lại trọng dụng tể tướng Tống Cảnh, đồng thời khuyến khích việc can gián và tiếp thụ can gián, loại trừ những chính sách tệ hại, khống chế xa hoa lãng phí. Diêu Sùng đề xuất chống quyền hạnh (chống những nịnh thần được sủng hạnh có quyền thế), thường xuyên ban thưởng tước lộc, tiếp nhận can gián, khước từ cống nạp, hậu đãi đại thần; Tống Cảnh thì khéo tuyển người tài, thưởng phạt vô tư, lại dám phạm thượng thẳng thắn can gián. Trong thời kỳ có Diêu, Tống chấp chính, thuế khóa lao dịch khoan dung công bằng, hình phạt giảm nhẹ, thiên hạ sung túc. Sau này những tể tướng mà Huyền Tông trọng dụng như Trương Gia Trinh, Trương Thuyết, Hàn Hưu cùng Trương Cửu Linh cũng có thể nói đều là những người có tài đức, đều có sở trường riêng. Với sự phò tá của những tể tướng tài giỏi này, Huyền Tông đã thực hiện một số cải cách đối với những chính sách tệ hại vào thời điểm đó.

Tuy nhiên, về mặt chính trị mà nói, thời kỳ Khai Nguyên chi trị chẳng qua cũng chỉ là tiếp bước thời kỳ Trinh Quán chi trị mà thôi.

Những biện pháp cải cách cụ thể như sau:

Trước tiên, khôi phục nguyên tắc pháp trị “lấy khoan dung làm gốc” của thời kỳ Trinh Quán, bãi bỏ nền chính trị quan lại tàn bạo và hình pháp nghiêm khắc của thời kỳ Võ Tắc Thiên, cấm chỉ cực hình và lạm dụng hình phạt, lấy việc thực hành nhân nghĩa làm nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu trong việc trị lý thiên hạ. Ngoài ra, Huyền Tông còn ra lệnh biên soạn «Đường Lục Điển», đây là pháp điển hành chính sớm nhất còn tồn tại hiện nay của Trung Quốc. Pháp điển này tổng cộng có 35 quyển, thực hiện trong 16 năm, đến năm Khai Nguyên thứ 26 mới hoàn thành, đánh dấu hệ thống chính trị nhà Đường đang hướng đến hoàn thiện.

Tiếp theo, cắt giảm số quan lại dư thừa, chỉnh đốn tác phong và uy tín của quan lại. Thời Trung Tông, Vi Hậu và An Lạc Công chúa nắm quyền, trắng trợn buôn bán quan tước, khiến cho bộ máy quan liêu cồng kềnh, tạo thành gánh nặng cực lớn cho chi phí quốc gia. Sau khi Huyền Tông lên ngôi, bắt đầu cắt giảm cơ cấu và quan viên. Thí dụ, năm Khai Nguyên thứ 11, sửa đổi Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh của Chính sự đường, bên trong thiết lập Lại phòng, Binh phòng, Hộ phòng, Hình Lễ phòng, tăng thêm Hàn Lâm học sĩ, lựa chọn quan viên tâm phúc đảm nhiệm, chuyên nắm “nội mệnh” (mệnh lệnh do Hoàng đế trực tiếp hạ chỉ).

Thứ ba, chú trọng sản xuất nông nghiệp, tiếp tục thực hiện chế độ Quân điền, chế độ Tô dung điệu (tô là thuế ruộng, dung là thuế đinh, điệu là thuế hộ) và chính sách giảm nhẹ lao dịch thuế khóa cũng như các chính sách liên quan kiểm soát hộ tịch của thời kỳ Trinh Quán.

Vào thời Huyền Tông, chế độ Quân điền trước đây “nam từ 16 đến 20 tuổi là trung, từ 21 đến 59 tuổi là đinh, trên 60 tuổi là lão” được đổi thành “từ 18 đến 22 tuổi là trung, 23 tuổi là đinh”. Quốc gia hàng năm tính toán sổ sách một lần, hộ tịch ba năm tra xét một lần. Sổ sách hộ khẩu là căn cứ để thúc đẩy chế độ Quân điền và Tô điệu của quốc gia.

Vào thời Võ Tắc Thiên, chế độ Quân điền bắt đầu dần dần bị phá hủy, hiện tượng thôn tính đất đai và nông dân lưu vong ngày càng nghiêm trọng, năm 721 (năm Khai Nguyên thứ 9), Huyền Tông phái Vũ Văn Dung làm Khuyến nông sứ đến các nơi kiểm soát các hộ lưu vong và ruộng ngoại tịch, trải qua mấy năm cố gắng, đã tra soát ra tổng cộng hơn 80 vạn hộ tá túc, và số ruộng cũng tương xứng. Đối với những hộ tá túc này chính phủ nhà Đường đánh thuế 1.500 tiền mỗi đinh, miễn tô điệu lao dịch sáu năm, rồi được các châu huyện phân bổ đất đai quân điền. Biện pháp này đã đặt định ra cơ sở cho thời kỳ Khai Nguyên thịnh thế.

Huyền Tông quy định hoàng thất thân tộc cùng các công thần không được đòi tô điệu của các phong hộ (hộ được cấp phong cho phong chủ), mà phải do chính phủ thống nhất trưng thu, còn phong chủ (người được ban cấp đất đai) sẽ nhận từ chính phủ.

Ngoài đó ra, Huyền Tông còn hạ lệnh xây dựng đồn điền ở các nơi như Hà Đông đạo, Quân Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Tây đạo, Lũng Hữu đạo, Hà Bắc đạo, Kiếm Nam đạo, thời điểm đó toàn quốc có tổng cộng 992 quân đồn, diện tích ruộng khai khẩn vào khoảng năm triệu mẫu, do đó các quân khu ở biên ải đều có thể tự cung tự cấp.

Ở địa khu Tam Phụ của Quan Trung, “nhà của các vương công quyền quý, đều bị tháo dỡ do việc xây dựng các kênh (Trịnh, Bạch), gây hại thủy điền”, Huyền Tông hạ lệnh tháo dỡ toàn bộ, khiến cho “dân chúng được hưởng lợi lớn”.

Thứ tư, đề xướng tiết kiệm. Huyền Tông hạ lệnh từ vương công cho đến dân chúng toàn quốc nhất loạt không được xa hoa hoang phí, hoàng thân sủng thần phạm pháp với thứ dân đều có tội như nhau.

Nền chính trị thời kỳ Khai Nguyên trong sạch và an định, khiến nền kinh tế lại lần nữa đạt đến phát triển, quốc lực tăng trưởng không ngừng, trở nên lớn mạnh chưa từng có, trong lịch sử lại xuất hiện một thời kỳ thịnh thế: Khai Nguyên thịnh thế.

Có điều, thời kỳ Huyền Tông lại bắt đầu áp chế Phật giáo. Thời kỳ Võ Tắc Thiên thống trị đã cho tu sửa rất nhiều chùa chiền, có rất nhiều người xuất gia làm tăng. Thời Trung Tông và Duệ Tông, Phật giáo tiếp tục phát triển, số tăng ni toàn quốc đạt đến mấy chục vạn người. Tuy nhiên Huyền Tông lại theo ý của Diêu Sùng, hạ lệnh trục xuất tăng ni trong thiên hạ, bức ép phải hoàn tục hơn 12.000 người. Ông còn hạ lệnh các nơi không được dựng chùa, đồng thời cấm chỉ việc đúc tượng Phật và sao chép kinh Phật trong dân gian. Những biện pháp này đều ức chế sự phát triển của Phật giáo.

Cảnh tượng Khai Nguyên thịnh thế

Đỗ Phủ, đại thi nhân nổi tiếng nhà Đường đã miêu tả cảnh tượng Khai Nguyên thịnh thế trong tác phẩm «Ức Tích» như sau:

Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật,
Tiểu ấp do tàng vạn gia thất.
Đạo mễ lưu chỉ túc mễ bạch,
Công tư thương lẫm câu phong thực.
Cửu châu đạo lộ vô sài hổ,
Viễn hành bất láo cát nhật xuất.
Tề hoàn lỗ cảo xa ban ban,
Nam canh nữ tang bất tương thất.

Tạm dịch:

Nhớ thuở xưa Khai Nguyên toàn thịnh,
Ấp nhỏ vẫn chứa cả vạn căn.
Thóc lúa căng tròn gạo trắng bóng,
Kho lẫm công tư thảy tràn đầy.
Cửu châu đường lộ không kẻ ngáng,
Đường xa chẳng nhọc chọn ngày lành.
Lụa Tề tơ Lỗ xe nườm nượp,
Trai cày gái dệt chẳng ngơi tay.

Bài thơ đã gợi lên cảnh tượng an định và sung túc của thời kỳ Khai Nguyên. Sử sách có ghi chép, năm Khai Nguyên thứ 28, tức năm 740, số hộ nhập tịch toàn quốc thời kỳ Trinh Quán ba triệu hộ đã tăng đến 4 triệu 410 nghìn hộ, với 48 triệu 140 nghìn nhân khẩu; đến năm 754, đã tăng đến 9 triệu 69 nghìn hộ, với 52 triệu 880 nghìn nhân khẩu. Diện tích đất canh tác cũng đạt đến khoảng 800 triệu mẫu. Năm 749, kho lương trung ương tổng trữ lương thực 12 triệu 450 nghìn thạch. Theo đó lượng lương thực trữ trong dân vô cũng nhiều, “nhà nào cũng tích trữ lương thực đến hàng vạn”. Điều này cho thấy nền nông nghiệp nhiều năm liên tiếp bội thu nên mới có cảnh tượng sung túc như vậy. Theo cuốn «Thông Điển» của Đỗ Hựu, lúc bấy giờ thiên hạ không có gì đắt giá, giá gạo ở Trường An và Lạc Dương mỗi đấu chưa đến 20 đồng, bột mì mỗi đấu 30 đồng, lụa mỗi xếp 210 đồng. Có thể nói “trong nước giàu có và an định, người đi xa cả vạn dặm, không cần mang theo binh khí phòng thân”.

Sự phát triển của nông nghiệp, cũng thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp. Không chỉ xuất hiện hình thức “cử phường” tương tự như ngân hàng tư nhân của hậu thế sau này, mà còn xuất hiện phiếu chuyển tiền – phi tiền. Đô thành Trường An không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm thương nghiệp. Rất nhiều thương nhân nước ngoài đến Trường An, Lạc Dương và các nơi ở phương Nam như Dương Châu, Thành Đô, Quảng Châu để làm ăn mua bán. Qua đó có thể thấy được mức độ phồn thịnh của thương nghiệp thời kỳ này.

Lịch sử có ghi chép, năm Khai Nguyên thứ 25 (năm 737) số người bị kết án tử hình toàn quốc chỉ có 59 người, quang cảnh nhà ngục của Đại Lý Tự hoàn toàn vắng vẻ, quạ và chim sẻ làm tổ trên cây. Có thể thấy, lấy việc thực hành nhân nghĩa làm nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu trong việc trị lý thiên hạ đã đạt được hiệu quả tương tự như thời kỳ Trinh Quán chi trị.

Ngoài ra, vì Huyền Tông vốn là người đa tài đa nghệ, nên ủng hộ mạnh mẽ về mặt văn hóa nghệ thuật. Các thi nhân nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên và Vương Duy đều hoạt động sôi nổi trong thời kỳ này, có thể nói là: “kỳ nhân nhã sĩ, đều ở kinh thành cả”. Văn hóa nghệ thuật của nhà Đường bao gồm thơ ca, vũ đạo, thư pháp đều đã đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ này.

Đường Huyền Tông từ “minh quân” chuyển sang “hôn quân” – nhà Đường từ hưng thịnh chuyển sang bắt đầu suy yếu

Sau khi trải qua thời kỳ Khai Nguyên thịnh thế, Đường Huyền Tông bắt đầu “dần ham mê xa hoa dục vọng, bỏ bê việc triều chính”. Thời kỳ Khai Nguyên chi trị là dựa trên “lề lối cũ của thời Trinh Quán”, tuy nhiên Huyền Tông không bì được Thái Tông ở chỗ ông không biết “giữ gìn sự nghiệp đã thành tựu”, không biết “thận trọng từ đầu đến cuối”, một khi có được thành tựu thịnh thế, thì liền say sưa trong tự mãn. Thêm vào việc xua đuổi hiền thần mà thân cận bọn a dua nịnh hót, vị minh quân hồi nào đã dần dần biến thành hôn quân.

*Tin tưởng gian thần

Bước ngoặt đánh dấu việc Huyền Tông từ “minh quân” chuyển sang “hôn quân” là vào năm Khai Nguyên thứ 22 ông tin dùng gian tướng Lý Lâm Phủ.

Lý Lâm Phủ thời trẻ phẩm hạnh không tốt, nhưng vì biết luồn cúi, đã lần lượt làm đến các chức Ngự sử trung thừa, Hình bộ thị lang, và cả Thừa tướng. Lúc bấy giờ ai ai cũng biết Lý Lâm Phủ là người miệng mật lòng gươm, nham hiểm gian xảo, nhưng lại “xảo ngôn tỏ ra trung thành”. Thế nhưng Huyền Tông lại không phân biệt được hắn là trung hay gian, khiến hắn ta có thể chuyên quyền đến những 19 năm, chế độ hợp nghị Tam tỉnh từng khiến triều chính trở nên trong sạch thì nay chỉ lập nên cho có vậy thôi.

Huyền Tông đã làm hoàng đế hai mấy năm giờ đây chỉ còn muốn phóng túng hưởng lạc, phần lớn thời gian đắm say vui đùa cùng tuyệt thế giai nhân Quý phi Dương Ngọc Hoàn. Lý Lâm Phủ thì chỉ một mực đón ý hùa theo, bài trừ những ai đối lập, khiến Huyền Tông từ ngạo nghễ đến ngu muội. Có hoàng đế như thế, có tể tướng như thế, thử hỏi nhà Đường làm sao có thể không đi đến chỗ suy bại đây?

*Mê đắm ca sắc hưởng lạc

Huyền Tông tại vị đã lâu, nên dần coi ca sắc như thú vui, sau năm Thiên Bảo thứ 2 từ sau khi sủng hạnh Dương Quý phi, thì càng bỏ bê việc triều chính. Dương Quý phi còn gọi là Dương Ngọc Hoàn, tổ tiên là danh thần nhà Tùy. Bà vốn là phi tử của Thọ vương Lý Mạo con trai của Huyền Tông, Huyền Tông vừa gặp bà đã phải lòng. Vì để có được Dương Ngọc Hoàn, Huyền Tông trước hết để bà làm đạo sỹ, lấy hiệu là Thái Chân. Một năm sau, thì được Huyền Tông nạp làm Thái Chân phi tử, rồi lại được sắc phong làm Quý phi. Thi nhân nhà Đường, Bạch Cư Dị đã miêu tả vẻ đẹp của Dương Quý phi và tình cảm của Huyền Tông dành cho bà trong tác phẩm «Trường Hận Ca» như sau: “Hồi mâu nhất tiếu bách mi sinh, lục quan phấn đại vô nhan sắc” (dịch nghĩa: quay đầu hé cười trăm duyên dáng, lục cung mỹ nữ nhòa phấn son); “xuân tiêu khổ đoạn nhật cao khởi, tòng thử quân vương bất tảo triều” (khổ nỗi đêm xuân ngắn ngày nắng đã lên cao, từ ấy quân vương chẳng tảo triều); “hậu cung giai lệ tam thiên nhân, tam thiên sủng ái tại nhất thân” (hậu cung giai nhân những ba ngàn, ba ngàn chỉ yêu có một người).

Từ trong lời thơ có thể thấy, Đường Huyền Tông đắm say tình cảm đã chẳng bận tâm gì đến quốc gia đại sự, bị gian thần bưng bít là điều tất nhiên khó tránh khỏi.

Dương Quý phi tuy rằng không can thiệp triều chính, nhưng người anh em bà con xa Dương Quốc Trung của bà lại trở thành đại thần chuyên quyền sau khi Lý Lâm Phủ chết. Sau khi ông ta lên làm tể tướng, một mình kiêm giữ hơn 40 chức vụ. Dương Quốc Trung là người hay tranh cãi lại bốc đồng, chuyên quyền triều chính, “công khanh trở xuống, vênh váo sai khiến, ai cũng kinh khiếp”. Ông ta một mặt thì đón ý hùa theo Huyền Tông, một mặt bạt mạng vơ vét dân chúng, khiến cho triều chính trở nên bại hoại còn hơn cả thời Lý Lâm Phủ tại chức nữa. «Quốc Sử Khái Yếu» nói rằng, Lý Lâm Phủ là “dưỡng thành cái loạn của thiên hạ”, còn Dương Quốc Trung thì là “kết thành cái loạn ấy”. Lý Lâm Phủ và Dương Quốc Trung liên tiếp chuyên quyền cùng với việc bóc lột dân chúng và vơ vét tài sản của thiên hạ, đã đặt tiền đề cho “Loạn An Sử” sau này.

*Mở rộng biên giới vô độ

Ngoài ra, Huyền Tông tự cho rằng có quốc lực hùng hậu, quân đội hùng mạnh, do đó vô cùng ham thích mở rộng biên giới, và liên tục phát động các cuộc chiến tranh với Thổ Phồn, Nam Chiếu, Khiết Đan. Điều này không những làm cho quan hệ dân tộc trở nên xấu đi, mà còn khiến tài chính cũng trở nên thiếu hụt, nên lại tăng cường bóc lột dân chúng; đồng thời tăng thêm lượng lớn lính biên phòng và quân bị, dẫn đến bố cục quân sự trở nên trọng ngoại khinh nội (coi trọng biên ngoại mà xem nhẹ biên nội). Do sự sụp đổ của chế độ binh phủ, nên năm Khai Nguyên thứ 11 đã tiến hành chế độ mộ binh. Những lính đánh thuê này sẽ do chính phủ cung cấp lương hướng, vậy nên chi phí quân sự lại trở thành một gánh nặng lớn. Đầu Khai Nguyên chi phí quân sự là 2 triệu quan, đến cuối Khai Nguyên chi phí quân sự đã tăng đến 10 triệu quan, cuối năm Thiên Bảo chi phí quân sự tăng đến 15 triệu quan. “Thịnh thế” một thời làm sao chịu nổi những thăng trầm liên tục như vậy?

Trong những năm Khai Nguyên, vùng biên giới đã thiết lập 10 Tiết độ sứ, họ không những “đã có đất đai, lại có dân chúng, lại có binh giáp, lại có tài phú”, chính quyền, quân quyền, tài quyền tập trung trong tay, hình thành những thế lực bán cắt cứ. Trong thời kỳ Huyền Tông lượng quân đóng ở biên giới chiếm trên 85% tổng binh lực toàn quốc.

Thuận theo sự hủ bại của triều chính nhà Đường, uy tín của nhà Đường ở Tây Vực sa sút nghiêm trọng, những nguy cơ vùng biên giới ngày càng tăng. Để đối phó với nguy cơ vùng biên giới, triều đình càng thêm dựa vào các Tiết độ sứ. Tình trạng ấy khiến các Tiết độ sứ càng ngao ngược, nên sự xa cách đối với chính phủ trung ương ngày càng lớn. “Loạn An Sử” trong những năm Thiên Bảo chính là do Tiết độ sứ biên giới làm loạn, nhà Đường từ đó bắt đầu chuyển từ hưng thịnh sang suy yếu.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29156

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện về Trạch Thiên Sưhttps://chanhkien.org/2024/11/cau-chuyen-ve-trach-thien-su.htmlThu, 14 Nov 2024 04:21:37 +0000https://chanhkien.org/?p=34928Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Đạo sĩ Trạch Thiên Hựu thời nhà Đường là người gốc Tứ Xuyên. Ông tu đạo ở núi Hoàng Long từ khi còn nhỏ, đến năm 41 tuổi được dị nhân truyền thụ thần thông, đạo hạnh đã tiến bộ vượt bậc. Trong những năm cuối đời ông […]

The post Câu chuyện về Trạch Thiên Sư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Đạo sĩ Trạch Thiên Hựu thời nhà Đường là người gốc Tứ Xuyên. Ông tu đạo ở núi Hoàng Long từ khi còn nhỏ, đến năm 41 tuổi được dị nhân truyền thụ thần thông, đạo hạnh đã tiến bộ vượt bậc. Trong những năm cuối đời ông thường nói về tương lai. Có lần ông bước vào khu phố náo nhiệt ở phủ Quỳ Châu và hét to lên rằng: “Tối nay có tám người đến đây, mọi người hãy cẩn thận!” Mọi người đều không biết ông ấy nói gì. Buổi tối khu phố bị trận đại hỏa hoạn thiêu rụi hàng trăm ngôi nhà, mọi người mới biết rằng tám người là chỉ chữ Hỏa “火”. Một lần khi ông đang ngắm trăng ở Giang Tả cùng với mấy chục đệ tử, có đệ tử hỏi: “Không biết trong Mặt Trăng có gì?” Thiên Hựu cười nói: “Có thể hướng theo ngón tay trỏ của ta nhìn xem”. Thiên Hựu giơ tay chỉ, mấy vị đệ tử nhìn theo lên phía Mặt Trăng cả buổi, thì thấy ở giữa Mặt Trăng đầy những nhà lầu, cung điện vàng kim, nhiều vô số kể.

Trong năm Thiên Bảo, hoàng đế Huyền Tông đã triệu ông lên kinh đô, và đối đãi với ông rất tốt. Tất cả các quan lại đều không phục, nói: “Trạch Thiên Hựu chỉ là một tiểu sư ở vùng Tứ Xuyên, xin đừng làm như vậy”. Trạch Thiên Sư cười và đặt chiếc khăn quấn đầu của mình lên trước mặt bàn của nhà vua rồi nói: “Trong các vị quan đây, ai có thể lấy được chiếc khăn quấn đầu này thì tôi sẽ bái người đó làm sư, nếu không lấy được thì hãy bái tôi làm sư”. Hoàng đế lệnh cho chúng thần lấy nó, nhưng không ai có đủ khả năng. Trạch Thiên Sư thuận tay mà cầm lấy, dâng lên hoàng đế. Hoàng đế Huyền Tông rất cao hứng, phong cho ông làm “Thông Hư Thiên Sư”. Không lâu sau, ông lại trở về Tứ Xuyên tiếp tục tu hành.

Trước đây khi nhìn thấy những người tu Đạo thi triển thần tích thì cảm thấy họ thật vĩ đại, nhưng sau khi tu luyện Đại Pháp, nghĩ lại tôi mới thấy: mặc dù biết trước sẽ có hỏa hoạn mà không thể nói rõ ra cho mọi người chỉ bởi “Thiên cơ bất khả lộ”. Nhưng hôm nay, đệ tử Đại Pháp lại dám nói rõ cho người dân Trung Quốc về thiên cơ tối cao rằng “Trời diệt Trung Cộng”, giúp mỗi người dân Trung Quốc bị nó đầu độc có thể tránh được tai họa diệt vong này, nếu không phải đồ đệ Đại Pháp tu luyện Đại Pháp vũ trụ thì ai dám làm như vậy? Lão Tử giảng: “Đạo khả Đạo, phi thường Đạo”. Nói rất có đạo lý vậy.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/35240

The post Câu chuyện về Trạch Thiên Sư first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải luận ngữ (35): Vô gia chư nhân (Không áp đặt cho người khác)https://chanhkien.org/2024/11/tinh-giai-luan-ngu-35-vo-gia-chu-nhan-khong-ap-dat-cho-nguoi-khac.htmlSun, 10 Nov 2024 02:15:15 +0000https://chanhkien.org/?p=34904[ChanhKien.org] Nguyên văn 子贡曰:“我不欲人之加(1)诸(2)我也,吾亦欲无加诸人。”子曰:“赐(3)也,非尔(4)所及也。”(《论语·公冶长第五》) Hán Việt Tử Cống viết: “Ngã bất dục nhân chi gia (1) chư (2) ngã dã, ngô diệc dục vô gia chư nhân.” Tử viết: “Tứ (3) dã, phi nhĩ (4) sở cập dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”). Phiên âm Zǐ Gòng yuē: “Wǒ bù […]

The post Tinh giải luận ngữ (35): Vô gia chư nhân (Không áp đặt cho người khác) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nguyên văn

子贡曰:“我不欲人之加(1)诸(2)我也,吾亦欲无加诸人。”子曰:“赐(3)也,非尔(4)所及也。”(《论语·公冶长第五》)

Hán Việt

Tử Cống viết: “Ngã bất dục nhân chi gia (1) chư (2) ngã dã, ngô diệc dục vô gia chư nhân.” Tử viết: “Tứ (3) dã, phi nhĩ (4) sở cập dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”).

Phiên âm

Zǐ Gòng yuē: “Wǒ bù yù rén zhī jiā zhū wǒ yě, wú yì yù wú jiā zhū rén.” Zǐ yuē: “Cì yě, fēi ěr suǒ jí yě.” (“Lúnyǔ·Gōng yě zhǎng dì wǔ”)

Chú âm

子ㄗˇ贡ㄍㄨㄥˋ曰ㄩㄝ:“我ㄨㄛˇ不ㄅㄨˋ欲ㄩˋ人ㄖㄣˊ之ㄓ加ㄐㄧㄚ诸ㄓㄨ我ㄨㄛˇ也ㄧㄝˇ,吾ㄨˊ亦ㄧˋ欲ㄩˋ无ㄨˊ加ㄐㄧㄚ诸ㄓㄨ人ㄖㄣˊ。”子ㄗˇ曰ㄩㄝ:“赐ㄘˋ也ㄧㄝˇ,非ㄈㄟ尔ㄦˇ所ㄙㄨㄛˇ及ㄐㄧˊ也ㄧㄝˇ。”(《论ㄌㄨㄣˊ语ㄩˇ·公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ长ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》)

Chú thích

1. 加 (Gia): ý chỉ việc người trên áp đặt, không tôn trọng đối với người dưới, không cho tự do lựa chọn theo ý chí của mình.

2. 诸 (Chư): đối với.

3. 赐 (Tứ): Tử Cống họ Đoan Mộc tên là Tứ.

4. 尔 (Nhĩ): bạn, anh (ngôi thứ hai).

Diễn nghĩa

Tử Cống nói rằng: “Trò không muốn người ta áp đặt điều gì đó cho mình, và cũng không muốn áp đặt điều gì đó cho ai”. Khổng Tử nói: “Tử à! Đây không phải là cảnh giới mà trò hiện nay có thể đạt được”.

Nghiên cứu và phân tích

Việc người khác áp đặt điều gì cho mình và mình áp đặt điều gì cho người khác đều là những việc thường tình mà người bình thường đều rất khó tránh khỏi, trừ các bậc Thánh hiền. Ngay cả những người có tri thức nếu muốn thoát khỏi những can nhiễu bên ngoài khiến người ta khó thanh tỉnh tự tại, khó ước thúc ngôn hành của bản thân, thì trong một thời gian ngắn cũng rất khó làm được. Chỉ có trường kỳ tu tâm dưỡng tính, quy chính ngôn hành cử chỉ, từ đó tư tưởng được thăng hoa và hoàn trả những gì đã nợ người khác thì mới thực sự đạt được cảnh giới như ý nguyện, siêu nhiên, thoát ra khỏi sự hỗn loạn, bụi bặm và phiền toái nơi trần gian. Ngược lại, người có cái tôi càng lớn và càng cho mình là đúng thì lại càng dễ biểu hiện ra sự áp đặt đối với người khác, hơn nữa tất nhiên càng khó dung nhẫn sự áp đặt của người khác lên mình, họ chính là mâu thuẫn như thế. Nguyện vọng của Tử Cống là tốt, nhưng cảnh giới đó không phải cứ mong cầu là được, mà cần phải dốc sức làm thì mới có thể đạt được.

Câu hỏi mở rộng

1. Có một số người luôn cho rằng mình rất hoàn hảo, phóng túng bản thân theo những suy nghĩ phù phiếm, viển vông, vọng tưởng, mơ mộng mà không muốn thanh tỉnh ra. Tại sao người ta luôn không thể đối diện với hiện thực, đối diện với sự không hoàn hảo của bản thân, nhìn thẳng vào những lỗi lầm mà mình đã từng mắc phải? Chỉ dựa vào những suy nghĩ đẹp đẽ viển vông thì có thể khiến bản thân đạt được cảnh giới đó hay sao? Bạn hãy nghĩ xem mình có những khuyết điểm gì, cần khắc phục những khuyết điểm đó như thế nào?

2. Con người không phải bậc Thánh hiền, ai cũng từng có lỗi lầm. Nếu mình gây tổn thương cho người khác, thì theo lý công bằng mà nói, mình nhất định phải bồi thường sự đau khổ đó cho người ta. Nhưng rất nhiều người lại không thể đối diện, không thể chấp nhận được sự thực này, mà lại cứ một mực chán ghét và trốn chạy, cho rằng ông Trời bất công với mình. Bạn hãy thử làm điều này: lần sau khi bạn cảm thấy người khác đang áp đặt điều gì đó cho mình thì hãy cứ thử thản nhiên tiếp nhận, không trốn tránh, hơn nữa tự nhìn lại mình xem đã từng áp đặt điều gì cho người khác chưa?

Câu chuyện lịch sử

Khoan dung nhân hậu, không tính toán lỗi lầm của người khác

Khi thừa tướng nhà Tống Ngụy quốc công Hàn Kỳ làm thống lĩnh quân đội ở Định Vũ, một buổi tối ông cần ngồi viết thư nên gọi một người lính canh đến bên cạnh cầm nến cho mình. Người lính canh bất cẩn nhìn đi chỗ khác, làm cho nến cháy vào tóc mai của ông, ông lập tức dùng tay áo dập lửa rồi tiếp tục viết thư. Một lúc sau, ông quay đầu lại nhìn thì thấy đã đổi người lính canh khác cầm nến. Hàn Kỳ lo lắng người lính canh đó bị cấp trên trừng phạt nên đã vội vàng nói với cấp trên của anh ta rằng: “Đừng đổi người khác, anh ta đã hiểu cách cầm nến như thế nào rồi”. Vì thế quan binh trong quân đội đều rất khâm phục ông.

Khi Hàn Kỳ trấn thủ phủ Đại Danh, có người dâng lên cho ông hai chiếc chén ngọc, nói rằng: “Đây là hai chiếc chén ngọc do người nông dân tìm thấy khi khai quật mộ, từ trong ra đến ngoài không có một tỳ vết, quả là những báu vật tuyệt thế vô song!”. Hàn Kỳ lấy ngân lượng thưởng cho người dâng chén ngọc. Ông vô cùng yêu thích hai chiếc chén ngọc ấy, mỗi khi mở yến tiệc thiết đãi quan khách ông đều cho bày hai chiếc chén đó lên, dùng vải gấm lót bên dưới và đặt chén lên trên.

Một hôm, vị quan viên lo việc trà nước chuẩn bị rót rượu vào hai chiếc chén ngọc để thiết đãi quan khách thì chẳng may bị một người lính canh bất cẩn đụng phải khiến cho hai chiếc chén ngọc vỡ tan tành. Quan khách ai nấy đều kinh ngạc sững sờ, người lính canh ấy vội vàng quỳ xuống đất đợi trừng phạt. Hàn Kỳ khuôn mặt không biến sắc, cười nói với quan khách rằng: “Phàm là đồ vật bị hỏng hay không hỏng cũng đều là vận số của chúng”. Một lúc sau ông quay sang nói với người lính canh kia rằng: “Ngươi do bất cẩn mà phạm lỗi chứ không phải cố ý, vậy có gì là sai?” Quan khách đều thán phục trước tấm lòng khoan dung độ lượng của Hàn Kỳ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải luận ngữ (35): Vô gia chư nhân (Không áp đặt cho người khác) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vợ chồng trẻ gây mâu thuẫn lớn, cách giải quyết của hai bậc cha mẹ này đáng để học hỏihttps://chanhkien.org/2024/11/vo-chong-tre-gay-mau-thuan-lon-cach-giai-quyet-cua-hai-bac-cha-me-nay-dang-de-hoc-hoi.htmlSun, 10 Nov 2024 02:15:05 +0000https://chanhkien.org/?p=34903Tác giả: Bút Canh [ChanhKien.org] Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng tranh cãi nhau là điều khó tránh khỏi, nếu không nhường nhịn nhau thì đôi khi sẽ dẫn đến mâu thuẫn lớn hơn. Ví như con cái than vãn với cha mẹ hoặc vợ giận dỗi chạy về nhà mẹ đẻ, cha mẹ […]

The post Vợ chồng trẻ gây mâu thuẫn lớn, cách giải quyết của hai bậc cha mẹ này đáng để học hỏi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Bút Canh

[ChanhKien.org]

Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng tranh cãi nhau là điều khó tránh khỏi, nếu không nhường nhịn nhau thì đôi khi sẽ dẫn đến mâu thuẫn lớn hơn. Ví như con cái than vãn với cha mẹ hoặc vợ giận dỗi chạy về nhà mẹ đẻ, cha mẹ hai bên vì xót con mình nên thường xử lý tình huống không đúng mực. Khi đó, không những vấn đề không thể giải quyết được mà còn có thể phát triển thành mâu thuẫn giữa hai gia đình. Vậy, người xưa làm cách nào để giải quyết những mâu thuẫn gia đình hóc búa như vậy?

Thời nhà Đường, sau “Loạn An Sử”, những cuộc xâm lấn từ các dân tộc thiểu số như Hồi Hột, Đột Quyết liên tiếp xảy ra khiến nhà Đường rơi vào tình thế nguy cấp và bách tính phải chịu nỗi khổ lưu lạc ly tán. Quách Tử Nghi, một danh tướng thời Đường, đã nhiều lần lật ngược tình thế và đánh bại kẻ thù, kéo dài thời gian trị vì của triều đại nhà Đường. Để khen thưởng cho công lao của Quách Tử Nghi, Đường Đại Tông Lý Dự đã gả con gái là công chúa Thăng Bình cho con trai của Quách Tử Nghi là Quách Ái làm thê tử.

Một lần, hai vợ chồng Quách Ái cãi nhau vì một số chuyện vụn vặt, công chúa Thăng Bình cao giọng ra vẻ bản thân mình danh giá. Quách Ái sôi gan, rất tức giận nói: “Nàng làm công chúa thì có gì xuất sắc chứ? Nếu không có sự đóng góp của phụ thân ta, thì ngai vàng của phụ thân nàng có thể ngồi vững không? Chẳng qua là phụ thân ta không để tâm đến việc làm Hoàng đế, nếu không ông đã chiếm lấy từ lâu rồi”.

Công chúa nghe xong thì tức giận chạy về “nhà mẹ đẻ” khóc lóc và kể lể với Đại Tông. Những lời đại nghịch bất đạo kia của Quách Ái đương nhiên cũng truyền tới tai Hoàng đế. Sau khi Quách Tử Nghi biết chuyện, ông lập tức trói con trai lại và vào cung thỉnh tội trước Hoàng đế. Tuy nhiên, Đại Tông lại xem nhẹ và nói: “Ngạn ngữ nói ‘Bất si bất lung, bất tố gia ông’ [Không ngây ngô không điếc, thì không làm cha vợ (cha chồng)]. Con trai, con dâu cãi nhau đều là lời nói trong lúc tức giận, làm người lớn hà tất phải quan tâm?”

Sau đó, Quách Tử Nghi đã đưa Quách Ái về nhà và đánh anh ta mấy chục gậy. Kết quả là một cơn sóng gió ngất trời đã tan thành mây khói nhờ sự “hoà giải” đầy trí tuệ.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/277123

The post Vợ chồng trẻ gây mâu thuẫn lớn, cách giải quyết của hai bậc cha mẹ này đáng để học hỏi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiên cổ thần tướng Nhạc Phi truyện (1): Giáo dục có phương pháp – Thiếu niên Nhạc Phi lập chí tận trunghttps://chanhkien.org/2024/11/thien-co-than-tuong-nhac-phi-truyen-1-giao-duc-co-phuong-phap-thieu-nien-nhac-phi-lap-chi-tan-trung.htmlSat, 09 Nov 2024 03:23:29 +0000https://chanhkien.org/?p=34896Tác giả: Liễu Địch [ChanhKien.org] Nhạc Phi từ nhỏ đã lập chí tận trung báo quốc. (Ảnh: The Epoch Times) Năm 1103, cũng chính là vào những năm cuối của nhà Bắc Tống, danh tướng kháng Kim nổi tiếng nhất của Trung Quốc – Nhạc Phi sinh ra trong một gia đình nhà nông tại […]

The post Thiên cổ thần tướng Nhạc Phi truyện (1): Giáo dục có phương pháp – Thiếu niên Nhạc Phi lập chí tận trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Liễu Địch

[ChanhKien.org]

Nhạc Phi từ nhỏ đã lập chí tận trung báo quốc. (Ảnh: The Epoch Times)

Năm 1103, cũng chính là vào những năm cuối của nhà Bắc Tống, danh tướng kháng Kim nổi tiếng nhất của Trung Quốc – Nhạc Phi sinh ra trong một gia đình nhà nông tại huyện Thang Âm của Tương Châu (nay là An Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Tổ tiên của ông nhiều đời làm nông, cha mẹ sống trong cảnh bần hàn. Nhưng chính trong một gia đình bình thường như thế lại dạy dỗ được một vị đại anh hùng lưu danh thiên cổ.

Nhà Nhạc Phi mặc dù nghèo khổ, không được sống những tháng ngày sung túc, nhưng ông từ nhỏ đã nhận được sự giáo dục vô cùng tốt. Ông có cha mẹ là những người có đạo đức cao thượng, lại có một người thầy võ nghệ cao cường, họ đều là những người đã trợ giúp ông trên con đường trưởng thành. Ví như cha của ông, trong “Tống sử” có viết, cha của Nhạc Phi là Nhạc Hòa, bản thân ngày ngày sống trong cảnh tiết kiệm, nhịn ăn nhịn mặc, nhưng luôn tìm mọi cách giúp đỡ hàng xóm láng giềng, là một người đại lương thiện sống theo đạo lý truyền thống, hay giúp người khác trong lúc nguy nan.

Nếu hoa màu của nhà người khác mọc quá sang ruộng nhà ông thì Nhạc Hòa liền giúp họ chăm sóc chúng, đến lúc thu hoạch thì mang sang trả lại cho họ; nếu có người đến mượn tiền, Nhạc Hòa cũng không yêu cầu người ta trả lại.

Lúc Nhạc Phi ra đời, trên nóc nhà có một con chim lớn thần kỳ bay qua, cảnh tượng vô cùng tráng lệ. Cha mẹ ông nhìn thấy, tin tưởng con mình sau này rất có thể sẽ trở thành bậc lương đống của quốc gia, liền đặt tên cho ông là “Nhạc Phi”, sau này lấy tự là “Bằng Cử”, Bằng nghĩa là chim bằng – loài chim người xưa cho là to lớn nhất, Cử nghĩa là sinh ra. Từ tên gọi này, có thể thấy cha mẹ gửi gắm vào ông rất nhiều hy vọng.

Mẹ của Nhạc Phi là người có đạo đức cao thượng, bà đã cho ông sự giáo dục tốt nhất và cũng là gia tài quý giá nhất trong đời của Nhạc Phi. Tranh “Liên sinh quý tử đồ” của Lãnh Mai thời nhà Thanh. (Ảnh thuộc sở hữu cộng đồng)

Mẹ của Nhạc Phi là Diêu Thị, cũng là một phụ nữ cực kỳ trí tuệ. Nhạc Phi sinh ra chưa đầy tháng, đê sông Hoàng Hà bị vỡ, huyện Thang Âm gặp phải một trận đại hồng thủy. Trong cơn tai ương không ngờ mà đến ấy, Nhạc mẫu trong cái khó ló cái khôn, ôm Nhạc Phi nhảy vào trong một cái chum lớn. Hai mẹ con ngồi trong chum, dập dềnh theo sóng nước, mãi cho tới khi dạt vào bờ mới được người dân cứu lên.

Trong lâm nguy bình tĩnh mà không loạn, rơi vào chỗ chết nhờ vào mưu trí mà tìm được đường sống, đều là tố chất cần có trên chiến trường. Nhạc Phi đều có lĩnh ngộ tự thân đối với binh pháp và thực chiến, chưa hề thua trận, phải chăng là được di truyền từ sự dũng cảm của mẹ ông?

Nhạc Phi thời còn niên thiếu, dưới ảnh hưởng của cha mẹ, cũng đã biểu hiện ra năng lực phi phàm. Ông bản tính đôn hậu, dụng tâm nghiên cứu sách sử và binh pháp, rất tâm đắc với “Tả Thị Xuân Thu” và “Tôn Ngô Binh Pháp”. Ông còn là bậc kỳ tài võ học có thần lực trời cho, chưa đến 20 tuổi đã kéo được cung ba trăm cân (1 cân bằng ½ kg), nỏ tám thạch (1 thạch bằng 120 cân).

Đương nhiên, ngọc bất trác bất thành khí, Nhạc Phi bái Chu Đồng là bậc danh gia võ học hào hiệp trứ danh lịch sử làm thầy, nắm giữ tuyệt kỹ khai cung. Sau này, Nhạc Phi đem loại võ nghệ này truyền lại cho tướng sĩ dưới trướng, nâng vọt năng lực thực chiến của quân Tống.

Sau khi Chu Đồng tạ thế, Nhạc Phi rất đau lòng, mỗi lần vào mùng một, ngày rằm đều mang rượu thịt đến trước mộ thầy tế bái. Nhạc Hòa biết được lòng hiếu thuận của ông, rất tán thưởng, cũng kịp thời nhắc nhở ông ý nghĩa chân chính của việc đọc sách và luyện võ: “Nếu như sau này con có cơ hội báo ân đền đáp quốc gia, thì có thể vì nước mà hy sinh, xả thân vì nghĩa không?”. Khổng Tử từng nói: “Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả” (tạm dịch: một thôn có mười nhà, ắt có người trung tín như họ Khâu ta). Nhạc Hòa chẳng phải chính là hiền nhân trung nghĩa báo quốc mà Khổng Tử từng nói hay sao?

Vào thời điểm ấy, triều Tống trong ngoài rối ren nghiêm trọng, nước Kim ở phương Bắc nhìn chằm chằm như hổ đói. Đối với Nhạc Phi văn võ song toàn mà nói, sinh ra trong thời loạn thế, đây chính là lúc ông vì quốc gia mà dốc sức. Năm thứ hai Tuyên Hòa, tức năm 1120, hai nước Tống Kim nhất trí với “Hải thượng minh ước”, cùng nhau tấn công nước Liêu. Tướng nhà Tống là Lưu Cáp chiêu mộ “Cảm chiến sĩ”, Nhạc Phi lúc ấy 20 tuổi sức vóc đầy mình là một trong những dũng sĩ tham gia ứng tuyển.

Đánh giặc là một việc hết sức nguy hiểm, có khả năng phải mất đi sinh mệnh, mà quân đội thì nam chinh bắc chiến, không có nơi ở cố định, nên có thể nói vào thời chiến loạn, các tướng sĩ gần như đoạn tuyệt liên hệ với người thân. Mặc dù Nhạc Phi lập chí tòng quân, nhưng người xưa dạy “Phụ mẫu tại, bất viễn du” (tạm dịch: cha mẹ vẫn còn thì không đi xa) khiến ông khó lòng rời bỏ quê hương, rời xa người thân đang già cả của mình.

Chu Đồng dạy Nhạc Phi thuật bắn cung. (Ảnh thuộc sở hữu của cộng đồng)

Lúc ấy, người mẹ vừa thông minh vừa đại nghĩa của Nhạc Phi đã đứng ra dạy con, lưu lại câu chuyện “Nhạc mẫu thích chữ” truyền mãi đến muôn đời sau. Trong “Thuyết Nhạc toàn truyện” có viết, Nhạc mẫu đã giúp Nhạc Phi giải quyết vấn đề khó khăn “Trung hiếu không cách nào vẹn cả đôi đường”. Bà đã đích thân thích lên trên lưng ông bốn chữ “Tinh trung báo quốc”, dùng kim thêu thích từng điểm từng điểm, rồi dùng mực giấm tô lên. Từ đó, Nhạc Phi kiên định với lòng tin ra trận giết địch, trung quân báo quốc, sống cả một đời hành quân đánh trận.

“Tống sử” cũng viết rằng, khi Nhạc Phi chịu oan bị đưa vào trong ngục, ông vì để chứng minh sự trong sạch đã để lộ lưng mình ra. Viên quan thẩm vấn nhìn thấy bốn chữ lớn “Tinh trung báo quốc” thích trên lưng ông, chữ nào cũng hằn sâu vào trong cơ bắp, đã chấn động sâu sắc! Bất kể là “Tinh trung báo quốc” hay là “Tận trung báo quốc”, đều là thể hiện chân thực sự trung thành và can đảm của Nhạc Phi. Dưới sự giáo dục trường kỳ của cha mẹ, ông không quên nỗi nhục của đất nước, quyết chí thu phục lại non sông, lưu lại trong lịch sử hình tượng văn hóa trung nghĩa cảm động lòng người.

Sau khi đứng vào hàng tướng, ông hồi tưởng lại đời quân ngũ của mình và nói: “Lúc đất nước mới bình định được đất Yến Vân, ta mới búi tóc thành niên, bắt đầu tòng quân. Ta phát lời thề vì quốc gia mà tận tâm tận lực, đã sớm quên đi gia đình nhỏ của chính mình”. Lời này không chỉ khái quát lại một đời trên lưng ngựa của Nhạc Phi, mà còn ngưng đọng những lời dạy bảo mà cha mẹ ông đã khổ tâm giáo dục con mình!

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.epochtimes.com/b5/18/9/29/n10750460.htm

The post Thiên cổ thần tướng Nhạc Phi truyện (1): Giáo dục có phương pháp – Thiếu niên Nhạc Phi lập chí tận trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Điển cố Trung Hoa: Tà không áp chế được chínhhttps://chanhkien.org/2024/11/dien-co-trung-hoa-ta-khong-ap-che-duoc-chinh.htmlFri, 08 Nov 2024 03:57:37 +0000https://chanhkien.org/?p=34890Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] “Tà không áp chế được chính”, điển cố này xuất phát từ “Liêu Sử – Vương Đỉnh truyện”, ngày nay người ta cũng có câu “Tà không áp đảo được chính” hoặc “Tà không thắng được chính”, đều có nghĩa là tà thuật không thể áp đảo được chính khí. […]

The post Điển cố Trung Hoa: Tà không áp chế được chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

“Tà không áp chế được chính”, điển cố này xuất phát từ “Liêu Sử – Vương Đỉnh truyện”, ngày nay người ta cũng có câu “Tà không áp đảo được chính” hoặc “Tà không thắng được chính”, đều có nghĩa là tà thuật không thể áp đảo được chính khí.

Vương Đỉnh là đại thần vào thời Đạo Tông nước Liêu, ông từ nhỏ siêng năng học hành, thông kim bác cổ, sau này trở thành trọng thần của nước Liêu.

Khi Vương Đỉnh còn làm quan huyện, một hôm khi đang nằm nghỉ trong sân thì đột nhiên một trận cuồng phong thổi tới, hất văng chiếc chõng của ông lên không trung. Vương Đỉnh lúc này không một chút sợ hãi, mà chỉ cảm thấy mình với chiếc gối và chiếc chõng cùng bay lên cao. Ông liền nói: “Ta là mệnh quan triều đình, tà không áp chế được chính, hãy từ từ đặt ta xuống”.

Một lát sau, chiếc chõng rơi xuống đúng chỗ cũ, gió cũng đã ngừng thổi.

Từ cổ chí kim, có rất nhiều ví dụ chứng minh “Tà không áp chế được chính”. Mặc dù đôi lúc tà ác có thể nhất thời hung hăng hăm dọa, tuy nhiên cuối cùng chính khí vẫn sẽ diệt trừ được yêu ma tà ác.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/49554

The post Điển cố Trung Hoa: Tà không áp chế được chính first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Dương Diên Chiêu truyền kỳhttps://chanhkien.org/2024/11/loat-bai-duong-dien-chieu-truyen-ky.htmlThu, 07 Nov 2024 08:32:23 +0000https://chanhkien.org/?p=34889Tác giả: Ngưỡng Nhạc [ChanhKien.org] Uy chấn Đảo Mã Quan Dương Diên Chiêu Thần tiễn xạ Tam Xuyên (1) Dương Diên Chiêu Thần tiễn xạ Tam Xuyên (2) Bảo vệ Phật Pháp – múa kiếm đẩy lùi quân địch Giếng cổ sinh mộc Tiêu Tán dùng diệu kế cứu dân Bắt quân Liêu ở thành […]

The post Loạt bài: Dương Diên Chiêu truyền kỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngưỡng Nhạc

[ChanhKien.org]

Uy chấn Đảo Mã Quan

Dương Diên Chiêu Thần tiễn xạ Tam Xuyên (1)

Dương Diên Chiêu Thần tiễn xạ Tam Xuyên (2)

Bảo vệ Phật Pháp – múa kiếm đẩy lùi quân địch

Giếng cổ sinh mộc

Tiêu Tán dùng diệu kế cứu dân

Bắt quân Liêu ở thành Áp Nga

Dùng trí thu phục Mạnh Lương và Tiêu Tán

Trận Bối Thủy đánh bại Hàn Xương

Vết đao Lục Lang

Ba lần chiến ác long ở suối Nhất Mẫu

Trời xanh phân rõ người trung kẻ gian

Câu chuyện về Mã bào tuyền

Lục Lang khéo léo bày bố Khẩu Đại trận

Đấu cờ ở bàn cờ đá, ba mũi tên đẩy lùi Liêu binh

Không thành kế

Nhân duyên định mệnh trong thời loạn thế (1)

Nhân duyên định mệnh trong thời loạn thế (2)

Nhân duyên định mệnh trong thời loạn thế (3)

Mạnh Lương dùng trí bắt tướng Liêu Đại Bằng

Trận Hỏa Ngưu đánh bại Hàn Xương

Nữ tướng Dương gia đại phá kỵ binh thiết giáp

Dương Diên Chiêu uy chấn Tam Quan

Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (1)

Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (2)

The post Loạt bài: Dương Diên Chiêu truyền kỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Đễ)https://chanhkien.org/2024/11/loat-bai-cau-chuyen-dao-duc-truyen-thong-trung-hoa-de.htmlThu, 07 Nov 2024 08:27:43 +0000https://chanhkien.org/?p=34888Tác giả: Thiện Duyên [ChanhKien.org] Phần 1: Thái Bá hái thuốc Phần 2: Triệu Hiếu tranh chết Phần 3: Hứa Vũ dạy em Phần 4: Khương Quăng yêu thương các em Phần 5: Mậu Đồng tự trách Phần 6: Vương Lãm tranh rượu độc Phần 7: Canh Cổn hầu dịch Phần 8: Lưu Tấn thắt […]

The post Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Đễ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Duyên

[ChanhKien.org]

Phần 1: Thái Bá hái thuốc

Phần 2: Triệu Hiếu tranh chết

Phần 3: Hứa Vũ dạy em

Phần 4: Khương Quăng yêu thương các em

Phần 5: Mậu Đồng tự trách

Phần 6: Vương Lãm tranh rượu độc

Phần 7: Canh Cổn hầu dịch

Phần 8: Lưu Tấn thắt đai lưng

Phần 9: Ngưu Hồng không hỏi

Phần 10: Điền Chân thán kinh

The post Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Đễ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Hiếu)https://chanhkien.org/2024/11/loat-bai-cau-chuyen-dao-duc-truyen-thong-trung-hoa-hieu.htmlThu, 07 Nov 2024 08:25:46 +0000https://chanhkien.org/?p=34887Tác giả: Thiện Duyên [ChanhKien.org] Phần 1: Ngu Thuấn cày ruộng Phần 2: Trọng Do vác gạo Phần 3: Áo bông lau của Mẫn Tử Khiên Phần 4: Tăng Sâm nuôi chí Phần 5: Lão Lai mặc y phục sặc sỡ Phần 6: Đàm Tử lấy sữa hươu Phần 7: Hán Văn Đế tự thân […]

The post Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Hiếu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiện Duyên

[ChanhKien.org]

Phần 1: Ngu Thuấn cày ruộng

Phần 2: Trọng Do vác gạo

Phần 3: Áo bông lau của Mẫn Tử Khiên

Phần 4: Tăng Sâm nuôi chí

Phần 5: Lão Lai mặc y phục sặc sỡ

Phần 6: Đàm Tử lấy sữa hươu

Phần 7: Hán Văn Đế tự thân nếm thuốc

Phần 8: Quách Cự mai táng con

Phần 9: Giang Cách cõng mẹ

Phần 10: Thái Thuận nhặt dâu

The post Loạt bài: Câu chuyện đạo đức truyền thống Trung Hoa (Hiếu) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Loạt bài: Khái quát về văn hóa Trung Quốchttps://chanhkien.org/2024/11/loat-bai-khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc.htmlThu, 07 Nov 2024 08:23:49 +0000https://chanhkien.org/?p=34886Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1) Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế Chương 2: Con cháu Viêm Hoàng, dân tộc Hoa Hạ, dân tộc Hán và nền văn hóa xán lạn huy hoàng Khái quát về Văn hóa Trung […]

The post Loạt bài: Khái quát về văn hóa Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 1)

Chương 1: Khởi nguyên của dân tộc Trung Hoa: Thần thoại về sáng thế

Chương 2: Con cháu Viêm Hoàng, dân tộc Hoa Hạ, dân tộc Hán và nền văn hóa xán lạn huy hoàng

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 2): Phạm vi địa lý của Trung Quốc

Chương 3: Phạm vi địa lý của Trung Quốc

Sự phát triển của lãnh thổ Trung Quốc cổ đại dưới thời các triều đại sau khi nhà Tần thống nhất đất nước

Lãnh thổ vào thời kỳ cuối triều Thanh và Trung Hoa Dân Quốc

Lãnh thổ Trung Quốc hiện nay

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 3): 24 tiết khí và Rồng Trung Quốc

Chương 4: 24 tiết khí của Trung Quốc

Chương 5: Rồng Trung Quốc

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 4): Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc

Chương 6: Những ngày lễ tết truyền thống của Trung Quốc

Tết Nguyên Đán Trung Quốc

Tết Nguyên Tiêu

Tết Đoan Ngọ

Tết Trung Thu

Đông chí

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 5): Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc

Chương 7: Màu sắc trong văn hóa truyền thống Trung Quốc

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 6): Họ tên của người Trung Quốc

Chương 8: Họ tên của người Trung Quốc

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 7): Chữ Hán Thần truyền

Chương 9: Chữ Hán Thần truyền

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 8): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (1)

Chương 10: Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc

Khổng Tử – Nho gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 9): Nho, Thích, Đạo và văn hóa truyền thống Trung Quốc (2)

Lão Tử – Đạo gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Thích Ca Mâu Ni – Phật gia – Văn hóa truyền thống Trung Quốc

Khái quát về văn hóa Trung Quốc (Phần 10): Sự phát triển của âm nhạc truyền thống Trung Quốc

Khái quát về văn hóa Trung Quốc (Phần 11): Nghệ thuật hang động Trung Quốc

Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (Phần 12): Phượng hoàng tới báo điềm lành

The post Loạt bài: Khái quát về văn hóa Trung Quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (6)https://chanhkien.org/2024/11/an-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-6.htmlThu, 07 Nov 2024 04:30:42 +0000https://chanhkien.org/?p=34884(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Sự xuất hiện của dự ngôn «Thôi Bối Đồ» Khi lịch sử nhà Đường vừa được vén màn, cũng vừa mới bước vào thời đại thịnh Đường trong thời Thái Tông, tưởng chừng còn chưa biết hướng đi tương lai, thì đã xuất hiện […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Sự xuất hiện của dự ngôn «Thôi Bối Đồ»

Khi lịch sử nhà Đường vừa được vén màn, cũng vừa mới bước vào thời đại thịnh Đường trong thời Thái Tông, tưởng chừng còn chưa biết hướng đi tương lai, thì đã xuất hiện hai kỳ nhân, cùng biên soạn một cuốn sấm đồ dự ngôn về lịch sử của hậu thế – «Thôi Bối Đồ», họ chính là Tư thiên giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang trong những năm Trinh Quán Đường sơ. «Thôi Bối Đồ» tổng cộng có 60 bức đồ tượng (tranh vẽ), dưới mỗi bức đều có sấm ngữ và một bài thơ luật “tụng viết”, đó là những dự ngôn về những sự việc trọng đại qua các triều đại ở Trung Quốc từ triều đại nhà Đường đến ngày nay và cho đến cả tương lai.

Vì tính chính xác của «Thôi Bối Đồ», nên một số người đã hoài nghi rằng nó là sản phẩm bịa đặt của hậu nhân mà thôi.

Có rất nhiều giải thích về «Thôi Bối Đồ», nhưng có ảnh hưởng lớn nhất vẫn là chú giải của Kim Thánh Thán. Kim là người trong thời Minh mạt và Thanh sơ, đã chứng kiến sự thay đổi triều đại của nhà Minh và nhà Thanh. Ông đã nói về tượng thứ 33 trong «Thôi Bối Đồ» như sau: “Tượng này là điềm chỉ người Mãn Thanh vào quan ải, tráo khách thành chủ chỉ là khí số thành ra như vậy, không phải dựa vào sức người là có thể vãn hồi. Liêu Kim tiếp sau người Hồ làm chủ Trung Nguyên, tộc người Hán lỗi lạc chớ có vì thế mà hổ thẹn”.

Từ tượng 34 trở đi đã là những chuyện sau khi Kim qua đời, trong những năm Kim còn sống không thấy xảy ra những chuyện phù hợp với nội dung của dự ngôn, vậy nên khi giải tượng này ông đã nói: “Chứng thực những chuyện đã qua thì dễ, suy đoán những chuyện tương lai mới khó, nhưng mà chứng thực chuyện trước đây, có lẽ không thể không suy đoán đến tương lai. Ta chỉ mong từ nay về sau, những điều mà ta nói là thái bình may sao đều trúng, còn những điều mà ta nói không thái bình thì may sao không trúng, và ta có thể nói là vô tội. Tượng này e là gặp thủy tai hoặc là việc quân và thiên tai cùng lúc, bấy giờ rất loạn”.

Trên thực tế, những dự ngôn thông thường có một đặc điểm là chỉ sau khi sự việc xảy ra rồi thì mới xem hiểu. Còn trước đó thì các dự ngôn luôn khiến người ta cảm giác thấy mập mờ vừa đúng vừa sai, tựa như cố ý không để người ta biết được quá rõ ràng. Vậy nên các dự ngôn thường dùng các phép ẩn dụ, đồng âm, đoán chữ, thậm chí là cả thuật ngữ Ngũ hành và Bát quái, đối với người hiện đại từ nhỏ đã học lối văn bạch thoại mà nói thì càng khó khăn hơn. Ở một mức độ nhất định mà nói, thì tư tưởng của người Trung Quốc hiện đại đã bị cắt đứt khỏi văn hóa truyền thống chân chính. Truyền thống văn hóa của phương Tây càng không có sự bác đại tinh thâm như của Trung Quốc, tuy nhiên ở nhiều phương diện thì người phương Tây lại trân trọng lịch sử của họ hơn, và họ cố gắng để hấp thụ được trí huệ từ trong đó. Công bằng mà nói, có rất nhiều tư tưởng truyền thống mà chúng ta cho rằng không đáng nhắc đến thì phương Tây cũng chẳng có. Rất nhiều vấn đề mà người ta không lý giải được đều được lịch sử đưa ra đáp án, vấn đề là chúng ta có muốn đột phá giới hạn của tư tưởng, bình tĩnh suy xét hay không thôi.

