Tu luyện thể ngộ | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnTue, 12 Mar 2024 16:15:19 +0000en-UShourly1Cái khóahttps://chanhkien.org/2024/03/cai-khoa.htmlFri, 01 Mar 2024 04:57:05 +0000https://chanhkien.org/?p=32689Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Sư tôn đã khai thị cho chúng ta biết thiên cơ liên quan đến huyệt “mệnh môn”. Cá nhân tôi lý giải nó chính là tầng tầng cửa sắt, tầng tầng trời, tầng tầng cái khóa trong tâm, tầng tầng Phật Pháp thần thông. Khi tâm bị khóa […]

The post Cái khóa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Sư tôn đã khai thị cho chúng ta biết thiên cơ liên quan đến huyệt “mệnh môn”. Cá nhân tôi lý giải nó chính là tầng tầng cửa sắt, tầng tầng trời, tầng tầng cái khóa trong tâm, tầng tầng Phật Pháp thần thông.

Khi tâm bị khóa có phải là mệnh cũng bị khống chế, khi tâm bị khống chế phải chăng là mệnh cũng bị khóa lại, chúng ràng buộc lẫn nhau. Người thường khó có thể cải biến thọ mệnh của mình, đó là nhất định. Nếu không chân tu, không đề cao tâm tính mà khóa chặt thân tâm của mình, thì không thể nào cải biến vận mệnh, cũng không có trí huệ để mở “khóa tâm”. Chân chính đi trên con đường tu luyện, thật sự biết sám hối và chân chính hướng nội tìm, mới có thể thật sự gỡ bỏ “cái khóa của sinh mệnh” và bước trên con đường phản bổn quy chân. Cơ duyên tu luyện này là rất khó đắc được, một lần đắc được thân người và gặp được chính Pháp, không biết là phúc báo của bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp tu luyện mà thành. Tu luyện rất nghiêm túc, sinh lão bệnh tử là quy luật của vũ trụ, ai có thể tùy tiện cải biến quy luật này chứ? Ai cũng không thể động đến thiên Pháp và nguyên tắc này. Sự từ bi không có giới hạn kỳ thực là dung túng, cũng bằng như tự hủy, rơi vào trong nhân tình của tam giới, phải chịu khổ nhiều lần trong lục đạo luân hồi. Có thể thoát khỏi sinh tử luân hồi chỉ duy người chân tu, nhảy xuất khỏi tam giới, vượt khỏi tình. Những ai ôm giữ tình không muốn buông chỉ có thể nói là quá ngốc. Từ bi chân chính không phải là tình, cũng sẽ không bị tình chi phối. Người không chân tu không thể nghiệm được dư vị khi không có tình là gì, cũng không lĩnh hội được sự uy nghiêm và thù thắng của Phật Pháp.

Những cái khóa sẽ khóa chặt chân niệm, khóa chặt bản tính, khóa chặt sự thuần chân, khóa chặt sự từ bi, khóa chặt huệ nhãn, khóa chặt thần thông của bạn; nó sẽ khiến bạn bị khóa trong “tình”, bị khóa trong “tam giới”, bị khóa trong thân thể của “hồng ma”. Bản chất tà ác của nó, sự cám dỗ sắc dục của nó, sự trao đổi lợi ích của nó, bộ mặt quang vinh của nó, sự trả thù đầy oán hận, sự xưng vương cuồng vọng của nó, sự thách thức của nó đối với Thần, hết thảy những gen thâm độc này của nó, chỉ cần bị khóa trong thân và tâm của bạn, như vậy trong bản thân của bạn sẽ tự nhiên có nó, trong nó có bạn. Hơn nữa nó còn muốn quản lý khống chế hết thảy, nó muốn đảo loạn nhân gian, nó muốn giở trò lưu manh côn đồ, nó muốn thỏa mãn dâm dục, nó muốn tranh đấu thắng lợi,…

Xin đừng vọng tưởng rằng bạn có thể thâm nhập vào hang rắn rồi dần dần tác động được nó, dừng vọng tưởng rằng nó xem trọng và coi bạn là một người tốt. Chớ vọng tưởng rằng, chỉ cần bạn bảo trì thái độ trung lập là sẽ bảo vệ được mình. Cũng đừng hy vọng một ngày nào đó nó bỗng nhiên cao hứng sẽ buông tha cho bạn và sửa lại án sai, vọng tưởng một ngày nào đó nó tự mình đồng ý giải thể, vọng tưởng bản thân có thể như ve sầu thoát xác, vọng tưởng dưới thể chế của nó bạn có thể giữ được liêm khiết thanh bạch, vọng tưởng vừa có được “danh lợi tình” lại có thể đến được “thiên quốc”. Khi bạn giải khai những cái khóa trong tâm, nhảy ra khỏi hệ thống cộng sản tà ma của nó, minh bạch chân tướng, nhận rõ bộ mặt thật của rồng đỏ, thì mới có thể thực sự thoát khỏi sự kiểm soát của nó.

Bản chất thực sự của hồng ma là “giả ác đấu”, trong lời nói và hành động của nó là có mang theo “tà ác, lừa dối, xúi giục, tranh đấu, cướp bóc, côn đồ, ly gián, tiêu diệt và khống chế”, khi nó ẩn núp ở trong thân thể người tu luyện, thì người này sẽ biểu hiện ra văn hoá đảng nặng, tâm sắc dục nặng, tâm danh lợi nặng, tâm dục vọng mạnh, muốn tách biệt khỏi tất cả năng lượng chính, từ đó thỏa mãn hư vinh của bản thân, muốn người khác nói mình là tốt nhất, là người đáng tin nhất, biểu hiện này cũng đồng dạng với tà đảng. Nó che đậy tất cả thông tin, ngăn chặn tất cả mọi thông tin, lấy trộm thành quả của người khác, chiếm đoạt công lao của người khác, bẻ cong ý tốt của người khác, lợi dụng sự lương thiện của người khác để tùy ý bắt nạt và chà đạp.

Nếu một người có những biểu hiện như tranh công người khác, không thỏa mãn, không biết đủ, tà biến, ma biến, khóa chặt bản thân, khóa chặt tâm, thì tất nhiên sẽ trở thành khối cộng đồng của hồng ma, điều này là cực kỳ nguy hiểm, bởi vì rồng đỏ là nó là nguồn gốc của mọi tội ác, nó nhất định sẽ bị tiêu trừ triệt để.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/287428

The post Cái khóa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Duyên đến từ Thiên quốchttps://chanhkien.org/2024/01/duyen-den-tu-thien-quoc.htmlWed, 31 Jan 2024 05:40:39 +0000https://chanhkien.org/?p=32486Tác giả: Tiểu Duyên [ChanhKien.org] Đệ tử Đại Pháp là tu xuất tâm từ bi, đối với chúng sinh đều đối xử bình đẳng như nhau, sẽ không đối xử với người này tốt và đối xử với người kia không tốt. Con gái tôi cho rằng, điều chúng tôi quan tâm chỉ là thân […]

The post Duyên đến từ Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Duyên

[ChanhKien.org]

Đệ tử Đại Pháp là tu xuất tâm từ bi, đối với chúng sinh đều đối xử bình đẳng như nhau, sẽ không đối xử với người này tốt và đối xử với người kia không tốt. Con gái tôi cho rằng, điều chúng tôi quan tâm chỉ là thân phận, dù có thay đổi thành một người khác thì cũng như nhau. Nghĩ đi nghĩ lại, kỳ thực chúng tôi cũng đúng là nghĩ như thế, vậy vấn đề nằm ở đâu?

Mấy hôm nay tôi đã xem lại vài lần bộ phim “Trở lại thành Thần”, trong phim thân phận của Tiểu Vũ dường như rất giống với thân phận của con gái tôi. Bởi vì con gái tôi sinh ra vào năm 1999 nên có thể mục đích của con là đến để thức tỉnh chúng tôi ở một phương diện nào đó, chỉ là chúng tôi vẫn chưa nhận thức ra được đó là gì.

Tiểu Vũ là một chiếc lông của Thần Phượng Hoàng trên Thiên thượng, từ trên cấu trúc thân thể là rất giống nhau, cũng chính là nói hai người họ nhìn từ bản nguyên thì là giống nhau. Loại duyên phận này là độc nhất vô nhị. Từ góc độ Chính Pháp mà nhìn, mặc dù Đại Pháp là từ bi, nhưng nếu đệ tử Đại Pháp không thể chứng thực Pháp thì Thiên quốc của họ cũng không thể được đắc cứu; đây có thể là một vấn đề gốc rễ, các đệ tử Đại Pháp khác cũng không thể cứu được Thiên quốc của họ.

Kì thực những người bên cạnh tôi, bất kể là ủng hộ hay phản đối thì đều có duyên với chúng tôi. Vì vậy đệ tử Đại Pháp là từ bi đối với tất cả mọi người. Bởi vì họ đến để phối hợp với bạn. Chúng ta xem những người bức hại Tống Quang Minh trong phim “Trở lại thành Thần”, đều là đến từ thế giới của bản thân họ. Chúng ta từ bi đối đãi với tất cả những người mà chúng ta gặp, bởi vì hầu hết họ đều có duyên với bạn, nếu nói đó là chúng sinh của bạn cũng không có gì sai.

Con gái đến là để đánh thức chúng tôi, vậy đánh thức điều gì đây? Chính là trân quý tất cả những người chúng tôi gặp, bởi vì họ chính là những sinh mệnh đến từ Thiên quốc của bản thân chúng tôi. Như vậy xem ra tất cả những người bên cạnh chúng ta đều là phối hợp với Chính Pháp để đánh thức chân niệm của chúng ta.

Đối với Thần Phượng Hoàng và Quang Minh Vương mà nói, Tiểu Vũ là độc nhất vô nhị. Mặc dù nhẹ tựa lông hồng nhưng nó đại biểu các nhân tố trong thế giới của bản thân họ. Cho nên tất cả những người bên cạnh chúng ta, thậm chí kể cả đồ vật cũng là độc nhất vô nhị, bởi vì họ đều là đại biểu trong thế giới của bản thân chúng ta. Nếu có một sinh mệnh không thể đồng hóa với Pháp thì sẽ khiến cho thế giới của chúng ta không hoàn chỉnh.

Trân quý mỗi người bên cạnh chúng ta, thậm chí là cả những đồ vật, bởi vì họ có duyên phận rất lớn với chúng ta.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/287880

The post Duyên đến từ Thiên quốc first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lại bàn về “Nam nữ hữu biệt”https://chanhkien.org/2024/01/lai-ban-ve-nam-nu-huu-biet.htmlThu, 18 Jan 2024 03:09:44 +0000https://chanhkien.org/?p=32398Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Khi nhiều đồng tu bàn về vấn đề “Nam nữ hữu biệt”, đa số đều cho rằng nam nữ ở cùng nhau là vấn đề về tâm sắc dục, kỳ thực, từ trong quá trình tu luyện của mình, tôi cho rằng không chỉ đơn thuần […]

The post Lại bàn về “Nam nữ hữu biệt” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Khi nhiều đồng tu bàn về vấn đề “Nam nữ hữu biệt”, đa số đều cho rằng nam nữ ở cùng nhau là vấn đề về tâm sắc dục, kỳ thực, từ trong quá trình tu luyện của mình, tôi cho rằng không chỉ đơn thuần là tâm sắc dục, có thể còn có tâm chấp trước khác, dưới đây tôi xin bàn về thể hội của bản thân tại phương diện này.

Tôi là một nữ đệ tử Đại Pháp sống một mình sau khi ly hôn, trong hơn 20 năm tu luyện sau khi ly hôn, tâm sắc dục của tôi vẫn luôn không trừ bỏ sạch, do đó can nhiễu về phương diện này vẫn luôn tồn tại. Lúc đầu, tôi chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm hiện đại và chưa nhận thức được tính nghiêm trọng của việc tiếp xúc giữa nam và nữ, tuy nhiên bởi vì từ nhỏ đã có tâm hướng Phật, do đó khi ly hôn tôi đã quyết định sẽ không tái hôn nữa.

Vào thời kỳ đầu của cuộc bức hại, hầu hết các đồng tu không có nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa nam và nữ. Đặc biệt là sau sự kiện ngày 20/7/1999, rất nhiều đồng tu bị bức hại đến mức kinh tế khó khăn, thậm chí sống lang bạt nay đây mai đó. Trong quá trình tiếp xúc với các đồng tu khác giới, rất nhiều cách làm của tôi đã không đúng.

Vào khoảng năm 2008, một nam học viên trẻ đã phải lưu lạc đến chỗ của tôi, một người điều phối đã thương lượng với tôi rằng để anh ấy ở nhà tôi vài ngày trước khi anh ấy thuê được nhà, tôi lúc đó cảm thấy không đúng lắm nhưng xét đến hoàn cảnh khó khăn của đồng tu cũng như ngại mất thể diện nên đã không có ý kiến phản đối. Sau đó có thể đồng tu khác đã nhắc nhở người điều phối không nên làm như vậy nên đã không để đồng tu nam đó sống tại nhà của tôi. Do đồng tu này sau khi tới chỗ của tôi thường làm tư liệu chân tướng, tôi liền cùng với đồng tu B và một số đồng tu khác góp tiền sinh hoạt phí cho anh ấy, đồng thời đưa cho anh ấy một chìa khoá vào nhà của tôi (lúc đó tôi cũng cho đồng tu khác chìa khóa nhà của tôi), để khi có việc cần thiết anh ấy có thể tự do ra vào nhà tôi. Nhưng có một lần khi tôi về nhà bắt gặp anh ấy dùng máy giặt để vắt khô giày, tôi cho rằng anh ấy làm như vậy là không thích đáng (lúc đó chỉ nghĩ rằng anh ấy dùng máy giặt để vắt giày là không thích hợp, chứ không nhận thức được việc anh ấy ra vào nhà của tôi là không phù hợp), tôi nghĩ rằng những người hàng xóm đều biết tôi sống một mình, bình thường đi làm, khi máy giặt vắt khô giày thì âm thanh rất lớn, ngộ nhỡ nhà hàng xóm có người nghe thấy thì ảnh hưởng không tốt, nhưng lúc đó cái tình của tôi rất nặng, không lý trí, không tiện ngăn anh ta vắt giày.

Một sự việc phát sinh sau này đã khiến tôi cảnh tỉnh. Một ngày nọ vào năm 2009, tôi đã bị bức hại, khi cảnh sát lục soát nhà, họ đã chỉ vào một cái túi đeo chéo và hỏi tôi: “Cái túi này là của ai?” Lúc đó tôi rất ngạc nhiên, anh ta tại sao lại hỏi như vậy. Sau này sau khi phá trừ bức hại và quay trở lại đơn vị làm việc, một đồng tu trong phòng ban đã hỏi tôi: “Chị ơi, chị tự nấu ăn một mình à?” Tôi lại ngạc nhiên một lần nữa, anh ấy tại sao lại hỏi như vậy? Tôi liên tưởng đến câu hỏi của cảnh sát lúc bị lục soát nhà, liền lập tức hiểu ra. Có thể trước khi bị bức hại, cảnh sát đã theo dõi tôi, họ khẳng định là đã nhìn thấy đồng tu nam ra vào trong nhà của tôi, mới hỏi tôi như vậy. Mà đơn vị của chúng tôi rất có ảnh hưởng ở địa phương, có một số đồng nghiệp có quan hệ trong công việc với công an, nói không chừng đã nghe được gì rồi, do đó đồng nghiệp mới hỏi tôi như vậy. Lúc đó tôi mới nhận thức được tính nghiêm túc trong giao thiệp giữa nam và nữ, nên đã không tiếp tục tiếp xúc với vị đồng tu này. Sau này, vị đồng tu lưu lạc kia cũng bị bức hại.

Sau đó, trên Minh Huệ Net đã có nhiều giao lưu hơn về phương diện này và giữa các đồng tu cũng bắt đầu nghiêm túc đối đãi với sự việc này. Nhưng tôi vẫn luôn không từ phương diện tu tâm tính mà thanh lọc trường không gian của bản thân, chỉ biết dùng biện pháp của con người để cự tuyệt tiếp xúc với nam đồng tu. Nhiều năm nay, một vị nam đồng tu (sau đây gọi là A) vẫn luôn ma luyện tâm tính của tôi ở phương diện này, cho đến khi tôi từ trong Pháp mà nhận thức ra được.

Bây giờ quay đầu nhìn lại, thật sự cảm thấy rất băn khoăn, bởi vì tôi đã nhiều lần bộc phát ma tính, lúc thì tỏ thái độ khó chịu ra mặt với đồng tu A, khi thì chỉ trích anh ấy một cách kịch liệt, không để anh ấy đến nhà tôi, nhưng sau một đoạn thời gian, đồng tu A lại đến nhà tôi, lúc đó quả thực khiến cho tôi kiệt sức cả về thể xác lẫn tinh thần, hiện tại nghĩ lại kỳ thực là do các chủng nhân tâm của tôi chưa bỏ, tâm tính không đạt, nên đồng tu A đóng vai trò như một bước đệm cho việc tu luyện của tôi. Ở đây tôi cũng muốn nói lời xin lỗi đồng tu A, thật sự xin lỗi.

Tổng kết lại, khi tiếp xúc với đồng tu A, tôi có vấn đề ở một số phương diện sau. Một là, không nghiêm khắc khi sử dụng tài nguyên của Đại Pháp. Bản thân ngộ rằng: Tiền của bản thân cũng là tư nguyên của Đại Pháp, cũng cần phải sử dụng một cách chính xác, mà tôi ở phương diện này lại không nghiêm khắc yêu cầu bản thân. Đồng tu A đã bị khai trừ khỏi công chức từ rất sớm, lại bị kết án nhiều năm, gặp khó khăn lớn về phương diện kinh tế. Có một năm, đồng tu B thuyết phục tôi dùng tiền tiết kiệm của mình để giúp đỡ A, thế là tôi đem tiền kiếm được của mình đưa cho A trả món nợ trong người thường, nhưng sau này mới biết A không trả lại tiền (có thể lúc đó đồng tu B không truyền đạt ý kiến của tôi cho đồng tu A). Đồng tu A khi giảng chân tướng chính niệm rất mạnh, từng nhiều lần đến phòng 610 để giảng chân tướng cho chủ nhiệm và nhân viên của phòng 610, đã làm rất nhiều việc cho hoàn cảnh tu luyện ở địa phương chúng tôi, do đó tôi rất kính phục anh ấy, và tôi luôn tận lực giúp đỡ tài chính đối với hạng mục chứng thực Pháp mà anh ấy đề xuất. Vài lần sau, tôi bắt đầu nghiêm túc đối đãi với việc này, nhiều lần xem lại những bài giảng Pháp của Sư phụ về phương diện này, dần dần hiểu ra, khi phó xuất mỗi khoản tiền đều phải biết tiền này đi về đâu, cần phải có trách nhiệm với bản thân, có trách nhiệm với đồng tu. Thế là, khi tôi biết rằng việc sử dụng tiền quỹ của đồng tu không phù hợp với Pháp, tôi kiên quyết đề xuất không được tiếp tục làm như vậy nữa. Sau này, không chỉ tiếp xúc với đồng tu A, mà khi tiếp xúc với các đồng tu khác tôi đều rất chú ý đến việc sử dụng tiền quỹ.

Thứ hai là, tình đồng tu nặng. Bởi vì đồng tu A không có chỗ để sinh hoạt (A lấy lý do tuổi tác cao, sợ làm lỡ ba việc và Sư phụ trong mộng đã điểm ngộ anh ấy không để anh ấy chết đói mà từ chối tìm công việc người thường để giải quyết vấn đề sinh hoạt), mà tôi thì tương đối đầy đủ về mặt vật chất, vài năm trước vẫn thường giúp đỡ anh ấy một số việc thiết thực trong cuộc sống, sau này nghĩ lại thấy rằng việc tôi tiếp xúc với anh ấy có nguyên nhân ở phương diện này. Đồng tu A từng nói rất rõ, anh ấy rất cảm kích một số đồng tu nữ chúng tôi đã giúp đỡ tiền cho anh ấy, anh ấy đem một số việc chứng thực Pháp giao cho tôi làm, là để khiến tôi làm nhiều chút công việc Đại Pháp, từ đó gia tăng uy đức,… Nghĩ lại điều này, trong tiếp xúc giữa chúng tôi, không chỉ đầy rẫy dày đặc tình đồng tu, mà còn xen lẫn vào rất nhiều vật chất bại hoại mang tính công lợi, thế là mỗi khi tôi muốn giúp đỡ anh ấy, liền lý tính suy nghĩ một chút rồi lại thôi.

Thứ ba, không thực sự từ trong Pháp đề cao, tu tâm tính, từ bỏ sắc dục, thuần tịnh trường không gian của bản thân.

Trong những năm gần đây, các đồng tu xung quanh tôi khi bàn về sắc thì mặt biến sắc, tôi cũng bắt đầu hiểu rằng cần tu bản thân từ trên phương diện tâm tính. Tôi xem và đọc đi đọc lại các bài giảng Pháp liên quan của Sư phụ, tải xuống các bài giao lưu về phương diện này của rất nhiều đồng tu trên mạng Minh Huệ, phát chính niệm trong thời gian dài để thanh lý trường không gian của bản thân, và trao đổi từng người một về vấn đề nam nữ hữu biệt với các đồng tu nam mà tôi tiếp xúc, chính là không thể phá hoại phép tắc nơi người thường, cần duy hộ hình tượng của Đại Pháp, mong họ cố gắng hết sức đừng một mình đến nhà tôi. Về phần A, có một lần khi anh ấy lại bộc phát ma tính, tôi nghiêm sắc mặt hỏi anh ấy rốt cuộc dụng ý của anh ấy là gì khi tìm đến tôi và nhờ tôi chuyển lời nhắn đến các bạn đồng tu, để anh ấy sau khi tìm ra tâm chấp trước của bản thân, anh ấy chắc chắn sẽ không lại tới nhà tôi nữa. Quả nhiên hơn một năm nay anh ấy đã không còn tìm đến chỗ của tôi.

Tuy nhiên, vào một buổi tối gần đây, khi tôi vừa bước xuống lầu và chưa kịp bước ra khỏi cửa tòa nhà thì bị đồng tu A gọi lại, tôi giật mình, anh ấy lấy ra một danh sách những người tam thoái, tôi thuận tiện nhìn một cái lấy lệ rồi xin phép rời đi, có thể nhìn thấy tâm tình của anh ấy là không muốn đi. Khi tới nhà đồng tu C (tôi và cô ấy là hàng xóm), tôi nói với cô ấy việc tôi gặp được đồng tu A ở trước cửa tòa nhà, đồng tu C nói A hôm qua vừa mới đến cửa hàng của cô ấy (B từng nói với A, nếu có việc của Đại Pháp thì cần A thông qua đồng tu khác để tìm tôi, trước đây A từng vài lần thông qua C để đưa cho tôi danh sách tam thoái).

Sau khi từ nhà đồng tu C trở về, tôi rất cảm kích sự chăm lo từ bi của Sư phụ, cũng có chút oán trách về việc đồng tu A đã không giữ lời hứa. Nhưng tôi đã rất mau chóng nhận thức ra, không nên hướng ngoại tìm, là do tâm sắc dục của bản thân mình không kiền tịnh chiêu mời đến, vào buổi sáng ở trong phòng làm việc, một đồng nghiệp nói với tôi rằng một vị nam đồng nghiệp mặc tây phục trông rất đẹp trai, tôi không chỉ phụ hoạ, mà còn nói từ đáy lòng rằng vị đồng nghiệp nam đó rất giản dị, con người rất khá. Kỳ thực quan hệ của chúng ta và chúng sinh là người cứu độ và người được cứu độ, cho rằng anh ấy rất khá đó không phải là tâm sắc dục sao? Chính là vì niệm không chính này đã chiêu dẫn quỷ đến cửa.

Mấy ngày gần đây, tôi đã tăng cường thanh lý những vật chất bại hoại về phương diện sắc dục này của bản thân, tôi nhận thức thêm một bước là thực sự không thể oán trách đồng tu, là cựu thế lực đã an bài từng cảnh tượng này, để nhìn xem người tu luyện chúng ta làm sao có thể giữ vững, tôi dùng chính niệm thanh trừ an bài và bức hại về phương diện sắc dục này của cựu thế lực đối với tôi, cũng từ nội tâm thanh lý tà ác đã bức hại và thao túng khiến đồng tu A có biểu hiện không lý trí về lời nói hành vi. Hiểu ra được rằng một con người thực sự rất đáng thương, rất dễ bị lợi dụng. Khi giảng chân tướng thì là một vị đồng tu chính niệm chính hành như thế, vậy mà lại bị tà ác thao túng đến mức quên cả bản thân, thật sự rất đáng tiếc. Nghĩ đến đây tôi không còn oán trách đồng tu nữa, ngược lại còn đồng cảm với anh ấy, cảm tạ anh ấy. Cũng nhận thức ra rằng: Tăng cường chủ ý thức thực sự rất quan trọng, nếu như bạn thực sự muốn, Sư phụ sẽ có biện pháp. Đương nhiên, đồng tu là một chỉnh thể, tu luyện Chính Pháp cần phải chỉnh thể đề cao, chỉnh thể thăng hoa. Chỉ có huệ nhãn của Tôn Ngộ Không mới có thể phân biệt yêu ma, không sợ mắt thịt thai phàm của Đường Tăng, như vậy bốn người họ giống như một tiểu đội mới có thể tới Tây Thiên để thỉnh kinh.

Có điều, tôi vẫn muốn nhắc nhở các đồng tu, nam nữ thực sự là có khác biệt, nhất định phải coi trọng điểm này, cho dù là công việc của Đại Pháp cũng phải cố gắng tìm đồng tu cùng giới tính để phối hợp, nếu quả thực không tìm được, có thể giải quyết thông qua phương thức khác, chỉ cần bạn không muốn làm vấy bẩn Đại Pháp ở phương diện này, sẽ có biện pháp giải quyết.

Đây là một chút nhận thức hiện tại của cá nhân, có điểm nào không đúng mong đồng tu từ bi chỉ rõ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279511

The post Lại bàn về “Nam nữ hữu biệt” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Sức mạnh của Thiện là cự đạihttps://chanhkien.org/2024/01/suc-manh-cua-thien-la-cu-dai.htmlMon, 01 Jan 2024 00:46:09 +0000https://chanhkien.org/?p=32243Tác giả: Phục Minh – đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh chính là “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, khi con người sinh ra thì bản tính tiên thiên là thiện lương, tuy nhiên, tùy theo tuổi tác lớn lên, đặc biệt sau khi bước vào xã […]

The post Sức mạnh của Thiện là cự đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phục Minh – đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh chính là “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, khi con người sinh ra thì bản tính tiên thiên là thiện lương, tuy nhiên, tùy theo tuổi tác lớn lên, đặc biệt sau khi bước vào xã hội, con người liền biến đổi càng ngày càng tự tư, càng ngày càng xem trọng lợi ích hiện thực. Có một số người đã trở nên càng ngày càng bất hảo, có một số người trẻ tuổi, nếu bạn giảng cho họ về văn hóa truyền thống Trung Hoa rằng “phải đối xử Thiện với người”, họ sẽ quay lại nói với bạn: “Thiện đáng giá bao nhiêu tiền?”, đặc biệt là đến thời đại ngày nay thì “người chẳng vì mình, trời tru đất diệt” đều đã trở thành phương châm để sống mất rồi.

Tôi nhớ khi vẫn còn đang là người thường, vợ tôi là bí thư tà đảng của một đơn vị, khi cô ấy gặp phải chuyện không vừa lòng ở đơn vị, về đến nhà liền xông vào tôi mà nổi nóng. Có một hôm, cô ấy lại nảy sinh mâu thuẫn với cục trưởng ở đơn vị, tôi đón con gái từ trường mẫu giáo về nhà, cô ấy về đến nhà thì bắt đầu trách móc tôi, lại quở trách con gái, thế này không được, thế kia không được. Đúng vào lúc cô ấy tức giận không chịu được, con gái tôi đã bưng cho cô ấy một cốc nước, bước đến đưa cho vợ tôi nói: “Mẹ ơi miệng mẹ khô rồi, mẹ uống ngụm nước đi”. Vợ tôi liền ngay lập tức cười trở lại, nói câu “đồ quỷ sứ”, tức giận cũng theo đó không còn nữa. Tôi nhân cơ hội nói: “Vấn đề của đơn vị, thì đừng mang về nhà, điều đó không tốt với con gái”. Từ đó về sau, vợ tôi về nhà cũng ít khi nổi nóng. Sau khi tu Đại Pháp, tôi hiểu ra là nhờ cái Thiện thuần chân ngây thơ của con gái đã hóa giải được “tức giận” của vợ tôi.

Đại sư Lý Hồng Chí giảng:

“Vì thế Từ Thiện này hễ xuất lai, thì lực lượng của Ông là vô tỷ; bất kể nhân tố bất hảo nào cũng đều bị giải thể. Từ Bi càng lớn, thì lực lượng đó càng lớn. Là vì trước đây xã hội nhân loại không có Chính Lý, vậy nên con người là không dùng Thiện để giải quyết vấn đề; con người xưa nay đều dùng thủ đoạn chinh phạt để giải quyết vấn đề của con người; do đó điều ấy trở thành cái Lý của con người. Người mong muốn thành Thần, bước xuất khỏi trạng thái con người, thế thì phải vứt bỏ loại tâm ấy, phải dùng Từ Bi để giải quyết vấn đề”. (Giảng Pháp tại các nơi IX – Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế Washington DC năm 2009)

Trong cuộc đàn áp bức hại tàn khốc đối với Pháp Luân Công này, học viên Pháp Luân Công chính là dùng duy nhất mặt Thiện của mình đối diện với bức hại của kẻ ác, đồng thời khi chịu đựng thống khổ bị bức hại, mà vẫn hướng đến họ giảng rõ chân tướng rằng Pháp Luân Công bị bức hại, nói cho họ biết thiên lý “thiện ác hữu báo”, vì vậy đã khiến không ít kẻ hành ác vứt bỏ hành vi ác, nhận được sự khoan dung tha thứ của Đại Pháp, từ đó thể hiện ra từ bi và Thiện to lớn của đệ tử Đại Pháp.

Không lâu sau khi cuộc bức hại Pháp Luân Công bắt đầu ngày 20 tháng 7 năm 1999, phòng 610 và công an lo sợ tôi và vợ tôi đi thỉnh nguyện, đã bảo đơn vị của tôi và vợ tôi phái người canh gác ở trong nhà chúng tôi, ban ngày nhân viên canh gác ngồi ở trong phòng khách, buổi tối xe cảnh sát chặn ở hành lang cửa ra vào và canh gác. Hai chúng tôi ngồi ở trong nhà nhìn nhân viên canh gác không có chút oán hận nào, ôm giữ thiện tâm và thiện đãi họ, đồng thời cũng hiểu họ, không làm khó cho họ. Sợ họ ngồi không buồn chán, hàng ngày mỗi buổi sáng đều pha trà và bật tivi lên. Thỉnh thoảng tôi giảng chân tướng Pháp Luân Công cho họ, cũng chỉ ra rằng việc canh giữ chúng tôi ở trong nhà là trái pháp luật. Bọn họ thành tâm nói: “Cả nhà các bạn quá thiện lương”. Dần dần cái tâm lo nghĩ vô căn cứ của họ cũng buông nhẹ, do đó để chúng tôi luyện công học Pháp ở nhà hoặc giả có đồng tu đến thăm thì họ đều chưa hề can thiệp, cũng không báo cáo cấp trên. Có lẽ mọi người đều nhận thức được làm điều này là đang làm chuyện xấu, do đó trong 45 ngày canh gác, ngoại trừ bí thư tà đảng và trưởng ban bảo vệ ra thì nhân viên canh gác hoán đổi mấy đợt, bao gồm nhân viên công tác tổ bảo vệ.

Dịp Tết, khi lại phải canh gác chúng tôi tại nhà, nhân viên của đơn vị không một cá nhân nào muốn đến, cuối cùng bí thư tà đảng đành phải tự mình đưa một người trẻ tuổi được thuê với mức lương cao đến canh gác. (Đương nhiên điều tôi làm lúc đó vẫn còn có chỗ nhận thức chưa đầy đủ, ngoại trừ thiện đãi họ, còn nên triệt để phủ định loại bức hại này).

Năm 2001 tôi bị bắt cóc phi pháp vào trại lao động cải tạo, đội trưởng phụ trách quản giáo tất cả đại đội của tôi (phó đại đội trưởng) là một quân nhân chuyển ngành, người dân tộc thiểu số, người cao rất to lớn thô kệch, da đen sì, vẻ bề ngoài mang đến cho người ta một hình ảnh hung tợn. khi anh ta còn là trung đội trưởng, việc đánh đập chửi mắng tù nhân trại lao động cải tạo là chuyện cơm bữa hàng ngày, lao động xong, tù nhân trại lao động cải tạo nếu không phải đi bộ ở trên bờ ruộng, thì họ cũng phải dùng tay nhổ cỏ bên đường (không được phép dùng công cụ), nghĩ ra mọi cách để hành hạ tù nhân trại lao động cải tạo. Anh ta không chỉ đánh đập chửi mắng tù nhân, mà thậm chí còn đánh đập chửi mắng cảnh sát, do đó tù nhân trại lao động cải tạo rất hận và cũng rất sợ anh ta, ngay cả cảnh sát cũng sợ anh ta.

Có một hôm, tôi và ba “giám sát” (giám sát có năm người, hai người trực ca đêm ngủ ở trong phòng) và mấy người lao động cải tạo đang ngủ trưa dưới mái hiên của tứ hợp viện (các trại lao động cải tạo thông thường đều là ở trong tứ hợp viện, xung quanh là tường bao vây), đột nhiên đại đội trưởng bước vào tứ hợp viện, anh ta thấy chúng tôi đang ngủ, liền mắng chửi, gọi mọi người tập trung lại và bắt đầu nói lời giáo huấn. Có một tù nhân trại lao động cải tạo đã buột miệng cười, anh ta liền hỏi cười cái gì, sau đó anh ta lập tức cầm một thanh tre mỏng, vừa quất vừa mắng chửi: “Mày cười cái gì?” Tù nhân đó nói: “Tôi không cười”. Anh ta nói: “Mày còn cãi lại”. Rồi đánh càng ác hơn nữa. Tôi nhìn anh ta, vì việc làm ác của anh ta mà thương xót cho anh ta. Lúc này anh ta nhìn thấy khuôn mặt tôi mang ánh mắt tường hòa, ngay lập tức anh ta dừng đánh đập mắng chửi, vứt thanh tre xuống rồi bỏ đi. Sau một lúc, một đội trưởng quản giáo (trong này cảnh sát đều gọi là đội trưởng) đến, bảo mọi người giải tán. Tôi nói: “Chúng tôi đã phạm tội gì? Phải có lời giải thích chứ!”

Sau bữa tối, đại đội trưởng đã tới, anh ta uống say bí tỉ. Chúng tôi bị anh ta gọi ra ngoài. Đầu tiên anh ta hỏi xem cách nhìn nhận của tôi, tôi nói với anh ta một cách bình hòa: “Đại đội trưởng, nếu đã uống rượu ở nơi làm việc thì tôi sẽ không xử lý được công chuyện, bởi vì uống rượu sẽ loạn tính, hôm nay anh đã uống rượu, do đó tôi không muốn bàn luận vấn đề”. Anh ta liền sững người lại, cũng đã khá tỉnh rượu, anh ta nói: “Vậy tôi với anh nói chuyện riêng được không?” Tôi nói: “Nói chuyện riêng với nhau thì có thể được!” Thế là anh ta bảo người khác giải tán, sai người cầm hai chiếc ghế đẩu tới, tôi và anh ta cùng nhau ngồi xuống bắt đầu nói chuyện. Tôi không nói với anh ta về sự việc phát sinh hôm đó, mà là thiện ý đàm luận với anh ta về vấn đề làm thế nào dùng Thiện để quản lý. Tôi nói: “Đại đội trưởng, tôi thấy anh rất ngay thẳng, tuy nhiên hiện tại anh là đại đội trưởng (anh ta vừa mới được đề bạt làm phó đại đội trưởng cách đây không lâu), anh nên chú ý đến hình tượng của bản thân, chú ý đến phương pháp và cách thức làm việc. Tôi cho rằng quản lý không thể chỉ dùng xử phạt, mà là cần dùng ‘Thiện’, dùng Thiện để cảm hóa người khác, sức mạnh của Thiện là vô cùng to lớn, chỉ có dùng Thiện mới có thể thực sự cải biến được một cá nhân, mới có thể giải quyết được vấn đề tư tưởng của con người. Nếu như mỗi cá nhân đều có thể tự mình ước thúc bản thân, thiện đãi người khác, khi làm việc đều suy xét cho người khác, vậy thì sẽ không cần dùng xử phạt nữa”.

Tôi còn thiện ý chỉ ra cho anh ta một vài ví dụ thực tế mà anh ta đã xử lý không thỏa đáng. Tôi nói: “Anh đã nói trong cuộc họp rằng hiện nay gà ta (gà tự nuôi ở địa phương) còn khó mua chứ giết tù nhân trại lao động cải tạo rất đơn giản, mua một cái bình đất thì quăng đi thôi v.v.” Anh ta biện bạch: “Hiện nay mua được đúng gà ta thực sự là khó”. Tôi ngắt lời anh ta: “Đại đội trưởng, họ cho dù hút hít ma túy, phạm pháp mà phải đến trại lao động cải tạo, nhưng họ vẫn là con người mà, con người là anh linh của vạn vật. ‘Thuyết tiến hóa’ mà Trung Cộng tuyên truyền nói con người là do khỉ tiến hóa thành, đây chẳng phải là đang sỉ nhục con người sao! Con người thực sự là do Thần tạo ra, con người có thể tu luyện thành Thần, làm sao lại có thể so sánh tương đương với động vật chứ?” Anh ta đã không nói gì.

Tối hôm đó chúng tôi đã nói chuyện hơn hai tiếng, chủ đề nói chuyện rất nhiều, chủ yếu là chủ đề về quản lý và làm người, tôi cũng giảng cho anh ấy chân tướng Đại Pháp, buổi nói chuyện của chúng tôi rất vui vẻ! Về đến phòng giam người giám sát nói với tôi: “Hôm nay tất cả là nhờ có anh, nếu không chúng tôi đã bị đại đội trưởng phạt cho thê thảm rồi. Pháp Luân Công các anh thật là lợi hại, chỉ anh dám nói chuyện như vậy với đại đội trưởng, anh không sợ anh ta sao?” Tôi nói: “Tôi tại sao phải sợ anh ta, anh ta tuy là đại đội trưởng, nhưng anh ta cũng là con người, con người ta đều có mặt thiện, tôi dùng Thiện, dùng từ bi đối đãi với anh ta, anh ta sao có thể ác với tôi được?” Tôi còn nói với họ về nội dung chủ yếu cuộc nói chuyện của tôi và đại đội trưởng, kỳ thực họ đều đã nghe được toàn bộ, bởi vì mỗi lần tôi và cảnh sát nói chuyện, tôi biết họ đều đang nghe lén.

Có một hôm, đại đội trưởng không biết vì sao lại đang mắng chửi người, tôi đi qua gọi một tiếng “đại đội trưởng”, anh ta lập tức dừng không chửi bới nữa, khuôn mặt dữ tợn khi quay sang tôi biến thành khuôn mặt tươi cười. Anh ta chào hỏi tôi rồi sau đó đi luôn. Một vị nữ cảnh sát trực ban lúc đó nói với tôi: “Tôi phát hiện ở đây chỉ có anh là không sợ đại đội trưởng, các tù nhân trại lao động cải tạo khác đều hận anh ta và cũng sợ anh ta, ngay cả cán bộ nữ chúng tôi cũng đều sợ anh ta, hễ nhìn thấy anh ta đều tránh xa anh ta. Ngược lại, khi anh ta thấy anh, thì cái mặt xị xuống liền trở thành khuôn mặt tươi cười”. Tôi cười cười nói: “Tôi với anh ta không oán không thù, tôi vì sao lại hận anh ấy, hơn nữa trong mắt người tu luyện chúng tôi thì không có kẻ địch. Anh ta cũng không có ba đầu sáu tay, tại vì sao tôi phải sợ anh ta chứ? Anh ấy nhìn tôi cười, bởi vì tôi là người tu luyện Đại Pháp Chân – Thiện – Nhẫn, tôi có mang theo trường từ bi của Đại Pháp, tất cả những thứ bất hảo ở trong trường này đều sẽ bị hóa giải, kỳ thực anh ấy không phải là cười với tôi, mà là sự tôn kính đối với Đại Pháp”.