Trong khi giảng giải về lịch sử từ nay về sau, chúng ta sẽ kết hợp cùng với «Thôi Bối Đồ» để xem xét khả năng dự kiến phi thường của nó nhé.

Những dự ngôn liên quan đến khí số nhà Đường trong «Thôi Bối Đồ»

Dự ngôn về khí số nhà Đường trong tượng thứ 2 của «Thôi Bối Đồ».

Trong hình vẽ của tượng thứ 2 vẽ một chiếc đĩa, bên trên đặt 21 quả mận xếp chồng lên nhau, trong đó quả mận thứ 4 không có cuống. Phần chữ tụng viết: “Vạn vật thổ trung sinh, nhị cửu tiên thành thực, nhất thống định Trung Nguyên, âm thịnh dương tiên kiệt”. Thế thì 21 quả mận (tiếng Hán là Lý tử) trong hình vẽ thì biểu thị điều gì đây? Quá rõ ràng, nhà Đường mang họ Lý, trong lịch sử tổng cộng có 21 đời hoàng đế, 21 quả mận ám chỉ nhà Đường họ Lý sẽ có 21 đời, trong đó quả mận thứ tư không có cuống, là có ý gì? Vừa hay đời thứ tư nhà Đường là nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên, bà là con dâu họ Lý chứ không phải là con cháu họ Lý, nên không có cuống.

Trong câu đầu tiên của lời tụng “Vạn vật thổ trung sinh”, chữ “Thổ” có hàm ý sâu sắc, theo học thuyết Thiên Can Địa Chi của người xưa, Thổ thuộc Tuất Kỷ Thổ, lật lại lịch sử của nhà Đường, khi Lý Uyên xưng đế, chính là năm Mậu Dần, tức là năm Thổ. “Nhị cửu” trong câu thứ hai “Nhị cửu tiên thành thực”, báo trước nhà Đường sẽ có thiên hạ trong 290 năm (chữ thành “成” đồng âm chữ thừa “乘” và chữ thực “实”đồng âm chữ thập “十” có nghĩa là 290 năm). Trong lịch sử, thiên hạ của nhà Đường vừa tròn 290 năm. Câu thứ ba “Nhất thống định Trung Nguyên” thì không có ý tứ hàm súc nào khác, câu thứ tư “Âm thịnh dương tiên kiệt” cũng vừa hay chứng thực cho lịch sử nhà Đường sau này, vì nhà Đường từ sau khi Võ Tắc Thiên xưng đế, nữ nhân tham gia chính sự, trở thành phong khí, ví như Vi Hậu can thiệp triều chính, và Trung Tông bị Vi Hậu hạ độc chết, Thái Bình Công chúa liên kết với Lý Long Cơ giết Vi Hậu, cũng là can thiệp triều chính, Lý Long Cơ lại bị mê hoặc bởi Dương Quý Phi, bỏ bê triều chính gây ra họa biến.

Tiếp nối thời kỳ Trinh Quán chi trị – thời đại Đường Cao Tông

*Cao Tông nhân ái hiếu thuận nhưng mềm yếu

Cao Tông Lý Trị là người con trai thứ chín của Đường Thái Tông, mẹ là Trưởng Tôn Hoàng hậu hiền đức. Ông sinh vào tháng sáu năm Trinh Quán thứ 2, lúc năm tuổi được phong làm Tấn vương. Thuở nhỏ khoan dung nhân hậu hiếu thuận dễ mến. Sau khi học xong «Hiếu Kinh», Thái Tông hỏi ông: “Cuốn sách này lời nào là quan trọng?” Lý Trị trả lời: “Đạo hiếu, bắt đầu bằng việc phụng sự phụ mẫu, tiếp đến là phụng sự quân vương, cuối cùng là lập thân. Quân tử phụng sự minh quân, khi tiến triều phải nghĩ làm sao tận trung, lúc thoái triều lại nghĩ làm sao để sửa lỗi của vua, phụng hành thuận theo mỹ đức của vua, uốn nắn bổ cứu cái sai ác của vua”. Thái Tông nghe xong lấy làm cao hứng lắm, do vậy vô cùng yêu thương ông. Năm Trinh Quán thứ 17, Hoàng thái tử Thừa Càn bị phế, Ngụy vương Thái cũng bị truất chức vì có tội, Thái Tông bèn lập Lý Trị làm Hoàng thái tử.

Sau khi Thái Tông qua đời, Lý Trị lên ngôi hoàng đế, tức là Cao Tông, khi ấy 22 tuổi. Năm sau Tấn Châu xảy ra động đất, Cao Tông đã nói với quần thần là bản thân “chính giáo (chính trị và giáo hóa) bất minh” mà ra, do vậy bảo quần thần góp ý khuyên răn, chỉ ra cái được cái mất của chính trị. Cũng năm đó Ung Châu, Giáng Châu, Đồng Châu và chín châu khác xảy ra hạn hán và nạn châu chấu, Tề Châu, Định Châu và 16 châu khác xảy ra lũ lụt. Cao Tông hạ chiếu trách tội bản thân, đồng thời cử người cứu tế nạn dân. Có năm mùa thu mùa đông không có tuyết, Cao Tông bèn lánh xa chính điện, hạ chiếu cắt giảm thức ăn của mình, đồng thời đích thân kiểm tra danh sách tù nhân. Tuy nhiên, cho dù Cao Tông là người nhân từ, cũng mong muốn làm một vị hoàng đế nhân đức. Nhưng với tính cách mềm yếu và thân thể nhiều bệnh tật, ông dần mất đi quyền khống chế triều chính trước Võ Tắc Thiên là người có tâm kế và mưu trí đều hơn hẳn ông.

*Võ Tắc Thiên làm loạn triều chính

Võ tắc Thiên vốn là Tài nhân của Đường Thái Tông. Tên thường gọi là Mị Nương, cha của bà xuất thân trong gia đình vọng tộc ở vùng Thái Nguyên, từng làm nghề buôn gỗ, về sau làm Công bột thượng thư; mẹ bà là hậu duệ gia tộc Dương thị hoàng thất nhà Tùy. Lúc Đường Thái Tông tuyển phi, thứ sử Kinh Châu là Cái Văn Đạt đã tiến cử bà, thấy tên của bà không được hay lắm, bèn đổi tên bà thành Võ Chiếu rồi gửi vào cung.

Đường Thái Tông nhìn thấy thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, tức thì cảm mến, phong làm Tài nhân. Lúc này có Tư Thiên Giám, tức Lý Thuần Phong người biên soạn «Thôi Bối Đồ», biết được Đường thất có họa giết chóc thân vương, vận nữ chủ chuyên quyền đế vị, liền thẳng thắn khuyên can Thái Tông chuyện này, Thái Tông ban đầu không tin, nhưng nghĩ lại thì Lý Thuần Phong dự toán như thần, lời của ông ấy không thể coi nhẹ được, liền thử hỏi trạng nguyên kim khoa là ai, Lý Thuần Phong tức thì trả lời: “nếu hỏi trạng nguyên kim khoa, thì là hỏa khuyển nhị nhân chi kiệt”. Mấy ngày sau triều đình niêm yết bảng vàng, đầu bảng là Địch Nhân Kiệt, đã ứng với câu “hỏa khuyển nhị nhân chi kiệt” (chữ hỏa khuyển ‘火犬’ ứng với chữ Địch ‘狄’, nhị nhân ‘二人’ ứng với chữ Nhân ‘仁’), Thái Tông đến đây thì tin phục Lý Thuần Phong rồi, bèn miễn cưỡng cắt bỏ tình cảm. Sau khi Thái Tông mất, theo lệ Võ Chiếu phải xuất cung đến chùa Cảm Nghiệp xuống tóc làm ni cô.

Vốn bị vẻ đẹp của Võ Tắc Thiên hấp dẫn từ lâu nên sau khi lên ngôi, Đường Cao Tông đã lại đưa bà nhập cung, phong làm Chiêu Nghi. Võ Tắc Thiên hồi cung chưa đến một năm, đã tự tay giết chết đứa con gái ruột của mình, đồng thời giá họa cho Vương Hoàng hậu là người vợ đầu của Đường Cao Tông. Cao Tông lại cho là thật, vì thế muốn phế bỏ Vương Hoàng hậu rồi lập Võ Tắc Thiên lên thay, nhưng chuyện này lại gặp phải sự phản đối kịch liệt của một nhóm đại thần cố mệnh. Võ Tắc Thiên thấy Cao Tông chần chừ không quyết định được, bèn cùng Cao Tông lên điện nghe chính sự. Khi Chữ Toại Lương đứng ra phản đối, Võ Tắc Thiên quát lớn: “Tại sao không giết lão súc sinh này đi!” Văn võ bá quan khắp triều mồ hôi toát đẫm lưng, không ai dám lên tiếng, thế là Võ Tắc Thiên trở thành hoàng hậu.

Võ Tắc Thiên trở thành hoàng hậu thì bắt đầu trừ bỏ những ai từng phản đối việc bà trở thành hoàng hậu. Các trọng thần tiên triều như Chữ Toại Lương, Vu Chí Ninh, Lai Tế, Hàn Viện đều bị lưu đày, cùng toàn bộ con cháu thân thuộc bị tước quan thành dân. Cậu ruột của Cao Tông là Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng trở thành cái gai trong mắt vì không chịu phụng thừa Võ Tắc Thiên, bị bà hận thấu xương, nhưng Trưởng Tôn Vô Kỵ là nguyên lão tam triều khai quốc của Đại Đường cũng là hoàng thân quốc thích, rất được bách tính thiên hạ yêu mến, tiên đế có chiếu: “Cho dù có tội cũng không phải gia hình”, Võ Tắc Thiên liền ép ông treo cổ, sau đó mãn tộc diệt môn, bá tánh thiên hạ không ai không khóc thương cho nỗi oan của quốc cữu. Lúc này Cao Tông mới thấy rõ bản tính tàn nhẫn của bà, trong lúc bi phẫn đã lệnh cho Thượng Quan Nghi thảo chiếu thư phế bỏ hoàng hậu. Tuy nhiên có người đã tức tốc mật báo cho Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên giận dữ tìm đến, Cao Tông hoảng hốt đẩy sự việc lên thân Thượng Quan Nghi, kết quả Võ Tắc Thiên nhuốm máu cả cửu tộc của Thượng Quan Nghi, đến cả mộ tổ tông cũng bị đào lên giày xéo, các đại thần văn võ bị liên lụy cũng đến cả trăm người. Từ đó trong triều đều là tâm phúc của bà, nắm cả thiên hạ, Hoàng đế muốn phế bỏ bà đã là chuyện không tưởng.

Năm 660, do huyết áp cao ảnh hưởng đến thị lực Cao Tông đã giao toàn bộ triều chính cho Võ Tắc Thiên. Từ đó, “Thiên hạ đại quyền, tất cả quy về Trung cung (Hoàng hậu)”, Thiên tử chỉ chắp tay mà thôi, trong và ngoài nước gọi là nhị Thánh”.

Võ Tắc Thiên soán ngôi nhà Đường lập nhà Chu

*Dự ngôn về Võ Tắc Thiên xưng đế trong «Thôi Bối Đồ»

Trong tượng thứ 3 của «Thôi Bối Đồ» là hình một nữ tử tay cầm bảo đao đang đứng. Phần văn tự viết: “Nhật nguyệt đương không, chiếu lâm hạ thổ, phốc sóc mê li, bất văn diệc võ. Tham biến không vương sắc tướng không, nhất triều trùng nhập đế vương cung, di chi bạt tận căn do tại, ốc ốc thần kê thục thị hùng”.

Trong câu “Nhật nguyệt đương không, chiếu lâm hạ thổ” ám chỉ đến cái tên Võ Chiếu, còn có ý tứ là vua coi trị thiên hạ tức chiếu lâm hạ thổ.

“Phốc sóc mê li” là một thành ngữ, bắt nguồn từ điển cố Hoa Mộc Lan tòng quân, chuyện kể rằng Mộc Lan là nữ cải nam trang sống 13 năm trong quân đội, trong quân không ai biết được nàng là nữ nhân, cũng chính là nói nam là nữ, là thư (nữ) là hùng (nam), ai cũng không phân rõ được. Lý Thuần Phong mượn điều này để nói việc Võ Tắc Thiên ban đầu là tài nữ, ai cũng không biết bà về sau sẽ tráo đổi vận mệnh nữ thành nam trở thành nữ hoàng đế.

“Tham biến không vương sắc tướng không”, Thái Tông lấy giang sơn làm trọng tin vào dự ngôn của Lý Thuần Phong về nữ tử làm loạn triều chính, miễn cưỡng cắt bỏ tình cảm, và tránh xa Võ Tắc Thiên. Nhưng sau khi Đường Thái Tông băng hà, Cao Tông Lý Trị lên ngôi vốn từng ngưỡng mộ vẻ đẹp của Võ Chiếu nên lại cho đón bà vào trong cung, phong làm Chiêu Nghi, điều này đã ứng với câu “Nhất triều trùng nhập đế vương cung”. Sau khi Võ Tắc Thiên vào cung, trước tiên dùng âm mưu thủ đoạn phế đi Vương Hoàng hậu, tự mình giành lấy ngôi vị hoàng hậu; sau đó buông rèm chấp chính, cùng với Cao Tông xưng là Thiên đế Thiên hậu; sau khi Cao Tông mất, bà phế Trung Tông, và chính thức xưng đế, đổi quốc hiệu thành Chu, đồng thời giết chóc và lưu đày lượng lớn các tông thất và đại thần Lý Đường, thời điểm ấy Thái tử Lý Đán con của Vương Hoàng hậu, tức Duệ Tông sau này, chỉ mới mấy tuổi, được thái giám Đỗ Hồi lặng lẽ đưa đến chỗ của Giang Hạ Vương Lý Khai Phương nên may mắn thoát nạn, điều này ứng với câu “Di chi bạt tận căn do tại”.

“Ốc ốc thần kê thục thị hùng” đương nhiên là chỉ việc Võ Tắc Thiên xưng đế, có ý chỉ việc tráo nữ thành nam, mà kê trong thần kê chính là chỉ sự việc trong năm con gà, năm Võ Thị xưng đế chính là năm Kỷ Dậu, tức năm con gà.

*Võ Tắc Thiên soán ngôi nhà Đường xưng đế

Sau khi Cao Tông lên ngôi, thân thể luôn không được tốt, liền muốn nhường ngôi cho Thái tử Lý Hoằng. Võ Tắc Thiên bất chấp tình mẫu tử, dùng rượu độc sát hại thái tử, đổi lập con thứ Lý Hiền làm thái tử. Lý Hiền vừa có tài cán vừa có văn chương, rất có tiếng tăm trong các nhân sĩ, nên Võ Tắc Thiên lại phế ông làm thứ dân, rồi lập con trai thứ ba là Lý Hiển làm thái tử.

Năm 683 Cao Tông băng hà, truyền ngôi cho Lý Hiển, tức là Trung Tông, Võ Tắc Thiên bèn dùng danh nghĩa hoàng thái hậu giám triều xưng chế. Sang năm thứ hai thì phế Lý Hiển làm Lư Lăng vương, rồi lập người con trai thứ tư là Lý Đán, tức Duệ Tông, nhưng Võ Tắc Thiên vẫn độc tài triều chính.

Năm 684, Tư Mã Từ Kính Nghiệp của Liễu Châu hiệu triệu cứu vãn Đường thất, ủng hộ Lư Lăng vương, tiến hành khởi binh ở Dương Châu, số người từng lên đến hơn 10 vạn. Năm 688, tông thất Lý Xung ở Bác Châu (Liêu Thành Sơn Đông), Lý Trinh ở Dự Châu (Nhữ Nam Hà Nam) lại khởi binh chống lại Võ Tắc Thiên. Hai lần khởi binh này rất mau chóng bị Võ Tắc Thiên phái binh đánh tan. Những tông thất nhà Đường và các đại thần có liên đới trong hai lần khởi binh này đều bị Võ Tắc Thiên trấn áp tàn khốc. Từ đó trong hoàng tộc không còn nghe thấy tiếng phản đối nữa.

Năm 690 Võ Tắc Thiên xưng đế, đổi nhà Đường thành nhà Chu, lấy Lạc Dương làm đô thành, giáng Đường Duệ Tông làm hoàng tự. Hết thảy những gì đã xảy ra đều chính xác như dự ngôn trong «Thôi Bối Đồ».

Thời kỳ Võ Tắc Thiên đương quyền

Ngay khi Võ Tắc Thiên bắt đầu nắm giữ triều chính, bà đã bổ nhiệm người của gia tộc Võ Thị lên nắm giữ chính sự, và bắt đầu sử dụng những người tố giác và những quan lại tàn bạo để thi hành nền thống trị hà khắc. Do đó những người như Võ Tam Tư, Võ Thừa Tự, Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, Khưu Thần Tích lần lượt nắm giữ trọng quyền triều chính. Họ ăn hối lộ làm trái luật pháp, lạm sát người vô tội, đấu đá lẫn nhau, tàn hại trung lương. Từ đó trong ngoài triều đình trên dưới ai nấy tự thấy nguy hiểm, rón rén run sợ qua ngày. Tuy rằng Võ Tắc Thiên cũng đã cất nhắc một số đại thần thanh liêm tài năng như Địch Nhân Kiệt, Lý Kiểu nhưng trong chốn triều cương tàn sát thành tính hủ bại thành lệ này thì chẳng qua cũng chỉ là hạt gạo trên sông mà thôi.

Trong 20 năm tại vị Võ Tắc Thiên còn từng sửa đổi niên hiệu 17 lần, nhiều nhất trong các triều đại đế vương. Mỗi lần thay đổi niên hiệu đều đại xá tử tù trong thiên hạ, còn lệnh cho dân chúng toàn quốc tụ tập ẩm tửu, nhưng điều này không thể tô vẽ nên cảnh thái bình được. Tàn sát đẫm máu, triều đình phân tranh, cục diện chính trị rối ren, trấn áp tàn khốc, mang đến cho người dân vô số tai họa bi thương, đến cả trời đất cũng phẫn nộ. Thiên tai nhân họa xảy ra liên tiếp, mưa đá hồng thủy bao phủ khắp nơi, toàn quốc người và súc vật chết đói chết rét nhiều vô số kể, đến cả kinh sư Lạc Dương cũng không thoát khỏi, nhiều lần xảy ra ngập lụt chôn vùi hàng vạn hộ gia đình.

Có điều, trong thời gian Võ Tắc Thiên tại vị, về cơ bản có thể kế thừa những chế độ và chính sách của thời kỳ Trinh Quán, do đó nền kinh tế vẫn không bị đình trệ, hơn nữa còn đạt được sự phát triển nhất định. Bà cũng hết sức coi trọng khoa cử, khuyến khích bậc nhân sĩ phổ thông thông qua thi cử ra làm quan dốc sức vì quốc gia. Tuy nhiên việc Võ Tắc Thiên gây loạn nhà Đường rồi xưng đế đã đưa đến ảnh hưởng không tốt cho hậu thế. Từ đó về sau, trong lịch sử Trung Quốc lại xuất hiện mấy lần nữ nhân làm loạn triều chính nữa.

Đại Đường phục quốc

Năm 705 Võ Tắc Thiên lâm bệnh nặng, Tể bá Trương Giản Chi và những người khác đã liên lạc với Hữu vũ lâm vệ Đại tướng quân Lý Đa Tộ phát động chính biến, ép Võ Tắc Thiên truyền ngôi cho Đường Trung Tông Lý Hiển, khôi phục quốc hiệu Đại Đường. Cũng trong năm Võ Tắc Thiên mất ở Thượng Dương cung, thọ 83 tuổi. Trước khi mất bà có di chế “Bỏ đế hiệu, xưng Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Hậu”, đồng thời chỉ lệnh hợp táng với Cao Tông ở Càn Lăng. Võ Tắc Thiên tổng cộng đã làm hoàng đế được 15 năm.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29155

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Quan niệm làm người trong “Đạo Hiếu”https://chanhkien.org/2024/11/quan-niem-lam-nguoi-trong-dao-hieu.htmlWed, 06 Nov 2024 01:51:53 +0000https://chanhkien.org/?p=34878Tác giả: Tiết Đồng [ChanhKien.org] Mấy năm gần đây, truyền thông thường đưa tin về sự việc con cái giết hại cha mẹ. Ví dụ, năm 2018 một nam học sinh lớp sáu dùng đao đâm chết mẹ tại nhà, năm 2019 một đứa trẻ 12 tuổi dùng búa giết hại cha mẹ ruột, năm […]

The post Quan niệm làm người trong “Đạo Hiếu” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tiết Đồng

[ChanhKien.org]

Mấy năm gần đây, truyền thông thường đưa tin về sự việc con cái giết hại cha mẹ. Ví dụ, năm 2018 một nam học sinh lớp sáu dùng đao đâm chết mẹ tại nhà, năm 2019 một đứa trẻ 12 tuổi dùng búa giết hại cha mẹ ruột, năm 2020 vợ chồng giáo sư nọ bị con trai thế hệ 9X giết chết. Sau khi nghe được những tin tức này, nhiều người sợ hãi đến nỗi toát mồ hôi lạnh, không ngừng thở dài xót xa. Xã hội Trung Quốc từ xưa đến nay đều coi trọng đạo hiếu, làm sao lại có nhiều hiện tượng xã hội loạn như thế?

“Hiếu” trong văn hóa truyền thống

Trung Quốc là quốc gia có lịch sử văn minh lâu đời, Nho Thích Đạo đặt định cho người Trung Quốc nội hàm văn hóa trọng đức hành thiện. Thường nghe người xưa nói: “Bách thiện hiếu vi tiên”, cơ sở của “Bách thiện” là chữ “hiếu”, có bao nhiêu người hiểu thấu nội hàm và có thể làm được đây? Chữ “hiếu”(孝) được ghép bởi hai phần, phần trên là một nửa của chữ “lão”(老), phần dưới là chữ “tử” (子), có thể hiểu là “lão ở trên, tử ở dưới”, ý nghĩa chính là già trẻ lớn bé có tôn ti trật tự, lễ tiết.

Nhìn lại nền văn minh và lịch sử xán lạn mấy nghìn năm của Trung Hoa, những cơ sở huy hoàng đó chính là những nguyên tắc sống mà tổ tiên của người dân Hoa Hạ đã tuân theo, chẳng hạn như lòng hiếu thảo, tình bạn…. Mọi người đều biết câu chuyện “Bá Du thương mẹ”. Hàn Bá Du thời nhà Hán, người Lương Châu, thiên tính vô cùng hiếu thuận, mẹ luôn giáo dục ông rất nghiêm khắc. Mỗi khi phạm lỗi nhỏ, đều dùng gậy đánh ông, Bá Du quỳ gối chịu đòn, không có một chút oán hận. Một hôm, mẹ lại dùng gậy đánh ông, Bá Du liền khóc thật to.

Mẹ ngạc nhiên hỏi ông: “Trước đây khi ta dùng gậy đánh con, con lúc nào cũng tâm phục khẩu phục chấp nhận, không hề khóc như thế này, hôm nay ta dùng gậy đánh con, tại sao lại khóc?

Bá Du nói: “Khi trước con phạm sai lầm, bị đánh cảm thấy rất đau, con biết mẹ còn khỏe mạnh, hôm nay mẹ đánh con, một chút cũng không cảm thấy đau, điều đó có nghĩa là thể lực của mẹ đã suy yếu, nên trong tâm con thấy thật khó chịu, con không cầm được lòng nên đã khóc”.

“Hiếu” trong xã hội hiện đại

Nhưng Trung Cộng sau khi cướp chính quyền, văn hóa chính thống đã gặp phải đàn áp, nó còn xuyên tạc lịch sử, bóp méo văn hóa một cách có hệ thống, có mục đích. Dưới sự thống trị như thế, dù trong vô thức hay cố ý nhiều người dân đều hình thành nên những quan niệm thâm căn cố đế về thuyết tiến hóa, thuyết vô thần… Những loại quan niệm này đối lập, xung đột với văn minh thế giới và văn hóa Trung Quốc chính thống, tạo thành chướng ngại nghiêm trọng cho nhận thức của con người.

Có thanh niên đưa ra nghi vấn về “Hiếu”. Anh ta nói, cha mẹ chưa được anh ta đồng ý mà sinh anh ta ra, chẳng liên quan gì đến bản thân anh ta, đó là cái lý thuyết vô ân đối với cha mẹ. Còn có người nói, già rồi bảo thủ, người phương Tây không giảng hiếu vẫn sống rất tốt, thậm chí còn có người nói rằng những người rao giảng lòng hiếu thảo là có dụng ý riêng, là vì để khống chế người khác.

Còn có người cho rằng bản thân mình rất hiếu thuận, mua áo quần, thực phẩm chức năng cho cha mẹ, bảo đảm cho cha mẹ về mặt vật chất trong cuộc sống. Nhưng chúng ta liệu có đặt cha mẹ lên hàng đầu và đưa bản thân mình đặt phía dưới chưa. Chúng ta đã mang theo cái tâm cung kính mà nói chuyện và làm việc với cha mẹ chưa? Có rất nhiều lúc chúng ta không vui, tức giận, cha mẹ liền đứng mũi chịu sào trở thành nơi trút giận của bản thân.

Ngoài ra, có rất nhiều thanh niên không cảm nhận được việc phải biết cảm ân cha mẹ, bởi vì họ cảm nhận sâu sắc việc sinh sống trong xã hội không dễ, cuộc sống ít niềm vui, thậm chí sống trong vô vọng. Nếu như cha mẹ họ một đời cũng bận rộn bôn ba vì cuộc sống, giữa hai thế hệ gây áp lực lên nhau và bài xích qua lại, làm tổn thương lẫn nhau, nỗi khổ trong lòng không cách nào biểu đạt ra, càng khó cảm nhận được sự trân quý của cuộc sống. Trong xã hội giả-ác-đấu của Trung Cộng chỉ có thể dùng bạo lực để giải tỏa những bất mãn của bản thân.

Sống dưới dạng thể chế này, chúng ta có đủ loại bất lực không biết phải làm sao, nhưng nếu chúng ra hùa theo số đông, chạy theo trào lưu, thì chính là tự hủy hoại tiền đồ tương lai. Những bậc nhân đức trong lịch sử đã lưu lại cho chúng ta quan niệm làm người. Chính như câu cổ huấn “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Hiếu đạo có tác dụng rất tốt đối với việc đề cao đạo đức, hàm dưỡng, hay đối nhân xử thế của mỗi người. Hiếu thuận chính là làm người có “hiếu” mới có thể “thuận”. Thực hành lòng hiếu thảo có lợi đối với gia đình, xã hội, thậm chí có lợi cho cả sự phát triển lành mạnh của quốc gia.

Dùng hiếu đạo để trị quốc: Hoàng đế Khang Hy

Hoàng đế Khang Hy triều nhà Thanh lên ngôi năm tám tuổi, tại vị 61 năm, khai sáng thời kỳ “Khang Càn thịnh thế”, là một trong những vị hoàng đế có nhiều thành tựu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Phụ mẫu của Hoàng đế Khang Hy qua đời khi ông còn nhỏ. Ông được tổ mẫu (bà nội) là Hiếu Trang Văn hoàng hậu nuôi dưỡng thành người. Hoàng đế Khang Hy nói, lòng hiếu thảo chân chính là một trái tim thiện lương, ân cần đối đãi với cha mẹ và trưởng bối.

Những năm cuối đời Hiếu Trang thái hoàng thái hậu mắc bệnh chân lạnh của người già, tê và đau nhức khớp đầu gối. Bà muốn đến suối nước nóng để tắm và trị liệu, Hoàng đế Khang Hy cấp tốc sai người đến suối nước nóng trước rồi xây dựng cung điện ở đó. Sau khi xây xong, Hoàng đế Khang Hy đích thân đưa tổ mẫu đến đó, trên đường đi gặp khi đường nhỏ và nguy hiểm, ông đều đích thân xuống xe dắt xe ngựa của tổ mẫu. Khi qua cầu phao, Hoàng đế Khang Hy sợ rằng cầu không chắc chắn, trước tiên tự thân lên cầu thử một chút, sau đó mới đưa xe ngựa của tổ mẫu đi qua.

Mỗi khi dùng bữa nghỉ lại qua đêm, Hoàng đế Khang Hy đều tự thân hầu hạ. Hiếu Trang thái hoàng thái hậu ở trong cung bên suối nước nóng 51 ngày. Trong thời gian này, bất kể thời tiết có mưa tuyết giá rét thế nào, Khang Hy ngày ngày đều đến thỉnh an, con đường đi đi về về là hơn 60 dặm, thậm chí có lúc một ngày đi về hai lần. Quan ghi chép “Khang Hy khởi cư lục” vô cùng cảm khái nói: Hoàng thượng thiên tính trong sáng và hiếu thảo, trong các hoàng đế từ trước đến nay chỉ có duy nhất ngài ấy được như vậy.

Việc của tổ mẫu đều đặt ở trong lòng của Khang Hy, vua chăm chút từng chi tiết nhỏ nhất, không hề cẩu thả. Khi Hiếu Trang thái hoàng thái hậu lâm trọng bệnh, Khang Hy tự mình nếm thử thuốc, cực nhọc ngày đêm trông nom, chỉ sợ tổ mẫu muốn dùng thứ gì đó mà không chuẩn bị kịp thời và chu toàn. Khi Khang Hy biết tổ mẫu vô cùng nhớ nhung con gái là Ba Lâm Thục Huệ công chúa, liền lập tức sắp xếp đón công chúa về kinh. Trong những năm cuối đời, Hoàng đế Khang Hy nói rằng ông đã nhìn thấy rất nhiều gia tộc có thể thịnh vượng qua nhiều thế hệ, bọn họ thông thường đều là những gia đình biết hiếu kính.

Hoàng đế Khang Hy không chỉ hiếu thuận với tổ mẫu, mà còn yêu dân như con. Trong thời gian lưu lại ở Xích Thành, có một ngôi làng cách quận lỵ hơn 20 dặm về phía Nam, đất đai ở đó không tốt, thậm chí thiếu lương thực, nghe nói hoàng đế sẽ đi qua mảnh đất này, người dân bèn quỳ ở trên đường để ngăn xe ngựa của hoàng đế, thỉnh cầu miễn trừ thuế lương thực và các loại thuế má. Hoàng đế Khang Hy sau khi nghe xong lập tức hạ chỉ miễn trừ, sau đó người dân đem tên của thôn sửa lại thành “Lan Mã Trạm” tức là “Trạm ngăn xe”.

Một người hiếu thuận, trong tâm chứa đầy tình yêu thương. Gặp phải việc không nên làm, thường sẽ không nhẫn tâm làm, vì thế người xưa mới giảng “Bách thiện hiếu vi tiên”. Nếu như một người có thể vận dụng lòng hiếu thảo để giải quyết các loại mâu thuẫn trong gia đình, vậy thì ở trong xã hội, trong công việc, anh ấy nhất định sẽ là một người lãnh đạo hoặc là một người quản lý tốt. Nhà là nền tảng cho một người bước đi ra ngoài xã hội, việc trong nhà làm thành một mớ hỗn độn, thì công việc trong xã hội của anh ta cũng rất khó có thành tích xuất sắc.

Dịch từ: zhengjian.org/node/291066

The post Quan niệm làm người trong “Đạo Hiếu” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Trí huệ của cổ đức: Trí huệ của việc thực hành đức chính, yêu thương người kháchttps://chanhkien.org/2024/11/tri-hue-cua-co-duc-tri-hue-cua-viec-thuc-hanh-duc-chinh-yeu-thuong-nguoi-khac.htmlWed, 06 Nov 2024 01:51:46 +0000https://chanhkien.org/?p=34879Tác giả: Lục Văn Nông chỉnh lý [ChanhKien.org] Những quân vương mang trong lòng sự bao dung rộng lớn, họ không nhất định dựa vào quân đội hùng mạnh để thống nhất và trị lý quốc gia, càng không nhất định phá hủy thành quách và giết hại người dân nước khác. Họ thuận theo […]

The post Trí huệ của cổ đức: Trí huệ của việc thực hành đức chính, yêu thương người khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn Nông chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Những quân vương mang trong lòng sự bao dung rộng lớn, họ không nhất định dựa vào quân đội hùng mạnh để thống nhất và trị lý quốc gia, càng không nhất định phá hủy thành quách và giết hại người dân nước khác. Họ thuận theo hình thế thiên hạ, gánh vác nguy nan và gian khổ với dân chúng, cứu trợ dân chúng khỏi thiên tai họa hại. Như thế, thiên hạ tự nhiên sẽ quy thuận và quy phục, bách tính tự nhiên sẽ siêng năng cần cù.

Thần Nông giảng rằng: “Thanh niên đang tuổi trai tráng không đi cày cấy, thiên hạ sẽ có người gặp khổ và chịu đói; nữ nhi đến tuổi trưởng thành mà không biết dệt vải, thiên hạ sẽ phải chịu lạnh chịu rét”. Vì vậy Thần Nông đích thân canh tác trồng trọt, còn vợ ông đích thân dệt vải, để thể hiện tấm lòng nhân đức trong việc mưu cầu phúc lợi cho bách tính.

Vào thời thượng cổ, trước khi Long Môn được khai quật và núi Lữ Lương được khai thông, nước sông Hoàng Hà từ núi Mạnh Môn tràn ra đã hủy hoại vô số núi đồi, ruộng vườn và đồng bằng màu mỡ, người dân phải sống lang thang nay đây mai đó. Đại Vũ đảm nhận trọng trách cứu người dân khỏi thảm họa, khai thông sông Hoàng Hà, dẫn đường cho sông Dương Tử và xây dựng đê Bành Lãi Trạch, đẩy lùi lũ lụt ở phía Đông, mang đến lợi ích cho hơn 1.800 quốc gia, triển hiện công đức thiên cổ, được dân chúng vĩnh viễn cảm phục.

Mặc Tử không quản gian khổ, ngày đêm thần tốc, bộ hành suốt mười mấy ngày đêm đến Sính Đô (kinh đô nước Sở), tìm cách ngăn cản nước Sở tấn công nước Tống, nhằm giải cứu người dân nước Tống sắp gặp nguy nan bởi chiến tranh. Mặc Tử tuy chưa phải là vua, nhưng tư tưởng “kiêm ái” (yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt địa vị cao thấp, thân sơ, giàu nghèo, và yêu mọi người như yêu mình) của ông lại chứa đầy trí huệ bác đại tinh thâm.

Thực hành đức chính (nền chính trị nhân đức), yêu thương người khác, không chỉ mang lại lợi ích cho người khác, khiến quốc gia được yên bình phát triển, hơn nữa còn mang lại lợi ích trực tiếp cho người thực hành nền chính trị nhân đức và yêu thương người khác. Có một lần, Tần Mục Công ngồi xe ngựa ra ngoài thì xe bị hỏng, dây cương phía bên phải càng xe bị đứt khiến con ngựa chạy mất, và bị một nhóm nông dân bắt được. Đến khi Tần Mục Công đi tìm ngựa thì gặp một nhóm nông dân đang ăn thịt ngựa của mình tại phía Nam núi Kỳ Sơn. Tần Mục Công than thở, lúc đó ông không những không tức giận, mà còn cảm thấy rất thương hại người dân, ông nói với những người nông dân đó rằng: “Các ngươi ăn thịt tuấn mã của ta mà không uống rượu, thì sẽ có thể có hại cho thân thể các ngươi!” Vì vậy Tần Mục Công đã thưởng rượu cho từng người một trước khi rời đi. Một năm sau (645 TCN), chiến tranh Tần Tấn nổ ra ở Hán Nguyên. Quân Tấn bao vây xe ngựa của Tần Mục Công, quan đại phu Lương Do Mị của nước Tấn nắm được dây cương bên trái xe ngựa của Tần Mục Công, dũng sĩ bên phải xe của Tấn Huệ Công dùng ngọn giáo dài đâm thủng sáu tầng áo giáp của Tần Mục Công, tình hình khá nguy cấp. Chính tại lúc này, hơn 300 nông phu ở phía Nam núi Kỳ Sơn từng ăn thịt ngựa của Tần Mục Công đã liều mạng chạy đến bảo vệ Tần Mục Công, cuối cùng đánh bại quân Tấn, hơn nữa Tấn Huệ Công còn bị bắt. Vì vậy, người quân vương hiền đức cần phải công chính, để thể hiện lòng nhân đức của họ; quân vương cần khoan dung hậu đãi đối với bách tính, để họ hết sức phát huy khả năng của mình. Nếu quân vương yêu thương và bao dung người dân, thì người dân sẽ kính yêu quân vương.

Câu chuyện Triệu Giản Tử giết con la yêu quý của mình, lấy gan của nó để cứu mạng Tư Cừ cũng đã nói rõ điểm này. Triệu Giản Tử đặc biệt thích hai con la trắng của mình. Một đêm nọ, Dương Thành Tư Cừ, môn viên quan nhỏ ở huyện Quảng Môn, đến trước cửa nhà ông nói: “Tôi bị bệnh rồi, đại phu nói với tôi rằng ăn gan của con la trắng thì sẽ khỏi bệnh, nếu không sẽ chết”. Lính gác đã đem chuyện này trình báo lên Triệu Giản Tử, Đổng An Vu – một hạ thần đang ở bên cạnh, tức giận quát: “Ai da! Tên Tư Cừ này lại dám mưu đồ ăn thịt con la trắng của quân vương nhà ta, xin ngài hãy giết hắn ngay lập tức”.

Giản Tử nói: “Vì cứu mạng súc vật mà giết người, thế chẳng quá không nhân đạo sao? Vì để cứu mạng người mà giết động vật, chẳng phải là đang làm việc nhân ái sao?” Thế là ông liền gọi đầu bếp, giết con la trắng, lấy gan đưa cho Dương Thành Tư Cừ. Không lâu sau, Triệu Giản Tử khởi binh đánh giặc, Tư Cừ dẫn theo một đội 700 người từ bên trái và 700 người từ bên phải tiên phong công thành, dũng mãnh thiện chiến, cuối cùng đã giành được toàn thắng. Từ đó có thể thấy, quân vương thực hành đức chính, yêu thương người khác tất sẽ nhận được sự trợ giúp của dân và quân.

Trong xã hội ngày nay, con người hiện đại càng ngày càng minh bạch rõ ràng rằng, giáo hóa đạo đức chính là nhiệm vụ hàng đầu của việc giáo hóa xã hội, còn tấm lòng nhân ái lại có thần lực to lớn để giáo hóa con người và giáo hóa xã hội nhân loại.

(Trích từ “Lã Thị Xuân Thu”)

Chú thích:

Theo hiểu biết của người dịch, “cổ đức” chỉ những người có phẩm hạnh và đạo đức cao thượng thời cổ đại.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/253994

The post Trí huệ của cổ đức: Trí huệ của việc thực hành đức chính, yêu thương người khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Giáo dục hạnh phúc (15): Chí hướng cao xahttps://chanhkien.org/2024/11/giao-duc-hanh-phuc-15-chi-huong-cao-xa.htmlTue, 05 Nov 2024 04:28:31 +0000https://chanhkien.org/?p=34874Tác giả: Đồng Hân [ChanhKien.org] Chương 2: Tự cường bất tức Mục 2: Cổ Thánh tiên hiền – tu tâm dưỡng tính 1. Chí hướng cao xa Tiếp theo chúng tôi sẽ bàn về một vấn đề vô cùng quan trọng, đó là chí hướng cao xa. Đường Huyền Trang có câu nói thế này: […]

The post Giáo dục hạnh phúc (15): Chí hướng cao xa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đồng Hân

[ChanhKien.org]

Chương 2: Tự cường bất tức

Mục 2: Cổ Thánh tiên hiền – tu tâm dưỡng tính

1. Chí hướng cao xa

Tiếp theo chúng tôi sẽ bàn về một vấn đề vô cùng quan trọng, đó là chí hướng cao xa. Đường Huyền Trang có câu nói thế này: “Ninh khả tây hành nhất bộ tử, quyết bất đông thối bán bộ sinh” (Ta thà tiến một bước về phía Tây mà chết, chứ quyết không lùi nửa bước về phía Đông để sống), ở đây đề cập đến sinh và tử, đối với Huyền Trang mà nói, ông đã vượt ra khỏi cái chết và sự sống rồi. Mọi người đều biết về thời kỳ Đại Đường thịnh trị, kỳ thực thời kỳ Đại Đường thịnh trị và Đường Huyền Trang có quan hệ vô cùng mật thiết. Câu chuyện Đường Tăng đi lấy kinh trong Tây Du Ký, mà trong lịch sử quả thực cũng có một vị Đường Tăng như vậy, chuyến hành trình của ông đi Tây phương thỉnh kinh cũng đã trải qua trăm ngàn gian khổ, không hề dễ dàng.

Bản thân Huyền Trang rất muốn xuất gia. Ngày nay, hễ nghe nói ai đó xuất gia, người ta liền cho rằng người này có phải chán đời chăng? Nhưng vào thời xưa lại không phải vậy, thời xưa người xuất gia đều là những người ưu tú, đều là những đứa trẻ rất ưu tú trong những gia đình giàu có. Ở Tây Tạng thì chỉ những đứa trẻ ưu tú nhất trong mỗi gia đình mới được xuất gia, đứa trẻ xuất sắc nhất được gửi vào chùa ấy sẽ đại diện cho cả gia đình đi tu hành. Còn ngày nay người ta lại gửi những đứa trẻ ưu tú nhất đến trường đại học. Trước kia những người tu hành rất được mọi người tôn kính, đi tu cũng là một việc vô cùng tốt đẹp.

Vào thời Tùy Đường việc xuất gia rất nghiêm khắc, danh sách người được chọn chỉ vài chục người, lại còn phải vượt qua kỳ thi. Huyền Trang mới mười mấy tuổi đã muốn xuất gia, ông không đủ điều kiện, nhưng vì ông rất thông tuệ nên được đặc cách tuyển chọn. Sau đó ông đi khắp các danh sơn cổ tự, nhưng ông phát hiện những kinh Phật hiện có tại Hán địa không thể giải đáp được nhiều vấn đề về nhân sinh, không thể khiến người tu hành giác ngộ triệt để, thế nên ông đã có ý định đến Ấn Độ ở Tây phương để tìm chân kinh. Nhưng lúc ấy người Trung Nguyên không được phép tự mình xuất ngoại, nên Đường Tăng đã âm thầm ra đi. Đường Tăng đi về phía Tây cưỡi ngựa tiến vào sa mạc, ông mang theo một túi da đựng nước, nhưng mới đi được một đoạn đường thì túi da bị đổ, nước bên trong bị đổ hết ra ngoài. Đi tiếp về phía trước sẽ không còn nước nữa, đó là một sa mạc rất rộng lớn!

Ông quay ngựa định trở về, bỗng nhớ lại lời thề “Thà tiến một bước về phía Tây mà chết, chứ quyết không lùi nửa bước về phía Đông để sống”, đây là lời thề ông đã định ra khi khởi hành từ Trường An. Người xưa đều tuân thủ lời thề, ông phải giữ lời thề của mình nên dù trong hoàn cảnh không có nước, ông vẫn điềm nhiên tiến vào sa mạc rộng lớn. Mọi người nghĩ xem, vào sa mạc mà không có nước chẳng phải là tự tìm đến cái chết sao? Nhưng ông chính là kiên định như thế, nên ông mới thành công. Huyền Trang cưỡi ngựa trong sa mạc nóng bức, khô cằn suốt năm ngày bốn đêm, lúc này ông đã ngất đi vì khát, ngựa cũng ngã gục. Đến sáng sớm hôm sau, một cơn gió mát thổi qua, ông tỉnh dậy thấy phía trước có một cái hồ, đây hẳn là một quan ải lớn, ông đã vượt qua dựa vào điều gì? Đó là chính tín, là tín niệm kiên định muốn cứu độ chúng sinh!

Đến một con sông ở Ấn Độ, ông gặp phải một bọn cướp, chúng muốn giết một người để tế trời, thấy ông trắng trẻo, sạch sẽ, vừa hay hợp để tế trời. Dù sắp bị giết nhưng Huyền Trang vẫn không hề biến sắc, ông ngồi đó an hòa tĩnh tâm niệm kinh. Vào lúc bọn cướp chuẩn bị giết nhưng chưa kịp động thủ, sóng gió bỗng cuồn cuộn kéo đến, bọn cướp thấy thế liền hoảng sợ, quỳ gối cầu xin tha mạng, vừa quỳ xuống, lập tức trời yên sóng lặng. Hai câu chuyện kể trên đều là sự thật lịch sử, đó chính là tình huống chân thực của Đường Tăng trong lịch sử. Tất nhiên khi đưa vào tiểu thuyết “Tây Du Ký” thì ma nạn còn nhiều hơn, nhưng cũng trở nên rất thú vị.

Tóm lại mọi người cần có một mục tiêu cao xa, vậy mục tiêu của Huyền Trang là gì? Mọi người có biết vì sao phải đi lấy kinh không? Khởi đầu của câu chuyện “Tây Du Ký” được viết là có lý do. Vào giai đoạn Tùy – Đường chiến loạn liên miên, có câu chuyện về Ngụy Trưng mơ trảm Long vương Kinh Hà, Đường Thái Tông bị bắt xuống địa phủ, ở đó rất nhiều người đã cầu xin Đường Thái Tông siêu độ cho họ. Vì trong chiến tranh Tùy – Đường đã có rất nhiều người bị chết, có nhiều người chết oan nên cần siêu độ cho những oan hồn này, muốn siêu độ thì phải niệm chân kinh, đó là khởi nguồn của câu chuyện “Tây Du Ký”. Huyền Trang thề phải lấy được chân kinh trở về, để con người được đắm mình trong Phật ân, ông xem việc này là sứ mệnh của mình. Chí hướng của Huyền Trang không phải vì bản thân mà đi lấy kinh, mà vì ông muốn hồng dương Phật Pháp, cứu độ bá tánh thiên hạ. Huyền Trang sở dĩ dám tiến vào sa mạc dù không có nước, không phải vì ông muốn mình đạt được mục tiêu nào đó, mà vì ông phải sớm lấy được chân kinh trở về. Đây là trách nhiệm và sứ mệnh của ông, vậy nên ông mới có thể dựng lập công đức vĩ đại lưu danh thiên cổ, đó là tấm lòng từ bi vĩ đại của ông dành cho chúng sinh. Do vậy mới nói làm người thì việc lập chí là vô cùng quan trọng.

Nhất là vào giai đoạn đại học này, chúng ta cần xác lập mục tiêu cuộc đời rốt cuộc là gì. Vừa rồi chúng ta đã bàn đến việc giữa bạn bè với nhau nên “Chí đồng đạo hợp” (đồng chí đồng lòng), tức là phải chú trọng xây dựng chí hướng. Huyền Trang sở dĩ có thể trở thành bậc Thánh hiền, trước hết vì mục tiêu của ông là cứu độ chúng sinh, ông thực sự đã đạt được mục tiêu ấy. Trung Quốc trong 2000 năm trở lại đây, những thời kỳ đặc biệt an định không nhiều, nhưng thời kỳ “Trinh Quán chi trị” lại vô cùng thái bình, điều này không thể không nhắc đến tài văn thao võ lược của Đường Thái Tông. Nhưng thời kỳ “Trinh Quán chi trị” thì có liên quan gì đến Huyền Trang? Sau 17 năm gian khổ đi lấy kinh trở về, Huyền Trang đã tiến hành phiên dịch kinh Phật trong chùa Từ Ân. Huyền Trang rất siêng năng, mỗi ngày ngủ nghỉ rất ít, toàn bộ tâm sức đều dành vào việc phiên dịch kinh Phật, ngày nào cũng vậy, đến tận ngày mất ông vẫn còn đang dịch kinh. Ông không chỉ chịu nhiều gian khổ trên đường lấy kinh mà sau khi quay về cũng rất vất vả. Kinh Phật được dịch ra đã giúp lòng người thời ấy hướng thiện, khiến Phật Pháp triển hiện ra uy lực này, do đó mới tạo nên thời kỳ Đại Đường thịnh trị tốt đẹp tại nhân gian.

Có thể nói Đường Thái Tông là một Thánh nhân, có câu chuyện về Thái Tông thả 3.000 cung nữ và 400 tử tù. Việc thả cung nữ chính là đưa cung nữ về lại quê hương, Đường Thái Tông một lần thả hết 3.000 cung nữ. Mọi người biết đấy cung nữ rất xinh đẹp lại dịu dàng hiền thục, hiểu biết lễ nghĩa. Có 3.000 cung nữ hầu hạ Hoàng đế thì cũng sẽ có 3.000 chàng trai độc thân, đúng không? Đạo lý thật đơn giản. Điều vĩ đại của Đường Thái Tông là ông đã để những cung nữ xinh đẹp, hiền thục về với dân gian, giúp 3.000 chàng trai có được những người vợ tốt. Chốn cung đình thời xưa là trường đại học tốt nhất, nơi bồi dưỡng những người có đạo đức, học vấn cao. Ngày nay, con người mang theo những tư tâm bại hoại, đấu tranh, tham lam, dục vọng mà phóng đại những mặt không tốt của chốn cung đình xưa, điều này chỉ để thỏa mãn lòng hiếu kỳ và dục vọng của người ta mà thôi, không phải toàn bộ tình huống chân thực.

Vua Đường Thái Tông thả 3.000 cung nữ về nhà, trên thực tế là muốn họ trở thành 3.000 sứ giả truyền bá nền văn hóa tốt đẹp, giúp cho văn hóa và đạo đức cao quý chốn cung đình được truyền ra dân gian, xã hội sẽ theo đó mà tốt đẹp hơn. Còn một câu chuyện quả thực chưa từng có trong lịch sử, đó là có 400 tù nhân đợi đến cuối thu sẽ đem xử chém, đến khi sắp bị chém thì Đường Thái Tông nói năm nay khoan hãy hành hình, hãy thả họ về hết để ai chưa tận hiếu thì về tận hiếu, ai nợ tiền người ta, hoặc còn việc gì chưa làm xong thì về giải quyết nốt, hẹn họ mùa thu năm sau quay lại chịu chém. 400 phạm nhân tử hình đều được thả hết về nhà. Mùa thu năm sau, toàn bộ 400 người đều tự quay lại không thiếu một người. Con người hiện nay còn có người vượt ngục, nhưng thời xưa người ta 400 người không thiếu một ai đều đến chịu tội chém đầu. Sau đó Đường Thái Tông lại đưa ra một quyết định cho phép toàn bộ 400 người này được miễn trừ án tử.

Bạn nghĩ xem người này giết anh của người ta mà lại tùy tiện được thả, gia đình người ấy có thể bỏ qua không? Người này lại giết cha của người ta giờ lại dễ dàng được thả, gia đình người đó có thể bỏ qua không? 400 tử tù này chẳng phải đều sẽ gặp chuyện bị báo thù sao? Đây không đơn thuần là việc 400 người được thả, phải chăng tấm lòng những người bị hại cũng phải rộng lớn hơn, thân nhân và họ hàng người bị hại đều không truy cứu nữa, mới có thể miễn cho họ tội chết, mọi người nghĩ xem có phải vậy không? Nếu không có trạng thái xã hội tốt đẹp, tiêu chuẩn đạo đức của toàn thể xã hội thời đó vô cùng cao, thì liệu có thể làm được việc này không? Chắc chắn không làm được! Bởi vì Huyền Trang đã đưa Phật Pháp truyền rộng giúp nhân tâm hướng thiện, toàn bộ thời kỳ Đại Đường thịnh trị đều hướng thiện, mới làm vậy được. Mọi người xem hiện nay đàn áp hết lần này đến lần khác, để duy trì ổn định, nếu thả hết những tử tù vậy chẳng phải họ sẽ giết càng nhiều người hơn sao? Vậy mà Đường Thái Tông làm được điều này, hơn nữa còn thành công. Trong thời kỳ Trinh Quán nhà Đường một năm có chưa đến 30 tử tù, hiện nay toàn thế giới giết 100 người thì Trung Quốc đại lục có 70, 80 người. Theo sử sách ghi chép, vào thời nhà Đường “thương nhân, lữ khách ở nơi hoang dã, không còn trộm cướp, nhà tù luôn trống rỗng”, “trâu ngựa thả ngoài đồng, cửa ngoài không đóng”, mọi người ra khỏi nhà không cần mang theo lương khô, đến đâu người ta cũng có cơm nước miễn phí, “lữ khách qua đường, chắc chắn được hậu hĩnh tiếp đón, hoặc khi rời đi còn được tặng quà”. Đường Thái Tông có tấm lòng rộng lớn, còn Huyền Trang chí hướng cao xa, công lao cũng rất lớn, ông đã không uổng phí chịu khổ đi lấy kinh, lại đem điều đại thiện truyền khắp xã hội, vậy nên xã hội thời ấy mới tốt đẹp đến vậy.

Vì thế chúng tôi mong các bạn trẻ nên lập chí hướng cao xa, cổ nhân nói “bách học tiên lập chí”. Chính vì Trung Quốc có nhiều bậc Thánh hiền chí lớn nên mới tích lũy được nền văn hóa bác đại tinh thâm đến thế. Tại sao Khuất Nguyên thà chết chứ không làm vấy bẩn tâm hồn thanh khiết của mình, Giới Tử Thôi thà cùng mẹ chết cháy chứ không chịu phong thưởng? Vì họ đều nhìn ra được vấn đề của xã hội, vì họ đều có một tinh thần trách nhiệm dám gánh vác. Tại sao Văn Thiên Tường thà chết cũng không hàng? Bởi vì ông có một tín niệm vững chắc, ông sẽ không vì chút tiền hay một món lợi mà thay đổi, niềm tin ấy mới là sức mạnh thực sự để đoàn kết một dân tộc. Trong lịch sử nhân loại vốn dĩ đã tích lũy được rất nhiều tư tưởng ngay chính, nhưng hiện nay khi niềm tin ấy tan biến thì nhân loại sẽ kết thúc. Những bậc Thánh hiền thời xưa đã lưu giữ những điều tốt đẹp cho chúng ta ngày nay, chúng ta nên học hỏi và phát huy văn hóa truyền thống, nhân loại sẽ có hy vọng tốt đẹp hơn.

Việc chúng ta có thể học được bao nhiêu từ các vị tổ tiên Thánh hiền vẫn còn là một vấn đề, nhưng chúng ta thật sự nên phải tôn kính họ. Ngày hôm nay chúng ta có thể ngồi ở đây, có lẽ phải cảm ơn những vị cổ Thánh hiền ấy. Nếu xã hội hỗn loạn, nếu bạn trừng mắt với ai đó, thậm chí không cười với bất cứ ai, chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt này nói không chừng sẽ có người đánh mắng bạn một trận. Khi xã hội này trở nên hỗn loạn, tất cả chúng ta đều là người bị hại. Nếu nhân tâm trong xã hội đều hướng thiện, mọi người tôn trọng lẫn nhau, thì chúng ta mới có được hạnh phúc chân chính. Đặc biệt là ngày nay khi mọi người đều ở vị trí bất lợi, chính là nói mỗi năm có bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp, bằng cấp của chúng ta có bao nhiêu giá trị đối với những ông chủ muốn thuê bạn? Nhìn nhận rõ điều này, bạn sẽ biết mình nên học điều gì mới có thể học tập được tốt.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/149017

The post Giáo dục hạnh phúc (15): Chí hướng cao xa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải luận ngữ (34): Quả dục tắc cương (Biết tiết chế dục vọng mới là người mạnh mẽ)https://chanhkien.org/2024/11/tinh-giai-luan-ngu-34-qua-duc-tac-cuong-biet-tiet-che-duc-vong-moi-la-nguoi-manh-me.htmlSun, 03 Nov 2024 03:32:23 +0000https://chanhkien.org/?p=34868[ChanhKien.org] Nguyên văn 子曰:「吾未見剛者。」或對曰:「申棖(1)。」子曰:「棖也欲,焉得剛?」(《論語‧公冶長第五》) Hán Việt Tử viết: “Ngô vị kiến cương giả”. Hoặc đối viết: “Thân Trành (1)”. Tử viết: “Trành dã dục, yên đắc cương?” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”). Phiên âm Zǐ yuē: “Wú wèi jiàn gāng zhě.” Huò duì yuē: “Shēn Chéng (1).” Zǐ yuē: “Chéng […]

The post Tinh giải luận ngữ (34): Quả dục tắc cương (Biết tiết chế dục vọng mới là người mạnh mẽ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nguyên văn

子曰:「吾未見剛者。」或對曰:「申棖(1)。」子曰:「棖也欲,焉得剛?」(《論語‧公冶長第五》)

Hán Việt

Tử viết: “Ngô vị kiến cương giả”. Hoặc đối viết: “Thân Trành (1)”. Tử viết: “Trành dã dục, yên đắc cương?” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”).

Phiên âm

Zǐ yuē: “Wú wèi jiàn gāng zhě.” Huò duì yuē: “Shēn Chéng (1).” Zǐ yuē: “Chéng yě yù, yān dé gāng?”

Chú âm

子ㄗˇ曰ㄩㄝ:「吾ㄨˊ未ㄨㄟˋ見ㄐㄧㄢˋ剛ㄍㄤ者ㄓㄜˇ。」或ㄏㄨㄛˋ對ㄉㄨㄟˋ曰ㄩㄝ:「申ㄕㄣ棖ㄔㄥˊ(1)。」子ㄗˇ曰ㄩㄝ:「棖ㄔㄥˊ也ㄧㄝˇ欲ㄩˋ,焉ㄧㄢ得ㄉㄜˊ剛ㄍㄤ?」(《論ㄌㄨㄣˊ語ㄩˇ‧公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ長ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》)

Chú thích

1. 申枨 (Thân Trành): họ Thân, tên là Trành (đồng âm với chữ “成” – Thành), tự là Chu, là học trò của Khổng Tử.

Diễn nghĩa

Khổng Tử nói: “Ta chưa từng gặp được người thực sự kiên cường”. Có người đáp rằng: “Có Thân Trành”. Khổng Tử nói: “Thân Trành vẫn còn không ít dục vọng và truy cầu, làm sao có thể coi là người kiên cường được?”

Nghiên cứu và phân tích

Trong con mắt của Khổng Tử, sự kiên cường thực sự có lẽ là chỉ ý chí nhất tâm hướng Đạo. Có một số người nhìn biểu hiện bên ngoài người ta cho rằng người đó kiên cường, nhưng đó chỉ là sự kiên cường tạo nên bởi những dục vọng và truy cầu mãnh liệt, khác xa với sự kiên cường của những bậc nhân nghĩa chí sỹ có tấm lòng thanh tâm quả dục, sống thanh bần đạo hạnh. Chữ “cương” (kiên cường, mạnh mẽ) mà Khổng Tử đề xuất là cao hơn so với cách nhìn và lý giải của người thường.

Câu hỏi mở rộng

1. Vì sao dục vọng và truy cầu quá nhiều thì không những không làm cho người ta thêm mạnh mẽ, mà ngược lại còn làm cho người ta mai một ý chí? Bạn có phát hiện ra rằng: khi xã hội nhân loại tràn lan sự ham muốn và truy cầu thỏa mãn về mặt vật chất thì quan hệ giữa người với người cũng trở nên ngày càng xa cách, ngày càng cảm thấy trống rỗng không?

2. Nếu những người thanh tâm quả dục, thanh bần đạo hạnh, có ít ham muốn vật chất mà có chí hướng nhất tâm hướng Đạo thì chẳng phải sẽ dễ dàng trở về với bản tính lương thiện? Họ sẽ không dễ bị dao động chí hướng bởi những mê hoặc, cám dỗ của những sự việc bên ngoài? Người như vậy chẳng phải rất kiên cường, mạnh mẽ và cũng rất ung dung, tự tại sao?

Câu chuyện lịch sử

Mềm mỏng thắng cứng rắn

Có một lần thầy của Lão Tử là Thường Song bị bệnh nặng, Lão Tử đi thăm hỏi thầy.

Lão Tử hỏi: “Thưa thầy, thầy đang bị bệnh thì có điều gì cần căn dặn đệ tử không ạ?” Thường Song hỏi: “Đi ngang qua quê nhà cần xuống xe, điều này con có biết không?” Lão Tử thưa: “Đi ngang qua quê nhà cần xuống xe có phải là để biểu thị rằng không quên cố hương không ạ?” Thường Song hỏi tiếp: “Đúng vậy. Đi qua cây lớn cần cúi đầu, con có biết sao không?”, Lão Tử đáp: “Thưa thầy, đi qua cây lớn cần cúi đầu là thể hiện kính lão có phải không?” Thường Song nói: “Đúng rồi”. Thường Song lại há to miệng nói với Lão Tử: “Lưỡi của ta còn không?” Lão Tử đáp: “Dạ còn”, “Răng của ta còn không?” Lão Tử đáp: “Dạ, không còn”. Thường Song nói: “Con có biết tại sao lại thế không?” Lão Tử đáp: “Lưỡi vẫn còn, há chẳng phải là vì nó mềm dẻo sao? Còn răng bị rụng hết rồi chẳng phải vì nó cứng rắn sao?” Thường Song nói: “Đúng vậy! Hết thảy mọi việc trong thiên hạ ta đã nói hết rồi, còn điều gì để nói với con nữa đây!”

(Trích “Thuyết Uyển- Kính Thận”)

Vị Hoàng đế Thánh đức Đường Thái Tông

Thời kỳ “Trinh Quán chi trị” được truyền tụng qua bao thế hệ là một thời kỳ đỉnh cao độc nhất, không gì sánh nổi trong lịch sử Trung Quốc. Có được sự huy hoàng đó là nhờ vào Thánh đức của vị Hoàng đế Đường Thái Tông. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua một ghi chép lịch sử dưới đây.

Sau khi biết được hữu kiêu vệ đại tướng quân Trưởng Tôn Thuận Đức nhận hối lộ lụa là từ người khác, vua Đường Thái Tông nói rằng: “Một nhân tài như Thuận Đức nếu mang lại lợi ích cho quốc gia thì ta có thể sẵn sàng chia sẻ tài phú của quốc gia với ông ấy, cớ sao ông ấy lại tham lam tiền tài vật chất đến thế!” Vì trân trọng công lao đóng góp cho quốc gia của ông ấy, nên Thái Tông đã không những không trừng phạt mà còn ban thưởng cho ông ấy hàng chục tấm lụa. Đại lý thiếu khanh Hồ Diễn hỏi rằng: “Thuận Đức đã vi phạm pháp luật khi nhận của cải hối lộ, đáng lẽ không nên được miễn tội, nhưng cớ sao lại được bệ hạ ban thưởng?” Thái Tông đáp: “Nếu như ông ấy là người có nhân cách, thì việc nhận ban thưởng sẽ cảm thấy xấu hổ hơn nhiều so với nhận hình phạt; còn nếu ông ấy không biết xấu hổ, thì chẳng khác gì loài cầm thú, có giết ông ấy thì cũng chẳng ích gì!”

Khi Thái Tông tại vị, người dân tộc thiểu số Đột Quyết thường xuyên xâm phạm biên giới nhà Đường. Một năm, người Đột Quyết gặp phải trận tuyết lớn, dê ngựa chết rất nhiều, người dân đói kém, súc vật gầy còm, quần thần khuyên Thái Tông nhân cơ hội này mà tiến đánh Đột Quyết. Thái Tông nói: “Ta và họ vừa mới kết thành đồng minh mà lại quay ra phản bội hiệp ước là không giữ chữ tín; mưu cầu lợi ích khi người ta gặp tai họa là không nhân ái; tranh thủ lúc người ta đang gặp khó khăn mà giành thắng lợi cũng không phải là hành động vũ trang chính đáng. Cho dù các bộ lạc của Đột Quyết đều phản loạn, súc vật mất sạch thì ta cũng không tấn công, nhất định phải đợi đến khi họ gây tội xâm phạm, thì ta mới tiến đánh thảo phạt”.

Thái Tông nói với các quần thần tả hữu rằng: “Hoàng đế dựa vào quốc gia, quốc gia lại dựa vào người dân. Nếu như ép buộc người dân cung phụng hoàng đế, thì cũng như tự cắt thịt mình để lấp đầy cái bụng, ăn no xong rồi thì cũng chết, khi hoàng đế giàu có thì cũng là lúc đất nước bị diệt vong. Vì vậy, nỗi lo lắng của hoàng đế không phải đến từ bên ngoài mà là từ chính bản thân mình. Hoàng đế mà nhiều dục vọng thì tiêu tốn nhiều tiền, phí tổn cao, người dân sẽ vì thuế khóa nặng nề mà vô cùng thống khổ, quốc gia sẽ lâm nguy, hoàng đế cũng mất vị trí. Ta thường nghĩ như vậy nên không dám phóng túng dục vọng của bản thân”.

(Theo “Tư trị thông giám”)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải luận ngữ (34): Quả dục tắc cương (Biết tiết chế dục vọng mới là người mạnh mẽ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thử bàn về Khổng Tửhttps://chanhkien.org/2024/11/thu-ban-ve-khong-tu.htmlFri, 01 Nov 2024 04:39:48 +0000https://chanhkien.org/?p=34831Tác giả: Lâm Hòa [ChanhKien.org] Trong quá trình viết bài về luân hồi có liên quan đến Nho gia, tôi có cảm ngộ về một số trạng thái của Khổng Tử, sau đây xin trình bày một chút nhận thức nông cạn của bản thân: 1. Khổng Tử nói: “Ngô thập ngũ nhi chí ư […]

The post Thử bàn về Khổng Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lâm Hòa

[ChanhKien.org]

Trong quá trình viết bài về luân hồi có liên quan đến Nho gia, tôi có cảm ngộ về một số trạng thái của Khổng Tử, sau đây xin trình bày một chút nhận thức nông cạn của bản thân:

1. Khổng Tử nói: “Ngô thập ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ” (diễn nghĩa: Lúc 15 tuổi ta đã lo nỗ lực học tập. 30 tuổi đã xác định được chí hướng. 40 tuổi đã hiểu được lý sự, không còn bị lầm lẫn. 50 tuổi đã hiểu được mệnh trời. 60 tuổi nghe người khác nói đều thuận tai cả. 70 tuổi có thể theo lòng mong muốn mà không vượt ra ngoài giới hạn” (Luận ngữ – Vi Chính . Chương 2).

Đây là tự truyện về cuộc đời của Khổng Tử. Tôi nghĩ đây cũng là quá trình từng bước đề cao cảnh giới tư tưởng của ông.

Từ 15 đến 30 tuổi là giai đoạn học tập và tích lũy kiến ​​thức. Cách làm của ông rất đáng để học hỏi, đó là: “Tam nhân hành, tất hữu ngô sư yên. Trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi” (diễn nghĩa: Ba người cùng đi, tất có người là thầy ta. Ta chọn điều tốt để đi theo, còn điều không tốt thì tránh đi) (“Luận ngữ – Thuật nhi”). Tổng kết của tôi là: lấy người khác làm tấm gương để tự soi mình, để sửa chữa lời nói và suy nghĩ của bản thân.

Khi Khổng Tử 30 tuổi, hệ tư tưởng của ông bắt đầu được hình thành, cũng là lúc ông bắt đầu mở trường tư thục, đặt nền móng cho việc truyền bá tư tưởng của ông sau này.

Khi Khổng Tử 40 tuổi, ông có thể nhìn thấu tư tưởng ở thế gian, nhảy ra khỏi cái lý của con người mà không bị vẻ bề ngoài mê hoặc. Đây cũng là lý do sau khi được thỉnh giáo Lão Tử, ông đã nói rằng: “Triêu văn đạo, tịch khả tử” (dịch nghĩa: Buổi sáng nghe được Đạo, chiều tối chết cũng cam lòng). Ông đã chứng ngộ được Đạo.

Khi Khổng Tử 50 tuổi, ông đã hiểu được thiên mệnh là gì và sứ mệnh của mình trong đời này là truyền bá tư tưởng, lưu lại cho con người những đạo lý tu thân dưỡng tính, quy phạm đạo đức và luân lý trong xã hội. Bởi vì đây là sự an bài của Thần, là nền tảng tư tưởng cho các chế độ tương lai của Trung Quốc. Vì vậy, khi 55 tuổi, ông bắt đầu dẫn dắt các đệ tử của mình đi chu du khắp các nước (chư hầu) trong 14 năm, tìm hiểu thế sự, tích lũy kinh nghiệm và truyền bá tư tưởng Nho gia.

“Kỳ Lân Thổ Ngọc Thư” cũng tiết lộ nguồn gốc và sứ mệnh của ông: “Thủy tinh tử kế suy Chu vi Tô Vương” (diễn nghĩa: Con cháu Thủy tinh kế thừa nhà Chu suy tàn để trở thành Tố Vương).

“Thủy tinh tử” thường được giải thích là con trai của Thủy Thần, theo lý giải của tôi thì đó là “tinh hoa của nước” (ví như Lục Áp Đạo nhân ở một tầng cảnh giới nào đó từng là “tinh hoa của lửa”). Đây là nguồn gốc để con người có thể biết và lý giải được, ông còn có nguồn gốc cao hơn. “Tố Vương” là một vị vua không ngai, tuy không có vương miện hay thần dân nhưng lại là một vị vua thực sự, ngôi vị của ông sẽ trường tồn cùng với lịch sử và văn hóa.

Khi Khổng Tử 60 tuổi, ông đã có thể lắng nghe và tiếp nhận một cách đúng đắn các ý kiến ​​​​khác nhau, chính là ông đã không còn chấp trước vào tự ngã. Đến 68 tuổi, ông bắt đầu viết sách và chỉnh lý lại “Thi”, “Thư”, “Lễ”, “Nhạc”, “Dịch”, “Xuân Thu”, trình bày hệ thống tư tưởng Nho gia của mình. Trên thực tế Khổng Tử đã chỉnh lý một cách có hệ thống nền văn hóa Trung Hoa đã có trước đó, hình thành một thể hệ hoàn chỉnh và truyền lại cho hậu nhân, duy trì mạch văn hóa Trung Hoa, giúp cho nó liên tục được kế thừa và phát triển.

Khi Khổng Tử 70 tuổi, ông đã đạt đến trạng thái tùy tâm sở dục (có thể theo lòng mong muốn) mà không vượt quá cảnh giới Pháp độ, “Pháp độ” này không chỉ là nói pháp lý của nhân gian mà còn là “Pháp độ” của vũ trụ tại tầng thứ rất cao, tức là lý của vũ trụ ở một tầng thứ nhất định.

2.「Tử bất ngữ quái lực loạn thần」(Luận ngữ – Thuật nhi đệ thất)và 「Kính quỷ thần nhi viễn chi」(Luận ngữ – Ung dã đệ lục)

Khổng Tử tin vào Thần và cũng kính Thần, ông chỉ là “không nói ra”, “né tránh”. Khổng Tử biết một số việc vượt khỏi thế gian, nhưng sứ mệnh của ông không phải là làm việc này, việc ông làm là những việc trong thế gian nên không thể nói về những việc của “quỷ thần”. Việc vượt khỏi thế gian là việc mà Lão Tử cần làm, hai người họ không thể can nhiễu lẫn nhau.

Khổng Tử 50 tuổi bắt đầu nghiên cứu Kinh Dịch và say mê nghiên cứu nó suốt phần đời còn lại. “Dịch” (易) nghĩa là Mặt Trời (日) ở trên, Mặt Trăng (月) ở dưới, tức là sự thay đổi, biến hóa. Đúng như tên gọi, Kinh Dịch nói về Đạo của trời đất. Cho nên, những điều mà Khổng Tử nghiên cứu và theo đuổi sau khi ông 50 tuổi chính là Đạo của trời đất. Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa thiên nhân hợp nhất, cội nguồn của văn hóa là Thiên Đạo. Thiên Đạo dẫn dắt nhân đạo và nhân đạo là sự kế thừa của Thiên Đạo.

3. Trạng thái tu luyện của Khổng Tử

Thuận theo việc tầng thứ được đề cao, ông tự nhiên hiểu biết được rất nhiều sự việc và an bài ở tầng thứ cao, nhưng không phải nhìn thấy bằng thiên mục. Ví dụ, Khổng Tử từng học đàn từ nhạc sư Tương Tử, lúc đầu học đàn nhạc khúc, sau đó nắm vững thành thạo các kỹ thuật chơi đàn, khi kỹ năng đàn của ông không ngừng được nâng lên, ông dần lĩnh hội được nội hàm của khúc nhạc. Ông nói: “Cuối cùng ta cũng hiểu được người sáng tác khúc nhạc này là người như thế nào. Người đó khuôn mặt ngăm đen mà chất phác, dáng người cao lớn khôi ngô, có tầm nhìn xa trông rộng và có tướng mạo của một vị đế vương thống trị thiên hạ. Đây không phải là Chu Văn Vương thì còn có thể là ai?”

Thầy Tương Tử cũng khẳng định phán đoán của ông: Tiên sinh, ngài quả là Thánh nhân, thầy của ta từng nói cho ta biết, tên khúc nhạc này là “Văn Vương thao”.

Đây là điều Khổng Tử cảm nhận được, không phải nhìn thấy được.

Trạng thái này được các đồng tu đề cập trong bài viết “Vài lời nói: Những ràng buộc sâu sắc của ngôn từ” trên trang web Chánh Kiến ngày 31 tháng 05 năm 2023: “Tôi tu trong trạng thái bị đóng kín. Có thể là cùng với việc con người không ngừng nhận thức Pháp, tư tưởng không ngừng thoát ly khỏi quan niệm của tầng thứ thấp và ràng buộc của nghiệp lực, bản năng của con người có thể hiển hiện ra ngoài. Có một số bản năng mà không ảnh hưởng đến việc tu luyện có thể được bảo lưu không bị khóa lại. Những tín tức đó con người không nhìn thấy được thông qua thiên mục mà là tự nhiên cảm nhận được, vì trong thời gian dài đã quen với trạng thái này nên cho rằng người khác cũng như vậy, thực ra người khác không như vậy”.

Một đồng tu cũng kể một ví dụ về Kinh văn giả: sau ngày 20 tháng 07 năm 1999, một nữ học viên mang đến cho anh xem một cuốn Kinh văn. Sau khi đọc xong, anh ấy nói rằng Kinh văn này là giả. Nhìn thấy vẻ mặt khó hiểu của đồng tu, anh ấy giải thích mấy câu: “Kinh văn giả này là do một người phụ nữ viết, dáng người không cao, khoảng hơn 40 tuổi, mập mạp! Không phải Sư phụ viết!” Những tín tức này không phải do anh ấy nhìn thấy qua thiên mục mà là cảm nhận được.

4. Khổng Tử lưu lại khái niệm “Thế giới đại đồng”, Thôi Bối Đồ dự đoán về Thế giới đại đồng

Khái niệm “đại đồng” lần đầu tiên xuất hiện trong sách “Lễ ký” (“Lễ ký – Lễ Vận – Đại đồng”). Khổng Tử và đệ tử Ngôn Yển khi trò chuyện nói rằng nếu xã hội có thể thực hành “Đại Đạo” thì dưới sự lãnh đạo của những người có đức hạnh, mọi người sẽ coi trọng chữ tín, theo đuổi sự hòa hợp, giúp đỡ, yêu thương lẫn nhau, cũng không theo đuổi sự giàu có cá nhân. Do đó xã hội sẽ không xuất hiện âm mưu quỷ kế, trộm cắp hay chiến tranh. Khổng Tử nói, thế giới lý tưởng như vậy gọi là “đại đồng”.

Tượng thứ 59 trong “Thôi Bối Đồ” tiên đoán: “Vô thành vô phủ, Vô nhi vô ngã, Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa”. Tụng viết: “Nhất nhân vi đại thế giới phúc, thủ trì thiêm đồng bạt khứ trúc, hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, đông nam tây bắc tận hòa mục”. (Diễn nghĩa: Sấm rằng: Không thành không phủ, Không bạn không tôi, Thiên hạ một nhà, Trị tới đại hóa. Tụng rằng: Một người là lớn thế giới phúc, Tay cầm ống thẻ nhổ bạt trúc, Đỏ vàng đen trắng không phân biệt, Đông Nam Tây Bắc cùng hòa thuận).

“Nhất nhân vi đại” là chữ “đại”「大」, “Thủ trì thiêm đồng bạt khứ trúc” là chữ “mê” (謎), còn chữ “đồng” (筒) bỏ đi chữ “trúc” (竹) là chữ “đồng” (同). Ghép lại là “đại đồng” (大同). Hơn nữa, “hồng hoàng hắc bạch” chỉ ra bốn màu da, “đông nam tây bắc tận hòa mục” có nghĩa là “thiên hạ nhất gia” (thế giới là một nhà), là thế giới “đại đồng”.

Thể ngộ cá nhân: cảnh tượng được dự đoán trong tượng thứ 59 của “Thôi Bối Đồ” là cảnh sau khi Sư phụ Pháp chính nhân gian, tất cả các dân tộc trên thế giới (đỏ, vàng, đen, trắng) tiến nhập vào vũ trụ mới, đều sẽ đồng hóa với Đại Pháp, đạo đức nhân loại được nâng cao trở lại, văn hóa truyền thống được phục hưng, Đại Pháp sẽ bước vào thời kỳ thịnh vượng tại nhân gian.

Sau thời kỳ này, những người tu luyện viên mãn sẽ quy vị trở về thiên giới, những người ở lại sẽ làm nhân chủng, lịch sử nhân loại sẽ bắt đầu lại từ đầu và bước vào một kỷ nguyên mới.

Quá trình Sư phụ dẫn dắt đệ tử Đại Pháp làm Chính Pháp và Pháp chính nhân gian sẽ trở thành huyền thoại vĩnh viễn được con người tương lai lưu truyền.

5. Khổng Tử thường hay mộng thấy Chu Công

Nhà Chu là một thể hệ thiên nhân tại nhân gian được Thần an bài để lưu lại “Chu lễ”, trên thực tế là thiết lập nên trật tự xã hội, đặt định ra các nguyên tắc cơ bản làm người và thể hiện mối quan hệ giữa các sinh mệnh.

“Nhân” là cốt lõi trong tư tưởng học thuyết của Khổng Tử. Trong thể hệ tư tưởng của Khổng Tử, “nhân” có mối liên hệ tương quan với nghĩa, đức, trung, lễ, nhạc, v.v. để tạo thành một cấu trúc luân lý toàn diện, là tổng hòa của mọi đức hạnh.

“Lễ” là một phạm trù quan trọng khác trong học thuyết tư tưởng của Khổng Tử. “Lễ” mà Khổng Tử nói bao gồm hai phương diện là tinh thần bên trong và hình thức bên ngoài. Tinh thần bên trong duy hộ các mối quan hệ luân lý khác nhau. Hình thức bên ngoài của “Lễ” bao gồm các nghi thức lễ tiết như tế lễ, nghi lễ, bái triều, cưới xin, ma chay, hội minh (hội họp để kết giao đồng minh), v.v. Đối với những nghi lễ này, Khổng Tử không chỉ nghiêm túc học hỏi, thực hiện mà còn yêu cầu các đệ tử của mình phải nghiêm khắc tuân thủ. Ông yêu cầu mọi người hành sự theo quy định của “lễ”, “lập vu lễ” (lập thân ở lễ), “ước chi dĩ lễ” (quy định ở lễ), nói: “bất học lễ, vô dĩ lập” (không học lễ không thể lập thân). Biến các quy phạm của “lễ” thành ý thức tự giác trong tư tưởng và hành vi, “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (không có lễ không nhìn, không có lễ không nghe, không có lễ không nói, không có lễ không làm). Khổng Tử cho rằng một xã hội luân lý hài hòa chính là con người biết tôn kính trời đất, sắp xếp đúng vị trí quân thần, hòa hợp cha con, hiểu được thứ bậc anh em, v.v., nhấn mạnh vào việc điều chỉnh mối quan hệ giữa trời với người, giữa người với người và giữa các hình thái ý thức khác nhau nhằm thiết lập một trật tự xã hội viên dung, ổn định và hài hòa.

Cá nhân tôi hiểu rằng hình thức bên ngoài của “Chu lễ” rất giống với giới luật của Phật gia, trực tiếp chỉ dạy cho con người những quy tắc ứng xử cần phải tuân theo và phép tắc làm người.

Thời đại mà Khổng Tử sống đúng vào lúc nhà Chu suy yếu, lễ nhạc băng hoại, kỷ cương hỗn loạn, các truyền thống văn hóa từ thời Hạ, Thương, Chu đối mặt với nguy cơ sụp đổ. Khổng Tử thường mơ thấy Chu Công, không phải chỉ đơn thuần là mộng khi ngủ, mà Chu Công ở trong mộng đã truyền lại cho ông một số khải thị. Khổng Tử sinh ra ở nước Lỗ, cũng là sự an bài của Thần, bởi nước Lỗ là đất phong của Bá Cầm – con trai của Chu Công Đán, được mệnh danh là “lễ nghi chi bang” và là quốc gia bảo tồn tốt nhất các văn vật và điển tịch của nhà Chu. Đây là nơi mà Khổng Tử có thể học được nhiều nhất về “Chu lễ”, nhưng dù vậy vẫn không hoàn chỉnh. “Lễ” là do Thần hữu ý truyền dạy cho con người chứ không phải do con người tự tưởng tượng ra. Khổng Tử mơ thấy Chu Công, đó là Chu Công đã thông qua phương thức này để truyền thụ, điểm hóa nhằm hoàn thiện tư tưởng của Khổng Tử, lưu lại cho hậu nhân những lý luận cần thiết.

Khổng Tử suốt đời truyền bá đạo đức, đề xướng việc dùng đạo đức để quy phạm tư tưởng và hành vi của con người, đồng thời khuyến khích con người tu thân, biết người, biết trời và trở thành Thánh nhân.

“Đạo” là chỉ Thiên Đạo, “Đức” là nhân đức, tức là tiêu chuẩn hành vi của con người, đức của con người là được xây dựng dựa trên cơ sở của quy luật Thiên Đạo, con người cần tuân theo “Đạo”. Khổng Tử cho rằng những người hành “Thánh nhân chi Đạo” (Đạo của bậc Thánh nhân) phải “kính Thiên, tri mệnh” thì mới đạt được cảnh giới tương thông với trời đất và thiên nhân hợp nhất.

Văn hóa Nho gia thực ra là một loại văn hóa tu luyện, khi lên cao tầng thì quy về Đạo gia, làm người sống theo tư tưởng Nho gia thì dù không thực sự tu Đạo nhưng đã ở trong Đạo rồi.

Bài viết này chỉ là nhận thức của cá nhân trong trạng thái tu luyện hiện tại, tầng thứ có hạn. Nếu có chỗ nào không phù hợp, kính mong đồng tu từ bi chỉ chính. Hợp thập!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286851

The post Thử bàn về Khổng Tử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Trí huệ của cổ nhânhttps://chanhkien.org/2024/10/tri-hue-cua-co-nhan.htmlMon, 28 Oct 2024 23:07:00 +0000https://chanhkien.org/?p=34816Tác giả: Giác Tỉnh [ChanhKien.org] Trong xã hội ngày nay, chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc nhanh chóng mỗi ngày, đối diện với việc đạo đức suy thoái toàn diện, người người than thở, sợ hãi. Ai cũng mong mỏi có một ngày đạo đức nhân loại có thể quay trở lại. Đạo đức […]

The post Trí huệ của cổ nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Giác Tỉnh

[ChanhKien.org]

Trong xã hội ngày nay, chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc nhanh chóng mỗi ngày, đối diện với việc đạo đức suy thoái toàn diện, người người than thở, sợ hãi. Ai cũng mong mỏi có một ngày đạo đức nhân loại có thể quay trở lại. Đạo đức có thể quay trở lại hay không, điều này cần phải dựa vào sự nỗ lực chung của mọi người. Vì cơ sở để quay trở lại là dựa vào mỗi cá nhân, cần bắt đầu từ việc tu dưỡng đức hạnh của tự thân của mỗi người. Khi phẩm hạnh của tất cả mọi người đề cao, toàn bộ hoàn cảnh xã hội sẽ chuyển biến ngay tức khắc, đạo đức sẽ hồi thăng trở lại.

Như vậy, việc cải biến bản thân là điều cực kỳ quan trọng, muốn cải biến bản thân thì phải biết làm như thế nào. Một người có đức hạnh cao, cần phải có được những hành vi nào? Chúng ta hãy xem xem cổ nhân nói về việc này như thế nào.

Cao Dao, sinh vào thời kỳ Nghiêu đế trị vì, ông thông minh, rộng lượng, nhân nghĩa và tài giỏi. Ông cùng với Nghiêu, Thuấn, Vũ được tôn xưng là “Thượng cổ tứ Thánh”. Trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại, ông là một nhân vật có sức ảnh hưởng rất lớn. Ông từng phò tá ba vị Thánh quân Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Cao Dao nói: “Một người có đức hạnh, cần phải biết những việc mà người ấy làm là gì. Xem xét hành vi của một người có thể căn cứ theo chín loại phẩm đức”.

Vũ hỏi: “Thế nào gọi là chín loại phẩm đức?”

Cao Dao nói: “Khoan hồng đại lượng mà cẩn trọng những việc nhỏ bé, tính tình ôn hòa mà vẫn có chủ kiến, thái độ kính cẩn mà vẫn trang trọng nghiêm túc, có thể trị lý quốc sự mà lại làm việc cẩn thận, biết lắng nghe ý kiến của người khác mà lại quả đoán cương nghị, ngay thẳng chính trực mà lại có thái độ ôn hòa, thẳng thắn rộng lượng mà lại có thể giữ chừng mực, cương trực không xu nịnh mà vẫn có thể đầy đủ, kiên cường bất khuất mà vẫn phù hợp đạo nghĩa. Chín loại phẩm đức tốt đẹp thiện mỹ cát tường này cần phải được biểu lộ ra! (Trích từ: “Thượng thư – Ngu Hạ thư”).

Chín phẩm đức tốt đẹp này được Cao Dao coi là tiêu chuẩn đức hạnh. Nếu như thần tử nào làm được ba phẩm đức trong đó, thì có thể được phong chức khanh đại phu; nếu như làm được sáu phẩm đức trong đó, thì có thể phong chư hầu. Nếu như quan viên có thể tuân theo những tiêu chuẩn này mà học hỏi lẫn nhau, hành vi của họ sẽ thuận với quy luật của đạo trời tự nhiên, sẽ có thể đạt được thành tựu nhất định. Chín phẩm đức tốt đẹp này, không chỉ là yêu cầu đức hạnh cao nhất đối với người làm quan, mà cũng là yêu cầu cảnh giới đối với phổ thông bách tính. Nếu như mọi người trong thiên hạ đều có thể chiểu theo những điều này mà cố gắng nỗ lực làm theo, nhất định sẽ xuất hiện thịnh thế, đi đường không nhặt của rơi, tối đến không cần đóng cửa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/278924

The post Trí huệ của cổ nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận đượchttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-15-khong-gian-da-tang-co-the-biet-va-cam-nhan-duoc.htmlMon, 28 Oct 2024 23:06:44 +0000https://chanhkien.org/?p=34814Tác giả: Ngọc Minh [ChanhKien.org] Mọi người đều có thể cảm nhận được các kinh lạc và huyệt vị mà Trung y giảng, ấn vào huyệt Hợp Cốc sẽ có cảm giác đau nhức và căng lên khác với những nơi khác. Hiệu quả chữa bệnh của châm cứu từ mấy ngàn năm nay cũng […]

The post Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận được first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Minh

[ChanhKien.org]

Mọi người đều có thể cảm nhận được các kinh lạc và huyệt vị mà Trung y giảng, ấn vào huyệt Hợp Cốc sẽ có cảm giác đau nhức và căng lên khác với những nơi khác. Hiệu quả chữa bệnh của châm cứu từ mấy ngàn năm nay cũng đã chứng thực sự tồn tại của kinh lạc và huyệt vị, nhưng chúng không thể được tìm thấy trong giải phẫu học. Cũng có nghĩa là, kinh lạc và huyệt vị không tồn tại trong không gian có thể nhìn thấy bằng mắt thịt này của chúng ta.Trên thực tế, chúng tồn tại ở một không gian của một tầng sâu hơn, một không gian vi quan hơn. Sự khác biệt cơ bản giữa Trung y và Tây y là Trung y phần lớn bắt đầu chữa bệnh từ không gian vi quan, trong khi Tây y phần lớn bắt đầu chữa bệnh từ không gian bề mặt. Đại bộ phận các loại thuốc dùng trong Trung y cũng đều liên quan đến nguyên lý không gian vi quan, chính là điều chỉnh cơ thể từ mức độ vi quan nên bệnh được tiêu trừ triệt để.

Một số trẻ mắc chứng sợ hãi ban đêm, ngủ vào ban ngày và khóc vào ban đêm, âm dương đảo ngược. Có một phương thuốc chữa đơn giản: đun sôi vàng trong nước. Nước đã đun sôi với vàng trở thành nước dương tinh khiết rất “nặng”, cho trẻ uống có thể khiến trẻ yên lặng. Tuy nhiên, theo lý thuyết vật lý, vàng không hòa tan trong nước, nếu được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm sẽ không tìm thấy phân tử vàng nào trong nước. Tại sao nước đun sôi với vàng lại có đặc tính khác? Sự tồn tại của vật chất không chỉ trong không gian có thể nhìn thấy này của chúng ta. Vàng, nước và mọi thứ khác tồn tại cùng lúc ở nhiều tầng không gian và sự tồn tại trong các không gian khác nhau có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vàng và nước không hòa tan với nhau trong không gian bề mặt này, nhưng chúng thâm nhập vào nhau ở không gian sâu hơn, cho nên nước đã đun sôi có vàng với nước đã đun sôi không có vàng là những vật chất khác nhau.

Ví dụ trên là hai loại vật chất không hòa tan nhau ở bên này nhưng lại có thể hòa tan được ở bên kia, ngược lại, cũng có những vật chất có thể hòa tan được ở đây nhưng lại không thể hòa tan được ở kia. Có một loại bệnh tả nửa ướt nửa khô, có bài thuốc hiệu quả là múc nước giếng lên, đun sôi một nửa lượng nước đó rồi trộn với nửa còn lại, loại nước này là nước nửa ướt nửa khô, có tác dụng chữa bệnh tả nửa ướt nửa khô. (Trên thực tế, nước nửa âm nửa dương làm theo phương pháp này có thể chữa được rất nhiều bệnh kiểu nửa âm nửa dương).

Điều này cho thấy nước trộn theo cách này với nước được đun nóng cùng nhau đến nhiệt độ trung bình là hai vật chất hoàn toàn khác nhau. Nước chưa đun và nước đã đun sôi là những vật chất khác nhau, chúng được hòa tan với nhau trong không gian thấy rõ ở đây, nhưng ở không gian sâu hơn có sự gián cách và không thể hòa tan được. Nói cách khác, nước trộn theo cách này là một loại “salad” gồm hai chất. Những trường hợp như vậy có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ, nếu ta cho thêm một ít nước vào giữa lúc nấu canh, thì sẽ không thể nấu món canh nguyên vị ban đầu nữa và kết quả sẽ là một món canh “salad” cứng nhắc.

Theo quan điểm của vật lý học phương Tây, điều này tưởng chừng như là không thể tưởng tượng nổi. Theo lý thuyết khoa học, khi nước được làm nóng, các phân tử chuyển động nhanh hơn, đợi sau khi nước nguội đi, các phân tử nước “yên tĩnh” lại, chỉ cần hai loại nước cùng nhiệt độ thì chuyển động giống nhau, đó chính là điều giống nhau. Cách hiểu vấn đề trong một không gian đơn nhất này cũng giống như hiểu con người bằng cách nhìn chằm chằm vào cái bóng của họ, khó mà thấy được chân cơ.

Vật chất tồn tại ở nhiều không gian cùng một lúc và cùng một nơi, cơ thể chúng ta cũng tồn tại ở nhiều không gian cùng một lúc và ở cùng một nơi, cảm giác của cơ thể ở các tầng thứ không gian khác nhau là có mối liên hệ thông suốt với nhau. Các khái niệm lãnh (lạnh), lương (mát) và hàn (rét) trong Trung y chính là sự mô tả các trạng thái của các không gian khác nhau, các khái niệm lãnh (lạnh) và nhiệt (nóng) khác xa với khái niệm nhiệt độ trong vật lý học hiện đại.

Trong Trung y, bệnh được phân thành lãnh và nhiệt, thuốc cũng được phân thành hàn và nhiệt. Vị thuốc có tính lương trong Trung y không phải là khái niệm biểu hiện không gian bề mặt này của chúng ta. Băng thì lạnh, khi chạm vào da có thể cảm nhận được, nhưng thuốc làm mát như hạt trân châu, lại không lạnh, không lạnh như băng mà “lạnh” ở không gian tầng sâu hơn, Trung y dùng chữ lương để mô tả nó. Đôi khi người bệnh bị trong nóng ngoài lạnh nên khi uống thuốc phải uống thuốc khi còn nóng hoặc uống thuốc khi đã nguội; người bệnh trong nóng ngoài lạnh thì phải dùng thuốc có tính nóng nhưng uống khi nguội, tương ứng, có thuốc nóng phải uống khi còn nóng hoặc thuốc lạnh uống khi đã nguội, có nghĩa là trạng thái ngấm thuốc là diễn ra cùng một lúc ở các tầng thứ không gian khác nhau.

Từ “hàn” (lạnh) được sử dụng trong Trung y có ý nghĩa sâu hơn “lương” (mát) một tầng. Một loại ngọc được khai quật dưới tảng băng trôi nghìn năm tuổi được gọi là hàn ngọc, khi cầm trên tay không có cảm giác như băng và da sẽ không bị đông cứng nhưng theo thời gian sẽ có cảm giác lạnh thấu tim thấu xương. Ngày xưa, đặt một miếng hàn ngọc vào miệng của người chết thì có thể bảo quản hài cốt rất lâu mà không bị đông cứng. Mức độ lạnh này không thể đạt được bằng độ lạnh của thuốc hạ nhiệt. Nó là trạng thái không gian của một tầng sâu hơn, hoặc không gian vi quan hơn.

Tôi học chuyên ngành vật lý tại đại học và bắt đầu đọc sách Trung y khi còn là sinh viên năm thứ tư. Sau đó tôi nhận ra rằng Trung dược của Trung y là sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về vật chất và không gian, và đó là vật lý chân chính.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (15): Không gian đa tầng có thể biết và cảm nhận được first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải luận ngữ (33): Tính dữ Thiên Đạo (bản tính và Thiên Đạo)https://chanhkien.org/2024/10/tinh-giai-luan-ngu-33-tinh-du-thien-dao-ban-tinh-va-thien-dao.htmlSun, 27 Oct 2024 23:06:07 +0000https://chanhkien.org/?p=34808[ChanhKien.org] Nguyên văn 子贡曰:“夫子之文章(1),可得而闻也;夫子之言性(2)与天道(3),不可得而闻也。” (《论语·公冶长第五》) Hán Việt Tử Cống viết: “Phu Tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã; Phu Tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”) Phiên âm Zǐ Gòng yuē: “Fūzǐ zhī wénzhāng, kě dé ér […]

The post Tinh giải luận ngữ (33): Tính dữ Thiên Đạo (bản tính và Thiên Đạo) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nguyên văn

子贡曰:“夫子之文章(1),可得而闻也;夫子之言性(2)与天道(3),不可得而闻也。” (《论语·公冶长第五》)

Hán Việt

Tử Cống viết: “Phu Tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã; Phu Tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”)

Phiên âm

Zǐ Gòng yuē: “Fūzǐ zhī wénzhāng, kě dé ér wén yě; Fūzǐ zhī yán xìng yǔ tiāndào, bù kě dé ér wén yě.” (Lúnyǔ‧Gōng yě zhǎng dì wǔ)

Chú âm

ㄗˇ貢ㄍㄨㄥˋ曰ㄩㄝ:”夫ㄈㄨ子ㄗˇ之ㄓ文ㄨㄣˊ章ㄓㄤ,可ㄎㄜˇ得ㄉㄜˊ而ㄦˊ聞ㄨㄣˊ也ㄧㄝˇ;夫ㄈㄨ子ㄗˇ之ㄓ言ㄧㄢˊ性ㄒㄧㄥˋ與ㄩˇ天ㄊㄧㄢ道ㄉㄠˋ,不ㄅㄨˋ可ㄎㄜˇ得ㄉㄜˊ而ㄦˊ聞ㄨㄣˊ也ㄧㄝˇ。”(《論ㄌㄨㄣˊ語ㄩˇ‧公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ長ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》)

Chú thích

1. 文章 (Văn chương): chỉ toàn bộ thi, thư, lễ, nhạc mà Khổng Tử truyền dạy.

2. 性 (Tính): chỉ bản tính của con người hoặc là chỉ đặc tính của con người, sự vật, sự việc.

3. 天道 (Thiên Đạo): chỉ Thiên lý, hoặc là chỉ nguyên lý của con người, sự vật, sự việc.

Diễn nghĩa

Tử Cống nói: “Thi, thư, lễ, nhạc mà thầy dạy là những điều hữu hình biểu hiện trên bề mặt, có thể quan sát được; còn bản tính của con người và Thiên lý mà thầy dạy (hay chính là đặc tính và nguyên lý của người, sự vật, sự việc) là thứ vô hình tiềm ẩn trong bản chất nội tại, không thể trực tiếp quan sát được”.

Nghiên cứu và phân tích

Những hình thức văn hóa nghệ thuật như thi, thư, lễ, nhạc là phù hợp để giáo hóa dân chúng, người bình thường đều có thể học tập, lưu truyền; còn bản tính của con người và Thiên lý (hay chính là đặc tính và nguyên lý của hết thảy con người, sự vật, sự việc) lại là điều cao thâm, huyền diệu, siêu thường hơn. Vì việc học tập là tiến lên từng bước, và việc dạy học cũng không thể nhảy cóc, nên chỉ những học trò có sự tiến bộ từng bước trong học tập, giống như đi từ nông cạn đến thâm sâu, thì Khổng Tử mới xem xét thời điểm thích hợp để giảng cho học trò ấy về bản tính và Thiên Đạo, chứ không phải tất cả học trò muốn nghe Khổng Tử giảng về bản tính và Thiên Đạo đều có thể nghe được. Đoạn này có thể là cảm xúc và lời tán thưởng của Tử Cống khi được nghe Khổng Tử giảng về bản tính và Thiên Đạo.

Câu hỏi mở rộng

1. Vì sao Khổng Tử muốn giảng về bản tính và Thiên Đạo cho các đệ tử có sự tiến bộ từng bước trong học tập? Phải chăng ông hy vọng họ có thể quay về bản tính thiện lương, không xa rời bản tính và Thiên lý? Phải chăng những đệ tử có thể làm được như vậy sẽ là những người hạnh phúc nhất? Đây có phải là mục tiêu giáo dục của Khổng Tử chăng?

2. Thử nghĩ xem, sau khi nghe Khổng Tử giảng về bản tính và Thiên Đạo, phải chăng Tử Cống cần nghiêm khắc yêu cầu hành vi, lời nói, suy nghĩ của bản thân quay trở về với bản tính thiện lương, không được rời xa bản tính và Thiên lý trong mọi phương diện của cuộc sống? Nếu như Tử Cống không nguyện ý yêu cầu bản thân như thế, không làm được như thế, hoặc vẫn chỉ là học tập giống như học thi, thư, lễ, nhạc thì liệu Khổng Tử có dạy ông về bản tính và Thiên Đạo không?

Câu chuyện lịch sử

Học theo tự nhiên, Du Bá Nha sáng tác nên khúc nhạc nổi tiếng

Vào thời Xuân Thu, Du Bá Nha nước Sở từng theo người thầy dạy nhạc nổi tiếng Thành Liên học đánh đàn. Thành Liên thấy ông có tài năng thiên phú nên dốc hết sức truyền thụ kiến thức. Sau ba năm học tập gian khổ, kỹ năng chơi đàn của Bá Nha đã đạt đến trình độ chân truyền của sư phụ. Nhưng khi chơi nhạc ông cứ luôn cảm thấy trong tiếng đàn còn thiếu một chút gì đó. Bá Nha vì thế mà vô cùng khổ não, phiền muộn. Ông biết rằng nếu có thể xung phá được quan này thì ông sẽ trở thành một người chơi đàn kiệt xuất, nếu không bất quá cũng chỉ là “thợ” chơi nhạc mà thôi. Một ngày nọ, sư phụ Thành Liên nói với ông: “Bá Nha à! Điều con còn thiếu chỉ là một chút Thần vận mà thôi! Nhưng đây là cảnh giới của Thần, không thể truyền thụ bằng lời được. Sư phụ của ta là Phương Tử Xuân sống trên đảo Bồng Lai ở Đông Hải, ông ấy có thể giúp con, chúng ta hãy cùng đến đó thỉnh giáo ông ấy nhé!”

Thế rồi hai thầy trò đi thuyền đến đảo Bồng Lai ở trên biển, lúc này Thành Liên nói rằng phải đi nơi khác đón thái sư Phương Tử Xuân nên bảo Bá Nha hãy đợi ở trên đảo. Bá Nha một mình ở lại trên hoang đảo, ban đầu ông chỉ biết đi đi lại lại dọc bờ biển, sốt ruột chờ sư phụ quay lại. Nhưng lâu dần, ngày ngày nhìn ngắm mặt trời lên mặt trăng lặn, thủy triều lên thủy triều xuống, ông trầm tĩnh lại. Một ngày nọ, ông chợt cảm thấy một nỗi niềm trào dâng trong lòng, muốn thì thầm nói chuyện với biển. Thế rồi ông mang đàn ra bờ biển thong thả gảy những dây đàn. Chỉ nghe thấy tiếng đàn của ông thuận theo tiếng gió biển, lúc nhanh lúc chậm, sóng biển cũng lại thuận theo tiết tấu thăng trầm của tiếng đàn, khi thì lên bổng khi thì xuống trầm. Trong sự hòa quyện với thiên nhiên, bất tri bất giác ông cảm thấy hết thảy nỗi niềm dường như đều tan biến vào hư không, chỉ còn lại tiếng nhạc tựa như âm thanh của tự nhiên bao phủ khắp cả đất trời, khi thì sục sôi, khi thì trầm lắng. Khi khúc nhạc kết thúc, ông cảm nhận thấy một kết cấu vũ trụ vĩ đại dường như đã hình thành trong trái tim mình: hóa ra cảm giác khi trí huệ được lấp đầy bởi vạn vật trong tự nhiên là như thế này! Những điều tốt đẹp nhất là được triển hiện như thế này. Trong cõi u minh, rốt cuộc là bàn tay nào đang chi phối hết thảy?

Lúc này, ông lại tấu lên một khúc nhạc, cảm thấy bản thân đạt được Thiên nhân hợp nhất, du du tự tại, cuối cùng danh khúc “Thủy tiên tháo” được ấp ủ bao lâu nay trên hoang đảo cũng đã hoàn thành! Một hôm, trong khi đang đặt hết tâm tư chơi khúc nhạc “Thủy tiên tháo” thì ông nghe thấy một tiếng cười vang lên từ phía sau, thì ra là sư phụ Thành Liên đã trở về! Sư phụ Thành Liên mỉm cười nói với ông: “Bá Nha à! Thiên nhiên vĩ đại đã khai mở trí huệ vô biên của con, vậy thì còn cần Tử Xuân thái sư đến vẽ rắn thêm chân làm gì nữa!”. Lúc này Bá Nha mới hiểu ra, thì ra ở đây vốn không có vị “thái sư” nào cả!

Từ câu chuyện này, chúng ta có thể ngộ ra triết lý sống độc đáo “tĩnh quan thiên địa, sư pháp tự nhiên” (tĩnh lặng quan sát trời đất, học hỏi từ tự nhiên) của người Trung Quốc cổ xưa. Người xưa thông qua quan sát thiên tượng, xem xét địa lý, du ngoạn cảnh vật sơn thủy, đã hiểu ra rằng trong trời đất có tồn tại một lực lượng chủ tể thầm lặng mà vĩ đại, nếu mọi người có thể thuận theo đạo lý này thì sẽ được bình an tự tại; còn nếu đi ngược lại với “đạo” này thì ắt không tránh khỏi thiên tai nhân họa. Từ quy luật vận hành có trật tự này, con người sẽ được dẫn dắt và điểm hóa. Con người sống trong trời đất tự nhiên sẽ học được đức tính khiêm tốn, bao dung và cảm ân, từ đó phát triển thành phương thức sinh hoạt tương ứng. Ví dụ như: trong lịch pháp của Trung Quốc, 24 tiết khí trở thành cơ sở tốt nhất cho đời sống nông nghiệp cổ xưa, “xuân canh, hạ vân, thu thu, đông tàng” (ý là “mùa xuân gieo trồng, mùa hạ chăm sóc, mùa thu thu hoạch, mùa đông tích trữ”), độ chính xác của nó khiến cho hậu thế vô cùng thán phục.

Do có thể chung sống hài hòa với vạn vật trong thiên nhiên, nên người Trung Quốc tự nhiên cũng noi theo tinh thần của trời đất từ lời nói, hành vi đến tư tưởng. Chúng ta có thể hiểu được ít nhiều thông qua những từ vựng phong phú được lưu truyền từ thời cổ đại đến nay. Ví dụ như khi muốn khích lệ bản thân mở rộng tấm lòng thì sẽ nghĩ đến “hải khoát thiên không” (biển rộng trời cao); khi muốn học cách khiêm tốn, cung kính thì phải là “hư hoài nhược cốc” (tấm lòng rộng lớn như núi có thể dung chứa vạn vật, dùng để mô tả những người khiêm tốn có thể tiếp thu ý kiến của người khác); để hình dung nhân cách cao thượng vĩ đại của một người thì người ta sẽ ví von với “sơn cao thủy trường” (núi cao sông dài). Nếu một người vô cùng nhanh nhẹn hoạt bát, tràn trề sức sống thì nói anh ta là “diên phi ngư dược” (diều hâu bay cá nhảy), v.v. Những điều này thể hiện sự kính ngưỡng và niềm tin của người Trung Quốc đối với tự nhiên. Hơn nữa, một số thành ngữ mà chúng ta đang dùng hàng ngày như “thần công quỷ phủ”, “thần cơ diệu toán”, “thần thánh”, “kinh thiên địa, khấp quỷ thần”, v.v. không câu nào không thể hiện sự thán phục và tấm lòng sùng kính của người xưa đối với Đấng tạo hóa. Vì thế những người biết thiên mệnh, hiểu Thiên lý thì dù đi đâu cũng có thể sống vui vẻ tự tại, đứng trước biến cố mà không hề nao núng!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải luận ngữ (33): Tính dữ Thiên Đạo (bản tính và Thiên Đạo) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải luận ngữ (32): Bất niệm cựu ác (không nhớ oán xưa)https://chanhkien.org/2024/10/tinh-giai-luan-ngu-32-bat-niem-cuu-ac-khong-nho-oan-xua.htmlFri, 25 Oct 2024 22:43:26 +0000https://chanhkien.org/?p=34793[ChanhKien.org] Nguyên văn 子曰:“伯夷叔齐(1)不念旧恶(2),怨是用希(3)。”(《论语·公冶长第五》) Hán Việt Tử viết: “Bá Di Thúc Tề bất niệm cựu ác, oán thị dụng hy.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”) Phiên âm Zǐ yuē: Bó Yí Shū Qí bù niàn jiù è, yuàn shì yòng xī.” Chú âm 子ㄗˇ曰ㄩㄝ:“伯ㄅㄛˊ夷ㄧˊ叔ㄕㄨ齐ㄑㄧˊ(1)不ㄅㄨˋ念ㄋㄧㄢˋ旧ㄐㄧㄡˋ恶ㄜˋ(2),怨ㄩㄢˋ是ㄕˋ用ㄩㄥˋ希ㄒㄧ(3)。”(《论ㄌㄨㄣˊ语ㄩˇ·公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ长ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》) Chú thích 1. 伯夷、叔齐 (Bá Di, […]

The post Tinh giải luận ngữ (32): Bất niệm cựu ác (không nhớ oán xưa) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nguyên văn

子曰:“伯夷叔齐(1)不念旧恶(2),怨是用希(3)。”(《论语·公冶长第五》)

Hán Việt

Tử viết: “Bá Di Thúc Tề bất niệm cựu ác, oán thị dụng hy.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”)

Phiên âm

Zǐ yuē: Bó Yí Shū Qí bù niàn jiù è, yuàn shì yòng xī.”

Chú âm

子ㄗˇ曰ㄩㄝ:“伯ㄅㄛˊ夷ㄧˊ叔ㄕㄨ齐ㄑㄧˊ(1)不ㄅㄨˋ念ㄋㄧㄢˋ旧ㄐㄧㄡˋ恶ㄜˋ(2),怨ㄩㄢˋ是ㄕˋ用ㄩㄥˋ希ㄒㄧ(3)。”(《论ㄌㄨㄣˊ语ㄩˇ·公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ长ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》)

Chú thích

1. 伯夷、叔齐 (Bá Di, Thúc Tề): là hai người con trai của nhà vua nước Cô Trúc cuối thời nhà Ân (Cô Trúc là một nước chư hầu của triều đại nhà Thương). Sau khi phụ thân qua đời, hai người con không ai muốn kế vị mà nhường cho nhau, sau đó họ đều chạy đến chỗ Chu Vũ Vương. Khi Chu Vũ Vương khởi binh phạt Trụ, họ cho rằng đây là việc thần giết quân vương, là hành vi bất trung bất hiếu, nên ra sức ngăn chặn. Sau khi nhà Chu diệt nhà Thương thống nhất thiên hạ, họ coi việc ăn lương thực của nhà Chu là một sự sỉ nhục nên đã bỏ vào núi sâu rừng già ăn cỏ dại qua ngày, rồi bị chết đói trong núi Thủ Dương.

2. 不念旧恶 (Bất niệm cựu ác): Không để tâm đến những oán hận của người khác đối với họ trong quá khứ.

3. 希 (Hy): đồng âm với từ “稀”(hy), nghĩa là hiếm thấy.

Diễn nghĩa

Khổng Tử nói rằng: “Bá Di, Thúc Tề không để tâm đến những oán hận của người khác đối với họ trong quá khứ, đó là vì họ rất ít khi oán hận người khác”.

Nghiên cứu và phân tích

Mặc dù Trụ vương của nhà Thương là vị vua vô đạo, nhưng trong con mắt của Bá Di và Thúc Tề thì việc Chu Vũ Vương phạt Trụ cũng là “lấy ác trị ác”, là việc làm phá hoại lễ quân thần. Vì thế đứng trên cơ sở duy hộ lễ pháp chính thống, họ vẫn ngăn cản Vũ Vương phạt Trụ, “bất thực Chu túc” (không ăn lương thực của nhà Chu). Mặc dù Bá Di và Thúc Tề đã phải chịu đau khổ vì sự vô đạo của Trụ vương, nhưng họ không hề ghi nhớ việc ác xưa của ông, cũng không vì việc Vũ vương phạt Trụ có thể nhất thời giải trừ nỗi oan khuất thống khổ của dân mà từ bỏ lễ pháp truyền thống mà bản thân luôn giữ gìn để đi theo Vũ vương. Khổng Tử khen ngợi Bá Di và Thúc Tề chính là vì họ luôn đối đãi với người khác bằng tấm lòng chính nghĩa và bản tính thiện lương, chứ không rơi vào cái vòng hận thù luẩn quẩn “lấy ác trị ác”, “ăn miếng trả miếng”, “lấy hung bạo thay cho hung bạo”, “oan oan tương báo”, thực ra đây cũng là sự sáng suốt cần có trong việc đối nhân xử thế.

Thử nghĩ xem: nếu chúng ta luôn đối xử với người khác bằng tấm lòng chính nghĩa và bản tính thiện lương, thì trong tâm sẽ không sinh ra những suy nghĩ oán hận với người khác, như vậy chẳng phải có thể vui vẻ chung sống một cách ôn hòa, khoan dung với mọi người và sẽ không bị rơi vào vòng hận thù luẩn quẩn “lấy ác trị ác”, “oan oan tương báo” nữa phải không?

Câu hỏi mở rộng

1. “Lấy ác trị ác”, “oan oan tương báo” không thể nào kết thúc được vòng hận thù luẩn quẩn, chỉ có “lấy thiện trừ ác” (phát huy bản tính thiện lương, vứt bỏ cái ác khiến ta rời xa bản tính) mới có thể kết thúc vòng hận thù ấy. Bá Di và Thúc Tề có thể luôn luôn đối đãi với người đã gây ra những tổn thương, oán hận cho mình bằng tấm lòng chính nghĩa và bản tính thiện lương, chẳng phải là cần có ý chí, sự kiên trì và nhẫn nại rất lớn sao. Bạn thử xem mình có thể không oán hận, không làm tổn thương người khác hay không?

2. “Thiện hữu thiện báo”, nếu chúng ta luôn đối đãi người khác bằng tấm lòng chính nghĩa và bản tính thiện lương thì thường sẽ nhận được sự báo đáp thiện ý từ người khác; “ác hữu ác báo”, nếu chúng ta đối đãi với người khác bằng những suy nghĩ bị ô nhiễm bởi oán hận, tà ác, xa rời bản tính thì thường sẽ chuốc lấy sự báo thù và oán hận, hơn nữa “oan oan tương báo đến khi nào mới dứt?”

Vậy hãy thử nghĩ xem vận mệnh của một người tốt hay xấu phải chăng có liên quan đến việc người ấy dùng thiện hay ác để đối đãi với người khác?

Câu chuyện lịch sử

Làm việc thiện, cải biến vận mệnh

Câu chuyện của tể tướng Bùi Độ thời Đường

Trong u mê, vận mệnh của mỗi người chúng ta dường như đã được định sẵn ngay từ khi chúng ta cất tiếng khóc oa oa rơi xuống nơi thế gian con người này. Thoạt nhìn vận mệnh của chúng ta không phải do chúng ta nắm giữ, nhưng trên thực tế, vận mệnh ấy lại do chính chúng ta chi phối. Khi ta dùng thiện niệm để chỉ đạo ngôn từ, hành vi của bản thân thì vận mệnh cũng theo đó mà cải biến. Đây là lý do vì sao trước lúc lâm chung Lưu Bị đã dạy con trai A Đẩu rằng: “Đừng vì việc ác nhỏ mà làm, đừng vì việc thiện nhỏ mà không làm”. Câu chuyện của tể tướng Bùi Độ thời Đường là một minh chứng tốt nhất cho lời giáo huấn cổ xưa này.

Thư lệnh phổ quốc công triều Đường Bùi Độ có ngoại hình vừa gầy vừa nhỏ, không có quý tướng, nhiều lần gặp trở ngại trên con đường công danh sự nghiệp khiến bản thân ông vô cùng nghi hoặc. Khi đó vừa hay có một người xem tướng ở Lạc Trung, được giới quan lại học giả rất kính trọng. Bùi Độ đến gặp ông ấy, hỏi xem vận mệnh của mình thế nào, người xem tướng nói: “Hình thần của lang quân có chút không giống với người bình thường. Nếu không làm quan lớn thì sẽ bị chết đói. Hiện tại tôi vẫn không nhìn ra được, vài ngày nữa ông hãy quay lại đây, tôi sẽ xem kỹ cho ông”. Bùi Độ bằng lòng trở về.

Một hôm, ông lên chùa Hương Sơn dạo chơi, khi đang đi loanh quanh ở giữa hành lang và phòng bên thì đột nhiên nhìn thấy một người phụ nữ mặc thường phục, đặt một chiếc túi cầm tay ở lan can chùa và ngồi cầu nguyện rất lâu, sau khi ngẩng đầu bái tạ thì liền rời đi. Một lúc sau, Bùi Độ nhìn thấy cái túi vẫn ở chỗ cũ, biết rằng người phụ nữ kia đã bỏ quên, định đuổi theo để đưa nhưng không kịp nên đành cầm lấy túi, đợi người phụ nữ quay lại thì trả. Đến khi mặt trời lặn ông vẫn không thấy người phụ nữ ấy quay lại tìm đồ, Bùi Độ liền mang cái túi trở về quán trọ.

Sáng sớm ngày hôm sau, Bùi Độ lại mang cái túi lên chùa Hương Sơn. Cổng chùa vừa mở, ông nhìn thấy người phụ nữ hôm qua vội vã chạy đến, hoang mang sợ hãi, dáng vẻ thở dài tiếc nuối, dường như là đang gặp phải tai họa ngoài ý muốn. Bùi Độ tiến đến hỏi cô ấy có chuyện gì. Người phụ nữ nói: “Cha của tôi vô tội nhưng lại bị bắt giam, hôm qua có một quý nhân đến đưa tôi một chiếc đai ngọc và một chiếc đai tê giác, trị giá hơn một nghìn xâu tiền, tôi định dùng nó để đưa cho vị quan chủ quản, không may lại bị mất ở đây, xem ra người cha già yếu của tôi gặp phải đại họa rồi”. Bùi Độ rất đồng cảm với cô ấy, hỏi kỹ càng về màu sắc của các đồ vật, cô ấy đều nói đúng, Bùi Độ liền đưa cái túi trả cho cô. Người phụ nữ khóc lóc bái tạ, xin Bùi Độ giữ lại một chiếc đai ngọc, Bùi Độ cười từ chối.

Không lâu sau, ông quay lại chỗ người xem tướng, sau khi nhìn kỹ lưỡng, thấy giọng nói nét mặt có thay đổi lớn, ông kinh ngạc nói: “Ông nhất định đã làm việc thiện, tích được đại đức, tiền đồ vô cùng rộng mở, không giống như những gì tôi đã biết”. Bùi Độ liền đem câu chuyện mấy hôm trước thuật lại cho ông ấy.