Do tôi và đại đội trưởng thường xuyên giao lưu nói chuyện, tôi đã giảng cho anh ấy một vài Pháp lý của Đại Pháp nên anh ấy thể hiện sự tôn trọng đối với các học viên Pháp Luân Công. Sau buổi nói chuyện hôm đó anh ta đã cải biến rất nhiều, cũng quan tâm nhiều hơn đối với tù nhân trại lao động cải tạo.Tôi phản đối lao động ở trại cải tạo (đến tháng thứ ba tại trại cải tạo), tiến hành hai lần tuyệt thực (bởi vì một số nguyên nhân như trại cải tạo không để cho người thân vào thăm, tịch thu thư từ của tôi, đến kỳ hạn không thả tôi về), đại đội trưởng đều không làm khó tôi, mặc dù sau này đã giam tôi cùng với người giám sát trong một phòng giam riêng, ngược lại hoàn cảnh càng thoải mái hơn. Phòng tắm bằng năng lượng mặt trời của đại đội, ngoại trừ hàng ngày cảnh sát có thể tắm rửa thì 30 tết hàng năm tù nhân trại lao động cải tạo mới có thể tắm nước nóng một lần. Nhưng anh ta nói với người giám sát: “Bất cứ khi nào anh ấy muốn tắm, thì cùng anh ấy đi tắm”. Vốn tôi đã quen với tắm nước lạnh, tuy nhiên vì người giám sát, hàng ngày tôi vẫn đi tắm nước nóng bằng năng lượng mặt trời.

Sư phụ Lý Hồng Chí giảng:

“Phật là thiện, điều này là khẳng định. Nhưng kiểu từ bi đó là một loại thể hiện của sức mạnh của Phật Pháp vĩ đại. Dù cho chư vị bất hảo đến đâu, những thứ xấu tệ đến đâu, những thứ giống như sắt thép thì trước uy lực từ bi của Phật Pháp đều sẽ bị tan chảy”. (Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc [1999])

Đại Pháp đã nói rõ cho chúng ta rằng, vạn sự vạn vật trong vũ trụ là do đặc tính Chân – Thiện – Nhẫn cấu thành, và sức mạnh của Thiện là vô cùng to lớn, do đó với tư cách một con người mà nói, nếu như bất cứ lúc nào cũng bảo trì được một Thiện niệm, tâm thái tường hòa, thì sẽ có thể hóa giải được mâu thuẫn, có thể đắc được sự quan tâm bảo hộ của Thần Phật, bước qua khỏi kiếp nạn!

Dịch từ:http://big5.zhengjian.org/node/276585

The post Sức mạnh của Thiện là cự đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
12 điểm khải ngộ sau khi xem phim “Trở Lại Thành Thần”https://chanhkien.org/2023/12/12-diem-khai-ngo-sau-khi-xem-phim-tro-lai-thanh-than.htmlWed, 27 Dec 2023 00:48:06 +0000https://chanhkien.org/?p=32195Tác giả: Học viên Đại lục [ChanhKien.org] 1. Tín niệm kiên định của Quang Minh Vương về việc Chính Pháp tất thành Tại không gian vũ trụ sâu thẳm có một thế giới Quang Minh, sau khi Quang Minh Vương dẫn chúng Thần triệu tập khai mở đại hội tế trời, đóa bạch liên tượng […]

The post 12 điểm khải ngộ sau khi xem phim “Trở Lại Thành Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Học viên Đại lục

[ChanhKien.org]

1. Tín niệm kiên định của Quang Minh Vương về việc Chính Pháp tất thành

Tại không gian vũ trụ sâu thẳm có một thế giới Quang Minh, sau khi Quang Minh Vương dẫn chúng Thần triệu tập khai mở đại hội tế trời, đóa bạch liên tượng trưng cho thế giới Quang Minh phóng ra hàng nghìn tia sáng, khoảnh khắc đó cổng trời của Thế giới Quang Minh mở rộng, từ trên thiên thượng Sáng Thế Chủ phóng ra hàng vạn ánh sáng tốt lành giáng xuống.

Chúng Thần khấu bái Sáng Thế Chủ. Quang Minh Vương ắt phải lập lại đạo đức thời hoại diệt, thề cứu độ chúng sinh trong nguy nan, mang theo tín niệm vào Chính Pháp tất thành, không chút đắn đo buông bỏ hào quang của Thần cùng Thánh Vương hạ thế, còn lập lời thề: “Đồng tâm hạ thế, cùng về thiên đình” (Chúng ta sẽ cùng nhau đi xuống thế gian này và cùng nhau trở về thiên đình). Nhiều lần trải qua bảy nghìn đại kiếp của vũ trụ và bảy nghìn tiểu kiếp của con người và trên trời, cuối cùng đã đắc được Đại Pháp đổi mới vũ trụ.

Xem đến cảnh này, tôi không thể ngăn được hai hàng nước mắt lăn dài. Trên bề mặt thì là diễn câu chuyện của Quang Minh Vương, thực tế thì chính là câu chuyện của mỗi một đệ tử Đại Pháp, thậm chí rất nhiều con người thế gian cũng đã từng trải qua những câu chuyện tương tự, huyền ảo xa xăm mà chân thực, trực tiếp xúc động tâm can người ta, đây là lịch sử của chúng ta trong vũ trụ, xem bộ phim này có thể đánh thức những ký ức xa xưa, cũng có thể khích lệ tín tâm của người tu luyện, tăng thêm chính niệm kiên định vào Đại Pháp.

2. Ác báo của việc đến Đại hội tế trời trễ giờ

Đại hội tế trời trang nghiêm nhất, thần thánh nhất từ trước đến nay trong toàn bộ thế giới thiên quốc Quang Minh đã bắt đầu, Linh Phượng và Hải Nhạc Thần Quân thế mà lại đến trễ. Linh Phượng biết bản thân phạm phải luật trời, trước khi hạ thế Linh Phượng đã an bài những khổ nạn cho mình tại nhân gian, sẽ có Tiểu Vũ đến đánh thức bản tính tiên thiên của mình, sau đó lại đem kinh văn của Sư phụ đến cho người chồng đang bị giam nơi ngục tù, tăng thêm chính niệm cho vị đồng tu chồng, thuận lợi vượt quan thành công. Lời thệ ước vì lợi ích bản thân của Hải Nhạc Thần Quân trước khi hạ thế, đã dẫn đến bị cựu thế lực nắm chặt tội danh đến trễ đại hội tế thiên, khiến Triệu Hải Nhạc sau khi chuyển sinh chỉ một lòng nghĩ đến “chỉ muốn hơn người, không uổng phí đời này”, đối với việc Tống Quang Minh có một gia đình hạnh phúc lại càng sinh tâm đố kỵ. Hai người Tống Quang Minh và Tiểu Phượng đã nhiều lần giảng chân tướng cho Triệu Hải Nhạc, cũng không cứu được anh ta, thật sự quá đáng tiếc.

Vì thế, tôi nghĩ đến việc những đệ tử Đại Pháp ngày nay trên toàn thế giới đang làm việc cứu độ chúng sinh này, nhất định cần tận hết trách nhiệm bản thân, nhất định phải đoái hiện thệ ước lịch sử của bản thân, nhất định phải tập trung toàn lực làm thật tốt, không khiến cho Sư phụ từ bi phải kéo dài rồi lại kéo dài thời gian kết thúc Chính Pháp hết lần này tới lần khác, mà thế nhân không có được sự cứu độ kịp thời, nếu không hậu quả so với Hải Nhạc Thần Quân còn nghiêm trọng hơn.

3. Trí giả Vô Mê xuất hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối coi sóc điểm ngộ

Sự hiện diện xuyên suốt của Trí giả Vô Mê là một điểm mấu chốt để người xem hiểu được bộ phim, đặc biệt là sự trông coi điểm ngộ qua nhiều kiếp luân hồi của Tống Quang Minh, đã khởi một tác dụng thức tỉnh chính niệm của Tống Quang Minh. Là một đệ tử Đại Pháp, cũng đồng dạng là đối tượng được chúng Thần dõi theo quan sát, Pháp thân của Sư phụ lại càng thời thời khắc khắc đang bảo hộ và điểm hóa cho mỗi một đệ tử Đại Pháp, điều này thiết nghĩ là một đệ tử chân tu đều có thể hội sâu sắc.

4. Văn hóa chính thống được tổ tiên truyền thừa – Kính bái Thần Tiên ở đạo quán Thanh Phong

Kỵ của Tống Quang Minh dựng lên đạo quán Thanh Phong, có thể thấy rằng tổ tiên của Tống Quang Minh kính Trời kính Thần, còn Tống Quang Minh thì có căn cơ của tổ tiên để lại. Tổ tiên tích đức hành thiện, gia đình có truyền thống khí tiết chính trực. Văn hóa truyền thống gần với Thần, tuy nhiên vào thời Cách mạng văn hóa thì đạo quán ấy bị phá hủy, nhưng không hề ảnh hưởng đến việc chàng thiếu niên Tống Quang Minh thường đến đây dạo chơi, điều này đã tạo cơ sở cho việc đắc Pháp sau này của chàng.

5. Việc Tống Quang Minh đắc Pháp cùng sự quy chính của Thiên giới

Mỗi một người trên thế gian đều có sứ mệnh mà đến đây, đều là những sinh mệnh đến vì Pháp, đặc biệt là những sinh mệnh đã kết Thánh duyên với Sáng Thế Chủ, trên thế gian một khi nhập đạo đắc Pháp, từ trên thiên thượng mà nhìn thì là một sự kiện vô cùng vĩ đại, đây là sự chờ đợi lớn nhất của chư Thần. Thế nên vào lúc Tống Quang Minh cầm cuốn “Chuyển Pháp Luân” lên xem, đóa liên hoa trắng tượng trưng cho thế giới Quang Minh bừng sáng nghìn vạn ánh hào quang, cột sáng xông thẳng lên trời, vô số Pháp Luân thanh tẩy và quy chính lại thế giới thiên quốc Quang Minh, chúng Thần ở thiên giới Quang Minh thấy chúng sinh đã có hy vọng, mọi người đều vô cùng mừng rỡ.

6. Ma giáo bại hoại tại nhân gian

Ở nơi sâu thẳm của địa ngục, ma vương Đại Hồng Long (Rồng đỏ) thuận theo thiên thời vũ trụ đại kiếp, muốn kiến lập ma giáo tại nhân gian, lệnh cho Charles Darwin đến thế gian viết nên “Thuyết tiến hóa”, xúi giục người ta nhận định bản thân mình là từ khỉ tiến hóa thành, từ đó cắt đứt liên hệ với Thần; lệnh cho quỷ Tu La tại thế gian phát động bạo lực và đấu tranh, khiến máu chảy thành sông; lệnh cho Karl Marx đến phương Tây tạo dựng ma giáo ở thế gian, khiến thế nhân hiến thân cho ma vương; lệnh ác linh truyền nhập ma giáo đến Trung thổ (Trung Quốc), tuyên chiến với chúng Thần, an bài một con cóc tinh làm đại diện cho ma vương Đại Hồng Long để quyết chiến cùng chúng Thần.

Khi con người bị khuất phục bởi dục vọng, đa số người ta đều quên mất chân niệm khi hạ thế, vì thế bị ma tính dẫn dụ, người thế gian từ đó mà bị rơi vào kiếp nạn chưa từng có từ viễn cổ đến nay…

7. Nguồn gốc của xích khóa tâm

Những ai đến trễ đại hội tế thiên, những ai mê mất tâm trí, những ai lạc bước ma đạo, thì chân niệm của họ đều bị xích khóa tâm khóa chặt.

Điều này là hoàn toàn chính xác, đây là dùng thủ pháp nghệ thuật biểu diễn lại vấn đề thực tế tồn tại trong tu luyện Chính Pháp. Những ma nạn trong tu luyện cá nhân không phải vô duyên vô cớ, đều có nguyên nhân từ lịch sử xa xưa.

8. Sự thể hiện chân thực của tam thoái

Người gia nhập tà giáo cộng sản không chỉ có chân niệm là bị xích khóa tâm khoá chặt, mà trên đầu còn có hình tượng lưỡi hái và búa liềm của tà giáo cộng sản, chúng sinh trong phim sau khi tam thoái đều được giải thoát, điều này cũng chính là nguyên nhân mà đệ tử Đại Pháp hiện nay đang dốc toàn lực để cứu người trên thế gian.

Tam thoái lại càng không phải làm chính trị, là khiến cho người thế gian từ đang trong sự bức hại chính trị của tà đảng được cứu thoát, làm một người Trung Quốc truyền thống lễ nghĩa.

9. Tác dụng của Tiểu Vũ

Tiểu Vũ đã khởi tác dụng quan trọng thức tỉnh người mẹ. Rất nhiều đứa trẻ trong các gia đình của người tu luyện, cũng đang khởi tác dụng như thế, đây không phải ví dụ cá biệt, mà là có rất nhiều rất nhiều ví dụ như thế.

Có lần con trai tám tuổi của tôi sau khi phát chính niệm, nói với tôi rằng: “Ba ơi, con nhìn thấy ba có một thân thể khác bị xích khóa lại trên núi cao”. Đúng là lúc đó dưới áp lực mạnh mẽ từ bên ngoài, tôi vừa mới ký Giấy cam kết không tu luyện (còn gọi là Thư bảo chứng) nữa, cả ngày đầu óc mơ màng, cả người không còn chút thần khí nào.

Có thể thấy rằng xích khóa tâm hoàn toàn có tồn tại ở hình thức thân thể nơi không gian khác, đối với những người chưa tam thoái, với những người có cái nhìn sai về Đại Pháp, những người tu luyện bị chuyển hóa, đều có tồn tại loại tình huống này.

10. Tác dụng ứng cứu của người thân bên ngoài trại giam

Tống Quang Minh khi ở trong trại giam bị bức hại tàn khốc dần rơi mất chính niệm, thế giới thiên quốc đối ứng với anh lập tức nổi lên cuồng phong đen nghịt, cuồng phong càng ngày càng mãnh liệt, cát đá cuồn cuộn, sức mạnh hủy diệt là bất khả chiến bại. Chúng Thần trong thế giới Quang Minh bị ma lực biến thành đá, những ai pháp lực yếu liền bị giải thể, đại biểu cho trí huệ của thế giới Quang Minh là trí giả Vô Mê cũng là người cuối cùng bị biến thành đá.

Tiểu Phượng dưới sự giúp đỡ của con gái Tiểu Vũ, sau khi học Đại Pháp đã thức tỉnh được chính niệm, sau khi đề cao tâm tính, xung phá tầng tầng trở lực đi đến trại giam, thăm đồng tu chồng Tống Quang Minh. Tiểu Phượng thật sự cẩn thận đã tránh khỏi sự giám sát của cảnh sát, cô bảo Tống Quang Minh ghi nhớ kinh văn của Sư phụ được viết trong lòng bàn tay của cô:

Chính Niệm Chính Hành

“Đại giác bất uý khổ
Ý chí kim cương chú
Sinh tử vô chấp trước
Thản đãng Chính Pháp lộ”

Tạm dịch:

Chính Niệm Chính Hành

Đại Giác không sợ khổ
Ý chí kim cương đúc
Không chấp vào sinh tử
Thanh thản Chính Pháp lộ

(Hồng Ngâm II – Chính Niệm Chính Hành)

Nhìn thấy kinh văn của Sư phụ, Tống Quang Minh đột nhiên cảm nhận được năng lượng của Đại Pháp bao bọc, khởi lên chính niệm, không chấp mê không sợ hãi, buông bỏ hết thảy chấp trước, kiên quyết không ký thư bảo chứng của tà ác. Đồng thời cùng sự quy chính trong Đại Pháp của Tống Quang Minh nơi thế gian, thế giới Quang Minh cũng ngay lập tức khôi phục lại tất cả chúng Thần.

Trong trại giam, tà ác cự tuyệt không cho học viên nào không chịu chuyển hóa được gặp lại thân nhân, đây là thủ đoạn để tà ác muốn hủy diệt nhân loại, và cựu thế lực hủy diệt vũ trụ. Nếu không có sự gặp gỡ với thân nhân, tà ác sẽ càng thêm phóng túng không kiêng dè mà bức hại, thế nên những người thân bên ngoài của các học viên Pháp Luân Công phải xông phá rất nhiều trở lực, khi cần thiết có thể khiếu nại lên cơ quan tư pháp về những vi phạm trong trại giam, dùng quyền gặp mặt của pháp luật, để được gặp người thân bên trong trại giam, tăng cường chính niệm cho người trong trại giam.

11. Sự lựa chọn đầy chính niệm của Tống Quang Minh trước khi bị thu hoạch nội tạng

Vào thời khắc trước khi Tống Quang Minh bị tà đảng mưu sát thu hoạch nội tạng, nguyên thần đã nhìn thấy lời thệ ước của bản thân trước khi hạ giới: “Đồng tâm hạ thế, cùng về thiên đình”. Nghĩ đến việc bản thân vẫn chưa hoàn thành sứ mệnh, người cần cứu vẫn chưa cứu đủ, rồng đỏ vẫn chưa bị giải thể, tà đảng vẫn hành ác ở nhân gian, không thể nào đi trước được. Chúng Thần nhìn thấy Tống Quang Minh đã khởi chính niệm, đã kết thúc sinh mệnh thụ thể của cựu thế lực, việc thu hoạch nội tạng bị dừng lại. Bộ phim phản ánh chính diện vấn đề này.

Trong thực tế hàng triệu đệ tử Đại Pháp bị bức hại đến chết, đây là tổn thất lớn nhất trong tu luyện Chính Pháp! Từng tư tưởng, từng ý niệm của người tu luyện vô cùng quan trọng, thời điểm then chốt là đi hay là ở lại, đều là do bản thân tự làm chủ, mong rằng mỗi một vị đồng tu trong ma nạn đều có thể suy nghĩ kỹ vấn đề này.

12. Sự giải thể Đại Hồng Long và những vị Thần của vũ trụ thời kỳ “Diệt”

Trong lúc Tống Quang Minh và rất nhiều những người tu luyện Đại Pháp phát chính niệm, vào thời khắc then chốt khi phần Thần truy sát Đại Hồng Long, gặp phải trở lực cực lớn, “Diệt” – sinh mệnh lớn nhất của cựu vũ trụ cuối cùng cũng ra tay bảo hộ cho Đại Hồng Long, Thần của “Diệt” khi đấu pháp với Tống Quang Minh bị cùng đường, muốn tận diệt Tống Quang Minh và rất nhiều đệ tử Đại Pháp khác, trong thời khắc nghìn cân treo sợi tóc ấy, Sáng Thế Chủ đã gia trì thêm chính niệm cho họ, giải thể thần “Diệt” của cựu vũ trụ và Đại Hồng Long, giải thể cóc tinh.

Dưới sự dẫn dắt của Sáng Thế Chủ, người tu luyện Chính Pháp đã dẫn theo chúng sinh bước qua thời kỳ “Diệt” của cựu vũ trụ, hướng đến cuộc sống mới, cũng vĩnh viễn đồng tại cùng vũ trụ.

Chúng sinh sẽ vĩnh viễn ca tụng những lời đẹp nhất đến Sáng Thế Chủ, vĩnh viễn hát lên bài ca cảm ân cứu độ của Sáng Thế Chủ!

Ghi chú của người dịch:

Kính mời độc giả xem tham khảo phim “Trở Lại Thành Thần” tại đây:

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286982

The post 12 điểm khải ngộ sau khi xem phim “Trở Lại Thành Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luận về ý nghĩa của sinh mệnhhttps://chanhkien.org/2023/12/luan-ve-y-nghia-cua-sinh-menh.htmlFri, 22 Dec 2023 03:38:55 +0000https://chanhkien.org/?p=32161Tác giả: Canh Tâm [ChanhKien.org] Lời của Ban biên tập: Chúng ta đang sống trong thời mạt hậu của mạt kiếp mạt thế, con người đang ở trong mê mang không thấy được hy vọng. Làm một người tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã tiết lộ thiên cơ cho chúng ta biết được con […]

The post Luận về ý nghĩa của sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Canh Tâm

[ChanhKien.org]

Lời của Ban biên tập: Chúng ta đang sống trong thời mạt hậu của mạt kiếp mạt thế, con người đang ở trong mê mang không thấy được hy vọng. Làm một người tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã tiết lộ thiên cơ cho chúng ta biết được con người tại sao lại làm người. Nhìn thấy những người vì để tự cứu lấy Thiên Quốc của mình mà không ngại liều mình can đảm đến với thế giới thập ác này mà vẫn chưa được đắc Pháp, vẫn đang ở trong trần thế mà tranh đấu khổ đau, trong vô thức mà hủy diệt đi chúng sinh của chính mình. Làm thế nào để có thể dùng ngôn ngữ thông tục dễ hiểu, đơn giản mà mọi người ưa nghe thích nhìn để dần dần khuyến thiện và mở được nút thắt trong tâm họ, để họ hiểu được nơi trở về của con người thực sự là ở Thiên thượng chứ không phải ở dưới mặt đất; đây là vấn đề mà một đệ tử Đại Pháp cần dụng tâm cân nhắc kỹ lưỡng để có thể cứu được nhiều người hơn nữa trong những giây phút cuối cùng của cuối cùng này. Mượn bài viết này hy vọng những đồng tu có chung suy nghĩ tích cực gửi bài viết, để khi Pháp Chính Nhân Gian đến chúng ta không phải lưu lại hối tiếc.

Ý nghĩa của sinh mệnh là gì? Nhiều người bận rộn đến mức không có thời gian chú ý đến, thỉnh thoảng có một ý nghĩ thoáng qua trong đầu nhưng dường như luôn đi kèm theo tiếng thở dài mờ nhạt. Hầu hết người ta đều không muốn đối mặt, đụng chạm hay nghiên cứu sâu hơn, lời thoái thác công khai chính là: Những mệnh đề triết học cao thâm khó hiểu như vậy không phải là vấn đề mà tầng lớp dân thường như tôi cần phải suy xét, có thể sống tốt qua những ngày tháng trước mắt đó chính là ý nghĩa lớn nhất của sinh mệnh rồi. Có đúng như vậy không? Từ nhỏ đến khi trưởng thành, tôi luôn nghi ngờ về những lời thoái thác đó, trong u minh dường như tôi luôn kiếm tìm, mãi đến một ngày tôi đã minh bạch rằng, kể cả là người dân bình thường nhất cũng có lúc phải đối mặt và suy ngẫm về ý nghĩa cuối cùng của sinh mệnh.

Anh trai cả của tôi sinh sống ở vùng nông thôn, anh thuộc vào tầng lớp nông dân bình thường nhất. 20 năm trước anh cũng được xem là tuổi trẻ tràn đầy sức lực, bất cứ việc gì cũng muốn tranh đấu, phấn đấu hết mình một phen. Anh ấy thuộc về loại người không chấp nhận số phận, là người rất rõ ràng rành mạch, theo chủ nghĩa hoàn mỹ. Đối với vấn đề rất mơ hồ huyền hoặc như ý nghĩa của sinh mệnh là gì, anh cảm thấy có chút buồn cười và không thực tế. Làm thế nào để có thể kiếm được thêm chút tiền, làm thế nào để có một cuộc sống tốt đẹp có nhà, có xe, làm sao để không mất đi giá trị và được coi trọng khi đứng trước mặt người khác mới chính là đạo lý thực tại. Nhưng có một ngày, cơ thể cường tráng ngày nào của anh đột nhiên suy sụp, anh ấy nằm trên giường yếu ớt suy nhược, bệnh viện chẩn đoán: xơ gan cổ trướng (ung thư gan giai đoạn đầu), sự việc xảy ra như sét đánh ngang tai, tất cả ước vọng về tương lai tươi đẹp của cuộc đời bỗng sụp đổ trong chốc lát! Khoảng thời gian đó nội tâm của anh như bị đày đọa trong địa ngục, điều đó khiến anh cả của tôi không thể nào quên trong suốt quãng đời còn lại, cũng làm cho anh ấy có cơ hội hiểu được sâu sắc hơn về nhân tình thế thái và về kiếp nhân sinh.

Còn nhớ hôm đó là một ngày mùa đông, tôi vội vã từ nơi khác về quê, ngồi trong chăn cùng với anh trai ôn lại chuyện cũ. Anh cả kể lại trải nghiệm khó quên đó trong nước mắt:

Lúc đó khi bản thân nằm trên giường, anh nghĩ rằng không biết lúc nào đó một khi nhắm mắt lại sẽ không thể mở ra được nữa, không kìm nổi cảm xúc mà bật khóc như mưa. Hai đứa con, đứa lớn chưa đến mười tuổi, nếu anh không thể qua khỏi kiếp nạn này thì chị dâu của em phải làm sao đây? Những ngày tháng về sau phải sống như thế nào? Chỉ nghĩ đến thôi cũng cảm thấy trong lòng thật tồi tệ. Lúc đó mới đột nhiên nghĩ ra sinh mệnh quý giá biết nhường nào, một khi mất đi sinh mệnh thì tất cả những gì mà mình phấn đấu và tất cả những gì mình yêu thích đều không thể bảo vệ được; nằm yếu ớt thoi thóp trên giường, không thể làm được gì, nhà có việc gì cũng không thể giúp đỡ, chỉ đành giương mắt nghe theo sự sắp xếp của số phận. Cái sự bất lực, lẻ loi, vô vọng trong đau khổ và tiếc nuối đó thật đúng là không thể diễn tả được bằng lời. Nói tới đây, anh cả không khỏi thở dài, nghẹn ngào. Đến lúc đó anh mới ý thức được trước đây không biết trời cao đất dày, không sợ trời không sợ đất, chỉ vì danh lợi tình, thích ra vẻ mà đụng dao đụng súng, không coi sinh mạng ra gì. Bây giờ nghĩ lại, khi ấy chỉ cần một chút bất cẩn chắc chắn sẽ hết mệnh lìa đời khi nào chẳng hay, như thế chẳng phải tất cả những gì phấn đấu nỗ lực đều uổng công cả rồi sao?

Còn nữa, trước đây thường nghe người ta nói rằng thói đời đen bạc, lòng người dễ thay đổi, tình người bạc bẽo nhưng bản thân cũng không để ý lắm, trong nguy nan mới nhận ra rằng tình người nghĩa khí đều không đáng tin cậy. Khi bản thân cần sự giúp đỡ của mọi người thì rất nhiều người thân và bạn bè lại không muốn hết lòng giúp đỡ, họ coi trọng tiền bạc còn hơn cả sinh mệnh của anh, họ sợ nếu anh ra đi sẽ không thể trả được nợ cho họ; điều này làm anh vô cùng hụt hẫng. Ôi, thân thể anh không khỏi run rẩy khi cất những tiếng than thở dài đầy ngao ngán, có thể thấy trong lòng anh thật sự rất sốc. Những thứ mà anh xem trọng, chấp trước và truy cầu (danh lợi tình) hóa ra đều là hư vô, như bong bóng có thể vỡ tan bất cứ lúc nào.

Trong lúc đau khổ, đối mặt với sự đe dọa của cái chết, đối mặt với kết cục phải mất đi tất cả, tưởng chừng như vừa tỉnh dậy từ một giấc mơ nhưng trái lại càng làm thần trí của anh thanh tỉnh và thực tế hơn. Một sợi dây chân niệm của những suy nghĩ vốn mơ hồ và rời rạc trước kia dường như ngày càng hiện rõ trước mắt anh: Ta từ đâu đến, rồi sẽ đi về đâu? Thực sự có thiên đường và địa ngục không? Thực sự có nhân quả thiện ác báo ứng không? Mấy chục năm trôi qua rốt cuộc ta là người như thế nào? Tương lai sẽ có kết cục như thế nào? Ý nghĩa của sinh mệnh rốt cuộc là gì? Nếu có đời sau hoặc đại nạn lần này không chết, ta phải đi nốt quãng đường còn lại thế nào cho tốt đây?

Nghe được những lời tâm sự của anh cả, lòng tôi cũng có nhiều cảm xúc lẫn lộn. Sư phụ giảng:

“Ý nghĩa sinh mệnh là gì
Bạn từng tìm kiếm một cách khổ sở
Khi vui sướng thì mơ hồ quên hết
Khi phiền não oán trời oán đất
Khi bận rộn thân bất do kỷ
Nửa đời nhọc nhằn danh và lợi
Dường như âm thầm tự đang đợi ai đó
Chỉ thoáng cái là bị những phiền nhiễu của thế gian che kín
Ý nghĩa của sinh mệnh là gì
Chân tướng có thể khai mở ký ức”.

(Hồng Ngâm III – Ý nghĩa sinh mệnh là gì)

Chân tướng gì? Những người khác nhau và những hoàn cảnh khác nhau sẽ có những chân tướng khác nhau.

Đối với anh cả mà nói, trước đây anh luôn cho rằng con người vì tiền tài mà chết, chim vì thức ăn mà vong là đạo lý hiển nhiên; kẻ thất phu bị nhục tuốt kiếm tương đấu chính là anh hùng; tranh đấu đến chết vì danh lợi tình là điều không đáng tiếc. Nhưng khi thực sự đối mặt với sinh tử mới phát hiện những việc chính nghĩa, chiến công và hào khí này dường như không có ý nghĩa gì. Dù tiền có nhiều đến đâu thì ai có thể giữ được nó? Dù tiền có nhiều bao nhiêu thì làm gì có ai có thể bảo hộ được sinh mệnh? (Bao đời Đế Vương, cao quan, thương nhân của các triều đại tiền nhiều chẳng thiếu, nhưng có ai là vạn thọ vô cương đâu?) Người đi trà nguội, xa mặt thì cách lòng, những việc sau khi chết căn bản không thể làm gì được. Sự thật vốn rất khắc nghiệt, thông thường mọi người đều không muốn đối mặt trực tiếp, dù cố tình hay vô ý thì đều là đang bịt tai trộm chuông, tự lừa dối mình mà né tránh. Nhưng chân tướng vẫn là chân tướng, sự thật vẫn là sự thật, sớm hay muộn cũng không ai né tránh được. Khi giấc mơ êm đềm bao năm chợt tan vỡ, những kí ức thâm sâu xa xưa của sinh mệnh trong khi không để ý mà thường sẽ được mở ra. Lúc này người ta mới giật mình nhận thức đến ta là ai? Ai là ta? Chỉ khi này mới thật sự cân nhắc đến ta từ đâu đến? Rồi sẽ đi về đâu? Nhân tố quyết định nơi sinh mệnh ta quay trở về là gì? Lúc này mới phát hiện thiện ác nhân quả báo ứng dường như là có thật, lúc đó mới bắt đầu hối hận về quá khứ ngu dốt của bản thân đã phạm phải vô số sai lầm lớn, chỉ khi đó mới mơ hồ hiểu được ý nghĩa của sinh mệnh thực sự là gì. Đây là lúc mọi người mới thực sự bắt đầu tỉnh dậy từ ảo giác, mới thực sự nhận thức ra được bản thân, lúc đó mới bắt đầu sống với thần trí thanh tỉnh. Nhưng mà thế gian con người là một thùng thuốc nhuộm lớn với đầy rẫy cám dỗ ảo ảnh, có bao nhiêu người có thể thật sự bảo trì được lý trí thanh tỉnh chứ?

Người ta tấp nập tới lui trên đường, xem ra mọi người đều đang vác một cái đầu trên vai, dường như giữa người với nhau không có khác biệt bao nhiêu. Trên thực tế căn cơ, nguyên lai, ngộ tính có sự khác biệt đến mười vạn tám nghìn dặm. Tôi từng rất thích và nhiệt tình thảo luận các chủ đề về ý nghĩa thực sự của sinh mệnh với người khác, nhưng không có mấy người hứng thú, cũng chẳng có mấy người có thể nói ra được nguyên do, điều này không khỏi làm tôi có chút thất vọng. Lúc còn nhỏ, trong vô minh dường như tôi đang tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sinh mệnh, lúc đó chưa có khái niệm về danh từ như vậy, nhưng tôi thường ngây người nhìn bầu trời và ánh chiều tà, giống như câu hát đồng dao: Nghĩ rằng liệu có vị Thần Tiên nào sống bên ngọn núi kia không.

Còn nhớ có một ngày trời vừa chập tối, tôi chơi một mình trước cửa, gia đình hàng xóm đang làm đám tang, nghe thấy tiếng kèn đồng tôi chợt nghĩ: Chết là chuyện gì vậy? Thế là tôi duỗi tay ra nhìn mu và lòng bàn tay lật tới lật lui, tôi cũng sẽ chết sao? Nếu bàn tay này chết rồi thì sẽ như thế nào? Dường như một câu hỏi đã chôn vùi trong trái tim non nớt của tôi kể từ đó, rằng: Tôi từ đâu đến? Rồi sẽ đi về đâu? Sau này trong cuộc sống và học tập tôi thường vô tình hoặc cố ý mà kiếm tìm câu trả lời cho những câu hỏi tương tự như vậy. Lúc học đại học, có một khoảng thời gian tôi rơi vào trạng thái bàng hoàng mờ mịt, chính là cảm thấy sinh mệnh mất đi động lực sinh cơ bừng bừng vốn có, không biết được ý nghĩa của việc chăm chỉ học tập và làm việc là gì, không biết được ý nghĩa sự sống của sinh mệnh là gì.

Tôi đến thư viện mượn cuốn sách về tiểu sử các danh nhân để xem với hy vọng có thể từ họ mà khám phá được giá trị tràn đầy sức sống của sinh mệnh ở đâu, nhưng cuốn sách khiến tôi rất thất vọng, những lý tưởng, mục tiêu mà họ vô cùng coi trọng và cho là động lực của cuộc sống, đối với tôi thực sự giống như “lý tưởng của bầy lợn” (trích lời của Einstein trong tiểu luận “Thế giới như tôi thấy”), những cái gọi là danh vọng, giàu có, quyền lực, vinh quang và phát hiện khoa học, tôi luôn cho rằng nó không có ý vị gì và không khơi dậy được hứng thú của tôi chút nào, lúc đó tôi có ba giả định:

Thứ nhất: Ví dụ như nếu một ngày tôi đạt được một thành tựu nào đó trong nghiên cứu khoa học và trở thành một khoa học gia nổi tiếng thế giới, vậy thì đã sao chứ? Liệu những nghiên cứu khoa học của tôi có thể giải thích được những bí ẩn của sinh mệnh, vũ trụ, thời không và vật chất không? Có thể hiểu được ý nghĩa mục đích thực sự của sinh mệnh là gì không? Nếu không thể, vậy hào quang và vinh hiển của một nhà khoa học có ý nghĩa gì với tôi chứ? Xem qua kiến thức vật lý, sinh học, triết học và nội dung của các môn học khác mà tôi được tiếp cận vào thời điểm đó, tôi nhận thức một cách rõ ràng rằng tất cả thứ đó đều như người mù sờ voi, nó chỉ là một cách nhìn hạn hẹp và rời rạc của một chút hiện tượng biên duyên, căn bản không thể đột phá một cách thực chất. Cho dù vĩ đại như nhà khoa học Newton và Einstein cũng tự cảm thấy như một đứa trẻ đứng trên lưng người khổng lồ mà nhặt vài cái vỏ sò, hơn nữa ông từ đầu đến cuối tin vào Thần học và nhiều lần tuyên bố rằng linh cảm của bản thân đến từ sự khải thị của Thần, điều này làm cho tôi vô cùng ngạc nhiên.

Thứ hai, nếu tôi làm về chính trị và có vinh dự trở thành người lãnh đạo tối cao của đất nước (đương nhiên điều này là không thể nào, chỉ là đầu não tự suy diễn ra), liệu quyền thế, vinh quang và sự giàu có như vậy có thực sự làm tôi hài lòng và phấn đấu vì nó mà không hề hối tiếc không? Dường như là không thể, hơn nữa hoàn toàn là không thể được. Mục tiêu lý tưởng của nhân sinh như vậy không hấp dẫn tôi chút nào, thậm chí còn khiến tôi cảm thấy khinh thường. Tuyệt đối không thể chỉ vì mục tiêu như vậy mà ra sức học tập và phấn đấu được.

Thứ ba, nếu tôi là người kinh doanh và may mắn trở thành tỷ phú, bằng cách này liệu chúng ta có thể tận hưởng cuộc sống một cách an tâm và không hối tiếc rồi sao? Cẩn thận suy luận và đặt mình vào vị trí người khác mà nghĩ, vẫn là cảm thấy không có ý nghĩa gì. Để tôi cống hiến cả cuộc đời của mình cho việc theo đuổi quyền lực, giàu có và sự hưởng thụ, rất nhiều điều dung tục như thế thật sự là một dư vị thấp kém không thể chịu đựng được.

Nói những điều này không phải để khoe khoang bản thân thanh cao như thế nào mà tôi muốn tái hiện một cách trung thực quá trình tâm lý mà tôi đã đối mặt khi đó. Đúng vậy, chúng ta cần cúi đầu để kéo xe nhưng càng cần ngẩng đầu để nhìn đường, nếu chọn sai đường thì phương hướng sẽ bị ngược vậy thì cố tiếp tục cúi đầu kéo xe sẽ ra sao đây? Nói một đằng làm một nẻo, bao công lao cũng đổ sông, đổ biển mà thôi. Lão Tử viết: “Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn” có ý nghĩa gì? Học vấn càng ngày càng phong phú thì rời xa đạo càng ngày càng xa, đi theo hướng ngược lại. Tại sao lại như vậy? Mọi người đều biết Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, nhưng có mấy người có thể hiểu được nội hàm ở bên trong câu chuyện này chứ? Lúc đó tôi cũng không biết bản thân muốn làm gì, chỉ là cảm thấy rằng mọi thứ mà thế nhân theo đuổi và coi trọng như quyền lực, tài phú, vinh quang, sắc tình, v.v. đối với tôi mà nói nó như là những thứ rác rưởi, thật sự không có hứng thú. Trong mơ hồ dường như tôi đang tìm kiếm thứ gì đó, luôn muốn tìm được thứ gì đó mà tôi có thể phó xuất tâm huyết cả đời mình thậm chí cả sinh mệnh cho nó mà không hề phải hối tiếc. Nhưng đó là thứ gì? Lúc đó tôi cũng không biết, có lẽ là cái “Đạo” mà Lão Tử nhắc đến? Hay đó là hướng đi mà Trương Quả Lão cưỡi lừa đi ngược lại với thế nhân ư?

Đương nhiên nguồn gốc, căn cơ và ngộ tính của mỗi người là khác nhau; cùng là một sự việc, cùng một sự vật trong mắt những người khác nhau sẽ có những nhận thức khác nhau, không có hai người nào trên thế giới này có những nhận thức hoàn hoàn tương đồng với nhau. Cũng là nói tôi cũng không phải có ý đem nhận thức của cá nhân để áp đặt cho bất kỳ ai, tôi chỉ đang cố gắng nhìn lại và khôi phục hành trình tinh thần của chính mình, đồng thời chỉ ra những vấn đề và nghi ngờ mà tôi gặp phải ở bước ngoặt trong một giai đoạn nhất định của cuộc đời, hoặc nó có thể là một tài liệu tham khảo hoặc cộng hưởng cho một số người. Nhưng bây giờ nhìn lại, tôi ngạc nhiên phát hiện hành trình tâm lý của tôi ở giai đoạn này lại rất giống với trạng thái tư tưởng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi Ngài xuất gia vào 2,500 năm trước (đây không phải là trèo cao, đề cao bản thân). Sau này tôi giao lưu với nhiều người bạn bè đồng đạo và rất nhiều người cũng có những trải nghiệm tương tự. Có vẻ như là sự trùng hợp nhưng có lẽ không phải là sự ngẫu nhiên; loài vật vốn họp theo loài, người chia theo bầy, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, thật đúng là người ở cảnh giới nào thì sẽ đi trên con đường của cảnh giới đó.