Bùi Độ sau này quả nhiên đã làm quan đến chức vị cao nhất.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải luận ngữ (32): Bất niệm cựu ác (không nhớ oán xưa) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (5)https://chanhkien.org/2024/10/van-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-5.htmlFri, 25 Oct 2024 04:44:38 +0000https://chanhkien.org/?p=34790(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Thời kỳ hưng thịnh đỉnh cao của Phật giáo Phật giáo trong thời kỳ của Đường Thái Tông bắt đầu đạt đến đỉnh cao hưng thịnh, đánh dấu bằng việc phiên dịch kinh Phật và sự hình thành các tông phái Phật giáo. Lúc […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Thời kỳ hưng thịnh đỉnh cao của Phật giáo

Phật giáo trong thời kỳ của Đường Thái Tông bắt đầu đạt đến đỉnh cao hưng thịnh, đánh dấu bằng việc phiên dịch kinh Phật và sự hình thành các tông phái Phật giáo. Lúc bấy giờ đã xuất hiện một vị giác giả Tây hành cầu đắc chân kinh: Huyền Trang. Khi ấy, các tông phái Phật gia như Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông cũng dần dần hình thành. Nghệ thuật khắc đá hang động cũng đạt được sự phát triển lớn hơn.

Huyền Trang – Giác giả Đại Đường đắc được chân kinh

Huyền Trang (玄奘), tên thật là Trần Huy (陳禕), bản tính ham thích đọc Kinh điển, từ nhỏ đã vững lòng tin theo Phật lý. Năm 614 SCN, Tuỳ Dạng Đế hạ chiếu cho Đại lý khanh Trịnh Thiện Quả xuống tóc cho tăng nhân ở Lạc Dương. Trần Điếu khi ấy mới 13 tuổi vui mừng chạy đến, nhưng Trịnh Thiện Quả thấy ông còn nhỏ, e rằng ý chí không kiên định, nên không cạo đầu cho ông. Trần Điếu khóc lóc nức nở, không nín được, bởi ông xem việc tu Phật là mục đích cả đời mình. Trịnh Thiện Quả biết được tâm chí của ông, bèn phá lệ xuống tóc cho ông thành tăng, lấy pháp hiệu Huyền Trang.

Huyền Trang dốc lòng tu hành Phật pháp, rồi vân du bốn bể, đi khắp Thần Châu tìm danh sư. Về sau, Huyền Trang nhận thấy trong kinh sách có mấy chương tiết làm ông không thể lý giải được, hóa ra là vấn đề xuất hiện trong khi dịch kinh sách. Do đó, Huyền Trang quyết định đi Thiên Trúc ở Tây phương, tìm cầu kinh Phật nguyên văn, tìm ra chân lý.

Năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), Huyền Trang rời khỏi Trường An, hướng đến Thiên Trúc mà đi. Đường Thái Tông giúp ông chuẩn bị văn điệp thông quan, ban cho ông bát vàng (kim tử bát) và một con ngựa trắng, phong làm “ngự đệ” và đích thân đưa tiễn. Khi ấy, căn bản không ai có thể đoán được chuyến đi này có biết bao hiểm nguy, đường đi xa xôi, phương hướng khó xác định, tuy nhiên Huyền Trang sớm đã không màng sinh tử. Ông đã nhiều lần trải qua trăm đắng ngàn cay, chịu đủ mọi ma nạn khảo nghiệm, bao lần đối mặt với việc thiếu lương thực, hết nước, biên giới tra xét, vượt bao núi non trập trùng, đồng không mông quạnh và những sa mạc mênh mông, còn phải chịu đựng đêm tối tĩnh mịch và nỗi cô đơn vô tận. Phải mất tới ba năm ông mới đến được Thiên Trúc, lại dùng thời gian năm năm để thông hiểu Phạn ngữ và dung hợp toàn bộ nghĩa lý của Đại thừa Phật giáo, với sự lĩnh ngộ thần tốc, và ý chí kiên cường, ông được người dân dị bang rất tôn trọng và yêu mến. Tại thánh địa Phật giáo ấy, chỉ có 10 người là có thể thông hiểu cả 50 bộ kinh luận, và Huyền Trang là một trong số ấy. Vì ông đến từ Đông thổ Đại Đường, và tinh thông «Kinh Tạng», «Luật Tạng» và «Luận Tạng» trong Phật học Ấn Độ, vậy nên họ gọi ông là “Đường Tam Tạng”.

Năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645), Huyền Trang mang theo hàng trăm bộ kinh Phật bằng Phạn văn trở về Trường An, khắp thành chấn động, muôn người ùa ra khỏi thành, Đường Thái Tông cũng đích thân ra ngoài thành nghênh đón từ xa. Sau đó, Huyền Trang đem những kinh điển đã mang về phiên dịch thành tiếng Hán, việc ấy diễn ra trong 19 năm, hao kiệt tâm trí, đã sửa được rất nhiều chỗ sai nhỏ, mới khiến người đời sau được học tập Phật pháp chính thống, mà Trung Nguyên gọi là “Đại thừa Phật giáo”. Năm 664, Huyền Trang viên tịch tại Trường An, hưởng thọ 62 tuổi.

Trinh Quán chi trị – Thịnh Đường khí tượng

Bởi vì từ thiên tử cho đến thứ dân, đều cùng đồng lòng, hơn nữa một lòng tín phụng Phật pháp, nên thực lực quốc gia thời kỳ sơ Đường hùng mạnh đến kinh ngạc. Vì Đường Thái Tông lấy niên hiệu “Trinh Quán”, nên sử gia gọi thời kỳ này là “Trinh Quán chi trị”.

Thời kỳ ấy như một vầng trăng sáng, chiếu sáng cả bầu trời đêm của lịch sử nhân loại. Trong thời kỳ này nền chính trị trong sạch, xã hội an định, mưa thuận gió hòa, nền nông nghiệp hàng năm đều bội thu. Mỗi dịp lễ tết, quân, thần, dân đều cùng nhau vui mừng đón tết, dân chúng an cư lạc nghiệp, không còn đạo tặc, ngục tù thường trống không. Thiên hạ đại trị hiển hiện chân thực trước mắt.

Một tiêu chí quan trọng của thái bình thịnh thế là pháp luật khoan hồng và hình phạt giảm nhẹ. Năm Trinh Quán thứ 4 (năm 630), toàn quốc chỉ có 29 người bị xử tử hình. Năm 632, toàn quốc số tù nhân bị phán xử tử hình tổng cộng có 390 người, cuối năm, Lý Thế Dân cho phép họ về nhà thu xếp hậu sự, mùa thu năm sau lại trở lại thụ án tử (thời xưa thường hành hình vào mùa thu). Tháng 9 năm 633, toàn bộ 390 người đều trở lại nhà ngục, không một ai bỏ trốn. Trật tự xã hội an định, đêm không phải đóng cửa. Thiên hạ đại trị, có thể nói là “Nhật nguyệt lệ thiên” (ý chỉ văn minh Đại Đường xán lạn như nhật nguyệt).

Ngoài ra, trong thời kỳ này các phương diện về văn hóa, kinh tế, nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông đều siêu việt cách xa tất cả thời đại trước đó. Xã hội nhân loại thời điểm ấy thực sự bước vào một thời kỳ hoan ca mừng thái bình đầy tường hòa, lịch thiệp, an định, và sung túc.

Trong cuốn «Tân Đường Thư» có nói rằng: “vào năm thứ tư, một đấu gạo chỉ bốn năm tiền, người đi ra ngoài hàng tháng cũng không cần đóng cửa, trâu ngựa thả ngoài đồng, khách bộ hành hàng ngàn dặm không cần mang lương khô, người và vật sinh sôi đông đúc”. Trong cuốn «Thông Điển» nói rằng: “Từ thời Trinh Quán, Thái Tông dốc lòng trị quốc. Đến năm thứ 8, năm thứ 9 liên tiếp bội thu, một đấu gạo bốn năm tiền, trâu ngựa thả ngoài đồng, đi ra ngoài hàng tháng cửa nhà không đóng. Đến năm thứ 15, mỗi đấu gạo chỉ có giá hai tiền”.

Trong thời kỳ này, các nước thần phục, biên giới Đại Đường một dải an định, người trong thiên hạ đều tôn xưng Đường Thái Tông là “Thiên Khả Hãn”

Loại thịnh thế khí tượng này ở trong lịch sử Trung Quốc là vô cùng hiếm thấy.

Đường Thái Tông chọn nhân đức lập người kế vị

Đường Thái Tông tài trí mưu lược kiệt xuất lại nhọc lòng chọn người kế vị. Đường Thái Tông có 14 người con trai, trong đó ba người là con chung với Trưởng Tôn Hoàng Hậu, gồm có: Thái tử Lý Thừa Càn (con trưởng) thiên chất ưu tú, nổi tiếng thông minh. Từng nhiều lần ở lại kinh thành coi sóc quốc sự, biểu hiện xuất sắc. Ngụy vương Lý Thái (con thứ) dường như kế thừa tất cả những ưu điểm của Đường Thái Tông và Trưởng Tôn Hoàng Hậu, rất được phụ hoàng yêu thương. Tấn vương Lý Trị (con thứ ba) nhân hậu khoan dung hiếu thuận dễ mến, tư chất hiền lành nhu thuận.

Thái tử Lý Thừa Càn tuy có nhiều ưu điểm, nhưng cuối cùng vẫn là bị Đường Thái Tông phế bỏ, nguyên nhân là: ông yến ẩm vui chơi vô độ, sủng ái một Thái thường lạc nhân (đồng tính luyến ái), đến mức khắp thành xôn xao. Yêu thích phong tục người Hồ và đánh trận chém giết, học ngôn ngữ Đột Quyết, mặc y phục của Đột Quyết. Xá hoa mộ di (bỏ Trung Hoa ngưỡng mộ dị tộc), còn tỏ ý sau khi đăng cơ muốn làm bộ hạ của tộc trưởng Đột Quyết. Gần gũi tiểu nhân lánh xa người hiền. Vì ba điểm trên, Đường Thái Tông vô cùng thất vọng về Lý Thừa Càn và muốn thay người khác. Sau khi Lý Thừa Càn biết được đã phát động chính biến, quyết định ép phụ hoàng thoái vị. Nhưng cuộc chính biến dễ dàng bị Thái Tông trấn áp. Và Lý Thừa Càn bị phế làm thứ dân.

Thái Tông muốn lập Lý Thái làm Thái tử, vì trong các người con trai thì Lý Thái là giống ông nhất. Đáng tiếc, tâm địa hiểm ác của Lý Thái lộ rõ rành rành. Lý Thái từng không chỉ một lần muốn mưu hại Lý Thừa Càn, hơn nữa lại không được các đại thần như Ngụy Trưng, Chử Toại Lương ủng hộ, vì thế Thái Tông không thể hạ chiếu sắc lập.

Đồng thời, Thái Tông cũng suy xét đến việc nếu để Lý Thái lên ngôi Hoàng đế, Lý Thái nhất định sẽ hạ độc thủ với Lý Thừa Càn, mà Thái Tông thì không muốn lại xảy ra việc đổ máu. Trong thời khắc quan trọng, mọi người đã nghĩ đến Tam hoàng tử Lý Trị. Lý Trị nhân hậu, và cũng nhận được sự ủng hộ của các đại thần, sẽ là một lựa chọn thích hợp. Đương nhiên, Thái Tông hi vọng có thể giao giang sơn cho một người có tài lẫn đức, nhưng tiếc rằng lúc này chỉ có lựa chọn giữa “tài” và “đức” mà thôi. Thái Tông sau nhiều lần đắn đo, và phân tích từ nhiều phương diện, cuối cùng quyết định chọn lấy nhân đức và lập Lý Trị làm Thái tử, tức Đường Cao Tông sau này.

Tháng 4 năm Trinh Quán thứ 17, Đường Thái Tông đã lập người con trai thứ chín Tấn vương Lý Trị làm Thái tử, đồng thời quản giáo nghiêm khắc. Lúc ăn cơm, ông đã chỉ vào đồ ăn mà nói với Lý Trị rằng: việc đồng áng, mùa xuân gieo hạt mùa thu gặt hái, đều đòi hỏi phải lao động chăm chỉ. Chỉ có quý tiếc sức dân, không làm lỡ thời vụ, mới có thể luôn có cơm để ăn”; thấy người cưỡi ngựa, ông bèn nói: “ngựa có thể chở người bộ hành, tiết kiệm sức lực, nếu sử dụng hợp lý, không vắt kiệt sức, mới có thể luôn có ngựa để cưỡi”; gặp người đi thuyền, bèn nói: “thuyền sở dĩ ví với vua, nước sở dĩ ví với dân, nước có thể tải thuyền, cũng có thể lật thuyền. Con tương lai sẽ trở thành vua, thử nghĩ về quan hệ của nước với thuyền, có thể không sợ được không”; gặp những người đang nghỉ ngơi hóng mát dưới bóng cây, bèn nói: “thân cây này tuy rằng uốn khúc, nhưng sau khi được đo bằng dây đo của thợ mộc thì có thể cưa thành những tấm gỗ thẳng tắp. Quân vương tuy vô đạo, nhưng chỉ cần biết tiếp thụ lời can gián, thì có thể trở thành thiên tử thánh minh vậy”.

Tháng một năm Trinh Quán thứ 22 (năm 648), Đường Thái Tông ban thưởng cuốn «Đế Phạm» gồm 12 chương do mình viết cho Thái tử Lý Trị, đồng thời ân cần nhắc nhở rằng: “Con nên lấy các bậc thánh triết và hiền vương xưa làm thầy, những người giống như ta đây, thì tuyệt đối không được học theo. Bởi vì nếu noi theo bậc thượng, thì chỉ có thể đạt đến bậc trung, nếu là noi theo bậc trung thì chỉ có thể đạt được bậc hạ mà thôi. Ta từ khi lên ngôi đến nay, những sai lầm phạm phải là rất nhiều: gấm vóc châu ngọc không đoạn dứt, cung thất đài tạ không ngừng xây dựng, chó ngựa ưng cắt (chỉ nô bộc tay sai) không đâu không có, du hành khắp chốn tốn kém phiền hà. Tất cả những điều này, đều là những sai lầm lớn nhất ta phạm phải, nhất định không được học theo gương ta”.

Thái Tông còn giáo huấn những người con trai khác rằng: “Phụ thân yêu thương các con, đây là lẽ thường tình, không cần dạy bảo thì ai cũng tự biết. Làm con có thể vẹn cả trung lẫn hiếu, đây là điều tốt nhất rồi. Nếu không nghe lời giáo huấn, không tuân theo lễ pháp, tất yếu chiêu mời họa sát thân, tuy rằng phụ thân thương yêu, cũng không làm sao được. Trước đây sau khi Hán Vũ Đế mất, Hán Chiêu Đế kế vị, Yên vương Lưu Đán kiêu ngạo ngang ngược, cuồng vọng bất phục, Hoắc Quang đã hạ một đạo chiếu thư, tức thì người mất nước tan. Là thần tử thì phải rút ra bài học giáo huấn từ chuyện này, cần cẩn thận, nhất định chớ học theo Lưu Đán”. Nghe nói, từ đó về sau, các long tử long tôn ấy đều tuân thủ luật pháp, rất ít người làm điều xằng bậy.

Đánh giá lịch sử về Đường Thái Tông

Năm 649, Đường Thái Tông băng hà ở điện Hàm Phong, thọ 52 tuổi. Di chiếu Hoàng thái tử kế vị trước linh cữu, tang lễ thực hiện theo chế độ nhà Hán. Sau khi mất thụy hiệu là Văn Võ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu Hoàng Đế.

Có thể nói, luận gan góc, luận tài trí, luận võ lược, nói một cách tổng quan, thì Lý Thế Dân có thể nói là “thiên hạ vô địch”. Ông cần cù gần dân, văn thao võ lược, anh dũng hơn người, vừa có năng lực gây dựng cơ nghiệp lại có tài gìn giữ cơ nghiệp, xác thực là “thiên cổ nhất đế”. Lòng nhân từ và đức hạnh của ông vang khắp bốn bể uy vũ chấn nhiếp tám phương, lãnh thổ Đường sơ rộng lớn hơn rất nhiều so với thời Tần Hán. Về sau có nhà sử học Chu Dực thời nhà Minh ca ngợi Thái Tông rằng: “Từ Tam Đại (hợp xưng ba triều đại Hạ, Thương, Chu) trở đi, trong những vị vua khai quốc và gìn giữ phép luật, người có đủ cả hai điều là Đường Thái Tông. Văn, Cảnh, Vũ, Tuyên của nhà Hán đều không bì kịp”.

Dù cho khí tượng thịnh Đường đã dần lùi xa, nhưng đế vương Lý Thế Dân người đã dựng lên bức tranh huy hoàng này vẫn mãi mãi là thiên tử được người đời sau kính ngưỡng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29150

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (5) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lànhhttps://chanhkien.org/2024/10/khai-quat-ve-van-hoa-trung-quoc-12-phuong-hoang-toi-bao-diem-lanh.htmlFri, 25 Oct 2024 04:44:19 +0000https://chanhkien.org/?p=34784Tác giả: Tử Duyên [ChanhKien.org] Tác giả: Đới Hồng, nhà Thanh, trích từ sách “Linh thọ vạn năm, Phượng hoàng tường vân”. (Hình minh họa lấy từ The Epoch Times) Trung Quốc từ xưa đã lưu truyền rằng “Lân, Phượng, Quy, Long” (Kỳ lân, Phượng hoàng, Rùa, Rồng) là tứ linh. “Rồng” đại diện cho […]

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tử Duyên

[ChanhKien.org]

Tác giả: Đới Hồng, nhà Thanh, trích từ sách “Linh thọ vạn năm, Phượng hoàng tường vân”. (Hình minh họa lấy từ The Epoch Times)

Trung Quốc từ xưa đã lưu truyền rằng “Lân, Phượng, Quy, Long” (Kỳ lân, Phượng hoàng, Rùa, Rồng) là tứ linh. “Rồng” đại diện cho Thiên tử, là linh vật được đàm luận đến nhiều nhất, chứng cứ chứng minh cho sự tồn tại của rồng cũng xác thực nhất. Hôm nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một chút về “Phượng hoàng” – linh vật gắn liền với người phụ nữ:

“Khổng Diễn Đồ” có viết: “Phượng, hỏa tinh” (Phượng hoàng là tinh hoa của lửa).

“Mao Thi Sơ” có viết: Phượng hoàng chi tính phi ngô đồng bất thê, phi trúc thực bất thực (Phượng hoàng, không phải cây ngô đồng thì không đậu, không phải quả trúc thì không ăn).

Hứa Thận viết trong “Thuyết văn giải tự” rằng: “Phượng hoàng là chim thần. Xuất hiện ở phương Đông, nơi sinh sống của bậc quân tử, bay lượn khắp bốn phương. Bay qua núi Côn Luân, uống nước ở núi Để Trụ, rửa lông ở sông Nhược Thủy, tối ngủ ở cung điện. Khi xuất hiện thì thiên hạ sẽ thái bình. Chữ Phượng (鳳) gồm chữ “điểu” (鳥) và chữ “phàm” (凡) ghép lại. Phượng hoàng bay thì muôn vàn loài chim sẽ theo sau”.

“Luận Ngữ trích Suy Thánh” có viết: Phượng hoàng có lục tượng, cửu bao. Lục tượng gồm: một là đầu giống trời, hai là mắt giống mặt trời, ba là lưng giống mặt trăng, bốn là cánh giống gió, năm là chân giống đất, sáu là đuôi giống vệt sao. Cửu bao gồm: một là miệng vâng lệnh, hai là tâm độ lượng, ba là tai nghe rõ, bốn là lưỡi co duỗi, năm là màu sắc rực rỡ, sáu là mào xếp nếp, bảy là cựa sắc như móc câu, tám là tiếng kêu vang vọng, chín là bụng có hoa văn. Tiếng hót vui tươi khi bay lượn, hót nhẹ nhàng khi đậu xuống, hót thân thiện vào ban đêm, hót chào mừng vào sáng sớm, hót ngợi ca khi bay cao. Chỉ có người có tâm hồn thanh cao, hiểu được đạo lý mới hiểu ta, mang theo những phẩm chất tốt đẹp đến, nên ta muốn sống ở những nơi thanh bình, xa lánh trần tục, cùng phượng hoàng vui chơi, hưởng thụ sự thanh tao, an lạc.

Theo “Đế Vương thế ký” của Hoàng Phủ Mật: Hoàng đế đang trai giới trong cung điện, ngồi trên đài Huyền Hỗ bên bờ sông Lạc. Bỗng nhiên, có một con chim lớn xuất hiện. Chim có đầu gà, mỏ én, cổ rùa, thân rồng, cánh lân, đuôi cá, hình dáng giống hạc. Toàn thân mang đủ năm màu, ba hình trên lông tạo thành chữ. Chữ trên đầu là “Thuận Đức”, chữ trên lưng là “Tín Nghĩa”, chữ trên ngực là “Nhân Trí”. Không ăn côn trùng sống, không dẫm lên cỏ xanh. Thi thoảng đậu ở vườn phía Đông của Vua, làm tổ trên gác cung điện. Khi ăn uống, nhất định phải tự hát múa, tiếng kêu như sáo trúc.

(Hình minh họa lấy từ Shenyun.com)

Trong “Thi Kinh – Đại Nhã – Quyển A”: Phượng hoàng tung cánh bay, lông vũ rực rỡ muôn màu, đậu ở đâu cũng mang niềm vui.

Trong “Mạnh Tử – Công Tôn Sửu Thượng” viết: Kỳ lân thuộc loài thú, phượng hoàng thuộc loài chim.

Trong “Tả Truyện – Trang Nhị Nhị Niên” viết: Phượng hoàng tung cánh bay, tiếng hót vang vọng.

Trong “Hàn Thi Ngoại Truyền” viết: Phượng trống hót kêu ‘Jī Jī (phiên âm pinyin)’ (即即), phượng mái hót kêu ‘Zú Zú’ (足足). Hót vào buổi tối kêu ‘Gù Cháng’ (固常), hót vào buổi sáng kêu là ‘Fā Míng’ (發鳴), hót vào ban ngày kêu là ‘Bǎo Zhāng’ (保章), hót khi bay lên kêu là ‘Shàng Xíang’ (上翔), hót khi đậu xuống kêu là ‘Guī Chāng’ (歸昌). Trích – Thái Bình Ngự Lãm.

Trong “Tuân Tử Phú” viết: Li long hóa chuồn chuồn, cú mèo hóa phượng hoàng. Tỷ Can bị mổ bụng, Khổng Tử bị giam cầm. Ôi sáng tỏ thay cho trí tuệ của họ!

Tổng hợp lại những ghi chép trong các sách cổ, chúng ta thấy rằng:

“Phượng hoàng” là tên một loài chim trong truyền thuyết tượng trưng cho điềm lành, có ngoại hình giống như: mỏ gà, cổ rắn, hàm én, lưng rùa, đuôi cá, lông ngũ sắc, cao khoảng sáu thước, dáng như con hạc.

Tương truyền rằng đó là loài “chim thần” – vua của các loài chim. Con đực gọi là “Phượng”, con cái gọi là “Hoàng”, thường được gọi chung là “Phượng” hoặc “Phượng Hoàng”(鳳凰). Cũng có thể gọi là “Phượng Hoàng”(鳳皇).

Nó có bản tính cao ngạo, không hòa hợp với đám đông, tuy là loài chim nhưng không ăn sâu bọ, đôi chân tôn quý ấy, chẳng bao giờ dẫm lên cỏ dại trên mặt đất! Nơi đậu xuống phải là cành của cây “ngô đồng”, thức ăn phải là “quả trúc” (chỉ quả của các loại trúc như trúc rừng, hình dạng khá giống lúa mì, có thể chế biến thành bột để ăn, còn được gọi là “trúc mễ”).

Theo chú thích của Hứa Thận trong “Thuyết Văn giải tự”, phượng hoàng đến từ “đất nước quân tử phương Đông”. Vì là phương Đông, lại là đất nước quân tử, nên đương nhiên là nơi đạo đức hưng thịnh! Nghĩ đến thời thượng cổ, ngoài “Thần Châu”, “Trung Thổ” ra, đi đâu có thể tìm được quốc gia như vậy? Có thể thấy phượng hoàng chỉ ở Trung Quốc mới có!

Phượng hoàng có lục tượng, cửu bao. Lục tượng có nghĩa là: đầu giống như trời, mắt giống như mặt trời, lưng giống như mặt trăng, cánh giống như gió, chân giống như đất, đuôi giống vệt sao (tức là ngũ vĩ, còn gọi là ngũ tinh, người Trung Quốc lấy Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh hợp lại với nhau, chúng tương ứng với ngũ hành lần lượt là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Trong “Bão Phác Tử”, người ta mô tả về màu sắc các bộ phận khác nhau trên thân thể phượng hoàng như sau: đầu màu xanh, cổ màu trắng, mỏ màu đỏ, ngực và lưng màu đen, ngón chân và móng vuốt màu vàng.

Loài chim này, con đực và con cái kêu tiếng khác nhau (con đực kêu “ji ji”, con cái kêu “zu zu”, hót cùng nhau thì nghe “cheng cheng”); chúng thích tụ tập thành đàn và những con chim khác thì bay theo sau, số lượng lên đến hàng vạn con; tuy nhiên chúng lại không giỏi bay mà lại sống trong hang (ở cung Đan và hang Phong); chân của chim phượng hoàng rất cao, dáng người như con hạc, đi lại chậm rãi, kiêu ngạo và giỏi nhảy múa.

Trên bộ lông ngũ sắc của chim phượng hoàng ẩn hiện các chữ: đầu hiện lên hai chữ “Thuận Đức”, lưng là một cụm “Tín Nghĩa”, mà trước ngực thì ghi “Nhân Trí”. Có thể thấy việc chúng được người xưa gọi là chim thần, chim cát tường cũng là có nguyên do, bởi vì đức hạnh cao quý của chúng. Khi đến giờ kiếm ăn, chúng nhất định phải tự hát (hót) tự múa, âm thanh mỹ diệu như tiếng tiêu sáo.

Theo “Dịch Lâm” của Tiêu Cống viết: “Phượng hoàng có mười con, chung ổ chung mẹ, vui vẻ bảo vệ nhau”. Lại nói: “Chim phượng hoàng sinh năm con, lớn lên ở Nam Quách”. Có thể thấy gia đình chim phượng hoàng sống tập trung cùng tổ, đau buồn cùng hưởng, vui vẻ bảo vệ lẫn nhau, và dường như còn sinh sản rất nhiều.

Sau đây là một vài câu chuyện liên quan đến phượng hoàng, tôi sẽ dùng lối văn bạch thoại để kể lại cho các bạn:

Trong “Hán Thư” đã ghi lại một sự kiện: Vào năm Nguyên Thủy thứ ba, chim phượng hoàng đã xuất hiện ở Đông Hải. Triều đình đặc biệt cử sứ thần đến lập đền thờ ở đó. Đến thời Hán Tuyên Đế, tại kinh đô đồng thời xuất hiện hai loài chim quý là phượng hoàng và thần tước. Hơn nữa đất trời mưa thuận gió hòa, giải trừ hạn hán kéo dài. Vì vậy, Hoàng đế vui mừng khôn xiết, đại xá thiên hạ, phượng hoàng tụ họp về Thượng Lâm Uyển, Hoàng thượng đã cho xây dựng “Điện Phượng hoàng” để tạ ơn trời đất ban điềm lành.

Trong “Xuân Thu Hợp Thành Đồ” ghi rằng: Hoàng đế ngồi bên bờ sông Lạc, trong một căn phòng đá gọi là “Huyền Hỗ”, cùng với Đại Tư Mã (tên chức vị) Dung Quang và những người khác ngắm cảnh. Bỗng nhiên một con phượng hoàng mỏ ngậm cuộn tranh đặt trước mặt Hoàng đế, ngài bái lạy hai lần rồi mới nhận cuộn tranh.

Sách còn ghi rằng: Vua Nghiêu ngồi trên thuyền ngắm cảnh cùng với Thuấn lúc đó đang nhậm chức Thái úy. Một con phượng hoàng đột nhiên bay đến, mang theo cuộn tranh trao cho vua Nghiêu. Cuộn tranh được đựng trong một chiếc hộp bằng ngọc thạch màu đỏ, dài ba thước, rộng tám tấc, có dây đai bằng ngọc vàng, dây buộc bằng ngọc trắng. Hai đầu được đóng kín, trên nắp có đóng dấu năm chữ “Thiên Xích Đế Phù Ấn”.

Trong “Nghiệp Trung Ký” có viết: Hoàng hậu Thạch Quý Long đang ở trên đài ngắm cảnh thì thấy một tờ chiếu thư bằng giấy ngũ sắc rơi vào miệng con phượng hoàng. Thế là phượng hoàng liền ngậm chiếu thư bay lượn vòng trên không đợi chờ, các thị nữ và người hầu thả xuống dây thừng màu đỏ sậm dài hàng trăm trượng, giống như guồng kéo nước giếng quay lên quay xuống vậy, phượng hoàng mới bay xuống.

Trong “Đông Quan Hán Ký” viết: Năm Kiến Vũ thứ 17, có chim phượng hoàng đến. Nó cao tám, chín thước với bộ lông ngũ sắc. Bay đến bên bờ Dĩnh Xuyên, muôn loài chim từ bốn phương tám hướng quần tụ lại ở đây và vây quanh nó, số lượng nhiều đến mức phủ kín cả một vùng rộng vài mẫu. Đàn chim lưu lại 17 ngày rồi mới bay đi.

Một phần hình của Cuộn tranh “Bách điểu triều Phượng” (Trăm loài chim triều kiến Phượng hoàng), tác giả: Thẩm Thuyên, nhà Thanh. Tranh lụa màu cao 40 cm, dài 1.600 cm. (Hình minh họa lấy từ Chinashj.com)

Trong “Thập Khán Ký” của Vương Tử Niên: Vua Chu Chiêu Vương dùng lông chim phượng xanh làm thành hai chiếc áo choàng lông, một bộ tên là Úc Chất, một bộ tên là Huyên Cơ, có tác dụng giữ ấm cực tốt, thường dùng để chống rét vào mùa đông lạnh giá. Sau đó được truyền lại cho đời sau, đến cuối đời vua Chu Lệ Vương, hoàng thất vẫn rất trân trọng những món đồ này. Sau này, Vua Chu Lệ Vương cai trị độc đoán, bị người dân lưu đày đến đất Trệ, có người may mắn sở hữu hai chiếc “áo choàng lông phượng” này và vô cùng quý trọng chúng. Tương truyền rằng, những người phạm tội tử hình (một trong năm hình phạt thời cổ đại), có thể dùng lông chim phượng xanh để chuộc tội, có thể thoát chết; mà một sợi lông phượng có thể đổi được cả nghìn vàng.

Gần đây, một chiếc bình gốm trắng được khai quật tại di chỉ văn hóa Cao Miếu ở Hồng Giang, Hồ Nam có khắc hình ảnh con phượng hoàng cổ xưa nhất của Trung Quốc, có lịch sử cách đây 7800 năm. Sự xuất hiện của phượng hoàng chắc chắn có liên quan mật thiết đến xã hội nông nghiệp thời cổ đại, có thể nói nó vốn là sản phẩm của việc trồng trọt hoa màu. Hình ảnh phượng hoàng được khai quật ở di chỉ Đại Đường, Trường Sa cách đây 7000 năm, với chim phượng hoàng trong miệng ngậm bông lúa, chính là một minh chứng rất có sức thuyết phục.

Bình gốm trắng có khắc Phượng hoàng nguyên thủy. (Hình minh họa lấy từ: New.qq.com)

Trong tâm trí người dân, phượng hoàng là loài chim may mắn tượng trưng cho sự thái bình thịnh trị. Người xưa tin rằng khi thái bình thịnh thế, phượng hoàng sẽ bay đến. Chữ Phượng (鳳) trong chữ giáp cốt giống với chữ Phong (風), đại biểu cho sự hiện diện khắp nơi và tính linh động như gió; chữ Hoàng (凰) lại là chữ Hoàng đế (皇), mang ý nghĩa cao nhất vĩ đại nhất. Phượng hoàng cũng là biểu tượng của Hoàng tộc Trung Hoa, thường được sử dụng cùng với Rồng, Phượng phụ thuộc vào Rồng, được dùng cho Hoàng hậu và phi tần, “Long Phượng trình tường” (Rồng và Phượng mang đến sự thịnh vượng, may mắn và cát tường) là biểu tượng mang đậm nét đặc sắc nhất của Trung Hoa. Còn “Phượng hoàng vu phi” (đôi chim Phượng hoàng bay lượn), Rồng Phượng kết đôi được dùng để chúc phúc và mong đợi điều tốt lành cho cuộc hôn nhân giữa hai họ. Thực tế, trong thời cổ đại, bất cứ sự vật gì đến tay người Trung Quốc có thể được sử dụng một cách chính đáng, tốt đẹp, đều có thể được tô điểm, mở rộng và phát triển nội hàm cũng như ý nghĩa sâu sắc của nó.

Trích từ “Sơ Học Ký – Quyển 30 – Bộ Điểu”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/62098

The post Khái quát về Văn hóa Trung Quốc (12): Phượng hoàng tới báo điềm lành first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ân và nghĩa trong hôn nhânhttps://chanhkien.org/2024/10/an-va-nghia-trong-hon-nhan.htmlTue, 22 Oct 2024 04:30:05 +0000https://chanhkien.org/?p=34755Tác giả: Thăng Lăng [ChanhKien.org] Lâm Ngữ Đường, một nhà văn bậc thầy của Trung Hoa Dân Quốc, kết hôn với Liêu Thúy Phượng. Khi Liêu Thúy Phượng đang xem giấy đăng ký kết hôn, Lâm Ngữ Đường nói: “Giấy đăng ký kết hôn chỉ có tác dụng khi ly hôn, chúng ta hãy đốt […]

The post Ân và nghĩa trong hôn nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thăng Lăng

[ChanhKien.org]

Lâm Ngữ Đường, một nhà văn bậc thầy của Trung Hoa Dân Quốc, kết hôn với Liêu Thúy Phượng. Khi Liêu Thúy Phượng đang xem giấy đăng ký kết hôn, Lâm Ngữ Đường nói: “Giấy đăng ký kết hôn chỉ có tác dụng khi ly hôn, chúng ta hãy đốt nó đi, từ nay không cần tới nó nữa”. Vì vậy giấy đăng ký kết hôn của hai người đã biến thành tro tàn trong nháy mắt và bị gió thổi bay. Hai người họ thực sự đã thực hiện được lời hứa của mình, gắn bó nương tựa nhau, không bao giờ rời xa nhau và sống một đời vợ chồng ân ái.

Từ Chí Ma, một nhà thơ nổi tiếng cùng thời với Lâm Ngữ Đường, vì theo đuổi Lâm Huy Nhân, không quan tâm đến việc mình đã có một người con trai ba tuổi, vẫn kiên quyết ly hôn với người vợ sắp sinh, vợ của ông ở nơi đất khách quê người gần như rơi vào bước đường cùng. Sau đó, ông ta dụ dỗ và cưới vợ của bạn mình. Dù ham muốn của ông đã được thỏa mãn nhưng cuộc sống sau hôn nhân không như ông mong đợi. Ở tuổi 35, ông qua đời trong một vụ tai nạn máy bay. Người vợ tái hôn của ông đã sống thê lương suốt quãng đời còn lại. Kỳ thực đó là do họ đã vi phạm lời thề của bản thân, phạm vào điểm mấu chốt của hôn nhân và gia đình mà phải gánh chịu hậu quả.

Trong văn hóa truyền thống, hôn nhân vốn là điều thần thánh và đẹp đẽ. Vào thời khắc khi hai người quyết định kết hôn, nó tượng trưng cho sự cam kết và gắn bó trọn đời. Điều này phù hợp với ý muốn của Thượng đế. Ban đầu khi Thượng đế tạo ra con người, Ngài cho phép mỗi một người đàn ông được kết hợp với một người phụ nữ, cũng là phù hợp với âm dương tương hợp. Điều này không chỉ khiến xã hội nhân loại sinh sôi nảy nở mà còn khiến cuộc sống của con người càng thú vị hơn. Trong tất cả các mối quan hệ của con người, quan hệ hôn nhân là điều thiêng liêng, trang trọng và đẹp đẽ nhất. Chế độ và nếp sống một vợ một chồng là quá trình mấy chục năm tương trợ lẫn nhau, đã đặt định và vượt lên trên mối quan hệ tình thân vĩ đại mà không phải là quan hệ huyết thống. Người xưa vẫn nói, “Gia hòa vạn sự hưng”, một gia đình trọn vẹn là phương thức sinh sống mà con người nên theo đuổi; chung sống hạnh phúc bên nhau tới già là cái kết tốt đẹp mà người người mơ ước.

Hôn nhân của con người được điều khiển bởi Thần chủ quản về hôn nhân, Ngài căn cứ theo đức và nghiệp của con người, cũng như ân oán đời đời kiếp kiếp mà an bài. Đối với con người, cho dù bạn cho rằng tốt hay không tốt thì đó cũng là an bài tốt nhất. Nếu hai người ly hôn giữa chừng thì chính là làm trái với ý của Thần, làm xáo trộn con đường mà Thần đã an bài cho bạn. Tất nhiên, Thần không muốn nhìn thấy điều đó.

Việc duy trì hôn nhân không chỉ dựa trên cảm tình mà còn dựa trên đạo đức và lòng biết ơn. Đây mới là điều đáng tin cậy nhất. Tình cảm thực ra là thứ không đáng tin cậy nhất. Thuận theo sự thay đổi về thời gian và không gian, dục vọng về danh lợi sẽ không ngừng phát sinh biến hóa. Cái gọi là ái tình cũng chỉ là lướt qua như mây khói. Trong khi “ân” và “nghĩa” lại là chuẩn tắc đạo đức của nhân loại, có tác dụng ước thúc những hành vi bất chính của con người và là điều con người cần phải khắc sâu trong lòng.

Đồng thời, khi hai người kết hôn đều là thực sự nghĩ cho đối phương, chứ không phải chỉ xuất phát từ tư lợi cá nhân. Trong bạn có tôi và trong tôi có bạn, họ đều có thể giữ vững những chuẩn tắc đạo đức ở trong tâm, như vậy hôn nhân nhất định sẽ vững chắc không thể phá vỡ. Người nam nên hiểu rằng: khi một người phụ nữ giao phó cuộc đời họ cho bạn, bạn cần có trách nhiệm với cô ấy, rộng lượng và bao dung, thể hiện ra “dương cương chi khí” (khí chất của một người đàn ông thực sự). Người nữ nên hiểu rằng: dù giàu hay nghèo, hãy chung thủy theo anh ấy, mềm mỏng như cây lau, không bao giờ rời xa và từ bỏ, thể hiện đức tính nhu hòa của “âm”. Nếu hai người đều có thể nghĩ như vậy và tận sức làm tròn trách nhiệm của mình, nam chủ ngoại, nữ chủ nội, cùng bổ sung cho nhau, thì lo gì không thể tâm đầu ý hợp? Người ta thường nói: Phu thê đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim (vợ chồng đồng lòng thì sức mạnh sẽ giống như lưỡi dao sắc bén cắt đứt được kim loại). Một gia đình như vậy nhất định sẽ là bến đỗ của hạnh phúc.

Điều đáng tiếc là trong quá trình phát triển của nhân loại, đặc biệt là đến thời hiện đại, do ảnh hưởng của thuyết vô thần và thuyết tiến hóa, có quá nhiều người đã rơi vào vũng lầy của ham muốn vật chất. Họ không có đạo nghĩa, lại càng không hiểu gì về lòng biết ơn. Quan niệm đã bị biến dị nghiêm trọng, trong tâm không còn ước thúc bởi đạo đức nữa, góc độ suy xét vấn đề đều là vị tư vị ngã. Vì tiền bạc, vì quyền lực, vì chút ham muốn tình dục đáng thương, và vì những thứ gọi là nam nữ tri kỷ, v.v. họ sẽ bỏ nhà cửa, tổ ấm mà bất chấp hậu quả. Chỉ cần có thể thỏa mãn nhu cầu của bản thân, không quan tâm đến cảm xúc của người khác. Vì vậy, trong xã hội ngày nay, tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng nhanh theo đường thẳng đứng, những bi kịch gia đình liên tiếp xảy ra, không ai tìm được cảm giác an toàn, xã hội cũng rơi vào tình trạng bất ổn.

Con người muốn có được hạnh phúc thì trước hết gia đình cần ổn định. Mà điều kiện tiên quyết để gia đình ổn định là mối quan hệ vợ chồng bền chặt. Cả hai vợ chồng đều cần biết ơn, tuân theo đạo đức, quy chính lại những quan niệm bại hoại, tìm lại Thần tính và thiện niệm mới có thể quay về con đường chân chính. Nếu không, điều nhân loại đối mặt sẽ là hậu quả và vực thẳm không thể tưởng tượng nổi.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/257504

The post Ân và nghĩa trong hôn nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tinh giải luận ngữ (31): Kiến kỷ quá nhi nội tự tụnghttps://chanhkien.org/2024/10/tinh-giai-luan-ngu-31-kien-ky-qua-nhi-noi-tu-tung.htmlSat, 19 Oct 2024 23:53:08 +0000https://chanhkien.org/?p=34747[ChanhKien.org] Nguyên văn 子曰:“已矣乎(1)!吾未见能见其过(2),而内自讼(3)者也。” (《论语·公冶长第五》) Hán Việt Tử viết: “Dĩ hỹ hồ! Ngô vị kiến năng kiến kỳ quá, nhi nội tự tụng giả dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”) Phiên âm Zǐ yuē: “Yǐ yǐ hū! Wú wèi jiàn néng jiàn qí guò, ér nèi zì sòng zhě yě.” […]

The post Tinh giải luận ngữ (31): Kiến kỷ quá nhi nội tự tụng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Nguyên văn

子曰:“已矣乎(1)!吾未见能见其过(2),而内自讼(3)者也。” (《论语·公冶长第五》)

Hán Việt

Tử viết: “Dĩ hỹ hồ! Ngô vị kiến năng kiến kỳ quá, nhi nội tự tụng giả dã.” (Trích “Luận ngữ – Chương 5 – Công dã tràng”)

Phiên âm

Zǐ yuē: “Yǐ yǐ hū! Wú wèi jiàn néng jiàn qí guò, ér nèi zì sòng zhě yě.” (“Lúnyǔ·Gōng yě zhǎng dì wǔ”)

Chú âm

子ㄗˇ曰ㄩㄝ:“已ㄧˇ矣ㄧˇ乎ㄏㄨ!吾ㄨˊ未ㄨㄟˋ见ㄐㄧㄢˋ能ㄋㄥˊ见ㄐㄧㄢˋ其ㄑㄧˊ过ㄍㄨㄛˋ,而ㄦˊ内ㄋㄟˋ自ㄗˋ讼ㄙㄨㄥˋ者ㄓㄜˇ也ㄧㄝˇ。”(《论ㄌㄨㄣˊ语ㄩˇ·公ㄍㄨㄥ冶ㄧㄝˇ长ㄔㄤˊ第ㄉㄧˋ五ㄨˇ》)

Chú thích

1. 已矣乎 (dĩ dĩ hồ): Xong rồi (cảm thán xã hội này thế là hết rồi).

2. 能见其过 (năng kiến kỳ quá): Có thể phát hiện ra lỗi lầm của chính mình.

3. 内自讼 (nội tự tụng): Tự khiển trách trong tâm, sâu sắc kiểm điểm lại mình. 讼 (tụng) tức là trách tội.

Diễn nghĩa

Khổng Tử nói: “Cái xã hội này xong rồi! Ta trước giờ chưa từng gặp được người mà khi phát hiện ra khuyết điểm, sai lầm của mình, thì đồng thời cũng có thể tiến thêm một bước là tự khiển trách trong tâm, sâu sắc kiểm điểm lại mình”.

Nghiên cứu và phân tích

“Nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá” (Con người không phải bậc Thánh hiền, không thể không mắc lỗi), điều quan trọng là khi phạm lỗi, và được chỉ ra lỗi lầm, thì thái độ của chúng ta như thế nào? Có người phân tích thấy sự thiếu sót thì sâu sắc tự kiểm điểm; có người vội vàng đùn đẩy cho người khác trốn tránh trách nhiệm. Nhan Uyên có mỹ đức “bất nhị quá” (không phạm lỗi hai lần). Kỳ thực đối với rất nhiều người mà nói, họ không lo có lỗi lầm, mà lo đã sai lại sai thêm, lo không biết sửa như thế nào. Dũng cảm sửa lỗi mới là người sáng suốt, mới là phúc.

Câu hỏi mở rộng

1. Khổng Tử nhìn thấy đạo đức nhân loại trượt dốc, cảm thán rằng xã hội sắp xong rồi; Lão Tử cũng lưu lại Đạo Đức Kinh với 5.000 chữ, rồi vội vàng rời khỏi Trung Nguyên. Phải chăng tiêu chuẩn đạo đức của nhân loại thực sự có liên quan đến phúc họa, hưng suy và vận mệnh tương lai của xã hội nhân loại?

2. Nguyên nhân nào khiến cho con người không thể “kiến kỷ quá nhi nội tự tụng” (nhận ra lỗi lầm, tự trách bản thân), không coi trọng đạo đức, thiếu chân thành, ngày càng xa rời bản tính thiện lương của mình? Điều gì đang làm ô nhiễm bản tính chân thành, thiện lương của con người?

Câu chuyện lịch sử

Vua Thang vào rừng dâu cầu Trời

Triều đại nhà Thương bắt đầu chưa lâu, thì xuất hiện một trận hạn hán kéo dài bảy năm. “ …Tháng ba, vua nhà Thương lên ngôi Thiên tử thì gặp đại hạn hán”. (Theo “Thông giám tiền biên”) “Thời vua Nghiêu vua Vũ có chín năm ngập lụt, còn thời vua Thang (tức vua Thương) thì có bảy năm hạn hán” (Theo “Quản tử – khinh trọng”).

Hạn hán bảy năm liên tiếp khiến cho sông ngòi cạn kiệt, cây cỏ khô héo, mạ non không mọc nổi, mùa màng thất bát, xương trắng phơi khắp nơi. Trận hạn hán gay gắt gây chấn động toàn vương triều nhà Thương. Người thời đó đều cho rằng đó là do Thiên đế làm. Trong quẻ bốc có câu: “Trinh (vấn): Bất vũ, đế giai hạn ngã.” (Trích “Quy” 1.25.13) ý nghĩa là: “Trời không mưa, là hạn hán mà Thiên đế giáng xuống cho ta”. Lúc này nhà Thương (hay còn gọi là nhà Ân) “Ân nhân tôn Thần, suất dân dĩ sự Thần, tiên quỷ nhi hậu lễ”, có nghĩa là: Người Ân tôn kính Thần, người dân hành sự theo ý Thần, quỷ Thần trước rồi đến lễ (trích “Tiểu đới trát – Biểu ký”), vì vậy, từ sau khi hạn hán xảy ra, vua Thương là Thành Thang đã cho xây dựng đàn tế ở ngoại ô, hàng ngày cử người tế lễ, cầu xin Thiên đế trừ hạn làm mưa. Đây chính là “giao tế”.

Bảy năm trôi qua mà đại hạn vẫn như cũ. Vua Thành Thang liền lệnh cho sử quan xem quẻ. Sử quan sau khi chiêm bốc nói: “Cần phải dùng người làm vật cúng tế”. Sau khi trầm ngâm suy nghĩ vua Thành Thang nói: “Ta cầu mưa là vì dân chúng, nếu như cần người để làm cúng tế thì hãy dùng thân thể của ta để tế Trời!” Thế rồi, vua Thành Thang tắm rửa sạch sẽ, trai giới, cắt gọn râu tóc, móng tay, móng chân, đánh xe bạch mã, mặc bộ y phục vải gai, vào rừng dâu lập đàn tế Trời. Ông cầu xin với Thượng Thiên rằng: “Tội là do mình tôi, không thể trừng phạt muôn dân được; muôn dân có tội thì cũng đều là do một mình tôi. Xin đừng vì sự bất tài của tôi mà khiến Thiên đế quỷ Thần phải phương hại đến tính mệnh của muôn dân”. Rồi ông tự trách mình về sáu sự việc như sau: “Trời không mưa là do việc chính sự của ta không có tiết chế, không có chế độ pháp luật chăng? Là muôn dân trăm họ đang có nỗi thống khổ mà ta lại thiếu trách nhiệm với họ chăng? Là do hành vi tham ô hối lộ tràn lan của quan lại chăng? Là do việc tu sửa cung điện đã gây hao tài vật tốn sức dân chăng? Là do có nữ nhân can nhiễu đến chính sự chăng? Là do có kẻ tiểu nhân hoành hành mà ta lại nghe và tin những lời gièm pha chăng?” Vua Thành Thang còn chưa dứt lời thì bỗng trời đổ cơn mưa to như trút nước, bao phủ hàng nghìn dặm.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/48868

The post Tinh giải luận ngữ (31): Kiến kỷ quá nhi nội tự tụng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (4)https://chanhkien.org/2024/10/van-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-4.htmlFri, 18 Oct 2024 23:41:53 +0000https://chanhkien.org/?p=34743(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Hiền thần lưu danh sử xanh – Trời bảo hộ Thái Tông Sở dĩ thời kỳ “Trinh Quán chi trị” có thể lưu danh muôn đời mà không bị thay thế, một mặt là dựa vào lòng nhân đức và tài năng trác tuyệt […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Hiền thần lưu danh sử xanh – Trời bảo hộ Thái Tông

Sở dĩ thời kỳ “Trinh Quán chi trị” có thể lưu danh muôn đời mà không bị thay thế, một mặt là dựa vào lòng nhân đức và tài năng trác tuyệt của Đường Thái Tông, mặt khác là không thể tách khỏi những hiền thần với tài hoa xuất chúng, dốc hết tài năng một lòng vì nước ấy. Trong thời kỳ Đường Thái Tông, không ngừng xuất hiện vô số những hiền thần lưu danh sử xanh, họ gồm có:

Tể tướng Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối, hai người họ được biết đến là “Phòng mưu Đỗ đoán”. Phòng có kỳ mưu diệu sách, còn Đỗ thì quả đoán lập quyết. Quốc thích Cao Sĩ Liêm và Trưởng Tôn Vô Kỵ, hai người họ không bởi thân phận tôn quý mà tự kiêu, dốc lòng tận trung, quả thật đáng quý. Gián quan Ngụy Trưng, dám phạm thượng can gián thẳng ngay, lời nói lần nào cũng đều có lý, khiến người ta phải đập bàn tán thưởng.

Những lương thần như vậy giống như là sao sáng quần tụ chiếu rọi Đại Đường vậy, lấp lánh rực rỡ.

Phòng mưu Đỗ đoán

Phòng Huyền Linh xuất thân tiến sĩ, ngay từ khi Lý Thế Dân khởi binh thảo phạt nhà Tùy đã tham gia vào quân đội. Mỗi lần thắng trận, mọi người đều bận bịu tranh đoạt tài vật, ông lại bận rộn tìm nhân tài đưa đến mạc phủ, nếu có tướng tá dũng lược (vừa dũng cảm vừa mưu lược) thì sẽ kết giao thâm tình, khiến họ tận trung với Thế Dân, tâm chí và tầm nhìn của ông quả là cao siêu lỗi lạc.

Năm Võ Đức thứ chín, khi Thái tử Lý Kiến Thành và em trai Tề vương Lý Nguyên Cát bí mật mưu sát Tần vương Lý Thế Dân, trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối được Lý Thế Dân gọi vào trong phủ để thương nghị đối sách. Kết quả, Lý Kiến Thành giết em bất thành, trái lại còn bị trời phạt, trúng tên mà chết.

Sau khi Lý Thế Dân xưng đế, lúc luận công ban thưởng, đã xác nhận Phòng Huyền Linh là người có công đầu, và khen ngợi ông có tài bày mưu tính kế quyết định thắng lợi ngoài sa trường ngàn dặm, phong làm tể tướng. Từ đó Phòng Huyền Linh miệt mài sớm hôm xử lý sự việc triều chính, bằng sự cân nhắc quyết đoán của ông mọi việc đều được xử lý một cách thỏa đáng. Ông cân nhắc tùy theo tài năng của mỗi người mà bổ nhiệm, không phân biệt sang hèn, vậy nên người đời gọi ông là lương tướng (tức là tể tướng tài đức).

Năm Trinh Quán thứ 22, Phòng Huyền Linh mắc trọng bệnh, nhưng vẫn bận lòng chuyện quốc gia, cho đến hơi thở cuối cùng. Thái Tông nắm tay ông giã biệt, đau xót không nói nên lời.

Sánh ngang cùng Phòng Huyền Linh là Đỗ Như Hối, trong các trận bình định Tiết Nhân Cảo, Lưu Vũ Chu, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, ông luôn bên cạnh Lý Thế Dân phân tích tình hình quân sự. Với kiến giải siêu phàm, ông có thể nắm rõ thời cơ then chốt, thành công trợ giúp Lý Thế Dân bình định loạn cát cứ toàn quốc.

Tháng 10 năm 621, Tần vương Lý Thế Dân mở Văn Học Quán, đã mời Đỗ Như Hối ngồi ở vị trí đầu tiên của 18 học sĩ trong Văn Học Quán. Sau khi Lý Thế Dân đăng cơ, ông cũng được xưng danh công đầu, sánh ngang với Phòng Huyền Linh, gọi chung là “Phòng Đỗ”.

Năm Trinh Quán thứ ba, Đỗ Như Hối thăng làm Thượng thư hữu bộc xạ, cùng Phòng Huyền Linh chèo chống đại cục. Năng lực làm việc của ông không hề thua kém Phòng Huyền Linh. Ông có thể đoán đại sự, dốc lòng tận sức, và đều được gọi là lương tướng. Đáng tiếc, năm Trinh Quán thứ tư Đỗ Như Hối qua đời, Thái Tông vì thế mà bãi triều ba ngày để tưởng nhớ, quần thần nặng nghĩa, bồi hồi rơi lệ.

Tranh thần Ngụy Trưng

Có thể nói “Đường Thái Tông đã tạo nên Gián quan Ngụy Trưng, và Ngụy Trưng đã tạo nên minh quân Đường Thái Tông”.

Một triều thiên tử một triều thần, gián quan gặp được minh quân thì mới có thể “can gián”. Nhìn chung trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc, ngoài một Ngụy Trưng xuất hiện trong thời Đường Thái Tông ra, thì đại gián quan thực hiếm thấy. Ngụy Trưng vốn là quan dưới quyền của Thái tử Lý Kiến Thành, nhưng Đường Thái Tông lại không kể đến hiềm khích trước, bổ nhiệm ông làm gián quan, cho phép trực tiếp chất vấn những được mất hơn thiệt của chính sự.

Có lần, Đường Thái Tông xét thấy nguồn cung cấp binh lính thiếu hụt nên đã hạ chỉ theo thỉnh cầu của Tể tướng Phong Đức Di trưng dụng nam thiếu niên chưa đến tuổi tham gia quân đội vào nhập ngũ. Nhưng khi chiếu lệnh chuyển đến Môn hạ tỉnh, Ngụy Trưng lại từ chối ý chỉ và không ký tên. Thái Tông tức giận trách cứ: “Ý trẫm đã quyết, việc này can hệ gì đến khanh chứ?”

Ngụy Trưng trả lời: “Tát ao bắt cá, sang năm hết cá; đốt rừng săn thú, sang năm hết thú. Nam thiếu niên sung quân, tô thuế tạp dịch giảm xuống, vả lại lính giá trị ở phần tinh nhuệ chứ không phải ở phần đông, chẳng cần ép thêm cho đủ số”. Đường Thái Tông trầm ngâm hồi lâu, rồi hạ lệnh dừng việc trưng binh, còn thưởng cho Ngụy Trưng một vò rượu vàng.

Năm Trinh Quán thứ tám, Trưởng Tôn Hoàng Hậu thay Đường Thái Tông tìm một nữ tử tài sắc xuất chúng tên Trịnh Thị về làm phi tần, trong lúc sắp nạp vào cung, Ngụy Trưng khuyên can nói: “Nữ tử này đã có hôn ước với Lục Thị, Hoàng đế không thể cướp đoạt dân nữ, chớ làm hỏng chuyện tốt của người ta, mong Hoàng thượng thấu hiểu nỗi khổ của bách tính”. Tuy nhiên, các đại thần khác thì nói rằng giữa Lục và Trịnh vốn không có hôn ước gì cả, và Lục Thị cũng dâng biểu phủ nhận chuyện hôn ước. Ngụy Trưng đã nói một cách rõ ràng rằng: “Lục Thị phủ nhận chuyện này, là muốn tránh họa sát thân, bất đắc dĩ mới làm như vậy”. Thái Tông không muốn lại dây dưa nữa, nên dứt khoát hủy bỏ việc nạp Trịnh Thị làm phi, nhằm tránh xảy ra sai lầm.

Năm Trinh Quán thứ tám, Hoàng Phủ Đức Tham dâng thư nói rằng: “Tu sửa Đông cung Lạc Dương, nhọc dân tốn của. Địa tô thu quá nhiều. Phụ nữ thích búi tóc cao, trong cung sẽ biến đổi”. Thái Tông nổi giận nói: “Đức Tham muốn Đại Đường không người lao dịch, không thu đấu tô, cung nhân không tóc, thì mới vừa lòng hả dạ”. Ngụy Trưng khuyên can rằng: “Dâng thư không quá trớn thì không thể khiến chủ nhân động lòng, lời của kẻ cuồng phu, nên chọn cái hay mà làm theo. Bệ hạ bởi không còn muốn nghe lời thẳng ngay mà nổi giận, còn đâu tấm lòng rộng rãi trước đây”. Thái Tông chuyển giận thành vui, tâm tình bình thản, còn thăng chức cho Hoàng Phủ Đức Tham làm Giám sát ngự sử.

Sau khi Ngụy Trưng qua đời. Đường Thái Tông đau buồn không thôi, còn nói mình đã mất đi một tấm gương.

Dũng sĩ Đại Đường Lý Tịnh

Năm 617, Lý Uyên tấn công thành Trường An, một trong số những tướng Tùy bị truy bắt là Lý Tịnh. Ngay trong thời khắc Lý Uyên muốn giết ông, khi ấy Lý Thế Dân ở bên cạnh đã hết sức nói giúp, cứu được một mạng của Lý Tịnh, đồng thời thu nhận ông vào mạc phủ.

Những người mà Lý Thế Dân chiêu mời ắt không phải hạng tầm thường, và Lý Tịnh chính là một ví dụ điển hình. Tháng 10 năm Võ Đức thứ tư, Lý Tịnh bằng chiến lược chớp nhoáng công hạ được thành Giang Lăng, giúp nhà Đường trừ bỏ được quân cát cứ Phiệt Tiêu Tiển. Năm Võ Đức thứ bảy, Lý Tịnh và Lý Hiếu Cung dẫn Lý Tích và bảy lộ quân đoàn đến Giang Hoài, trấn áp các cuộc bạo loạn vũ trang. Đường Cao Tổ khen ngợi rằng: “Các danh tướng ngày xưa như Hàn Tín, Bạch Khởi, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh so với Lý Tịnh thì còn kém xa lắm”.

Sau khi Đường Thái Tông lên ngôi, Lý Tịnh thường giữ vị trí thống soái chinh chiến sa trường. Cuối tháng 11 năm Trinh Quán thứ ba, Lý Tịnh phụng chiếu dẫn đại quân hơn 10 vạn chia thành sáu đạo quân chinh phạt cường hãn đại quốc Đông Đột Quyết. Trọn hai năm giao tranh quyết liệt, cuối cùng đã phá được Định Tương, bắt sống Hiệt Lợi khả hãn, tiêu diệt được Đông Đột Quyết.