Ta là ai? Ta từ đâu đến? Mục đích và ý nghĩa thực sự của sinh mệnh là gì? Xem ra đây là một vấn đề triết học vừa cổ xưa vừa non trẻ, vừa thâm thúy vừa bác đại, đối với người thường dường như không thể với tới được. Nhưng trong lúc vô tình, có rất nhiều người tưởng chừng như vừa phổ thông, vừa tầm thường lại có thể động chạm đến tâm linh, những cảm ngộ về sinh mệnh có lúc còn rõ ràng và trực tiếp hơn những giáo sư tiến sĩ kia. Đại sư Lý Hồng Chí người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp nói:

“Trời đất mênh mông ta là ai
Nhớ không rõ luân hồi đã bao lần
Trong khổ nạn mà mê mang tuyệt vọng
Cái tâm mòn mỏi vì thế mà rã rời
Trong đêm tối nhỏ lệ tang thương
Cho đến thời khắc ta thấy được chân tướng
Cho đến khi tìm được Đại Pháp như sấm bên tai
Ta minh bạch rằng ta là ai
Ta biết được rằng cần phấn khởi thẳng tiến trên con đường của Thần”

(Hồng Ngâm III – Ta là ai)

Họa phúc vốn phụ thuộc, nương tựa vào nhau, trong khổ nạn, trong tuyệt vọng bản tính thuần chân tiên thiên của con người thường buộc phải thức tỉnh, lúc đó mới biết phản tỉnh bản thân, rồi mới nghĩ ra và tự hỏi bản thân là ai. Nhưng mà đại đa số đều không có đáp án, chỉ là sự mờ mịt và u sầu vô hạn, dẫn đến “Cái tâm mòn mỏi vì thế mà rã rời”. Nghĩ đến năm đó lần đầu tiên tôi nhìn thấy trong Chuyển Pháp Luân Sư phụ có giảng:

“Chân Thiện Nhẫn là đặc tính của vũ trụ, nó là tiêu chuẩn duy nhất nhận định người tốt xấu”.

Lúc đó trong nội tâm tôi có sự chấn động rất mạnh mẽ, dường như trong tăm tối có một trái tim đang treo lơ lửng đã lâu đột nhiên rơi xuống đất, trong lòng tôi mơ hồ cảm thấy rất thoải mái, cuối cùng đã tìm thấy được mục đích làm người và có cơ sở để an thân lập nghiệp. Khi đọc “Khí công là văn hóa tiền sử”, thuyết tiến hóa giam cầm tư tưởng bản thân nhiều năm qua đột nhiên sụp đổ, tôi nhận ra rõ ràng rằng chúng ta nên suy nghĩ lại về nguồn gốc của sinh mệnh, cần đột phá tư duy cố định cứng nhắc, xem xét lại thật kỹ các loại dạng hiện tượng tồn tại khách quan và thực tế thay vì mù quáng chụp lên cái mũ lớn là mê tín hoặc né tránh vì khoa học kém phát triển.

Về sau những trải nghiệm thần kỳ khác nối tiếp nhau mà đến, tôi thật sự nhìn thấy hết thảy những thứ chỉ tồn tại trong truyền thuyết và thần thoại trước đây, lúc đó điều này đương nhiên là một sự chấn động phá vỡ thế giới quan của tôi. Rõ ràng bày ngay trước mắt thì dũng cảm đối mặt với nó hay là ngoan ngoãn né tránh nó? Không còn nghi ngờ gì nữa, bất cứ ai có sáng suốt và có kiến giải đều sẽ không bài trừ nó một cách mù quáng.

“Ý nghĩa của sinh mệnh là gì, chân tướng có thể mở ra ký ức” (Hồng Ngâm III – Ý nghĩa sinh mệnh là gì)

Thời điểm đó tôi đã nhìn thấy và lý giải được chân tướng, một chút cảm ngộ chân thực và sự thanh tỉnh của bản thân tôi khi ở cùng với anh cả đang trên bờ vực sinh tử, đó hoàn toàn không phải là thước đo hay khái niệm. Trong khổ nạn, trên bờ vực của sự sống và cái chết, chỉ là buộc con người ta thanh tỉnh một chút trong trong cái ảo ảnh bị tan vỡ mà thôi, người ta bắt đầu suy nghĩ về những vấn đề như ta là ai, từ đâu đến, phải đi về đâu, ý nghĩa của sinh mệnh là gì. Nhưng đại đa số đều không có đáp án, chỉ có thể “trong đêm tối nhỏ lệ tang tang thương” mà thôi (Hồng Ngâm III – Ta là ai). Cảm ngộ của tôi sau khi bước trên con đường tu luyện là “Ta minh bạch rằng ta là ai. Ta biết được rằng cần phấn khởi thẳng tiến trên con đường của Thần”.

Trong tình hình đại dịch và các loại thiên tai nhân họa liên tiếp nhau kéo đến hết sóng này tới sóng khác. Trong bầu không khí căng thẳng, sóng sau cao hơn sóng trước, hầu hết mọi người đều sợ hãi và bất an trong lòng, đặc biệt là khi bản thân mình hoặc bạn bè thân quyến gặp nạn thì càng lo lắng và sợ hãi hơn, hy vọng có thể tìm thấy được giải pháp thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn này và cũng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sinh mệnh. Tuy nhiên do sự truyền bá nhồi nhét giáo dục của thuyết vô thần trong gần trăm năm qua, rất nhiều người đã mất đi cái tâm kính nể của cổ nhân đối với thiên địa thần linh, cũng đánh mất tiêu chuẩn tâm pháp để con người suy nghĩ xem ta là ai, đến từ đâu và sẽ đi về đâu. Thường thường sẽ là tư vô sở đắc, tưởng vô khả tưởng (chẳng cầu mà lại có, muốn có chưa chắc đã được), lão hổ thực thiên, vô xử hạ khẩu (lão hổ muốn nuốt trọn cả trời nhưng chẳng làm sao nuốt được).

Khi người xưa gặp phải tai họa nào đó đều biết tìm lỗi sai ở bản thân mình, biết tự trách mình, hiểu được những khổ nạn này có thể là báo ứng do bản thân sau khi đã tạo nghiệp, biết được cầu xin Thần Phật sẽ được tha thứ, cho bản thân cơ hội bù đắp và sửa đổi lỗi lầm bản thân. Con người hiện nay hoàn toàn không phải như vậy, chỉ biết oán trời oán đất, chỉ còn lại:

“Trong khổ nạn mê mang tuyệt vọng
Trái tim mòn mỏi vì thế mà rã rời
Trong đêm tối nhỏ lệ tang thương”

(Hồng Ngâm III – Ta là ai)

Pháp độ người hữu duyên, người nào có thể hiểu sẽ tự hiểu ra. Ở đây chỉ là phao chuyên dẫn ngọc, rất khó để nói rõ ràng, người hữu duyên thông qua tự thân tu luyện sẽ tự biết tâm lĩnh thần hội.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/274329

The post Luận về ý nghĩa của sinh mệnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tẩu hồi truyền thống và buông bỏ quan niệm hiện đạihttps://chanhkien.org/2023/12/tau-hoi-truyen-thong-va-buong-bo-quan-niem-hien-dai.htmlFri, 01 Dec 2023 23:14:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31963Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Canada [ChanhKien.org] — Một chút thể hội khi học Hồng Ngâm V và VI — Đồng tu giao lưu với tôi, nói rằng cảm thấy học thuộc “Hồng Ngâm V” rất khó, bởi vì nội dung của nhiều ca từ rất giống nhau, thường đọc lẫn lộn. Bản thân […]

The post Tẩu hồi truyền thống và buông bỏ quan niệm hiện đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Canada

[ChanhKien.org]

— Một chút thể hội khi học Hồng Ngâm V và VI —

Đồng tu giao lưu với tôi, nói rằng cảm thấy học thuộc “Hồng Ngâm V” rất khó, bởi vì nội dung của nhiều ca từ rất giống nhau, thường đọc lẫn lộn. Bản thân tôi khi học “Hồng Ngâm VI” lại càng cảm thấy như vậy, dường như mỗi bài thơ đều hàm chứa ba nội hàm như sau: Một là “tẩu hồi truyền thống lộ thông thiên”; hai là “vô thần luận, tiến hoá luận là ma quỷ đang lừa gạt”; ba là “quan niệm hiện đại là thuốc độc”.

Hiện tại, người tu luyện trong Đại Pháp về cơ bản vẫn đang học các kinh văn “Hồng Ngâm”, tại sao Sư phụ lại đăng kinh văn với nội hàm giống nhau hàng chục lần? Học Pháp là để đối chiếu với bản thân, Sư phụ đã giảng lặp lại hàng chục lần Pháp với nội hàm dường như giống nhau như vậy, lẽ nào thực sự chỉ là đang giảng cho người thường chưa đắc Pháp sao? Đối chiếu văn hoá truyền thống với kinh văn của Sư phụ, nhìn xem nhiều đồng tu ở xung quanh, lại đối chiếu hành vi và tư tưởng của chính mình, tôi cảm thấy rằng các đệ tử Đại Pháp vào lúc này có rất nhiều vấn đề mà vẫn chưa ý thức ra được, bởi vì không ý thức ra được thì không cách nào cải biến, mà trạng thái của chúng ta lại quyết định biểu hiện của thế gian trong giai đoạn hiện nay, do đó điều này cực kỳ quan trọng.

Sau đây, tôi xin bàn một chút về những quan niệm hiện đại mà tôi thấy phổ biến ở những người tu luyện, cũng như sự đối lập giữa những quan niệm này với quan niệm truyền thống.

1. Quân quyền thiên thụ và tự do bình đẳng

Văn hoá truyền thống giảng rằng “quân quyền thiên thụ” (quyền của vua là do trời ban), hoàng đế của một vương triều là “thiên tử”, là vị quân chủ do thượng thiên lựa chọn cho vạn dân, người làm vua về các phương diện đạo đức đều cần phải có yêu cầu rất cao đối với bản thân, trở thành tấm gương đạo đức cho người dân. Xã hội lại là do người của các giai tầng khác nhau tạo thành, sự cao thấp quý tiện của giai tầng là có quy phạm rất nghiêm khắc, người ở giai tầng thấp cần phải biểu đạt sự tôn kính đối với người ở giai tầng cao. Cũng tức là nói pháp tắc ở cõi người cũng là giống và đối ứng với Đại Pháp của vũ trụ, cũng là hình kim tự tháp, mà địa vị và hoàn cảnh của mỗi một người ở trong xã hội này đều là do thượng thiên căn cứ theo đức mà tự thân sinh mệnh mang theo ít hay nhiều để an bài, là tuyệt đối công bằng. Đây là dùng trạng thái tĩnh để miêu tả.

Ở trạng thái động mà nói, bất luận sinh mệnh ở giai tầng nào, người ở địa vị cao nếu như làm ra các việc không có đạo đức, cũng sẽ trong luân hồi chuyển sinh mà trở thành người có địa vị thấp, người ở địa vị thấp nếu như ở trong quá trình sống gian khổ mà tiêu đi nghiệp, đồng thời còn tích đức hành thiện, như vậy ở trong luân hồi chuyển sinh có thể trở thành người ở địa vị cao, từ góc độ như vậy mà nhận thức thì sự tự do và bình đẳng của sinh mệnh mới phù hợp với Đại Pháp. Mà người tu luyện nếu như ở trong đầu đều là những thứ tự do bình đẳng của quan niệm hiện đại, cũng tức là không thừa nhận đức là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường vị trí của hết thảy sinh mệnh, như vậy sẽ rất dễ che giấu đi những tâm tranh đấu, tâm hiển thị, tâm đố kỵ cùng với những chấp trước khác của bản thân, thậm chí hợp lý hóa chúng, tìm ra lý do, cho rằng trải qua nỗ lực phó xuất liền có thể cải biến vận mệnh, cũng rất dễ bị dẫn động bởi những tâm chấp trước của người xung quanh, rất khó làm đến được trạng thái tâm tĩnh chỉ hướng nội lặng lẽ tu luyện bản thân.

Điều nghiêm trọng hơn là họ trong vô thức và theo bản năng mà chấp nhận các quan niệm tà ác kiểu như “Quân liều lôi vua xuống ngựa” (ý chỉ việc gì cũng dám làm) do ma quỷ ĐCSTQ tuyên truyền, không sẵn lòng thừa nhận và chấp nhận rằng có người có vị trí cao hơn mình và hoàn toàn không nhận thức được về tâm đố kỵ mạnh mẽ của bản thân. Biểu hiện cụ thể là trong khi thực hiện công tác chứng thực Đại Pháp, họ luôn coi bản thân là trung tâm và rất chấp trước vào năng lực trong cõi người của bản thân. Khi một số công việc điều phối hạng mục được giao cho các đồng tu khác, họ từ trong tâm không muốn phối hợp và viên dung để làm việc, thay vào đó, họ âm thầm cạnh tranh, thậm chí còn lôi kéo tự thành lập một nhóm người, trong tâm có lẽ là muốn chứng tỏ rằng bản thân mình làm các việc giảng chân tướng tốt hơn so với đồng tu, nhưng họ hoàn toàn không ý thức được rằng điều này là trái ngược hoàn toàn so với các yêu cầu của tu luyện Đại Pháp.

Người tu luyện không hiểu văn hoá truyền thống, còn có biểu hiện là lúc nào cũng thể hiện tài năng của bản thân, chỉ trích khuyết điểm của người khác, làm các việc thì đâu ra đấy, nhiệt huyết tràn đầy, khi nói tới việc tu luyện thì nói một cách qua loa, không bao giờ nói về quá trình nhân tâm của bản thân xuất hiện, bộc lộ ra và quá trình trừ bỏ, dường như bản thân bẩm sinh là tu tốt hơn bất kỳ ai khác, vĩnh viễn đều là người ở vị trí cao một cách hoàn toàn xứng đáng, chỉ chú trọng trước mắt, không lo việc tương lai thế nào, lại không bao giờ nghĩ rằng, kỳ thực người ở vị trí cao nếu như không giữ đức hạnh, cũng sẽ tự động bị giáng xuống người ở vị trí thấp.

Rất nhiều năm qua, tại sao giữa những người tu luyện với nhau lại không phục lẫn nhau, những tình huống ngồi lê mách lẻo không phối hợp cũng thường thấy như vậy? Mấy chục kinh văn mà Sư phụ công bố có nội hàm tương tự rốt cuộc là đang muốn thức tỉnh ai? Người tu luyện quay về văn hoá truyền thống họ rất khiêm nhượng, bởi vì không biết được rằng bản thân ở vị trí nào của kim tự tháp, cũng không biết đồng tu ở bên cạnh rốt cuộc là ai tu tốt hơn, ai là người ở vị trí cao, do đó đối với bất kỳ đồng tu nào cũng đều là một trạng thái khiêm nhượng. Điều phối trong công tác lại càng dễ dàng, cùng mọi người phối hợp một cách vô điều kiện để gắng sức đạt được mục tiêu đã đề ra, âm thầm bổ sung chỗ thiếu sót, âm thầm phó xuất, âm thầm tu tâm của bản thân. Không ngừng dùng tiêu chuẩn cao hơn để yêu cầu bản thân, không bị dẫn động bởi bất kỳ sự việc hay bất kỳ người có tâm tính thấp nào. Những người tu luyện như vậy kỳ thực mới là những người chân chính hiểu được nội hàm của tu luyện, mỗi một ngày đều đang bước về phía những người thực tu ở vị trí cao hơn.

Suy ngẫm bản thân mình xem có quan niệm hiện đại ở vấn đề này hay không, có thể hỏi bản thân một vài vấn đề sau, đồng thời cần thẳng thắn xem xét lại những câu trả lời trong nội tâm của mình. Một, đối với người có thân phận tôn quý, tôi có nguyện ý giống người xưa quỳ xuống hành lễ một cách tự nhiên thản đãng hay không? Hai, tôi có thể bình tĩnh tiếp nhận hết thảy thuộc về bản thân hay không? Nếu như lúc này tôi chính là một người có cảnh giới sinh mệnh thấp của kim tự tháp, tôi có thể từ nội tâm khởi lên sự tôn kính đối với người ở vị trí cao mà không phải là ngưỡng mộ, đố kỵ, và oán trách vận mệnh bất công hay không? Ba, tôi có còn cho rằng, những người giỏi hơn tôi ở tất cả các phương diện chẳng qua chỉ là vì họ may mắn, không có gì xuất sắc không?

2. Cân bằng âm dương và bình đẳng nam nữ

Văn hoá truyền thống giảng cân bằng âm dương, biểu hiện cụ thể ở mối quan hệ giữa người nam và người nữ trong xã hội nhân loại. Trong truyền thống của các dân tộc toàn nhân loại, người nam đều biểu hiện dương quang, uy vũ, lo việc bên ngoài, người nữ đều biểu hiện là âm nhu, khiêm nhượng, lo việc bên trong, điều này vốn dĩ là do quy luật vận hành của thiên thể quyết định, âm dương mỗi người một việc, cùng chung sống hài hoà. Sự truyền thừa của gia tộc đều là lấy huyết mạch của người nam để quy phạm, người nữ gả cho chồng trở thành người vợ chính là người của gia đình nhà chồng, vì con cái mà dung nhập vào huyết mạch của gia đình chồng. Những thứ truyền thống này tồn tại hàng nghìn năm kỳ thực là đối ứng với kết cấu của vũ trụ.

Tuy nhiên, những người phụ nữ bị quan niệm hiện đại khống chế thì rất khó để có thể tiếp nhận những tư tưởng truyền thống nêu trên, trong suốt mấy chục năm dưới sự cai trị của ma quỷ ĐCSTQ, phụ nữ Trung Quốc ngày càng trở nên mạnh mẽ, trong đó có cả những nữ đệ tử tu luyện Đại Pháp. Kỳ thực có thể buông bỏ những quan niệm phụ nữ hiện đại vô cùng ngoan cố kia không, làm đến được thực sự độc lập và ngoan cường như người phụ nữ trong vở múa “Hàn Diêu” của Thần Vận, nhưng đồng thời cũng là người phụ nữ khiêm nhượng, thiện lương, kiên trinh, dũng cảm nhất, cho dù gia đình nhà mẹ đẻ có phú quý như thế nào, cũng phải giữ vững trạng thái tâm tính trong ngôi nhà cơ hàn của chồng, đó chính là khảo nghiệm tu luyện mà chúng ta cần phải đối mặt.

Cá nhân tôi lý giải, âm dương của sinh mệnh trong Đại Pháp vốn dĩ chính là trạng thái cân bằng động, Sư phụ từng nói rõ ở trong Pháp, có thể chuyển sinh thành người nam là do tích đức, có thể thấy trong luân hồi của sinh mệnh, những thứ mà bản thân cho rằng tốt hơn, muốn có được thì chỉ có con đường kiên định thực tu là có thể đi. Người phụ nữ nếu như mong muốn có thể đạt được địa vị sinh mệnh giống như người nam, thực tu tâm của bản thân, hành thiện tích đức, vậy thì kiếp sau có thể đắc được cuộc sống của một người nam. Ngược lại nếu như một người nam không chú trọng thủ đức, một đời làm rất nhiều việc không tốt, tổn hại đức của bản thân, như vậy kiếp sau có thể phải trải qua một cuộc sống của người phụ nữ, trải nghiệm khổ nạn do đời trước là một người nam nhưng không coi trọng đức hạnh mang tới.

Đại Pháp truyền ra, đã khiến chúng ta hiểu rằng cần dùng nhãn quang ở trạng thái động, phát triển và biến hoá để nhìn sự vật, cho dù là người nam hay người nữ đều cần phải thủ đức và tu tâm. Đây mới là ý nghĩa thực sự của bình đẳng nam nữ. Còn bình đẳng nam nữ trong quan niệm hiện đại là tà ác, cũng là không thừa nhận quy luật của trời đó là sự khác biệt của sinh mệnh được quyết định bởi đức do mỗi sinh mệnh mang theo. Hết thảy nội hàm của vận động nữ quyền đều là phản truyền thống, điều này trong cuốn sách “Ma quỷ đang thống trị thế giới của chúng ta” đã được thảo luận một cách toàn diện. Điều quan trọng là người tu luyện Đại Pháp trong lúc này có thể nhận thức được hay không, bản thân cũng có thể là người bị khống chế bởi quan niệm hiện đại.

Tương tự như trên, các nữ đồng tu chúng ta có thể thành thật tự hỏi mình những câu hỏi sau: Một, chồng tôi đã nhận được sự tôn trọng, cảm ân và quan tâm từ tận đáy lòng của một người vợ là tôi hay chưa? Hai, tôi có thực sự nguyện ý quay trở lại trạng thái “nam tôn nữ ti” và thể hiện mình là một người vợ hiền, người mẹ nhân từ, chăm sóc chồng và nuôi dạy con cái không? Ba, tôi có thực sự nguyện ý coi gia đình nhà chồng như nhà của mình, cống hiến cả cuộc đời mình cho ngôi nhà này và chăm sóc mọi thành viên trong gia đình anh ấy không? Bốn, cho dù sinh con, nuôi con vất vả như vậy, nhưng tôi vẫn nguyện ý phó thác số mệnh của mình cho Thần linh sắp đặt, để mọi chuyện tùy kỳ tự nhiên, tiếp nhận và thiện đãi với mỗi sinh mệnh có duyên với mình, dùng phương thức con cái để kết duyên với mình không? Tu luyện là cực kỳ nghiêm túc, yêu cầu đối với tâm tính là nghiêm khắc vô tình, bạn thử nghĩ xem, nếu người tu luyện không thể trả lời được những câu hỏi trên, thì trong thế giới ngày nay khi mà âm dương đảo chiều nghiêm trọng, phụ nữ sẽ tùy ý phá thai, quan hệ tình dục loạn tính, ly hôn, chuyển đổi giới tính, và những loạn tượng khác. Rốt cuộc là do tâm của ai tạo thành? Chúng ta là hy vọng duy nhất để nhân loại được đắc cứu, chúng ta nếu như không quy chính quan niệm, không quay về truyền thống, như vậy sẽ mang đến hậu quả như thế nào cho nhân loại đây?

3. Xả thân duy hộ Đại Pháp và giảo hoạt né tránh hiểm nguy

Duy hộ Đại Pháp là thiên chức và bổn phận của đệ tử Đại Pháp, có thể từ trong sự đối lập giữa thiện và ác, chính và tà, tốt và xấu mà duy hộ Đại Pháp hay không, điều này là khảo nghiệm của tầng tầng chư Thần mà mỗi đệ tử Đại Pháp cần phải đối mặt khi vượt qua từng quan nạn. Năm 1999, khi tà ác bức hại Pháp Luân Công, có thể xả tận hết thảy để duy hộ Đại Pháp hay không, đó là khảo nghiệm sinh tử, có rất nhiều đồng tu vượt qua được quan như vậy, nhưng cũng có rất nhiều đồng tu năm đó lựa chọn việc không đối mặt với trường khảo nghiệm sinh tử đó, đã bỏ qua cơ hội dùng sinh mệnh để chứng thực Đại Pháp. Đi tới hải ngoại, cơ hội làm lại bài thi có còn không? Cá nhân tôi cho rằng thực sự có, Sư phụ trong kinh văn “Pháp định” (Tinh tấn yếu chỉ) từng nói:

“Tôi bảo chư vị lần nữa, người ngoài vĩnh viễn không phá hoại Pháp được đâu, phá hoại Pháp là chỉ có thể là nội bộ học viên. Hãy nhớ kỹ!”

Trong 30 năm Đại Pháp truyền ra, sự việc học viên nội bộ làm loạn Pháp không ngừng xuất hiện, cá nhân tôi lý giải rằng đó là hiện tượng hiển nhiên sẽ xuất hiện trong tu luyện, cũng có lẽ là cơ hội để cho rất nhiều đồng tu làm lại bài thi trong tu luyện, khi có người có hành vi phá hoại Pháp, là một người tu luyện có thể phân biệt được hay không? Phân biệt được ra rồi thì phải đối đãi như thế nào? Trong văn hoá truyền thống, nho sinh chân chính đều có thể làm được vì để duy hộ chính đạo trong tâm của mình mà dám chịu nhận các loại ma nạn, thậm chí thản nhiên xả bỏ sinh tử. Mọi người có thể tự xem câu chuyện về các danh tướng hiền thần trong lịch sử, bổ sung cho bản thân mình một chút nội hàm của văn hoá truyền thống, nhìn xem quân tử, trung thần chân chính trong lịch sử đã lựa chọn giữ vững tín niệm của bản thân như thế nào. Mà những gian thần làm tới chức quan tể tướng, cũng có năng lực siêu thường, tài năng văn chương, rốt cuộc ý nghĩa tồn tại của họ là gì?

Nếu như cho đến hôm nay, người tu luyện Đại Pháp trong đầu vẫn là chứa nhiều những quan niệm hiện đại biến dị, ví như làm thế nào để giữ mình phòng thân, gió chiều nào theo chiều ấy, nhìn thấy hành vi và lời nói phá hoại Đại Pháp, lại dùng miệng giảo hoạt để nói ra những lời nói duy hộ nội bộ hài hoà, né tránh khảo nghiệm có thể duy hộ Đại Pháp trong tu luyện Đại Pháp, đem những quan niệm “không dám đắc tội người khác”, “không thể lấy trứng chọi đá” cùng với những quan niệm hiện đại bại hoại khác để làm đạo xử thế của bản thân. Như vậy hiện tại ma quỷ đang thống trị thế giới của chúng ta có phải cũng là do cái tâm bất thuần khiết và những quan niệm vô cùng bại hoại của chúng ta tạo nên hay không?

Có rất nhiều lúc chúng ta có thể nghe được những lời oán trách rằng hiện tại hoàn cảnh tu luyện không tốt thế này thế kia, nhưng hoàn cảnh lại là do mỗi người chúng ta tạo thành, nếu như ở trong hoàn cảnh mà đại bộ phận người đều là người mang theo quan niệm truyền thống, dám xả mệnh duy hộ Đại Pháp, hoàn cảnh nhất định rất tốt; ngược lại, nếu như đại bộ phận người trong đầu não là quan niệm hiện đại, như vậy, ở trong hoàn cảnh đó sẽ không ngừng xuất hiện phiền phức và vấn đề, hình thành cục diện tôi hại người khác, người khác hại tôi, giống với xã hội nhân loại mạt Pháp, mạt kiếp.

Tu luyện là một quá trình diễn ra từ từ, có đồng tu từng dám nói sự thật duy hộ Pháp, nhưng kết quả là họ phải chịu những cản trở từ trong nội bộ, từ đó trở đi, họ tổng kết kinh nghiệm của mình liền bắt đầu tránh xa quá trình tu luyện như vậy. Kỳ thực, bản thân những cản trở cũng là cơ hội tốt để đề cao. Dám nói sự thật, dám duy hộ Đại Pháp chỉ là vượt qua một quan tâm tính mà thôi, có thể khởi tác dụng duy hộ Pháp hay không là cần phải tiếp tục đề cao trong tu luyện. Trong quá trình nói rõ sự thật duy hộ Pháp, có làm được Chân, Thiện, Nhẫn hay không? Có ôm giữ các chủng nhân tâm, khi bị đồng tu hiểu lầm và công kích, có làm được vô oán vô hận hay không, đồng thời nhất quyết không buông bỏ tâm duy hộ Đại Pháp như ban đầu, tiếp tục đề cao tâm tính của bản thân. Nếu như đại bộ phận người đều có thể tu bản thân như vậy, hoàn cảnh nhất định sẽ tốt lên. Sư phụ từng giảng “Chính Pháp tất thành” (Tinh tấn yếu chỉ III – Gửi lời thăm), nhân loại tương lai sẽ được quy chính, “tẩu hồi truyền thống lộ thông thiên” (Hồng ngâm V). Đó mới là trạng thái duy nhất của nhân loại trong tương lai.

Sư phụ Chính Pháp đã đến bước cuối cùng, cơ duyên tu luyện Chính Pháp của chúng ta cũng nhanh chóng mất nếu không chú ý, ba phương diện bàn ở trên chỉ là một vài những vấn đề phổ biến, có tính đại biểu trong rất nhiều quan niệm hiện đại của chúng ta, chúng ta cần nhanh chóng trừ bỏ và đổ đi những loại quan niệm hiện đại biến dị trong đầu não của bản thân, cũng tức là thuốc độc trong đầu của mình! Chúng ta hãy trân quý nhau, nhìn thấy quan niệm hiện đại biến dị của đối phương hãy kịp thời thiện tâm góp ý, để mỗi một đệ tử Đại Pháp đều có thể quay về truyền thống, không hổ thẹn với tâm huyết của Sư phụ vì đệ tử mà đã viết ra mấy chục bài kinh văn thức tỉnh bản tính của chúng ta.

Trên đây là chút điểm thể ngộ của cá nhân trong khi học Pháp và tu luyện, có chỗ nào không đúng, mong đồng tu từ bi chỉ chính, cảm ơn mọi người!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/278967

The post Tẩu hồi truyền thống và buông bỏ quan niệm hiện đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chúng ta đã từng là Thần – cảm ngộ khi xem phim “Trở lại thành Thần”https://chanhkien.org/2023/11/chung-ta-da-tung-la-than-cam-ngo-khi-xem-phim-tro-lai-thanh-than.htmlWed, 29 Nov 2023 02:45:13 +0000https://chanhkien.org/?p=31938Tác giả: Uất Tinh [ChanhKien.org] Gần đây, khi xem xong bộ phim “Trở lại thành Thần” trên Ganjingworld, tôi cảm thấy cứ nhớ mãi trong lòng không thể quên, muốn viết vài dòng, ghi lại một chút cảm ngộ của mình. Ngọn nguồn cùng chốn trở về của sinh mệnh Một thân nhân của tôi […]

The post Chúng ta đã từng là Thần – cảm ngộ khi xem phim “Trở lại thành Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Uất Tinh

[ChanhKien.org]

Gần đây, khi xem xong bộ phim “Trở lại thành Thần” trên Ganjingworld, tôi cảm thấy cứ nhớ mãi trong lòng không thể quên, muốn viết vài dòng, ghi lại một chút cảm ngộ của mình.

Ngọn nguồn cùng chốn trở về của sinh mệnh

Một thân nhân của tôi đã kể một câu chuyện thế này, lúc nhỏ, khi anh ấy đang ngồi ở gian nhà chính, mẹ anh thì đang quét tước trước cổng nhà, anh ấy đột nhiên cảm thấy một cảm giác bi thương vô hạn, rất muốn về nhà, mong được nhìn thấy người thân trong gia đình mình. Thế nhưng, bản thân không phải đang ngồi trong ngôi nhà của chính mình hay sao? Người nhà không phải đang ở ngay trước mắt rồi sao? Vì sao lại có cảm giác như thế? Cậu bé nhỏ năm đó chưa hiểu chuyện cũng không biết là do duyên cớ gì, chỉ là rất lâu rất lâu sau đó, đắc Pháp rồi mới minh bạch bản thân mình lúc đó là đang tưởng niệm về ngôi nhà trên thiên thượng, nhớ về người thân trên thiên thượng.

Con người từ đâu đến, sẽ đi về đâu, rất nhiều người dành hết cả một đời cũng khó mà tìm ra đáp án. Bộ phim này, đã vén ra đáp án ấy một cách trực quan.

Con người thế gian có muôn hình vạn trạng, có người như Tống Quang Minh tìm ra chân lý đời người, cũng vì đó mà giữ vững tín niệm, đối diện bức hại vẫn quyết không lay chuyển ý chí; cũng có người như Bạch Phượng lúc đầu chỉ mong được sống những ngày tháng mỹ mãn mà sinh ra mâu thuẫn với Tống Quang Minh, thậm chí còn hy vọng Tống Quang Minh từ bỏ tín ngưỡng, nhưng đến cuối cùng cô vẫn lựa chọn ủng hộ Tống Quang Minh, từ đó cùng anh bước trên con đường tu luyện; cũng lại có người như Triệu Hải Phong, hy vọng có thể được nổi danh, truy cầu công danh lợi lộc nơi thế gian, mà không từ thủ đoạn trở thành kẻ trung thành bảo vệ cho Trung Cộng, cuối cùng tự bị hủy hoại; lại còn có những người như giáo sư Vu và học sinh của Tống Quang Minh, lựa chọn bảo vệ người lương thiện, lên tiếng vì người thiện lương; cũng có người giống như vị đại đội trưởng đội an ninh quốc gia bức hại người tu luyện; cũng có những người như bạn cùng phòng giam với Quang Minh đang đợi người cứu độ…

Từ đó, muôn hình vạn trạng các dạng người, đã diễn các vai diễn khác nhau, thiện có, ác có, có cả bình thường, thế nhưng xem tiếp, sẽ phát hiện những sinh mệnh này, đều không đến từ địa cầu của chúng ta, trước khi Tống Quang Minh hạ thế là vương chủ của thế giới Quang Minh, mà những người khác, trước khi hạ thế cũng từng là Thần trong Thế giới Quang Minh, chỉ vì đã ký thệ ước cùng Sáng Thế Chủ mà hạ thế cứu độ chúng sinh.

Cũng chính là nói, họ đã từng là Thần, sau khi hạ thế là để hoàn thành thệ ước cùng Sáng Thế Chủ, sẽ lại trở thành Thần. Song, hồng trần cuồn cuộn, đã làm một bộ phận các vị Thần sau khi hạ thế bị mê đi mất, có người đang chờ được cứu độ, có người làm ác quá nhiều đến nỗi đã tự hủy hoại bản thân. Lúc trước khi bộ phim sắp kết thúc, trong nội tâm luôn tồn tại một mong ước, hy vọng Triệu Hải Phong có thể tỉnh lại, bỏ ác tòng thiện. Bởi vì trên thượng giới, anh ấy là vị Thần đã cùng Tống Quang Minh và Bạch Phượng hạ thế, trong luân hồi đã bao lần kết duyên, với sinh mệnh như thế, luôn cảm thấy cứ thế mà bị hủy nơi nhân gian thật sự quá đáng tiếc. Thế nhưng, trước đó bộ phim đã từng tiết lộ nguyên nhân sinh mệnh này bị hủy diệt. Bất luận là Tống Quang Minh, hay là Bạch Phượng, hay là các vị Thần khác, hạ thế là vì để cứu độ chúng sinh, là vì người khác, nhưng chỉ có Triệu Hải Phong, là vì vị tư. Điều này có lẽ chính là nguyên nhân vì sao đến cuối cùng sinh mệnh này không được cứu độ.

Nguyên nhân căn bản của các loạn tượng nơi thế gian

Thường hay nghe có người nói, cái xã hội này bị làm sao rồi, vì sao mà khuynh hướng phạm tội, làm việc ác, càng ngày càng nhiều, đặc biệt là ở nơi Trung Quốc này đây, đến một người bình thường làm chuyện ác cũng đều là càng ngày càng không có giới hạn. Các ngành nghề đều làm giả, vấn đề an toàn thực phẩm càng ngày càng phổ biến, thậm chí chỉ cần nói một câu không vừa ý liền có thể đánh đánh giết giết, đúng thực đã đến thời:

“Thiên tượng đại biến
Thế nhân vô thiện niệm
Nhân tâm thất khống ma tính hiển
Thiên tai nhân họa ưu oán

Nhân nhân tương kiến như địch
Sự sự đô nan như ý

Tạm dịch

Thiên tượng đại biến
Người đời không thiện niệm
Tâm mất khống chế ma tính hiển
Thiên tai nhân họa oán ưu

Người coi người như kẻ thù
Mọi sự không sao như ý”

(Trích Hồng Ngâm – Ma biến)

Là do người Trung Quốc vốn dĩ đã xấu xa vậy sao? Không phải, Trung Quốc từng được coi là đất nước lễ nghi chi bang, người dân từng được Thánh vương giáo hóa, cũng từng có qua những ngày tháng thái bình “Đêm khuya không cần đóng cửa, không nhặt đồ quý giá rơi trên đường”, cũng từng có qua những ngày thịnh thế “Vạn bang đến triều cống”. Thế nhưng người Trung Quốc ngày nay đang làm sao vậy?

Nguyên nhân sâu xa được hé lộ ngay đầu phim. Thượng giới có ác ma làm loạn, sau chạy đến nhân gian, dùng hình thức chủ nghĩa cộng sản họa loạn nhân gian. Tà linh phái người đại diện của nó tại nhân gian tuyên truyền có mục đích những thứ như “Thuyết vô thần”, “Thuyết tiến hóa”, “Triết học đấu tranh”, mê hoặc con người thế gian, lại còn ở nhân gian sáng lập ra tà giáo cộng sản, mê hoặc thế nhân, khiến thế nhân phát lời thề độc đem sinh mệnh hiến tế cho tà linh, từ đó hướng về phía báo thù chư Thần.

Vậy vì sao lại lựa chọn Trung Quốc? Vì vùng đất Trung Quốc là nơi “Vạn chủ hạ thế, nghìn Phật xuống trần”, người của vùng đất Trung Quốc ấy, đa số đều là Thần hạ thế, có ước hẹn cùng Sáng Thế Chủ, tà linh vì để hủy hoại họ, lừa dối họ đem sinh mệnh hiến tế cho tà linh, lại thao túng họ khiến cho vùng đất Trung Quốc biến đổi trở nên không còn giới hạn đạo đức, lòng người hiểm ác từ đó đạt được mục đích phản bội Thần.

Thánh duyên, Thiện duyên, Ác duyên

Có câu nói rằng: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Chỉ vì trăm nghìn năm luân hồi, giữa người với người đã có rất nhiều các loại nhân duyên, báo thù, báo ân, trả nợ, kết oán – tìm đến nhau, một đồng không mẻ, một ly cũng không kém. Thường nghe người ta oán trách rằng, tôi đối với anh tốt như thế nhưng vì sao anh lại xử tệ với tôi đến vậy? Người tôi thích vì sao lại không thích tôi, người thích tôi thì vì sao tôi lại không thích họ? Vì sao tôi vừa mới gặp ai đó mà lại đã thấy tức giận? Vì sao lại gặp phải nhiều sự việc bất công đến vậy? Người thường nhìn không thấu các quan hệ nhân duyên nơi thế gian, chỉ biết trong hiện thực mà tranh mà đấu, kết quả thân tâm kiệt quệ, bệnh tật khắp thân.

Trong một đời ở triều Đường, Tống Quang Minh đã cứu Bạch Phượng, kết thiện duyên, nhưng cũng vì để cứu Bạch Phượng mà giết đi vị binh sĩ mà kết mối ác duyên, Tống Quang Minh thả Triệu Hải Phong lại bị Triệu Hải Phong chém một kiếm kết mối ác duyên, mà Tống Quang Minh lại là binh sĩ dưới trướng của Lý Thế Dân do Sáng Thế Chủ chuyển sinh, nên đã kết Thánh duyên cùng Sáng Thế Chủ.

Thật ra là thiện duyên cũng tốt, ác duyên cũng được, đều là từ sợi duyên này, khiến họ có thể cùng nhau bước vào đời mà Sáng Thế Chủ Chính Pháp, được Sáng Thế Chủ cứu độ.