Biên giới nhà Đường dần dần mở rộng, với những chiến công hiển hách của mình Lý Tịnh được thăng làm Thượng thư hữu bộc xạ. Năm Trinh Quán thứ tám, Thổ Dục Hồn xâm phạm biên giới, Lý Tịnh xin với Thái Tông được xuất chinh giết giặc. Lý Tịnh tuổi đã ngoài 60 gan góc mưu lược sung sức không kém gì năm xưa, ông không màng đến sự phản đối của các thuộc hạ, dẫn quân tiến sâu vào trận địa của địch, tìm kiếm nơi đồn trú quân chủ lực của đối phương, đúng là kẻ dũng không biết sợ. Cuối cùng, hai bên đã đụng độ nhau, tức thì vô số mũi tên đột nhiên phóng ra, dao kiếm sáng loáng, hai bên quyết chiến trong trận sinh tử. Sau nhiều lần kịch chiến hỗn loạn, thắng lợi đã thuộc về phía Đại Đường. Các thuộc hạ phía Thổ Dục Hồn đã giết thủ lĩnh Phục Doãn khả hãn và đầu hàng, Lý Tịnh an định được vùng Tây Bắc, tấu khúc khải hoàn trở về triều.

Lý Tịnh một đời vì nước mà chinh chiến thảo phạt bốn phương, uy chấn Bắc Địch, đúng là “Vô số tiếng trống thắng trận vang dội chốn sa trường, ngàn vạn dặm giang sơn cát bụi Hồ nhân phải thu mình”. Năm Trinh Quán thứ 23, Lý Tịnh lâm bệnh rồi mất tại nhà, thọ 79 tuổi. Dũng sĩ Đại Đường đã hồi về chốn nao? Hẳn chỉ vì Thái Tông mà đến một chuyến.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29149

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo dưỡng sinh của cổ nhânhttps://chanhkien.org/2024/10/dao-duong-sinh-cua-co-nhan.htmlFri, 18 Oct 2024 04:24:07 +0000https://chanhkien.org/?p=34742Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Chạy bộ hay chú trọng chế độ ăn uống thì tốt cho cơ thể, hay là còn có phương pháp nào khác nữa? Mỗi người đều có quan điểm riêng của mình về vấn đề dưỡng sinh. Đương nhiên không hút thuốc, ít uống rượu, không thức khuya […]

The post Đạo dưỡng sinh của cổ nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Chạy bộ hay chú trọng chế độ ăn uống thì tốt cho cơ thể, hay là còn có phương pháp nào khác nữa? Mỗi người đều có quan điểm riêng của mình về vấn đề dưỡng sinh. Đương nhiên không hút thuốc, ít uống rượu, không thức khuya v.v. cũng là một loại phương pháp, nhưng chúng vẫn không phải là căn bản.

Trong cổ thư “Thượng cổ thiên chân luận – Hoàng Đế nội kinh” nói rằng: “Chí nhàn nhi thiểu dục, tâm an nhi bất cụ, hình láo nhi bất quyện, khí tòng dĩ thuận, các tòng kỳ dục, giai đắc sở nguyện”. Đại ý là một người có chí hướng thanh đạm, ít dục vọng, tâm an mà không sợ hãi, ngay cả khi rất mệt mỏi cũng không cảm thấy mệt mỏi, hơi thở thông suốt, thì người này có thể đạt được mong muốn của bản thân và sẽ đạt được bất cứ điều gì mình muốn.

Từ “chí nhàn” ở đây không có nghĩa là tầm thường, không có ý chí tiến thủ, mà là cần dựa vào tình hình hoàn cảnh và năng lực của bản thân, chứ không phải là loại chí hướng viển vông không hiện thực. “Tung kỳ dục” cũng không phải là tùy ý làm bừa, đó là một loại thỏa mãn đơn giản dưới sự ràng buộc nhất định. Ví dụ như đói thì ăn cơm, khát thì uống nước, v.v. đây đều là những nhu cầu chính đáng chứ không phải là những dục vọng vượt khỏi luân lý.

Thần tạo ra con người và sẽ cấp cho con người một phương thức sinh sống nhất định. “Hoàng Đế nội kinh” kỳ thực muốn nói với chúng ta một phương thức sinh sống mà Thần cho phép.

Trên thực tế, con người không truy cầu những điều không thiết thực kia thì hết thảy những thứ đáng có vẫn sẽ có, chứ không phải vì bạn không đi cầu nên không có.

Đáng nên làm hoàng đế thì bạn không cần đi tranh đoạt, một khi thời cơ đến thì vẫn là của bạn. Hoàng đế Lưu Hằng thời nhà Hán kỳ thực không có chút năng lực gì. Đương thời Lữ hậu tranh tranh đấu đấu với những người khác, kết quả là tất cả đều bị giết, cuối cùng chỉ còn mỗi Lưu Hằng có tư cách làm hoàng đế, cũng là giành được ngôi vị một cách rất tự nhiên. Người ta thường cho rằng ngôi vị là do tranh đoạt mà có được, kỳ thực chúng ta xem xét lại một cách cẩn thận sẽ phát hiện hết thảy đều không phải như vậy. Đáng là của bạn thì không cần đi tranh cướp vẫn sẽ là của bạn, không chỉ là đối với ngôi vị mà với những thứ khác cũng đều tương tự như thế.

Quay trở lại với thân thể con người, con người nếu không có vọng niệm thì tự nhiên sẽ không có sợ hãi, sẽ không mệt mỏi quá sức. Chúng ta đều biết loại cảm thụ này, khi trong lòng có việc tức giận chưa vượt qua được thì bụng sẽ phình ra không nuốt nổi cơm; khi trong lòng lo lắng thường cũng sẽ không ăn nổi cơm. Ngược lại, khi trong lòng cảm thấy vui vẻ thì ngay cả cơm canh đạm bạc cũng thấy ngon miệng, thân thể cũng sẽ trở nên rất tốt.

Tại sao rất nhiều người già ở nơi rừng sâu núi cao thường sống lâu và khỏe mạnh? Con người ngày nay cho rằng họ có sức khỏe tốt là vì không khí ở trong núi rất trong lành, thực phẩm sạch sẽ. Thực ra điều thực sự quyết định việc họ sống lâu và khỏe mạnh chính là ở tâm thái, cũng chính là “chí nhàn mà ít ham muốn”, mọi thứ khác chỉ là thứ yếu.

“Hoàng Đế nội kinh” giảng thuật chính là đạo sinh tồn của con người. Nhưng mục đích sinh tồn của con người hôm nay là chờ đợi Đại Pháp khai truyền, đắc Pháp và trở về thế giới thiên quốc của mình. Nếu con người có thể làm được đạo dưỡng sinh trong “Hoàng Đế nội kinh” thì sẽ dễ dàng đắc Pháp hơn bởi vì không có tham vọng. Hết thảy mọi việc đều là tương phụ tương thành với nhau chứ không phải là không có liên hệ gì.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/292839

The post Đạo dưỡng sinh của cổ nhân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Kẻ tiểu nhân trong mắt người xưahttps://chanhkien.org/2024/10/ke-tieu-nhan-trong-mat-nguoi-xua.htmlThu, 17 Oct 2024 03:52:42 +0000https://chanhkien.org/?p=34737Tác giả: Tiêm Tiêm [ChanhKien.org] Tôi thường nghe mọi người nói tới kẻ tiểu nhân, nói người này lòng dạ hẹp hòi, là tiểu nhân. Hạng người gì thì sẽ bị coi là kẻ tiểu nhân? Người xưa có cách nhìn của riêng họ. Bài thơ của nhà tiên tri Thiệu Ung thời nhà Tống […]

The post Kẻ tiểu nhân trong mắt người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tiêm Tiêm

[ChanhKien.org]

Tôi thường nghe mọi người nói tới kẻ tiểu nhân, nói người này lòng dạ hẹp hòi, là tiểu nhân. Hạng người gì thì sẽ bị coi là kẻ tiểu nhân? Người xưa có cách nhìn của riêng họ. Bài thơ của nhà tiên tri Thiệu Ung thời nhà Tống đã nói rất rõ ràng. Toàn bộ bài thơ vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ: “Tiểu nhân vô tiết, khí bổn trục mạt. Hỷ tư kỳ dữ, nộ tư kỳ đoạt”.

“Tiểu nhân vô tiết, khí bản trục mạt”. Câu này có ý chỉ kẻ tiểu nhân là người làm việc không có nguyên tắc và giới hạn đạo đức, còn thường bỏ công phu cho những việc không liên quan, không cấp bách. “Vô tiết” có thể lý giải là không có khí tiết hoặc tiết tháo, dùng ngôn ngữ ngày nay mà nói thì chính là người không có giới hạn đạo đức. Nói một cách thẳng thắn thì “Khí bản trục mạt” chính là ngu ngốc, dùng ngôn ngữ ngày nay mà giảng thì chính là “đắc được hạt vừng, mà bỏ đi quả dưa”. Kỳ thực, ngày nay chúng ta cũng thường thấy loại người này, trên bề mặt mà nhìn thì có một số người có vẻ rất thông minh, nhưng thực tế họ lại làm những điều ngu ngốc. Nói một cách khác, đó chính là “khôn vặt”.

“Hỷ tư kỳ dữ, nộ tư kỳ đoạt” (Tạm diễn nghĩa: Chỉ thích nói về việc mình cho hoặc giúp đỡ người khác những gì, không thích nói về việc mình đoạt lấy đồ của người khác ra sao). Tình huống này thường rất phổ biến, nhiều người chỉ say sưa nói về bản thân năm đó đã đối xử tốt với người khác như thế nào, đã phó xuất ra sao, nhưng không hề nói đến bản thân đã ức hiếp người khác như thế nào. Loại hiện tượng này còn thường gặp hơn. Người ta chỉ thích nói rằng bản thân đã anh dũng khi một mình xông pha chiến trận ra sao, nhưng lại im lặng không nói về những thất bại của bản thân mình như thế nào. Giống như người ta chỉ thích nói về Quan Vũ một mình cầm đao sang Đông Ngô ra sao, còn không thích nói về Quan Vũ thua trận tháo chạy về Mạch Thành vậy. Họ chỉ thích nói về bản thân năm xưa đã vì người khác mà chịu rất nhiều khổ, nhưng lại không nói về bản thân đã cướp đi bao nhiêu lợi ích của người khác.

Những người được gọi là tiểu nhân, từ hành vi của họ mà nhìn thì có rất nhiều điểm khác biệt. Thực ra, nói chính xác hơn một chút, thì đều là xuất phát từ tâm tự tư. Hầu hết những người khôn lỏi đều ích kỷ; những người đó nhìn thì dường như là phó xuất vì người khác nhưng thực tế cũng là vì lợi ích của bản thân mà làm, bản chất vẫn là tự tư. Mà tiểu nhân thường lại là kẻ ngốc nhất. Hành vi của họ thường là trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, hành động trái ngược mục đích, và kết quả thường là tương phản lại.

Cổ nhân có trí huệ lớn của “kẻ đại trí thường có vẻ ngoài đần độn”, trong khi “tiểu nhân” có cảnh giới thấp, trí huệ nhỏ. Nhìn có vẻ thông minh, trên thực tế lại là ngốc. Đặc biệt là ngày nay, rất nhiều người chỉ vì một chút ân huệ nhỏ mà dốc hết sức bức hại người tu luyện. Họ cứ luôn miệng nói rằng họ bị ép buộc, hoặc là nói vì muốn tốt cho người khác, nhưng họ lại không biết rằng họ đang làm hại người khác và hại chính họ. Cuối cùng e rằng họ sẽ rơi vào kết cục vô cùng bi thảm.

Thiệu Ung là một nhà tiên tri, những tiêu chuẩn mà ông liệt kê ra cho kẻ tiểu nhân không chỉ đơn giản là một vấn đề về đạo đức, mà nó còn liên quan mật thiết đến đại sự là tương lai của bản thân sinh mệnh. Những người cho rằng bản thân mình rất thông minh, liệu có nên bình tâm lại và thử nghĩ về tương lai của bản thân mình hay không?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279047

The post Kẻ tiểu nhân trong mắt người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (3)https://chanhkien.org/2024/10/van-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-3.htmlTue, 15 Oct 2024 04:20:49 +0000https://chanhkien.org/?p=34722(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Các biện pháp củng cố chế độ vương triều của Đường Thái Tông Đường Thái Tông đã củng cố vững chắc hơn nữa việc xây dựng chế độ vương triều dựa trên cơ sở các biện pháp của Cao Tổ và nhà Tùy chế […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Các biện pháp củng cố chế độ vương triều của Đường Thái Tông

Đường Thái Tông đã củng cố vững chắc hơn nữa việc xây dựng chế độ vương triều dựa trên cơ sở các biện pháp của Cao Tổ và nhà Tùy chế định ra, tính hợp lý và tính hiệu quả cao của nó được xem là tấm gương cho hậu thế. Chủ yếu được thể hiện qua các điểm sau:

Thứ nhất, xây dựng được một cơ cấu quan liêu tương đối hữu hiệu. Triều đình trung ương tiếp tục chế độ tam tỉnh lục bộ của nhà Tùy, tam tỉnh là chỉ: Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh. Quyền lực quân sự và chính trị toàn quốc tập trung ở ba tỉnh này. Hoàng đế ban hành chính lệnh thì cần phải thông qua Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh phó thự (tức là ký tên đóng dấu) xong mới được tính là hợp pháp. Những phương châm chính sách quan trọng của đất nước sẽ do Trung thư tỉnh nghiên cứu trước, đưa ra quyết định; rồi lại do Môn hạ tỉnh thẩm duyệt, nếu như xét thấy không phù hợp, thì có thể bác bỏ; dưới Thượng thư tỉnh có lục bộ gồm Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Công bộ, có nhiệm vụ thực hiện cụ thể các chính lệnh đã được Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh thông qua. Chính phủ trung ương thiết lập Chính sự đường, với tư cách là cơ cấu nghị sự của tể tướng. Tất cả những sự vụ trọng đại, bao gồm việc bổ nhiệm và miễn nhiệm đối với các quan viên ngũ phẩm trở lên, đều phải được Chính sự đường hội nghị thảo luận, sau khi được Hoàng đế phê chuẩn thì mới được ban hành. Trưởng quan của tam tỉnh, tức là Trung thư lệnh của Trung thư tỉnh, Thị trung của Môn hạ tỉnh, Tả Hữu bộc xạ của Thượng thư tỉnh, đều là trưởng quan, về sau các quan viên khác tham gia hội nghị của Chính sự đường cũng đều là tể tướng, họ đều có chức danh là Tham tri cơ vụ, cho nên số tể tướng tham gia vào hội nghị của Chính sự đường lên đến 20 người.

Đặc điểm của quan chế trung ương này là: quyền lực của tể tướng khá lớn, điều này tránh được sự chuyên quyền của vua ở một mức độ nhất định; đồng thời các tể tướng là tập thể nghị sự của Chính sự đường, tam tỉnh lại có sự kiềm chế lẫn nhau, nên tránh được sự chuyên quyền riêng biệt của tể tướng.

Thái Tông lại thiết lập cơ quan giám sát Ngự sử đài, trưởng quan là Ngự sử đại phu, thực hiện giám sát nội ngoại bách quan và quân dân. Ngự sử đài và Hình bộ (cơ cấu hành chính tư pháp), Đại lý tự (cơ quan thẩm phán cao nhất) có tên gọi chung là Tam ti. Mỗi khi có án kiện lớn, Tam ti chủ quản sẽ cùng nhau thẩm lý, gọi là “Tam ti thôi sự”, cũng chính là tiền thân của hội thẩm “Tam pháp ti” trong các vương triều đời sau.

Cơ cấu hành chính địa phương cũng làm theo chế độ châu huyện hai cấp như nhà Tùy, toàn quốc tổng cộng có hơn 300 châu, và hơn 1.500 huyện. Trong thời Đường Thái Tông còn phân toàn quốc thành 10 khu giám sát, tức Thập Đạo. Hoàng đế cử Quan sát sứ thực hiện giám sát tình hình các châu huyện trong mỗi Đạo không theo định kỳ.

Thứ hai, hoàn thiện chế độ tuyển chọn quan viên. Năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông tiến hành “tuyển cử rầm rộ”, sau đó lại thông qua thi cử để tuyển chọn nhân sĩ tài đức, khoa mục tuyển chọn mà Thái Tông thường đưa ra là hai khoa Minh kinh và Tiến sĩ. Khoa Minh kinh chủ yếu là các bài thi về thông hiểu kinh điển, kinh nghĩa và các chính sách thời vụ của quốc gia; khoa Tiến sĩ chủ yếu là các bài thi về chính sách thời vụ và kinh nghĩa. Những năm cuối Trinh Quán Thái Tông mở rộng khoa Tiến sĩ, nâng cao giai tầng của tiến sĩ. Các sĩ tử sau khi thi đậu tiến sĩ, còn cần vượt qua kỳ khảo hạch của Lại bộ thì mới được ra làm quan.

Sự phát triển của khảo thí khoa cử, đã mở lối quan lộ cho các nhân sĩ tài đức. Trên nguyên tắc nó được quy định là trừ tầng lớp thấp kém như cung hộ, thì các dân thường khác đều có thể tham gia khảo thí, điều này đã triệt để phá vỡ cục diện chính trị môn phiệt của nhà Ngụy Tấn trước nay. Dù rằng việc khảo thí khoa cử đương thời vẫn xem trọng môn đệ dòng dõi thi thư, tuy nhiên thuận theo sự mở rộng của chế độ khảo thí lâu dần các con em của người dân bình thường cũng có thể mười năm gian khổ đèn sách mà đỗ đạt bảng vàng.

Thứ ba, hoàn thiện chế độ giáo dục. Đường Thái Tông hết sức coi trọng việc xây dựng trường học, qua đó chế độ giáo dục trường học ngày càng được hoàn thiện. Học phủ cao nhất trong toàn quốc là Quốc Tử Giám, bên dưới thiết lập sáu loại trường học: Quốc tử học, Thái học, Tứ môn học, Luật học, Thư học, Toán học. Ba loại trường học ở trước chỉ tiếp nhận con em của các quan tam phẩm, ngũ phẩm và thất phẩm trở lên vào học; ba trường học ở sau thì tiếp nhận con em của quan bát phẩm trở xuống và con em người dân bình thường. Ngoài ra còn có Hoằng Văn Quán, Sùng Văn Quán chỉ chuyên chiêu nạp con cháu hoàng thân quốc thích và con em của quan viên cấp cao vào học. Ở địa phương thì có các trường châu huyện.

Các cấp trường học đều lấy những kinh điển Nho gia làm thư mục nhất định phải đọc, những ai có thành tích học tập nổi trội thì sẽ được gửi đến Lại bộ tham gia khoa cử khảo thí.

Sự phát triển của giáo dục trong thời kỳ Trinh Quán, được Đỗ Hựu miêu tả trong «Thông Điển» như sau: “Năm Trinh Quán thứ năm, Thái Tông nhiều lần đến Quốc học, rồi cho xây thêm 1.200 phòng học xá. Quốc học, Thái học, Tứ môn học đều tăng thêm sinh đồ (tú tài), tại Thư học, Toán học đều bố trí tiến sĩ, tổng cộng có 3.261 người. Các Phi Kỵ ở Đồn Doanh cũng được bố trí tiến sĩ dạy kinh nghiệp (bài vở kinh sách Nho gia), chẳng bao lâu thủ lĩnh các nước Cao Câu Ly, Bạch Tế, Tân La, Cao Xương, Thổ Phồn cũng đưa con em mình hơn 8.000 người vào Quốc học, sự hưng thịnh của Quốc học là điều chưa từng có trong thời cận cổ”.

Thứ tư, hoàn thiện luật pháp khoan hồng, Vào thời Cao Tổ, rút kinh nghiệm từ việc Tùy Dạng Đế thi hành luật pháp rườm rà nghiêm khắc dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, ông đã bắt đầu chế định luật pháp mới, và vào năm 624 đã ban bố «Võ Đức luật» lấy khoan hồng làm nguyên tắc. Sau khi Đường Thái Tông lên ngôi, đã tiếp thu ý kiến của Ngụy Trưng, xác lập tôn chỉ khoan hậu nhân từ, thận trọng trong dùng hình phạt, đồng thời lệnh cho Trưởng Tôn Vô Kỵ và Phòng Huyền Linh chỉnh lý luật pháp, vào năm Trinh Quán thứ 10, tức năm 637 đã chính thức công bố «Đường Luật» với 500 điều, nội dung cơ bản gồm có danh lệ, vệ cấm, chức chế, hộ hôn, cứu khố, thiện hưng, tặc đạo, đấu tụng, tạp luật, bổ vong, đoạn ngục v.v.

Vào thời Đường Thái Tông, Trưởng Tôn Vô Kỵ lãnh hàm (người ký tên đầu tiên trong văn kiện), đã thêm vào những chú sớ (chú giải và chú thích) trong các điều khoản của «Đường Luật», và biên soạn thành «Đường Luật Sớ Nghị» gồm 12 chương với 30 cuốn, có ảnh hưởng rất lớn đến các nước thời bấy giờ như Cao Câu Ly, Nhật Bản, An Nam, và là bản mẫu pháp điển trong các triều đại nhà Tống, Minh sau này. Bộ sách này đến nay vẫn còn tồn tại và là bộ pháp điển hoàn chỉnh được lưu truyền lại từ thời cổ đại ở Trung Quốc.

Thứ năm, cải cách chế độ phủ binh. Nhà Tùy Đường đều làm theo chế độ phủ binh cũ từ thời Tây Ngụy và Bắc Chu, tuy nhiên nhà Đường lại có những cải cách. Cơ cấu lãnh đạo trung ương của phủ binh thời nhà Đường chủ yếu là thập nhị vệ, một bộ phận nhỏ quy về Đông cung lục suất. Đơn vị cơ bản của phủ binh được thiết lập tại các Chiết xung phủ. Do Chiết xung đô úy và Quả nghị đô úy thống lĩnh. Dưới Chiết xung phủ có Đoàn, mỗi Đoàn có 200 người; dưới Đoàn có Lữ, mỗi Lữ có 100 người; dưới Lữ có Đội, mỗi Đội có 50 người; dưới Đội có Hỏa, mỗi Hỏa có 10 người. Chiết xung phủ có ba bậc thượng, trung, hạ, Thượng phủ có 6 Đoàn với 1.200 vệ binh; Trung phủ có 5 Đoàn với 1.000 vệ binh; Hạ phủ có 4 Đoàn với 800 vệ binh. Vào thời điểm đông nhất toàn quốc có đến 634 Chiết xung phủ, tổng binh lực có 68 vạn người.

Xuất xứ của Phủ binh là những quân phủ ở địa phương được tuyển chọn từ trong “con cháu hàng lục phẩm trở xuống và những dân thường không trong nghĩa vụ quân dịch”, cứ ba năm tuyển chọn một lần. Độ tuổi phục dịch trong phủ binh là từ 21 đến 59 (từ 60 tuổi được miễn), trong thời gian phục dịch họ được miễn trừ thuế tô điệu (tô là thuế ruộng, điệu là thuế hộ). Nhiệm vụ thông thường của phủ binh là luân phiên đến kinh thành làm cảnh vệ túc trực, gọi là “phiên thượng”, đôi lúc cũng phải đến nơi khác để ra trận và phòng thủ. Ngoài thời gian chấp hành nhiệm vụ, phủ binh không rời khỏi quê hương và công việc sản xuất nông nghiệp của mình, chỉ tập trung vào mùa đông để tiến hành huấn luyện quân sự, thi hành chế độ binh nông hợp nhất.

Chế độ phủ binh của nhà Đường quán triệt nguyên tắc tăng cường trung ương tập quyền. Thời điểm ấy binh lực ở Quan Trung là tập trung nhất, có 26 vạn binh, ước tính chiếm khoảng 40% binh lực nhà Đường. Việc điều phái phủ binh là do Binh bộ trung ương nắm chặt, quan địa phương ngay cả thập nhị vệ của trung ương cũng không có quyền điều binh. Lúc chiến tranh, trung ương điều quân đội từ các nơi, tướng lĩnh cấp cao đều là cắt cử tạm thời, sau khi chiến tranh kết thúc, “binh tản về phủ, tướng quy về triều”, điều này tránh được việc độc đoán chuyên quyền của các tướng soái.

Các biện pháp về phương diện văn hóa của Đường Thái Tông

Đường Thái Tông vô cùng chú trọng đến việc biên soạn thư tịch và lịch sử. Ông ra lệnh tìm kiếm thư sách của các học giả trong dân gian đã qua đời. Vào cuối thời nhà Tùy, số lượng tàng thư còn sót lại ở Lạc Dương chỉ còn một vạn bốn ngàn bộ, ước chừng chín vạn cuốn, tuy nhiên sau khi Thái Tông thành lập Hoằng Văn Quán, tàng thư đã lên đến hơn 20 vạn cuốn. Thái Tông cho rằng thời kỳ Nam Bắc triều Kinh học được phân thành lưỡng học Nam Bắc, Kinh học rối loạn, do đó đã lệnh cho Khổng Dĩnh Đạt tiến hành chỉnh lý, ban bố «Ngũ Kinh Định Bản», là bản thảo cho cuốn «Ngũ Kinh Chính Nghĩa», và cung cấp bản mẫu cho các khoa cử khảo thí.

Trên phương diện sử học, Thái Tông đã hạ lệnh cho thành lập Quốc Sử Quán, biên soạn và tuyển chọn lịch sử của nhà Tùy và Nam Bắc triều, một mặt nhằm tỏ rõ sự chính thống của Đường thất, mặt khác từ trong đó rút ra bài học giáo huấn lịch sử. Ngoài ra, ông còn chiêu mộ các danh Nho đảm nhiệm chức Học quan. Do vậy, kinh thành phút chốc tập trung đông đảo học giả Nho gia, nhân tài lớp lớp xuất hiện, bồi dưỡng ra vô số trụ cột quốc gia cho Đại Đường.

Đường Thái Tông rất coi trọng việc hồng dương Phật Pháp, ông ra sức ủng hộ việc đi lấy kinh và công việc dịch kinh sách của Đường tăng Huyền Trang, và đích thân gặp gỡ trò chuyện cùng Đường tăng ở Lạc Dương. Điều này đã làm cho Phật giáo đạt đến thời kỳ cực thịnh vào trung kỳ nhà Đường.

Thành tựu huy hoàng về mặt quân sự của Đường Thái Tông

Trong những năm Trinh Quán, Đường Thái Tông không chỉ đạt được cục diện thái bình thịnh thế ở trong nước, hơn nữa thiên uy của ông còn thông thẳng đến vùng đất rộng lớn Đông Nam Á. Ông kinh lược (cai quản về chính trị quân sự) tứ di (gồm Đông Di, Bắc Địch, Tây Nhung, Nam Man), hàng phục được Đông Đột Quyết, bình định Tiết Diên Đà, chinh phạt Cao Ly, thu phục Thổ Phồn, bình định Hồi Hột. Những thành tựu chói lọi ấy đã khiến quốc uy của nhà Đường vang khắp bốn phương, vượt xa cả hai nhà Tần Hán. Bởi thành tựu huy hoàng hiếm có của mình, Thái Tông được các tộc trưởng, tù trưởng, đại hãn, quốc vương các nơi tôn xưng là “Thiên Khả Hãn”, tức là “Thiên hạ đại đế” (các bộ tộc ở phía Tây Bắc gọi vua của họ là khả hãn).

*Bình định Đột Quyết và Tiết Diên Đà, quý trọng các dân tộc như nhau

Ngay sau sự biến Huyền Vũ môn, Hiệt Lợi khả hãn của Đột Quyết nhân lúc nhà Đường nội biến rối loạn, đã ồ ạt xâm chiếm. Thái Tông liền cử Uất Trì Kính Đức xuất trận, đánh bại Đột Quyết. Không lâu sau, Hiệt Lợi lại xâm lược lần nữa, khi đến cầu Tiện Kiều trên sông Vị Thủy, đã phái sứ thần đến Trường An thị uy. Thái Tông vì thế đã đích thân dẫn sáu kỵ binh đến Vị Thủy, gặp Hiệt Lợi ở bên kia sông, kể tội Hiệt Lợi làm trái minh ước, lúc này đại quân của nhà Đường cũng lần lượt đến nơi. Hiệt Lợi thấy quân Đường hùng mạnh, biết rằng không có cơ hội, nên đã nghị hòa với Thái Tông, rồi lập tức quay về phương Bắc, đây chính là “Tiện Kiều hội minh”.

Tháng ba năm Trinh Quán thứ tư (năm 630), tướng nhà Đường là Lý Tịnh và Lý Tích đánh bại Đột Quyết, bắt được Hiệt Lợi khả hãn, Đông Đột Quyết bị tiêu diệt, và bản đồ của nhà Đường đã mở rộng đến phía Bắc hồ Baykal ngày nay, những bộ lạc nguyên ban đầu thuộc về Đột Quyết thì có số đến nương cậy Tiết Diên Đà ở mạn Bắc, có số chạy về Tây Vực ở phía Tây, số còn lại thì đầu hàng nhà Đường có trên 10 vạn người.

Phải giải quyết thế nào với hơn 10 vạn người đầu hàng này đây, Đường Thái Tông đã tập hợp triều thần đến để thương nghị. Đa số triều thần cho rằng, các dân tộc du mục phương Bắc từ xưa đến này luôn xâm phạm nghiêm trọng đến vùng Trung Nguyên, may thay hôm nay đã tiêu diệt được, nên để bọn họ chuyển đến sống ở phía Nam sông Hoàng Hà, làm rối loạn tổ chức và kết cấu bộ lạc vốn có của họ, phân tản sống lẫn tại các châu huyện, chỉ dẫn họ cách trồng trọt dệt vải. Như thế thì có thể khiến những dân tộc du mục vốn kiêu ngạo bất kham trở thành những cư dân nội địa dễ chịu khuất phục, để vùng bắc ải mãi mãi trống không. Cũng có người đề xuất rằng, các dân tộc thiểu số kẻ yếu thì tỏ vẻ thuần phục, kẻ mạnh thì phiến loạn, trước nay luôn như vậy. Nên là xua đuổi họ đến sống trên các thảo nguyên, không thể lưu lại vùng nội địa, để chấm đứt những hiểm họa từ bên trong.

Chỉ có Trung thư lệnh Ôn Ngạn là cực lực bác bỏ các ý kiến, ông chủ trương đưa những người đầu hàng của Đột Quyết chuyển đến sống ở các khu vực Hà sáo (vùng khuỷu sông) có đồng cỏ tươi tốt, bảo toàn các bộ lạc vốn có của họ, thuận theo tập tục sinh hoạt của họ, làm vậy thì có thể lấp đầy những vùng đất trống, lại có thể tăng cường lực lượng phòng thủ biên giới ở phương Bắc. Sau cùng, ông chỉ ra rằng: “Thiên tử đối với vạn sự vạn vật, nên giống như thiên phú địa tải (trời che đất chở) vậy, không nên để sót. Hôm nay Đột Quyết trong lúc lao đao khốn cùng quy hàng chúng ta, vậy có thể gạt họ ra ngoài không tiếp nhận được chăng?” Đường Thái Tông rất tán thành kiến nghị của Ôn Ngạn, còn nói thêm rằng: “Từ xưa đến nay đều coi trọng Trung Hoa mà khinh rẻ Di Địch, chỉ có trẫm đối với họ đều quý trọng như nhau!” Do đó, Thái Tông đã thiết lập hai phủ đô đốc Định Tương và Vân Trung ở khu vực Hà sáo (vùng khuỷu sông), thống lĩnh những người đầu hàng của Đột Quyết. Còn với tù trưởng các cấp chịu quy phục thì đều bái làm Tướng quân, Trung lang tướng, bố trí vào triều đình, những quan viên dân tộc thiểu số bậc ngũ phẩm trở lên có hơn 100 người, gần như chiếm khoảng một nửa số triều thần, số gia đình lần lượt chuyển vào sống ở Trường An có gần một vạn.

Chính sách này của Đường Thái Tông đã nhanh chóng giành được sự ủng hộ và yêu mến của rất nhiều dân tộc chung quanh, rầm rộ tôn Đường Thái Tông là “Thiên Khả Hãn”, tôn kính như Thần vậy.

Sau khi Đông Đột Quyết diệt vong, vùng Mạc Bắc bị Tiết Diên Đà tiếp tục chiếm đóng. Năm 644, Đường Thái Tông đã nhân lúc Hãn quốc của Tiết Diên Đà xảy ra nội loạn mà xuất binh, kết quả Tiết Diên Đà bại trận và đầu hàng nhà Đường. Từ đó, việc xâm phạm biên giới phía Bắc nhà Đường tạm thời được giải trừ.

Sử sách ghi chép, khi tin tức Lý Tịnh tiêu diệt được Đông Đột Quyết truyền về kinh thành, Thái Tông đã không cầm nổi xúc động và phấn khởi nói rằng: “Năm đó Thái Thượng Hoàng vì bách tính, đã chịu khuất phục xưng thần với Đột Quyết. Lúc đó trẫm vô cùng đau đớn, thề chừng nào còn sống phải diệt được Đột Quyết. Hôm nay chỉ nhọc một đội quân xuất chinh, đã bắt sống kẻ cầm đầu đưa về kinh, rửa sạch được mối nhục của Đại Đường năm ấy”. Tất cả đại thần cũng không cầm lòng mà hô lớn “vạn tuế!”

Sau khi Đông Đột Quyết diệt vong, chính quyền nhà Đường đã thiết lập bốn phủ Đô đốc là Thuận, Điếu, Trường, Hóa trên một dải bắt đầu từ U Châu ở phía Đông đến Linh Châu ở phía Tây (nay là huyện Linh Vũ, Ninh Hạ, Tây Nam Trung Quốc), để ổn định chỗ ở cho hơn mười vạn người Đột Quyết. Tại những khu vực thuộc Nội Mông Cổ ngày nay mà Hiệt Lợi khả hãn cai quản, chính quyền nhà Đường lại thiết lập phủ đô đốc Định Tương ở phía Đông và phủ đô đốc Vân Trung ở phía Tây, bên dưới có sáu châu, lại bổ nhiệm những tù trưởng Đột Quyết cũ làm Thứ sử quản lý những bộ lạc Đột Quyết ở địa phương. Thời bấy giờ, gần một vạn gia đình người Đột Quyết chuyển đến sống ở Trường An, những quý tộc Đột Quyết được nhà Đường bổ nhiệm giữ các chức quan ngũ phẩm trở lên như Tướng quân, Trung lang tướng có đến hơn trăm người.

*Cuộc chiến bình định Tây Vực

Sau khi bình định được Đột Quyết, Thái Tông tiếp tục quản Tây Vực, nhiều lần dùng đến binh lực. Năm Trinh Quán thứ tám (năm 634), Thổ Dục Hồn xâm lấn biên giới, Thái Tông cử Lý Tịnh, Hầu Quân Tập, Vương Đạo Tông xuất kích, năm sau Phục Doản khả hãn của Thổ Dục Hồn trốn vào sa mạc, sau bị người dân giết chết, nên Thái Tông đã lập một quốc vương Thổ Dục Hồn khác.

Năm Trinh Quán thứ 13 (năm 639), Thái Tông lấy việc Cao Xương vương Khúc Văn Thái triều cống Tây Vực, liền lệnh cho Hầu Quân Tập, Tiết Vạn Triệt dẫn binh thảo phạt Cao Xương. Năm sau, Cao Xương vương bệnh chết, con của ông là Trí Thịnh nối ngôi, và đã đầu hàng nhà Đường. Do đó Thái Tông thiết lập An Tây đô hộ phủ ở thành Giao Hà thủ phủ của Cao Xương, và các nước ở Tây Vực đều đến Trường An triều cống.

*Cuộc chiến chinh phục Cao Ly

Tháng hai năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645), Đường Thái Tông lấy lý do Tuyền Cái Tô Văn chấp chính nước Cao Ly lộng quyền ngược đãi dân chúng, đã đích thân dẫn lục quân từ Lạc Dương tiến về phương Bắc, dẫn binh tấn công Cao Ly. Tuy nhiên sau khi vượt bờ Đông sông Liêu Thủy, do gặp phải sự kháng cự ngoan cố của Cao Ly, quân nhà Đường tại thành An Thị (nay là Thành Tử Nam Doanh, Hải Thành, Liêu Ninh) tấn công đã lâu mà không được, thêm nữa thời tiết trở lạnh, cỏ khô và nước đóng băng, lương thảo thiếu hụt, binh mã khó có thể ở lại được lâu, chỉ đành hạ chiếu thu quân.

Hòa hiếu kết giao với Thổ Phồn

Cư dân ban đầu của cao nguyên Tây Tạng là dân tộc Mạnh. Sau thời Chiến Quốc, có các bộ lạc của dân tộc Khương, như Phát Khương, Mê Đường dần di chuyển đến vùng Tây Tạng ngày nay. Họ đã dung hợp với người dân bản địa, rồi sinh sôi phát triển, và hình thành nên tộc Thổ Phồn.

Người dựng nên vương triều Thổ Phồn là bộ tộc Mao Ngưu sinh sống tại Nhã Long Hà Dục (Yarlung), người thống nhất các bộ lạc của tộc người Mao Ngưu được gọi là Khí Nhiếp Khí Tán Phổ. “Tán Phổ” có nghĩa là người đàn ông hùng mạnh, sau này trở thành tôn xưng của các quân trưởng Thổ Phồn. Từ thời Khí Nhiếp Khí bắt đầu, Thổ Phồn đã xác lập chế độ tù trưởng thế tập (cha truyền con nối), sau Tán Phổ đời thứ tám là Bố Đại Củng Giáp, xã hội Thổ Phồn đã đạt được sự phát triển nhanh chóng.

Năm 629, Tùng Tán Cán Bố chỉ mới 13 tuổi đã kế ngôi vị Tán Phổ, cầm binh trấn áp được các cuộc phản loạn, thống nhất Tây Tạng. Tùng Tán Cán Bố còn tiến hành cải cách ở nhiều phương diện. Ông dời thủ phủ đến Lhasa. Từ đó Lhasa trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Tây Tạng. Ông tham chiếu chế độ phủ binh và quan chế trung ương của nhà Đường, xây dựng chế độ chính trị quân sự từ trung ương đến địa phương. Nhằm phù hợp với yêu cầu kinh tế và chính trị, Tùng Tán Cán Bố bắt đầu áp dụng lịch pháp, quy định thống nhất đo lường, dựa vào các văn tự của các nước Điền, Thiên Trúc sáng tạo ra Thổ Phồn văn (sau này phát triển thành Tạng văn ngày nay), lại chế định luật pháp tàn khốc.

Tháng một năm Trinh Quán thứ 15 (năm 641), sau nhiều lần thỉnh cầu của Thổ Phồn Tán Phổ Tùng Tán Cán Bố, Đường Thái Tông đã đồng ý gả công chúa Văn Thành cho ông, đồng thời cử Lễ bộ thượng thư, Giang Hạ vương Lý Đạo Tông hộ tống công chúa vào Tây Tạng. Tùng Tán Cán Bố nghe tin thì hết sức vui mừng, đích thân từ thủ phủ Lhasa đến Hà Nguyên (nay là Hồ Tây Ngạc Lăng, Thanh Hải), lấy tư cách con rể tiếp kiến Lý Đạo Tông. Ông nhìn thấy trang phục lộng lẫy và nghi trượng tráng lệ của Trung Quốc, thì vô cùng ngưỡng mộ. Từ đó, Thổ Phồn và nhà Đường kết nên quan hệ sinh cữu, học hỏi qua lại, chung sống hữu hảo.

Lúc công chúa Văn Thành vào Tây Tạng, đã mang theo một lượng lớn vật phẩm, có châu báu lụa là, đồ dùng sinh hoạt, thiết bị chữa bệnh, công cụ sản xuất, hạt giống rau màu, còn có các thư tịch như kinh sử, thơ văn, công nghệ, y dược, lịch pháp. Vào thời Đường Thái Tông, giống con tằm từ nội địa được đưa vào Thổ Phồn, nhà Đường còn cử thợ thủ công ủ rượu, chế cối xay, tạo giấy mực đến Thổ Phồn truyền dạy kỹ nghệ. Công chúa còn mang theo dàn nhạc của Trung Nguyên đến làm phong phú thêm âm nhạc của người Tạng.

Công chúa Văn Thành là người tín phụng Phật giáo, thời điểm ấy Phật giáo ở nhà Đường rất hưng thịnh, mà Tây Tạng lại không có Phật giáo. Công chúa đã mang Phật tháp, kinh Phật và tượng Phật, đồng thời xây dựng chùa Đại Chiêu để thờ phụng. Công chúa cùng với Tùng Tán Cán Bố tận tay cắm cành liễu trước cổng đền, vậy nên “Đường Liễu” cũng từ đó mà có. Và “bia đá sinh cữu đồng minh” nổi tiếng (cũng được gọi là “bia đá Trường Khánh hội minh”) là được dựng ở cạnh “Đường Liễu”.

Tùng Tán Cán Bố rất kính trọng công chúa Văn Thành hiền thục đa tài, ông cởi bỏ tấm áo lông cừu chuyển sang mang áo lụa gấm, còn nhiều lần cử con em quý tộc đến Trường An học tập.

Trong 40 năm sống ở Thổ Phồn, công chúa Văn Thành đã cống hiến không ngừng nghỉ, và có những cống hiến kiệt xuất vì mối quan hệ hữu nghị của hai dân tộc Hán Tạng. Công chúa Văn Thành mất năm 680, và được người Tạng vô cùng yêu mến gọi là a tỉ Giáp Sa (tức là “chị gái người Hán”). Thi nhân Trần Đào nhà Đường trong tập «Lũng Tây Hành» có thơ rằng: “Tự tòng quý chủ hòa thân hậu, nhất bán hồ phong tự Hán gia” (tạm dịch nghĩa: Từ dạo công chúa hòa thân, phân nửa hồ phong tựa Hán gia).

Thái Tông đối với các dân tộc chung quanh vừa là ân huệ vừa là uy nghiêm, ngoài việc dùng vũ lực chinh phục cường địch ra, ông cũng chú ý đến việc xoa dịu xung đột sắc tộc, ví như đại đô đốc của Ích Đô tấu xin được xuất binh bình định người Liêu làm phản, nhưng Thái Tông không đồng ý.

Còn có năm, Đột Quyết gặp phải tuyết lớn, ngựa dê chết rất nhiều, dân đói kém, súc vật gầy còm, quần thần khuyên Thái Tông nhân cơ hội mà tấn công Đột Quyết. Thái Tông đã nói rằng: “Trẫm và họ vừa mới kết liên minh đã trái minh ước, ấy là không thủ tín; mưu lợi lúc họ gặp nạn, ấy là bất nhân; thừa lúc họ nguy nan mà giành lấy thắng lợi, cũng không phải là hành động vũ trang chính đáng. Cho dù các bộ lạc Đột Quyết đều nổi loạn, súc vật chẳng còn con nào, trẫm cũng không tấn công, nhất định đợi đến khi họ có tội, trẫm mới lại thảo phạt”.

Vì thế mà tứ di phục tùng, chư quốc đến triều bái.

Đương nhiên, các thành tựu quân sự huy hoàng của Thái Tông không thể tách khỏi các đại tướng như Tần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, Trình Giảo Kim. Họ đều là những người nhiều lần cùng Thái Tông vào sinh ra tử. Tuy nhiên những anh hùng có thể khiến Thái Tông uy chấn tứ hải còn có hai vị đại tướng nữa: đó là Lý Tịnh và Lý Tích.

Vào năm Trinh Quán thứ 11, Thái Tông đã nói với các đại thần rằng: “Tùy Dạng Đế không biết dùng người, nhiều lần tu sửa Trường Thành để chống Đột Quyết. Trẫm bổ nhiệm Lý Tích trấn thủ Bình Châu, Đột Quyết sợ hãi mà bỏ chạy, biên thùy yên ổn, hà tất nhọc dân sửa thành làm chi?” Điều này nói lên rằng Thái Tông rất biết nhìn người và còn giỏi dùng người nữa.

Đường Thái Tông và những cảnh báo của thiên tượng

Thái Tông tin tưởng rằng, những biến đổi khác thường của tinh tú nhật nguyệt là những gợi ý của Thiên thượng cho con người. Thiên tai mất mùa xảy ra tức là Thiên thượng trách phạt, nhà vua cần kiểm điểm và sửa sai, nếu không quốc gia sẽ bị diệt vong. Việc tốt lành xuất hiện tức là Thiên thượng khen ngợi, ban xuống phúc lành, vương triều dài lâu.

Ngày 23 tháng 08 năm Trinh Quán thứ tám, trên bầu trời phương Nam xuất hiện sao chổi dài sáu trượng, phải hơn trăm ngày mới tản. Vào thời cổ đại sao chổi được xem là điều không tốt lành, nên Thái Tông đã hỏi các đại thần rằng: “Trẫm có chỗ không tốt, chấp chính có thiếu sót mới xuất hiện sao chổi, các khanh thấy thế nào?”

Đại thần Ngu Thế Nam trả lời: “Thuở trước, Tề Cảnh Công trông thấy sao chổi, sợ hãi mà lập tức tu sửa đức hạnh, 16 ngày sau thì sao chổi mất. Hoàng thượng chỉ cần không vì công đức cao dày mà kiêu căng, không ỷ thái bình lâu dài mà buông thả, nếu có thể trước sau như một, thì không phải lo nghĩ chuyện sao chổi”.

Thái Tông tỏ ý tán đồng nói: “Tần Thủy Hoàng bình định sáu nước, Tùy Dạng Đế phúc hưởng bốn bể, đã kiêu ngạo còn buông thả, nên quốc gia diệt vong nhanh chóng. Cảm tạ Thiên thượng cảnh giới cho trẫm và Đại Đường, trẫm thừa nhận còn có cái tâm tự kiêu, ấy là lỗi của trẫm!”

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29148

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Nhận mệnh” không phải là thái độ tiêu cực với cuộc sốnghttps://chanhkien.org/2024/10/nhan-menh-khong-phai-la-thai-do-tieu-cuc-voi-cuoc-song.htmlMon, 14 Oct 2024 03:21:53 +0000https://chanhkien.org/?p=34711Tác giả: Bình Phàm [ChanhKien.org] Một hôm, tôi đang nói chuyện với vợ về nguyên nhân gia đình bất hòa hiện nay thì cô ấy nói: “Gia đình bất hòa là do cả hai bên đều không ‘nhận mệnh’ (chấp thuận số phận), cả hai đều đang hướng ngoại tìm lối thoát, và điều đó […]

The post “Nhận mệnh” không phải là thái độ tiêu cực với cuộc sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Bình Phàm

[ChanhKien.org]

Một hôm, tôi đang nói chuyện với vợ về nguyên nhân gia đình bất hòa hiện nay thì cô ấy nói: “Gia đình bất hòa là do cả hai bên đều không ‘nhận mệnh’ (chấp thuận số phận), cả hai đều đang hướng ngoại tìm lối thoát, và điều đó dẫn đến đủ loại hỗn loạn đạo đức”. Câu nói này khiến tôi liên tưởng tới việc ‘nhận mệnh’.

Văn hóa truyền thống nói về việc chấp thuận số phận chứ không nói về tranh đấu. Nhìn trạng thái đời sống của người xưa từ trong sách cổ về văn hóa truyền thống chúng ta thấy rằng, “nhận mệnh” không phải là thái độ tiêu cực với cuộc sống. Người xưa tin vào “Thiên mệnh”, tin vào quy luật của vũ trụ. Họ hành sự chiểu theo đạo Trời và hiểu rằng “thiện ác hữu báo” là Thiên lý. Đối mặt với sự lựa chọn giữa thiện và ác, đúng và sai, họ chọn điều tốt mà theo, chọn cái đúng mà học. Đây sao có thể là một thái độ tiêu cực đối với cuộc sống?

Vào thời nhà Tống, khi Diêu Thời Khả còn là một cai ngục, Trương mỗ, em họ của Tể tướng Trương Bang Xương bị bắt giam vì tội danh kết bè đảng và âm mưu phản nghịch. Trương mỗ và các thành viên trong gia đình đều bị bắt và bị giam trong ngục. Trương mỗ cảm thấy mình không thể thoát khỏi án tử, nên một hôm ông đã nói với Diêu Thời Khả rằng: “Tôi đoán mình tất sẽ bị xử tử. Tôi có một số vàng giấu trong phòng tối. Ông có thể lấy nó ra, sau đó hãy giúp tôi bí mật mua ít thuốc độc. Đợi sau khi có án văn phán quyết của triều đình, tôi sẽ cùng gia đình tự vẫn. Về việc hậu sự cũng xin phó thác nhờ ông.”

Diêu Thời Khả an ủi ông ta và nói: “Triều đình hiện nay đang đề cao chính sách nhân từ, nhiều vụ án kiện sẽ được xử lý khoan dung. Tôi sẽ hỏi dò tin tức cho ông trước. Nếu xác thực là tội bất khả miễn, tiên sinh tiếp tục thực hiện kế hoạch này vẫn chưa quá muộn.”

Sau đó, khi điều tra triều đình thấy Trương mỗ “không tham gia vào âm mưu phản nghịch” và ông được tha bổng. Trương mỗ rất biết ơn Diêu Thời Khả vì đã cứu cả gia đình ông và muốn tặng ông ấy một trăm lạng bạc. Diêu Thời Khả từ chối, không nhận. Diêu Thời Khả lúc đó chưa có con trai. Sau sự việc này, vợ ông sinh liên tiếp tám người con trai, đều tài giỏi, nổi tiếng và lần lượt thi đỗ trong các kỳ khoa khảo. Về sau, họ đều trở thành danh sĩ.

Diêu Thời Khả không lợi dụng tình thế nguy hiểm của người khác, ông đã chọn làm việc thiện, tích thiện đức, nhờ đó cải biến được vận mệnh của mình. Tám người con trai của ông đều thi đỗ. Phúc báo của ông có thể nói thật thâm hậu vậy!

“Nhận mệnh” không có nghĩa là không cần làm gì cả, chỉ chờ đợi vận may hay vận rủi ập đến như con người ngày nay lý giải. Không phải là ý tứ này. Con người vẫn phải có các loại hoạt động như học tập, làm việc, sinh hoạt cơ bản giữa con người với nhau, đồng thời có những giao tiếp giữa các cá nhân khác nhau. Con người không thể cô độc một mình và ngăn cách tuyệt đối với thế giới. “Nhận mệnh” có nghĩa là tôi tin rằng trong mệnh đã được chú định, thiện ác hữu báo, tin rằng nhân quả báo ứng, hành thiện có thể đắc phúc báo, làm điều ác sẽ gánh chịu ác báo. Đối mặt với sự lựa chọn giữa thiện và ác, tôi sẽ chọn thiện niệm, thiện hành để đắc được sự gia trì của chư Thần và chư Phật, để cuộc sống có một tương lai tốt đẹp hơn.

Đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc, ý nghĩa của “nhận mệnh” đã bị bóp méo, bóp méo thành “không cần làm gì nữa, chờ bánh từ trên trời rơi xuống”. “Nhận mệnh” đã trở thành phong kiến mê tín, phủ định Thiên lý, che giấu quy luật tự nhiên rằng thiện ác hữu báo. Đảng Cộng sản Trung Quốc thay thế “nhận mệnh” bằng những từ như “tranh đấu”, “phấn đấu”, “cá lớn nuốt cá bé”, làm điều ác thay vì hành thiện tích đức. Trải qua nhiều năm bị Đảng Cộng sản Trung Quốc truyền bá, nhiều người Trung Quốc coi phấn đấu, tranh đấu như triết lý sống, coi nó như một loại thái độ tích cực với cuộc sống. Nếu bạn nói “thuận theo tự nhiên” thì mọi người sẽ cười nhạo bạn và cho rằng bạn “lười biếng” và “không có chí tiến thủ” v.v. Tình trạng đạo đức bại hoại, hỗn loạn bộc phát ở Trung Quốc đại lục ngày nay có liên quan mật thiết đến việc Đảng Cộng sản Trung Quốc phá hoại văn hóa truyền thống và truyền bá văn hóa đảng. Sau trận đại dịch ở Thượng Hải, có hàng dài người đến Văn phòng Cục Dân sự để làm thủ tục ly hôn, thậm chí phải hẹn trước. Trong quan niệm của họ, ly hôn là một loại giải thoát và là khởi đầu cho việc tìm kiếm một cuộc sống hạnh phúc mới.

Hãy thử nhìn các loại hiện tượng xảy ra xung quanh chúng ta. Sau ly hôn là tái hôn, phải đối mặt với những thứ cơ bản như cái mặc, cái ăn, nơi ở và phương tiện đi lại, đối mặt với nhu cầu thiết yếu hàng ngày của cuộc sống như củi, gạo, dầu, muối, đậu nành, giấm, trà. Các loại vấn đề như trước đây vẫn xảy ra, các loại mâu thuẫn vẫn nảy sinh, và vẫn chưa có được hạnh phúc như mình tưởng tượng. Người không “nhận mệnh”, họ không thừa nhận Trời, Thần, Phật, không tin việc tác hợp vợ chồng là do duyên phận thúc đẩy, là sự an bài của Thần, Phật. Nếu một người trong khi tranh đấu làm điều ác sẽ tạo nghiệp, thì Thần, Phật sao có thể an bài cuộc sống hạnh phúc cho họ? Đây không phải là điều mà Thần, Phật muốn, đây là điều mà Đảng Cộng sản Trung Quốc ma quỷ mong muốn. Dưới sự chi phối của những giá trị quan bại hoại do bôi nhọ Thần, Phật tạo thành, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm mọi điều xấu và bị Thần, Phật hủy diệt.

Tại sao Đảng Cộng sản Trung Quốc bức hại Pháp Luân Công? Tại sao nó lại không tiếc công sức phỉ báng đặc tính phổ quát “Chân, Thiện, Nhẫn” của vũ trụ? Bởi vì nó muốn đạt được mục đích là tiêu diệt nhân loại. Thế nhân đều đồng thuận với “Chân, Thiện, Nhẫn” và không tin vào giả, ác, đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ thuận theo “Chân, Thiện, Nhẫn” và làm người tốt. Hơn nữa, cảnh giới của việc làm người tốt là vô tận, và điều đó sẽ mang lại cho con người phúc báo và niềm hạnh phúc ở các mức độ khác nhau. Nếu mọi người đều nghĩ cho người khác, cân nhắc sự phát triển và tương lai của xã hội, thì xã hội này sẽ tươi đẹp biết bao! Tuy nhiên, chính vì vẻ đẹp này mà Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn đả phá. Điều mà nó muốn là nhân loại đi theo hướng càng ngày càng tệ hơn, bị hủy diệt càng triệt để càng tốt.

Ai là chính, ai là tà, chẳng phải nhìn qua là biết ư? Khi các học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng, họ thực sự đang cứu người. Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc ngăn trở chân tướng và bức hại Pháp Luân Công thì nó thực sự đang làm hại người. Bên trong chân tướng về Pháp Luân Công có tương lai của con người. Con người đối đãi thế nào, con người tuyển chọn ra sao, sai khác ở một niệm, thật là một sự khác biệt rất lớn như Thiên với địa!

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/276458

The post “Nhận mệnh” không phải là thái độ tiêu cực với cuộc sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhìn văn hóa truyền thống và quan niệm hiện đại dưới góc độ từ “dục” (ham muốn)https://chanhkien.org/2024/10/nhin-van-hoa-truyen-thong-va-quan-niem-hien-dai-duoi-goc-do-tu-duc-ham-muon.htmlSun, 13 Oct 2024 00:15:39 +0000https://chanhkien.org/?p=34704Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Chúng ta hãy nhìn cấu tạo của chữ “dục” 「慾」(có nghĩa là ham muốn) dạng chính thể của Trung Quốc. Bề mặt chữ có ý tứ là trong lòng khiếm khuyết “cốc vật” (ngũ cốc). Tôi lý giải rằng, đó chẳng phải có nghĩa là thiếu “món ăn […]

The post Nhìn văn hóa truyền thống và quan niệm hiện đại dưới góc độ từ “dục” (ham muốn) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Chúng ta hãy nhìn cấu tạo của chữ “dục” 「慾」(có nghĩa là ham muốn) dạng chính thể của Trung Quốc. Bề mặt chữ có ý tứ là trong lòng khiếm khuyết “cốc vật” (ngũ cốc). Tôi lý giải rằng, đó chẳng phải có nghĩa là thiếu “món ăn tinh thần” sao? Khi không đủ lương thực, con người sẽ đói nên luôn không thỏa mãn và tham cầu.

Vậy thì, đâu là “món ăn tinh thần” khiến con người cảm thấy no?

Tôi nghĩ đến văn hóa truyền thống. Bởi vì lý niệm truyền thống dạy con người phải biết tri túc, trân trọng những thứ đang có và biết cảm ân. Lý niệm như thế khiến con người “càng ăn càng no” và ít tham lam hơn.

Tôi nhớ một câu chuyện xưa về một người đàn ông nghèo khổ. Ông ấy làm việc vất vả cả ngày nhưng hầu như chỉ đủ nuôi sống gia đình. Tuy vậy, mỗi ngày, ông vẫn cảm ơn Trời xanh vì trong nhà không có người bị bệnh hay tai họa. Ông cảm thấy rất biết ơn và rất thỏa mãn vì có được điều đó. Nếu mọi người tiếp nhận giáo hóa truyền thống như vậy thì họ đâu còn cảm thấy có điều gì không hài lòng nữa?

Tôi lại nghĩ đến quan niệm hiện đại, “khích lệ” con người truy cầu “cái nhất”: trong hôn nhân phải tìm được “sự yêu thương nhất”, “tình yêu đích thực”, và tốt nhất là có mối quan hệ “tri kỷ”. Về cảm xúc cũng phải có sự “đam mê”; nếu quá bình đạm thì xem như “tình cảm” chưa đủ. Phụ nữ nếu muốn làm “mỹ nhân” phải tìm cách “để trẻ mãi không già” (đóng băng tuổi tác); học sinh phải là “học sinh xuất sắc”; con cái phải như “con nhà người ta”. Mọi người luôn so bì với nhau, kém một chút là không được. Những điều đó đã kích phát lòng ham muốn và tham dục của con người đến vô tận, không bao giờ thỏa mãn, khiến con người có “lòng ham muốn cao hơn trời”.

Điều này rất giống với “chất gây nghiện tâm thần” và “hormone tâm thần”, càng ăn ham muốn càng nhiều, càng ăn càng cảm thấy đói. Theo quan niệm này, có rất nhiều người không hài lòng với vợ/chồng của mình và mộng tưởng gặp được “tình yêu đích thực”. Cũng có không ít người không hài lòng với ngoại hình của mình, cho dù ngoại hình của họ không tệ. Khi đến một độ tuổi nhất định, họ cũng không hài lòng với việc xuất hiện nếp nhăn và tóc bạc. Họ cảm thấy mình phải “đóng băng tuổi tác” như một số người vẫn làm mới hài lòng.

Nhiều quan niệm hiện đại khác nhau đều kích thích “ham muốn” của con người đến mức vô hạn. Kết quả là họ sống một cuộc sống rất khó chịu và không hài lòng với bất cứ điều gì.