Triệu Hải Phong luôn canh cánh trong lòng về chuyện Bạch Phượng lựa chọn Tống Quang Minh mà không lựa chọn anh ta, cuối cùng dưới tác dụng của tâm tật đố mà báo cáo Tống Quang Minh để rồi phạm đại tội. Anh ấy không hề biết, sở dĩ Bạch Phượng chọn Tống Quang Minh, không phải vì Tống Quang Minh ưu tú hơn anh ta, cũng không phải vì Tống Quang Minh may mắn hơn anh ta, mà là vì để báo đáp ân cứu mạng ở kiếp trước. Ngoài ra Bạch Phượng trên Thiên thượng cùng Triệu Hải Phong đã ước định sẽ trợ giúp Quang Minh Vương. Thế mà anh ấy vì độc hại của thuyết vô thần, từ đầu đến cuối đều không hiểu rõ mối nhân duyên trong đó. Giả sử nếu như anh ấy có thể hiểu ra và buông bỏ cái tâm bất bình ấy, nói không chừng đến cuối cùng đã có thể được cứu độ.

Duyên phận giữa Bạch Phượng và Tống Quang Minh vô cùng khéo léo xảo diệu, mối thiện duyên ơn cứu mạng, cùng Thánh duyên đã ước định trên thiên thượng, thành tựu mối nhân duyên vợ chồng giữa Bạch Phượng và Tống Quang Minh. Nửa phần đầu bộ phim hoàn toàn không thấy Bạch Phượng có sự giúp đỡ gì cho Tống Quang Minh, ngược lại đều vì để hạnh phúc gia đình được mỹ mãn mà luôn cản trở Tống Quang Minh. Chỉ cho đến khi Tống Quang Minh bị bắt, bị phán tội, dưới sự giúp đỡ của Tiểu Vũ đánh thức chân niệm, trong thời khắc quan trọng khi chính tín của Tống Quang Minh bị lay động, đã đánh thức chính niệm của Tống Quang Minh. Mà Tiểu Vũ lại chính là do Bạch Phượng trước khi hạ thế vì để đến thời khắc then chốt hoán tỉnh chân niệm bản thân mà an bài. Khiến người ta cảm thán không ngớt sự sắp đặt kỳ diệu của duyên phận.

Vị binh sĩ bị giết đã kết mối ác duyên với Tống Quang Minh, cho nên kiếp này anh ta đã trở thành đại đội trưởng bức hại Pháp Luân Công, cho nên trong lúc thẩm vấn mới có thể làm lay động chính tín của Quang Minh, cho nên mới dùng dùi cui điện đánh Quang Minh, bề mặt thì là do anh nghe theo mệnh lệnh của cấp trên bức hại học viên Pháp Luân Công, thực tế bên trong đó còn ẩn chứa mối quan hệ trả nợ một mạng. Thế nên, hoàn trả nợ nghiệp không chỉ là một con đường oan oan tương báo không thôi, đặc biệt trong thời kỳ Chính Pháp, bức hại đệ tử Đại Pháp là trọng tội, nếu chấp nhận thiện giải, thì sẽ được cứu độ tiến nhập vào tương lai. Còn bằng như nếu anh ta chịu độc hại của thuyết vô thần không tin có báo ứng, kết quả sẽ bị báo ứng.

Xích khóa tâm

Thế nhân đều đến từ Thiên thượng, tuy nhiên nếu nhìn quanh mà xem, trừ những người có tín ngưỡng, mọi người đều là đang bôn ba, tranh đấu trong danh lợi tình nơi thế gian mà thêm dầu vào lửa; khiến con người nhìn không thấy Thần tính ở mình, rất khó khiến họ lại có mối quan hệ với sự thánh khiết từ bi của Thần. Vốn dĩ, lúc Thần hạ thế, chân niệm đã bị xích khóa tâm khóa chặt, khiến họ không nhớ ra mục đích chân chính đến thế gian là gì. Vậy thì, làm sao mở được xích khóa tâm đây?

Pháp Luân Công chịu bức hại hơn 20 năm, đệ tử Đại Pháp hải ngoại khắc phục trùng trùng khó khăn, đệ tử Đại Pháp ở Đại Lục mạo hiểm việc bị bắt, bị giết, bị thu hoạch nội tạng y nhiên mà kiên trì hướng đến thế nhân giảng thanh chân tướng Pháp Luân Công bị bức hại, khuyên thế nhân nhận rõ tà linh cộng sản Trung Cộng, tam thoái mới có thể bảo bình an. Có vài người không hiểu, những người này nói nhiều nhất chính là: “Pháp Luân Công tốt thì bạn ở nhà luyện là được rồi, tại sao phải đi khắp nơi khuyên người ta tam thoái?”

Điều họ không biết là, người gia nhập tổ chức Trung Cộng, đã từng phát lời thề độc giao sinh mệnh cho ma quỷ, chỉ có nhận rõ Trung Cộng thoái xuất khỏi các tổ chức từng gia nhập trước đây của nó mới có thể xóa bỏ lời thề, mới có thể giải khai được xích khóa tâm đang khóa chặt chân niệm của mình, mới có thể đồng hóa với Đại Pháp vũ trụ, giải cứu chúng sinh của một phương thế giới mà mình đại biểu.

Giáo sư Vu và học sinh của Tống Quang Minh, trong khi Pháp Luân Công bị vu miệt, lúc Tống Quang Minh ở bên bờ bị sa thải, họ đã dũng cảm đứng lên cất tiếng vì Tống Quang Minh, lúc này, xích khóa tâm của họ đã được giải khai, chân ngã của họ đã thức tỉnh. Hai vị bảo an của phòng cảnh vụ, dưới sự khuyên giải của Tống Quang Minh đã thoái xuất khỏi tổ chức của Trung Cộng từng gia nhập, chân ngã của họ trên thiên thượng đã được thức tỉnh. Triệu Hải Phong dưới sự khuyên giải hết lần này đến lần khác của Tống Quang Minh và Bạch Phượng, kiên trì đứng về hàng ngũ của tà ác, chân ngã của anh ấy vào lúc nói câu “càng phải nghe theo chỉ huy của ĐCSTQ” đã bị tiêu hủy mất rồi. Vị đội trưởng dùng dùi cui điện đánh Tống Quang Minh, trong lúc đe dọa không tin báo ứng mà ngã xuống đất vong thân, chân ngã của anh ấy cũng bị tiêu hủy rồi.

Các nhân vật trong phim rất có tính đại diện, họ là hình ảnh thu nhỏ của những nhân vật trong thế giới hiện thực, họ hoặc là học viên Pháp Luân Công, hoặc là bạn bè người thân của học viên Pháp Luân Công, hoặc là những người xa lạ nghe học viên Pháp Luân Công giảng chân tướng, lựa chọn thoái khỏi Trung Cộng hoặc lựa chọn đứng về hàng ngũ của ác quỷ, hoặc là người tham gia bức hại học viên Pháp Luân Công,… Muôn hình vạn trạng các vai diễn đã tổ thành một đại vũ đài ở mảnh đất Trung Nguyên đại địa, từ đó có thể được cứu hay không còn cần xem những nhân vật trong vở diễn ấy lựa chọn thế nào.

Cuối cùng, xin được mượn câu nói của Tôn giả Vô Mê làm lời kết cho bài viết này: “Các bạn đã từng là Thần, có thể lại lần nữa trở thành Thần hay không, thì phải xem lựa chọn của bạn rồi”.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/286778

The post Chúng ta đã từng là Thần – cảm ngộ khi xem phim “Trở lại thành Thần” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cơ chế xoay của liên hoahttps://chanhkien.org/2023/11/co-che-xoay-cua-lien-hoa.htmlSat, 04 Nov 2023 02:32:56 +0000https://chanhkien.org/?p=31703[ChanhKien.org] Ghi chú của ban biên tập Trong mục “Huyền quan thiết vị” của “Bài giảng thứ tư” trong sách Chuyển Pháp Luân Sư phụ Lý Hồng Chí có viết: “Nguyên anh sinh ra từ khối đan điền ở vị trí bụng dưới; dần dần to lớn lên rất chậm. Đến khi lớn bằng quả […]

The post Cơ chế xoay của liên hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Ghi chú của ban biên tập

Trong mục “Huyền quan thiết vị” của “Bài giảng thứ tư” trong sách Chuyển Pháp Luân Sư phụ Lý Hồng Chí có viết:

“Nguyên anh sinh ra từ khối đan điền ở vị trí bụng dưới; dần dần to lớn lên rất chậm. Đến khi lớn bằng quả bóng bàn, thì toàn bộ hình dáng thân thể đã có thể nhìn được rõ, mắt mũi đều đã hình thành. Cũng vào lúc [nguyên anh] lớn bằng quả bóng bàn, sát cạnh thân của nó lại có một tiểu bào tròn tròn được xuất sinh. Sau khi sinh ra rồi thì tuỳ theo nguyên anh lớn đến đâu, nó cũng lớn đến đó. Đến khi nguyên anh lớn đến chiều cao 4 thốn, thì xuất hiện một cánh hoa sen. Khi lớn đến chiều cao 5 đến 6 thốn, các cánh hoa sen về cơ bản đã trưởng thành, xuất hiện một tầng hoa sen; nguyên anh rực rỡ ánh vàng kim ngồi trên đài hoa sen sắc vàng ấy, trông rất đẹp. Đó chính là [thân] thể kim cương bất hoại; Phật gia gọi là Phật thể; Đạo gia gọi là nguyên anh”.

Trong kinh văn “Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc [1999]” tại Los Angeles, ngày 22 tháng 02 năm 1999 có học viên hỏi Sư phụ Lý Hồng Chí: “’Liên’ đại biểu cho điều gì? Đại biểu cho người tu luyện từ trong bùn mà không bị ô nhiễm phải không?” Sư phụ trả lời:

“Liên hoa này nó không sinh ra tại không gian của con người. Người ta cho rằng hoa sen đó giống như Liên hoa, nhưng không phải là Liên hoa. Liên hoa là sinh ra trong thế giới Phật, liên hoa trong thế giới Phật lại cũng không được coi là một loài hoa, mà được coi là quả vị và uy đức của Phật. Liên hoa không phải là hoa trong khái niệm của con người, nhưng có thể coi như hoa. Hiện nay trong Phật giáo dùng hoa sen để ví với sự thánh khiết, mọc từ bùn mà không bị nhiễm, mọc ra từ trong bùn, nhưng không bị ô nhiễm, sạch sẽ, thánh khiết như vậy. Trở thành một kiểu ví von, nhưng nó tuyệt đối không phải là liên hoa của Phật”.

Bài viết này là trải nghiệm chân thực của một học viên Pháp Luân Đại Pháp trong quá trình tu luyện Phật Pháp.


Không biết là do duyên phận từ tiền kiếp hay do những khó khăn khi tĩnh tọa ở nơi xa xôi này tạo thành mà tôi lại có thể từng bước từng bước đề cao trong khi xem sách hoặc được thể hội nhiều nội hàm vô hạn của các Pháp lý trong sách Chuyển Pháp Luân. Thường có những điều tráng quan của Đại Pháp kỳ diệu đến nỗi khó tả bằng lời, khiến tôi trào dâng lòng cảm ân trước sự từ bi và uy đức vô thượng của Sư tôn, quả là những điều rất đáng trân quý! Nhưng khi tôi chia sẻ trải nghiệm của mình với người thường thì có rất ít người coi trọng điều đó, thật đáng buồn thay!

Đài hoa sen mà Phật thể hình thành từ nguyên anh trưởng thành ngồi lên ngày càng tròn và có thể nhìn thấy được rõ ràng, có lần không kìm nén được tôi đã muốn đến xem xét nó một chút. Những cánh sen hồng to bằng lòng bàn tay xếp ngay ngắn với nhau tạo thành một đài hoa lớn. Đương lúc cao hứng tôi chợt thấy Pháp tượng Sư tôn vẫy tay rất gấp, biểu thị ý rằng đừng động vào đài hoa. Nghĩ như vậy là được rồi, tôi liền quay lại. Bước lên tiếp, tôi nhìn thấy rất rõ ràng một vị Bồ Tát đang ngồi đả toạ bất động với bộ y phục trắng vô cùng thanh khiết và một dung mạo đẹp đến nỗi ngôn ngữ của con người khó mà diễn tả được, vẻ nghiêm trang của vị ấy khiến con người phải kính phục bội phần. Rồi tôi thấy Sư phụ lại vẫy tay, tôi chỉ đành quay lại thật nhanh. Lúc ấy tôi chỉ muốn định tâm lại và ngồi đả toạ ổn định thôi!

Mấy ngày sau tôi lại nhìn thấy liên hoa, liên hoa vẫn đẹp rực rỡ, chỉ là những chỗ tay tôi chạm vào thì biến thành những đốm đen. Tôi ngộ được rằng, liên hoa là hoa ở không gian khác, sống giữa người thường tay tôi dơ bẩn, sờ vào sẽ làm hoa bị ô nhiễm. Tôi cứ thấy hối hận mãi. Nhìn thấy trên hoa có đốm đen, không cách nào cứu được. May thay vài ngày sau những đốm đen bắt đầu chuyển sang màu hồng, khi này tôi mới biết sự việc này có thể bù đắp lại được.

Có thể thấy ở chỗ của liên hoa tự có toàn cơ (cơ chế xoay).

Pháp Luân thường chuyển, Phật Pháp vô biên!

Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp tại Canada

Tháng 10 năm 2000

(Tiêu đề bài viết được ban biên tập thêm vào)

Ghi chú của người dịch

Trong tiếng Trung 荷花 hà hoa là hoa sen trong không gian này của chúng ta còn 莲花 liên hoa là hoa sen ở không gian khác, ở đây dịch giả để nguyên từ liên hoa chứ không dùng từ hoa sen để đảm bảo nguyên ý của tác giả.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/8369

The post Cơ chế xoay của liên hoa first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vở kịch kết thúc đừng quên về nhàhttps://chanhkien.org/2023/11/vo-kich-ket-thuc-dung-quen-ve-nha.htmlFri, 03 Nov 2023 03:14:14 +0000https://chanhkien.org/?p=31697Tác giả: Mai Quy [ChanhKien.org] Lúc còn nhỏ không có mấy hoạt động vui chơi nên tôi thích đi xem kịch cùng với người lớn, chẳng cần biết xem có hiểu hay không, chủ yếu là vì rất náo nhiệt. Nhưng mỗi lần vở kịch kết thúc, đều có những đứa trẻ không tìm được […]

The post Vở kịch kết thúc đừng quên về nhà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Mai Quy

[ChanhKien.org]

Lúc còn nhỏ không có mấy hoạt động vui chơi nên tôi thích đi xem kịch cùng với người lớn, chẳng cần biết xem có hiểu hay không, chủ yếu là vì rất náo nhiệt. Nhưng mỗi lần vở kịch kết thúc, đều có những đứa trẻ không tìm được cha mẹ của chúng, người lớn thì không tìm thấy con cái của mình. Một khung cảnh khác hiện lên, nào là tiếng khóc, nào là tiếng kêu gào thật hỗn loạn.

Khi xem kịch mọi người đều muốn đứng gần hơn để xem, kỳ thực nếu đứng từ xa xem, nó còn có một dư vị khác. Nếu đứng từ xa nhìn sẽ thấy sân khấu kịch biến thành nhỏ, nhưng sân khấu nhỏ bé đó kết hợp cùng với đám người trên và dưới sân khấu đã trở thành một sân khấu lớn khác, người hát kịch và khán giả đều trở thành những nhân vật trong vở kịch.

Càng xa, càng xa hơn nữa thì sân khấu kịch cũng càng lúc càng lớn, người trong vở kịch cũng càng lúc càng nhiều.

Người ta thường coi người hát kịch là con hát, coi bản thân như khán giả, khách xem kịch. Có ai mà không biết nếu đứng từ xa xem, bất kể là trên sân khấu hay dưới khán đài, người hát hay là người xem kỳ thực đều là nằm trong một vở kịch, đều là một nhân vật nhỏ trong vở kịch lớn, vở kịch kết thúc thì đều cần phải về nhà.

Vở kịch có đặc sắc đến mấy thì nó cũng chỉ là kịch, không phải là cuộc sống chân thực, càng không phải là mục đích của sinh mệnh. Vở kịch có dài đến đâu cũng sẽ đến lúc kết thúc; kịch có náo nhiệt đến đâu cũng phải tan. Dù bạn có đắm chìm vào vở kịch sâu đến đâu, diễn có nhập vai đến đâu hay xem say sưa đến mức nào, một khi vở kịch kết thúc, bạn sẽ đi về đâu?

Đáng tiếc, có người vì quá mê đắm trong vở kịch mà coi các nhân vật trong vở kịch như chính bản thân mình, đã bị mê lạc trong vở kịch. Một trái tim cứ tùy theo tình tiết của vở kịch mà nhấp nhô lên xuống; bị mắc vào danh lợi tình thù, tham sân si trong vở kịch như lạc vào trong mê cung không biết phải làm gì. Cũng như những đứa trẻ thất lạc năm đó, gào khóc vì không tìm được cha mẹ.

Chờ đến khi vở kịch kết thúc, nếu vẫn chìm đắm trong vở kịch thì làm sao bạn có thể tìm được đường về nhà? Sau đó đợi đến khi mọi người giải tán, bạn sẽ càng mơ hồ và còn hối hận đến thấu tận xương tủy.

Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Tôi sẽ đi về đâu? Đây chính là ba câu hỏi cuối cùng của nhân loại. Ngày nay, có một vị Thánh giả vĩ đại đã đưa ra câu trả lời trong bài viết Vì sao có nhân loại. Chúng ta đều là con dân của Sáng Thế Chủ từ Thiên Thượng đến, sau khi thăng hoa tẩy tịnh cần phải quay về Thiên Thượng.

Vạn cổ nhân gian chỉ là một vở kịch, lúc tấm màn kéo lên và hạ xuống đã diễn giải ra vô số những thịnh suy thăng trầm, buồn vui ly hợp.

Hôm nay, bức màn cuối cùng sắp hạ xuống, cổng trời đã mở, bạn nên làm thế nào?

Nếu bạn đã quên đường về nhà, vậy thì khi đệ tử Đại Pháp đưa tay ra giúp đỡ xin bạn hãy tin tưởng họ, lắng nghe họ và làm theo họ. Nếu bạn vẫn còn đang trong mơ màng do dự, xin hãy rời xa Trung Cộng và ghi nhớ “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân Thiện Nhẫn hảo!”.

Mọi người ơi, vở kịch kết thúc rồi đừng quên đường về nhà.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286009

The post Vở kịch kết thúc đừng quên về nhà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
“Khác không nhiều” và “khác quá nhiều”https://chanhkien.org/2023/10/khac-khong-nhieu-va-khac-qua-nhieu.htmlTue, 31 Oct 2023 02:48:49 +0000https://chanhkien.org/?p=31676Tác giả: Lạp Tử [ChanhKien.org] Người tu luyện chúng ta đều biết rằng học Pháp là việc rất khó. Ngay cả khi hàng ngày học thuộc Chuyển Pháp Luân, học có thuộc làu đến mấy, thì chỉ một thời gian sau cũng sẽ quên mất một ít, lúc đọc Pháp rất hay có hiện tượng […]

The post “Khác không nhiều” và “khác quá nhiều” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lạp Tử

[ChanhKien.org]

Người tu luyện chúng ta đều biết rằng học Pháp là việc rất khó. Ngay cả khi hàng ngày học thuộc Chuyển Pháp Luân, học có thuộc làu đến mấy, thì chỉ một thời gian sau cũng sẽ quên mất một ít, lúc đọc Pháp rất hay có hiện tượng thêm chữ, sót chữ. Gần đây trong lúc học Pháp tập thể có một đồng tu lúc học Pháp đã thêm một từ, khi các đồng tu khác chỉ ra, anh lập tức sửa lại cho đúng, nhưng lại thuận miệng nói một câu: “Thật ra cũng khác không nhiều”. Ý anh ấy là tuy thừa một chữ nhưng không hề làm thay đổi ý nghĩa của câu này. Đương nhiên, xét từ việc đặt câu trong tiếng Hán thì quả thực có tình huống này, ví dụ như nói “thật ra, việc này rất khó” và “thật ra, việc này rất khó nhỉ”, thì ý tứ khác nhau không nhiều, không gây hiểu nhầm nghĩa, nhưng mà, đây là tình huống trong người thường, liệu có thích hợp với người tu luyện hay không? Câu nói của đồng tu đã khiến tôi nghĩ đến bản thân mình. Cũng giống như đồng tu, trước đây lúc học Pháp tôi cũng chú trọng đọc không sai một chữ, không thêm chữ không bớt chữ, lỡ sai lập tức sửa lại cho đúng, nhưng đó chỉ là xuất phát từ sự tôn kính đối với Sư phụ. Tôi cũng giống như đồng tu, nhìn nhận rằng có lúc đọc thêm chữ hoặc mất chữ, chỉ cần không cải biến ý nghĩa của câu đó thì không có khác biệt gì quá lớn, sai khác không nhiều. Mãi đến khi đọc một số truyện cổ văn hóa truyền thống, tôi mới hiểu sâu sắc hơn việc “khác một từ” này không phải là khác không nhiều mà là khác quá nhiều.

Ấn tượng sâu sắc nhất là khi trang web Đại Kỷ Nguyên đăng bài viết “Trắc tự huyền cơ: Điềm báo Ngô Tam Quế tạo phản bị vạch trần như thế nào”, trong bài có một đoạn “Câu chuyện về ba người cùng đoán một chữ, nhưng kết quả lại khác nhau” .

Đoạn trích như sau:

“Năm Đinh Mão đời vua Càn Long (năm 1747), sau khi Phúc Châu tổ chức kỳ thi hương, có một thí sinh tên Tạ Đình Quang rất mong sớm biết kết quả, muốn tìm người hỏi một chút xem bản thân có danh đề bảng hổ hay không. Anh ta nghe nói tại cầu Hồng Sơn có một tiên sinh giỏi bói chữ, bèn cùng bạn bè đến thăm hỏi.

Tạ Đình Quang đến nơi, lấy ra chữ “Nhân” (因), hỏi xem lần ứng thí này có đề bảng hay không. Tiên sinh đoán chữ nói: “Quốc nội (chữ khẩu 口) nhất nhân (chữ đại 大 ), quân tướng trung kim khoa bảng thủ – giải nguyên”. (Ý tứ là trong nước có được một người, trong khoa thi lần này anh sẽ đứng đầu bảng – tức thủ khoa).

Người bạn đi cùng cũng vui mừng muốn thử, nói: “Tôi cũng muốn lấy chữ ‘Nhân’ này hỏi việc tương tự”. Tiên sinh đoán chữ nói: “E rằng trong khoa thi lần này anh không được đề bảng, trong Ân khoa (1) sau đó thì có hy vọng thoả chí”.

Người bạn này hỏi: “Vì sao cùng đoán một chữ mà kết quả lại không giống nhau?”

Tiên sinh đoán chữ nói: “Chữ ‘Nhân’ của anh ta xuất phát từ vô tâm; chữ ‘Nhân’ của anh thì xuất phát từ hữu tâm”. Vậy thì chữ “Nhân” (因) có thêm chữ “Tâm” (心), tức là “Ân” (恩), vậy nên tiên sinh đoán chữ nói anh này khi ứng thí Ân khoa có hy vọng thỏa chí. Chữ “Chí” (志) cũng là biểu hiện của tâm vậy.

Khi ấy, trong phòng còn có một thanh niên nghe thấy thú vị, tay cầm chiếc quạt gấp lại chỉ vào chữ “Nhân” nói: “Tại hạ cũng muốn lấy chữ này để hỏi tiền đồ”.

Ngờ đâu tiên sinh đoán chữ nghe anh ta hỏi, nhíu mày nói: “Trong tay anh cầm chiếc quạt gấp lại thêm đúng vào trong chữ ‘Nhân’ (因), thành giống như chữ ‘Khốn’ (困 – khốn cùng, gian nan), thân thanh câm của anh tương lai sẽ kết thúc thôi”. (Thanh câm – cổ áo xanh, dùng để chỉ trang phục của học sinh học giả thời xưa).

Sau này tương lai của ba người quả thật đều bị tiên sinh đoán chữ kia đoán trúng cả”.

Đọc xong câu chuyện cổ này, tôi nghĩ, vì sao mà ba lần đoán cùng một chữ, tiên sinh đoán chữ có thể đoán ra những kết quả khác nhau?

Thực chất, đời người đã được sắp đặt hết rồi, Sư phụ dạy chúng ta:

“Chúng tôi còn thấy một tình huống: vào lúc một cá nhân giáng sinh, thì ở trong một không gian đặc định đều có hình thức tồn tại của một đời của cá nhân ấy; nghĩa là, sinh mệnh của cá nhân này [khi] đến một [lúc] nào đó, [sẽ] cần phải làm gì đó, thì ở đấy đã có hết rồi.” (“Bài giảng thứ bảy”, Chuyển Pháp Luân)

Từ khi một cá nhân được sinh ra thì những tín tức sinh lão bệnh tử đã mang theo bên người rồi, trong mỗi lời nói hành vi, nhất cử nhất động của người ấy đều hiển lộ những tín tức này, chỉ bất quá là người thường dùng mắt nhìn không thấy, còn tiên sinh đoán chữ được văn hóa Thần truyền bồi dưỡng, nên có được kỹ năng nắm bắt giải mã chúng ra. Những người khác nhau mang theo các dạng tín tức khác nhau, vậy nên dù đoán cùng một chữ mà kết quả không giống nhau, đây chính là nguyên nhân căn bản.

Nếu như là một người có bản lĩnh lớn hơn nữa, chẳng hạn như người tu luyện có công năng, thì có thể phân tích giải mã tốt hơn nữa, khi người khác nói hoặc viết một từ cũng có thể nhìn thấy được nghiệp lực của anh ta lớn ngần nào, thấy được tình huống đời đời kiếp kiếp của anh ta. Một chữ là đủ rồi.

Cho nên lúc đọc Pháp, nếu như thêm một chữ, vậy thì chữ đó không phải là Sư phụ nói mà là bản thân nói, vậy phía sau chữ đó là gì đây? Chính là toàn bộ tín tức của bản thân, bao gồm cả nghiệp lực chưa tiêu trừ. Còn phía sau mỗi từ của Sư phụ là tầng tầng lớp lớp Phật Đạo Thần, là Pháp thân của Sư phụ, là triển hiện của chân lý vũ trụ. Lấy chữ của mình thêm vào trong Pháp chính là loạn Pháp. Tất nhiên chúng ta không cố ý loạn Pháp, vậy nên chỉ cần sửa lại cho đúng là được. Nhưng nếu như cho rằng việc này không có gì đáng kể lắm, không coi trọng, thậm chí phóng túng thì đã không còn là vấn đề nhỏ nữa rồi.

Vốn dĩ đây là một vấn đề rất nghiêm túc, tại sao tôi lại không để ý, nhìn nhận là khác không nhiều đây? Hướng nội tìm, tôi phát hiện là bản thân đã quen làm người rồi, việc gì cũng chỉ nhìn bề mặt, trên biểu hiện mà thấy không khác nhau lắm thì bèn kết luận là “khác không nhiều”. Kỳ thực là không nhảy ra khỏi sự trói buộc của quan niệm “nhìn thấy là thực”, chính là dùng tư duy của con người, quan niệm của con người để nhìn nhận hết thảy, thay vì coi bản thân là một vị Thần, một Giác Giả mà dùng phương thức tư duy của Thần để suy xét.

Sư phụ đã nói về việc Thần nhìn nhận đối đãi với sự việc hiện tượng như thế nào trong nhiều lần giảng Pháp, xử lý vấn đề như thế nào, sự khác biệt giữa Thần và người, các đồng tu khai thiên mục cũng đã miêu tả chi tiết các chủng tình huống tại không gian khác, bao gồm chính niệm trừ ác, vạn vật có linh, luân hồi chuyển sinh v.v.. Những điều đó kỳ thực đã đủ để khiến những đệ tử Đại Pháp tu luyện với thiên mục đóng như tôi thoát khỏi thói quen ỷ lại vào đôi mắt thịt, học tập cách dùng quang nhãn của Thần để nhìn nhận, đối đãi vấn đề. Ví như nhìn mọi vật thể đều sẽ “nhìn” thấy chúng là linh thể, là sinh mệnh, có thể câu thông, cần phải yêu mến quý tiếc; nhìn thấy một người, cho dù là có hành vi bất hảo, cũng sẽ “nhìn” thấy họ đến từ những nơi xa xôi của đại khung vũ trụ, kinh qua ngàn vạn năm trắc trở, là sinh mệnh đáng được quý tiếc và tôn kính, ngôn hành bất hảo là do ô nhiễm của tầng thứ thấp chứ không phải bản chất của họ; nhìn thấy trò chơi trên mạng, thì sẽ “nhìn” thấy đám ma quỷ nhảy loạn phía đằng sau; nhìn thấy tiểu thuyết hay chương trình tivi trong người thường, thì sẽ “thấy” được tín tức của tác giả phía sau chúng, thậm chí nhìn thấy toàn bộ tín tức của các linh thể thao túng tác giả, là những thứ dơ bẩn màu đen…

Đừng nhìn bề mặt mà nhìn không gian khác, nhìn bản chất, nhìn lịch sử, nhìn từ thâm sâu, nhìn toàn diện thì sẽ không bị mê trong người thường. Bề mặt của con người khá phức tạp, những thứ tưởng thật mà giả; tưởng đúng mà sai có quá nhiều, không khác gì mê cung, bị hãm vào rồi thì rất khó thoát ra. Nếu nhảy thoát ra mà nhìn sự vật thì thật ra rất đơn giản, bởi vì đã nắm được bản chất rồi, càng bản chất thì càng đơn giản. Nói thẳng ra, cần coi bản thân như một vị Thần, thời thời khắc khắc, nhất tư nhất niệm đều yêu cầu bản thân như vậy, “Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ” (Chuyển Pháp Luân), có nguyện vọng và nỗ lực thành Thần như vậy, thì Sư phụ sẽ giúp đỡ đệ tử bỏ đi tầng vỏ con người này, mọi thứ đều là Sư phụ làm, mọi thứ đều là Sư phụ và Đại Pháp ban cho.

Sở ngộ cá nhân, nếu như có chỗ không đúng, xin đồng tu từ bi chỉ chính. Hợp thập.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/277314

Chú thích của người dịch:

(1) Ân khoa: Kỳ thi mở làm ơn, tức kỳ thi bất thường, được tổ chức ngoài kỳ hạn thường lệ, để đánh dấu việc vui mừng nào của quốc gia, triều đình hoặc hoàng tộc (Từ điển Nguyễn Quốc Hùng).

The post “Khác không nhiều” và “khác quá nhiều” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Không tật đố không khoe khoang, đạm bạc thủ trunghttps://chanhkien.org/2023/10/khong-tat-do-khong-khoe-khoang-dam-bac-thu-trung.htmlWed, 18 Oct 2023 02:51:14 +0000https://chanhkien.org/?p=31559Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Trong kinh văn Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2019, Sư phụ giảng: “Rất nhiều người sau khi ra khỏi [Trung Quốc] Đại Lục, đến xã hội quốc tế thì thấy người ta sao mà đơn giản thế; nói chuyện, thậm chí làm các việc đều phi […]

The post Không tật đố không khoe khoang, đạm bạc thủ trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Trong kinh văn Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2019, Sư phụ giảng:

“Rất nhiều người sau khi ra khỏi [Trung Quốc] Đại Lục, đến xã hội quốc tế thì thấy người ta sao mà đơn giản thế; nói chuyện, thậm chí làm các việc đều phi thường bình hòa. Nhưng người Đại Lục làm việc gì, thì cứ phải muốn việc gì cũng lập tức đến cực đoan nhất, đỉnh cao nhất, triệt để nhất; đều là tâm thái kiểu ấy”.

“Mọi người ở Trung Quốc Đại Lục dưỡng thành những thói quen ấy, bất kể là [khi] viết bài, [hay] làm việc nào đó, chính là muốn một gậy đập triệt để. Loại tác phong ấy, loại tư tưởng ấy quả thực khiến người xã hội quốc tế chịu không nổi”.

Gần đây, khi xem các bài viết chia sẻ của Ban Biên tập Minh Huệ và các đồng tu đối với vấn đề “tâng bốc”, “khen ngợi”, tôi mới ý thức được rằng, bài viết mà tôi viết vào năm 2019 với tựa đề “Một chút thiển ngộ gần đây của tôi về tâm tật đố”, vì trừ bỏ tâm tật đố mà trong vô thức chạy từ một cực đoan này chạy sang một cực đoan khác.

Bài viết trích dẫn trường hợp của vị thám hoa Trần Quán thời Bắc Tống, được phiên dịch lại bằng văn bạch thoại như sau: “Khi trò chuyện bàn luận với người khác, đều luôn khen ngợi chỗ tốt của người khác”. (Nguyên văn là: “Bàn luận với người, nói nhiều về sở trường của người khác”, chỉ “áp dụng” hoặc “tiếp thu” mà thôi). Đoạn văn dưới tiếp nối với đoạn văn trên, đều là khen ngợi đồng tu. Khi viết bài này, tôi cứ nghĩ rằng mình đang “vui mừng thay cho người khác”.

Tuy nhiên, sau khi học đọc bài viết “Tâng bốc và tự tâm sinh ma” của Ban Biên tập Minh Huệ, tôi tra cứu cách dùng của từ “khoa (夸)” (trong từ “khoa tưởng” nghĩa là khen ngợi), phần lớn đều mang nghĩa xấu như “khoa trương”, “khoa đản” (khoác lác), “khoa tì” (khoe khoang), có hư vinh thì sẽ không thực tế. Mà trong tiểu thuyết Minh Thanh, lấy “khoa tưởng” người khác cho là điều tốt. Ví dụ, trong hồi thứ 12 của Tây Du Ký, tại thành Trường An, đều là tranh nhau khen ngợi, đều nói rằng: “Pháp sư khá lắm!”. Hồi thứ 16, nhìn thấy Tam Tạng không tiếc lời khen ngợi: “Đồ vật tốt!”. Hồi thứ 19, người đi đường tấm tắc ngợi khen: “Hòa thượng tốt!”. Hồi thứ 96, Tam Tạng khiêm tốn… lại được khen ngợi không ngớt. Tú tài nghe vậy, vô cùng tán thưởng: “Đúng là thần tăng”. Hồi thứ 93, Đường Tăng lại được khen: “Thần tăng! Thần tăng!”

Vì lẽ đó, người tu luyện không tật đố với người khác; nhưng cũng không cần thiết phải chạy sang một cực đoan khác mà luôn khen ngợi, có thể sẽ khiến người khác “không chịu nổi”. Hồi thứ 15 trong Tây Du Ký, Bồ Tát nói: “Này con khỉ luôn ỷ mình mạnh, vậy ngươi có bằng lòng khen ngợi người khác không?” Đây chính là một cực đoan; nhưng cũng không cần phải chuyển sang một cực đoan khác là luôn khen ngợi người khác.

Trong “đấu trường miệng lưỡi, biển lớn thị phi”, người tu luyện nên phải coi nhẹ mâu thuẫn, đồng thời cần chú ý tu khẩu, có những lời chỉ cần bản thân nói với tự mình là được rồi. Giống như hồi thứ 24 trong Tây Du Ký, “Thanh Phong, Minh Nguyệt bụng dạ rất khen ngợi Đường Tăng: Đúng là vị hòa thượng chân chính, một vị thánh tăng giáng trần, chân nguyên sáng suốt”. Thanh Phong, Minh Nguyệt thầm khen ngợi chân thành, có lẽ đây là cách hóa giải mâu thuẫn vẹn cả đôi đường. Xem ra, tính cách hướng nội có chỗ tốt của nó, tính cách hướng ngoại cũng có nhược điểm của nó.

Trên đây là một chút thiển ngộ cá nhân, khó tránh khỏi sai sót, xin đồng tu từ bi chỉ ra.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/285036

The post Không tật đố không khoe khoang, đạm bạc thủ trung first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện tùy bút: Điện thoại thông minh chính là cái bẫyhttps://chanhkien.org/2023/10/tu-luyen-tuy-but-dien-thoai-thong-minh-chinh-la-cai-bay.htmlSun, 01 Oct 2023 00:16:40 +0000https://chanhkien.org/?p=31406Tác giả: Tiểu Hối [ChanhKien.org] Các loại điện thoại thông minh có chức năng tải xuống các ứng dụng, đó thực sự là một cái bẫy đối với người tu luyện, một khi đã bị mắc kẹt vào đó rồi liền rối ren hoa mắt, nếu không nỡ thoát ra thì đã xong rồi. Đầu […]

The post Tu luyện tùy bút: Điện thoại thông minh chính là cái bẫy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Hối

[ChanhKien.org]

Các loại điện thoại thông minh có chức năng tải xuống các ứng dụng, đó thực sự là một cái bẫy đối với người tu luyện, một khi đã bị mắc kẹt vào đó rồi liền rối ren hoa mắt, nếu không nỡ thoát ra thì đã xong rồi.

Đầu tiên, về vấn đề an toàn thì chúng ta không cần nói đến, các đồng tu đã thảo luận nhiều rồi, Sư tôn cũng đã nhắc nhở và chỉ rõ nhiều lần rồi. Chỉ riêng sức hấp dẫn của điện thoại cũng có thể khiến người tu luyện hình thành những chấp trước mạnh mẽ. Thuận tay lướt xem hai video hài hước, đặt mua vài đơn hàng trên ứng dụng mua sắm, xem một vài tin tức người thường, thường thì hễ cầm điện thoại lên là không bỏ xuống được nữa.

Chúng ta đều biết nguyên tắc của người tu luyện đối với động vật là bất dưỡng bất sát, nguyên do là động vật có thể hấp thu một số năng lượng do người tu luyện phát ra, ngoài ra người tu luyện còn cần một môi trường tu luyện thanh tịnh, ràng buộc càng ít thì càng tốt. Đặc biệt là trong xã hội người thường việc tu luyện, công việc, gia đình đã đủ phức tạp rồi, người tu luyện cần có tĩnh khí và định lực rất lớn mới có thể bài trừ can nhiễu, nếu lại nuôi động vật, phải quan tâm đến vấn đề ăn uống và sức khỏe của chúng, đó chẳng phải là tăng thêm phiền phức cho việc tu luyện của bản thân hay sao? Nhưng điện thoại di động còn gây nhiều hỗn loạn cho việc tu luyện hơn thế.

1. Mua sắm

Ứng dụng mua sắm có rất nhiều, so với mua hàng ở ngoài cửa hàng thì lại rẻ hơn, đặt đơn hàng sau vài ngày liền được giao tận nhà, nếu hàng không tốt còn có thể trả lại, có đủ loại quần áo, đồ gia dụng rực rỡ muôn màu, xem cái này lại muốn cái kia. Trước đây một mặt hàng chỉ có thể so sánh giá vài ba cửa hàng, bây giờ so sánh giá ba nghìn cửa hàng cũng được, còn được tặng phiếu giảm giá. Bây giờ trên các ứng dụng mua sắm cách mấy ngày lại có một lễ hội giảm giá, người mua sẽ được giảm giá nếu mua đến một mức nhất định, vậy nên bản thân rõ ràng không thiếu nhưng vẫn muốn mua, đây chẳng phải là chấp trước mạnh mẽ hay sao? Tham lợi nhỏ chính là chấp trước đối với lợi ích; thích mua sắm, thậm chí gặp hàng tốt giá rẻ liền mua nhiều thêm một chút để dùng dần, đó là chấp trước và lòng tham đối với vật chất; thích mua quần áo, thích trang điểm là ẩn giấu chấp trước vào sắc.

2. Video ngắn

Các video ngắn cũng là “loạn hoa tiệm dục mê nhân nhãn” (muôn hoa đua nở khởi dục vọng làm mê hoặc con người), có video về nấu nướng, có video về em bé dễ thương, có video thì hài hước, có video động chạm sắc tình, lướt xuống xem hết cái này đến cái khác thì đã không nỡ buông điện thoại xuống rồi. Các phần mềm chỉnh sửa video tạo hiệu ứng mạnh mẽ khiến ai ai cũng đều thành trai đẹp, gái xinh, từ đó dẫn khởi các chủng chấp trước dục vọng và truy cầu của con người với quan niệm biến dị và đạo đức bại hoại. Trong người thường còn có một số người biết cách kiềm chế bản thân không xem, huống hồ là người tu luyện chúng ta.