Tôi nhận ra rằng, bản thân mình vô tri vô giác cũng đã bị quan niệm hiện đại hầu như ở khắp mọi nơi làm cho “trúng độc” rất sâu, giống ngộ độc mãn tính như luộc ếch trong nước ấm. Rất nhiều cách nghĩ mà bản thân cảm thấy là lẽ bất di bất dịch, là lý đương nhiên, nhưng kỳ thực đó đều là tham dục quá độ và những suy nghĩ vô lý.

Ví dụ, tôi luôn tin rằng hôn nhân chỉ tốt nếu hai người thực sự yêu nhau. Đây là một suy nghĩ sai lầm lớn theo quan niệm hiện đại. Bởi vì hôn nhân là do Thần sắp đặt, Thần an bài dựa trên nhân quả, nhân duyên, nghiệp lực v.v., mà không phải là để cho con người tận hưởng tình yêu.

Một ví dụ khác, tôi luôn nghĩ rằng cần giữ trạng thái bề ngoài trẻ trung mới tốt. Thực ra, điều này cũng sai. Đằng sau suy nghĩ mà người hiện đại thường cho là tự nhiên này là tâm tham dục mạnh mẽ, gồm cả tâm sắc dục, tâm hư vinh, tâm hiếu thắng,v.v. Nếu đào sâu hơn, chúng ta sẽ thấy ma tính đằng sau nó rất mạnh mẽ. Đó là thứ mà một người tu luyện không bao giờ nên có.

Nhiều người hiện đại có chứng lo âu về ngoại hình, sợ già. Nhưng, ở thời đại truyền thống, thậm chí chỉ cách đây vài chục năm, con người trong xã hội nhìn chung không có loại quan niệm “nghịch thiên” như muốn đóng băng tuổi tác. Lúc đó, mọi người luôn coi trọng gia đình và con cháu. Những mục đích theo đuổi của con người thời đó cũng gần gũi hơn với ngũ phúc mà người xưa nói đến: Thứ nhất là trường thọ, thứ hai là phú quý, thứ ba là khang ninh [an khang], thứ tư là hảo đức, và thứ năm là thiện chung [chết lành]. Ngũ phúc không bao gồm tình yêu, hôn nhân, ngoại hình, những ham muốn vô độ mà con người hiện đại khao khát. Có thể thấy đạo đức xã hội đã sa sút đến mức nào và lòng tham của con người đã tăng lên đến chừng nào.

Nếu ôm giữ không buông những tham dục quá độ này, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy đủ, sẽ luôn ưu sầu và lo lắng. Kỳ thực, chúng ta đang càng ngày càng rời xa hạnh phúc.

“Tri túc thường lạc” (Hài lòng với những gì mình có), biết ơn và trân quý phước lành là tâm thái đúng đắn dẫn đến hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là thỏa mãn dục vọng mà là giảm bớt dục vọng.

Trên đây là một chút suy nghĩ ngẫu hứng chia sẻ với mọi người.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/287951

The post Nhìn văn hóa truyền thống và quan niệm hiện đại dưới góc độ từ “dục” (ham muốn) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vũ điệu cung đình Trung Quốc (Phần 5): Thời kỳ Lưỡng Tốnghttps://chanhkien.org/2024/10/vu-dieu-cung-dinh-trung-quoc-phan-5-thoi-ky-luong-tong.htmlSun, 13 Oct 2024 00:14:26 +0000https://chanhkien.org/?p=34708Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Vũ điệu cung đình Trung Quốc trải qua thời kỳ phát triển đỉnh cao vào thời Đường, đến thời Tống đã bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chuẩn hóa cao độ. Hình thức biểu diễn của vũ điệu cung đình thời Tống có sự khác biệt với thời […]

The post Vũ điệu cung đình Trung Quốc (Phần 5): Thời kỳ Lưỡng Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Vũ điệu cung đình Trung Quốc trải qua thời kỳ phát triển đỉnh cao vào thời Đường, đến thời Tống đã bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chuẩn hóa cao độ.

Hình thức biểu diễn của vũ điệu cung đình thời Tống có sự khác biệt với thời Đường. Điểm khác biệt quan trọng nhất là sự xuất hiện của “Đội vũ” (múa theo đội nhóm) và “Đại khúc ca vũ” có tình tiết, diễn đạt câu chuyện theo tuyến tính nhân vật. Đặc điểm chung là vẫn mang tính trang nhã, chuẩn mực của thời kỳ trước. Mặc dù “Đội vũ” đã xuất hiện vào thời Đường, ví dụ như “Bồ Tát Man đội vũ” và “Thán Bách Niên đội vũ”. Nhưng đến thời Tống, đội vũ đã được chuẩn hóa cao độ. Tuy nhiên, về cơ bản nó kế thừa vũ điệu của thời Đường và thiếu sự sáng tạo.

Theo “Tống thư – Nhạc chí” ghi chép, đội vũ được chia thành “Tiểu Nhi đội” và “Nữ Đệ Tử đội”. Mỗi loại lại được chia thành mười đội múa độc lập.

“Tiểu Nhi đội” gồm 72 người, bao gồm: một là Chá Chi đội, vũ công mặc áo bào rộng bằng tơ mỏng ngũ sắc có thêu hoa văn, đội mũ Hồ, đeo thắt lưng bạc; hai là Kiếm Khí đội, vũ công mặc áo ngắn bằng tơ mỏng ngũ sắc có thêu hoa văn, trên đầu quấn khăn chít gấp chéo chân, trán đeo dải lụa đỏ, tay cầm binh khí; ba là Bà La Môn đội, vũ công mặc tăng y bằng tơ mỏng màu tím, áo choàng ngắn đỏ, cầm gậy thiếc hình trụ; bốn là Túy Hồ Đằng đội, vũ công mặc áo ngắn bằng gấm đỏ, đội mũ dạ; năm là Hộn Thần Vạn Tuế Nhạc đội, vũ công mặc áo rộng bằng tơ mỏng màu tím, màu đỏ và màu xanh, đầu vấn khăn chít cài hoa; sáu là Nhi Đồng Cảm Thánh Nhạc đội, vũ công mặc áo tơ mỏng màu xanh sáng, đeo thắt lưng lụa, (tóc) tết hình hai trái đào; bảy là Ngọc Thố Hồn Thoát đội, vũ công mặc áo ngắn bằng tơ mỏng tứ sắc có thêu hoa văn, đeo thắt lưng bạc, đầu đội mũ ngọc thố (thỏ ngọc); tám là Dị Vực Triều Thiên đội, vũ công đeo đai lưng bạc, đầu đội mũ di, tay cầm đĩa ngọc; chín là Nhi Đồng Giải Hồng đội, vũ công mặc áo ngắn màu tím đỏ có thêu hoa văn, đeo thắt lưng bạc, đầu đội mũ phượng cài hoa; mười là Xạ Điêu Hồi Cốt đội, vũ công mặc áo ngắn gấm có hình chim ưng lượn quanh, tay cầm khay khắc hình xạ điêu.

“Nữ Đệ Tử đội” có tổng cộng 153 người, bao gồm: một là Bồ Tát Man đội, vũ công mặc áo xếp tầng hẹp màu đỏ, đội mũ quyển vân; hai là Cảm Hóa Nhạc đội, vũ công mặc áo suông tơ mỏng màu xanh sáng, tóc bối sơ kế, đeo thắt lưng lụa; ba là Phao Cầu Nhạc đội, vũ công mặc áo rộng bằng tơ mỏng tứ sắc có thêu hoa văn, đeo thắt lưng bạc, nâng tú cầu (quả cầu thêu nhiều màu); bốn là Giai Nhân Tiễn Mẫu Đơn đội, vũ công mặc áo xếp tầng màu đỏ tươi, đội kim quan, tay cầm cành hoa mẫu đơn tươi; năm là Phất Nghê Thường đội, vũ công mặc áo xếp tầng màu đỏ thanh thoát, choàng khăn quàng vai xanh ngọc, đội mũ tiên, trán đeo dải lụa đỏ thêu đẹp đẽ; sáu là Thải Liên đội, vũ công mặc áo suông rộng bằng tơ mỏng màu đỏ, váy hồng, tóc vấn vân hoàn kế, ngồi thuyền hoa, tay cầm hoa sen; bảy là Phượng Nghênh Nhạc đội, vũ công mặc y phục xếp tầng màu hồng thanh thoát, tóc vấn vân hoàn phượng kế; tám là Bồ Tát Hiến Hương Hoa đội, vũ công mặc y phục xếp tầng hẹp màu tươi sáng, đầu đội bảo quan, tay cầm khay hoa thơm; chín là Thải Vân Tiên đội, vũ công mặc Đạo y màu vàng tươi, choàng khăn quàng vai màu tím, đầu đội mũ tiên, tay cầm cờ tiết, quạt hạc; mười là Đả Cầu Nhạc đội, vũ công mặc áo ngắn hẹp bằng tơ mỏng thêu hoa văn, đeo thắt lưng bạc, đầu vấn khăn chít có gắn hoa xếp thuận chiều, tay cầm cây trượng gắn hình cầu.

Hai mươi đội vũ đề cập ở trên biểu diễn trong các buổi tế tự, điển lễ, yến tiệc của cung đình triều Tống.

Ngoài những đội vũ nêu trên, thời Tống còn xuất hiện “Đại khúc ca vũ”, kết hợp giữa thơ ca, đọc lời thoại, đội vũ và tình tiết câu chuyện. Hơn nữa có sự phân công và tên hiệu cho các nhân vật. Chẳng hạn như người cầm gậy trúc, chỉ huy đội vũ lên xuống sân khấu và đọc lời giới thiệu gọi là “Trúc can tử”, có lẽ tương đương với người dẫn chương trình ngày nay. “Trúc can tử” còn được gọi là “Tham quân sắc”, khi biểu diễn dẫn dắt đội múa lên sân khấu, gọi là “Câu đội”, khi biểu diễn kết thúc, dẫn dắt vũ đội rời khỏi sân khấu gọi là “Khiển đội” hoặc “Phóng đội”. Đội nhạc phía sau đội vũ gọi là “Hậu hành”. Vũ công múa đơn gọi là “Hoa tâm”, có lời kịch đối thoại với “Trúc can tử”, v.v.

Đại khúc thời Đường vẫn là những tổ khúc ca vũ đơn giản, được chia thành “Tán tự”, “Trung tự” và “Phá”, thông thường dài vài chục đoạn. Trong khi đó, đại khúc thời Tống ngắn hơn, chỉ lấy một bộ phận để biểu diễn, gọi là “trích biên”. Khi diễn xuất, thông thường phần ca vũ bắt đầu từ phần “Trung tự”, cũng có khi sử dụng từ phần “Nhập phá” trở xuống. Để hiểu về trình tự biểu diễn của đại khúc thời Tống, hãy lấy “Kiếm vũ” làm ví dụ.

Khi bắt đầu biểu diễn “Kiếm vũ”, “Trúc can tử” ra sân khấu trước tiên, đọc lời kịch, sau đó chỉ huy đội vũ vào ra sân khấu. Nội dung biểu diễn được chia thành hai phần:

Phần một: “Nhạc bộ hát từ khúc, múa một đoạn phá khúc điệu Kiếm khí”. (Sau khi múa xong, hai người đứng hai bên. Lại có hai người mặc Hán phục đi ra, ngồi đối diện nhau, trên bàn bày trái cây). “Trúc can tử” giới thiệu bối cảnh vũ đạo, giới thiệu về Hồng môn yến thời Hán Sở tương tranh. Tiếp đó, nhạc bộ hát một khúc phần phá khúc của điệu Kiếm khí. Lại có hai người lên sân khấu, một người thực hiện vũ điệu để hành thích người mặc Hán phục bên phải; người kia cũng thực hiện điệu múa để ngăn cản. Sau khi hai người múa xong thì rời sân khấu, hai diễn viên mặc Hán phục cũng rời sân khấu. Từ phần giới thiệu và vũ đạo nói trên có thể thấy nội dung của màn biểu diễn nói về chuyện gì. Hai người mặc Hán phục, một là Lưu Bang, một là Hạng Vũ; người múa kiếm, kẻ ám sát là Hạng Trang, người cản lại là Hạng Bá.

Phần hai: (Lại có hai người mặc trang phục thời Đường xuất hiện, ngồi đối diện nhau. Trên bàn bày bút, nghiên mực, giấy. Hai diễn viên khác đứng, một người mặc trang phục phụ nữ). “Trúc can tử” đọc lời bạch. Sau đó, nhạc bộ hát một đoạn phần phá khúc của vũ điệu Kiếm khí. Hai diễn viên múa, một nam một nữ múa với nhau. Màn biểu diễn này kể về câu chuyện của vũ công nổi tiếng thời Đại Đường là Công Tôn đại nương múa điệu “Kiếm khí”. Diễn viên mặc trang phục phụ nữ chính là Công Tôn đại nương, múa kiếm “tạo thành thế long xà múa lượn uyển chuyển”, anh vũ mạnh mẽ. Hai người mặc trang phục thời Đường, một là thư pháp gia nổi tiếng Trương Húc, một là thi Thánh Đỗ Phủ. Trên bàn có bút, nghiên và giấy, vừa thể hiện “thảo thư đại tiến” của Trương Húc, vừa thể hiện “lệ cú tân thành” của Đỗ Phủ, ý nói về danh tác “Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ Kiếm khí hành” của Đỗ Phủ.

Qua hình thức biểu diễn “Kiếm vũ”, có thể thấy rằng biểu diễn đại khúc bình thường đều có một chủ đề và thể hiện những nội dung câu chuyện lịch sử nhất định. Kết hợp với việc sắm vai nhân vật đơn giản, cùng với những bài hát trữ tình và nhạc đệm phù hợp với tình tiết câu chuyện, tạo thành một loại vũ kịch đơn giản lấy ca múa là chủ yếu.

Tuy nhiên, không phải tất cả đại khúc thời Tống đều coi trọng nhân vật và tình tiết, có một số đại khúc không có nhân vật và tình tiết, chỉ có đối thoại, âm nhạc và vũ điệu. Chúng gần gũi hơn với đại khúc thời Đường, điểm khác biệt là có hình thức “Đội vũ”. Ví dụ như đại khúc “Thải liên vũ”.

Ngoài hai mươi đội vũ kể trên, trong đại khúc cũng bao gồm đội vũ tương xứng như “Thái thanh vũ”, “Ngư phụ vũ”, “Hoa vũ”, “Kiếm vũ”, v.v. Các tư liệu lịch sử ghi chép lại rằng, thời Tống có ít nhất bốn mươi bộ đại khúc nổi tiếng như “Nam lữ bạc mị”, “Hàng hoàng long”, v.v.

Thời Tống, ngoại trừ các đội vũ và các đại khúc ca vũ cung đình, còn rất nhiều vũ điệu xuất sắc từ thời Đường như “Hồ toàn”, “Bạch”, “Tiền khê”, “Lục yêu” v.v. vẫn tồn tại độc lập.

Sự chuẩn hóa cao độ vũ điệu vào thời Tống đã đặt định nền tảng cho hý khúc vũ đạo. Nhưng một trong những ảnh hưởng tiêu cực mà nó mang lại là hạn chế sự biểu đạt cảm xúc trong vũ điệu.

Vào năm Hội Đồng thứ chín thời Liêu (năm 946), ở Biện Lương đã tiếp nhận nhã nhạc, tán nhạc từ Trung Nguyên, từ đó có đại khúc, trở thành tiết mục biểu diễn quan trọng trong các hoạt động yến tiệc, khánh chúc của cung đình. Những năm Thiên Phụ (1117-1122), Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả tấn công nước Liêu và tiếp nhận đại khúc của Liêu. Về sau, người Kim diệt Bắc Tống, lại tiếp nhận đại khúc của Bắc Tống. Do vậy thể loại đại khúc vô cùng hưng thịnh ở thời Liêu và thời Kim. Biểu diễn điệu vũ toàn (múa xoay người) trong đại khúc của người Kim đã phát triển trở thành múa đối diễn giữa hai người là chính.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/43698

The post Vũ điệu cung đình Trung Quốc (Phần 5): Thời kỳ Lưỡng Tống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnhhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-14-manh-xuong-so-lanh.htmlSat, 12 Oct 2024 02:12:51 +0000https://chanhkien.org/?p=34692Tác giả: Lưu Tiên Dật [ChanhKien.org] Vào thời nhà Đường, khi quân đội của Vương Tiềm đóng quân ở Kinh Châu, nơi đó có một thầy thuốc tên là Trương Sĩ Chính, rất giỏi chữa gãy xương. Có một người lính bị gãy xương chân tìm đến Trương Sĩ Chính để chữa trị. Đầu tiên […]

The post Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lưu Tiên Dật

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Đường, khi quân đội của Vương Tiềm đóng quân ở Kinh Châu, nơi đó có một thầy thuốc tên là Trương Sĩ Chính, rất giỏi chữa gãy xương. Có một người lính bị gãy xương chân tìm đến Trương Sĩ Chính để chữa trị. Đầu tiên Trương đại phu cho người lính uống một thứ rượu thuốc, rồi mổ thịt ra, kích thước to cỡ bằng hai ngón tay, sau đó gắp ra một mảnh xương vỡ, rồi dùng thuốc mỡ bôi lên vết mổ và bịt kín lại. Vài ngày sau, cái chân bị thương đã trở lại bình thường như trước.

Hơn hai năm sau, cái chân bị thương của người lính ấy đột nhiên đau nhức, anh ta đến hỏi Trương Sĩ Chính. Trương đại phu nói: “Đó là do mảnh xương được lấy ra cho anh trước đây cảm thấy lạnh, nên chân anh đau, anh có thể tìm ra nó ngay lập tức”. Sau đó quả nhiên mảnh xương đó đã được tìm thấy dưới gầm giường. Trương Sĩ Chính yêu cầu anh ta rửa mảnh xương đó bằng nước nóng và giấu nó vào trong bông, cái chân của người lính này lập tức hết đau.

Ghi chép này làm tôi nhớ đến một số bài viết về “Chân tay ảo” đã được đăng tải trên trang Chánh Kiến Net, một trong số đó là bài “Từ những hiện tượng ‘chân tay ảo’ thấy những hiểu lầm về y học thần kinh”, đã miêu tả chi tiết một số trường hợp tương tự. Cũng có thể thấy từ ghi chép này rằng sau khi mảnh xương được lấy ra, cơn đau ở chân của người lính dường như không phải do tác động tâm lý gây ra. Dường như nó cũng muốn nói với chúng ta rằng dù phần cơ thể này của chúng ta còn sống hay đã chết thì nó đều có quan hệ mật thiết với cơ thể. Bí ẩn của nó không thể giải thích được bằng y học hiện đại.

(Nguồn tư liệu: “Dật sử”)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (14): Mảnh xương sợ lạnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hai điều đại cấm kỵ khi thờ Thần Phật và hứa nguyện phản ánh trí tuệ siêu việt của người xưahttps://chanhkien.org/2024/10/hai-dieu-dai-cam-ky-khi-tho-than-phat-va-hua-nguyen-phan-anh-tri-tue-sieu-viet-cua-nguoi-xua.htmlFri, 11 Oct 2024 02:54:19 +0000https://chanhkien.org/?p=34682Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Con người ngày nay dường như không có nhiều điều cấm kỵ khi bái Phật. Thực ra, người xưa khi bái Phật “hứa nguyện” (cầu xin Thần Phật và hẹn sẽ tạ ơn) có hai điều đại cấm kỵ. Bên trong nó bao hàm trí huệ của người […]

The post Hai điều đại cấm kỵ khi thờ Thần Phật và hứa nguyện phản ánh trí tuệ siêu việt của người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Con người ngày nay dường như không có nhiều điều cấm kỵ khi bái Phật. Thực ra, người xưa khi bái Phật “hứa nguyện” (cầu xin Thần Phật và hẹn sẽ tạ ơn) có hai điều đại cấm kỵ. Bên trong nó bao hàm trí huệ của người xưa và năng lực của chư Thần, chư Phật.

Điều cấm kỵ đầu tiên là không cho phép cầu nguyện làm hại người khác. Bởi vì loại nguyện vọng này không chỉ sẽ không thành hiện thực mà thậm chí còn bị Thần, Phật trách phạt. Câu chuyện nổi tiếng nhất trong dân gian chính là câu chuyện về Bạch Thị Lang. Truyền thuyết kể rằng người đó có mệnh hoàng đế do Thượng Thiên tuyển chọn. Nhưng phụ thân mất khi ông còn nhỏ, ông sống với mẫu thân. Hai địa chủ ở địa phương, một người họ Thiên và người kia họ Vạn, thường xuyên ức hiếp hai mẹ con Bạch Thị Lang. Vì vậy, người mẹ thường xuyên trước mặt Thần Bếp nói rằng một khi con trai bà trở thành hoàng đế thì ông ta sẽ giết Vạn gia và Thiên gia. Thần Bếp nghe nhầm thành nghìn vạn gia đình nên đã hồi báo với Ngọc Hoàng, khiến gân rồng của Bạch Thị Lang co rút ngắn lại và Bạch Thị Lang không còn có thể là hoàng đế được nữa.

Thứ hai là không được hứa nguyện thái quá. Kỳ thực, Thần an bài hứa nguyện cũng là chiểu theo phúc phận của chính người đó. Nếu không có phúc phận lớn như vậy thì dù có hứa nguyện lớn đến đâu cũng không thành hiện thực.

Nhiều người bái Thần, Phật, chủ yếu là để cầu phát tài và tiêu trừ bệnh tật. Đây là điều rất bình thường đối với người thường. Chỉ cần họ không có ác niệm thì đó không phải vấn đề gì lớn. Nhưng làm một người tu luyện thì điều đó là không thể được.

Trong “Bài giảng thứ năm” cuốn “Chuyển Pháp Luân”, Sư phụ đã giảng cho các đệ tử Đại Pháp:

“Cầu mong giúp thân nhân tiêu nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với tình cảm thân quyến. Phải chăng muốn chi phối vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận mệnh của mình chứ!”

Các đệ tử Đại Pháp (những người tu luyện khác cũng như thế) không được phép cầu Phật, đặc biệt là không được cầu khỏi bệnh hay phát tài. Kỳ thực, làm đệ tử Đại Pháp là có Sư phụ đang quản, Sư phụ nhất định biết điều gì cần, và Sư phụ sẽ an bài căn cứ theo tình hình thực tế. Đệ tử Đại Pháp không cần phải suy nghĩ, Sư phụ Đại Pháp là cao nhất, sao chúng ta vẫn còn cầu xin các vị Thần, Phật khác làm việc gì đó?

Con người ban đầu cầu Thần, Phật kỳ thực không phải vì mục đích phát tài và thoát khỏi bệnh tật, mà là cầu Thần, Phật che chở cho nhân loại. Thuận theo năm tháng trôi qua, nhân loại biến dị mới trở thành cầu tài và cầu khỏi bệnh.

Nhưng dù sao đi nữa, việc cầu Thần, Phật trừng trị người khác đều là sai và là hành vi làm hại chính mình.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/290990

The post Hai điều đại cấm kỵ khi thờ Thần Phật và hứa nguyện phản ánh trí tuệ siêu việt của người xưa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tây Du luyện tâm (2): Lấy xưa luận nay là đáng tin cậy nhấthttps://chanhkien.org/2024/10/tay-du-luyen-tam-2-lay-xua-luan-nay-la-dang-tin-cay-nhat.htmlFri, 11 Oct 2024 02:54:10 +0000https://chanhkien.org/?p=34686Tác giả: Liễu Duyên [ChanhKien.org] (Tiếp theo Phần 1) Nhìn từ góc độ tu luyện, “Tây Du Ký” kỳ thực là một câu chuyện tiên tri. Nó phản ánh trạng thái sinh tồn của thế giới ngày nay, chính là thời mạt pháp mạt thế chúng ma loạn động, loạn tượng trên thế gian liên […]

The post Tây Du luyện tâm (2): Lấy xưa luận nay là đáng tin cậy nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Liễu Duyên

[ChanhKien.org]

(Tiếp theo Phần 1)

Nhìn từ góc độ tu luyện, “Tây Du Ký” kỳ thực là một câu chuyện tiên tri. Nó phản ánh trạng thái sinh tồn của thế giới ngày nay, chính là thời mạt pháp mạt thế chúng ma loạn động, loạn tượng trên thế gian liên tục xuất hiện, cùng với đó là quá trình tu luyện của những người kiên tu Đại Đạo, trừ loạn quy chính, cứu độ chúng sinh.

Trên thực tế, bộ truyện “Tây Du Ký” chính là kể về những sự việc trong tu luyện, hơn nữa là quá trình luyện tâm rất huyền diệu và cũng rất mạnh mẽ để hàng yêu phục ma. Đó cũng đồng dạng như hiện nay các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp phản bức hại, giảng chân tướng cứu chúng sinh. Ngoài ra còn có những sự việc đối ứng chằng chịt khác đang tiết lộ nhiều điều. Vậy nên, mỗi năm, trong các tiết mục lưu diễn của Shen Yun đều đưa các câu chuyện trong “Tây Du Ký” lên sân khấu, đưa chúng vào trong những vở diễn đặc sắc, và nhận được những tiếng cười của khán giả bởi sự hài hước, dí dỏm. Đồng thời, năng lượng chính diện tích cực được truyền tải đã làm xúc động bản tính nguyên sơ nhất của con người, giúp họ tìm lại chính mình và trở về với văn hóa truyền thống.

Hơn nữa, câu chuyện Tây Du không hề tách rời với quá trình đi thỉnh kinh của pháp sư Huyền Trang có thật trong lịch sử, và là trải nghiệm có thật xảy ra trong hai thời không vận động đồng thời. Theo cách nói hiện đại, vì không xảy ra trong cùng một chiều thời gian và không gian, nên chúng là hai phiên bản hoàn toàn khác nhau của cùng một câu chuyện. Thân xác thịt của Huyền Trang đang gian khổ bước đi trên con đường thỉnh kinh trong không gian ba chiều, còn chủ ý thức của hoạt động tâm lý (chính niệm), cũng chính là Đường Tăng, thì thể hiện ra trong không gian bốn chiều. Có thể lý giải rằng đó là quá trình luyện tâm đồng thời của chủ ý thức con người và nhục thân trong không gian ba chiều, và cũng chính là tư duy chính diện chiến thắng tư duy phụ diện để có thể tiếp tục bước trên con đường tu tâm trừ nghiệp.

Bởi vì nhục thân đại biểu cho sự tồn tại của vật chất trong không gian ba chiều, còn chủ ý thức của con người (có thể gọi là suy nghĩ, tư duy, tinh thần hay linh hồn), đại biểu cho sự tồn tại của tinh thần nên nó chỉ có thể tồn tại trong không gian từ bốn chiều trở lên. Nhận thức phổ biến trong giới khoa học hiện đại cho rằng không gian từ bốn chiều trở lên là trạng thái tồn tại của ý thức tinh thần, không có vật chất. Vì vậy, quá trình suy nghĩ của con người, đó cũng là quá trình hình thành ý thức tư duy, là phản ánh chân thực của không gian từ bốn chiều trở lên. Do đó, trong mắt của Thần mà nhìn thì quá trình suy nghĩ của bạn chính là đang chiếu một bộ phim. Trước khi các tế bào thần kinh kịp truyền thông tin đến bộ não vật lý của bạn thì Thần đã sớm biết được rồi, có thể nói là liếc mắt một cái liền hiểu hết, nhìn thoáng qua không bỏ sót gì, cái gì cũng không giấu được. Đối với sinh mệnh cao cấp mà nói, chúng ta là con người trong suốt, trần trụi.

Có thể thấy, đối với một người tu luyện muốn tu tâm đề cao cảnh giới thì việc nghĩ trăm phương ngàn kế che đậy nhân tâm và chấp trước của bản thân thực đáng cười biết bao. Tại nhân gian, bạn cảm thấy chút trò thông minh nhỏ bé của bản thân thật tốt, giống như không chút sơ hở nào, nhưng làm sao có thể sánh được với ‘mắt Thần như điện’. Vả lại, sự che đậy đó rốt cuộc vẫn là đang lừa gạt các Chính Thần có thể giúp bạn vượt quan. Bạn đang lừa dối ai đây? Bất quá chỉ đang lừa dối chính mình mà thôi! Bạn nói xem, nhân tâm của bạn nếu không bỏ đi thì liệu có thăng hoa lên được không? Tự lừa dối chính mình thì cũng có thời hạn thôi. Nếu đợi Thần xem chán rồi, đánh mất cơ hội đề cao rồi, thì bạn sẽ vấp ngã trong chính chấp trước bị che giấu đó. Hơn nữa, ngay cả khi Thần châm chước cho bạn, nhắm một mắt mở một mắt để bạn tu lên trên, thì đến khi cái mê bị phá đi rồi, trong nháy mắt bạn sẽ thấy được tất thảy suy nghĩ của mọi người, có thể giao tiếp bằng ý thức mà không cần mở miệng nói, bạn sẽ nhớ lại bản thân khôn vặt dối lừa khi ở thế gian như một tên hề, lúc đó bạn có thể không xấu hổ, sợ hãi sao? Bạn có thể ngồi yên ở vị trí đó được không? Tâm thần bất ổn trong chớp mắt liền nhanh chóng rớt xuống.

Con người có thể lừa dối người khác, nhưng không thể lừa dối Thần. Tai nạn, dịch bệnh nhìn thì đáng sợ, nhưng đáng sợ hơn là nhân tâm, chính là những hành vi dơ bẩn như tham lam, ham muốn, ích kỷ, v.v. của con người đã tạo ra nghiệp lực. Có thể thấy, tất cả những hiện tượng hỗn loạn trên thế gian đều do nhân tâm chiêu mời đến. Nhưng trời không tuyệt đường người, muốn thay đổi hết thảy những vận hạn chỉ có cách tu cái tâm này để thật sự thay đổi bản thân, đề cao cảnh giới thì mới có thể hóa giải tai nạn.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/265935

The post Tây Du luyện tâm (2): Lấy xưa luận nay là đáng tin cậy nhất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần hạ)https://chanhkien.org/2024/10/duong-dien-chieu-truyen-ky-ngu-lang-xuong-nui-pha-quan-lieu-phan-ha.htmlThu, 10 Oct 2024 06:01:04 +0000https://chanhkien.org/?p=34680Tác giả: Ngưỡng Nhạc [ChanhKien.org] Dương Diên Chiêu truyền kỳ – Ngũ Lang xuống núi đánh quân Liêu. (Tranh minh họa: Thanh Ngọc/The Epoch Times) Theo Tống sử, Dương Diên Chiêu là một trong những danh tướng kháng Liêu của triều Bắc Tống. Ông trấn thủ miền biên ải hơn 20 năm, khiến cho người […]

The post Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần hạ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngưỡng Nhạc

[ChanhKien.org]

Dương Diên Chiêu truyền kỳ – Ngũ Lang xuống núi đánh quân Liêu. (Tranh minh họa: Thanh Ngọc/The Epoch Times)

Theo Tống sử, Dương Diên Chiêu là một trong những danh tướng kháng Liêu của triều Bắc Tống. Ông trấn thủ miền biên ải hơn 20 năm, khiến cho người Liêu (hay còn gọi là người Khiết Đan) mười phần khiếp sợ. Người Liêu cho rằng Sao Lục Lang (tướng tinh) là khắc tinh của họ, mà Dương Diên Chiêu lại trí dũng thiện chiến như Sao Lục Lang hạ phàm, nên người đời cũng gọi ông là “Dương Lục Lang”.

Những câu chuyện được cải biên từ lòng trung nghĩa của Dương Diên Chiêu và phủ Thiên Ba của Dương gia tướng bảo gia vệ quốc, ở thời nhà Nguyên đã có đủ loại phiên bản được đưa vào hý khúc, tiểu thuyết và bình thư (một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ), được lưu truyền rộng rãi và nhận được nhiều sự yêu mến của quần chúng. Trong loạt bài “Dương Diên Chiêu truyền kỳ” này, tác giả xin được phép thuật lại những câu chuyện tuyển chọn được lưu truyền trong dân gian, những mong cùng độc giả thưởng thức những câu chuyện đã lưu truyền ngàn năm của bậc anh hùng Dương Lục Lang.

(Tiếp theo phần trước)

Bạch Thiên Tổ đi sang tà đạo

Dương Ngũ Lang lại nói: “Ta đã chính thức xuất gia rồi, ngoài việc đánh dẹp đạo tặc, bảo vệ nhà chùa và người dân tín Phật, ta không can dự đến chuyện chiến trận nữa. Thực ra Lục đệ trước đây đã sớm nhiều lần đưa thư tới, còn phái Mạnh Lương, Tiêu Tán tới mời ta xuống núi, ta đều từ chối. Huống hồ trên núi ta chỉ có mấy trăm vũ tăng, làm sao địch lại được năm vạn đại quân của nước Liêu đây?”

Nói đoạn liền giật ống tay áo, nhảy về phía sau đình đi lên trên núi. Bát muội vội vàng đuổi theo lên núi. Nhưng thân pháp của Ngũ Lang rất nhanh, loáng một cái đã không thấy bóng dáng. Bát muội chỉ còn cách hô lớn: “Ngũ ca! Huynh nếu không theo muội xuống núi, muội sẽ phóng hỏa đốt chùa!”

Nàng nói xong liền chạy về phía chân núi, đến gần cửa lớn, vừa hay nhìn thấy một ngôi chùa cổ nguy nga trang nghiêm, tình cảnh này thực sự khó có thể ra tay. Nàng chỉ còn cách đi tiếp về phía chân núi, trên đường thấy hai gian lều cỏ, giống như nơi dành cho người đi lễ chùa dừng chân nghỉ ngơi. Nàng lấy đồ ra đập đá đánh lửa, chỉ chốc lát sau hai gian lều cỏ bốc cháy phừng phừng, khói đặc bốc lên đầy trời.

Không lâu sau, chỉ thấy Dương Ngũ Lang dẫn một đội vũ tăng xuống núi. Ngũ Lang cầm gậy gỗ khua một cái, chớp mắt đã đánh sập căn lều cỏ, các tăng nhân dùng gậy gỗ gạt cỏ ra, lại có người xách nước tới, rất nhanh chóng đã dập được lửa.

Ngũ Lang dở khóc dở cười nhìn Bát muội nói: “Muội sao phải khổ như vậy, ta đã nói rõ ràng với muội rồi!”

Bát muội trả lời: “Tên tướng Liêu Thổ Hành Tăng kia không phải là người thường, hắn không chỉ biết cầm quân bày trận, mà còn biết sử dụng yêu thuật. Muội và Lục ca phát hiện chiêu thức của hắn rất giống của huynh, cảm thấy rất lạ, mới tới tìm huynh”.

Ngũ Lang giật mình hỏi: “Thổ Hành Tăng? Hắn trông như thế nào? Bày ra trận gì?”

Dương Bát Muội liền đem chuyện Thổ Hành Tăng tấn công Tam Quan, bày trận bao vây quân Tống ra sao từng việc từng việc kể hết ra. Ngũ Lang nghe xong đáp lời: “Đây đâu phải là Thổ Hành Tăng, người này theo ta thấy thì tám, chín phần là tên phản đồ Bạch Thiên Tổ. Không ngờ hắn dám dùng Cửu Long Bát Quái Trận mà ta dạy để tấn công nước Đại Tống, tức chết ta thôi!”

Sau đó Ngũ Lang kể lại một đoạn chuyện xưa:

Bạch Thiên Tổ nguyên ban đầu là con nhà tướng quân Đại Tống, phụ thân và huynh bị gian thần trong triều hãm hại. Hắn cũng vì cuộc sống mà bị bức bách trở thành đạo tặc, sau này vì nhân duyên hội tụ, hắn lên Ngũ Đài Sơn làm vũ tăng. Hắn tư chất thông minh, võ nghệ cao cường. Dương Ngũ Lang cũng là con nhà tướng, nên có giao hảo với hắn theo kiểu người cùng cảnh ngộ, đối với hắn dốc bầu tâm sự, đem võ nghệ và cách thao lược chiến trận ra dạy cho hắn. Thế nhưng Bạch Thiên Tổ tuy đã xuất gia, những tâm danh, lợi, tài, sắc mãi vẫn không bỏ, còn có lần xuống núi vụng trộm với thôn nữ, cuối cùng phạm sắc giới, bị trục xuất khỏi sư môn. Sau khi rời khỏi chùa, Bạch Thiên Tổ thẹn quá hóa giận đi tới vùng Tây Vực, bái Ma giáo học tà pháp của bọn chúng, sau này nghe tin nước Đại Liêu chiêu binh mãi mã, vì thế bỏ sáng theo tối, dùng tên Thổ Hành Tăng trở thành đại tướng của nước Liêu.

Lúc này Dương Ngũ Lang rơi vào thế khó cả đôi đường, bèn nói: “Võ nghệ người này là ta dạy cho, ta phải lập tức xuống núi để ngăn hắn làm việc ác. Nhưng đối mặt với đại quân nước Liêu tất phải tạo lượng lớn sát nghiệp. Ta lên núi là để chuộc tội cho gia tộc, việc này nên làm thế nào cho tốt đây?”

Đúng lúc Ngũ Lang chần chừ không quyết được thì Trí Thông Thiền Sư xuất hiện. Trí Thông nói: “Ngũ Lang, ngộ tai! Ngươi lên núi là để chuộc tội cho Dương gia mà dốc lòng tu Phật, muốn mượn việc này để hóa giải tội nghiệp. Ngồi thiền, niệm kinh mặc dù có thể tiêu nghiệp, nhưng làm vũ tăng, bảo vệ dân chúng chẳng phải cũng đang tiêu giải tội nghiệp sao?”

Dương Ngũ Lang trả lời: “Đồ đệ minh bạch, nhưng lo lắng lại dẫm vào vết xe đổ của phụ thân và huynh đệ, cho nên chỉ dẫn các tăng thảo phạt đạo tặc, bảo vệ dân chúng. Lúc trước đồ nhi từ chối người triều đình phái tới chính là vì lo rằng dấn vào trần thế quá sâu thì khó mà tự kéo ra được”.

Trí Thông đáp lời: “Phụ thân và huynh đệ của ngươi mặc dù vì cả đời trên lưng ngựa, nên mới giết người vô số mà chết thảm, nhưng cũng một lòng vì nước vì dân, giống như danh tướng Quan Vũ, Trương Phi sau khi chết trở thành Thần. Còn thời Chiến Quốc có tướng nhà Tần tên Bạch Khởi vì cầu danh lợi mà chiến đấu, vô cớ giết hại 40 vạn hàng binh, nên phải chịu luân hồi ở tam ác đạo hơn nghìn năm. Giao chiến với quân Liêu việc thương vong là không thể tránh được, khi xưa hoàng đế Đại Đường Lý Thế Dân lúc bị quân địch bao vây, ông cũng được 13 côn tăng Thiếu Lâm cứu giúp, bọn họ trợ giúp Thánh chủ bình định thiên hạ. Nghĩa cử giải cứu lê dân khỏi chiến họa ấy, sao có thể nói không phải là một loại tu hành đây? Tạo ra sát nghiệp chỉ là một loại tạo hóa của Thiên ý. Hiện giờ Lục đệ của ngươi đang bị quân Liêu vây khốn, hơn vạn quân sĩ đang nguy cấp trong sớm tối, mà chủ tướng của quân Liêu lại có uyên nguyên sâu xa với ngươi, việc ngươi xuống núi hóa giải khó khăn này là việc nghĩa không thể thoái thác được”.

Trí Thông Thiền Sư nói xong, đưa cho Ngũ Lang một gói đồ rồi nói: “Đây là gói đồ ngày xưa ngươi mang theo lên núi, trong đó có búa lớn, lúc ấy vì lo lắng ngươi không bỏ được tâm trần nên thu hồi lại. Hiện tại tu vi của ngươi đã trọn vẹn, đây là thời khắc sử dụng lại nó rồi”.

Dương Ngũ Lang trả lời: “Xin tuân theo sư mệnh!”

Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu

Không lâu sau Ngũ Lang triệu tập các tăng nhân đến, chọn ra 500 tăng binh, cưỡi ngựa oai nghiêm xuống núi. Đoàn người theo Bát muội đi về phía Đông, không lâu sau đã tới trận địa ở ngoài quan. Lúc ấy là ban đêm, tốc độ của đoàn tăng binh rất nhanh, nhưng không phát ra một tiếng động, lấp tức lướt qua phòng tuyến của quân Liêu, đến doanh trại của quân Tống.

Dương Diên Chiêu nhìn thấy Ngũ huynh đã lâu không gặp, kích động đến rơi nước mắt, hai người ôm nhau, tưởng như đã xa cách tới mấy đời. Sau đó Dương Diên Chiêu gọi các tướng sĩ đến thảo luận kế sách phá địch, Dương Diên Chiêu nói: “Phụ thân khi còn sống đã để lại ba quyển ‘Lục giáp binh thư’, ta chỉ thông thạo được hai quyển thượng, quyển trung, còn quyển hạ rất tinh thâm khó đọc, ta chỉ biết được một hai điều. Mấy ngày nay ta đã dò xét ra trận địa này có phần giống với Cửu Long Bát Quái Trận trong quyển hạ. Nói về chuyện bày trận, tu vi của Ngũ huynh giỏi hơn ta, lần phá trận này phải nhờ huynh trợ giúp”.

Dương Ngũ Lang nói: “Lục đệ quá khen, ‘Lục Giáp Binh Thư’ ta chỉ thông thạo được năm, sáu phần. Xem trận này thì thấy có sơ hở. Lục đệ có thể dẫn các tướng sĩ tấn công vào các chỗ đầu, bụng, đuôi rồng. Trước tiên cần phải phá được hai tháp ở chỗ mắt rồng, sau đó cùng nhau xốc tới phá trận. Ta dẫn theo 500 tăng binh tấn công đàn tế bắt Bạch Thiên Tổ, phá yêu pháp này, như vậy tất sẽ toàn thắng”.

Sáng sớm hôm sau, Dương Diên Chiêu, Mạnh Lương, Tiêu Tán, Vương Lan Anh, Dương Bát muội chia nhau ra dẫn quân tấn công. Dương Diên Chiêu và Vương Lan Anh dẫn quân từ hai sườn trước tiên tấn công chỗ hai mắt rồng, lại phóng hỏa đốt hai tháp đá, tiếp đến các tướng sĩ theo thứ tự tấn công các bộ phận trên thân rồng, chiến đấu kịch liệt với đám quân Liêu phòng thủ.

Bạch Thiên Tổ thấy thế, liền vội vã lên trên đàn thi triển pháp thuật, đột nhiên sương mù xuất hiện, cát bay đá chạy. Dương Ngũ Lang và các tăng binh không hề bị ảnh hưởng, vẫn tiến về phía trước, chỉ thấy Ngũ Lang nhảy xuống ngựa, quyết đoán rút ra búa lớn, phóng búa lớn như đạn pháo về phía đàn tế, phá tan lư hương, sương mù, cát bụi tiêu tan trong nháy mắt.

Dương Ngũ Lang mắng: “Bạch Thiên Tổ! Tên phản đồ nhà ngươi! Ngươi vi phạm sắc giới bị trục xuất khỏi sư môn mà không chịu hối cải, còn ngộ nhập tà đạo phản quốc đầu quân cho địch. Ngươi nhanh chóng đầu hàng thì còn có cơ hội vãn hồi đường sống, chớ đã sai lại còn sai nữa!”

Bạch Thiên Tổ trả lời: “Sư huynh! Cả ngày luyện võ tu Phật không có gì thú vị hết, không chừng kết quả lại như công dã tràng. Thế gian có vinh hoa phú quý, sao không tận hưởng lạc thú trước mắt! Huynh có một thân bản sự, nếu theo ta đầu quân cho Đại Liêu, đảm bảo huynh một đời công danh lợi lộc hưởng thụ không hết!”

Dương Ngũ Lang trả lời: “Ngươi tham lam hưởng lạc, rơi vào ma đạo, sau này sẽ phải chịu khổ nơi địa ngục! Còn không dừng cương trước vực thẳm, còn có thể vãn hồi đường sống”.

Bạch Thiên Tổ lại đáp: “Sư huynh quả thực là đồ cổ lỗ không cảm hóa được, Dương gia của huynh tận trung báo quốc, được đền đáp những gì? Trong triều hôn quân tin dùng gian thần, khiến người nhà huynh chịu đủ mọi khi dễ. Tiêu Thái Hậu của Đại Liêu biết cách dùng người, phá cách phong cho ta làm đại tướng quân nắm binh mã, chỉ cần phá được Tam Quan liền thưởng vạn quan vàng rồi phong cho vương hầu. Chi bằng huynh khuyên nhủ Lục tướng đầu hàng ta, cùng nhau chung hưởng vinh hoa phú quý”.

Dương Ngũ Lang đáp: “Dương gia chịu đủ mọi trắc trở, khó khăn là do Thiên ý. Ngươi phản thầy đầu quân cho Liêu là làm trái ý trời. Ngươi ngu xuẩn không nhận ra như thế, hôm nay ta phải thanh lý môn hộ”.

Bạch Thiên Tổ khua búa lớn, chém gãy búa mà Ngũ Lang phóng tới đàn tế, lại lệnh cho quân Liêu thêm quân đến bao vây. Tăng binh cũng lần lượt lấy ra gậy gỗ, xuống ngựa bày trận đối đầu với quân Liêu. Lực sát thương của gậy gỗ không bằng vũ khí, nhưng rất linh hoạt nhanh nhẹn, đối đầu với quân đội chính quy nhưng không rơi vào thế hạ phong. Dương Ngũ Lang đột phá khỏi vòng vây lên thẳng đàn tế, Bạch Thiên Tổ tự tin với vũ khí trong tay, múa búa lớn tấn công rồi nói: “Vũ khí của người đã bị hủy, sao có thể làm khó ta đây?”

Dương Ngũ Lang không để ý tới lời này, cầm gậy gỗ (mộc côn) trực diện tấn công, nhanh như tia chớp xuất ra liên tiếp hơn mười gậy, trong nháy mặt hai tay Bạch Thiên Tổ đã bị trúng mấy phát côn, xém chút nữa rơi cả vũ khí. Búa lớn trong tay Bạch Thiên Tổ mặc dù sắc bén vô cùng, nhưng không cách nào đánh trúng đối thủ. Ngũ Lang côn pháp ảo diệu, chiêu thức như bát quái vô cùng biến hóa, sau mấy chục hiệp Bạch Thiên Tổ dần dần chống cự hết nổi. Giữa lúc đánh nhau kịch liệt, chỉ thấy gậy gỗ như linh xà ra khỏi hang, từ bên sườn quét ngang một cái đánh trúng bụng của Bạch Thiên Tổ. Hắn kêu lớn một tiếng, bị đánh bay ra xa vài thước.

Bạch Thiên Tổ đã bị rơi vào thế hạ phong nhưng không cam lòng, chuẩn bị lấy yêu pháp ra để đoạt mạng người. Hắn lẩm nhẩm trong miệng, lập tức trên chiến trường âm phong nổi lên từng trận, quân Tống bốn phía nhao nhao ngã xuống, mất đi ý chí chiến đấu, mà tướng sĩ quân Liêu đang thương vong kia lại như xác sống ào ào bò lên chiến đấu trở lại. Ngũ Lang thấy thế, lập tức cùng binh đoàn tăng nhân niệm kinh văn chú quyết của Phật môn, trong tâm mang chính niệm. Ngay tức khắc Phật quang phổ chiếu, kim quang xuất hiện! Yêu khí xung quanh dần dần tiêu mất, quân Tống mới ngã xuống lần lượt thức tỉnh, còn tướng sĩ quân Liêu như xác sống kia lại ngã xuống trở lại.

Mắt thấy yêu pháp không còn công hiệu, Bạch Thiên Tổ thẹn quá hóa giận. Hắn hung tợn hướng về Dương Ngũ Lang và các tăng nhân thi triển pháp thuật, nhưng không hề có chút hiệu quả. Chỉ thấy Bạch Thiên Tổ đột nhiên miệng phun ra máu tươi rồi ngã xuống, giống như bị tà pháp phản phệ (cắn trả).

Lúc ấy Dương Diên Chiêu và các tướng sĩ đã phá xong trận này, cùng nhau liên hợp tấn công. Các tướng Liêu như Lưu Kha, Ma Lí, Lạt Hổ thấy chủ tướng đã ngã xuống, trận địa bị phá, biết khó lòng thắng lợi, sau khi bàn bạc liền quyết định rút lui. Quân Liêu nỗ lực cứu Bạch Thiên Tổ trở về, cho kỵ binh thiết giáp chặn hậu. Cuối cùng chiến dịch này quân Tống lại lần nữa thu được toàn thắng.

Sau trận chiến, Dương Diên Chiêu cho quân sĩ phá hủy công sự của quân Liêu, chuẩn bị trở lại Tam Quan. Trước khi đi, ông nói lời từ biệt Ngũ Lang. Dương Ngũ Lang nói: “Bạch Thiên Tổ đã bị tà pháp phản phệ, cho dù không chết nhưng sau này khó lòng thi triển tà pháp trở lại, chỉ hy vọng hắn có thể biết quay đầu lại. Tam Quan và Ngũ Đài Sơn cách nhau không xa, nếu có trận chiến lớn có thể tới tìm ta, nói xong liền dẫn binh đoàn tăng nhân về núi.

Sau này Dương Ngũ Lang mặc dù tu hành trong núi, nhưng khi tình hình chiến sự giữa Tống Liêu nguy cấp, ông lại mang tăng binh xuống núi cứu viện. Ông tinh thông võ nghệ, tự sáng tạo ra tuyệt kỹ Ngũ Lang Bát Quái Côn lưu truyền hậu thế. Truyền thuyết kể rằng ông sống tới năm Chính Hòa thời Tống Huy Tông, thọ hơn 160 tuổi, là nam nhân sống thọ nhất trong Dương gia.

Tài liệu tham khảo:

“Dương Lục Lang uy chấn Tam Quan khẩu” – Nhà xuất bản Nhân dân Hà Bắc – Xuất bản năm 1984, Triệu Phúc Hòa, Lý Cự Phát… sưu tập.

“Dương gia tướng ngoại truyện” – Nhà xuất bản Thiếu niên Nhi đồng Hà Bắc – Xuất bản năm 1986, Triệu Vân Nhạn sưu tập chỉnh lý.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/292542

The post Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần hạ) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thểhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-13-so-do-huyet-vi-tren-tai-va-quy-luat-tin-tuc-toan-the.htmlMon, 07 Oct 2024 02:27:32 +0000https://chanhkien.org/?p=34660Tác giả: Vương Ngọc [ChanhKien.org] Có lẽ ít người biết rằng tình trạng sức khỏe của mọi bộ phận trên cơ thể chúng ta đều có thể được chẩn đoán qua tai. Có rất nhiều huyệt vị trên tai, trong Trung y có nhĩ huyệt đồ (sơ đồ huyệt vị ở tai), bất kỳ bộ […]

The post Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Vương Ngọc

[ChanhKien.org]

Có lẽ ít người biết rằng tình trạng sức khỏe của mọi bộ phận trên cơ thể chúng ta đều có thể được chẩn đoán qua tai.

Có rất nhiều huyệt vị trên tai, trong Trung y có nhĩ huyệt đồ (sơ đồ huyệt vị ở tai), bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể đều có thể tìm được huyệt vị tương ứng trên tai. Tai giống như một đứa trẻ đang co lại với đầu cúi xuống và chân hướng lên trên, có tất cả các cơ quan nội tạng và là một mô hình thu nhỏ của cơ thể.

Đây là một bức sơ đồ tín tức toàn thể điển hình, trong đó một bộ phận có thể phản ánh thông tin tổng thể các bộ phận khác. Điều đó có nghĩa là, từ một bộ phận của sinh vật thể, có thể quan sát được các đặc tính của toàn bộ sinh vật thể, đồng thời phản ánh ra cấu trúc của tổng thể. Trong cơ thể con người, những bộ phận có thể phản ánh thông tin về toàn bộ cơ thể không chỉ có tai mà còn có các vị trí khác cũng đối ứng với toàn cơ thể như lòng bàn tay, lòng bàn chân, mũi, mặt, xương thứ hai của xương bàn tay. Kỳ thực, bất kỳ một bộ phận nhỏ bé nào của cơ thể đều mang thông tin của toàn bộ cơ thể. Các nhà khoa học phương Tây đã tiến hành thí nghiệm và phát hiện ra rằng một tế bào não chứa đựng tất cả ký ức.

Tại sao một bộ phận có thể mang thông tin của toàn bộ cơ thể và tại sao lại có hiện tượng tín tức toàn thể? Mọi người đều biết rằng mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta đều được cấu thành từ các phân tử, và hiện nay các nhà khoa học đã nhìn qua kính hiển vi và máy gia tốc hạt mà thấy được bên dưới phân tử còn có các nguyên tử, proton, hạt nhân nguyên tử, electron, quark, neutrino, v.v. Năm 1982, một nhóm nghiên cứu do Alain Aspect, nhà vật lý học của Đại học Paris dẫn đầu, đã hoàn thành một trong những thí nghiệm khoa học quan trọng nhất của thế kỷ XX. Họ phát hiện ra rằng trong những điều kiện xác định, các hạt (lạp tử) nhỏ hơn nguyên tử, chẳng hạn như electron, có thể câu thông đồng bộ dù chúng ở cách nhau 10 thước (3,333m) hay một tỷ km. Và mỗi lạp tử dường như luôn biết lạp tử khác đang làm gì.

Bởi vì giữa các hạt đồng nhất cấu thành nên mỗi tế bào có sự trao đổi thông tin với nhau, vì vậy nên tình trạng sức khỏe của các cơ quan trong toàn bộ thân thể có thể quan sát được từ tai và lòng bàn chân, và một tế bào não sẽ mang tất cả ký ức. Ví dụ nếu hôm nay dạ dày có tình trạng gì đó thì các lạp tử khác nhau tạo nên tế bào dạ dày như electron, proton, neutron… đều sẽ cảm nhận được tình trạng đó, đồng thời các lạp tử trong toàn cơ thể cũng sẽ biết, cho nên Trung y kích thích lên huyệt vị ở tai tương ứng với dạ dày, nếu cảm thấy đau thì có thể xác định sơ bộ là sức khỏe của dạ dày có vấn đề.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (13): Sơ đồ huyệt vị trên tai và quy luật tín tức toàn thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gáihttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-12-ban-ve-am-duong-chan-doan-sinh-con-trai-con-gai.htmlSat, 05 Oct 2024 02:13:56 +0000https://chanhkien.org/?p=34613Tác giả: Thập Phương [ChanhKien.org] Trong đơn vị tôi vốn có phóng viên kỳ cựu, cả đời ông ấy đã đi khắp các danh sơn đại xuyên của Trung Quốc, đã thấy nhiều cảnh đời, học rộng biết nhiều. Một trong những sở thích của ông là mỗi khi gặp được danh y các nơi, […]

The post Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thập Phương

[ChanhKien.org]

Trong đơn vị tôi vốn có phóng viên kỳ cựu, cả đời ông ấy đã đi khắp các danh sơn đại xuyên của Trung Quốc, đã thấy nhiều cảnh đời, học rộng biết nhiều. Một trong những sở thích của ông là mỗi khi gặp được danh y các nơi, ông đều khiêm tốn xin chỉ bảo. Mười mấy năm qua, ông đã nắm vững rất nhiều thuật chẩn đoán bệnh. Mọi người xung quanh chúng tôi cũng thường tìm đến ông ấy để được giúp đỡ.

Hai mươi năm trước, khi ở Trung Quốc thực hiện chính sách một con, có một thời gian việc sinh con trai hay con gái đã trở thành một vấn đề nhạy cảm và thiết thực. Có một nữ đồng nghiệp lớn tuổi trong đơn vị lấy chồng rất muộn, vì chồng là con một nên muốn sinh con trai, ngay khi biết mình có thai, cô đã chạy đến nhờ người phóng viên đó bắt mạch để xem đó là con trai hay con gái. Lúc đó tôi rất nghi ngờ về tác dụng của việc xem mạch này. Sau vài phút, người phóng viên tự tin nói rằng đó là một cậu bé. Mấy tháng sau, nữ đồng nghiệp quả nhiên đạt được nguyện vọng, vui mừng sinh được quý tử. Có lần tôi tò mò hỏi vị lão ký giả: “Người ta mới có thai, thai chưa lớn, làm sao ông biết được đó là bào thai gì?” Vị ký giả bình tĩnh nói: “Rất đơn giản, nam là dương, nữ là âm. Nếu phụ nữ mang thai có mạch tượng của nam thì cô ấy đang mang thai con trai, còn nếu là mạch tượng của nữ thì cô ấy đang mang thai con gái. Vì vậy có thể biết một cách chính xác và việc bắt mạch cũng dễ dàng”.

Lúc đó tôi cảm thấy lão ký giả là người có bản lĩnh. Những gì người khác qua hóa nghiệm ở bệnh viện mới biết thì ông ấy lại có thể nói rõ ra bằng cách bắt mạch. Nhưng đạo lý trong đó tinh thâm đến mức nào thì tôi chưa từng nghĩ đến. Sau này, khi đã kết hôn và cũng có thai, tôi mới biết mọi chuyện không đơn giản như vậy. Tôi cũng kết hôn muộn và có con muộn, lúc đầu tôi không để ý việc có con trai hay con gái, chỉ muốn chờ đợi một điều ngạc nhiên vui mừng sau này. Tôi không muốn thời gian mỗi lần khám thai kỳ đều phải chờ đợi quá lâu, tâm hiếu kỳ của tôi cũng dần dần mất hẳn. Khi làm siêu âm đen trắng tôi bèn tiện thể hỏi bác sĩ có thể xem là trai hay gái hay không. Bác sĩ không ngờ lại nói, có lúc dễ, có lúc không dễ, cũng không nhất định chính xác. Quả nhiên bác sĩ tìm hồi lâu cũng không thấy gì, anh ấy nói dù thai nhi đã rất lớn nhưng hai chân luôn chặn lại nên không nhìn thấy được. Liên tục cho đến khi đứa bé sắp chào đời thì vì góc độ không đúng nên không thể kiểm tra được nữa.

Cho đến lúc đó tôi vẫn không hề nghi ngờ gì về sự tiên tiến của kỹ thuật Tây Y, mãi cho đến khi một sự việc nhỏ xảy ra tiếp theo, trong đầu tôi mới nảy ra một câu hỏi về Tây Y. Sự việc kỳ thực rất đơn giản: một phụ nữ da trắng cùng buồng sinh được một bé trai, sau khi sự hưng phấn đầy hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ qua đi, họ tiếc nuối nói: “Thật đáng tiếc vì chúng tôi đã chuẩn bị nhiều thứ như thế cho một bé gái, lần nào siêu âm đen trắng bác sĩ cũng nói với chúng tôi rằng đó là con gái, chúng tôi thậm chí còn đặt cả tên cho đứa trẻ”. Tôi bắt đầu cảm thấy mơ hồ, thiết bị kỹ thuật tiên tiến như vậy thậm chí còn không thể xác định được giới tính của thai nhi, còn tệ hơn cả vị phóng viên ở đơn vị chúng tôi, một người thậm chí còn chưa được tính là đổi nghề giữa chừng.