3. Tin tức

Bởi vì chúng ta tu luyện trong xã hội người thường, có người có thể cho rằng chúng ta cũng nên tìm hiểu tin tức của người thường một chút. Tuy nhiên, khoan hãy nói tin tức mà chúng ta xem thông qua các kênh truyền thông của tà đảng có chân thực hay không, chỉ riêng văn hóa đảng trong đó đã đủ bất hảo rồi. Hơn nữa, đâu đâu cũng thấy những những thứ sắc tình và khiêu dâm mà tà ác muốn dùng để hủy hoại con người, khi xem tin tức thì những thứ sắc tình liên tục xen vào, bạn không muốn xem nó cũng ép vào đầu bạn, quá khứ tu luyện giảng lục căn thanh tịnh, vậy có thể thanh tịnh nổi không?

Tôi đã mua chiếc điện thoại thông minh đầu tiên vào tám năm trước, lúc đầu thì không có vấn đề gì cả, sau này càng ngày càng không thể rời xa nó, đặc biệt là việc mua sắm qua điện thoại đã tới mức điên cuồng, mua được đồ vừa rẻ vừa tốt lại còn khoe khoang khắp nơi, rồi hỏi người khác rằng: “Chị đoán cái này bao nhiêu tiền?” Giá người khác đoán thường cao hơn giá tôi mua, tôi giống như chỉ ra cho họ đáp án của một câu đố vậy, khi nói đến giá thật, người khác bèn nói: “Chao ôi, thật là rẻ, mua ở đâu vậy, chị thật là biết cách mua”.

Thế rồi cánh tay của tôi đầu tiên đau ở bên phải, sau đó là bên trái, còn mọc ra một cục bướu, tôi ý thức được nguyên do là chiếc điện thoại, nhưng mãi cứ không buông bỏ được, kỳ thực là tôi đã bị nghiện rồi, bởi vì mỗi khi nghĩ đến lúc nhận hàng chuyển phát nhanh, tôi lại thấy phấn khích và vui sướng không thể tả, biết rõ ràng là không cần thiết nhưng vẫn cứ không ngừng tìm, không ngừng mua. Sau này, nhiều người thường đều thấy không chịu đựng nổi, tôi mới ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, tôi gỡ bỏ ứng dụng Taobao (trang mua bán trực tuyến lớn) và hạ quyết tâm tự nhủ với bản thân sẽ không bao giờ mua hàng trên mạng nữa và cánh tay của tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Nhưng tôi vẫn muốn xem tin tức hoặc video khi ăn hoặc trong thời gian rảnh rỗi, sức hấp dẫn của những thứ này thực sự rất lớn, khi xem thực sự cảm thấy vui vẻ và thỏa mãn. Tôi lại hỏi bản thân: “Nếu nói rằng không dùng điện thoại di động thì có thể viên mãn, liệu mình còn dùng không?” Tôi tự nhủ rằng, ngoài việc dùng điện thoại để học Pháp và gọi điện thoại ra thì không được phép dùng để làm bất cứ việc gì nữa. Khi tôi hạ quyết tâm lần này, cánh tay của tôi tốt hơn rất rất nhiều, hiệu quả thực sự nhanh chóng.

Điện thoại ngày nay không chỉ dùng để gọi điện như trước đây, nó có đầy đủ mọi chức năng của chiếc máy tính, nó còn đa dạng hơn máy tính rất nhiều, nó mê hoặc tâm trí của bạn, thu hút sự chú ý của bạn, không cho bạn tu luyện, không cho bạn thanh tĩnh, không cho bạn làm những việc chính đáng, đừng nói tôi chỉ xem thứ gì đó một chút thôi, tôi chỉ xem vài phút thôi. Lấy một thí dụ không được thích hợp lắm, người lần đầu tiên hút ma túy cũng nói với bản thân như vậy, tôi chỉ hút một hơi, tôi chỉ trải nghiệm một chút thôi, đây không phải là chuyện đơn giản đâu, không thể để bản thân mình bị huỷ hoại bởi điện thoại.

Có chỗ nào không đúng, mong các đồng tu từ bi chỉ chính.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/285217

The post Tu luyện tùy bút: Điện thoại thông minh chính là cái bẫy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhân quả đằng sau được và mấthttps://chanhkien.org/2023/09/nhan-qua-dang-sau-duoc-va-mat.htmlThu, 14 Sep 2023 23:30:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31294Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Sư phụ trong kinh văn “Vì sao có nhân loại“ giảng rằng: “Biểu hiện của được và mất, về hiện thực mà nhìn thì như biểu hiện bình thường ở xã hội, về căn bản thì là sinh mệnh bản thân tạo thành nhân quả trước sau”. Rất […]

The post Nhân quả đằng sau được và mất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Sư phụ trong kinh văn Vì sao có nhân loại giảng rằng:

“Biểu hiện của được và mất, về hiện thực mà nhìn thì như biểu hiện bình thường ở xã hội, về căn bản thì là sinh mệnh bản thân tạo thành nhân quả trước sau”.

Rất nhiều năm trước, có một việc mà tôi luôn canh cánh trong lòng, đối với việc gia đình chú em chồng tôi nghĩ mãi không thông. Mỗi lần họ đến nhà tôi là bố mẹ chồng và chồng tôi đều hết sức niềm nở. Lần nào ra về, bố mẹ chồng và chồng tôi đều đem cho họ túi lớn túi nhỏ đủ thứ đồ, có lúc còn chất đầy cả một thùng xe, đã thế bố mẹ chồng còn lấy đồ của chúng tôi tặng cho họ, nói rằng chúng tôi ăn không hết thì cho họ bớt đi. Có khi bố mẹ chồng còn đem đồ gửi xe khách cho họ, rồi chú em chồng ở ngoại thành đến bến xe nhận đồ.

Nếu như không tu luyện Đại Pháp, tôi sẽ không dễ dàng cho họ làm điều này một cách thoải mái như vậy, ít nhất thì cũng phải được sự đồng ý của tôi mới được. Nhưng vì tu luyện Đại Pháp rồi nên tâm tôi cũng mở rộng hơn rất nhiều, không còn tính toán chi li chuyện được mất nữa, và cũng không còn cảm thấy mất cân bằng trong tâm. Tuy vậy, tôi biết sâu thẳm trong tâm mình vẫn có chút tủi thân và buồn phiền,chứ không thật sự hiểu được Pháp mà Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân là:

“Những của cải vật chất khi sinh không mang theo đến, khi tử không mang theo đi, rất [trống rỗng] hư không”.

Tôi chỉ âm thầm chấp nhận và nhẫn nại, không còn đi nghĩ về những việc họ đã làm, tôi chỉ cần làm tốt ba việc Sư phụ yêu cầu là được rồi.

Có lẽ Sư phụ nhìn thấy tôi quá chấp trước, một đêm trong mộng tôi nhìn thấy một cảnh tượng rất rõ ràng: Tại kiếp đó, tôi còn đang là một đứa bé sơ sinh, vì bị trúng độc nên sinh mệnh gặp nguy hiểm, vì cứu tôi em dâu đã ôm tôi chạy, dốc sức chạy, tranh thủ từng phút từng giây chạy nhanh đến bệnh viện. Vì đến bệnh viện kịp thời nên tôi đã được cứu sống. Tôi nhớ như in lúc đó tôi có phát nguyện: Em dâu đã cứu mạng tôi, sau này những gì tôi có cũng sẽ là của em, em dâu có thể tùy ý lấy!

Từ trong mộng tỉnh lại, tôi thổn thức không ngừng rơi lệ cảm động.

Dòng đời dài thăng trầm chìm nổi, chúng ta đã từng trải qua những gì? Có phải chúng ta đã quên hết quá khứ? Đời này kiếp này đối mặt với những bất công đều là có nhân quả trước sau, là Sư phụ từ bi đã cho tôi nhớ lại quá khứ, nhìn lại nhân quả đã từng gieo, để tôi buông bỏ chấp trước, dốc sức tu luyện.

Cảm ân Sư phụ! Cảm ơn tất cả những người mà tôi có duyên gặp trong đời này, tôi sẽ cố gắng làm tốt ba việc để không phụ sự kỳ vọng của Sư phụ và mong mỏi của chúng sinh đối với đệ tử Đại Pháp.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/284347

The post Nhân quả đằng sau được và mất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiển ngộ về “Xứ xứ đô thị ma”https://chanhkien.org/2023/09/thien-ngo-ve-xu-xu-do-thi-ma.htmlWed, 13 Sep 2023 03:11:43 +0000https://chanhkien.org/?p=31286Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] “Quan quan đô đắc sấm Xứ xứ đô thị ma” Tạm dịch: Cửa nào cũng phải qua Chỗ nào cũng là ma (“Khổ kỳ tâm chí” Hồng Ngâm) Câu này học thuộc lòng đến mức trôi chảy, thành thạo, nhưng khi lý giải lại cực kỳ nông cạn. Mắt nhìn […]

The post Thiển ngộ về “Xứ xứ đô thị ma” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

“Quan quan đô đắc sấm
Xứ xứ đô thị ma”

Tạm dịch:

Cửa nào cũng phải qua
Chỗ nào cũng là ma

(“Khổ kỳ tâm chí” Hồng Ngâm)

Câu này học thuộc lòng đến mức trôi chảy, thành thạo, nhưng khi lý giải lại cực kỳ nông cạn. Mắt nhìn thấy ở bên thân đâu đâu cũng đều là người, làm sao có thể xứ xứ là ma được? Ma đang ở đâu? Nhìn không thấy, cầm không được, cũng không tin.

Suy nghĩ kỹ một chút, khi người trong nhà vô cớ gây chuyện, khi đồng nghiệp không có lý do làm thương tổn, khi hàng xóm cố tình sinh sự, họ cũng đều đang đóng vai trò của ma, đang ma luyện tâm của chúng ta. Tâm tính nếu không thể đề cao lên, khẳng định sẽ bị ma kéo xuống.

Kỳ thực, thời kỳ mạt Pháp, chỗ nào cũng đều là hang ổ của ma, cạm bẫy và ma quỷ, chỉ là mắt người nhìn không thấy, tư tưởng ý thức không tới mà thôi.

Điện thoại di động, máy tính, tivi, là ba con ma lớn trong lĩnh vực điện tử của thời nay. Có rất nhiều người hiện nay đã mắc chứng phụ thuộc vào điện thoại một cách nghiêm trọng. Dùng điện thoại, chơi điện tử, không kể ngày đêm, đến mức không đi làm, không đi học. Rất nhiều người tu luyện cũng trầm mê ở trong đó, không thể tự thoát khỏi.

Kỳ thực,

“vật chất và tinh thần là nhất tính” (Chuyển Pháp Luân)

trong sản phẩm điện tử là có linh thể, phần lớn đều là linh thể lạn quỷ tầng thấp do cựu thế lực an bài. Chỉ cần chúng ta chơi nó, nó liền bắt đầu chơi chúng ta. Trong trò chơi điện tử đánh đánh giết giết, không phải cũng là sát sinh sao? Triền miên đắm chìm trong điện ảnh và truyền hình, không phải cũng là tình huyễn sao? Chúng khiến người tu luyện trong vô thức mà đi sai đường, sau đó theo lẽ dĩ nhiên sẽ bị hủy đi.

Tại sao đánh bạc qua mạng, trò chơi điện tử, điện ảnh và truyền hình, nghiện thì dễ mà bỏ thì rất khó? Kỳ thực chính là “mời tới thì dễ, tiễn đi thì khó”. Bản thân chúng ta đã chiêu mời yêu ma đến rồi (xem hay chơi đều là đang chiêu mời nó), những linh thể lạn quỷ tầng thấp này liền nắm chặt chúng ta không buông tay ra. Chiếm dụng thời gian của chúng ta, hấp thụ khí tinh huyết của chúng ta, mài mòn ý chí tinh tấn của chúng ta. Vậy phải làm sao đây? Chỉ có một con đường, đó chính là bước vượt qua nó. Thật sự kiên cường quyết tâm làm được đến độ không nhìn chút nào, không chạm vào nó, nó sẽ không có chỗ nương náu, nó mới có thể rời đi.

Hai năm trước, tôi đã mua một số kim loại quý trên ngân hàng di động. Trong vòng vài ngày nó tăng 20% và chỉ trong 1 ngày lại nhảy xuống 10%. Tâm tôi cũng thuận theo đó mà lên lên xuống xuống, trong đầu toàn là vàng và bạc, cuối cùng mất tiền ra thị trường. Một năm trước bạn học mua cổ phiếu, tôi cũng tham gia, chuẩn bị coi đó là đầu tư dài hạn. Nhưng hễ khi tôi nghĩ về cổ phiếu, tôi sẽ vấp ngã khi đi trên đường hoặc va vào tường khi tôi ngẩng đầu lên. Sư phụ đã điểm hóa cho tôi như vậy, nhưng tôi vẫn không ngộ. Sau một thời gian, lãnh đạo đơn vị nói rằng “phòng 610” đã chú ý đến tôi. Tôi sợ đến mức không dám quan tâm tới cổ phiếu nữa. Năm nay, tôi lại mua một chút cổ phiếu. Chỉ hai ngày sau, nhân viên kiểm tra ở phòng bảo vệ ở đơn vị tìm tới tôi. Tôi sợ quá, không dám xem nó nữa. Trải qua hai năm vấp ngã, tôi mới thực sự nhận ra rằng:

“bất kể con đường nào mà đi không chính đều là nguy hiểm, đều là trắc trở.” (Giảng Pháp tại các nơi V – Giảng Pháp tại Pháp hội miền Tây Mỹ quốc năm 2004)

Tôi cũng vẫn luôn tự hỏi, tôi thu nhập ổn định, có xe có nhà, tài khoản có trăm vạn, tại sao vẫn không buông bỏ được những thứ loạn bát nháo này? Đây không phải đánh bạc sao? Thế nhưng chỉ cần tôi hễ nhìn, liền không buông được, liền nhất định muốn mua. Đồng tu nói: “Bên trong đó là có linh thể, bạn còn đưa nó vào trong.” Tôi cũng không nghe. Hiện tại mới ý thức được: là cựu thế lực đang kéo tôi vào trong hang ổ của ma, thông qua loại hình thức đầu tư không chính đáng này, khiến tôi vi phạm Pháp lý, khiến tôi tạo nghiệp, khiến tôi thất đức, khiến tôi bị hủy đi. Chỉ cần một niệm không chính, cựu thế lực liền dùi vào sơ hở để làm hại tôi, bởi vì tôi không ở trên Pháp, không đi trên con đường mà Sư phụ an bài, chính là đang đi trên con đường mà cựu thế lực an bài.

Vì để vượt qua quan này, tôi tăng cường sức lực học thuộc Pháp. Học thuộc lòng các Pháp lý liên quan bên trong (Chuyển Pháp Luân)

“Mình là người luyện công, cớ sao lại cầu những thứ này? Mình đã nhận của cải phi nghĩa mất rồi; mình đã mất cho họ bao nhiêu đức không biết?”

“Trong đầu chỉ toàn là tiền và danh [vọng], chư vị thử nói có thể có công không? Khí cũng sẽ không phải khí tốt.”

“Tu luyện tôn giáo trong quá khứ, Phật gia giảng ‘không’, cái gì cũng không mong nghĩ, nhập ‘không môn’; Đạo gia giảng ‘vô’, cái gì cũng không có, cũng chẳng muốn, cũng chẳng truy cầu. Người luyện công giảng: ‘hữu tâm luyện công, vô tâm đắc công’. Ôm giữ một chủng tu luyện trạng thái ‘vô vi’, chỉ quan tâm tu luyện tâm tính chư vị, thì tầng của chư vị sẽ đột phá, chư vị đáng được gì thì đương nhiên sẽ có. Chư vị vứt bỏ không được, [thì] chẳng đúng là tâm chấp trước là gì?”.

Học thuộc Pháp có tính nhắm thẳng hơn một năm, cái tâm này đã dần dần nhẹ đi.

Tu luyện lấy thanh tĩnh làm gốc, tâm không thanh tĩnh, tâm tư rối loạn, học Pháp không vào, luyện công không tốt, con đường đi không chính, vậy làm sao bàn tới việc tu luyện? Làm sao nói tới trợ Sư chính Pháp?

“Hết thảy những thứ can nhiễu làm cho không thể nhập định, không thể tu luyện đều được coi là những can nhiễu nghiêm trọng”. (Chuyển Pháp Luân)

Dung lượng của bộ não con người là cực kỳ hữu hạn, chứa trong đó là phim truyền hình, sẽ thuận theo nội dung câu chuyện mà ý loạn tình mê, sẽ không thanh tâm quả dục; chứa trong đó là cổ phiếu, liền thuận theo thị trường chứng khoán tăng giảm mà dao động, sẽ không đạt được tâm bình khí hòa; chứa trong đó là mua sắm trực tuyến, sẽ không ngừng mua, mua và mua, sẽ không có được sự thản nhiên vô cầu. Khiến cho con người thần hồn điên đảo, hết thảy đều tâm mê ý loạn, kỳ thực đều là con đường nguy hiểm xa rời truyền thống.

Thị trường cổ phiếu, hỗ trợ tài chính, hợp đồng tương lai, là hang ổ của ma trong lĩnh vực đầu tư thời hiện đại. Mua sắm trực tuyến, tiếp thị đa cấp, marketing trực tiếp, là hang ổ của ma trong lĩnh vực mua sắm thời hiện đại. Dâm loạn, đánh bạc, nghiện rượu là hang ổ của ma trong lĩnh vực giải trí thời hiện đại. Trong hang ổ của ma đầy rẫy yêu tinh, quái thú vô số. Chỉ cần hễ mở ra, ma sẽ tóm chặt bạn, ăn thịt bạn, uống máu bạn. Do đó, chúng ta nhất định phải cảnh giác.

Hơn nữa,

cựu thế lực sẽ lợi dụng các loại cơ hội, gây phiền toái cho đệ tử Đại Pháp, cũng sẽ lợi dụng các loại cơ hội khiến một số đệ tử Đại Pháp đó mất đi sinh mệnh.” (Giảng Pháp ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới)

Hết thảy loạn tượng biến dị thời hiện đại, người tu luyện chỉ có kiên quyết ngăn chặn tận gốc, mới có thể đi cho chính con đường mà Sư phụ an bài. Trong khi vượt quan phải tránh việc còn chút vấn vương, dây dưa, không dứt khoát, dao động qua lại, chỉ cần chúng ta có một điểm chấp trước, một chút hiếu kỳ, một niệm dao động, cựu thế lực liền tóm chắc, khuếch đại nó, cường hóa nó. Mà căn bản của hết thảy điều này, lại là ở tự thân.

“Người ta đều vì quan niệm của mình chẳng ngay, tâm nơi mình chẳng chính mà [tự] rước lấy rắc rối.” (Chuyển Pháp Luân)

“Nhân tâm câu đích quỷ thượng môn” (“Cảnh tỉnh” Tinh tấn yếu chỉ 3)

(Tạm dịch: nhân tâm kích thích quỷ đến cửa).

Một chút ý kiến cá nhân, xin từ bi chỉ ra chỗ sai sót.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/275372

The post Thiển ngộ về “Xứ xứ đô thị ma” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cảm ngộ về “phát chính niệm”https://chanhkien.org/2023/09/cam-ngo-ve-phat-chinh-niem.htmlTue, 05 Sep 2023 02:57:39 +0000https://chanhkien.org/?p=31233Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Tối hôm qua tôi muốn tăng thêm thời gian phát chính niệm, do đó liền bắt đầu phát chính niệm, ngồi xếp bằng, thanh lý tất cả nhân tố tà ác trong trường không gian của bản thân, sau đó lập chưởng bắt đầu phát chính […]

The post Cảm ngộ về “phát chính niệm” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Tối hôm qua tôi muốn tăng thêm thời gian phát chính niệm, do đó liền bắt đầu phát chính niệm, ngồi xếp bằng, thanh lý tất cả nhân tố tà ác trong trường không gian của bản thân, sau đó lập chưởng bắt đầu phát chính niệm, trong chốc lát, bản thân liền được bao bọc bởi một luồng năng lượng lớn mạnh, cảm giác khắp cơ thể giống như được định trụ lại, ngồi tại đó rất ổn định, rất ổn định, dòng năng lượng cường đại đang vận hành một cách có quy luật khắp toàn thân, đỉnh đầu có cảm giác như có vô số thanh kiếm sắc bén không ngừng phun ra đâm hướng về phía tà ác ở không gian khác, một dòng năng lượng bất tận không ngừng bổ sung thêm vào, dường như bản thân đang đứng trên chiến trường chính, đang tiến hành giao chiến kịch liệt trong trận chiến giữa chính và tà, chợt cảm thấy phía thân thể tu luyện tốt của bản thân, ở không gian khác trảm yêu trừ ma, tiêu hủy tà ác, ngược lại, thân thể con người này giống như là một tải thể, chỉ là vì để làm nền cho chân thể ở không gian khác mà tồn tại.

Lúc này tôi cảm thấy một cảm giác thù thắng và tráng quan chưa từng có, bên phía con người biết rằng bản thân đang phát chính niệm trừ ác, do đó cố hết mức bảo trì trạng thái bình ổn, không để bản thân bị phân tâm, ảnh hưởng đến trận chiến giữa chính và tà ở không gian khác, loại trạng thái này kéo dài hơn 40 phút, cứ như vậy mà được năng lượng bao bọc lại. Từ tận đáy lòng, tôi thể nghiệm được rằng, danh hiệu thần thánh mà Sư phụ ban cho các đệ tử Đại Pháp này, hàm chứa biết bao nhiêu là kỳ vọng của Sư phụ, sự trông đợi của chúng sinh, và trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp.

Tôi có một chút cảm ngộ rõ ràng đối với việc phát chính niệm, Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:

“Tất cả các công năng đặc dị (tiềm năng) của người ta [khi] tu luyện thân thể người thường, tức là trong quá trình tu luyện thế gian pháp, tất cả mọi thứ đều xuất lai; tuy nhiên [khi] tu [luyện] trong người thường thì đại bộ phận đều bị khoá lại. Ngoài ra công trụ của họ đã vươn lên rất cao, hết thảy các hình thức của công, đều đã được công mạnh mẽ gia trì đến mức rất mạnh. Nhưng chúng chỉ có tác dụng tại không gian hiện hữu này của chúng ta, chứ không thể ước chế các không gian khác, bởi vì chúng chỉ là công năng được luyện ra từ nhục thể người thường chúng ta”

Thể ngộ được ở trong Pháp là, đệ tử Đại Pháp tu luyện trong xã hội người thường, công năng mà chúng ta xuất ra là do cái nhục thể này tu xuất ra, chỉ có thể khởi tác dụng tại không gian bề mặt của nhân loại, đệ tử Đại Pháp phát chính niệm là thần thông mà Sư phụ từ bi ban cho, tại thời kỳ lịch sử đặc thù này, đệ tử Đại Pháp trợ Sư Chính Pháp, cứu độ chúng sinh, làm tròn thệ ước tiền sử, Sư phụ thực sự là kéo vớt chúng ta lên, lại đưa tiễn một đoạn, một mạch vẫn đang dõi theo, từ bi gia trì, đệ tử Đại Pháp là sinh mệnh may mắn nhất trong vũ trụ, trên con đường Chính Pháp được Sư phụ dìu dắt sát sao, theo Sư phụ bước về phía trước, gia viên tiên thiên dường như đang ở ngay trước mặt.

Thông qua cảm ngộ về lần phát chính niệm này, khiến tôi hiểu ra, đệ tử Đại Pháp cần nghiêm túc đối đãi với việc phát chính niệm, phát chính niệm không phải là sa vào hình thức, phát chính niệm là đang vận dụng thần thông, vận dụng công năng. Khi bạn lập chưởng phát chính niệm, ở không gian khác thực sự là đại chiến chính tà, bởi vì nhân tố phụ diện bị Chính Pháp động chạm đến sẽ giải thể, nhân tố tà ác ở không gian khác cũng giống như thuốc độc vậy, chúng chính là độc, chính là ác, chính là tà, chính là muốn hủy con người, chúng mù quáng, máy móc hành sự chiểu theo cơ chế của cựu vũ trụ, khởi tác dụng can nhiễu đối với việc Chính Pháp của Sư phụ, đối với việc đắc cứu của đệ tử Đại Pháp và con người thế gian, do đó, những thứ này đều cần phải giải thể trong Chính Pháp, đệ tử Đại Pháp phát chính niệm chính là đang thanh lý những thứ rác rưởi bại hoại trong vũ trụ, thế nhưng bất kể nhân tố nào ở không gian khác đều là có sinh mệnh, tà ác cũng là như thế. Khi Chính Pháp động chạm đến nó, nó không muốn bị Chính Pháp tiêu hủy, giải thể, liền muốn tự cứu theo bản năng, sẽ khởi tác dụng cản trở, phản kháng, trận chiến giữa chính và tà cứ như vậy mà từng phân cảnh được biểu diễn.

Sư phụ giảng:

“Thật ra mỗi một cá nhân đệ tử Đại Pháp đều có năng lực, chỉ vì không biểu hiện ra không gian bề mặt, nên lại cho là không có công năng. Tuy nhiên vô luận là công năng có xuất hiện đến không gian bề mặt hay không, thì khi động chân niệm cũng có uy lực mạnh mẽ”. (Tinh tấn yếu chỉ II – “Chính niệm của Đệ tử Đại Pháp có uy lực”)

Chính niệm đến từ Pháp, chính niệm của đệ tử Đại Pháp đến từ tín tâm kiên định tuyệt đối vào Đại Pháp, bạn có bao nhiêu chính tín đối với Pháp, chính niệm của bạn sẽ có bấy nhiêu uy lực, khi chấp trước con người của bạn không ngừng được buông bỏ, bạn sẽ phát hiện chính niệm của bạn sẽ trở nên lớn mạnh.

Tuy rằng tế bào phân tử lớn nhất này của chúng ta vẫn còn ở trong con người, thế nhưng phía mặt Thần của chúng ta đã ở không gian khác duy hộ nhân tố chính diện trong vũ trụ, cảnh giới của Đại Giác Giả là không giống nhau, thành tựu uy đức cũng là không giống nhau, thế nhưng cơ điểm của hết thảy điều này lại quyết định ở chính sự tu luyện của bản thân bạn, Sư phụ đã mở rộng cửa rồi, Đại Pháp vũ trụ cũng triển hiện ở trước mặt bạn.

Sư phụ giảng:

“Làm đệ tử Đại Pháp mà nói, theo bộ Pháp này mà tu. Sư phụ từng nói một câu này, tôi bảo rằng, “Này chư vị, muốn tu cao đến đâu, chỉ cần chư vị dám!”” (Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2019)

Pháp lớn như thế, do vậy uy đức thành tựu của sinh mệnh sẽ lớn, đệ tử Đại Pháp gánh vác sứ mệnh trọng đại, không những cần tu tốt bản thân, còn phải trợ Sư Chính Pháp, cứu độ chúng sinh, chính niệm chính hành, dùng thần thông mà Sư phụ ban cho chúng ta, thanh trừ vật chất bại hoại trong vũ trụ, giải thể sinh mệnh tà ác biến dị.

Phát chính niệm là một trong “ba việc” mà Sư phụ yêu cầu chúng ta làm, có thể thấy phát chính niệm đối với đệ tử Đại Pháp quan trọng đến nhường nào, cũng là một phần tu luyện của chúng ta, trong lịch sử cũng là trước nay chưa từng có, trân quý cơ hội mà Sư phụ cấp cho chúng ta kiến lập uy đức, buông bỏ nhân tâm, tâm sinh chính niệm, khiến phía mặt Thần càng ngày càng lớn mạnh, khiến thần thông của bạn vận dụng tự do không có bất kể trở ngại, chính niệm của bạn sẽ hóa thành vô số thanh kiếm sắc bén đâm về phía tà ác, năng lượng của bạn càng lớn mạnh hơn nữa, khiến nhân tố tà ác trong vũ trụ bị tiêu hủy, giải thể, đây chính là uy lực của chính niệm.

Một chút thể hội tu luyện trong giai đoạn hiện nay, có chỗ nào không thỏa đáng, mong đồng tu từ bi chỉ rõ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/284784

The post Cảm ngộ về “phát chính niệm” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiển đàm về “Nghiệp tư tưởng”https://chanhkien.org/2023/08/thien-dam-ve-nghiep-tu-tuong.htmlTue, 08 Aug 2023 03:12:31 +0000https://chanhkien.org/?p=31032Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục [ChanhKien.org] Nghiệp tư tưởng là dựa trên cơ sở vị tư, mong muốn đạt được mục đích cá nhân, hoặc là muốn thỏa mãn cái gọi là dục vọng của bản thân, từ đó hình thành ở trong tư tưởng. Con người không phải là sống một […]

The post Thiển đàm về “Nghiệp tư tưởng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp đại lục

[ChanhKien.org]

Nghiệp tư tưởng là dựa trên cơ sở vị tư, mong muốn đạt được mục đích cá nhân, hoặc là muốn thỏa mãn cái gọi là dục vọng của bản thân, từ đó hình thành ở trong tư tưởng. Con người không phải là sống một đời, một kiếp này, con người là trải qua hàng trăm ngàn năm luân hồi, do đó nghiệp lực tạo ra trong mỗi một đời, mỗi một kiếp sẽ phản ánh ra tại những thời điểm khác nhau. Có lúc cảm thấy bản thân cũng có chính niệm, trong tư tưởng cũng đang bài xích những suy nghĩ, niệm đầu không tốt này, nhưng cảm giác dường như vẫn chưa triệt để thanh lý được hết, cảm thấy có chút bất lực, để mặc cho tư tưởng không tốt đấy lưu lại ở đó. Khi nhìn thấy tư tưởng không tốt đó, tôi cảm thấy nó dường như đang thách thức tôi, đối đầu với tôi, nó biến hóa ra đủ thứ chiêu số để can nhiễu tôi, khiến tôi không thể toàn lực thanh lý nó.

Khi tôi tĩnh tâm xuống tìm xem nguyên nhân nào đang gây trở ngại, tôi phát hiện là tâm sợ hãi, là tình, là những thứ này đang trói buộc tôi, túm lấy tôi, kéo tôi xuống. Tình là cơ sở sản sinh ra tâm sợ hãi, sợ tà ác can nhiễu, sợ tà ác thế này thế kia, tóm lại chính là đã coi tà ác là lớn, coi bản thân mình là nhỏ bé, không tin tưởng rằng Đại Pháp không điều gì là không thể, cơ điểm đứng tại con người nơi đây, tư tưởng, niệm đầu cũng là trạng thái của con người, bởi vì bạn lúc này đã rớt xuống nơi con người, như vậy tầng lý này của con người liền chế ước bạn.

Tìm ra được những tâm này, tôi liền phát chính niệm giải thể nó, không cần nó, không ngừng bài xích nó, bởi vì tư tưởng hình thành do nghiệp lực và những quan niệm này, căn bản không phải là chân ngã thực sự của tôi. Ngộ ra được một tầng Pháp lý này, nội tâm giữ vững niệm này, quá trình này chính là chiến trường đại chiến giữa chính và tà tại không gian khác, chính niệm của bạn chiếm thế thượng phong, bạn sẽ giữ vững Pháp, bạn sẽ nhận được sự gia trì của Pháp. Thể hiện tại bề mặt con người này, chính là tư tưởng đã thanh tĩnh, can nhiễu đã yếu đi, không lại bị hãm vào trong đó, cảm giác bất lực tan biến, dưới sự gia trì của Đại Pháp, cảm thấy bầu trời quang đãng, nhìn thấu mọi sự, cái gọi là “sợ” lặng lẽ rút đi. Nhìn lại nguyên nhân của cái sợ lúc đó, có vẻ rất đáng cười, có lẽ là do dưới tác dụng của quan niệm biến dị và nghiệp tư tưởng, thổi ra từng bong bóng hư ảo, tình tiết câu chuyện cũng được tạo ra căn cứ vào tâm sợ hãi lớn hay nhỏ, lời thoại là do nghiệp tư tưởng và quan niệm cùng nhau sắp đặt. Khi bạn không đứng tại Pháp mà đề cao lên, bạn sẽ bị hãm vào trong đó, chủ ý thức của bạn sẽ không lý trí, do đó bạn đã đồng ý diễn vở kịch này rồi.

Chủ ý thức không mạnh sẽ làm ra rất nhiều việc xấu, chủ ý thức của đệ tử Đại Pháp không mạnh liền sẽ bị những vật chất bất hảo ở không gian khác dùi vào sơ hở, bị tà linh ở không gian khác can nhiễu, do đó học Pháp nhiều sẽ tăng cường chính niệm, chính niệm mạnh rồi, chủ ý thức của bạn sẽ lý trí, thanh tỉnh, từ đó có thể giữ vững tốt bản thân, khiến những vật chất bất hảo không có cơ hội biểu diễn.

Một chút thể hội trong tu luyện, nếu có chỗ nào không đúng, mong đồng tu từ bi chỉ rõ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/284375

The post Thiển đàm về “Nghiệp tư tưởng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thần đã trở lạihttps://chanhkien.org/2023/07/than-da-tro-lai.htmlMon, 10 Jul 2023 08:32:52 +0000https://chanhkien.org/?p=30797Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Tôi muốn nói cho tất cả các sinh mệnh biết rằng, “Pháp Luân Đại Pháp” là tu luyện, không phải là chính trị, “Pháp Luân Đại Pháp” là cánh cửa tái sinh của sinh mệnh. Tìm lại thần tính, trả lại cho thương […]

The post Thần đã trở lại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Tôi muốn nói cho tất cả các sinh mệnh biết rằng, “Pháp Luân Đại Pháp” là tu luyện, không phải là chính trị, “Pháp Luân Đại Pháp” là cánh cửa tái sinh của sinh mệnh.

Tìm lại thần tính, trả lại cho thương khung ánh quang minh vĩnh hằng. Cựu thế lực dẫu có thiên biến vạn hóa, nhưng lương thiện lại có quy tắc nhất định, vĩnh hằng bất biến.

Thần đã đến rồi, tà ma cũng đến rồi. Câu chuyện “Vừa ăn cướp vừa la làng” (1) kể về một tên giặc bán nước thực sự, có thể bán đứng tất cả, giống như Satan. Satan đã giao cấp bản thân nó cho sự sa đọa, vậy nên phải chịu số phận trở về với tro bụi.

Thần biết rằng có luân hồi chuyển thế, tà ma cũng biết có luân hồi chuyển thế, vì thế có rất nhiều sự việc, không chỉ là an bài một đời một kiếp, cũng không chỉ là an bài nhiều đời nhiều kiếp, mà thậm chí có thể là hàng chục triệu năm, vậy nên càng đến cuối cùng dường như càng rất phức tạp, kỳ thực không phức tạp chút nào, có điều sự việc này chính là như vậy, tà ma đã được định sẵn là phải bị đào thải, sợ điều gì chứ, Trời diệt Trung Cộng là việc đã định, là Trời muốn diệt Trung Cộng, nhưng con người không làm được, nên con người chỉ cần thuận theo ý Trời mà làm là được rồi, và người tu luyện cũng không việc gì phải phí sức, kiên định chiểu theo Đại Pháp mà tu luyện bản thân, trợ Sư Chính Pháp, sự biến đổi to lớn của thiên địa này là do Sư tôn vĩ đại đang lợi dụng ngọn lửa tà ác để tôi luyện và thành tựu các đệ tử Đại Pháp.

Tôi sám hối về tất cả những điều sai trái đã làm, trên con đường bại hoại của thế gian cũng đã từng thêm dầu vào lửa (2), tôi sám hối vì trước đây đã từng thỏa hiệp cho ác ma quanh quẩn trong nội tâm, sám hối đối với sự phóng túng và không câu thúc của bản thân, mà dẫn đến sự vô trách nhiệm đối với đạo đức thế gian, tôi đã rời bỏ thánh điện của tâm mình, chỉ mải rơi rớt, rớt xuống ngàn trượng (3). Kỳ thực khi sống một thời gian dài trong tù, tôi đã quên mất dáng vẻ quang minh rồi, dường như đã rất lâu không thấy trời xanh mây trắng; tôi lại càng ngây ngất trước ngọn gió lớn ảm đạm cuốn lá khô và đất, tóc cùng với da hòa theo tiếng rít của gió và mưa rơi. Sự từ bi của Sư tôn đã giúp tôi tẩy tịnh thân thể bùn nhơ, chiếu lên tôi những tia sáng mặt trời ấm áp nhất, để tôi thật sự cảm nhận được Phật duyên mình đã chờ đợi từ rất lâu rồi, sau đó lại lần nữa rơi rớt vấp ngã, sinh tử quanh co tới lui như mộng, lại một lần nữa gần như sụp đổ, vào lúc cuối cùng ấy khi cảm thấy gần như khói tiêu mây tản, sau tất cả cuối cùng được Sư tôn ban cho tái sinh, sau đó lại được bảo hộ để bước đi cho đến tận bây giờ.

Có thể nói rằng tôi đã thật sự thấy được con đường tu luyện của bản thân, có lẽ tôi đã biết được mọi thứ về bản thân trong cựu vũ trụ. Bản thân trong vũ trụ mới đang nhìn xem sinh mệnh của cựu vũ trụ giày vò bản thân thế nào, liệu có phải là một câu chuyện cười lớn hay không. Cựu thế lực đã thấy tất cả, tôi cũng đã thấy được tất cả; nếu lấy tiêu chuẩn của cựu vũ trụ, nhìn xem bản thân vẫn còn tâm hơn thua, không tín Sư, không kính Sư; thì không biết sinh mệnh này sống để làm gì nữa.

Theo nhận thức lý giải của cá nhân, nếu như đệ tử Đại Pháp căn bản đã đạt đến cảnh giới quy vị, tất cả mọi phương diện tu luyện đã thành thục, mọi tâm thái đều đã tương đối ổn định rồi, đại bộ phận học viên có thể nói là đạt tiêu chuẩn của đệ tử Đại Pháp rồi. Vậy thì, Thần đã quay trở lại, còn có tà ác nào nữa, tất cả đã giải thể rồi.

Sư phụ giảng:

“Khi uy đức của các đệ tử Đại Pháp triển hiện xuất lai, đó mới là ánh sáng rực rỡ vĩ đại.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Thụy Sỹ [1998])

Sư phụ còn giảng cho chúng ta:

“Nếu chư vị ai ai cũng có thể từ nội tâm nhận thức Pháp, ấy mới là thể hiện của Pháp uy lực vô biên — Phật Pháp lớn mạnh tái hiện ở nhân gian!” (“Lời cảnh tỉnh”, Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Người tu luyện phải từ trong nội tâm nhận thức được Pháp, từ nơi “tâm” nhận thức được Pháp, đắc được ánh quang minh của sinh mệnh, ánh quang minh trong tâm, niềm hy vọng trong tâm, niềm hy vọng mới; đó chẳng phải chứng tỏ rằng người tu luyện trong mỗi cảnh giới khác nhau đã đồng hóa với Pháp, tâm đồng tại với Pháp, thân thần hợp nhất, thiên nhân hợp nhất, đệ tử Đại Pháp đã theo kịp tiến trình Chính Pháp của Sư phụ, thế giới mới rất nhanh sắp đến rồi.

Tân tam tài (4) từ lâu đã lặng lẽ đản sinh rồi.

Ghi chú của người dịch:

(1) 贼喊捉贼 [zéihǎnzhuōzéi] Hán Việt: “Tặc hãn tróc tặc”. Giải thích âm Hán Việt: Tặc: trộm, cắp. Hãn: la, kêu gọi. Tróc: bắt, tóm.

(2) 推波助澜 [tuībōzhùlán] Hán Việt: “Suy ba trợ lán”, đẩy sóng nhỏ trợ sóng lớn, lửa cháy thêm dầu (thúc đẩy sự việc tiến triển mạnh và rộng thêm).

(3)一落千丈[yīluòqiānzhàng] Hán Việt: “Nhất lạc thiên trượng”: Xuống dốc không phanh, rớt xuống ngàn trượng (sa sút ghê gớm về địa vị, danh dự, hoàn cảnh).

(4) Tam tài chính là Thiên tài, Nhân tài, Địa tài, là ba nhân tố cơ bản cấu thành tiểu vũ trụ này của chúng ta. Xem thêm tại: https://chanhkien.org/2016/04/tai-lieu-giao-khoa-van-hoa-so-cap-tam-tu-kinh-7.html

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280559

The post Thần đã trở lại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Từ Đát Kỷ nhìn ra kết cục của bọn hắc thủ của cựu thế lựchttps://chanhkien.org/2023/06/tu-dat-ky-nhin-ra-ket-cuc-cua-bon-hac-thu-cua-cuu-the-luc.htmlTue, 13 Jun 2023 02:25:51 +0000https://chanhkien.org/?p=30449Tác giả: Tu Tâm [ChanhKien.org] Cựu thế lực vì muốn đạt được mục đích của chúng thường sai khiến những sinh mệnh ở tầng bên dưới chúng làm các việc cụ thể khác nhau. Trước khi làm điều gì đó chúng thường hứa hẹn ban cho “cấp dưới” những thứ tốt nào đó, ví như […]

The post Từ Đát Kỷ nhìn ra kết cục của bọn hắc thủ của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tu Tâm

[ChanhKien.org]

Cựu thế lực vì muốn đạt được mục đích của chúng thường sai khiến những sinh mệnh ở tầng bên dưới chúng làm các việc cụ thể khác nhau. Trước khi làm điều gì đó chúng thường hứa hẹn ban cho “cấp dưới” những thứ tốt nào đó, ví như đắc chính quả v.v.; nhưng khi sự việc đã hoàn thành thì chúng lại thường không thực hiện lời hứa. Trong sự việc này bạn có biểu hiện cụ thể thế nào, làm việc tốt sẽ đề cao tầng thứ, làm việc xấu thì không những không đắc chính quả mà ngược lại còn phải chịu tội. Nhân vật Đát Kỷ trong truyện Phong Thần Diễn Nghĩa chính là một ví dụ điển hình như thế.

Theo truyện Phong Thần Diễn Nghĩa, Đát Kỷ và hai đồng bọn được Nữ Oa Nương Nương triệu đến, Nữ Oa trao cho ba con yêu quái một mật chỉ, bảo chúng trà trộn vào cung điện làm mê hoặc quân vương, giúp Võ Vương thâu đoạt giang sơn của Trụ Vương, khi sự việc thành công sẽ cấp chính quả cho ba con yêu quái. Ba con yêu phụng chỉ đến Triều Ca mê hoặc Trụ Vương, còn tàn hại bá quan văn võ và bách tính, đến nỗi Trụ Vương bị mọi người oán ghét xa lánh, chư hầu khắp bốn phương đều nổi dậy tạo phản thảo phạt Trụ Vương, cuối cùng Trụ Vương phải tự thiêu ở lầu Trích Tinh và Chu Võ Vương đoạt được thiên hạ. Theo lý thì ba con yêu đã hành động thành công, nhưng Nữ Oa Nương Nương đã lấy lý do chúng “vô cớ tạo nghiệp, tàn hại sinh linh, giết hại trung thần, hết sức tàn ác”, đem giao chúng cho Khương Tử Nha chặt đầu. Nếu như Đát Kỷ không xui khiến Trụ Vương làm nhiều việc xấu như thế thì Trụ Vương làm sao bị mọi người ghét bỏ xa lánh, đến nỗi phải đánh mất giang sơn, Chu Võ Vương cũng sẽ không xuất quân thảo phạt Trụ Vương. Do vậy Đát Kỷ cũng được tính là hoàn thành rất tốt nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng vì cô ta toàn làm việc xấu nên không những không đắc chính quả mà ngược lại còn bị chặt đầu. Lý của vũ trụ cũ đều là như thế.

Hiện nay đối với sự kiện Chính Pháp, cựu thế lực cũng đang làm như thế, tầng cao hơn chỉ đạo tầng bên dưới bức hại Đại Pháp, tăng thêm ma nạn cho Đại Pháp, khẳng định rằng chúng đã hứa hẹn sẽ cấp cho sinh mệnh tầng dưới chúng các thứ lợi ích, nói rằng đó là hành động thuận theo thiên ý, rằng nếu làm như vậy khi sự việc thành công rồi sẽ được cấp chính quả hoặc đề cao tầng thứ v.v., nhưng thực tế là đến cuối cùng cựu thế lực lại lợi dụng tội ác mà các sinh mệnh bên dưới chúng gây ra đối với Đại Pháp để tiêu diệt chúng, cứ như vậy tầng bên trên tiêu diệt tầng bên dưới, vô số tầng từ cao đến thấp sẽ bị tiêu diệt theo cách như vậy. Những sinh mệnh tầng bên dưới hoàn toàn nghe theo chỉ lệnh của sinh mệnh tầng bên trên mà làm cái gọi là “giúp đỡ” Đại Pháp, nhưng kết quả cuối cùng là bị tầng bên trên tiêu diệt. Sinh mệnh tầng bên trên thậm chí còn nghĩ rằng: “Ta làm như thế, tuy rằng có chút tàn nhẫn, nhưng ta cũng là thuận theo thiên ý, đó là vì tương lai của cả vũ trụ này”. Nhưng những sinh mệnh có lối nghĩ như vậy, với sinh mệnh ở tầng cao hơn chúng mà nói, thì cũng chỉ là sinh mệnh của tầng thấp sắp bị tiêu huỷ mà thôi.

Do vậy những kẻ cựu thế lực trực tiếp bức hại hoặc chỉ đạo sinh mệnh tầng bên dưới bức hại Đại Pháp, làm ra cái gọi là “khảo nghiệm” Đại Pháp, tưởng rằng chúng hành động theo “mật lệnh” của các sinh mệnh ở tầng cao hơn, thì có thể có được kết cục tốt, kỳ thực đó là sai lầm to lớn. Làm việc xấu chính là làm việc xấu, chính là đang tạo nghiệp, kết cục cuối cùng chỉ có thể là bị tiêu huỷ, bản thân Đát Kỷ chính là một ví dụ. Những sinh mệnh khăng khăng chiểu theo an bài của cựu thế lực hành động thực sự rất đáng thương, bởi vì dẫu có một bộ phận sinh mệnh trong số chúng đạt được quả vị, nhưng chung quy thì chúng không muốn hiểu, cũng không muốn thừa nhận sự thật rằng Chân-Thiện-Nhẫn mới là tiêu chuẩn duy nhất đo lường mọi thứ trong vũ trụ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/22553

The post Từ Đát Kỷ nhìn ra kết cục của bọn hắc thủ của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một chút thể ngộ trong tu luyện: Chấp trước tham ăn và tham ngủhttps://chanhkien.org/2023/05/mot-chut-the-ngo-trong-tu-luyen-chap-truoc-tham-an-va-tham-ngu.htmlSun, 28 May 2023 09:21:52 +0000https://chanhkien.org/?p=30235Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ngoài Trung Quốc [ChanhKien.org] Trong sách Chuyển Pháp Luân, Sư phụ có giảng rằng: “Bởi vì công pháp của chúng tôi là công pháp ‘Pháp luyện người’. Công pháp Pháp luyện người [này], chính là một số trạng thái sẽ từ công, từ Pháp thể hiện ra”. Gần đây, […]

The post Một chút thể ngộ trong tu luyện: Chấp trước tham ăn và tham ngủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp ngoài Trung Quốc

[ChanhKien.org]

Trong sách Chuyển Pháp Luân, Sư phụ có giảng rằng:

“Bởi vì công pháp của chúng tôi là công pháp ‘Pháp luyện người’. Công pháp Pháp luyện người [này], chính là một số trạng thái sẽ từ công, từ Pháp thể hiện ra”.

Gần đây, tôi ý thức được rằng tham ăn và tham ngủ cũng là những chấp trước, đặc biệt là khi hai cái tâm này hoà lẫn với cái tâm cầu an dật thì càng không dễ phát giác ra chúng, điều này can nhiễu rất lớn đến việc tu luyện của bản thân tôi và việc thực hiện lời thệ ước trợ Sư Chính Pháp.

1. Đầu tiên hãy nói về tâm tham ăn. Hôm nay tôi đi ăn với đồng nghiệp, chúng tôi đi nhà hàng buffet, có đồ ăn tự chọn và có thể ăn bao nhiêu tuỳ thích. Trong tâm tôi rất cao hứng, cứ đi đi lại lại lấy mấy lượt thức ăn, ăn đến mức no nê. Trên đường về, tôi cảm thấy mình đã ăn quá nhiều và cảm thấy khó chịu. Kết quả là đến bữa tối tôi ăn ít hơn bình thường mà bụng vẫn còn đầy hơi. Nhớ lại lúc ăn trưa, vì cái đĩa đựng quá nhiều nên thức ăn đã rơi xuống sàn hai lần. Bởi vì tôi dành phần lớn thời gian cho việc ăn uống, nên tôi không có thời gian để trò chuyện cũng như giảng chân tướng cho các đồng nghiệp và bạn bè. Vì vậy tôi có chút hối tiếc, bởi vì đây không phải là biểu hiện mà một người tu luyện nên có, huống hồ là một đệ tử Đại Pháp.

Tôi bèn bắt đầu tự hỏi mình rằng chấp trước này đến từ đâu, bởi vì một việc tương tự như vậy đã xảy ra trước đây, mặc dù nó không nghiêm trọng bằng lần này. Từ hồi còn học trung học tôi đã ăn nhiều hơn các bạn cùng lớp. Sau khi tốt nghiệp đại học và ra nước ngoài, khi đã bắt đầu tu luyện rồi thì trạng thái của tôi vẫn như vậy. Sau giờ làm, so với đồng nghiệp tôi lại càng ăn nhiều hơn. Tôi có chú ý một hiện tượng là sau khi tu luyện, mặc dù ăn rất nhiều nhưng cân nặng của tôi không tăng, thậm chí còn giảm (đương nhiên là tôi không có cảm giác khó chịu trong thân thể), tức là khá gầy so với người bình thường. Trong tâm tôi có chút băn khoăn: Những thứ tôi ăn vào đã đi đâu?

Đồng thời trong cuộc sống của tôi còn xuất hiện một hiện tượng. Không biết từ khi nào, người vợ không tu luyện của tôi bắt đầu thích sưu tập những thứ rẻ tiền, từ nhu yếu phẩm hàng ngày đến quần áo. Mấy năm trôi qua, rất nhiều chỗ trong nhà đều đã chật kín cả. Về chuyện này tôi hết sức không vừa ý: Trong nhà cần nhiều thứ như vậy để làm gì? Chỉ với một phần nhỏ trong số này là đã đủ cho cuộc sống, nhưng vì sao vợ tôi vẫn không ngừng mua thêm? Nhưng cô ấy vẫn vậy. Một hôm tôi đột nhiên nghĩ ra: Hiện tượng này chẳng phải rất giống với chứng tham ăn của tôi sao? Chỉ cần những thứ cần thiết hàng ngày là đủ, còn những thứ dư ra thì không cần thiết và lại chiếm diện tích. Ăn vừa đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể là được rồi, nếu ăn quá nhiều thì cơ thể sẽ không chứa được (giống như trong một gia đình có quá nhiều đồ đạc dư thừa), không chỉ ảnh hưởng đến chức năng trao đổi chất của cơ thể mà còn phải giảm khả năng hấp thu để cân đối với lượng chất đưa vào cơ thể vốn đang nhiều hơn mức cần thiết. Cứ như vậy sẽ tạo ra vòng tuần hoàn ác tính, không có lợi ích gì cả.

Từ Pháp tôi ngộ được rằng, tu luyện là sự thăng hoa của cảnh giới sinh mệnh, nên khi ta chấp vào việc gì thì kết quả thu được sẽ ngược lại; hơn nữa càng chấp trước sẽ càng không có được, bởi vì trong quá trình này chúng ta phải tu bỏ chấp trước. Thử nghĩ về các tăng nhân hoặc đạo sĩ trong quá khứ, họ ăn cơm canh đạm bạc, nhu cầu cần thiết không quá nhiều là đủ rồi. Những người tu luyện Đại Pháp trong xã hội hiện đại xác thực là không cần thiết phải chấp trước vào những thứ này. Từng có một đoạn thời gian tôi bắt đầu thích uống cà phê sữa và ca cao nơi công sở. Vì tất cả đều được cung cấp miễn phí nên dù biết bản thân không cần tôi vẫn thường uống một tách cà phê sữa vào buổi sáng và một hoặc hai gói bột ca cao vào các thời điểm khác trong ngày. Sau đó, tôi thấy đầu lưỡi bị đau, sau khi nghĩ lại, tôi cảm thấy rằng đó là do chấp trước của bản thân tạo thành, với người tu luyện thì chỉ cần đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống là đủ rồi, không cần phải quá xa hoa với bản thân như vậy. Vậy là tôi quyết định ngừng sử dụng cả hai loại thức uống này, cả ngày ở đơn vị tôi chỉ uống nước lọc. Cứ như vậy, gần một năm trôi qua hiệu quả đã rất tốt. Đôi khi trong lúc đi lấy nước nhìn thấy bột ca cao hay cà phê bên cạnh tôi cũng có chút thèm thuồng, nhưng rồi tôi lại ý thức được: Bản thân tôi nếu như với một việc đơn giản vậy đã nhận thức ra nhưng không làm được, chỉ nói suông, thì có còn là người tu luyện không? Thế là dần dần tôi không còn nghĩ ngợi gì đến đồ uống ở cơ quan nữa.

Từ đó tôi nghĩ rằng rất nhiều sự việc trong tu luyện đều là như vậy. Khi bạn chấp trước vào một điều gì đó, sẽ có những tình huống dẫn khởi cái tâm của bạn; khi bạn xem nhẹ nó rồi, nhận thức ra và đề cao lên rồi, khi không còn bị chấp trước dẫn động nữa, thì sẽ không xuất hiện những tình huống ấy hoặc không chú ý đến sự xuất hiện của chúng nữa. Khi tu bỏ sắc tâm và chấp trước vào sắc dục tôi đã có thể hội này, khi tranh luận với người thường, hãm nhập vào trong đó và tranh cãi tôi cũng có thể hội tương tự. Đương nhiên, đôi khi sẽ có sự lặp lại khi vượt quan, vì vậy chỉ bằng cách học Pháp cho nhiều và đề cao cảnh giới thì mới không bị những thứ nhỏ nhặt vụn vặt này tác động mà làm lỡ con đường mình cần phải đi và những việc mình cần phải làm.

2. Về việc tham ngủ, bản thân tôi có biểu hiện rất nổi cộm. Đặc biệt trong vài tháng qua, vì phải ngủ cùng con, tôi thường ngủ một mạch tới sáng và bỏ lỡ thời gian phát chính niệm, nhiều việc cần phối hợp với đồng tu cũng phải bị trì hoãn vì tôi tham gia quá muộn. Trong tâm tôi muốn thay đổi tình trạng này, nhưng lại không có đột phá. Đôi khi tôi muốn dùng tai nghe nghe các bài giảng của Sư phụ hoặc nghe nhạc Đại Pháp để giữ cho mình khỏi buồn ngủ, nhưng hiệu quả vẫn như cũ. Thời gian lâu dần tôi còn dùng cái tâm cầu an dật để bào chữa cho mình: Vì tôi phải chăm sóc con nên cũng không còn cách nào. Kỳ thực tôi cũng biết rằng đây là đang tìm cớ, bởi vì giấc ngủ dài ngắn bao nhiêu không phải là vấn đề – trong vài năm tu luyện vừa qua cũng giống như nhiều đồng tu khác, tôi không cần ngủ quá lâu; mà cùng thời gian ngủ như vậy, tôi có thể sắp xếp cho con tôi ngủ trước, tôi trở dậy phát chính niệm và hoàn thành các việc Đại Pháp chứ không như bây giờ; bên cạnh đó cái tâm tham ngủ của tôi cũng biểu hiện ở những phương diện khác, những lúc như học Pháp, luyện công, phát chính niệm tôi ít nhiều đều đã ngủ thiếp đi, nhưng khi xem các trang web Đại Pháp, đọc email hoặc lướt báo Đại Kỷ Nguyên thì lại không.

Suy xét nguyên nhân của việc này, tôi thấy ngay từ nhỏ tôi đã nằm xuống là ngủ, và trong mấy chục năm qua dù là trước hay sau khi tu luyện tôi không bị hoặc rất ít bị mất ngủ. Khi trò chuyện với người khác, đôi khi tôi cho rằng đây là một trong những điểm mạnh của mình, thậm chí còn lâng lâng tự mãn về điều này. Người thường hoàn toàn không biết rằng người tu luyện có yêu cầu cao hơn, cùng với việc cảnh giới thăng hoa, và yêu cầu sứ mệnh trợ Sư Chính Pháp, rất nhiều quan niệm của người thường cần phải được thay đổi. Nếu bạn tiếp tục chấp trước vào những thứ của người thường thì con đường bạn đang đi sẽ bị ngăn trở. Thử nghĩ, khi cái tâm tham ngủ của bản thân làm ảnh hưởng đến việc học Pháp, luyện công và phát chính niệm thì nó đã khởi tác dụng gì? Thời gian phát chính niệm cũng giống như một trận chiến mà chính-tà đang giao tranh, nhưng bản thân lại ngủ mất, điều này thực sự đã làm lỡ mất cơ hội cứu độ chúng sinh, và tạo ra rất nhiều tổn thất không thể bù đắp được.

Nhìn lại con đường tu luyện đã đi qua, tôi nghĩ rằng nguyên nhân vẫn là do bản thân đã không làm tốt. Nhất là một năm trở lại đây, do nguyên nhân ở nhiều phương diện, bản thân lại sinh ra tâm cầu an dật, chưa nghiêm khắc yêu cầu chính mình ở nhiều phương diện. Khi chủ ý thức của bản thân không mạnh và chính niệm không đủ thì dễ tạo ra can nhiễu ở nhiều mặt. Tham ngủ là biểu hiện bề ngoài nhưng căn nguyên là do tôi nhận thức chưa đủ về sứ mệnh tu luyện và trợ Sư Chính Pháp của một đệ tử Đại Pháp. Nếu muốn thay đổi trạng thái này từ căn bản thì chúng ta cần thường xuyên nghĩ đến và nhận thức ra tầm quan trọng của Pháp từ sâu trong tâm, phải biết quý tiếc cơ duyên chứng thực Pháp và cứu độ chúng sinh này. Nói cách khác, phải học Pháp cho tốt.

3. Trong truyện Tây Du Ký có nhân vật Trư Bát Giới, bản thân là sinh mệnh trên thượng giới, nhưng do phạm lỗi mà bị giáng xuống trần. Trên đường trợ giúp Đường Tăng đi thỉnh kinh, chỉ vì tham ăn, tham ngủ, tham sắc mà anh ta đã làm lỡ dở nhiều việc. Câu chuyện này cũng đem đến cho chúng ta một khải thị, trong quá trình tu luyện của các đệ tử Đại Pháp có nhiều phương diện cần phải làm tốt. Chỉ nhận ra thiếu sót của bản thân thôi thì chưa đủ, cần phải thực sự loại bỏ chúng. Hơn nữa, nếu là sinh mệnh do Đại Pháp tạo tựu nên thì sinh mệnh ấy cũng phải đạt được yêu cầu tương ứng, nếu không thì tương lai sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào đối với chúng sinh?

Trên đây là một số chấp trước của bản thân, viết ra cũng có chút xấu hổ. Nhưng tôi nghĩ nếu cứ mãi ở trạng thái đó cũng không phải là giải pháp, lỗi sai của mình cũng là lỗi sai của người khác. Hơn nữa tôi cũng còn nhiều phương diện chưa nhận thức được rõ ràng, bởi vì muốn che đậy thiếu sót của bản thân mà tạo thành như vậy. Cùng với việc học Pháp thâm sâu, khi nhìn rõ mấu chốt của vấn đề thì tôi có thể loại bỏ các chấp trước và làm tốt những gì bản thân cần làm.

Một chút thể hội cá nhân, xin được chia sẻ cùng các đồng tu.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/63314

The post Một chút thể ngộ trong tu luyện: Chấp trước tham ăn và tham ngủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một chút thể ngộ về tâm thái của cựu thế lựchttps://chanhkien.org/2023/05/mot-chut-the-ngo-ve-tam-thai-cua-cuu-the-luc.htmlFri, 26 May 2023 04:06:00 +0000https://chanhkien.org/?p=30224Tác giả: Đệ tử Đại Pháp [ChanhKien.org] Sư phụ giảng: “Họ làm như thế nào mới khiến cựu thế lực kia bớt dùi vào sơ hở, như thế nào mới có thể khiến cựu Pháp Lý của các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ, và chúng sinh chúng thần với quan niệm cũ phải […]

The post Một chút thể ngộ về tâm thái của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp

[ChanhKien.org]

Sư phụ giảng:

“Họ làm như thế nào mới khiến cựu thế lực kia bớt dùi vào sơ hở, như thế nào mới có thể khiến cựu Pháp Lý của các tầng thứ khác nhau trong vũ trụ, và chúng sinh chúng thần với quan niệm cũ phải bội phục, như thế nào mới có thể khiến những sinh mệnh bị xung kích kia sẽ bằng lòng trong tâm và cho phép chư vị đi qua? Như thế rất là khó. Sư phụ từng giảng, “Đệ tử chính niệm túc, Sư hữu hồi thiên lực”. Chư vị chính niệm đã đầy đủ rồi, thì ai dám làm gì, mà chúng ta là có lý, Sư phụ đều có thể giải quyết. Bản thân chư vị làm không ‘chính’, thì Sư phụ làm sao đây? Chư vị nói xem bản thân chư vị làm không đúng, mà Sư phụ lại tiêu trừ chúng, thế được chăng? Chư vị không làm cho tốt, hễ có ma nạn liền tiêu huỷ đi, thế thì chúng ta còn cứu ai? Như thế không được” (Giảng Pháp vào ngày Kỷ niệm 20 năm truyền Pháp)

Từ đoạn Pháp trên, tôi thể ngộ được hai điểm:

Điểm thứ nhất là, tôi cần xoay chuyển tâm thái của bản thân. Tôi thường không ưa những đồng tu có nhân tâm nặng và tỏ ra thờ ơ trước các việc những đồng tu đó làm, thấy rằng họ sẽ rất khó làm được tốt bởi vì tâm tính kém, hoặc ngay cả khi làm được tốt thì cũng vô ích bởi vì họ tu luyện không tốt, cũng chỉ là đang làm việc mà thôi. Đây chẳng phải là tâm thái của cựu thế lực sao?

Đối với những sinh mệnh không đạt tiêu chuẩn thì thấy không phục, thấy bất công, không phối hợp và không muốn đối phương thành công, nhưng lại không thấy rằng cho dù trạng thái của đối phương có không tốt như thế nào, thì họ cũng là đang làm những việc Sư phụ yêu cầu, cũng đang làm việc cứu người. Lẽ nào lại không vì điều này mà phối hợp một cách vô điều kiện sao? Nếu thực sự như vậy, thì dù bất kể đối phương ra sao chúng ta cũng nên ủng hộ họ một cách vô điều kiện. Như vậy chính là đã vượt qua tâm thái hẹp hòi của cựu thế lực và đây mới là tâm thái mà đệ tử Đại Pháp nên có.

Điểm thứ hai là, nhất định cần tu luyện bản thân cho tốt, làm cho chính, bởi vì chỉ làm việc mà tâm tính không đạt tiêu chuẩn thì sẽ gặp phải can nhiễu rất lớn, đó chính là trở lực và can nhiễu đến từ tâm bất bình của cựu thế lực tạo thành. Điều này cũng có biểu hiện trong các đồng tu, một số người vì tâm tính của bản thân không đạt tiêu chuẩn mà thường không phối hợp và cảm thấy không phục. Chỉ có tu luyện tốt bản thân, tự mình cố gắng làm cho tốt, làm cho chính, thì mới có thể cứu được nhiều sinh mệnh cao tầng hơn nữa (cựu thế lực), mới có thể giảm bớt trở lực về mặt phối hợp trong các đồng tu.

Trong đoạn Pháp trên, Sư phụ nhắc đến “cựu Pháp Lý, chúng sinh chúng thần với quan niệm cũ”. Theo lý giải của tôi, điều này bao gồm cựu thế lực, cũng như những đồng tu vẫn mang theo các quan niệm và nhân tâm trong tu luyện giữa người thường, đương nhiên cũng bao gồm con người thế gian mà chúng ta cần đi giảng chân tướng cứu độ. Nếu những đồng tu không phối hợp chỉ vì tâm tính của bản thân không đạt tiêu chuẩn, hoặc nếu cựu thế lực tạo ra trở lực do tâm tính của bản thân không đạt chuẩn, thì đó là đang can nhiễu đến Chính Pháp. Nếu nguyên nhân là do bản thân tu luyện không tốt, thì điều này là rất không nên.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/282155

The post Một chút thể ngộ về tâm thái của cựu thế lực first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mộng thấy rất nhiều “thỏ trắng”https://chanhkien.org/2023/05/mong-thay-rat-nhieu-tho-trang.htmlTue, 09 May 2023 07:53:10 +0000https://chanhkien.org/?p=30060Tác giả: Hinh Nguyệt [ChanhKien.org] Nếu “thỏ trắng” là đại biểu cho sự lương thiện, tinh nghịch, ngoan ngoãn, khiến người ta muốn gần gũi, thì tôi nghĩ giấc mộng này nhất định là một điềm báo và điểm hóa tốt lành. Bình thường tôi không dùng “giấc mộng” để chỉ đạo tu luyện, vì […]

The post Mộng thấy rất nhiều “thỏ trắng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hinh Nguyệt

[ChanhKien.org]

Nếu “thỏ trắng” là đại biểu cho sự lương thiện, tinh nghịch, ngoan ngoãn, khiến người ta muốn gần gũi, thì tôi nghĩ giấc mộng này nhất định là một điềm báo và điểm hóa tốt lành. Bình thường tôi không dùng “giấc mộng” để chỉ đạo tu luyện, vì đây là một loại chấp trước. Trước đây tôi từng có thói quen thích nằm mộng lúc ngủ, bởi vì tôi hễ nằm mộng thì liền thoát ly khỏi trạng thái của con người, về cơ bản là bước vào một không gian khác, không hề có bất kì câu thúc hay áp lực nào nơi nhân gian, hơn nữa tôi luôn cho rằng người khác cũng như thế. Tuy nhiên, sau đó tôi phát hiện ra điều này sẽ ảnh hưởng đến việc chân chính thực tu, cho nên tôi cố gắng không tiếp nhận ảnh hưởng gì của tiểu năng tiểu thuật, hơn nữa phải nỗ lực bài trừ can nhiễu của các loại “giấc mộng”, quả thực đây là một quyết định đúng đắn, một cách làm đúng đắn. Mấy hôm trước tôi có mơ thấy giấc mộng này, sau khi tỉnh dậy liền quên mất, vì đã không còn thói quen dựa vào “giấc mộng” nữa, cũng không rõ giấc mộng này có nghĩa là gì, vừa rồi đột nhiên tôi lại nhớ lại, vậy nên liền viết ra, chỉ là để tham khảo. Sau đây là giấc mộng của tôi:

Vừa mở tủ đồ ra tôi giật mình khi thấy những con thỏ trắng nhỏ chen chúc nhau trên ngăn đầu tiên, sau đó tôi lại rất vui, cảm thấy thú vị, đáng yêu, “thỏ trắng” chẳng kêu chẳng la chỉ nằm im thin thít; sau đó tôi muốn di chuyển đám thỏ ra khỏi tủ, đặt ở một chỗ để tiện chăm sóc, tuy nhiên bọn thỏ hình như không muốn vậy, đưa chúng đến đâu, chúng vẫn trở về chỗ ban đầu. Tiếp đến, tôi bất cẩn lỡ tay làm “thỏ trắng con” rơi xuống đất, tôi lo sợ bọn thỏ bị thương, thật áy náy, nhưng bọn thỏ lại trở về chỗ cũ, hoặc cả đám di chuyển đến một nơi khác, dù sao cũng không phải nơi mà tôi muốn chúng tới, chúng không nghe theo sự chỉ huy của tôi, sau đó thì tôi tỉnh giấc.

Vừa rồi tôi đã hiểu ra một vài đạo lý ở trong đó, nó có quan hệ với trạng thái tu luyện và phương thức cứu người gần đây của tôi. “Cái tủ” và “quý tử” (đồ quý giá) (đây là hai từ đồng âm trong tiếng Trung), con người luôn thích nói đáng giá hay không, đáng đồng tiền hay không, quý hay không, quý giá hay không; mà người tu luyện thì đều biết rằng, cái “quý” chân chính ấy chính là Đức, chính là Thiện, là thứ ngàn vàng cũng không đổi được, mà muốn đổi cũng không được; đây chính là giá trị vĩnh hằng của sinh mệnh, bất biến bất phá; đương nhiên Chân tâm sẽ được đặt vào trong cái tủ trân trọng cất giữ, Đức và Thiện cũng được giữ gìn ở trong Chân tâm, bất động bất diệt.

Nếu hữu ý mà làm, muốn đem Thiện cất cho riêng mình, muốn chỉ huy Thiện, thế thì không phải là Chân Thiện mà là ngụy Thiện, Thiện cũng sẽ biến chất; Thiện là vô tư, là không cần chỉ huy, là bình tâm mà làm, là tồn tại thuận theo tự nhiên, vì sao phải dùng nhân tâm làm vấy bẩn chứ. Tôi là đệ tử Đại Pháp trợ Sư chính Pháp, là sứ giả mang đến cho con người chân tướng, mọi thứ đều có an bài, tùy cơ nhi hành, căn bản là không cần hành vi con người của “tự ngã” an bài.

Nhớ lại thời gian này đi giảng chân tướng, tặng tài liệu chân tướng, đôi lúc nhân tâm khởi lên, tâm lo lắng khởi lên, tâm sợ hãi khởi lên thì luôn muốn tự ngã an bài đổi một địa điểm khác, tuy nhiên luôn là quay trở về chỗ cũ, quả thực khu vực đó cần tư liệu nhiều hơn, chỉ là bản thân khởi lên tâm tự vệ; dù sao bất luận là đi bao xa, dù là từ sáng cho đến tối, ngồi trên xe buýt, cuối cũng vẫn phải quay trở về chỗ đó. Ôi, dù sao sự thực quả đúng như thế, người tu luyện thì không bịa đặt, chắc hẳn nguyên do là tôi không nghe theo an bài, muốn an bài lương thiện, chính là “ngụy thiện” rồi.

Trước đây khi nhân tâm khởi lên rất mạnh mẽ, tôi đã từng hễ quay đầu thì nhìn thấy hai từ “Đạo hàng”, gần đây hễ ngẩng đầu là nhìn thấy chữ “Chú ý an toàn”, thực ra đương nhiên suy nghĩ đầu tiên xuất ra tôi đều đã ngộ sai, dùng tâm tự vệ mà nhìn thì cho rằng đây là lời nhắc nhở, đừng để ảnh hưởng đến tu luyện của bản thân, đừng bị tà ác bức hại, đừng để cái tình dẫn động; thực ra cũng xác thực là đang nhắc nhở, có điều không phải là dùng nhân tâm suy xét vấn đề, mà là đối đãi bằng chính niệm của người tu luyện. Chính niệm là gì? Chính là thiện niệm, đường đường chính chính như kim cương bất động, nhất chính áp bách tà, từ bi và uy nghiêm đồng tại, ở trong Pháp là an toàn nhất; người tu luyện không thể có ác niệm, hoặc là có tâm thái biến dị hoàn thành nhiệm vụ thành tựu bản thân, cứu người lẽ nào còn có thể tự mình quyết định là được sao? Đó chẳng phải là cựu thế lực sao? Thờ ơ đối đãi với sinh mệnh, đây là quan niệm hiện đại biến thái, là biến dị.

Tuy vậy cuối cùng trong khi suy xét sẽ hồi tưởng lại những suy nghĩ sai lầm, trong khi học Pháp cũng sẽ có điểm hóa, Đại Pháp có thể điều chỉnh lại những thứ không đúng đắn, quan niệm tư tưởng thâm căn cố đế, điều kiện là phải học Pháp một cách thành kính, không mang theo bất kì quan niệm nào. Là một thành viên trong tu luyện Đại Pháp, tự mình có thể kịp thời chỉnh lại khi những niệm đầu lệch lạc xuất hiện, cố gắng không để sự việc trở nên tồi tệ, không tùy tiện bộc phát ma tính, điều này có liên quan chặt chẽ với việc bình thường học Pháp nhiều, thực ra học Pháp vẫn chưa đủ, còn xa mới đủ. Thực tế thì bản thân chúng ta không làm được việc gì, chính là Sư phụ luôn bảo hộ chúng ta.

Tôi viết bài chia sẻ này để cùng các đồng tu cố gắng. Hợp thập.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/281619

The post Mộng thấy rất nhiều “thỏ trắng” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Giữa vợ chồng cũng cần Chân-Thiện-Nhẫnhttps://chanhkien.org/2023/05/giua-vo-chong-cung-can-chan-thien-nhan.htmlMon, 08 May 2023 02:45:36 +0000https://chanhkien.org/?p=30056Tác giả: Minh Khắc [ChanhKien.org] Trong xã hội ngày nay, tỉ lệ ly hôn giữ ở mức cao không hạ xuống, lý do ly hôn cũng có nhiều loại, nhưng mục đích đều là mong muốn tìm được hạnh phúc thực sự của mình. Trên thực tế, cách nghĩ này không phải là văn hoá […]

The post Giữa vợ chồng cũng cần Chân-Thiện-Nhẫn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Minh Khắc

[ChanhKien.org]

Trong xã hội ngày nay, tỉ lệ ly hôn giữ ở mức cao không hạ xuống, lý do ly hôn cũng có nhiều loại, nhưng mục đích đều là mong muốn tìm được hạnh phúc thực sự của mình. Trên thực tế, cách nghĩ này không phải là văn hoá chính thống, mà là tư tưởng biến dị sau khi văn hoá đảng của Trung Cộng huỷ hoại văn hoá truyền thống, đằng sau nó cũng không có nội hàm của thần tính, mà là một loại tư tưởng ma tính, bị ham muốn, dục vọng cá nhân, lối tư duy vô đạo, không có tâm pháp ước chế. Con người đều cảm thấy đó là suy nghĩ của bản thân mình, nhưng thực ra không phải vậy.

Nguồn tư duy của con người

Có một sự việc khiến tôi ấn tượng nhất, đó là vào một buổi trưa tháng 7 năm 1996, tôi muốn đến một cửa hàng để mua đồ. Khi sắp đến cửa hàng, trong đầu tôi đột nhiên sinh ra niệm đầu trộm đồ của cửa hàng này, nó mỗi lúc một mãnh liệt hơn, tôi cảm thấy kỳ lạ: “Tôi là người tu luyện Pháp Luân Công, yêu cầu làm được “Đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, làm sao có thể trộm đồ của người khác đây?!” Tôi liền bài trừ niệm đầu này và khống chế bàn tay của mình. Khi bước vào cửa hàng và không nhìn thấy nhân viên phục vụ, tôi liền hỏi hai tiếng: “Có ai không ạ?” Lúc này niệm đầu ăn cắp càng dữ dội hơn, thậm chí bàn tay đã bắt đầu động theo. Tôi lại bài trừ nó, khống chế bàn tay không được động. Đến khi có người trả lời, nhân viên phục vụ đi ra, tôi mua đồ xong và ra khỏi cửa hàng, đột nhiên niệm đầu này không còn nữa. Toàn thân tôi nhẹ nhõm, cảm thấy một loại thoải mái trước nay chưa từng có. Tôi là người tu luyện, có Sư phụ quản, Sư phụ đã giúp tôi thanh lý xong những thứ không tốt kia.

Khi giữa vợ chồng xảy ra xung đột, hoặc thấy đối phương không thuận mắt, thậm chí sinh ra niệm đầu muốn ly hôn, những tư tưởng như vậy đều là có nguồn gốc của nó, không phải ngẫu nhiên xuất hiện. Văn hoá đảng Trung Cộng sẽ gia tăng những niệm đầu kiểu này, làm ma tính của con người mạnh thêm và không ngừng thổi phồng mâu thuẫn giữa vợ chồng.

Giữa vợ chồng cũng có nghiệp lực luân báo

Con người là có nghiệp lực luân báo, kiếp trước nợ người khác thứ gì thì kiếp này sẽ gặp nhau để hoàn trả. Giữa vợ chồng với nhau cũng là loại quan hệ này.

Lúc mới kết hôn, một hôm đột nhiên tôi sinh ra niệm đầu: “Muốn đánh vợ”. Hơn nữa nó không chỉ xuất hiện một lần, đôi khi niệm đầu này còn mạnh hơn, tay cũng chuẩn bị hành động theo suy nghĩ. Tôi minh bạch được Pháp lý, tôi tu luyện Chân – Thiện – Nhẫn, sẽ không tuỳ tiện thuận theo niệm đầu mà hành động, nếu không phù hợp với Chân – Thiện – Nhẫn thì tôi sẽ bài trừ. Về sau niệm đầu này không còn nữa và tôi đã vượt qua quan này.

Sau khi kết hôn, chị gái tôi thường xuyên bị bạo hành gia đình, nguyên nhân là do chị tôi chỉ quan tâm đến gia đình mẹ đẻ ra sao. Một hôm, trong mơ chị thấy mình cầm dao đâm vào bụng một người đàn ông đối diện, lúc đó chị biết người này chính là chồng của mình ở kiếp này. Sau khi tỉnh dậy, chị hiểu rằng kiếp trước nợ người khác thì kiếp này phải hoàn trả, phải hoàn trả cả về thể xác lẫn tinh thần.

Giữa vợ chồng cũng cần Chân – Thiện – Nhẫn

Khi tôi lên đại học, có một môn học bắt buộc là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, trong đó cuối cùng đề xuất rằng cần tiêu diệt gia đình. Khi đó tôi nghĩ làm sao có thể tiêu diệt gia đình chứ. Đến ngày nay, việc Trung Cộng làm biến dị tư tưởng con người, sự thịnh hành của giả – ác – đấu, những hiện thực xã hội giả dối và đi ngược lại đạo đức đầy rẫy… đã dẫn đến tình trạng tỉ lệ ly hôn chỉ tăng không giảm, người trẻ tuổi không dám lập gia đình vì áp lực xã hội, v.v. Nếu theo đường lối của Trung Cộng thì việc tiêu hủy gia đình chẳng phải là đang từng bước được thực hiện sao? Giữa vợ chồng với nhau đều hành xử theo tư duy giả – ác – đấu, ai ai cũng không có ý thức trách nhiệm với gia đình và xã hội, mà đều chạy theo cái gọi là hạnh phúc cá nhân, vậy kết quả chỉ có thể là mâu thuẫn gia tăng, nghiệp tạo thành cũng càng ngày càng nhiều. Tà linh Trung Cộng làm sao có thể tiêu trừ nghiệp lực giúp con người chứ? Nó chỉ biết đầu độc để con người không ngừng làm việc ác, làm tăng thêm nghiệp lực của con người, đợi đến khi nghiệp lực lớn đến mức phải huỷ diệt sinh mệnh để trả nợ, thì đó cũng là lúc Trung Cộng đã đạt được mục tiêu huỷ diệt con người.