Hôm nay nói một chút về hai khí âm dương của Thái Cực mà tôi đọc được trong sách, tôi không khỏi nghĩ tới câu chuyện của vị ký giả năm đó bắt mạch để xác định giới tính của thai nhi, nếu suy nghĩ kỹ thì không có gì thần bí cả. Đàn ông là khí thuần dương, còn phụ nữ là khí thuần âm, một khi trứng được thụ tinh dương tính thành bào thai trong tử cung, thể thuần dương sẽ biểu hiện nam tính trong mạch đập, đó là điều mà cơ thể thuần âm không nên có, tất nhiên sẽ thể hiện ra mạch của bé trai; mạch của bé gái là âm thêm âm nên mạch của bà bầu vẫn là mạch của phụ nữ và tất nhiên đó là bào thai nữ.

Hơn 2000 năm trước, Hoa Đà đã nhìn thấy một khối u trong não Tào Tháo mà không cần dùng bất kỳ dụng cụ nào, ông lại còn có thể thực hiện phẫu thuật mở hộp sọ để loại bỏ khối u. Lão ký giả của đơn vị chúng tôi đã tranh thủ lúc rảnh rỗi sau giờ làm việc dễ dàng học được hai thủ thuật, khi người phụ nữ mới mang thai, khi y học phương Tây vẫn chưa phân biệt được hình dáng con người, ông ấy đã có thể xác định được giới tính của thai nhi chỉ dựa vào vài ngón tay, đây chẳng phải là tiên tiến sao? Hãy suy nghĩ kỹ xem, chúng ta nên rời bỏ văn hóa Trung Quốc hay nên xem xét lại nền văn minh cổ xưa của Trung Quốc? Liệu chúng ta có nên bỏ gần tìm xa và bỏ qua kho báu mỹ hảo nhất, thần thánh nhất của thế gian con người không?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (12): Bàn về âm dương chẩn đoán sinh con trai con gái first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ýhttps://chanhkien.org/2024/10/man-dam-trung-y-11-sinh-benh-la-thien-y-khoi-benh-cung-la-thien-y.htmlThu, 03 Oct 2024 02:20:52 +0000https://chanhkien.org/?p=34552Tác giả: Hồ Nại Văn [ChanhKien.org] Đôi khi, việc con người mắc bệnh là ý trời, và việc họ khỏi bệnh hay không cũng là ý trời, không phải có thầy thuốc giỏi là có thể trị khỏi bệnh. Sách “Thái Bình quảng ký” đã chọn một câu chuyện từ cuốn “Hội Xương giải di”, […]

The post Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Hồ Nại Văn

[ChanhKien.org]

Đôi khi, việc con người mắc bệnh là ý trời, và việc họ khỏi bệnh hay không cũng là ý trời, không phải có thầy thuốc giỏi là có thể trị khỏi bệnh.

Sách “Thái Bình quảng ký” đã chọn một câu chuyện từ cuốn “Hội Xương giải di”, kể rằng có một người bị bệnh và chữa thế nào cũng không thể khỏi. Để ông ta ngẫu nhiên uống phải một phương thuốc có thể chữa bệnh và thế là ông ta đã khỏi bệnh. Câu chuyện này cũng kể về sự thật rằng có một số người có siêu năng lực, độ chính xác trong việc nhìn nhận sự vật của họ rất khác so với người thường, câu chuyện đại ý như sau:

Có một ông lão gia đình giàu có mắc một căn bệnh khó chữa, cơ thể ngày càng gầy gò, thậm chí không thể ăn uống, mỗi ngày đều phải uống nửa lít máu tươi để sống sót. Già trẻ trong nhà đều lo lắng sợ hãi nên đã bỏ ra rất nhiều tiền để cầu tìm những người giỏi chữa bệnh, nhiều thầy thuốc đã đến, nhưng dù có đãi ngộ rất hậu hĩnh thì việc chữa trị cũng không thu được kết quả.

Có một người đến từ Kiếm Nam, sau hơn mười ngày chẩn đoán và điều trị, ông ta vẫn không tìm ra bệnh, ông ta liền nói với con trai của bệnh nhân: “Tôi chữa bệnh cho mọi người, đã ba đời gia truyền rồi, phàm là chẩn đoán bệnh, đều nhất định phải biết nguồn gốc của bệnh là gì. Bây giờ nhìn bệnh tình của ông cụ, lại hoàn toàn cảm thấy chẳng có chút manh mối nào, có thể là do y thuật của tôi không tinh thông, hoặc có thể bệnh của ông cụ là do tai họa của ông trời giáng xuống phải không? Tuy nhiên, tôi nghe có một vị phủ soái họ Giả là người học rộng tài cao, đồng thời cũng là người có năng lực phi thường. Ông thành thạo về toán quái, toán mệnh và y dược. Anh có thể bỏ ra một số tiền không? Mang đi cho người hầu của phủ soái để biết khi nào ông ta sẽ ra ngoài, có thể cung kính chờ đợi phủ soái đến gặp ông cụ. Hãy để ông ta nhìn thấy, chỉ cần ông ta nói vài lời, thì tôi có cách giúp ông cụ chữa khỏi bệnh”.

Con trai của ông lão đã nghe theo lời khuyên của vị thầy thuốc. Quả nhiên có một ngày, Giả phủ soái ra ngoài đang trên đường vào chùa dâng hương, thấy ông lão liền nhìn chăm chăm một hồi. Khi ông vừa định nói gì đó thì giám quân tới báo cáo công việc.

Vị thầy thuốc này đành phải tin rằng số phận như thế, nên từ bỏ việc chẩn bệnh và rời đi. Ông lão cũng tin vào số phận và nói với con trai của mình: “Bệnh của cha chắc chắn sẽ chết. Bây giờ cha rất buồn bực và không muốn nghe ai nói cả. Con có thể đưa cha đến một nơi có núi sông ở ngoại thành, chỉ cần ba ngày các con đến thăm cha một lần, nếu cha chết, hãy chôn cha ở đó”.

Con trai ông bất đắc dĩ đành chở ông ra ngoại thành, nhìn thấy một tảng đá gần cái hồ, anh đặt cha mình lên đó, khóc lóc thảm thiết rồi quay về. Sau khi con trai đi rồi, ông lão đột nhiên nhìn thấy một con chó màu vàng đi vào hồ, ẩn hiện nhiều lần trong hồ, như thể đang tắm trong đó. Sau khi con chó vàng rời đi, hồ nước đó trở nên thơm ngát. Ông lão khát nước và muốn uống nước, nhưng do sức yếu vô lực nên đành phải bò đến bên hồ. Uống nước hồ xong ông lập tức cảm thấy toàn thân đều dễ chịu. Sau khi uống nước liên tục, thì ông lão có thể ngồi dậy. Khi con trai đến nhìn thấy, rất ngạc nhiên mừng rỡ và đón ông về nhà. Ông lão không những có thể ăn uống mà còn bình phục trong vòng mười ngày.

Một ngày nọ, Giả phủ soái lại đi ra ngoài, khi xe đến chỗ đậu xe mà trước đó ông đã đi qua, ông hỏi thuộc hạ: “Người lần trước ta gặp ở đây có còn ở đó không?” Thuộc hạ báo rằng đã khỏi bệnh rồi.

Giả phủ soái nói: “Bệnh của người này hầu hết các thầy thuốc đều không biết. Thứ mà ông ta mắc phải là “bệnh chấy rận”, trên đời không có loại thuốc nào có thể chữa khỏi, phải lấy một chiếc lược gỗ nghìn năm tuổi, đốt thành tro rồi uống. Nếu không, ông ta phải uống “Hoàng Long dục thủy” (nước tắm Hoàng Long), ngoài ra không còn cách chữa trị nào khác. Các ngươi có biết ông ta đã khỏi bệnh như thế nào không?”

Thuộc hạ đến nhà ông lão để hỏi thăm, ông lão đã kể đầu đuôi ngọn nguồn. Sau khi vị phủ soái biết được điều đó, ông nói: “Đó là Thiên ý để ông ta mắc phải căn bệnh này, cũng là Thiên ý để ông ta tự tìm ra loại thuốc có thể chữa khỏi bệnh, điều này hoàn toàn là do số mệnh của ông ta”. Khi đó mọi người nghe đều khâm phục kiến ​​thức uyên thâm của Giả phủ soái, người thầy thuốc đó nói vị ấy là “dị nhân” cũng không phải là nói suông.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (11): Sinh bệnh là Thiên ý, khỏi bệnh cũng là Thiên ý first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (2)https://chanhkien.org/2024/09/van-minh-5000-nam-dien-mao-chan-thuc-cua-lich-su-nha-duong-mot-trong-ba-dai-thinh-the-thien-trieu-2.htmlMon, 30 Sep 2024 06:14:26 +0000https://chanhkien.org/?p=34525(Từ năm 618 đến năm 907) Tác giả: Tâm Duyên [ChanhKien.org] Thân thế và dị tướng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân Lý Thế Dân là con trai thứ hai của Cao Tổ Lý Uyên. Ông sinh tại Võ Công vào ngày Mậu Ngọ tháng 12 năm Khai Hoàng thứ 18 thời nhà Tùy. […]

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

(Từ năm 618 đến năm 907)

Tác giả: Tâm Duyên

[ChanhKien.org]

Thân thế và dị tướng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân

Lý Thế Dân là con trai thứ hai của Cao Tổ Lý Uyên. Ông sinh tại Võ Công vào ngày Mậu Ngọ tháng 12 năm Khai Hoàng thứ 18 thời nhà Tùy. Lúc sinh ra có nhị long nô đùa trước cổng nhà, ba ngày mới rời đi. Khi Cao Tổ đến Kỳ Châu nhậm chức, Lý Thế Dân chỉ mới bốn tuổi. Có một tiên sinh biết xem tướng bái kiến Cao Tổ rồi thưa rằng: “Ngài là quý nhân, hơn nữa còn có quý tử”. Đến khi nhìn thấy Lý Thế Dân, tiên sinh lại nói: “Dung nhan rồng phượng, tướng mạo hệt mặt trời, đến năm 20 tuổi, ắt có thể tế thế an dân”. Cao Tổ bèn lấy ý “tế thế an dân” đặt tên cho con.

Lý Thế Dân từ nhỏ đã vô cùng thông minh sáng suốt, nhìn xa trông rộng, biết nắm thời cơ và quyết đoán, không câu nệ tiểu tiết, đương thời không ai có thể đoán biết được suy nghĩ của ông.

Lý Thế Dân trợ giúp cha hoàn thành đại nghiệp thống nhất

Vào những năm cuối nhà Tùy, nền chính trị u ám, chiến tranh loạn lạc, dân chúng lầm than.

Lý Thế Dân lúc bấy giờ mới 17 tuổi đã khuyên cha đang trấn thủ ở Thái Nguyên rằng: “Vua nay vô đạo, bách tính khốn cùng, ngoài thành Tấn Dương đều là chiến trường. Đại nhân nếu như thủ tiểu tiết, dưới có khấu đạo, trên có nghiêm hình, thời thời lâm nguy. Chi bằng thuận lòng dân, dấy binh khởi nghĩa, chuyển họa thành phúc, đây cũng là thời cơ mà trời trao cho vậy”. Bị thuyết phục bởi lời này, Lý Uyên đã dấy binh phản Tùy ở Thái Nguyên.

Từ đó Lý Thế Dân vào sinh ra tử, đánh Nam dẹp Bắc, đánh đâu thắng đó không gì cản nổi. Sau cùng đã trợ giúp cha mình là Lý Uyên đăng cơ vào năm 618, và sáng lập ra nhà Đường. Lịch sử nhân loại từ đây bước sang trang sử mới.

Nhằm tiến thêm một bước trong việc hoàn thành đại nghiệp, Lý Thế Dân đã tự mình dẫn binh thảo phạt các thế lực cát cứ các nơi. Đội quân nhà Đường dưới sự dẫn dắt của Lý Thế Dân, trước là đánh bại Tiết Nhân Cảo ở trận Thiển Thủy Nguyên, rồi bình định Lưu Vũ Chu ở vùng Tây Bắc, lại đánh bại Đậu Kiến Đức và hàng phục Vương Thế Sung ở trận Hổ Lao. Tiếp đó, ông dẫn binh thảo phạt Lưu Hắc Thát, chiến thắng trong trận cuối cùng, trong vòng bảy năm đã thống nhất toàn quốc. Đội quân nhà Đường đi đến đâu bách tính nơi đó đều đội hương quỳ hai bên đường nghênh đón, quân và dân trên dưới đều reo mừng. Lý Thế Dân đã thay Lý Uyên ổn định thiên hạ bằng võ nghệ dũng mãnh hơn người cùng những chiến lược giành thắng lợi không thể ngờ đến của mình, và trở thành chủ nhân chân chính của mảnh đất Thần Châu.

Lý Thế Dân thuận theo Thiên ý kế thừa đại nghiệp thống nhất

Sau khi thống nhất thiên hạ, bởi Lý Thế Dân nhiều lần chinh chiến lập nên công trạng, uy danh ngày càng lớn, dẫn đến sự đố kỵ của Thái tử Lý Kiến Thành và Hoàng đệ Lý Nguyên Cát. Lại thêm nhân tố thù hằn của các phi tần hậu cung của Lý Uyên vì không được thỏa mãn đòi hỏi về vàng bạc châu báu, khiến Lý Thế Dân nhiều lần chịu phỉ báng đặt điều, Lý Uyên cũng dần dần sinh ra nghi hoặc đối với Lý Thế Dân. Không lâu sau, Lý Thế Dân bị tước bỏ binh quyền, điều ra khỏi kinh thành, tiếp theo lại liên tục bị điều động chinh chiến khắp nơi, ngoài ra còn bị huynh đệ ruột thịt lừa uống rượu độc, suýt thác hoàng tuyền.

Từ xưa người hợp với đạo nghĩa nên được nhiều người trợ giúp, kẻ trái đạo nghĩa ắt bị cô lập không cứu. Kẻ tiểu nhân nham hiểm, thiên hạ ai cũng đều thấy rõ, ai cũng có thể giết được.

Tháng Sáu năm 626, Kiến Thành và Nguyên Cát mưu đồ trừ bỏ Lý Thế Dân. Sau khi Lý Thế Dân biết được, với sự trợ giúp của anh vợ là Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng các mưu thần và võ tướng, đã dùng sách lược tấn công phủ đầu trước nhằm áp chế đối phương, và phát động “Sự biến Huyền Vũ môn” (có tên vậy vì sự việc xảy ra tại Huyền Vũ môn cửa Bắc cung thành Trường An), giết chết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát. Đây chẳng phải là thuận Thiên ý mà hành sao! Ngày cử hành tang lễ, Lý Thế Dân trước bao người mà “đau xót khóc thương”. Sau này có một số sử học gia gọi “Sự biến Huyền Vũ môn” là “huynh đệ tương tàn, soán quyền đoạt vị”, quả thực là bóp méo lịch sử rồi.

Sau “Sự biến Huyền Vũ môn”, Lý Thế Dân được lập làm Thái tử, và được quyền quyết định hết thảy việc triều chính. Lý Thế Dân do đó đã hạ lệnh cấm việc nuôi dưỡng tay sai trong cung đình, và dừng việc các nơi tiến cống vật phẩm quý hiếm, khiến bách tính khắp thiên hạ vô cùng vui mừng. Ngoài ra, Lý Thế Dân còn hạ lệnh cho bách quan thượng thư trình bày các nhiệm vụ trọng yếu trong việc trị quốc, và ra thông cáo “quan hiệu, tên gọi, văn tự sách tịch thuộc công và tư, và những thứ có hai chữ ‘Thế và Dân’ riêng lẻ, thì không cần húy kỵ”.

Tháng Tám cùng năm, Lý Uyên truyền ngôi vị cho Lý Thế Dân, còn mình làm Thái thượng hoàng. Lý Thế Dân đăng cơ trong sự kỳ vọng của dân chúng, lịch sử gọi là “Đường Thái Tông”, năm sau đổi niên hiệu thành Trinh Quán. Sau vô số đại chiến trên sa trường thời tuổi trẻ, Lý Thế Dân đã bắt đầu cuộc đời trị quốc của mình ở tuổi 28.

Đức chính và thuật trị quốc của Đường Thái Tông

Sau khi lên ngôi, Đường Thái Tông luôn luôn lấy việc nhà Tùy tiêu vong bởi bạo chính làm gương, ông nói: “Bậc thiên tử, nếu là người có đức hạnh thì người trong thiên hạ đều muốn tôn làm quân chủ, nếu là kẻ vô đạo thì sẽ bị người trong thiên hạ bỏ rơi không cần đến nữa, quả là đáng sợ!”

Khác với phần lớn những hoàng đế trước đó, Thái Tông tin tưởng rằng “quân thần tương ngộ, cũng như cá với nước, như thế thiên hạ mới có thể an định được”, vậy nên Đường Thái Tông chủ trương vua và các đại thần cùng quản thiên hạ. Việc tiếp thu can gián và thẳng thắn can gián của vua và các đại thần trong thời kỳ Trinh Quán là điều vô cùng hiếm thấy trong lịch sử, Thái Tông lấy việc Tùy Dạng Đế từ chối can gián che đậy sai trái làm gương, mà khiêm nhường tiếp thu ý kiến, nghe lọt lời can gián, còn các đại thần có thể thẳng thắn khuyên can, ngay nơi triều đình mà thẳng thừng quở trách, Ngụy Trưng – vị gián quan nổi tiếng trong lịch sử chính là xuất hiện vào thời điểm ấy.

Ngoài ra, Đường Thái Tông hết sức thấu hiểu đạo lý người được lòng dân mới được thiên hạ, do vậy đã thực thi nền chính trị nhân từ, áp dụng chính sách bồi dưỡng sức dân, “rời bỏ xa hoa thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ lao dịch thuế má, chọn dùng quan thanh liêm, khiến người dân được cơm no áo ấm”.

Nói tóm lại, phương châm trị vì của Đường Thái Tông có thể quy nạp thành những điểm sau: 1. Đạo làm vua thì trước hết cần bảo vệ bách tính; 2. Thực thi luật pháp khoan hồng, chú trọng tu dưỡng đạo đức; 3. Rời bỏ xa hoa thực hành tiết kiệm, dứt bỏ tư tình hạ mình vì đại nghĩa; 4. Giảm nhẹ lao dịch thuế má, phát triển sản xuất, hồi phục kinh tế; 5. Bao dung người khác và biết lắng nghe can gián, thời thời khắc khắc tự biết phản tỉnh; 6. Tuyển dùng quan thanh liêm. Dưới đây chúng tôi sẽ đưa ra những ví dụ cho mỗi điểm.

Làm vua trước hết cần bảo vệ bách tính

Đường Thái Tông cho rằng “Đạo làm vua thì trước hết cần bảo vệ bách tính, nếu làm tổn hại đến bách tính chỉ để cung phụng bản thân, thì cũng như cắt thịt mình mà ăn cho đầy bụng, bụng no rồi thì thân cũng chẳng còn”. Ông xem quan hệ giữa dân và vua như nước với thuyền, “Thuyền ví như vua, nước ví như dân. Nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền”. Vậy nên, ông cho rằng những hoạn nạn của hoàng đế không phải đến từ bên ngoài, mà chính ở tự thân. Hoàng đế dục vọng nhiều thì phí tổn cao, tiêu pha nhiều thì sưu cao thuế nặng, dân chúng vì thế sẽ khổ sở vô cùng, đất nước sẽ trong nguy hiểm, hoàng đế cũng chẳng còn nữa.

Năm Trinh Quán thứ hai, quanh kinh thành Trường An gặp nạn châu chấu. Một hôm, Đường Thái Tông vào trong vườn Thượng Uyển, nhìn thấy châu chấu liền bắt lấy mấy con, khẩn khoản nói: “Người dân sống nhờ vào ngũ cốc, các ngươi lại ăn hết hoa màu, nay ta thà để các ngươi gặm nhấm tâm can ta”, nói xong định nuốt châu chấu vào bụng, quan viên bên cạnh liền khuyên can: “Thứ không tốt này ăn vào sợ sẽ thành bệnh!” Thái Tông trả lời: “Ta muốn thay người dân chịu nạn, còn sợ bệnh tật gì chứ?” Thế rồi đem châu chấu nuốt vào bụng. Nghe nói năm ấy tuy có châu chấu nhưng không thành họa nạn nữa.

Năm Trinh Quán thứ hai, vùng Quan Nội xảy ra hạn hán và mất mùa, có rất nhiều bách tính phải bán con để đổi lấy thực phẩm và quần áo, Đường Thái Tông không chỉ hạ lệnh mở kho cứu dân, còn lấy vàng bạc lụa là trong kho hoàng gia ra thay người dân bị nạn chuộc lại con cái, và trả về cho cha mẹ của chúng. Ông đã nói trong chiếu thư rằng: “Nếu có thể làm cho mùa màng bội thu, thiên hạ bình an, cho dù tai họa này chuyển lên thân ta, ta cũng can tâm tình nguyện”. Không lâu sau thì trời giáng mưa lớn, xoa dịu hạn hán, bách tính ai nấy đều vui mừng.

Lý Thế Dân sau khi kế vị, trong Tần vương phủ có một số người phàn nàn đã hầu hạ Tần vương bao năm như thế còn chưa được thăng quan. Thái Tông đã nói với họ rằng: “Hoàng đế chỉ có thể lấy đại công vô tư mà khuất phục thiên hạ, cơm áo của ta và các ngươi đều từ dân chúng mà ra, bố trí chức quan và tuyển chọn người hiền làm quan cũng là vì dân chúng, làm sao có thể để thuộc hạ cũ của mình làm quan bất kể họ có tài đức hay không chứ?”

Rời bỏ xa hoa thực hành tiết kiệm

Đường Thái Tông lúc mới lên ngôi, đã nhận thấy rõ được đội ngũ quan liêu quá mức khổng lồ, người nhiều hơn việc, cảm nhận sâu sắc “dân thì ít mà quan lại đông”, như vậy lợi chẳng thấy đâu, hại lại rất nhiều, biểu hiện chủ yếu là: hao phí tài nguyên; chức vụ chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; mưu sĩ quá nhiều, sự việc thường không được giải quyết. Vì thế, Thái Tông tiến hành cải cách bãi bỏ cơ cấu. Kết quả là số huyện thị trong toàn quốc giảm đi một nửa, số châu phủ giảm đi một phần ba. Tể tướng Phòng Huyền Linh tuân theo ý chỉ của Thái Tông, đã thuyên giảm ba phần tư số quan viên văn võ trong triều đình, chỉ còn lại 643 người. Điều khiến các sử gia phải kinh ngạc tán thán là, một cuộc cải cách lớn như vậy mà không gây nên bất kỳ sự xáo trộn và bất an nào trong xã hội, có thể thấy Thái Tông hành sự hết sức thận trọng kỹ lưỡng, bảo đảm chắc chắn không xảy ra sai sót nào cả.

Phát triển sản xuất hồi phục kinh tế

Đường Thái Tông biết rõ, trải qua chiến loạn trong những năm cuối nhà Tùy, bách tính khát khao an định và nghỉ ngơi dưỡng sức, đồng thời Thái Tông cũng sáng suốt ý thức được rằng, người dân sở dĩ phải trộm cướp là vì “thuế má nhiều lao dịch nặng nề, quan lại tham lam, bản thân cơ hàn mà phải thế”, vậy nên đề xướng tôn sùng tiết kiệm và giảm bớt sưu thuế. Sau khi lên ngôi, ông đã cho hơn 3.000 cung nữ xuất cung để tiết kiệm chi phí quốc gia, lại hạ lệnh ngừng việc các nơi tiến cống vật phẩm quý hiếm, giảm nhẹ lao dịch và bớt thuế má, khiến bách tính có thể an cư lạc nghiệp.

Thái Tông cho rằng: “Phàm việc gì cũng đều phải chú trọng vào căn bản. Quốc gia lấy dân làm căn bản, người dân lấy ăn mặc làm căn bản. Lấy hoạt động sản xuất nông nghiệp đúng thời điểm làm căn bản, bảo đảm nhu cầu ăn mặc cơ bản của người dân”, vì thế ông hết sức chú ý đến việc phát triển sản xuất, không để lỡ thời vụ có lợi cho sản xuất. Tháng Hai của năm Trinh Quán thứ năm, các quan lại được điều động làm đội binh danh dự trong Quán lễ (lễ đội mũ cho nam thành niên tròn 20 tuổi) của Thái tử, thời điểm ấy vừa đúng lúc cày bừa vụ xuân, do đó Thái Tông hạ lệnh đổi ngày cử hành vào tháng Mười. Ngoài ra, ông còn chiêu an những người dân lưu vong trở về quê hương sản xuất. Bách tính từ đó an tâm sản xuất, nền kinh tế của nhà Đường cũng bắt đầu hồi phục và phát triển.

Bao dung người khác và biết lắng nghe can gián, thời thời khắc khắc tự biết phản tỉnh

Đường Thái Tông là một đại minh quân, nổi danh vì biết lắng nghe can gián. Thái Tông cho rằng: “Là vua, dù có vô đạo, nhưng biết tiếp thu can gián ắt sẽ là Thánh nhân”, “kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám” (nghĩa là biết lắng nghe ý kiến đa chiều thì mới có thể minh tỏ sự việc, còn chỉ tin lời một chiều, ắt sẽ mờ mịt mà phạm sai lầm mang tính phiến diện), vậy nên ông khuyến khích thần dân tiến hành can gián, tăng thêm quyền hạn của gián quan, hễ chiếu lệnh không thỏa đáng thì phải được tấu trình rõ ràng không được hùa theo. Ví như Ngụy Trưng thích nói thẳng, tuy ông vốn là quan dưới quyền của Thái tử Kiến Thành, nhưng Đường Thái Tông lại không tính đến những hiềm khích trước đây, để ông làm gián quan, cho phép trực tiếp tầm vấn chính sự, hơn nữa còn vô cùng coi trọng ông.

Ngụy Trưng từng dâng sớ mấy chục lần, thẳng thắn vạch lỗi, Thái Tông đều khiêm tốn lắng nghe, rồi chọn lấy cái hay mà làm theo. Sau này khi Ngụy Trưng mất, Thái Tông đau buồn nói: “Người ta lấy đồng làm gương soi, có thể chỉnh đốn mũ áo, diện mạo; lấy lịch sử làm gương, có thể biết hưng suy của triều đại; lấy người làm gương, có thể hiểu rõ tốt xấu của chính mình. Ngụy Trưng chẳng còn, trẫm mất đi một tấm gương rồi”.

Có lần, Thái Tông nói với các đại thần rằng: “Người ta muốn nhìn thấy hình dáng tướng mạo của mình thì phải soi gương, hoàng đế muốn biết lỗi sai của mình thì phải dựa vào trung thần. Nếu hoàng đế từ chối các đại thần can gián còn cho mình là đúng, các đại thần dùng cách a dua nịnh hót mà làm theo ý của hoàng đế, vậy hoàng đế sẽ mất nước, các đại thần cũng không thể tự bảo vệ mình được! Như Ngu Thế Cơ vì để giữ lấy phú quý của bản thân mà dùng cách nịnh bợ hầu hạ Tùy Dạng Đế, Tùy Dạng Đế bị giết, thì Ngu Thế Cơ cũng bị giết vậy. Các khanh nên ghi nhớ giáo huấn ấy, trẫm làm việc gì có phù hợp hay không, các khanh nhất định phải nói ra”.

Khi cất nhắc quan viên ở Dân Trũng, phát hiện ra có một số người giả mạo, Thái Tông định chiểu theo mệnh lệnh đã ban bố mà xử tử bọn họ. Nhưng Binh bộ Lang trung Đới Trụ khuyên can rằng: “Nếu chiểu theo luật pháp thì nên xử họ lưu đày”. Thái Tông nổi giận nói: “Ông muốn tuân thủ luật pháp mà khiến trẫm mất đi danh dự sao?” Đới Trụ trả lời rằng: “Mệnh lệnh của hoàng đế là trong hỉ nộ nhất thời mà truyền xuống, còn luật pháp là do quốc gia công bố để được thiên hạ tín nhiệm. Bệ hạ rất căm hận việc dối trá, bởi thế muốn giết họ, đương nhiên cũng biết nếu chiểu theo luật pháp thì không thể làm vậy. Nếu dùng luật pháp để đo lường thì có thể dung nhẫn cái hận nhỏ bé của mình mà giành được sự tín nhiệm của cả thiên hạ”. Thái Tông nói: “Ông có thể chấp pháp được như thế, trẫm còn phải lo lắng gì nữa đây!” Về sau Đới Trụ còn thẳng thắn can gián mấy lần nữa, thao thao bất tuyệt, Thái Tông đều nghe theo ý kiến của ông, và thiên hạ không còn xảy ra oan sai nào nữa.

Thái Tông không chỉ độ lượng bao dung người khác, mà ông còn luôn tự mình phản tỉnh trong mọi thời khắc. Ông từng nói với các đại thần rằng: “Trẫm đọc ‘Tùy Dạng Đế Tập’, thấy lời lẽ phong phú sâu sắc, Tùy Dạng Đế cũng biết ca ngợi Nghiêu Thuấn và phê phán Kiệt Trụ, vì sao hành sự thì lại ra như thế chứ!” Ngụy Trưng thưa rằng: “Hoàng đế dù có là Thánh nhân đi nữa, cũng nên khiêm tốn tiếp nhận ý kiến của người khác. Như thế, những người thông minh sáng suốt có trí huệ sẽ hiến mưu cho, và người dũng cảm sẽ tận lực dốc sức. Tùy Dạng Đế cậy mình có tài, vô cùng kiêu ngạo ngang ngược và tự cho mình đúng, nói như Nghiêu Thuấn, nhưng làm lại như Kiệt Trụ, vậy mà còn không tự biết, cuối cùng chuốc lấy họa diệt vong”. Thái Tông nói “những chuyện này mới xảy ra chưa được bao lâu, chúng ta phải ghi nhớ bài học giáo huấn này”.

Có lần Thái Tông hỏi Phòng Huyền Linh và Tiêu Vũ rằng: “Tùy Văn Đế so với trẫm thì như thế nào?” Phòng Huyền Linh và Tiêu Vũ đáp rằng: “Tùy Văn Đế cần mẫn với triều chính, ông cùng các quan ngũ phẩm trở lên thảo luận việc triều chính, đến giờ cơm thì đều là vệ sĩ đưa cơm. Tuy rằng tâm tính của ông không thể nói là nhân hậu, nhưng cũng là một hoàng đế chăm chỉ vậy”. Thái Tông nói: “Các khanh chỉ biết một mà không biết hai. Tùy Văn Đế rất nhiều việc không hiểu rõ nhưng lại luôn muốn làm cho rõ. Không hiểu rõ thì có chỗ suy xét không đến nơi, luôn muốn làm cho rõ thì tất sẽ đa nghi. Việc gì cũng đều tự quyết, mà không dựa vào các đại thần. Thiên hạ lớn nhường ấy, sự tình nhiều như vậy, có mệt chết cũng không xử lý tốt được hết! Các đại thần hiểu thói quen của Tùy Văn Đế, nên chỉ chờ kết quả, dù trong lòng có chỗ không đồng tình, cũng không dám can gián, vậy nên nhà Tùy qua hai đời thì đã diệt vong. Nhưng trẫm thì không như vậy. Trẫm tìm nhân tài trong thiên hạ rồi ban chức quan, để họ xử lý việc trong thiên hạ, và trẫm chỉ việc nghe báo cáo, làm được tốt thì khen thưởng, làm không tốt thì xử phạt, ai mà không tận tâm tận lực kia chứ! Như thế thì đâu phải lo lắng việc thiên hạ quản lý không được tốt nữa”.

Thái Tông nói với các đại thần rằng: “Người ta nói hoàng đế địa vị tôn quý, chẳng phải sợ chi. Trẫm lại không phải vậy, trẫm trên thì lo sợ trời xanh soi xét, dưới thì e sợ các đại thần ngưỡng vọng, làm gì cũng cần thận trọng dè dặt, còn sợ không phù hợp Thiên ý và nguyện vọng của dân chúng nữa”.

Thái Tông còn nói: “Điều mà trẫm thích thì chỉ có đạo trị quốc của Nghiêu, Thuấn, Chu Công và Khổng Tử, những thứ ấy đối với ta như thể chim thêm cánh, như cá gặp nước, mất đi những thứ ấy thì chẳng còn gì nữa, một khắc cũng không thể thiếu”.

Áp dụng luật pháp khoan hồng và hoàn thiện

Vào thời Cao Tổ, rút kinh nghiệm từ việc Tùy Dạng Đế thi hành luật pháp rườm rà nghiêm khắc dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, ông đã bắt đầu chế định luật pháp mới, đồng thời vào năm 624 đã ban bố “Võ Đức luật” lấy khoan hồng làm nguyên tắc. Sau khi Đường Thái Tông lên ngôi, đã tiếp thu ý kiến của Ngụy Trưng, xác lập tôn chỉ khoan hậu nhân từ, thận trọng trong dùng hình phạt, đồng thời lệnh cho Trưởng Tôn Vô Kỵ và Phòng Huyền Linh chỉnh lý luật pháp, vào năm Trinh Quán thứ 10, tức năm 637 đã chính thức công bố “Đường Luật” với 500 điều, nội dung cơ bản gồm có danh lệ, vệ cấm, chức chế, hộ hôn, cứu khố, thiện hưng, tặc đạo, đấu tụng, tạp luật, bổ vong, đoạn ngục v.v.

Lấy mục tử hình làm thí dụ, thì thấy so với luật pháp nhà Tùy gần như đã lược giảm đi một nửa, còn khoan hồng hơn cả “Võ Đức luật”, điều 92 giảm trảm hình thành lưu đày, điều 71 giảm lưu đày thành tù đày, còn bãi bỏ các loại nhục hình, khổ hình như đánh vào lưng, bẻ ngón chân… Luật xử án quy định, với tội tù đày trở lên sau khi xử án kết thúc nếu người phạm tội không phục, thì có thể đề xuất tái thẩm, với tội chết phải qua ba lần tấu trình, và sau ba ngày mới được thực hiện.

Thái Tông cho rằng việc coi trọng đức hạnh còn quan trọng hơn chế định luật pháp nghiêm khắc. Có lần ông đã hỏi quan đại thần Vương Khuê rằng: “Các bậc trị quốc thời gần đây không được như thời xưa là vì sao? Vương Khuê trả lời: “Nhà Hán tôn sùng học thuyết Nho gia, phong tục dân gian thuần hậu; thời gần đây coi nhẹ Nho học, coi trọng luật pháp, vậy nên quốc gia càng ngày càng suy bại”. Thái Tông tỏ ra đồng ý với cách giải thích này.

Hữu kiêu vệ Đại tướng quân Trưởng Tôn Thuận Đức đã nhận lụa người ta đút lót, Thái Tông sau khi biết được đã nói: “Nhân tài như Thuận Đức nếu có ích cho đất nước, trẫm có thể cùng ông ấy chia sẻ của cải quốc gia, ông ấy hà tất phải tham luyến tài vật như vậy!” Thái Tông quý tiếc ông ấy là người có công với nước, nên không trị tội, hơn nữa còn ban thưởng cho ông mười xếp lụa. Đại Lý Thiếu khanh Hồ Diễn nói: “Thuận Đức vi phạm luật pháp vì nhận của cải, vốn không nên miễn tội, vậy sao còn ban thưởng cho ông ta?” Thái Tông trả lời: “Nếu ông ấy là người có nhân tính, thì việc nhận ban thưởng còn khuất nhục hơn cả việc chịu hình phạt; còn nếu ông ta không biết hổ thẹn, chẳng khác gì cầm thú, thì giết ông ta còn có ích gì đây!”

Tuyển dùng quan thanh liêm

Ở phương diện tuyển dùng nhân tài, Đường Thái Tông dẹp bỏ chế độ môn đệ, lệnh cho Cao Sĩ Liêm tuyển “Sĩ Tộc Chí”, lấy “lập công, lập đức, lập ngôn” làm tiêu chuẩn, đánh giá lại từ đầu các sĩ tộc, người không có công đức thì nhất loạt bỏ tên. Tức là chú ý chiểu theo tiêu chuẩn “tài hạnh kiêm bị” (vừa có tài vừa có đức) để tuyển dùng quan viên, không vấn xuất thân, không kể ân oán, trong các văn võ đại thần nổi tiếng, có Ngụy Trưng từng là đạo sỹ, Uất Trì Cung từng làm thợ rèn, Trương Lương xuất thân nông dân. Ngụy Trưng nguyên là bề tôi cũ của Thái tử Kiến Thành, từng mưu hoạch ám hại Thái Tông, Lý Tịnh, Uất Trì Cung là tướng đầu hàng, nhưng đều được trọng dụng. Ông còn dựa trên cơ sở chế độ khoa cử của nhà Tùy tiến hành hoàn thiện hơn nữa chế độ tuyển chọn quan viên, dùng khoa cử thay thế chế độ môn đệ, phá bỏ thiên kiến môn phiệt, khiến những kẻ sĩ xuất thân bần cùng có cơ hội tiến thân làm quan.

Thái Tông còn đưa ra bốn yêu cầu cho các quan viên có “phẩm vị”, gọi là “tứ Thiện”, tức là đức cao vọng trọng; thanh liêm cẩn thận; phán đoán công bằng; chăm chỉ không giải đãi. Ngoài “tứ Thiện” còn có “27 Tối”, “27 Tối” này là những yêu cầu có tính nhắm thẳng đối với từng bộ phận, ví như, “Tối” của quan giám sát là gạn đục khơi trong (gạt bỏ thứ xấu biểu dương cái tốt), khen chê tương xứng. “Tối” của quan thẩm phán là quyết đoán không trì trệ, và phán quyết hợp lý… “27 Tối” là lập chế ban đầu của thời kỳ Trinh Quán, mỗi người đều chiểu theo yêu cầu của Thái Tông mà làm, tận tâm tận tụy. Thái Tông lại dùng tám chữ “cư quan siểm trá tham hỗn hữu trạng” (làm quan mà bị tố nịnh bợ, dối trá, tham ô, bừa bãi) để phán định đức hạnh của những quan liêu thuộc diện “hạ hạ đẳng”.

Năm Trinh Quán thứ 11 (năm 637), Thị ngự sử Mã Chu dâng sớ rằng “Trị lí thiên hạ phải lấy dân làm gốc. Muốn làm cho bách tính an lạc, duy chỉ có chọn ra người thích hợp làm Thứ sử, Huyện lệnh mà thôi”. Thái Tông rất tán thành, và kiên quyết đích thân lựa chọn Thứ sử. Ông còn tự mình ghi tên của các Thứ sử, Đô đốc trên bình phong trong cung, đồng thời ghi nhớ công lao và lỗi lầm của họ để dùng vào việc thăng quan hay giáng chức. Ngoài ra còn cử Lý Tịnh làm đại sứ truất trắc (giáng và thăng quan), tuần tra công tác chính sự toàn quốc, khảo sát việc quan lại siêng năng hay lười biếng.

Trong vấn đề quan lại tham ô, Đường Thái Tông ngoài việc sử dụng hình phạt ra, chính là muốn khiến các đại thần tự đáy lòng hiểu rõ “Tham” kỳ thực là một hành vi ngu xuẩn. Ông đưa ra một vài thí dụ cho các đại thần rằng: “Từng có Tần Huệ Công muốn chinh phạt nước Thục, nhưng không biết đường đi, do đó đã cho khắc năm con trâu đá, rồi đặt một tấm vàng sau đuôi mỗi con. Người Thục cho là trâu đi phân vàng, vội vàng kéo trâu vào vùng đất của mình, quân Tần lần theo dấu vết trên mặt đất, sau đó tiêu diệt được nước Thục”.

Thái Tông còn nhắc nhở các đại thần rằng: “Chim đậu trên cây, hãy còn sợ cây không cao, cho nên xây tổ trên ngọn. Cá ẩn trong nước, hãy còn sợ nước không sâu, cho nên nấp trong hang dưới lòng sông. Thế nhưng cả hai đều bị con người bắt được, nguyên nhân chỉ tại tham ăn mồi nhử mà thôi. Vậy nên các khanh chớ lấy thân mình kiểm nghiệm luật pháp!”

Để nắm được tình hình các quan nhận hối lộ, Thái Tông đã bí mật cử người đóng giả người hối lộ nhằm thăm dò họ. Có một Ty môn Lệnh sử đã nhận một xếp lụa, Thái Tông định giết vị quan nhận hối lộ này. Dân bộ Thượng thư Bùi Củ khuyên can rằng: “Làm quan mà nhận hối lộ, quả đúng phạm tội chết. Tuy nhiên bệ hạ cử người đi hối lộ, thiết pháp còn khiến người ta rơi vào pháp võng, cũng không phù hợp với cổ huấn là ‘dùng đức để lãnh đạo, dùng lễ để ước thúc’”. Thái Tông nghe xong lấy làm cao hứng, bèn nói với bách quan văn võ rằng “Bùi Củ làm quan có thể dốc sức bảo vệ lý lẽ, không vì ở trước mặt hoàng đế mà a dua hùa theo. Nếu việc gì cũng đều như vậy, hà tất còn lo việc trị quốc không được tốt nữa sao?”

Có lần, trong dân có người dâng thư xin trừ bỏ nịnh thần. Thái Tông đã hỏi “ai là nịnh thần vậy?” Người dâng thư trả lời “Hoàng đế có thể vờ tức giận thử xem, người dốc sức bảo vệ lý lẽ là quan chính trực, còn kẻ sợ sệt uy nghiêm của hoàng đế mà hùa theo thì là nịnh thần”. Thái Tông nói: “Hoàng đế là ngọn nguồn của dòng sông, các đại thần là dòng chảy của sông, ngọn nguồn vẩn đục rồi còn muốn dòng sông trong sạch, có thể chăng. Trẫm dùng thủ đoạn lừa gạt, thì làm sao có thể đòi hỏi các đại thần ngay thẳng đây? Trẫm dùng lòng thành cai quản thiên hạ, luôn cảm thấy hổ thẹn về các hoàng đế ưa dùng mưu quyền đối với các đại thần trước đây. Kế sách của ông tuy hay, nhưng trẫm cũng không muốn dùng đến”.

Trong thời kỳ trị vì của Đường Thái Tông, các đại thần có bổng lộc cao, hơn nữa phần lớn đều liêm khiết và tuân thủ luật pháp, vậy nên nền chính trị vô cùng trong sạch.

Với các phương châm thống trị nêu trên, cùng sự phò tá của nhiều đại thần giỏi, Đường Thái Tông đã dựng nên một thời kỳ thái bình thịnh thế kéo dài gần 30 năm, chính là thời kỳ Trinh Quán chi trị (từ năm 627 đến năm 649).

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/29147

The post Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (60)https://chanhkien.org/2024/09/tai-lieu-giang-day-van-hoa-so-cap-thien-tu-van-60.htmlSun, 29 Sep 2024 02:39:25 +0000https://chanhkien.org/?p=34514Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến [ChanhKien.org] Nguyên văn: 束帶矜莊,徘徊瞻眺。 孤陋寡聞,愚蒙等誚。 謂語助者,焉哉乎也。 Bính âm: 束(shù) 帶(dài) 矜(jīn) 莊(zhuāng), 徘(pái) 徊(huái) 瞻(zhān) 眺(tiào)。 孤(gū) 陋(lòu) 寡(guǎ) 聞(wén), 愚(yú) 蒙(méng) 等(děng) 誚(qiào)。 謂(wèi) 語(yǔ) 助(zhù) 者(zhě), 焉(yān) 哉(zāi) 乎(hū) 也(yě)。 Chú âm: 束(ㄕㄨˋ)帶(ㄉㄞˋ)矜(ㄐㄧㄣ)莊(ㄓㄨㄤ), 徘(ㄆㄞˊ)徊(ㄏㄨㄞˊ)瞻(ㄓㄢ)眺(ㄊㄧㄠˋ)。 孤(ㄍㄨ)陋(ㄌㄡˋ)寡(ㄍㄨㄚˇ)聞(ㄨㄣˊ), 愚(ㄩˊ)蒙(ㄇㄥˊ)等(ㄉㄥˇ)誚(ㄑㄧㄠˋ)。 謂(ㄨㄟˋ)語(ㄩˇ)助(ㄓㄨˋ)者(ㄓㄜˇ), 焉(ㄧㄢ)哉(ㄗㄞ)乎(ㄏㄨ)也(ㄧㄝˇ)。 Âm Hán Việt: Thúc […]

The post Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (60) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Ban biên tập Tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

[ChanhKien.org]

Nguyên văn:

束帶矜莊,徘徊瞻眺。

孤陋寡聞,愚蒙等誚。

謂語助者,焉哉乎也。

Bính âm:

束(shù) 帶(dài) 矜(jīn) 莊(zhuāng),

徘(pái) 徊(huái) 瞻(zhān) 眺(tiào)。

孤(gū) 陋(lòu) 寡(guǎ) 聞(wén),

愚(yú) 蒙(méng) 等(děng) 誚(qiào)。

謂(wèi) 語(yǔ) 助(zhù) 者(zhě),

焉(yān) 哉(zāi) 乎(hū) 也(yě)。

Chú âm:

束(ㄕㄨˋ)帶(ㄉㄞˋ)矜(ㄐㄧㄣ)莊(ㄓㄨㄤ),

徘(ㄆㄞˊ)徊(ㄏㄨㄞˊ)瞻(ㄓㄢ)眺(ㄊㄧㄠˋ)。

孤(ㄍㄨ)陋(ㄌㄡˋ)寡(ㄍㄨㄚˇ)聞(ㄨㄣˊ),

愚(ㄩˊ)蒙(ㄇㄥˊ)等(ㄉㄥˇ)誚(ㄑㄧㄠˋ)。

謂(ㄨㄟˋ)語(ㄩˇ)助(ㄓㄨˋ)者(ㄓㄜˇ),

焉(ㄧㄢ)哉(ㄗㄞ)乎(ㄏㄨ)也(ㄧㄝˇ)。

Âm Hán Việt:

Thúc đới quan trang,

Bồi hồi chiêm diểu.

Cô lậu quả văn,

Ngu mông đẳng tiếu.

Vị ngữ trợ giả,

Yên tai hồ dã.

Giải thích:

1. Nghĩa của chữ:

Quan (矜): cẩn thận.

Trang (莊): nghiêm túc.

Tiếu (誚): chế nhạo.

Vị (謂): gọi là.

2. Nghĩa của từ:

Thúc đới (束帶): chỉnh đốn trang phục.

Quan trang (矜莊): thái độ cần cẩn thận trang trọng.

Bồi hồi (徘徊): dáng vẻ đi tới đi lui, ví với việc lưu luyến không nỡ rời đi.

Chiêm diểu (瞻眺): phóng tầm mắt ra xa về phía trước.

Cô lậu quả văn (孤陋寡聞): ví với một người có học thức nông cạn.

Ngu mông (愚蒙): ngu muội vô tri.

Ngữ trợ (語助): trợ từ ngữ khí, dùng để bổ trợ câu văn, truyền đạt ngữ khí.

Lời dịch tham khảo

Khi các quan đại thần phải thượng triều tấn kiến nhà vua, thì y phục phải long trọng chỉn chu, và thái độ cần trang trọng cẩn thận. Khi thoái triều, thì phải lưu luyến không nỡ rời đi, liên tục ngoảnh đầu nhìn lại, để thể hiện sự ngưỡng mộ đối với sự uy nghi của vua.

Kẻ hèn có học thức nông cạn, hiểu biết nghèo nàn, đến kẻ ngu muội xem cuốn “Thiên tự văn” này rồi cũng sẽ chỉ trích, chế nhạo tôi, huống chi là các vị đây chứ?

Những trợ từ thường được nói đến cũng chính là những từ giúp tăng ngữ khí trong câu, có Yên (焉), Tai (哉), Hồ (乎), Dã (也) thông thường được đặt ở cuối câu, chủ yếu dùng để gia tăng ngữ khí, mà không có ý nghĩa thực sự nào cả.

Câu chuyện văn tự

Trang (莊): Thạch văn viết là “” khá giống với cách viết trong Tiểu triện “”, đều là do bộ Thảo (艹) và chữ Tráng (壯) ghép thành, nghĩa gốc là đám cỏ tươi tốt. Chữ Tráng (壯) có ý nghĩa là to lớn, vậy nên Trang (莊) chính là chỉ nơi có thảm cỏ xanh.

Cô (孤): trong Tiểu triện viết là “”, Lệ thư viết là “”, đều là do bộ Tử (子) và Qua (瓜) ghép thành, Qua (瓜) là loài dây leo, tuy có nhiều quả nhưng lại đều nằm đơn lẻ dưới kẽ lá, vậy nên kéo theo một nghĩa nữa là cô đơn. Cô (孤) có nghĩa gốc là chỉ đứa trẻ từ nhỏ đã không còn cha, đứa trẻ không có cha thường khóc hu hu, vậy nên chữ Cô (孤) có Qua (瓜) biểu âm.

Văn (聞): Giáp cốt văn viết là “ ”, hình dáng chữ trông giống như một người đang kéo dài tai nín thở lắng nghe vậy, cách viết thứ nhất trong Kim văn “” khá giống cách viết trong Giáp cốt văn. Nhưng cách viết thứ hai trong Kim văn là “” lại khá giống cách viết trong Tiểu triện “”, đã có thể nhìn rõ ra là do bộ Môn (門) và Nhĩ (耳) ghép thành, nghĩa gốc của nó là nghe và nhận biết âm thanh, mà bộ Môn (門) trong chữ Văn (聞) đại biểu cho lối ra vào, ý nghĩa là âm thanh phải đi vào huyệt nhĩ môn sau đó mới có thể phân biệt được âm thanh.

Suy ngẫm và thảo luận

Chu Tử kính thận uy nghi

Chu Hi, tự là Phù Hối, hiệu là Hối Am, ông là một học giả và nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, hậu nhân gọi ông là “Chu Tử”.

Chu Hi là người lễ độ thận trọng, ngay cả trong cuộc sống thường ngày, ông cũng hết sức chú trọng đến tướng mạo cử chỉ và sự uy nghi của mình. Ông thường khi ở nhà, lúc trời còn chưa sáng đã thức dậy, mặc y phục giày nón xong, thì đến kính bái trước thần vị của tiên thánh và gia đình, sau đó lại trở về thư phòng của mình. Chiếc bàn làm việc trong thư phòng của ông luôn được đặt ngay ngắn, thư sách và đồ dùng cũng được bày xếp gọn gàng ngăn nắp.

Quan sát tướng mạo cử chỉ hàng ngày của Chu Hi, thì không hề có chuyện không đúng lễ nghi. Biểu hiện đối với sự uy nghi và tướng mạo cử chỉ của ông, là cả cuộc đời chưa có khi nào buông lơi cả, luôn lấy thái độ “kính thận” yêu cầu bản thân.

“Kính thận” là ý nói phải cung kính cẩn thận; uy nghi là chỉ dáng vẻ cử chỉ trang trọng. Nhằm để quy phạm hành vi cử chỉ của mỗi người, trong những kinh điển truyền thống có cách nói “Lễ nghi tam bách, uy nghi tam thiên” (tức là lễ nghi có ba trăm, uy nghi có ba ngàn). Một người từ thuở thơ ấu đã phải bắt đầu học những quy phạm lễ nghi cần tuân thủ, từ “trạm lập tọa ngọa” (đứng ngồi nằm) đến những việc chi tiết trong cuộc sống hàng ngày đều có những yêu cầu vô cùng rõ ràng minh xác.

Do vậy một người ngoài việc không ngừng gia tăng phẩm giá đức hạnh của bản thân, bề ngoài còn phải ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, khiến ngôn hành và cử chỉ, tướng mạo của bản thân phù hợp với lễ tiết cũng là hết sức quan trọng, như thế mới có thể được người khác tôn trọng, đồng thời cũng là một loại thể hiện của tu dưỡng nữa đó.

(1) Khi thấy ngôn hành cử chỉ của một người phù hợp với lễ tiết, hành vi biểu hiện ra sự cung kính cẩn thận, thì bạn sẽ nhìn nhận thế nào về người ấy?

(2) Đối với hành vi trong cuộc sống hàng ngày của bản thân, cần có yêu cầu thế nào mới được xem là biểu hiện của “cung kính cẩn thận”? Hãy đưa ra ví dụ xem nhé.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/44973

The post Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp: Thiên Tự Văn (60) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cách người xưa đối đãi với phúc và họahttps://chanhkien.org/2024/09/cach-nguoi-xua-doi-dai-voi-phuc-va-hoa.htmlSat, 28 Sep 2024 02:16:30 +0000https://chanhkien.org/?p=34510Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Người Trung Quốc thường nói: “Cuộc sống mười phần thì có tám, chín phần là không như ý”. Vì vậy, gặp phải tai họa là điều khó tránh khỏi, nhưng tất nhiên cũng sẽ gặp được chuyện thuận lợi. Cách người xưa đối đãi với phúc và họa […]

The post Cách người xưa đối đãi với phúc và họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Người Trung Quốc thường nói: “Cuộc sống mười phần thì có tám, chín phần là không như ý”. Vì vậy, gặp phải tai họa là điều khó tránh khỏi, nhưng tất nhiên cũng sẽ gặp được chuyện thuận lợi. Cách người xưa đối đãi với phúc và họa rất khác với cách ngày nay của chúng ta.

Sách cổ “Cách ngôn liên bích – Trì cung loại” viết: “Họa đáo hưu sầu, dã yếu hội cứu. Phúc lai hưu hỉ, dã yếu hội thụ”. Có nghĩa là khi gặp tai họa, không nên chỉ ưu sầu mà cần nghĩ biện pháp tự cứu mình; và khi hạnh phúc đến, cũng đừng vui mừng quá mức mà hãy tận hưởng phúc phận.

Người xưa muốn nói với chúng ta rằng đối đãi với tai họa trước mắt không nên nhụt chí, đối đãi với phúc phận trước mắt cũng không nên tự cuồng. Thôi thị, mẫu thân nhà thơ Vương Duy thời Đường là một người rất phi thường. Trượng phu mất khi bà còn trẻ, Thôi thị một mình nuôi nấng Vương Duy cùng những người con khác. Tuy họ sống trong một đại gia tộc nhưng áp lực rất lớn.

Khi gặp phải những biến cố lớn, để có thể bình tĩnh giải quyết sự việc thật không hề dễ dàng. Tất nhiên, điều này chủ yếu là do bản thân Thôi thị tín phụng Phật Pháp và coi nhẹ những chuyện thế gian. Về sau, khi Vương Duy đỗ Trạng nguyên, bà cũng không vui mừng như người khác, đối với phúc phận trước mắt, trái lại bà khuyên Vương Duy nên xem nhẹ một chút.

Đối đãi với tai họa và phúc phận trước mắt, mẫu thân của Vương Duy là người rất phi thường, bà xem nhẹ như mây trôi nước chảy. Chúng ta đều biết rằng Vương Duy cũng tín phụng Phật Pháp và ông đã để lại rất nhiều bài thơ liên quan đến tu Đạo trong lịch sử. Điều này có lẽ có quan hệ rất lớn đến những lời giáo huấn của mẫu thân ông.

Nhiều người trong lịch sử đã trải qua những biến cố rất lớn. Cả cuộc đời Tô Đông Pha dường như bị giáng chức, nếm trải những ngọt bùi, cay đắng trong nhân thế. Nhưng ngược lại, chính những sự việc đó càng khiến ông trở nên lạc quan và độ lượng hơn. Đây có lẽ là liên quan đến tiền kiếp của ông. Người ta nói rằng kiếp trước ông là một vị hòa thượng nên suốt kiếp này có thể coi như ông đi vân du.

Phúc họa đến trước mắt nhưng không cao ngạo, không xao động và xem nhẹ mọi thứ. Đây chính là phẩm chất cơ bản mà con người nên có.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/292352

The post Cách người xưa đối đãi với phúc và họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đạihttps://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-10-phuong-phap-tri-benh-cua-trung-quoc-co-dai.htmlSat, 28 Sep 2024 02:16:23 +0000https://chanhkien.org/?p=34511Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] Việc chẩn đoán bệnh ở Trung Quốc cổ đại là thông qua vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi), thiết (sờ, xem), nhưng đó không chỉ là sự kết hợp của tứ chẩn mà là sự phân chia các tầng thứ khả năng chẩn đoán, cảnh giới cao nhất là […]

The post Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

Việc chẩn đoán bệnh ở Trung Quốc cổ đại là thông qua vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi), thiết (sờ, xem), nhưng đó không chỉ là sự kết hợp của tứ chẩn mà là sự phân chia các tầng thứ khả năng chẩn đoán, cảnh giới cao nhất là vọng và cảnh giới thấp nhất là thiết mạch (bắt mạch); cùng với việc đạo đức của nhân loại tuột dốc, khả năng của tự thân con người cũng ngày càng ít đi. Hoa Đà thời đó có thể thấy trong não Tào Tháo có khối u, các bác sỹ ngày nay chỉ có thể dựa vào thiết bị để chẩn đoán bệnh, bản năng của con người hầu như đã mất đi hết, thậm chí có vị chủ nhiệm khoa Trung y của một bệnh viện nói rằng bắt mạch chỉ là cách lừa gạt bệnh nhân, chứ không thể chẩn đoán ra bệnh.

Việc chẩn đoán bệnh thời cổ đại chủ yếu là xem xét một số vật chất trong cơ thể con người tăng hay giảm ở các không gian khác và những thay đổi về tính chất và trạng thái của chúng; cái gọi là hàn và nhiệt, hư và thực, ngoại và nội, âm và dương là chỉ về những đặc tính của cơ thể con người ở các không gian khác.

Thuốc ở thời Trung Quốc cổ đại được phân thành thuốc thực vật, thuốc động vật, thuốc kim thạch, nước v.v., hầu hết mọi thứ trong thế giới tự nhiên đều có thể được dùng để làm thuốc. Việc nhận biết về thuốc của người cổ đại cũng là nhìn vào đặc tính của thuốc ở các không gian khác.

Qua những phân tích trên có thể thấy, nếu muốn sử dụng các phương pháp trị bệnh cổ xưa của Trung Quốc thì phải tu luyện bản thân mới có khả năng nắm bắt được đặc tính của vạn sự vạn vật trong giới tự nhiên, mới có thể chẩn đoán bệnh chính xác và sử dụng thuốc chính xác đối với bệnh tật, mới có thể trở thành thầy thuốc cao siêu.