Tại sao Trung Cộng bức hại Pháp Luân Công, phỉ báng Chân – Thiện – Nhẫn? Còn ra sức ngăn cản người dân chiểu theo Chân – Thiện – Nhẫn làm người tốt? Bởi vì điều này sẽ phá vỡ âm mưu huỷ diệt nhân loại của nó. Giữa vợ chồng đều chiểu theo Chân – Thiện – Nhẫn làm người tốt, cùng nhau nhẫn nại, tôn trọng đối phương, thì chẳng phải gia đình sẽ càng ngày càng vững chắc sao? Dưới sự trợ giúp của Thần Phật, thiện tâm của con người ngày càng mạnh mẽ, con người không ngừng đề cao bản thân, đây chẳng phải là đang đi về hướng của Thần Phật sao? Điều này chẳng phải trái ngược hoàn toàn với mục đích huỷ diệt nhân loại của tà linh Trung Cộng sao? Vì vậy Trung Cộng mới không ngừng bức hại Pháp Luân Công, chỉ cần một ngày Trung Cộng chưa diệt vong, nó sẽ không ngừng thay đổi lời dối trá để mê hoặc, đầu độc con người.

Nếu đối nhân xử thế hoặc giữ thái độ làm người theo lối giả – ác – đấu của tà linh Trung Cộng và tiếp tục đi theo những lời dối trá của nó, thì sẽ chỉ gây hại cho bản thân, cho người khác, cho xã hội và gia đình, mà không có một chút lợi nào. Nếu minh bạch chân tướng, quay về truyền thống, chiểu theo yêu cầu Chân – Thiện – Nhẫn làm người tốt, vậy đối với bản thân, với người khác, với xã hội và gia đình mà nói thì chắc chắn là có trăm phần lợi mà không có một phần hại nào.

Dịch từ: https://www.zhegjian.org/node/282564

The post Giữa vợ chồng cũng cần Chân-Thiện-Nhẫn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Lời hứa của một đồng tu đối với các chúng sinh trong thiên thể của anh trước khi hạ thếhttps://chanhkien.org/2023/04/loi-hua-cua-mot-dong-tu-doi-voi-cac-chung-sinh-trong-thien-the-cua-anh-truoc-khi-ha-the.htmlFri, 14 Apr 2023 00:21:04 +0000https://chanhkien.org/?p=29889Tác giả: Pháp Liên [ChanhKien.org] Gần đây tình cờ tôi đã tiếp xúc với một đồng tu trẻ ở địa phương. Qua cuộc trò chuyện, tôi nhận ra rằng gần đây đồng tu này đang trầm luân trong thế tục. Sau khi kinh văn mới “Hãy tỉnh” của Sư phụ được công bố, đồng tu […]

The post Lời hứa của một đồng tu đối với các chúng sinh trong thiên thể của anh trước khi hạ thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Pháp Liên

[ChanhKien.org]

Gần đây tình cờ tôi đã tiếp xúc với một đồng tu trẻ ở địa phương. Qua cuộc trò chuyện, tôi nhận ra rằng gần đây đồng tu này đang trầm luân trong thế tục. Sau khi kinh văn mới “Hãy tỉnh” của Sư phụ được công bố, đồng tu này đã vô cùng chấn động, thực sự hối hận và tự trách mình đã không làm tròn thệ ước khi đến thế gian của mình trong những năm qua. Điều này đã chạm đến mặt vi quan nhất trong sinh mệnh của anh ấy.

Ở tầng thứ tu luyện hiện tại của tôi, tôi đã chứng kiến những lời cuối cùng của đồng tu này nói với vô lượng vô số chúng sinh trong thiên thể vũ trụ do anh ấy đại biểu trước khi hạ thế từ tầng thứ nguyên lai của mình. Tôi đã ghi lại những lời nói ấy của đồng tu nơi thiên thượng với hy vọng sẽ khích lệ các đồng tu tinh tấn hơn, đồng thời cũng là một lời nhắc nhở về thệ ước mà chúng ta đã lập trước khi xuống đây.

Khi các thiên thể trong vũ trụ đang tiến đến thời điểm cuối cùng của sự thành trụ hoại diệt, tại một cảnh giới rất cao có một vị Thần biết rằng trong một thiên thể rộng lớn hơn, Sáng Thế Chủ, vị Phật Chủ vĩ đại sắp hạ giới xuống trung tâm của vũ trụ. Vào thời khắc cuối cùng, Sáng Thế Chủ sẽ xoay chuyển Pháp Luân để canh tân lại toàn bộ vũ trụ, và đó cũng là hy vọng duy nhất để đắc cứu đại khung. Vị Thần này đã không một chút do dự gia nhập hàng ngũ các vị Thần nguyện hạ thế cùng Sáng Thế Chủ. Tại thời điểm đó, vị ấy ngay lập tức triển hiện thần thông quảng đại, đồng thời hiển thị hình tượng Phật trang nghiêm trước vô lượng thế giới trong tầng tầng thiên thể tại cảnh giới của mình. Tiếng nói thần thánh của vị ấy tỏa đến mọi ngóc ngách trong thế giới của mình: “Đại kiếp nạn của vũ trụ đang đến, ta sẽ theo Sư phụ xuống nhân gian. Sẽ có rất nhiều thay đổi khi Pháp chính càn khôn. Tất cả những gì ta ngộ được từ Pháp sẽ được duy trì cho đến giây phút cuối cùng của vũ trụ. Lúc đó, ta sẽ theo Sư phụ để đắc Pháp và tu luyện. Chúng ta cũng sẽ chính lại Pháp cũ vốn không còn phù hợp nữa. Hỡi các chúng sinh và thân quyến của ta, các ngươi phải làm tròn bổn phận của mình, bảo trì tâm thái từ bi và chờ đợi ta trở về. Ta sẽ ở bên các ngươi. Ta đã ký thệ ước thần thánh với Phật Chủ. Ta sẽ rất nhớ các ngươi. Sinh tử của các ngươi cũng chính là sinh tử của ta, vậy nên mọi người không cần phải lo lắng”. Khi tôi nhìn thấy thiên thể này với ánh hào quang cát tường, toàn bộ thiên thể đã hoàn toàn bừng sáng. Đây là lần cuối cùng vị Thần này tịnh hóa thiên thể của mình trước khi hạ thế. Sau đó vị ấy từ từ biến mất trong cảnh giới nguyên lai của chính mình để gia nhập cùng các vị Thần khác hạ xuống nhân gian.

Vô lượng thế giới trong thiên thể cự đại mà vị ấy đại biểu vẫn đang trình diễn vở kịch thần thánh nhất “Vương giả quy lai” (Sự trở về của các Vương). Đây là nghi lễ thiêng liêng nhất trong thế giới đó, cũng là hy vọng sống sót của họ.

Các bạn đồng tu thân mến, trong các bài giảng Pháp gần đây của Sư phụ, chúng ta có thể cảm nhận được Sư phụ mỗi lúc một nghiêm túc hơn với chúng ta. Sư phụ lo rằng nếu chúng ta cứ tiếp tục buông lơi tu luyện như trước, chúng ta sẽ không xứng với sự kỳ vọng của Sư phụ đối với chúng ta. Chúng ta theo đó cũng sẽ thật sự có lỗi với lòng trông chờ mong đợi của chúng sinh đối với chúng ta.

Dịch từ:

https://www.pureinsight.org/node/7675

https://big5.zhengjian.org/node/272216

The post Lời hứa của một đồng tu đối với các chúng sinh trong thiên thể của anh trước khi hạ thế first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một đôi lời: Thánh nhân sợ nhân, phàm nhân sợ quảhttps://chanhkien.org/2023/04/mot-doi-loi-thanh-nhan-so-nhan-pham-nhan-so-qua.htmlThu, 13 Apr 2023 04:39:14 +0000https://chanhkien.org/?p=29886[ChanhKien.org] Có câu nói rằng: “Thánh nhân sợ nhân, phàm nhân sợ quả”, ý nghĩa là người có trí huệ đều hiểu rằng vạn sự vạn vật đều có quan hệ nhân quả, do đó họ sợ làm điều xấu sẽ gieo “nhân” ác. Bởi vì họ hiểu rõ thiện hữu thiện báo, ác hữu […]

The post Một đôi lời: Thánh nhân sợ nhân, phàm nhân sợ quả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Có câu nói rằng: “Thánh nhân sợ nhân, phàm nhân sợ quả”, ý nghĩa là người có trí huệ đều hiểu rằng vạn sự vạn vật đều có quan hệ nhân quả, do đó họ sợ làm điều xấu sẽ gieo “nhân” ác. Bởi vì họ hiểu rõ thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Cái “nhân” ác này nhất định sẽ đem tới “quả” ác. Ngược lại, người không tin Thần tự nhiên cũng không tin nhân quả, gặp chuyện không tốt thì cho là ngẫu nhiên, khi đại họa đến thì tìm cách tránh né, mà không tìm hiểu tại sao lại xảy ra sự việc không tốt.

Người tu luyện đều minh bạch rằng người ta khi gặp sự việc không tốt thì nguyên nhân là vì bản thân có nghiệp lực. Có nghiệp lực là bởi vì bản thân trước đây đã làm (hoặc hiện tại đang làm) việc không tốt. Làm việc không tốt là bởi vì bản thân có tư tưởng xấu, có quan niệm không tốt. Từ tận gốc rễ vứt bỏ những tư tưởng không tốt này, xoay chuyển quan niệm không tốt của bản thân, vậy thì người này từ nay về sau về phương diện này vĩnh viễn sẽ không lại làm việc xấu nữa. Thần nhìn thấy điểm này, mới có thể võng khai nhất diện, giúp con người tiêu nghiệp, trừ nạn.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/257967

The post Một đôi lời: Thánh nhân sợ nhân, phàm nhân sợ quả first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cảm ngộ tu luyện: Hy vọng trong vô vọnghttps://chanhkien.org/2023/04/cam-ngo-tu-luyen-hy-vong-trong-vo-vong.htmlTue, 04 Apr 2023 03:52:23 +0000https://chanhkien.org/?p=29831Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Khi con người ở trong sự vô vọng, tâm tình sa sút, dường như tất cả đều bị các nhân tố hiện thực kéo xuống tận cùng, muốn vượt thoát ra lại thấy rất khó, các nhân tố của không gian tầng thấp […]

The post Cảm ngộ tu luyện: Hy vọng trong vô vọng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Khi con người ở trong sự vô vọng, tâm tình sa sút, dường như tất cả đều bị các nhân tố hiện thực kéo xuống tận cùng, muốn vượt thoát ra lại thấy rất khó, các nhân tố của không gian tầng thấp cứ như chiếc màng bao lấy bạn, khiến bạn cảm thấy lực bất tòng tâm.

Bản thân tôi một thời gian trước đã có cảm giác như vậy, toàn bộ trạng thái ở trong sự vô vọng cực độ, mâu thuẫn cứ như ập đến một cách vô căn cứ, trước khi xảy ra không hề có bất kỳ dấu hiệu gì, nhưng mức độ kịch liệt của mâu thuẫn thì trước nay chưa từng có, mọi lời nói mọi ngôn hành của tôi đều vượt quá cực hạn của bản thân, cuối cùng mâu thuẫn bùng nổ khiến cho gia đình tan vỡ, tất cả mọi người đều bị ô nhiễm bởi cái trường tràn ngập ma tính này, nét mặt của mọi người đều tràn đầy sự không thông cảm, oán hận, phẫn nộ, lúc này tôi cảm giác không khí như đông đặc lại, thời gian cũng dừng lại bất động, trước mắt nhìn không thấy tia hi vọng, chỉ có một trường không gian tràn ngập khói thuốc nổ.

Ở trong bầu không khí đầy áp lực này, tôi muốn vùng vẫy thoát ra, nhưng lại cảm thấy rất nhiều vật chất phụ diện đang hợp toàn lực lại cản trở, đối diện với tình trạng hỗn loạn trước mắt, tôi hoàn toàn mù mịt, thất vọng và tiêu cực, tựa như một chiếc thuyền nhỏ lạc mất phương hướng trên biển lớn, trời tối lại, gió nổi lên, bốn bề là sóng lớn cuộn trào mãnh liệt, còn có cá mập dưới đáy biển sâu, chỉ có thể diễn tả tâm trạng của tôi lúc đó bằng hai chữ “bất lực”.

Nền tảng tu luyện lâu năm khiến bản thân tôi hiểu được nhất định phải tin tưởng Sư phụ, tin tưởng Đại Pháp, hướng nội tìm xem còn nhân tâm gì chưa buông bỏ, tìm bản thân xem đã bị chấp trước gì dẫn động đến mức bị động như vậy, lúc này đầu não đang đặc quánh bỗng như có một dòng suối trong vắt chảy vào, dòng suối trong này tựa như có linh tính, rửa sạch mọi mây mù tại những nơi nó chảy qua. Lúc này một mặt trong bản tính của tôi đã thanh tỉnh lại, hiểu được những mâu thuẫn đột nhiên xảy đến này là can nhiễu của những tà linh tầng thấp ở không gian khác, bởi vì trước khi xảy ra mâu thuẫn, tà linh liền lợi dụng những người bên cạnh chúng ta, không ngừng biểu diễn mọi chiến thuật cùng cực, mục đích là muốn đẩy ngã chúng ta, khiến chúng ta xuất hiện trạng thái tinh lực kiệt quệ, khiến chúng ta không có cơ hội đến gần với Đại Pháp. Kỳ thực trước khi phát sinh mâu thuẫn tôi đã có thể phát giác được loại hiện tượng quái dị này, cả nhà chúng tôi còn cùng nhau giao lưu chuyện này, nhưng sai lầm ở chỗ không chú trọng phát chính niệm, chỉ là trong tư tưởng biết được có chút bất thường, vậy là tà linh ở không gian khác liền tận dụng triệt để cơ hội mà dùi vào sơ hở, làm phát sinh cái gọi là mâu thuẫn khiến người ta không thể tiếp nhận được, khiến con người thế gian có thái độ không tốt đối với Đại Pháp.

Lúc này trong nội tâm tôi rất ân hận, cứ nghĩ tại sao lại có thể bị dùi vào sơ hở chứ? Sự đắc cứu của con người thế gian cũng bị ảnh hưởng, đây là tổn thất lớn đến cỡ nào! Tôi lại hận bản thân tu luyện không tinh tấn, để Sư phụ phải hao tâm tổn trí, dù sao thì tâm tình tôi cũng rất khó chịu, lại không biết làm thế nào mới có thể bù đắp tổn thất, lúc này tôi lại nghĩ đến Sư phụ, nghĩ đến Đại Pháp, Pháp của Sư phụ không ngừng triển hiện trong đầu tôi, nói với bản thân không nên để bị hãm trong sự việc đã rồi, mà cần nhảy thoát ra, lợi dụng cơ hội này để nhanh chóng đề cao lên, đối diện với giả tướng trước mắt không động tâm, chỉ có Sư phụ nói mới tính, cứ như vậy, mây đen trên trời dần dần tản đi, để lộ ra ánh sáng rực rỡ, những mâu thuẫn trước mắt cũng không ngừng được hóa giải, lúc này tôi thực sự thể ngộ được Pháp mà Sư phụ giảng:

“Là người tu luyện, ‘tìm bên trong’ là một Pháp bảo.” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế Washington DC năm 2009)

Sư phụ còn giảng:

“Càng trong vô vọng, có lẽ hy vọng ngay ở trước mắt.” (Thế nào là đệ tử Đại Pháp)

Tôi thể ngộ được từ trong Pháp rằng trạng thái vô vọng trong hiện thực kỳ thực là một loại thể hiện của trạng thái tu luyện, bởi vì lúc chúng ta không ngừng đột phá đến vi quan, thì phần con người tại không gian bề mặt tương ứng này cũng đang thay đổi, khi sắp sửa đột phá không gian này, khi sắp đột phá lên không gian tầng cao hơn, có thể sẽ xuất hiện một trạng thái không, có lẽ trạng thái không này chính là một loại kết cấu của vũ trụ trong hai không gian, thể hiện ở bề mặt con người chính là xuất hiện một loại trạng thái vô vọng, bởi vì sự xuất hiện của trạng thái này là có thể kiểm nghiệm được tốt nhất đệ tử Đại Pháp lúc này liệu có thể trong tình trạng bất lực, sa sút, tiêu cực mà tin tưởng Sư phụ, tin tưởng Đại Pháp không, nếu như bạn thật sự có thể trong vô vọng, trong mâu thuẫn mà đứng trên cơ điểm của Pháp để đối đãi, bạn có thể nhanh chóng đột phá tầng thứ này, thăng hoa đến cảnh giới cao hơn.

Tu luyện chính là trừ bỏ nhân tâm, trừ bỏ quan niệm của con người, không bị các loại giả tướng nhìn thấy, nghe thấy, gặp phải trước mắt mê hoặc, dẫn động, tin tưởng tất cả đều có Sư phụ làm chủ, kiên định làm đúng theo Pháp, sẽ có thể phá trừ hết thảy tà ác, hy vọng liền ở trước mắt.

Trên đây là một chút thể ngộ tu luyện ở giai đoạn hiện tại, nếu có chỗ nào không phù hợp với Pháp, kính mong đồng tu từ bi chỉ giúp.

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/278529

The post Cảm ngộ tu luyện: Hy vọng trong vô vọng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện tùy bút: Tâm hiển thị và tu khẩuhttps://chanhkien.org/2023/03/tu-luyen-tuy-but-tam-hien-thi-va-tu-khau.htmlMon, 13 Mar 2023 00:16:38 +0000https://chanhkien.org/?p=29765Tác giả: Bất Ngữ [ChanhKien.org] Tôi thể ngộ được rằng có một mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa tu khẩu và tu tâm, đủ các loại các dạng tâm chấp trước đều có thể thông qua hình thức lời nói mà biểu hiện ra, biểu đạt ra. Chúng ta đang tu […]

The post Tu luyện tùy bút: Tâm hiển thị và tu khẩu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Bất Ngữ

[ChanhKien.org]

Tôi thể ngộ được rằng có một mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa tu khẩu và tu tâm, đủ các loại các dạng tâm chấp trước đều có thể thông qua hình thức lời nói mà biểu hiện ra, biểu đạt ra. Chúng ta đang tu luyện trong xã hội người thường, còn cần phải giảng chân tướng, cần phải nói chuyện, cũng không thể mãi treo biển “chỉ ngữ” (ngừng nói) như những người tu luyện Phật giáo chuyên nghiệp trong quá khứ, họ suốt mấy năm ròng không nói chuyện để tu khẩu.

Trong hoàn cảnh tu luyện của tôi, làm thế nào để tu khẩu đã trở thành một khối tâm bệnh, tôi mãi vẫn chưa giữ vững tu khẩu được. Lúc bắt đầu tôi có thể cố gắng kiểm soát bản thân, nói được một lúc, thì từ cái miệng kia lại giống nước sông ào ạt chảy băng nghìn dặm, không thể khống chế được nữa. Sau một lúc nói say sưa rồi thì lại thấy hối hận vô cùng, nhưng sau khi hối hận thì lại không thể kiềm chế mà lại tiếp tục nói. Tôi đã nói ra những gì? Đều là những chủ đề của người thường, trong đó có đủ cả hỷ, nộ, ai, lạc, oán hận. Giống như Sư tôn đã giảng trong Chuyển Pháp Luân:

“Như tôi đã giảng, [họ] nói từ chuyện nhà mình cho đến quốc gia đại sự; nói đến chỗ không vừa ý thì càng nói càng bực mình.”

Chính cái người ta gọi là ý ở trong lời, trong tâm mình có điều gì đó thì mới nói, bởi vì tâm tính chưa có đề cao lên, vẫn còn xem rất trọng những thứ của người thường, từng tâm từng niệm đều là danh-lợi-tình của người thường, chỉ mất đi hay đắc được một chút những thứ đó thì cái tâm người thường kia sẽ bị kích động, sẽ ghi nhớ trong lòng, khi gặp cơ hội thích hợp thì sẽ mau chóng phân bua với người ta.

Gần đây tôi lại nhận thức được rằng nguyên nhân căn bản nhất khiến tôi nói mãi không ngừng, thậm chí khi không có gì để nói vẫn tìm ra điều để nói chính là tâm lý hiển thị mạnh mẽ đang tác quái. Tâm hiển thị là một cái tâm mà ta rất khó phát giác ra, nó ẩn rất sâu, người trong cuộc rất khó phát hiện ra, nhưng dù thế nào đi nữa, nó vẫn ở đó, khống chế bạn, khiến bạn trong bất kể việc gì đều muốn được người khác để mắt đến, mong muốn người khác chú ý đến mình, thậm chí là không ngại làm những hành động khoa trương hoặc nói những lời lẽ khoa trương [để được chú ý].

Có lẽ do từ nhỏ tôi đã biểu hiện ra tư chất bình thường, cha mẹ cũng rất ít khen tôi, đa phần là mắng mỏ, tôi là người không được người khác chú ý đến, thường đóng vai người bị người khác phớt lờ và đối xử lãnh đạm. Tôi không biết từ khi nào, trong tiềm ý thức, tôi đã sinh ra mong muốn thể hiện bản thân, bộc lộ bản thân, thậm chí còn mổ xẻ những vấn đề của chính mình cho người khác xem, đem những điều đó ra để hiển thị bản thân, thu hút sự chú ý của người khác, chấp trước vào việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với người khác để có được cảm giác an toàn, chấp trước vào việc được người khác chú ý và quý mến. Vì vậy, khi ở cùng người khác, nhất là với những người mà tôi không cảm thấy an toàn, nỗi bất an mơ hồ từ sâu trong lòng thôi thúc tôi nói không ngừng, mong rằng người khác sẽ hiểu được tôi, yêu thích tôi, chỉ như vậy thì bản thân tôi mới thấy an tâm, nhưng tôi lại thường bị hãm nhập trong vòng tuần hoàn ác tính là càng nói càng thấy trống rỗng, càng nói càng thấy bất an, mà càng bất an lại càng muốn nói. Tôi ngộ rằng, nếu muốn thông qua việc hiển thị bản thân để nhận được sự chú ý và quý mến của người thường thì rõ ràng là bản thân đang ở tầng của người thường, đang muốn đạt được những thứ nơi người thường, và muốn thỏa mãn những chấp trước của mình ở tầng người thường.

Nhìn lại cuộc đời tôi trong mấy mươi năm qua, rất nhiều phiền phức xảy đến đều là do việc nói nhiều. Vì nói nhiều nên bản thân thường thể hiện ra là xốc nổi chứ không trầm ổn; bởi vì nói nhiều nên tâm không trầm tĩnh được, do đó khi luyện công rất khó nhập tĩnh; bởi vì nói nhiều nên người khác sẽ dễ hiểu lầm và cuộc sống của chính mình có thêm nhiều phiền não. Nhìn trên bề mặt thì mọi kết quả đều là do việc nói quá nhiều mà thành, nhưng là một người tu luyện mà xét, đó chẳng phải là đang phản ánh những chấp trước ở nội tâm mình hay sao? Đó chẳng phải là cái tâm cần được tu bỏ sao?

Con xin cảm tạ sự điểm hoá từ bi của Sư tôn.

Nếu có điều gì không đúng mong các đồng tu từ bi chỉ chính.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/274765

The post Tu luyện tùy bút: Tâm hiển thị và tu khẩu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Từ vài câu chuyện lịch sử nhìn ra chính niệm trong tu luyệnhttps://chanhkien.org/2023/02/tu-vai-cau-chuyen-lich-su-nhin-ra-chinh-niem-trong-tu-luyen.htmlSun, 05 Feb 2023 06:29:06 +0000https://chanhkien.org/?p=29632Tác giả: Đệ tử Đại Pháp hải ngoại [ChanhKien.org] Gần đây đã xuất hiện một số can nhiễu, hơn nữa tạp niệm cũng rất nhiều. Sư phụ đã giảng trong kinh văn “Giảng Pháp tại Pháp hội Chicago năm 2004” rằng: “Khe hở nào tà ác cũng dùi vào, nhất niệm nhất hành của chư […]

The post Từ vài câu chuyện lịch sử nhìn ra chính niệm trong tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp hải ngoại

[ChanhKien.org]

Gần đây đã xuất hiện một số can nhiễu, hơn nữa tạp niệm cũng rất nhiều.

Sư phụ đã giảng trong kinh văn “Giảng Pháp tại Pháp hội Chicago năm 2004” rằng:

“Khe hở nào tà ác cũng dùi vào, nhất niệm nhất hành của chư vị đều đang bị tà ác chăm chăm nhìn vào. Chư vị chấp trước vào điều gì thì tà ác liền làm tăng mạnh thêm điều ấy, tư tưởng chư vị mà không ngay chính thì chúng liền để chư vị không lý trí nữa”

Rồi tình cờ tôi đọc được vài câu chuyện lịch sử dưới đây, cảm thấy rất xúc động.

(1)

Câu chuyện thứ nhất là vào thời Hán, Triều Thác vì Viên Áng (tâu lên vua) mà bị giết oan nên mấy đời muốn báo thù, nhưng vì Viên Áng mười đời đều là cao tăng thủ nghiêm giới luật, do vậy Triều Thác không thể toại nguyện. Về sau Viên Áng được vua sủng ái nên khởi tâm danh lợi, cuối cùng Triều Thác cũng có thể làm được việc báo thù. [1]

Kỳ thực trong dòng sông dài của sinh mệnh, chúng ta ở trong mê không biết đã kết nên bao nhiêu mối oan duyên oán duyên, ngày nay nhờ tu Đại Pháp mà được Sư phụ giúp hoá giải. Nhưng ngay khi niệm đầu của chúng ta không chính thì có thể sẽ xuất hiện rắc rối hoặc can nhiễu. Hình thức có thể khác nhau, nhưng nhìn chung hậu quả đều là không để chúng ta tinh tấn, rồi từng chút từng chút một kéo chúng ta khỏi con đường tu luyện.

Nhớ lại thuở mới đắc Pháp, trong lòng không nén nổi sự hân hoan như nắng hạn lâu ngày gặp mưa lành, cảm thấy bản thân đã tìm được điều quý giá nhất của sinh mệnh, là thứ mà hết thảy tài phú trên đời đều không đổi được.

Mấy năm đã trôi qua, giờ đây mỗi ngày khi đọc sách Đại Pháp hoặc phát chính niệm liệu chúng ta có còn cái tâm thuần tịnh mà kiên định như thuở ban đầu không?

Trong Chuyển Pháp Luân Sư phụ có giảng rằng:

“…[chỉ] tu luyện chân chính mới có thể thay đổi đường đời của người ấy. Nhưng người này chỉ là một người thường, chỉ luyện công chữa bệnh khỏe người; hỏi ai thay đổi đường đời cho họ? Là người thường, đến một ngày kia phải mắc bệnh, đến một ngày kia phải gặp chuyện rắc rối nào đó, đến một ngày kia biết đâu sẽ mắc bệnh tâm thần, hoặc giả hết mệnh lìa đời; một đời của người thường là như thế”

Nếu chúng ta cảm thấy rằng mỗi ngày dù ít dù nhiều thì cũng đều đang làm “ba việc” vậy là yên tâm rồi. Thế thì đó đã đạt đến tiêu chuẩn của một đệ tử Đại Pháp, một người tu luyện chân chính hay chưa?

Tu luyện là rất nghiêm túc. Khi chúng ta buông lung bản thân, thì có thể sẽ xuất hiện một số can nhiễu, hoặc bị hãm trong trạng thái bất hảo trong một thời gian lâu mà không thoát ra được.

(2)

Con người trong khi tu luyện thì luôn dễ bị cái tình của người thường dẫn động. Ví như yêu thích ai đó, không yêu thích ai đó, có cách nhìn về ai đó v.v.., từ đó mà ảnh hưởng đến việc chúng ta “dùng từ bi để hồng Pháp và cứu độ thế nhân” (Tinh tấn yếu chỉ II). [2]

Từ lịch sử chúng ta có thể nhìn ra được cái tình có thể khống chế một cá nhân, thậm chí là khống chế một quốc gia như thế nào.

Đường Thái Tông có 14 người con trai, Lý Trị là con trai thứ chín, mẹ là Trưởng Tôn Hoàng hậu. Thuở nhỏ Lý Trị là người khoan dung nhân từ, hiếu kính cha mẹ, hoà thuận với anh em. Lúc Lý Trị học Hiếu Kinh xong, Thái Tông hỏi ông: “Trong cuốn sách này lời nào là quan trọng?” Lý Trị đáp rằng: “Hiếu đạo, bắt đầu từ phụng sự song thân, kế đến là phụng sự vua và cuối cùng là lập thân. Người quân tử thờ bề trên, khi làm quan thì tận trung, cáo lão về quê thì suy ngẫm về những sai lầm của mình và tìm cách sửa sai, cấp trên có điều tốt đẹp thì ủng hộ, có việc ác thì ngăn cản”. Thái Tông nghe xong rất đỗi vui mừng, cũng vì vậy mà rất mực yêu quý Lý Trị. Năm Trinh Quán thứ 17, Hoàng thái tử Lý Thừa Càn bị phế, Ngụy vương Lý Thái vì phạm tội nên bị giáng chức, Thái Tông bèn chọn Lý Trị làm Thái tử, tức Đường Cao Tông sau này.

Võ Tắc Thiên tên bình thường là Võ Mị Nương, sau đổi thành Võ Chiếu rồi được triệu vào cung, được Đường Thái Tông phong làm tài nhân. Sau khi Thái Tông băng hà, Võ Chiếu theo lệ phải rời cung đến Cảm Nghiệp tự xuống tóc làm ni cô. Sau khi Đường Cao Tông, người sớm bị nhan sắc xinh đẹp của Võ Chiếu làm say mê, lên ngôi đã triệu cô vào cung một lần nữa và phong làm Chiêu nghi. Võ Tắc Thiên quay lại hậu cung chưa đến một năm đã tự tay giết chết đứa con gái do chính mình sinh ra, sau này khi được làm Hoàng hậu rồi lại sát hại trọng thần của tiên triều. Năm 660, Đường Cao Tông bị ép phải giao lại toàn bộ triều chính cho Võ Tắc Thiên. Năm 690 Võ Tắc Thiên xưng đế, đổi tên triều “Đường” thành “Chu”. [2]

Lý Trị trước kia nổi tiếng là hiếu thảo, về sau bỗng lại làm ra việc loạn luân, sủng ái Võ Chiếu, cuối cùng khiến triều Đường gặp phải đại kiếp.

Lại như Đường Huyền Tông, năm 28 tuổi đăng cơ, đã hết lòng chăm lo việc nước, dùng người hiền tài, khai sáng ra thời Khai Nguyên thịnh thế. Nhưng sau thời gian dài tại vị ông lại dần lấy ca múa nữ sắc làm trò vui, sau năm Thiên Bảo thứ hai, sau khi sủng ái Dương Quý phi, thì càng thêm lơ là việc triều chính. Dương Quý phi còn gọi là Dương Ngọc Hoàn, nguyên vốn là vợ của Thọ vương Lý Mạo, con trai của Huyền Tông. Huyền Tông vừa gặp đã phải lòng nàng, sau đó nạp làm phi tử, lại sắc phong làm Quý phi. Bạch Cư Dị đã miêu tả tình cảm của Đường Huyền Tông trong bài thơ “Trường hận ca” như sau:

“Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,

Tòng thử quân vương bất tảo triều”

Tạm dịch:

“Khổ nỗi đêm xuân ngắn, mặt trời đã vội lên cao;

Từ nay chẳng thấy quân vương lên triều sớm”

Đường Huyền Tông đắm chìm trong tình cảm đã đem chuyện quốc gia đại sự bỏ sang một bên, bắt đầu bị gian thần che mắt, làm cho triều chính hủ bại dẫn đến loạn An Sử xảy ra, khiến nhà Đường trở nên suy yếu. [2]

Sự vận hành của lịch sử đã đúng như trong các dự ngôn của Thôi Bối Đồ trước kia. Nhưng sở dĩ lịch sử có thể chiểu theo những an bài từ trước mà xảy ra một cách chính xác, là bởi vì con người có tình; dưới sự chi phối của tình, vào thời khắc then chốt con người chẳng còn là chính mình nữa. Thế nên Thần mới có thể khống chế mọi thứ dễ như trở bàn tay vậy.

Đối với một người đang đi trên con đường tu luyện mà nói, việc chấp trước vào cái tình và quan niệm của người thường sẽ khiến họ rất khó thoát khỏi ràng buộc của cựu thế lựchắc thủ lạn quỷ – bởi vì họ chính là con người.

Chỉ khi chúng ta dĩ Pháp vi Sư một cách thanh tỉnh trong mọi thời khắc thì mới có thể siêu thoát khỏi sự khống chế của những nhân tố cũ này và bước đi trên con đường của một đệ tử Đại Pháp.

“Hết thảy hết thảy những điều đó đều có thể lôi kéo chư vị trở về trong chốn người thường. Chư vị có thể xung phá hết thảy điều ấy, thì chư vị có thể bước hướng Thần. Do đó đã là một người tu luyện mà giảng, có thể kiên định bản thân, có thể có được chính niệm kiên định không gì có thể lay động được, đó mới thật là xuất sắc. Như kim cương, vững như bàn thạch, không ai lay động nổi, tà ác thấy thế đều thấy sợ”

“Chính một niệm chính tín này, ai có thể giữ vững chính niệm này, ai có thể đi đến cuối cùng, thì người đó có thể thành vị Thần vĩ đại được tạo ra trong Đại Pháp” (Giảng Pháp tại Pháp hội quốc tế miền Tây Mỹ quốc [2005])

Ghi chú:

[1] Nguồn: 古代修炼故事:疮发人言:http://minghui.ca/mh/articles/2005/5/6/101259.html

[2] Nguồn: 上下五千年:历史真貌:http://zhengjian.org/zj/211,71,,3.html

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/32557

http://www.pureinsight.org/node/3092

The post Từ vài câu chuyện lịch sử nhìn ra chính niệm trong tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện tùy bút: “Hận” và “dục”https://chanhkien.org/2022/12/tu-luyen-tuy-but-han-va-duc.htmlWed, 07 Dec 2022 07:32:59 +0000https://chanhkien.org/?p=29338Tác giả: Vũ Nhi [ChanhKien.org] Bấy lâu nay tôi đã phát hiện ra một tình huống, nếu như hôm nào tâm oán hận của tôi mạnh mẽ, thì ban đêm đó sẽ có ma sắc dục đến can nhiễu, hơn nữa lại không thể vượt qua ma sắc dục. Ban đầu tôi không đem hai […]

The post Tu luyện tùy bút: “Hận” và “dục” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Vũ Nhi

[ChanhKien.org]

Bấy lâu nay tôi đã phát hiện ra một tình huống, nếu như hôm nào tâm oán hận của tôi mạnh mẽ, thì ban đêm đó sẽ có ma sắc dục đến can nhiễu, hơn nữa lại không thể vượt qua ma sắc dục. Ban đầu tôi không đem hai chủng tâm này liên hệ lại với nhau, nhưng sau nhiều lần va vấp thì cuối cùng tôi cũng đã tìm ra được manh mối. Tôi ngộ được rằng, tâm oán hận sẽ làm mạnh thêm các chủng dục vọng. Nhưng tại sao lại như vậy, làm thế nào mà hai chủng chấp trước dường như không liên quan gì nhau này lại có sự liên hệ lẫn nhau?

Trong sách Chuyển Pháp Luân Sư tôn đã giảng cho chúng ta rằng:

“Vì con người có ‘tình’, nóng giận là ‘tình’, ưng ý là ‘tình’, yêu là ‘tình’, hận cũng là ‘tình’; vui thích làm điều [nào đó] là ‘tình’, không thích làm điều [nào đó] cũng là cái ‘tình’ ấy; thấy người này hay người kia dở, yêu thích làm gì đó hoặc chẳng yêu thích làm gì đó, hết thảy đều là ‘tình’; người thường chính là vì cái ‘tình’ ấy mà sống. Như vậy làm một người luyện công, một người siêu thường, thì không thể dùng cái [đạo] lý ấy để nhận định được, cần đột phá điều này. Do đó [đối với] rất nhiều tâm chấp trước xuất phát từ ‘tình’, chúng ta cần xem nhẹ, cuối cùng hoàn toàn vứt bỏ. ‘Dục’ và ‘sắc’ những thứ ấy đều thuộc về tâm chấp trước của con người; những thứ ấy đều nên tống khứ”.

Từ đoạn giảng Pháp của Sư tôn tôi ngộ được rằng, bởi vì “hận” cũng là một loại biểu hiện của tình, nên khi chúng ta oán hận thì đồng thời cũng đang làm mạnh thêm nhân tố tình, giống như câu nói của người thường: yêu càng nhiều hận càng sâu. Khi cái tình này được làm mạnh thêm đến một mức độ nhất định thì những thứ dục vọng được sinh ra từ tình vô hình chung cũng được phóng đại lên, thậm chí là chúng còn không chịu sự khống chế của tự ngã.

Mọi người chúng ta đều biết rằng “hận” là thuộc tính căn bản của tà linh, chủng vật chất “hận” lấp đầy trong từng mỗi tế bào trong sinh mệnh của tà linh. Dưới sự thống trị của tà linh, chúng ta hoặc ít hoặc nhiều đều sẽ bị ảnh hưởng, bị gieo hạt giống “hận” này vào trong sinh mệnh một cách bị động, hơn nữa lại là trong tình huống chúng ta không hề hay biết. Sự sản sinh ra chủng vật chất “hận” này hoàn toàn là kết quả của việc hướng ngoại mà cầu (nó hoàn toàn đi ngược với yêu cầu hướng nội mà tìm của người tu luyện chúng ta), mỗi khi sự việc phát sinh thì đi tìm chỗ không đúng của người khác, oán trời trách người, cuối cùng tạo thành tâm trạng u uất. Vì sao rất nhiều đồng tu khi họ có tâm sắc dục và tâm oán hận mạnh mẽ thì mơ thấy rắn? Chính là nguyên nhân ấy, tâm trạng u uất là điểm yếu để tà linh tiến nhập vào.

Trước đây đọc bài chia sẻ của các đồng tu khác tôi thấy họ có nói rằng sau khi tâm oán hận bị thanh trừ rồi thì nhiều tâm chấp trước khác (gồm cả tâm sắc dục) cũng theo đó mà tiêu. Từ đó tôi ngộ được tâm oán hận chính là thuốc độc đối với người tu luyện, chúng ta cần phải bỏ nó đi.