Vào thời Trung Quốc cổ đại, phương pháp tu luyện có rất nhiều, chỉ cần tu luyện sẽ có năng lực và có thể trị bệnh, vì vậy vào thời cổ đại có rất nhiều hòa thượng, đạo sỹ và văn nhân mặc khách đều có thể trị bệnh, đều tinh thông về y học, bói toán và chiêm tinh. Văn hóa Trung Hoa cổ đại là sự thể hiện và tổng hợp của rất nhiều phương pháp và tầng thứ tu luyện khác nhau. Toàn bộ xã hội đều có bầu không khí như vậy cho nên nó có vẻ thần bí đối với người hiện đại.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung y (10): Phương pháp trị bệnh của Trung Quốc cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần thượng)https://chanhkien.org/2024/09/duong-dien-chieu-truyen-ky-ngu-lang-xuong-nui-pha-quan-lieu-phan-thuong.htmlFri, 27 Sep 2024 03:35:46 +0000https://chanhkien.org/?p=34476Tác giả: Ngưỡng Nhạc [ChanhKien.org] Dương Diên Chiêu truyền kỳ – Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu. Tranh minh họa: Thanh Ngọc/The Epoch Times Theo Tống sử, Dương Diên Chiêu là một trong những danh tướng kháng Liêu của triều Bắc Tống. Ông trấn thủ miền biên ải hơn 20 năm, khiến cho người […]

The post Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần thượng) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngưỡng Nhạc

[ChanhKien.org]

Dương Diên Chiêu truyền kỳ – Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu. Tranh minh họa: Thanh Ngọc/The Epoch Times

Theo Tống sử, Dương Diên Chiêu là một trong những danh tướng kháng Liêu của triều Bắc Tống. Ông trấn thủ miền biên ải hơn 20 năm, khiến cho người Liêu (hay còn gọi là người Khiết Đan) mười phần khiếp sợ. Người Liêu cho rằng Sao Lục Lang (tướng tinh) là khắc tinh của họ, mà Dương Diên Chiêu lại trí dũng thiện chiến như Sao Lục Lang hạ phàm, nên người đời cũng gọi ông là “Dương Lục Lang”. Những câu chuyện được cải biên từ lòng trung nghĩa của Dương Diên Chiêu và phủ Thiên Ba của Dương gia tướng bảo gia vệ quốc, ở thời nhà Nguyên đã có đủ loại phiên bản được đưa vào hí khúc, tiểu thuyết và bình thư (một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ), được lưu truyền rộng rãi và nhận được nhiều sự yêu mến của quần chúng. Trong loạt bài “Dương Diên Chiêu truyền kỳ” này, tác giả xin được phép thuật lại những câu chuyện tuyển chọn được lưu truyền trong dân gian, những mong cùng độc giả thưởng thức những câu chuyện đã lưu truyền ngàn năm của bậc anh hùng Dương Lục Lang. Ngũ Lang Dương Diên Đức là một trong những nhân vật mang sắc thái truyền kì nhiều nhất trong các tướng sĩ Dương gia. Trong số các huynh đệ thì năng lực hành quân bày trận của ông là nổi bật nhất, vậy nên khi ra trận, cha ông là Dương Nghiệp đều để ông làm vị trí phó soái. Truyền thuyết kể rằng sau chiến dịch bãi cát vàng, ông đến Ngũ Đài Sơn xuất gia làm hòa thượng, nhưng vẫn tổ chức tăng đoàn biết võ nghệ để bảo vệ dân chúng chống lại quân Liêu. Vì vậy triều đình phong cho ông làm Đại Đức Thiện Sư. Quá trình ông xuất gia lên núi tới khi dẫn quân chống Liêu, cũng lưu truyền lại một câu chuyện dài kỳ với nhiều tình tiết ẩn chứa trong đó…

Yêu tăng bày trận, quân Tống khổ chiến

Nước Liêu liên tục mấy năm liền tấn công Tam Quan, nhưng đều nhận phải thất bại. Vì thế Tiêu Thái Hậu cho phát thông báo khắp thiên hạ tìm dũng sĩ phá Tống. Lúc ấy có một tăng nhân tự xưng là Thổ Hành Tăng (tục danh là Bạch Thiên Tổ) đến tự tiến cử. Người này mày rậm mắt to, lưng hùm vai gấu, không chỉ có sức mạnh lớn vô cùng mà còn giỏi bày trận, sử dụng tà thuật yêu pháp. Thái hậu thấy hắn thể hiện bản sự xong rất vui mừng, phá cách phong cho hắn làm đại tướng quân nắm binh mã, còn nói nếu hắn có thể đánh bại Dương Diên Chiêu đoạt được Tam Quan, thì sẽ thưởng vạn quan vàng và phong cho hắn làm vương hầu.

Sau khi Thổ Hành Tăng nhận lệnh, đem theo năm vạn đại quân đến một thôn làng ở phía Bắc của Tam Quan lập trại. Hắn ta vẽ xong trận đồ, rồi lệnh cho tướng sĩ quân Liêu theo trận đồ mà đào hang, xây tiểu tháp, phòng ốc, mở đường bí mật. Cứ như vậy thi công trong mấy tháng trời, cuối cùng hoàn thành một trận địa trông như mê cung. Bố trí xong, hắn dẫn theo đại quân, mang những tướng Liêu như Lưu Kha, Ma Lí, Lạt Hổ, Chiêu Cát đến trước Ích Tân Quan khiêu chiến.

Dương Diên Chiêu liền mang quân ra khỏi thành nghênh chiến, đồng thời thông báo cho các quan khẩu khác tin quân Liêu tới xâm phạm. Lúc ấy ông phát hiện ra kẻ dẫn quân đến là một hòa thượng tướng mạo hung ác, lưng hùm vai gấu, liền lớn tiếng hỏi: “Người đến là ai, vì sao xâm phạm biên quan của ta?”

Thổ Hành Tăng trả lời: “Ta là Thổ Hành Tăng, là đại tướng quân mới nắm binh mã của quân Liêu! Lần này phụng mệnh dẫn quân xuất chinh, ta võ nghệ cao cường, pháp lực vô biên, Dương Lục Lang ngươi nếu thức thời thần phục nước Đại Liêu ta, bảo đảm sẽ được hưởng vinh hoa phú quý”.

Dương Diên Chiêu đáp lời: “Thấy ngươi đã quy y, vẫn còn giữ giới, chắc là người xuất gia. Ngươi mang quân đến xâm phạm, giết người tạo nghiệp, phạm phải đại giới của Phật môn. Người quay về đi, ta có thể bỏ qua chuyện này!”

Thổ Hành Tăng trả lời: “Phật của ta đặc phái ta xuống trần phá Tam Quan của ngươi, diệt nước Đại Tống của ngươi, sát sinh chính là siêu độ, ngươi dám cả gan cãi lệnh trời sao!”

Dương Diên Chiêu trả lời: “Tên yêu tăng nhà ngươi! Hồ ngôn loạn ngữ giải thích xuyên tạc Phật Pháp, bại hoại Phật môn, xem ta xử lý ngươi đây!” Nói xong liền triển khai thế trận dẫn quân tấn công.

Thổ Hành Tăng cũng cầm chiếc búa lớn lao đến, cùng Dương Diên Chiêu ngươi một thương, ta một rìu đánh tới. Thổ Hành Tăng có sức mạnh lớn vô cùng, kỹ năng dùng rìu hết sức điêu luyện, Dương Diên Chiêu thăm dò hắn ta hơn chục hồi, cảm thấy công phu của Thổ Hành Tăng giống như đã từng gặp ở đâu. Sau khi hai người giao chiến mấy chục hồi, Dương Diên Chiêu đem bản sự thực của mình ra, ông sử dụng tinh túy của Dương gia thương pháp, Thổ Hành Tăng chống đỡ không nổi quay đầu tháo chạy. Dương Diên Chiêu xuất quân truy đuổi. Lúc ấy đội quân của Vương Lan Anh, Dương Bát muội mới đến hiện trường, thấy tình thế ấy cũng gia nhập hàng ngũ truy đuổi.

Thì ra lần trước đánh bại được đại quân thiết giáp của quân Liêu, triều đình luận công ban thưởng, phong cho Vương Lan Anh và Dương Bát muội làm phó tướng quân, thưởng cho ngàn bạc, lụa là gấm vóc đủ cả. Vương Lan Anh dâng biểu tạ ân, thỉnh cầu xin được về thôn Tiểu Vương Đô phòng thủ biên quan. Hoàng đế Chân Tông chuẩn tấu. Vì vậy nàng đã lập doanh trại ngay cạnh thôn để các nữ tướng sĩ đóng giữ, một mặt để bảo vệ dân làng, phòng thủ biên quan, mặt khác lại có thể chăm sóc mẫu thân đã già, một hành động đạt được nhiều mục đích.

Bên kia Thổ Hành Tăng chỉ huy toàn bộ quân Liêu lui về phía sau, Dương Diên Chiêu dẫn tướng sĩ truy kích, chỉ thấy quân Liêu tốc độ rút chạy rất nhanh, đội hình ngay ngắn trật tự, không lâu sau tiến vào một trận địa to lớn. Dương Diên Chiêu thấy thế, phát hiện có điểm dị thường, nhanh chóng lệnh cho các tướng sĩ tạm dừng lại. Nhưng Vương Lan Anh và Bát muội đã dẫn quân tiến vào trong trận địa. Thổ Hành Tăng phái ra mấy viên tướng Liêu dẫn quân ra bao vây bọn họ. Vương Lan Anh võ nghệ cao cường, một mình đấu lại mấy viên tướng kia, loáng cái đã chém cho bọn chúng rớt xuống ngựa, đám tướng sĩ quân Liêu vừa đánh vừa lui.

Dương Diên Chiêu lập tức phát ra hiệu lệnh gọi các nữ tướng trở về, nhưng lúc ấy Thổ Hành Tăng đột nhiên xuất hiện giao đấu với Vương Lan Anh. Hắn sau khi đánh nhau mấy hồi không địch lại được liền tháo chạy, dọc đường còn liên tục buông ra những lời đùa cợt các vị nữ tướng. Vương Lan Anh giận lắm, dẫn tướng sĩ truy kích, cứ như vậy tiến sâu vào trong trận địa địch. Dương Diên Chiêu chỉ đành dẫn quân đuổi theo, dọc đường hô lớn: “Lan Anh, hàng ngũ quân Liêu chưa loạn, trận thế quân địch quỷ dị, chắc chắn có điều gian trá, mau chóng quay về!”

Nhưng đã quá muộn, chỉ thấy lượng lớn quân Liêu từ các tháp nhỏ, phòng nhỏ nhất loạt xông ra, trong nháy mắt đã bao vây quân Tống. Chỉ thấy Thổ Hành Tăng đứng trên đàn tế thi triển pháp thuật, trong trận sương mù dày đặc, cát bay mù mịt. Dương Diên Chiêu muốn dẫn quân lui về trong quan, nhưng lúc ấy đường lui về phía sau đã bị đại quân thiết giáp của nước Liêu khóa chặt, chỉ có thể tác chiến trong trận. Dương Diên Chiêu dẫn quân đánh nhau nửa ngày, chỉ thấy quân Liêu từ bốn phương tám hướng mà tới, nhưng đánh được một chốc lại trốn mất, mà trong trận thì địch rõ ta mù, hiệu lệnh chỉ huy vô cùng khó khăn. Song Dương Diên Chiêu dù sao cũng đã trải qua trăm trận, ông phát hiện ra trong trận có một lối thoát, lập tức chỉ huy toàn quân tập trung vào lối đó, cuối cùng quân Tống đến gần một thôn làng. Lúc ấy trời đã tối muộn, Dương Diên Chiêu cho các quân sĩ cắm trại nghỉ ngơi.

Bát muội lên núi mời Ngũ Lang

Ngày hôm sau, Thổ Hành Tăng lại dẫn quân tới trước doanh trại khiêu chiến, nhưng Dương Diên Chiêu không ra trận, giữ thế phòng thủ. Dương Diên Chiêu cùng các tướng sĩ ở trong doanh trại bàn bạc đối sách. Vương Lan Anh tự trách mình: “Trách ta quá mức khinh địch, bị trúng mai phục”. Dương Diên Chiêu chỉ đành liên tục an ủi nàng.

Dương Diên Chiêu nói: “Trước mặt địch rõ ta mù, mà binh lực của địch lại lớn hơn nhiều so với quân ta, bốn phía đều bị bao vây khó có thể quay trở về quan. May mắn có người dân đồng ý cung cấp lương thực nước uống, không đến mức không có cái ăn. Trước khi nghiên cứu được cách phá trận này thì phải áp dụng thế phòng thủ, nhưng không được quá lâu. Thời gian kéo dài chúng kéo xuống Tam Quan thì cũng nguy hiểm”.

Dương Bát muội nói: “Muội thấy thế võ của tên Thổ Hành Tăng kia rất giống Ngũ ca, chắc là có nguyên do gì đấy, nếu huynh ấy ở đây thì tốt quá”.

Dương Diên Chiêu đáp lời: “Lúc giao đấu với hắn, ta phát hiện võ công của hắn giống với của Ngũ ca, ngay cả trận pháp và cách dùng quân dường như cũng không có khác biệt. Không giấu gì mọi người, ta đã dò la ra được Ngũ ca đang xuất gia ở Ngũ Đài Sơn, ta nhiều lần cho người gửi thư mời huynh ấy về quân, nhưng đều bị từ chối. Ta cũng đã sai Mạnh Lương, Tiêu Tán đến mời huynh ấy, nhưng cũng không có cách nào khiến huynh ấy xuống núi. Ngũ ca thương yêu muội nhất, lần này cần muội đích thân đi một chuyến”.

Dương Bát muội nhận lệnh, lập tức thay đồ ngụy trang, tìm một bộ quân phục lính Liêu tới mặc vào, lại phủ lên một cái áo choàng. Dương Diên Chiêu nhìn thấy, rất vừa lòng nói: “Ăn mặc thế này tin rằng có thể qua mặt được mắt quân Liêu rồi”.

Ngày hôm sau, Dương Diên Chiêu dẫn các tướng sĩ giả vờ đột phá vòng vây của quân Liêu. Thổ Hành Tăng lại thi triển pháp thuật, sương mù dày đặc, cát bụi mịt mù, quân Tống lại rút lui, mà Dương Bát muội nhân dịp sơ hở cởi bỏ áo choàng, lẫn lộn vào trong đám quân Liêu, thuận lợi thoát ra khỏi vòng vây. Nàng đi về hướng Ngũ Đài Sơn, dọc đường đi vất vả mệt mỏi, một ngày sau mới tới được Ngũ Đài Sơn.

Dương Bát muội đến trước cửa chùa, hòa thượng giữ cửa nhìn thấy một người con gái, liền lên tiếng: “Xin hỏi thí chủ có việc gì?”

Bát muội trả lời: “Tôi là Dương môn Bát muội, Ngũ ca Diên Đức của tôi xuất gia ở đây, tôi có việc cần tìm huynh ấy, xin cho phép tôi vào chùa”.

Hòa thượng giữ cửa trả lời: “Sư huynh đã xuất gia, duyên trần đã đứt, vả lại huynh ấy đang ở đình sau chùa đả tọa tĩnh tu, không tiện quấy rầy”.

Bát muội trong lòng sốt ruột nói: “Cứu người như cứu hỏa, dù nói gì ta cũng phải gặp!” Vì thế nàng không ngại người ngăn cản, bướng bỉnh đẩy cửa lớn tiến vào.

Bát muội đi một mạch đến sau chùa, nhìn thấy ở đình nghỉ chân trên lưng núi có một vị hòa thượng đang nhắm mắt đả tọa, tới gần nhìn xem, thấy đúng là Dương Ngũ Lang rồi, Bát muội liên tục gọi: “Ngũ ca! Cuối cùng đã tìm thấy huynh rồi!”

Dương Ngũ Lang trả lời: “Bát muội, lâu rồi không gặp, muội đã lớn thế này rồi. Muội sao lại đến đây? Mẹ và Lục đệ có mạnh khỏe không?”

Bát muội đáp lời: “Mẹ vẫn mạnh khỏe trong phủ. Lục ca bị năm vạn quân Liêu vây ở trong trận, cho nên tìm huynh để đi cứu huynh ấy, nếu để chậm trễ, Lục ca và hơn một vạn quân Tống sẽ mất mạng”.

Dương Ngũ Lang trả lời: “Năm vạn quân Liêu không làm gì được Lục đệ đâu. Ta đã xuất gia rồi, không màng đến việc chiến trận nữa, ta dặn nhà bếp làm cho muội gì đó để ăn, muội ăn xong liền xuống núi đi”.

Bát muối nghe xong nóng nảy nói: “Ngũ ca! Tình hình chiến trận nguy cấp muội mới xông vào đây, Lục ca sắp chết tới nơi, chẳng lẽ huynh thực sự thấy chết không cứu?”

Phật duyên ở Ngũ Đài Sơn

Tới lúc này, Dương Ngũ Lang liền kể cho Bát muội nghe về chuyện mình xuất gia và nguyên nhân không thể tham chiến.

Năm đó trước khi Dương Nghiệp xuất quân chinh phạt nước Liêu, mang theo bảy người con lên Ngũ Đài Sơn thắp hương lễ Phật, bái kiến người bạn tốt Trí Thông Thiền sư, xin ông xem tướng cho các con và hỏi họa phúc của trận chiến này. Trí Thông Thiền sư trước tiên ca ngợi Dương Nghiệp biết cách dạy con, bảy người con đều có khí chất là bậc lương đống của quốc gia, nhưng trận chiến này hung hiểm khác thường, chỉ e là không thể toàn thân trở về.

Dương Nghiệp nói: “Đại trượng phu được chết ở nơi sa trường thì thực là vô cùng may mắn, có gì phải so đo”.

Trí Thông Thiền Sư nói tiếp: “Đại Lang, Nhị Lang, Tam Lang đều có tướng trung với nước, siêng năng chăm chỉ, nhưng đáng tiếc là cương trực quá không thể có được cái chết yên lành. Tứ Lang sắp phải đối mặt với lựa chọn giữa việc nước với việc nhà, hy vọng sẽ tự trọng. Thất Lang cần phải đề phòng nguy hiểm bị bắn tên. Lục Lang tướng mạo sáng sủa ung dung có thể giữ được tước lộc, nhưng cả đời vương vấn tới an nguy của chúng sinh trong thiên hạ, chỉ có lo âu mà không vui vẻ, ta không dám nói nhiều. Mà Ngũ Lang thì võ công chiến lược hơn người, có thể an bang định quốc, nhưng lại có duyên với Phật…”

Tiếp theo đoàn người Dương Nghiệp đi thăm chùa, cho đến khi trời về chiều, Trí Thông sai người bày tiệc chay chiêu đãi. Mọi người trong tiệc đều kể ra khí phách đời mình, chuyện trò thản nhiên, tới đêm khuya mới về thiền phòng nghỉ ngơi.

Ngũ Lang trong lòng lo sợ, trằn trọc không ngủ được, vì thế một mình tới hậu viện bái kiến Trí Thông Thiền sư. Trí Thông thấy Ngũ Lang liền hỏi: “Tướng quân khuya rồi đến đây có gì cần nói?” Ngũ Lang nói: “Tiểu sinh nghe Pháp ngữ của Thiền Sư, trong lòng bất an, xin Thiền sư chỉ cho đường sống”.

Thiền sư trả lời: “Đây là tạo hóa của mỗi người, thiên mệnh có định số, bần tăng làm sao giúp được đây?” Ngũ Lang cầu xin hết lần này tới lần khác, Trí Thông thấy ông thành tâm liền nói: “Tướng quân chỉ có cách ẩn cư nơi rừng núi, không quan tâm tới thế sự, mới có thể giữ được thân mình”. Tuy nhiên, Ngũ Lang lại lo lắng cho gia đình và quốc gia, khó lòng từ bỏ tất cả để đáp ứng. Trí Thông cuối cùng lấy ra một gói đồ đưa cho ông rồi nói: “Gói đồ này là đồ cứu mạng, nhưng mà đây là thiên cơ, cẩn thận đừng để lộ, người hãy mang theo bên mình, ngày thường chớ mở ra, khi gặp đại nạn hãy mở, tuyệt đối đừng quên”. Ngũ Lang bái tạ rồi rời đi.

Ngày hôm sau Dương Nghiệp cùng bảy người con từ biệt Trí Thông. Trí Thông nói: “Ta có lời này muốn nói với tướng quân – Kim Sa Than song long hội, Thất tử khứ lục tử hồi”. Dương Nghiệp lại lần nữa cầu xin cách phá giải, nhưng Trí Thông trả lời: “Ngày hôm qua đã có lời, chỉ có cách ẩn cư nơi rừng núi quy y cửa Phật, không còn cách nào khác”. Dương Nghiệp thấy không thể miễn cưỡng, chỉ đành xuống núi.

Ngũ Lang ghi nhớ lời của Trí Thông, luôn đem gói đồ kia theo bên mình. Sau này Tống Liêu xảy ra đại chiến ở bãi cát vàng. Quân Tống bị bao vây trùng trùng, Dương gia tướng sĩ tổn thất nặng nề. Đại Lang, Nhị Lang, Tam Lang lần lượt hy sinh. Tứ Lang bị bắt. Lục Lang, Thất Lang cùng phụ thân Dương Nghiệp bị vây ở Nhị Lang Sơn. Ngũ Lang mất liên hệ với bọn họ, một mình chiến đấu anh dũng thoát thân, nhưng các tướng sĩ bên mình đều hy sinh tại trận. Lúc ấy Ngũ Lang nhớ tới gói đồ mà Trí Thông Thiền Sư đưa cho mình, liền mở nó ra, phát hiện bên trong là một cái dao cạo, một cái độ điệp (thẻ đi tu) và một bộ y phục tăng nhân. Vì thế ngay tại chỗ cởi bỏ quân trang, mặc lên tăng phục, lại lấy dao cạo hết tóc, gói món vũ khí búa lớn lại vào trong bọc rồi đi về hướng Ngũ Đài Sơn.

Dương Diên Chiêu truyền kỳ – Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu, minh họa: Thanh Ngọc/The Epoch Times

Sau khi Ngũ Lang lên Ngũ Đài Sơn, ông đi bái kiến Trí Thông Thiền Sư. Trí Thông nói: “Dương gia tướng sĩ mặc dù làm việc lớn cho xã tắc, nhưng ở trên sa trường lâu ngày, tạo sát nghiệp nhiều lắm. Chỉ có cách xuất gia tu Phật mới có thể giảm bớt được nghiệp lực của gia tộc.” Vì thế Ngũ Lang chính thức bái Trí Thông làm thầy, thụ giới xuất gia ở Ngũ Đài Sơn, làm một vũ tăng. Vì lúc ấy chiến loạn không ngừng, đạo tặc nổi lên khắp nơi, Dương Ngũ Lang vận dụng sở trường của mình, tổ chức cho các tăng nhân ở trên núi tập luyện võ công, bảo vệ chùa và người dân.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/292479

The post Dương Diên Chiêu truyền kỳ: Ngũ Lang xuống núi phá quân Liêu (Phần thượng) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lã Động Tân nói về nguyên nhân phúc họahttps://chanhkien.org/2024/09/la-dong-tan-noi-ve-nguyen-nhan-phuc-hoa.htmlWed, 25 Sep 2024 03:32:37 +0000https://chanhkien.org/?p=34466Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Thiểu ẩm khi tâm tửu, hưu tham bất nghĩa tài Phúc nhân từ thiện đắc, họa hướng xảo gian lai Tạm dịch nghĩa: Rượu lừa tâm uống ít, của bất nghĩa thôi tham Nhân từ thiện đắc phúc, hướng gian xảo họa đến Đây là bài thơ có […]

The post Lã Động Tân nói về nguyên nhân phúc họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Thiểu ẩm khi tâm tửu, hưu tham bất nghĩa tài

Phúc nhân từ thiện đắc, họa hướng xảo gian lai

Tạm dịch nghĩa:

Rượu lừa tâm uống ít, của bất nghĩa thôi tham

Nhân từ thiện đắc phúc, hướng gian xảo họa đến

Đây là bài thơ có tựa đề “Tứ Tề Châu Lý Hy Ngộ thi” của Lã Động Tân, vị Tiên được mệnh danh là tiêu sái nhất trong Bát Tiên. Thi nhân đã trực tiếp giải thích rõ ràng nguyên nhân phúc và họa của con người.

“Thiểu ẩm khi tâm tửu, hưu tham bất nghĩa tài” (Rượu lừa tâm uống ít, của bất nghĩa thôi tham). Có hai loại “rượu lừa tâm” (rượu lừa dối lòng mình). Một loại là khi người khác buộc phải mời bạn mà trong lòng họ vẫn rất ghét bạn, nhưng vì một lý do nào đó họ không thể không mời bạn. Loại thứ hai là khi có người mời bạn uống rượu để làm những việc xấu như đánh nhau, làm chứng cứ ngụy tạo, v.v. cả hai loại rượu này đều không thể uống được. “Của bất nghĩa” là nói đến của cải có được bằng những thủ đoạn không chính đáng.

Điều này cũng giống như đạo lý “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo” (tạm dịch: Quân tử yêu tiền nhưng kiếm tiền một cách có đạo lý).

“Phúc nhân từ thiện đắc, họa hướng xảo gian lai” (Nhân từ thiện đắc phúc, hướng gian xảo họa đến). Nếu một người trong tâm có thiện niệm thì tự nhiên sẽ làm những điều tốt. Đây chính là nguồn gốc của phúc phận. Còn người sử dụng gian kế, thủ đoạn mờ ám để đối đãi với người khác, thì dù bất kể mục tiêu có đạt được hay không, họ đều sẽ rước lấy tai họa.

Người xưa có câu: “Nhất niệm chi thiện, cát Thần tùy chi. Nhất niệm chi ác, lại quỷ tùy chi. Tri thử khả dĩ dịch sử quỷ thần” (tạm dịch: Một niệm tốt cát Thần theo sau, một niệm ác thì ác quỷ theo sau. Biết được điều này có thể sai khiến quỷ thần). Nhiều người nghĩ rằng đây là cách nói ví von, nhưng thực ra đó là sự thật. Ở đời, thiện niệm xác thực có Thần tốt theo sau, khởi ác niệm tự nhiên sẽ có ác quỷ theo sau.

Người mang tâm từ thiện thì tất nhiên có “cát Thần theo sau”; những người ác và gian xảo thì tất nhiên có “ác quỷ theo sau”. Ngày nay, con người bị chủ nghĩa vô thần điều khiển, không muốn tin vào sự tồn tại của Thần và sự tồn tại của quỷ. Thế nhưng, tất cả họ đều là những sinh mệnh hết sức thực tại.

Sở dĩ Lã Động Tân nói như vậy là bởi vì trước mặt ông, những điều này đều rất chân thật.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/291616

The post Lã Động Tân nói về nguyên nhân phúc họa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 7)https://chanhkien.org/2024/09/phuc-suc-thoi-duong-trang-phuc-cua-phu-nu-phan-7.htmlWed, 25 Sep 2024 03:32:30 +0000https://chanhkien.org/?p=34467Tác giả: Ngải Lan [ChanhKien.org] Bức tranh này vẽ một người phụ nữ búi tóc cao, tay áo nhỏ, váy dài, khăn lụa và thổi sáo. Sản phẩm dệt của thời Đường chủ yếu là lụa, trong đó nổi tiếng nhất là ba khu vực sản xuất chính, gồm: Tứ Xuyên, Giang Nam – Hà […]

The post Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Ngải Lan

[ChanhKien.org]

Bức tranh này vẽ một người phụ nữ búi tóc cao, tay áo nhỏ, váy dài, khăn lụa và thổi sáo.

Sản phẩm dệt của thời Đường chủ yếu là lụa, trong đó nổi tiếng nhất là ba khu vực sản xuất chính, gồm: Tứ Xuyên, Giang Nam – Hà Nam và Hà Bắc. Những tấm vải gấm từ Tứ Xuyên, những tấm vải lụa có hoa văn độc đáo từ Ngô Việt, lụa mỏng ở Hà Nam, tất cả đều là những vật phẩm quý.

Tơ lụa thời Đường không chỉ lộng lẫy về màu sắc, mà còn sống động và đẹp mắt về họa tiết hoa văn. Các loài chim như phượng hoàng, công, vẹt, vịt quan và chim đầu rìu thường được thể hiện trong cách dệt, thêu, in và nhuộm váy của phụ nữ, còn có các loài côn trùng như ong, bướm, bướm đêm và chuồn chuồn, các loài động vật như sư tử, kỳ lân, hổ và báo, hươu tấm, lạc đà, v.v. đều được sử dụng làm chủ đề trên vải gấm. Trong các loài hoa và cây cối thì lấy hoa mẫu đơn làm chủ, còn các cành xoắn, cành chéo và các cụm hoa cỏ nhỏ đều được sử dụng tổng hợp, đa dạng và đẹp mắt. Từ hoa tuyết đến hoa văn hình chữ thập và hình vuông cũng được sử dụng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/18615

The post Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 7) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Người xưa giải thích ý nghĩa của ‘bằng hữu’https://chanhkien.org/2024/09/nguoi-xua-giai-thich-y-nghia-cua-bang-huu.htmlTue, 24 Sep 2024 04:37:16 +0000https://chanhkien.org/?p=34448Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Mỗi người chúng ta đều sẽ có những người bạn của riêng mình. Bạn nam hiện nay gọi là “ca môn” (người anh em), còn bạn nữ gọi là “khuê mật” (cô bạn thân). Vậy người như thế nào mới có thể trở thành một “bằng hữu” (người […]

The post Người xưa giải thích ý nghĩa của ‘bằng hữu’ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Mỗi người chúng ta đều sẽ có những người bạn của riêng mình. Bạn nam hiện nay gọi là “ca môn” (người anh em), còn bạn nữ gọi là “khuê mật” (cô bạn thân). Vậy người như thế nào mới có thể trở thành một “bằng hữu” (người bạn) thực sự? Triết học gia trứ danh thời nhà Minh là Vương Dương Minh đã nói trong cuốn sách “Truyện tập lục – Quyển hạ – Môn nhân Trần Cửu Xuyên lục” rằng: “Nói chung, bằng hữu nên có ít lời khuyên răn, nhắc nhủ, chỉ trích và xử phạt, biện pháp đúng là nên dìu dắt, khen ngợi, khuyên giải và thuyết phục nhiều hơn”.

Cũng chính là nói, bằng hữu là những người thích lắng nghe những lời bạn nói, cổ vũ nhiều hơn và ít chỉ trích, trách móc. Đó mới là những người bạn thực sự. Có thể một số người rất tốt với bạn nhưng họ lại chỉ trích, trách móc nhiều hơn là khuyến khích. Người như vậy thực ra là đang làm vai trò của trưởng bối, chứ không phải bằng hữu.

Chữ “bằng” (朋) chia tách ra là gồm hai chữ “nguyệt” (月), chính là nói giữa bạn bè phải bình đẳng, chứ không phải bên này chỉ đạo bên kia. Hai người ôm nhau để sưởi ấm lẫn nhau chứ không phải bên này hy sinh cho bên kia. Chúng ta thường nói vợ chồng nên “tương kính như tân” (tôn trọng nhau như khách). Kỳ thực, trạng thái này cũng có nghĩa là vợ chồng đồng thời là bằng hữu. Như thế, hai người sẽ không quá khó xử, không rơi vào tình trạng không có gì để nói.

Hồi còn đi học, tôi có một người bạn cùng chí hướng, dù tôi có làm gì thì anh ấy vẫn luôn ủng hộ và dành cho tôi sự cổ vũ lớn nhất. Anh ấy chưa bao giờ nói xấu tôi trước mặt bạn bè khác. Cả hai chúng tôi đều nói lắp một chút (bây giờ đã đỡ hơn). Một lần, bạn tôi bị ốm và tôi đến thăm anh ấy. Hai người trò chuyện trước giường bệnh, và thật buồn cười vì cả hai đều nói lắp. Khi mẹ của bạn tôi nghe cuộc trò chuyện lắp bắp của hai chúng tôi, bà không thấy buồn cười mà thấy ấm áp. Có lẽ đây mới là ý nghĩa thực sự của bằng hữu.

Trong lịch sử có rất nhiều mối quan hệ thầy trò. Khi họ xấp xỉ tuổi nhau, mối quan hệ thầy trò tốt nhất là “vừa là thầy trò, vừa là bằng hữu”, hai người giúp đỡ nhau học tập.

Ý nghĩa thực sự của tình bạn nổi tiếng giữa Quản Trọng và Bào Thúc cũng giống như vậy. Hai người không tính toán so đo về lợi ích, mà cổ vũ và bao dung lẫn nhau, hiếm khi có những lời chỉ trích, trách móc. Mọi người thích những người bạn như vậy, nhưng khi bản thân gặp vấn đề thì rất khó làm được, vì ai cũng có nhược điểm là thích “lên mặt làm đàn anh”. Việc luôn muốn giáo dục đối phương là nguyên nhân thực sự khiến tình bạn khó bền vững.

Hãy bao dung nhiều hơn, động viên nhiều hơn. Khi gặp vấn đề, hãy đặt mình vào góc độ của đối phương để suy xét. Được như vậy thì chúng ta sẽ thấy làm bạn quả thực không khó.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/292074

The post Người xưa giải thích ý nghĩa của ‘bằng hữu’ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”?https://chanhkien.org/2024/09/man-dam-trung-y-9-the-nao-la-tri-benh-khi-chua-thanh-benh.htmlMon, 23 Sep 2024 06:17:52 +0000https://chanhkien.org/?p=34447Tác giả: Nhược Bình Tử [ChanhKien.org] “Hoàng Đế Nội Kinh” nhiều lần đề cập đến vấn đề “trị bệnh khi chưa thành bệnh” và gọi những người có thể “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là bậc “thượng công” hay thậm chí là “Thánh nhân”. “Thượng công” ở đây ám chỉ những thầy thuốc bậc […]

The post Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhược Bình Tử

[ChanhKien.org]

“Hoàng Đế Nội Kinh” nhiều lần đề cập đến vấn đề “trị bệnh khi chưa thành bệnh” và gọi những người có thể “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là bậc “thượng công” hay thậm chí là “Thánh nhân”. “Thượng công” ở đây ám chỉ những thầy thuốc bậc thượng đẳng có y thuật cao minh, trái ngược với “hạ công” là thầy thuốc y thuật không được cao minh như vậy.

Nhưng cách nói “trị bệnh khi chưa thành bệnh” thoạt nghe dường như không thuận tai vì có vẻ hơi không hợp logic: người “chưa thành bệnh” là người còn chưa có bệnh thì làm sao lại tìm thầy thuốc? Thầy thuốc là người phải chữa bệnh, chữa người có bệnh thành người không bệnh, bây giờ nếu giao cho anh ta một người không bệnh thì bảo anh ta chữa cái gì?

Vấn đề này liên quan đến hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau và cần được thảo luận để phân biệt: thứ nhất, “có bệnh” và “có triệu chứng bệnh” là khác nhau; thứ hai, tiêu chí để phán định “có bệnh” và “chưa thành bệnh” là khác nhau và có sự thay đổi tùy theo các thầy thuốc, không có tiêu chuẩn cố định. Bởi vì y thuật của các thầy thuốc có thể có tầng thứ khác nhau nên có sự khác biệt rất nhiều. Thầy thuốc cao siêu có thể phát hiện được những thay đổi rất nhỏ trên cơ thể báo hiệu bệnh tật và có thể ngăn chặn bệnh từ khi chưa xảy ra, trong khi các thầy thuốc khác phải có triệu chứng rõ ràng mới có thể quan sát được.

Đối với tình huống đầu tiên, có thể nêu ví dụ: người bị nhiệt ở một trong ngũ tạng sẽ bị đỏ ở phần tương ứng trên khuôn mặt, chẳng hạn như “người bị nhiệt ở gan trước tiên má trái sẽ đỏ”, “người bị nhiệt ở tỳ trước tiên mũi sẽ đỏ” v.v. “Mặc dù bệnh chưa phát bệnh, nhưng nếu thấy sắc đỏ đó mà châm thì gọi là chữa bệnh khi chưa thành bệnh”. Ở đây “trị bệnh khi chưa thành bệnh” được định nghĩa là thực hiện điều trị “châm cứu” khi có “triệu chứng của bệnh” nhưng chưa “phát bệnh”. Căn cứ để làm như vậy là: bất kỳ bệnh tật nào (trừ vết thương bên ngoài) đều có một quá trình hình thành và cũng sẽ có những dấu hiệu nào đó. Khi các dấu hiệu xuất hiện và người bệnh chưa cảm thấy bị ốm thì sẽ áp dụng phương pháp điều trị dự phòng. Lúc này có thể nói, điều thầy thuốc chữa không phải là “bệnh”, mà chỉ loại bỏ một số nhân tố đang phát triển thành bệnh, vì vậy, “trị bệnh khi chưa thành bệnh” quả thực là một cách nói rất thỏa đáng. Nhưng khi bệnh nhân không cảm thấy mình có bệnh, đa số sẽ không tìm đến thầy thuốc nên tình trạng trên không gặp nhiều lắm. Ngày xưa khi Hoàng đế thỉnh giáo Bá Cao về phương pháp châm cứu, câu trả lời của Bá Cao đã tăng thêm nội hàm của “không trị bệnh khi đã có bệnh”: “Thứ nhất, thượng công sẽ châm cứu khi bệnh chưa biểu hiện ra ngoài; thứ hai, sẽ châm cứu khi tình trạng bệnh chưa nặng; thứ ba, sẽ châm cứu khi bệnh đã thuyên giảm. Hạ công khi có triệu chứng lặp đi lặp lại mới châm cứu, hoặc châm cứu khi bệnh đã lên đến đỉnh điểm, hoặc châm cứu khi biểu hiện bên ngoài của bệnh trái ngược với tình trạng mạch”. Vì vậy kinh điển y học cổ xưa còn có câu: “Thượng công trị bệnh khi chưa thành bệnh, chứ không trị bệnh khi đã có bệnh”, đó chính là ý nghĩa của nó. Theo cách giải thích này, “không trị bệnh khi đã thành bệnh” không có nghĩa là không chữa trị cho người đang bị bệnh, mà đó là sách lược và phương pháp trong chữa bệnh, đồng thời cũng cho thấy rõ có sự khác biệt giữa thượng công là người giỏi trị cho những người “chưa thành bệnh” và hạ công là người giỏi trị cho những người “đã có bệnh”.

Trong tình huống thứ hai, cần nói rõ rằng “trị bệnh khi chưa thành bệnh” là một cách diễn đạt có tính tương đối, nó là điều tùy theo trình độ và tầng thứ của thầy thuốc mà thay đổi, chúng ta có thể lấy Biển Thước, một thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại làm ví dụ. Câu chuyện Biển Thước ba lần gặp Tề Hoàn Hầu đã được nhiều người biết đến, so với nhiều đại y gia nổi tiếng lưu truyền trong lịch sử Biển Thước có thể được coi là “thượng công”, việc chẩn đoán bệnh cho Tề Hoàn Hầu của ông quả thực là tại thời điểm khi “chưa thành bệnh”, nếu Tề Hoàn Hầu không cố chấp như vậy, ông ta đã có thể trị bệnh cho Tề Hoàn Hầu “khi chưa thành bệnh”. Tuy nhiên, theo Biển Thước nói, anh cả và anh thứ hai của ông đều là thầy thuốc giỏi hơn ông: “Về bệnh thì khi anh cả nhìn thấy được cái ‘thần’ của bệnh khi nó chưa thành ‘hình’ thì đã loại bỏ nó rồi”; “Anh hai trị bệnh là khi dấu hiệu bệnh chỉ nhỏ như lông tơ thì đã trị rồi”; “Còn về Biển Thước ta, dùng kim châm mạch máu bệnh nhân, lấy vị thuốc có độc tố cho bệnh nhân uống, dùng dao rạch da và thịt của bệnh nhân”. Vì vậy, so với ba anh em, anh cả mới là “thượng công”, điều được chữa trị không chỉ là “chưa thành bệnh ” bản thân người bệnh không biết, mà có khi ngay cả Biển Thước cũng không biết, còn người “chưa thành bệnh” như Tề Hoàn Hầu theo chẩn đoán của Biển Thước, thì có lẽ trong mắt của anh cả, e rằng sẽ không được coi là “chưa thành bệnh” nữa.

Vì “chữa bệnh khi chưa thành bệnh” là một cách diễn đạt có tính tương đối, nên việc phân chia “thượng công” và “hạ công” cũng là cách nói có tính tương đối. Nói cách khác, trên “thượng công” còn có “thượng thượng công” nữa, cứ truy tầm tiếp tục hướng lên chắc chắn sẽ đạt đến một trình độ khiến người ta khó tin. Có thể truy tầm đến tầng thứ nào là một chuyện, còn độc giả và ngay cả các bác sỹ đương thời có thể tin tưởng và chấp nhận nó đến mức độ nào lại là một chuyện khác. Ngay cả đối với những đại y nổi tiếng trong lịch sử như Biển Thước và Hoa Đà, cũng như có một số bác sỹ sau này (bao gồm cả những bác sỹ nổi tiếng) không thể chấp nhận một số “kỳ tích” trong việc chẩn đoán và trị bệnh của họ, những thầy thuốc cao siêu hơn họ lại càng khó được người ta tin tưởng và chấp nhận. Đặc biệt là các bác sỹ ngày nay, bất kể Trung y hay Tây y, do bị ảnh hưởng của “y học hiện đại”, nhiều người đã tuyệt đối hóa các phương pháp chẩn đoán và điều trị của y học phương Tây, phàm là những gì mà họ không thể biết thì đều nói đó là điều “không thể”, thậm chí còn gọi đó là “mê tín”. Trí nhớ của những người này dường như đặc biệt kém: cách đây không lâu, y học phương Tây đã bác bỏ học thuyết về “kinh mạch” của Trung y, họ cho rằng cơ thể con người hoàn toàn không có “kinh mạch” (sau khi họ đích thân mổ xẻ cơ thể con người đã không tìm thấy gì cả!); họ chế giễu lý thuyết “thai giáo” (giáo dục thai nhi) của Trung y, cho rằng làm sao thai nhi có thể hiểu được âm nhạc hay thậm chí là ngôn ngữ của người lớn? Hiện nay thì thế nào? Chẳng phải tất cả chúng đều đã được khoa học hiện đại công nhận, thậm chí đã ra sức phổ cập đó sao? Như vậy, vì những gì chúng bị chúng ta phủ nhận trong quá khứ đã được sự phát triển của khoa học xác nhận, thì liệu những gì chúng ta phủ nhận hôm nay có đảm bảo sẽ không được khoa học ngày mai thừa nhận? Cách nhận thức sự vật khách quan một cách khoa học là không ngừng phủ nhận bản thân và sửa chữa lại những kết luận trước đó của mình, để việc miêu tả của mình đối với sự vật khách quan dần dần tiếp cận những đặc điểm mà con người quan sát được từ sự vật khách quan. Việc cho rằng các kết luận khoa học của bất kỳ thời kỳ nào đều là chân lý tuyệt đối, thậm chí dùng chúng để phủ nhận những sự vật tồn tại một cách khách quan, đều là cách làm ấu trĩ, thiếu hiểu biết về khoa học.

Dù bạn có tin hay không, nhưng khả năng “siêu thường” về chẩn đoán và điều trị bệnh là điều tồn tại một cách khách quan. Tạm thời không kể đến quá khứ xa xưa, nhiều ví dụ về việc sử dụng khả năng đặc biệt để chẩn đoán và điều trị bệnh tật vào cuối thời kỳ “Cách mạng Văn hóa” (chỉ cách đây 20 đến 30 năm) đều đã được các bộ môn khoa học hoặc y học liên quan chứng minh là đúng. Ngoài những ví dụ cụ thể trong lịch sử như Hoa Đà, Biển Thước, Miêu Phụ, Du Phu, trong “Hoàng Đế Nội Kinh” cũng nói đến tính phổ biến về khả năng chẩn đoán siêu thường của các “thượng công”: “Cái gọi là quan sát trong vô hình vô thanh có nghĩa là những thay đổi trong khí huyết của Vinh Vệ tuy không hiển lộ ra ngoài, nhưng thầy thuốc lại có thể hiểu được, …… các thầy thuốc đều có khả năng dự đoán về bệnh tật, nhưng bệnh tật lại không bộc lộ ra bên ngoài, cho nên người ta nói quan sát âm thầm là vậy!”, “Có thể sử dụng phương pháp này để hiểu rõ các loại lý lẽ, kinh nghiệm của họ có thể lưu truyền cho hậu thế, đây là chỗ khác biệt giữa thầy thuốc có học thức kinh nghiệm phong phú với người bình thường. Tuy nhiên bệnh tật không biểu lộ ra bên ngoài, nên người bình thường không dễ phát hiện được, không thấy được dấu vết, nếm không thấy mùi vị, nên mới gọi là âm thầm lặng lẽ, giống như Thần vậy”. “Bậc thượng công trị bệnh ngay từ lúc mới manh nha, cho nên mới gọi là thượng công, còn kẻ hạ công thì chỉ cứu chữa khi bệnh đã thành, khi thế đã bại”. Ở đây chỉ ra rõ ràng rằng sở dĩ “thượng công” có thể thấy được những dấu hiệu bệnh từ đầu là vì họ có thể “trông rõ từ vô hình, nghe tỏ từ vô thanh” và nhìn thấy những thay đổi bất thường trong hoạt động sống trong cơ thể con người mà “không biểu hiện ra bên ngoài”, và những thay đổi này là thứ mà người bình thường không thể nhìn thấy được. Ở đây cũng ẩn chứa một cách cố định lại khái niệm “thượng công”: phàm là thầy thuốc có thể “trông rõ từ vô hình, nghe tỏ từ vô thanh” và sử dụng các phương pháp chẩn đoán siêu thường để phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh tật và loại bỏ các yếu tố gây bệnh thì đều có thể được gọi là “thượng công”.

Chiểu theo tiêu chuẩn này để phân định “thượng công” và “hạ công”, chính là phù hợp với tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt “Đạo y” và “Nho y”: “Đạo y” về cơ bản đều là “thượng công”, còn “Nho y” thì đều không phải là “thượng công” ngoại trừ một số ít tình huống đặc thù. Qua phương pháp học tập của người thường, các Nho y chỉ học được những nội hàm y học đã “thường nhân hóa” nên không thể học được những năng lực siêu thường đó. Một số ít “Nho y” vì có điều kiện tiên thiên tốt, lại thủ đức tu tâm, nên qua thời gian lâu dài, họ có thể tự phát sinh một số khả năng đặc dị và có thể sử dụng các phương pháp chẩn đoán siêu thường để thấy được một số dấu hiệu sớm của bệnh tật. Nhưng ngày càng có ít những “Nho y” như vậy, đặc biệt là ngày nay lại càng ít. Phương pháp mà các “Đạo y” có được khả năng chẩn đoán và điều trị bệnh siêu thường của họ cũng rất siêu thường: hoặc đó là kết quả của quá trình tu luyện lâu dài trong một giáo phái chính nghĩa nào đó, hoặc đó là duyên phận đặc biệt dẫn đến mà một lần có được. Khả năng chẩn đoán và trị bệnh siêu thường của Biển Thước chính là một ví dụ điển hình của việc có được một lần.

Bây giờ nhiều người đều cảm thấy rất tự hào khi nói về “y học hiện đại”: sự phát triển của y học quá nhanh, số lượng thầy thuốc tăng thêm bao nhiêu, các loại thuốc đã tăng thêm bao nhiêu, sự gia tăng sản lượng thuốc và giá cả hạ thấp, mọi người đều có đủ khả năng mua thuốc! Họ coi các thầy thuốc và dùng thuốc thành “hưởng phúc”! Thật không ngờ chính là ngược lại, các mục tiêu phát triển và quá trình phát triển của y học nên là: số lượng thầy thuốc ngày càng ít đi, các loại và sản lượng của thuốc ngày càng ít đi, cho đến cuối cùng mọi người hoàn toàn không cần thầy thuốc, hoàn toàn không dựa vào bất kỳ loại thuốc nào để điều chỉnh trạng thái bất thường của cơ thể họ – bởi vì cơ thể họ không có trạng thái bất thường! Nói cách khác, y học là một ngành khác biệt với các ngành khác, mục tiêu phát triển của nó chính là tiêu hủy bản thân nó (y học) càng nhanh càng tốt!

Ngày nay y học đã phát triển đến mức bác sỹ và bệnh nhân loại này có ở khắp mọi nơi, và xã hội khó mà thoái thác sai lầm này. Bởi vì tất cả các hiện tượng trong một xã hội đều được gọi là “hiện tượng xã hội”, đó cũng là những hiện tượng mà chính bản thân xã hội đó sản sinh ra. Do ngày càng có nhiều bệnh tật và bệnh nhân trong xã hội ngày nay, nên mới sinh ra việc càng ngày càng có nhiều bác sỹ và thuốc. Đây là “căn bệnh” của bản thân xã hội đó, cho dù có bao nhiêu bác sỹ cũng chẳng thấm vào đâu! Muốn cho y học phát triển một cách khỏe mạnh, trước tiên chúng ta cần phải “khỏe mạnh” xã hội này! Nhưng mặt khác, con người lại là nhân tố chủ đạo của xã hội, nên muốn làm cho một xã hội “khỏe mạnh”, chính là tương đương với việc yêu cầu hầu hết mọi người trong xã hội này phải “khỏe mạnh” lên! Từ đây khiến mọi người hiểu rõ rằng việc trị bệnh của con người và việc trị bệnh của xã hội luôn có mối quan hệ mật thiết.

Chữa bệnh cho người thì phải tìm bác sỹ, chữa bệnh cho xã hội thì phải tìm nhà xã hội học và chính trị gia, hai người này dường như không liên quan với nhau. Kỳ thực không phải vậy. Chúng ta thường nói rằng phải lấy lịch sử làm tấm gương để soi chiếu, thì có thể tìm được cách giải quyết các vấn đề hiện đại. Khi chúng ta trở lại dọc theo bước chân của lịch sử, chúng ta thấy rằng: bệnh ở người và bệnh xã hội hoàn toàn có nguyên nhân như nhau! Nên phương pháp trị bệnh của con người và trị bệnh của xã hội là hoàn toàn đồng nhất!

“Bậc Thánh nhân đời thượng cổ đã răn dạy người dưới mình biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được”. “Vậy nên chí nhàn mà ít dục, yên tâm mà không sợ, hình thể hoạt động mà không mệt mỏi, chân khí điều hòa”. Thời “thượng cổ”, chính là “Thánh nhân” (không phải bác sỹ) đã dạy con người đạo dưỡng sinh để chăm sóc sức khỏe: cần phải thích ứng với những thay đổi của thiên nhiên, nuôi dưỡng tinh thần từ bên trong, tâm trí không hướng ra bên ngoài; tính tình điềm đạm, không truy cầu không tranh đấu. Có một câu nói, nếu bạn giữ được tinh thần và trái tim của mình, sẽ tự nhiên cảm thấy an tâm thuận khí và sẽ không bị bệnh. Người như vậy là người “bề ngoài không vất vả, bên trong không lo lắng, lấy an nhàn làm việc, lấy tự đắc làm công, thân thể không suy nhược, tinh thần không tán loạn”, vì vậy, họ “thọ mệnh có thể đạt được trăm tuổi mà động tác vẫn nhanh nhẹn”, sống đến hơn trăm tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Không những vậy, khi ai ai cũng làm được điều này thì phong tục dân gian sẽ đơn giản, xã hội sẽ ổn định, “khỏe mạnh”. “Người đời nay không như vậy, họ coi rượu như một thứ đồ uống, uống không có chừng mực, biến cuộc sống bất thường thành thói quen, say rượu cũng quan hệ tình dục, vì phóng túng dục vọng cho nên âm tính cạn kiệt, vì để thỏa mãn ham mê đã khiến cho chân khí tổn thất, không biết duy trì sự sung mãn của tinh khí một cách cẩn thận, không giỏi kiềm chế tinh thần, mà chỉ tìm kiếm niềm vui tạm bợ trong tâm trí, làm trái ngược với niềm vui cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày và nghỉ ngơi không có quy luật, nên nửa trăm năm đã già yếu” (chú thích: người đời nay ở trong câu này là con người của thời đại Hoàng đế, được nhắc đến trong Hoàng Đế Nội Kinh). Sở dĩ có thể được như vậy là bởi “đức toàn nên không gặp nguy hiểm” và “hợp với Đạo”. Nói cách khác, con người khi làm như vậy chính là bảo toàn được cái “đức” của mình và phù hợp với “Đạo”, đương nhiên con người và xã hội sẽ không bị bệnh tật. Ở đây “Thánh nhân” thông qua trị cái “tâm” của con người và dạy người ta thủ “đức” thì cũng đồng thời chữa bệnh cho người và chữa bệnh cho xã hội.

Con người hiện đại hiểu được những nguyên lý này rất ít, nhưng trong lịch sử luôn có những người hiểu và tự thể nghiệm. Kê Khang, một trong “Trúc Lâm Thất hiền” thời Tam Quốc từng nói: “Người giỏi dưỡng sinh sẽ không làm như thế, họ có thể an nhiên tự tại, thanh tâm quả dục. Họ hiểu rằng truy cầu danh lợi, địa vị sẽ làm tổn hại đạo đức con người, cho nên họ xem nhẹ mà không mưu cầu”, “có tâm hồn cởi mở thì sẽ không lo lắng, nội tâm yên tĩnh thì sẽ vô tư lự, lại có thể làm được trước sau như một hòa hợp với khí của tự nhiên thì sẽ ngày càng có hiệu quả, chính là thuận theo tự nhiên”. Phương pháp dưỡng sinh của họ là có tâm hồn trong sáng, tính tình an hòa, kiềm chế ham muốn, giảm bớt tính ích kỷ. Họ biết danh lợi là phải dùng “đức” mà đổi, vì để không “tổn đức” nên họ không truy cầu. Lại thêm làm được “trước sau như một” và “hòa khí với tự nhiên” gần với “Đạo” thì cuối cùng sẽ đạt được “thuận theo tự nhiên”, tức là sự hài hòa và thống nhất giữa con người và tự nhiên. Ý tưởng cơ bản ở đây vẫn là giữ “Đức” hợp với “Đạo”, từ đó để đạt được mục đích của dưỡng sinh.

Hoàng đế hỏi Kỳ Bá: “Các vị Thánh nhân cổ đại làm thang dịch giao lễ, nhưng chỉ làm mà không dùng là sao?” Kỳ Bá thưa rằng: “Các bậc Thánh nhân thời xưa làm ra thang dịch giao lễ là chỉ để phòng bị khi nào tà khí phạm đến. Nhưng người thời đó phần nhiều giữ được hoàn toàn thiên chân, nên tặc phong không mấy khi phạm vào được. Vì thế dù có làm ra thang dịch giao lễ mà cũng không mấy khi dùng tới. Đến thời trung cổ đạo đức suy yếu, khi tà khí phạm tới, dùng thang dịch giao lễ thì rất có công hiệu”. Điều khiến người ta kinh ngạc là, thời đại “thượng cổ” trước thời của Hoàng đế, “Thánh nhân” (không phải là thầy thuốc) mặc dù họ đã chuẩn bị các loại như thang dược và tửu dược, nhưng nói chung đều là các sản phẩm dự phòng, chúng thường không được dùng tới. Sau này vào “thời Trung cổ”, “đạo đức” của con người sa sút, họ không còn khả năng chống lại sự tấn công của bệnh tật, bệnh cũng càng ngày càng nhiều thì tất phải sử dụng các loại thang dược và tửu dược thì đảm bảo mọi thứ đều ổn. Ở đây được chỉ rõ ra rằng mối liên hệ trực tiếp giữa sự suy thoái “đạo đức” con người với bệnh tật của con người, hơn nữa người gánh vác chữa bệnh vẫn là “Thánh nhân” cai trị xã hội.

Toàn bộ lý thuyết của Trung y, thậm chí cả lý thuyết của Đạo gia, đều nhằm mục đích cân bằng “âm dương”. “Âm bình dương bí thì tinh thần của con người mới bình thường; nếu âm dương tách biệt thì tinh khí của con người sẽ cạn kiệt”. Tuy nhiên, người bình thường khó đạt được trạng thái lý tưởng “âm bình dương bí”, cho dù không biểu hiện ra triệu chứng bệnh tật thì luôn có sự mất cân bằng âm dương ở mức độ nhất định. Người thật sự đạt được “âm bình dương bí” là trạng thái như thế nào? Người có âm dương ôn hòa, trong lòng trong sáng vô tư, không suy tính được hay mất, thanh tâm quả dục và không quá hoan hỷ, thuận theo quy luật phát triển của vạn vật, không bao giờ tính toán đến chuyện được mất của cá nhân, giỏi thích nghi với những thay đổi của hoàn cảnh, dù địa vị cao nhưng rất khiêm tốn, thường dùng lý trí để thuyết phục người khác chứ không dùng thủ đoạn trấn áp để trừng trị người khác, có tài năng tổ chức và quản lý rất tốt”. Hóa ra đó chính là kiểu nhân vật “Thánh nhân” mà chúng ta đã nhắc đi nhắc lại ở trên! Biểu hiện của sự “âm dương ôn hòa” của họ là sống lặng lẽ, ôn hòa, tâm thái cao thượng, vững vàng, khiêm tốn và thuận theo tự nhiên, thích ứng với mọi hoàn cảnh, không tranh đấu với người khác. Phương pháp tối cao mà họ theo đuổi để cai trị con người và thế giới là chỉ trò chuyện (đàm) mà không trị, chỉ cần nói vài lời là được! Trong xã hội như vậy, chỉ cần có một số vị Thánh thì có thể cai quản thiên hạ và con người, chẳng trách người xưa đã nói: “Thánh nhân không trị bệnh khi đã mắc bệnh mà trị lúc chưa mắc bệnh, không trị khi đã loạn mà trị lúc chưa loạn”.

Đến đây, kết luận của chúng ta đã thật rõ ràng và hiển nhiên: bệnh của con người và “bệnh” của xã hội đều là vì nhân tâm có bệnh; muốn chữa bệnh cho người và chữa “bệnh” của xã hội, trước hết phải chữa được nhân tâm! Đây chính là cách “chữa bệnh khi chưa có bệnh” cao nhất!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/58778

The post Mạn đàm Trung Y (9): Thế nào là “Trị bệnh khi chưa thành bệnh”? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 6)https://chanhkien.org/2024/09/phuc-suc-thoi-duong-trang-phuc-cua-phu-nu-phan-6.htmlMon, 23 Sep 2024 06:17:28 +0000https://chanhkien.org/?p=34439Tác giả: Ngải Lan [ChanhKien.org] Từ thời Đường thịnh vượng trở về sau, phong cách ăn mặc của phụ nữ ngày càng trở nên to và rộng rãi. Vào giữa và cuối thời nhà Đường, đặc điểm này trở nên rõ ràng hơn. Nhìn chung, trang phục của phụ nữ có chiều rộng tay áo […]

The post Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngải Lan

[ChanhKien.org]

Từ thời Đường thịnh vượng trở về sau, phong cách ăn mặc của phụ nữ ngày càng trở nên to và rộng rãi. Vào giữa và cuối thời nhà Đường, đặc điểm này trở nên rõ ràng hơn. Nhìn chung, trang phục của phụ nữ có chiều rộng tay áo từ 1,2 mét trở lên. Hình ảnh này cho thấy cách mặc đôi tay áo rộng, váy dài và khăn choàng. Đây là trang phục của thời giữa và cuối nhà Đường. Khi mặc loại trang phục này thường có những chiếc trâm cài tóc màu vàng kim nên còn gọi là “điền thoa lễ y” (y phục có trâm cài hoa).

Phụ nữ thời nhà Đường đội rất nhiều vòng hoa trên đầu. Có nhiều kiểu vòng hoa đội đầu, hầu hết đều được làm bằng lụa. Sau này việc đội hoa thật trở nên phổ biến. Hoa mẫu đơn rất phổ biến vào thời nhà Đường. Người phụ nữ trong bức tranh này tóc búi cao và đội vòng hoa mẫu đơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/18599

The post Phục sức thời Đường: Trang phục của phụ nữ (Phần 6) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>