[Một chút thể ngộ], nếu có điều gì không đúng mong các đồng tu từ bi góp ý.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/275011

The post Tu luyện tùy bút: “Hận” và “dục” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Con đường hồi thiênhttps://chanhkien.org/2022/12/con-duong-hoi-thien.htmlSun, 04 Dec 2022 06:30:44 +0000https://chanhkien.org/?p=29334Tác giả: Chinh Hảo [ChanhKien.org] 1. Hiểu thấu hai câu chuyện (Hạ trần) Khi còn nhỏ, mỗi lần xem “Tây Du Ký”, tôi đều cảm thấy bất bình thay cho Sa Tăng. Trong các vai chính, xem ra Sa Tăng là người phạm lỗi nhẹ nhất, nhưng phải chịu trừng phạt rất nặng. Sa Tăng […]

The post Con đường hồi thiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chinh Hảo

[ChanhKien.org]

1. Hiểu thấu hai câu chuyện (Hạ trần)

Khi còn nhỏ, mỗi lần xem “Tây Du Ký”, tôi đều cảm thấy bất bình thay cho Sa Tăng. Trong các vai chính, xem ra Sa Tăng là người phạm lỗi nhẹ nhất, nhưng phải chịu trừng phạt rất nặng. Sa Tăng chỉ vì đánh vỡ cái ly thủy tinh của Ngọc Hoàng mà bị đánh 800 trượng và bị đày xuống hạ giới, lại cứ cách bảy ngày lại bị phi kiếm xuyên qua ngực hơn trăm lần. Lúc đó tôi nghĩ: đến mức đó sao? Thiên giới bảo vật nào chẳng có, chỉ đánh vỡ có một cái ly thủy tinh mà phải chịu sự trừng phạt nặng nề đến vậy sao? Sau này tôi đọc được một câu chuyện trên trang Chánh Kiến: Thiên giới có một đồng tử, một hôm chỉ vì đặt nhầm chỗ pháp khí của Bồ Tát mà cũng bị phạt giáng xuống trần gian, đời đời kiếp kiếp luân hồi. Lúc đó trong suy nghĩ của tôi cũng cảm thấy sự trừng phạt như vậy quá nặng. Nhưng cùng với việc buông bỏ các tâm chấp trước trong tu luyện, dần dần tiếp cận đến tầng diện tự ngã, tôi đột nhiên hiểu thấu được hai câu chuyện trên. Sư phụ nói rằng:

“Chư vị khi thấy ai không có chính hành ấy, thực ra chính là chính niệm không đầy đủ. Vì tư tưởng chỉ đạo hành động của con người; khi chính niệm của chư vị đầy đủ thì khẳng định rằng sẽ đoan chính; nói chính niệm không chính nên hành vi mới không đoan chính.” (Giảng Pháp tại Pháp hội vùng đô thị New York)

Tôi lý giải thế này: Trên thiên giới những sinh mệnh ở các tầng thứ khác nhau thì tư tưởng của họ đều phù hợp với tiêu chuẩn của tầng Pháp lý ở đó; hành vi của họ thường sẽ không sai sót, hành vi xuất hiện sai sót ấy là vì tư tưởng đã phát sinh biến dị. Ví dụ như đã có quan niệm về tự ngã: vì sao pháp khí cứ phải đặt như vậy chứ? Đặt như thế này chẳng phải cũng tốt sao? Cũng chính là nói đánh vỡ cái ly thủy tinh, đặt pháp khí sai chỗ không phải là nguyên nhân thực sự khiến sinh mệnh đó bị đày xuống trần gian, mà là vì sinh mệnh này đã không còn thuần tịnh nữa, không phù hợp với tầng Pháp lý ấy nữa. Lúc đó nếu chỉ nắn chỉnh hành vi bề mặt, thế thì lần sau thứ bị đánh vỡ sẽ không phải là ly thủy tinh mà có thể là ly ngọc cẩm thạch, vậy không thể giải quyết vấn đề từ gốc rễ nữa rồi.

Trong tu luyện, chúng ta thường tưởng nhầm rằng vì nói sai câu nào đó, làm sai chuyện gì đó nên mới dẫn đến ma nạn. Không phải thế đâu, nói sai, làm sai chỉ là nguyên nhân bề mặt. Lúc đó chúng ta nên đối chiếu với Đại Pháp, truy tìm tư tưởng biến dị đằng sau làm cho chúng ta nói sai câu đó, làm sai việc đó, quy chính bản thân. Đồng hóa với Đại Pháp mới có thể giải quyết vấn đề tận gốc rễ.

2. Kính Sư tín Pháp, tu tâm bỏ chấp trước

Trong tu luyện, tôi có một nỗi khổ đó là nỗi khổ tìm ra tâm chấp trước, từ chỗ phát hiện chỗ cứng đầu cố chấp trong tư tưởng, cho đến lúc tìm được chính xác gốc rễ đằng sau tâm chấp trước ấy, cần trải qua quá trình suy xét rất gian khổ trong thời gian dài, chính vì tìm rất vất vả, nên tôi cũng rất nghiêm túc tu bỏ nó.

Mỗi lần có thể nghiêm túc tìm ra tâm chấp trước, tu bỏ tâm chấp trước được hay không, tôi lấy đó làm tiêu chuẩn để đo lường bản thân có thực sự kính Sư tín Pháp hay không. Tôi lý giải rằng kính Sư tín Pháp chân chính ấy là chiếu theo những gì Sư phụ nói mà làm.

Tôi đã tu bỏ quan niệm về bệnh như sau: Trước đây, tôi yêu sự sạch sẽ một cách thái quá, mỗi ngày tôi phải rửa tay không biết bao nhiêu lần vì những vi khuẩn và vi rút vốn không nhìn thấy được. Cũng chính vì vấn đề này mà tôi và người nhà nảy sinh mâu thuẫn gay gắt, tôi đã lãng phí rất nhiều thời gian và cơ hội để tu luyện và cứu người. Tôi đã hạ quyết tâm thay đổi bản thân. Khi tôi bắt đầu thực sự hướng nội tìm, hướng nội tu, thì hệ thống tu luyện mà Sư phụ cấp cho tôi bắt đầu phát huy uy lực: Tôi nghĩ rằng vi rút và vi khuẩn có thể làm người ta mắc bệnh là quan điểm trong khoa học. Sư phụ nói rằng:

“Thế nhưng tôi nói với mọi người, khoa học này nó cũng là một tôn giáo. Nó là một tôn giáo hết sức hoàn thiện.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Châu Âu)

Chúng ta thông qua tu luyện đều biết được nguyên nhân thực sự làm người ta mắc bệnh là nghiệp lực. Vậy tôi lựa chọn tin vào Đại pháp hay tin vào khoa học? Nếu tôi lựa chọn tin vào cái tôn giáo khoa học này, thì chẳng phải không thể nghiêm túc đối đãi với vấn đề “bất nhị pháp môn” sao? Nghiêm trọng hơn là nếu tôi cảm thấy vi rút và vi khuẩn có thể khiến tôi mắc bệnh, kỳ thực là không tin Sư phụ đã giúp tôi tịnh hóa thân thể, cũng đồng nghĩa với tự đặt ra nghi vấn: ”Đại Pháp này có thật chăng? Sư phụ nói có thật chăng?” Đằng sau đó là nghi tâm đối với Sư phụ, là điều đại bất kính đối với Sư phụ.

Khi triệt để tìm ra được cái chấp trước này tôi đã tu bỏ nó từ căn bản. Sau này ngay cả khi dịch bệnh nghiêm trọng nhất cũng không ngăn được bước chân tôi đi cứu người. Làm được điều đó rồi tôi mới lĩnh ngộ được lời của Sư phụ:

“Chư vị đã biết đạo lý tương sinh tương khắc, không có sợ, thì cũng không tồn tại nhân tố làm cho chư vị sợ.” (Tinh tấn yếu chỉ ll – Tống khứ chấp trước cuối cùng)

Sư phụ thực sự muốn tốt cho chúng ta, bỏ đi chấp trước đối với bệnh rồi thì cho dù chiểu theo lý của cựu vũ trụ, cựu thế lực cũng không nắm được cái cớ để bức hại.

Tôi tu bỏ tâm oán hận như sau: Cái tâm này theo tôi đã rất lâu rồi, tôi không ý thức được nó. Sau đó nó càng ngày càng lớn dần, thậm chí đã bắt đầu thao túng tôi, không để tôi học Pháp. Chính Sư phụ đã cứu tôi. Sư phụ đã đem một câu Pháp đánh vào chốn thâm sâu trong tư tưởng của tôi:

“Con người tựa như đồ chứa đựng, cho mang chứa cái gì thì là như thế.” (Tinh tấn yếu chỉ – Hòa tan trong Pháp)

Tôi liền thức tỉnh: Mình lấp đầy oán hận, mình chẳng phải là kẻ xấu sao? Tu tới tu lui, sao mình lại tu thành một người xấu cơ chứ? Nghĩ vậy, tôi bắt đầu phân tách nó khỏi tự kỷ chân chính của mình. Vì cái tâm này lớn quá, một lúc không thể tu bỏ hết được, sau này trong quá trình tu luyện liên tục, tôi có thể thấy được nó càng ngày càng yếu đi; tiếp sau đó khi mà nó chưa hình thành, trong tư duy còn chút phân tán tôi đã có thể nắm chắc nó rồi.

Tôi loại bỏ tâm tật đố như sau: Một thời gian tôi rất đố kỵ với đồng tu nào luyện công nhiều, bản thể chuyển hóa được tốt, đặc biệt là mấy đồng tu lớn tuổi. Nếu thấy tóc họ đen, tôi sẽ ghé sát lại gần để xem chân tóc họ. Nếu chân tóc màu trắng, chứng tỏ là tóc nhuộm, như vậy tôi cảm thấy như nhẹ nhõm hơn vậy; nếu chân tóc màu đen, cho thấy người ta tu tốt, tôi như thể có chút thất vọng. Tôi biết đây là tâm tật đố nhưng lại không biết tu bỏ nó đi như thế nào. Một hôm, tôi chợt nhớ đến khó khăn của Sư phụ khi độ chúng ta, Sư phụ độ chúng ta vất vả như thế, chắc chắn rằng Sư phụ đều hy vọng chúng ta sẽ có thể tu thành. Vậy đồng tu tu được tốt, tôi nên vui mừng cho đồng tu mới phải. Hơn nữa, tôi không phải đến để trợ Sư sao? Sư phụ hy vọng chúng ta đều có thể tu thành, vậy thì nếu thấy đồng tu chỗ nào chưa hoàn thiện, tôi vẫn nên nghĩ cách hoàn thiện. Cứ mãi nghĩ như vậy, tôi phát hiện tâm tật đố đang dần dần tan chảy, cho đến khi biến mất. Thì ra, cái làm tan chảy tâm tật đố chính là sự từ bi.

Cùng với việc vứt bỏ tâm tật đố càng ngày càng nhiều, tôi phát hiện tất cả tâm tật đố đều có cùng một gốc rễ, đó chính là tự ngã (tư ngã). Sư phụ nói rằng:

“Nhưng khí đen không phải là nguyên nhân căn bản tạo thành bệnh, mà là vì ở trong một không gian thâm sâu hơn có con linh thể kia, [chính] là nó phát xuất ra cái trường.” (Chuyển Pháp Luân)

Tôi ngộ ra rằng cái tôi vị tư đang sản sinh ra chấp trước. Ngược lại, chấp trước lại đang nuôi dưỡng cái tư ngã.

3. Tu bỏ sự bất thuần

Tùy theo sự đề cao trong tu luyện, tiêu chuẩn kính Sư tín Pháp cũng đề cao lên theo. Có một số thứ bất thuần mà không dễ nhận biết đang bộc lộ ra. Tôi nhận biết được sự vô tri và ngạo mạn của bản thân. Đằng sau một vài tư tưởng đã hình thành tự nhiên đều có một loại tự ngã ngạo mạn. Ví dụ: “Tôi đã loại bỏ tâm chấp trước gì đó”, tôi là một người tu trong mê, tôi có lực lượng gì mà loại bỏ được vật chất ngoan cố giống như đá hoa cương được hình thành qua mấy trăm nghìn năm đó chứ? Tôi chẳng qua giống như Ngu Công dời núi, đào bỏ từng xẻng từng xẻng đất của chấp trước. Sư phụ đã nhìn thấy sự thành tâm và quyết tâm của tôi, cuối cùng giúp tôi dời bỏ ngọn núi lớn chấp trước đó.

Ví dụ: “Tôi đã giảng chân tướng cứu được bao nhiêu người”. Bản thân tôi vẫn nhờ Sư phụ cứu, tôi có thể cứu ai chứ? Tôi chẳng qua chỉ làm chút việc bề mặt nhất, còn chân chính cứu được sinh mệnh này từ căn bản là Sư phụ.

Ví dụ: Tôi đã ngộ được Pháp lý gì? Sư phụ sớm đã nói rằng:

Pháp Luân Công là Pháp luyện người.” (Pháp Luân Công)

Là Đại Pháp nhìn thấy tôi tu bỏ được tâm chấp trước nào đó, đề cao lên rồi, liền triển hiện ra cho tôi Pháp lý mà tôi nên biết tại tầng thứ của tôi.

Tất cả đều là Sư phụ làm, là Đại Pháp làm.

Thế thì thứ chúng ta tu là gì? Tôi ngộ được rằng từ đầu chí cuối, thứ chúng ta tu là sự tôn kính đối với Sư phụ, và tín tâm đối với Đại Pháp. Sư phụ chính là dựa vào phần tôn kính này, phần tín tâm này của chúng ta mà dẫn dắt chúng ta bước về phía trước.

Nếu chúng ta mất đi sự tôn kính đối với Sư phụ, sự tín tâm đối với Đại Pháp, nghĩa là tương đương với bản thân chủ động rời xa Sư phụ, bước trên con đường mà cựu thế lực an bài. “Con đường là tự mình đi.” (Chuyển Pháp Luân) Lúc này Sư phụ chỉ có thể đau lòng mà nhìn chúng ta, nếu chúng ta có thể quay trở lại, Sư phụ sẽ quản; nếu chúng ta chấp mê quá nặng, thì sẽ sai lạc quá xa rồi, thậm chí nhục thân cũng sẽ bị cựu thế lực tước bỏ.

4. Tìm lại cái tâm “thuở đầu” của chúng ta

Một hôm, đồng tu hẹn tôi đi phát tài liệu, tôi đứng bên đường vừa đợi đồng tu vừa nghe Pháp, tôi nghe được một câu thế này, đối ứng trong “Chuyển Pháp Luân là:

“Tu luyện bình thường của chúng ta, là tu từ thấp lên cao, mãi cho đến khai công tu viên mãn. [Người] được gọi là ‘phản tu’ này, tuổi đã cao mà tu từ thấp lên cao sẽ không kịp, nên họ tu từ cao về thấp sẽ nhanh hơn; hiện tượng ấy cũng là thời đó tạo thành.” (Chuyển Pháp Luân)

Tôi định lại tại đó, từng luồng từng luồng nhiệt chạy thông suốt toàn thân, trong tâm cảm xúc lẫn lộn, tôi giống như đã đi được quãng đường rất rất xa. Có lúc tôi đi được rất nhanh, có lúc đi chậm, thường đi sai đường, có lúc lạc lối. Là Sư phụ, là Đại Pháp luôn chỉ dẫn cho tôi, Đại Pháp phá tan hết thảy rào cản mê mờ và vọng niệm, như có một cánh cửa mở toang, lúc này, tôi dường như hợp nhất làm một với cái tôi ở tại vi quan, tôi nhìn thấy một thế giới rất sâu xa và rộng lớn. Đó là tối nguyên sơ của tôi, là nơi tôi đã từ đó mà đến.

Nếu giống trong màn mở đầu của ShenYun, vào lúc mạt hậu của vũ trụ, từ nơi chân trời truyền đến lời gọi uy nghiêm từ bi của Phật Chủ. Chúng ta vì chúng sinh, không chút do dự buông bỏ hào quang của Thần, dùng sinh mệnh của Thần ký thệ ước với Phật Chủ, theo Sư phụ đi xuống, trợ Sư chính Pháp. Kể từ thời khắc đó, chúng ta đã lựa chọn Đại Pháp, cũng trở thành sinh mệnh được Đại Pháp lựa chọn; từ thời khắc đó, chúng ta có sự khác biệt căn bản với cựu thế lực. Kẻ thực sự không tôn kính Sư phụ, không tín Pháp chính là cựu thế lực.

Tôi mang theo một niệm kính Sư tín Pháp mà đến, trong quá trình tầng tầng đi xuống, bất kể tôi bị lấp lên bao nhiêu bụi bẩn của tầng tầng vũ trụ, thì một niệm ban đầu này nhờ có sự gia trì của Phật Chủ vẫn luôn lấp lánh ánh hào quang bất diệt nơi chốn thâm sâu trong sinh mệnh của tôi, trong thương khung của tôi.

Thế nên, vì sao tôi lại không giữ vững niệm ban đầu này, tu từ cao về thấp chứ?

Tôi lý giải rằng tu từ dưới lên trên là tu bỏ từng tâm chấp trước, giống như tóm lấy tất cả khí màu đen, sau cùng khiến con linh thể sinh ra khí đen đó – tự ngã (tư ngã) không có nơi ẩn náu.

Còn tu từ cao về thấp chính là lấy mặt Thần của bản thân làm chủ đạo, lập tức tóm lấy tự ngã (tư ngã) trong tay. Bởi vì từ khi vũ trụ hoại diệt trở đi, cái tư ngã như hình với bóng gắn trên bản tính của chân ngã, rất khó phân biệt được. Chúng ta thường coi nó như bản thân mình. Thậm chí nó cũng muốn tu luyện, nhưng nó tu luyện là vì sự viên mãn của bản thân nó; nó cũng giảng chân tướng, nhưng nó giảng chân tướng là vì để bản thân không bị rớt lại.

Tôi ngộ được một tầng hàm nghĩa của tu luyện Chính Pháp đó là: Dưới sự gia trì của Sư tôn, bản tính chân ngã giác ngộ trong Đại Pháp tu xuất chính niệm kim cương bất hoại, thản nhiên không sợ hãi tự tay giải thể hủy đi cái tư ngã cùng hết thảy những nhân tố bất thuần, những an bài biến dị mà cựu thế lực lợi dụng những nhân tố bất thuần này để làm ra và bản thân cựu thế lực; bằng sự từ bi tan chảy cả sắt thép để giải thoát hết thảy sinh mệnh có liên quan.

Tôi đã có nhận thức mới về việc làm thế nào phủ định cựu thế lực từ căn bản, Sư phụ nói rằng:

“Gốc của tôi gắn trên vũ trụ, ai có thể động tới chư vị, người ấy có thể động đến tôi; nói thẳng ra, người ấy có thể động đến vũ trụ này.” (Chuyển Pháp Luân)

Tôi lý giải cái tôi chân chính luôn ở trên thân Sư phụ, đây là nơi cựu thế lực căn bản không chạm đến được, tất cả những an bài biến dị của cựu thế lực đối với tư ngã đều sẽ bị giải thể cùng với sự giải thể của cựu vũ trụ. Sư phụ nói rằng:

“Làm cho đến nay, chúng sinh cũng thấy được rằng hết thảy điều cựu thế lực muốn làm đều là không thể giải khai, là không có gốc.” (Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003)

Tôi thể ngộ được rằng cựu thế lực chỉ quản chấp trước những an bài của chúng, mà không quản đến kết cục của sự việc; cũng không quản việc sẽ hủy đi bao nhiêu sinh mệnh. Chỉ có Sư phụ của chúng ta mới là vì tương lai của vũ trụ, vì tương lai chúng sinh mà chịu trách nhiệm. Sư phụ nói:

“Đồng thời không chỉ hàng nghìn hàng vạn thứ [cần] được cấp trong môn này của chúng tôi, đã cấp toàn bộ cho chủ nguyên thần của chư vị, thực sự để bản thân chư vị đắc công.” (Chuyển Pháp Luân)

Tôi rốt cuộc đã tìm được bản thân mình, Sư phụ từ bi xem tôi như đệ tử dẫn dắt đã nhiều năm như vậy, đến tận lúc này, tôi mới thực sự trở thành đệ tử của Sư tôn. Phát chính niệm không còn là vì thanh trừ sự bức hại của cựu thế lực đối với bản thân, mà là để trở thành đệ tử vốn được Đại Pháp tạo thành, dùng thần thông Phật Pháp mà Sư tôn cấp cho kiên định duy hộ Đại Pháp, thanh trừ những sinh mệnh bất kính đối với Sư phụ và Đại Pháp; lúc giảng chân tướng thì bắt đầu chủ động dùng mặt Thần của bản thân, dùng Thần niệm cường đại để câu thông với phần bản nguyên nhất trong sinh mệnh của chúng sinh. Trở thành một lạp tử trong Đại Pháp, tôi đã có nguồn sức mạnh không bao giờ vơi cạn của Thần.

Giờ đây, khi quay đầu nhìn lại quá trình tu luyện của bản thân, luôn nỗ lực tu sự tôn kính đối với Sư phụ, sự tín tâm đối với Đại Pháp cũng vẫn là mang yếu tố bất thuần. Bởi vì bất kính, cho nên mới cần tu sự tôn kính; bởi vì không có tín tâm nên mới cần tu sự tín tâm. Sư phụ nói rằng:

“Đại Pháp là trí huệ của Sáng Thế Chủ. Ông là căn bản của khai thiên tịch địa, của tạo hóa vũ trụ, nội hàm từ cực nhỏ đến cực lớn, có triển hiện khác nhau tại các tầng thứ thiên thể khác nhau.” (Chuyển Pháp Luân)

Là sinh mệnh trong vũ trụ này, tôi có bản sự gì dám đi đo lường Đại Pháp của khai thiên tịch địa, của tạo hóa vũ trụ mà tin với không tin gì đây? Tôi có bản sự gì dám đi đo lường đối với Vương vô thượng của Vương của Vạn vương tạo ra vô số đại khung mà tôn kính hay không tôn kính đây? Là một sinh mệnh nhỏ bé được Sư phụ, được Đại Pháp tạo ra, tán tụng Sư phụ, tán tụng Đại Pháp mới là mong ước thực sự của sinh mệnh.

5. Trân quý

Tôi biết rõ bản thân cách yêu cầu của Sư phụ còn xa lắm, Sư phụ cấp tất cả những thứ hoàn thiện cần trong tu luyện cho mỗi đệ tử chân tu; nhưng chúng ta vẫn phải trong thực tu mà đưa thực hiện nó, tôi không biết làm thế nào để tu xuất sự từ bi có thể tan chảy cả sắt như vậy. Sư phụ nhìn thấy tôi có nguyện vọng đề cao, liền ban cho tôi đôi mắt huệ nhãn, để tôi nhìn thấy thiên cơ được lưu giữ trong 5000 năm văn hóa truyền thống mà Sư phụ đang dẫn dắt các đệ tử khai sáng; Sư phụ cấp cho tôi một huệ tâm, để tôi từ trong thiên cơ ẩn giấu đi cảm ngộ sự từ bi hồng đại của Sư phụ.

Ví dụ: Tô Thức có câu: “Trường hận thử thân phi ngã hữu. Hà thời vong khước doanh doanh” (Giận nỗi thân này chẳng phải của ta. Bao giờ mới quên được công danh lợi lộc). Còn có câu rằng: “Bất do tự chủ” (Không làm chủ được), đều là đang nhắc nhở con người, con người luôn luôn mê muội, không phải đang sống vì tự kỷ chân chính, người được khải ngộ cần tìm được tự kỷ chân chính của mình.

Ví dụ: Từ “phóng tâm” (buông tâm, yên tâm) là để nói với con người rằng quan hệ nhân duyên và mức độ lớn nhỏ của nghiệp lực quyết định họa phúc được mất của nhân sinh, thứ mà con người đều chấp trước truy cầu, rất nhiều lúc là nhọc tâm vô ích, vì thế mà tạo nghiệp lực lại phải tự mình đi bồi hoàn. Người được khải ngộ phải buông xuống hết thảy tâm. Điều này cho đến nay vẫn còn khải ngộ cho tôi. Sư phụ nói rằng:

“Chư vị có biết viên mãn của đệ tử Đại Pháp là một việc vĩ đại nhường nào không? Tất cả mọi việc quanh thân của chư vị thì Sư phụ đều quản cho chư vị, cần chư vị nhọc tâm về điều gì nữa?” (Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003)

Nghĩ đến đoạn Pháp này, tôi thấy thật xót xa, từ xưa đến nay, triều nào đại nào có vị Sư phụ nào nói lời như thế với đệ tử, tôi còn điều gì mà không buông tâm được chứ? Tôi còn cái tâm chấp trước nào không thể bỏ xuống được đây? Sư phụ nói:

“Đại Pháp là trí huệ của Sáng Thế Chủ.” (Chuyển Pháp Luân)

Một lời mà to lớn đến thiên thể vũ trụ, nhỏ đến thế gian con người, không gì không xuyên thấu bởi trí huệ và tâm huyết của Sáng Thế Chủ. Sư phụ còn nói:

“Tẩu hồi truyền thống lộ thông thiên“ (Quay về truyền thống là con đường rộng mở lên trời) (Hồng Ngâm V – Tái tạo)

Thì ra, trong 5000 năm văn hóa Thần truyền, từng câu từng lời, đều chứa đựng mật mã hồi thiên (trở về thiên thượng), ký thác lời kêu gọi, kỳ vọng tha thiết của Phật Chủ, kỳ vọng chúng sinh đang mê lạc tìm được đường về nhà. Tôi đã lý giải được một tầng hàm nghĩa của từ bi: Vì chúng sinh mà trải con đường trở về Thiên thượng.

Tôi thực sự biết cần phải trân quý. Trân quý vạn sự vạn vật trong không gian này, trân quý mỗi một sinh mệnh đang tồn tại trên thế gian này, cũng bao gồm cả sự trân quý đối với thân người của mình. Tại thời kỳ mạt Pháp mạt kiếp, nhờ thân người mà đắc được Pháp do Phật Chủ đích thân truyền độ, đây là phúc phận to lớn mà Sư phụ ban cho chúng ta! Làm tốt ba việc mới là sự trân quý tốt nhất đối với thân người này.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/277040

The post Con đường hồi thiên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Hướng nội tìm, tu khứ tâm oán hậnhttps://chanhkien.org/2022/10/huong-noi-tim-tu-khu-tam-oan-han.htmlFri, 28 Oct 2022 04:51:01 +0000https://chanhkien.org/?p=29215Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] 1. Sự nguy hiểm của tâm oán hận Oán hận là gì? Oán hận là độc tố. Trong tâm oán hận thì sẽ ghen ghét dữ dội; trên miệng chứa oán hận thì lời nói bất thiện làm tổn thương người khác. Không oán hận mới có đức, không oán […]

The post Hướng nội tìm, tu khứ tâm oán hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

1. Sự nguy hiểm của tâm oán hận

Oán hận là gì? Oán hận là độc tố. Trong tâm oán hận thì sẽ ghen ghét dữ dội; trên miệng chứa oán hận thì lời nói bất thiện làm tổn thương người khác. Không oán hận mới có đức, không oán hận mới xuất khỏi tam giới.

Sư phụ giảng:

“Cầu Phật không được, liền bắt đầu oán Phật: ‘Tại sao Ngài không giúp con? Hàng ngày [con] đốt hương dập đầu lạy Ngài [cơ mà].’ Có người vì điều này mà quăng cả tượng Phật, từ đó [lăng] mạ Phật…coi những khổ [nạn] trong cuộc đời là bất công đối với mình; có nhiều người suy sụp mà rớt xuống.” (Chuyển Pháp Luân)

Oán hận có thể nảy sinh từ việc truy cầu, cầu không được thì tâm sinh oán hận. Oán hận có thể sinh ra nhiều chủng tâm khác nhau như tật đố, thù hận, tức giận, đau khổ, tranh đấu, ác độc. Oán hận khiến người ta rớt tâm tính, oán hận khiến người ta rớt tầng thứ, oán hận có thể khiến người ta hủy xuống đến đáy.

Có đồng tu trách hận chồng mình, trách móc nhà chồng, mãi không buông tâm xuống được, oán hận lâu ngày thành bệnh, rồi ôm hận mà ra đi. Một số đồng tu oán trách lẫn nhau, nhìn nhau thấy chướng mắt, mâu thuẫn chồng chất, lục đục hao tổn tinh lực. Có đồng tu cảm thấy bản thân mình phó xuất nhiều, chịu đựng nhiều, nhưng bệnh tật đầy thân, trong thâm tâm oán hận Sư phụ; nhưng hận là vật chất màu đen, nó ngăn trở pháp lý triển hiện, cũng ngăn trở người tu luyện xuất thần thông, cuối cùng ôm hận mà bị cựu thế lực đào thải đi.

Tục ngữ có câu: “oán thiên giả vô chí, oán nhân giả cùng khổ”, nghĩa là kẻ oán hận ông trời sẽ không có chí, kẻ oán hận người khác thì sẽ vô cùng khổ sở. Một sinh mệnh mang oán hận càng nhiều thì nghiệp lực của người đó càng lớn, chính là càng xấu, càng đau khổ, càng nguy hiểm hơn. Nếu không kịp thời thanh trừ oán hận, lâu ngày không vứt bỏ, ma oán sẽ tìm đến cửa, ác quỷ phụ thể, ma nạn, bệnh tật, nguy hiểm cũng ùn ùn kéo tới. Một số đồng tu trạng thái không tốt trong thời gian dài, trong đó có người nguyên nhân căn bản là không vứt bỏ tâm oán hận. Chỉ khi thiện tâm không oán không hận, khoan dung từ bi, mới có thể gặp dữ hóa lành, chuyển nguy thành an.

Từ xưa đến nay, một sinh mệnh oán hận Sư phụ, là không xứng tu luyện, cũng không thể tu luyện được, bởi vì người ấy ma tính trầm trọng, Phật tính kém. Tu luyện trong Đại Pháp, người oán hận Sư phụ càng không xứng học Đại Pháp, không xứng được Đại Pháp canh tân, cho nên không thể hết bệnh. Thần chỉ có thể cứu người có tín tâm, không cách nào cứu giúp người có tâm oán hận, oán hận nghĩa là không tin, bất mãn và ôm hận.

2. Oán hận là ma tính

Có người oán hận vì tự cho rằng mình bị đối xử bất công, trong tâm cảm thấy bất bình, đó cũng là tật đố. Bất bình, oán hận, tật đố đều là ác niệm, cũng chính là ma tính. Trong tâm người đó cảm thấy khổ, trong lời nói chứa đựng oán hận, biểu lộ ra là căm ghét người khác.

Sự oán hận trong tâm cũng giống như ngọn núi lửa đang hoạt động, khi nó bộc phát thì tức giận sẽ tuôn trào, người này có thể tranh đấu, chửi bới lung tung, hoặc là giết người phóng hỏa, có thể tạo nghiệp lớn. Dù chỉ hơi có chút giận dữ, thù hằn, nhưng nếu ta không kịp thời khống chế, bài xích, phản đối, diệt trừ, thì nó sẽ không ngừng bành trướng, để càng lâu thì bị càng nặng. Khi chúng ta hễ động một tí là bất mãn, phàn nàn oán trách, oán than khắp trời, miệng lúc nào cũng lảm nhảm, thì sẽ mất đi chính niệm, bản thân giao cho oán hận kiểm soát mất rồi.

Chúng ta cần tỉnh táo nhận ra: oán hận quá xấu xa, oán hận là ma tính, oán hận là nghiệp lực, cần phải tinh tường nhận ra nó. Vậy nên, chúng ta cần phải nắm bắt nó mọi lúc. Nếu chủ ý thức rất mạnh thì có thể triệt để thanh trừ nó.

3. Bản chất của oán hận

Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:

“Hiện nay người ta như vậy đấy, hễ gặp vấn đề là trước tiên [họ] đẩy trách nhiệm, có tại họ hay không thì cũng đẩy cho [người khác].”

Tại sao lại oán hận người khác nhỉ? Vì vấn đề được quy cho người khác, không quy về bản thân mình, cũng chính là đẩy ra ngoài, nên mới oán hận. Khi xảy ra sai sót, cuộc sống gặp phải phiền phức, tiền đồ trắc trở, thì người này đều tìm lỗi ở người khác, rồi sinh lòng bất mãn.

Khi oán giận người khác, hoàn toàn không nhận ra bản thân mình có trách nhiệm, nên hướng nội tìm.

Trong khi chúng ta oán hận, cũng chính là hướng ngoại tìm, hướng ngoại cầu. Họ không coi bản thân mình là người luyện công, không nhìn vấn đề dựa trên Pháp, không hề hướng nội tìm, không chân tu thực tu. Người khác chẳng hề đáng ghét, mà là chính bản thân chúng ta không tu nên mới gặp chuyện, mới sinh lòng oán hận.

Oán hận hoàn toàn là một quan niệm biến dị. Khổng Tử có câu “bất oán thiên, bất vưu nhân” (Nghĩa là không oán trời, không trách người). Mạnh Tử có câu “Hành hữu bất đắc phản cầu giả kỷ” (Nghĩa là làm mà chẳng được thì phải quay lại xét bản thân mình). Còn tu luyện trong Đại Pháp, hướng nội tìm là sự khác biệt căn bản giữa người tu luyện và người thường. Vậy nên, hướng ngoại tìm mà sinh lòng oán hận là hoàn toàn sai lầm.

4. Biểu hiện của oán hận

Oán hận là ma tính, là nghiệp tư tưởng, là vật chất, nó cũng là sinh mệnh, cũng có hình tượng. Sư phụ đã giảng trong Chuyển Pháp Luân:

“Bởi vì ở không gian khác hết thảy đều có sinh mệnh, nghiệp cũng như thế.”

“Nhưng chư vị biết chăng, thế nào là người xấu và người tốt? Chứa đựng trong tâm chư vị là những thứ hận, những thứ ác, thì mọi người nghĩ xem đó là sinh mệnh gì? Sẽ biểu hiện ra ở hành vi, thậm chí biểu hiện ngay trên mặt, người ta xem chư vị thảy đều là ác.” (Trích Giảng Pháp tại Pháp hội San Francisco 2014)

Nếu trong lòng đầy oán trách, lời nói đầy oán khí, thì khẳng định mặt đầy rắc rối, nổi giận đùng đùng, ngôn từ sắc nhọn.

Hình tượng của oán hận giống như một oán phụ đầu bù tóc rối, hình dáng hốc hác, mặt mày ủ dột, vẻ mặt uất hận, tiếp xúc với người này khiến người ta cảm thấy ức chế, phiền não, bất an. Cho dù dung mạo như tiên thì cũng không dễ thương chút nào. Cái khuôn mặt oán hận cứng đờ, lạnh như băng, bực tức chỉ toát lên vẻ mặt đau khổ, xấu xa.

Biểu hiện của oán hận là: trách móc tùy tiện, bắt bẻ người khác vô cớ, canh cánh trong lòng, nhớ mãi không quên, ghét bỏ mọi thứ, không ngừng lải nhải, than khổ khắp nơi, không cách nào buông lỏng, không thể tha thứ.

Con người càng oán trách, càng thù hận, thì càng nuôi dưỡng ma oán, quỷ oán hận sẽ càng lớn mạnh, càng hung hăng phách lối. Có đồng tu sắc mặt u ám thời gian lâu, bắp thịt căng cứng, vẻ mặt cứng nhắc, lời nói khiêu khích, mở miệng là thấy oán hận, chính là bị oán hận khống chế. Tâm oán hận còn dễ thu hút linh thể tầng thấp, loạn quỷ, đến mức bị can nhiễu trong thời gian dài.

5. Hướng nội tìm, tu khứ oán hận

Nếu một người tu luyện thành thục, có cơ sở, thì gặp phải bất kể chuyện gì, bất kể sai lầm nào, bất kỳ ma nạn nào, đều sẽ nhìn vấn đề một cách chính diện, chủ động, tích cực tìm nguyên nhân ở bản thân mình; không né tránh mâu thuẫn, không trốn tránh mâu thuẫn, vui vẻ mà phó xuất, mà chịu đựng, mà gánh vác. Chỉ khi cố gắng hướng nội tu bản thân, không hướng ngoại và đẩy trách nhiệm cho người khác, thì mới có thể đề cao tầng thứ.

Sư phụ giảng:

“Nói thẳng ra, có thể đắc Pháp hay không, có thể tu đến rốt ráo hay không, [thì] can nhiễu của những người khác nhau là khác nhau, những phiền phức đều là do bản thân mình đã tạo trong quá khứ; ai cũng chớ có oán [trách]. ” (Trích Giảng Pháp tại Pháp hội Canada [2006])

Càng hướng nội tìm thì hướng ngoại oán trách càng ít. Hướng nội tìm vô điều kiện sẽ không còn hướng ngoại tìm, cũng tự nhiên không oán không hận.

Người xưa nói: Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế nhân quá. (Nghĩa là người tu đạo chân chính, không nhìn vào cái sai của người khác. Nếu thật sự làm được “bất kiến thế nhân quá”, chỉ tìm lỗi của bản thân, thì làm sao mà oán hận người khác được chứ?

Sư phụ giảng:

“Hễ có vấn đề hãy hướng nội mà tìm, đó là chỗ khác biệt căn bản giữa đệ tử Đại Pháp và người thường.” (Trích Gửi trạm phụ đạo Đại Pháp tỉnh Sơn Đông, Tinh tấn yếu chỉ)

Khi chúng ta oán hận, sẽ không hướng nội tìm; chúng ta đang oán trách điều gì, chính là vứt bỏ không được thứ ấy; chúng ta đang oán trách ai, thì là đang không tha thứ cho người đó. Tất cả đều là vấn đề của bản thân chúng ta, tìm ở bản thân còn chưa kịp mà lại oán trách người khác đó là không đạo lý.

6. Biến oán hận thành cảm ơn

Sở dĩ chúng ta oán hận người khác là bởi vì chúng ta đứng tại góc độ của người thường mà nhìn vấn đề, cảm thấy danh lợi tình của bản thân bị thương tổn. Đứng tại góc độ người tu luyện mà nhìn vấn đề, nếu không có người tạo ra mâu thuẫn, chúng ta hoàn toàn không thể phát hiện ra nhân tâm, chấp trước, ma tính của bản thân, cũng không thể đề cao lên được.

Nếu không có ai tạo ra thống khổ thì nghiệp lực của chúng ta không thể nào tiêu được. Vậy thì ốm đau, khổ nạn, tai họa,…nối tiếp nhau như hình với bóng, nguy cơ đầy rẫy. Nếu không có ai bắt nạt chúng ta, có nghĩa là không ai cấp đức cho chúng ta, không có đức, thì không có công, không có tầng thứ, không có quả vị. Nếu không có ai công kích chúng ta, không có mâu thuẫn, thì làm sao có thể đề cao tâm tính và viên mãn được đây?

Như vậy, tất cả những tổn thương chẳng phải để chúng ta ngộ, giúp sức, là những điều được ban tặng cho chúng ta sao? Chuyển biến quan niệm người thường, biến oán hận thành cảm ơn, là phương pháp tốt nhất để tu khứ oán hận.

Khi tâm oán hận khởi lên, thì không ngừng đọc thuộc lòng Pháp lý “nhất cử tứ đắc”, Pháp là thanh kiếm chém yêu ma, Pháp là linh đơn trừ ma, cho dù oán hận cứng như thép luyện trăm lần thì có Pháp cũng sẽ biến thành mềm. Học thuộc Pháp có tính nhắm thẳng một cách kiên trì bền bỉ chính là trừ bỏ ma tính, tăng cường Phật tính.

7. Tâm không ở hồng trần thì không còn oán hận

Chân tu không phải chỉ buông bỏ danh lợi bên ngoài, còn cần phải buông bỏ nhân tâm bên trong. Oán hận là tình của con người, làm cho người ta mê muội, si mê, lưu luyến hồng trần, trong lòng đầy ưu phiền, nếu tâm không tại cõi trần thì không có oán hận. Nếu ôm hận thì không thoát khỏi cái xác của con người, không thể thành thần.

Sư phụ giảng:

“Tôi tuyệt đối sẽ không có ân oán với con người. Chư vị nói tôi tốt, chư vị nói tôi xấu thì đều không động được tâm của tôi, do đó tôi có thể biết được tâm của chư vị.” (Trích Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên ở Trường Xuân [1998])

“Tất nhiên, tôi sẽ không bao giờ oán hận bất kỳ ai, tôi chỉ giảng Pháp lý cho tất cả mọi người, giảng một đạo lý này. Cho dù chư vị lăng mạ tôi, tôi cũng không oán chư vị, bởi vì tâm của tôi không ở trong người thường.” (Trích Giảng Pháp tại Pháp hội Australia [1999])

Nếu bạn coi mình là người tu luyện, là vị thần cao hơn người thường, tâm không tại cõi người, thì sẽ không oán người khác. Sư phụ giúp người, cứu người, thương xót con người, chưa bao giờ oán người khác, nếu chúng ta oán người khác, chúng ta sẽ hổ thẹn với sự dạy bảo của Sư phụ, thật hổ danh đồ đệ Đại Pháp.

8. Lời kết

Oán hận là gì? Oán hận là độc tố. Trong tâm oán hận thì sẽ đố kỵ; miệng chứa oán hận, lời nói hung ác làm tổn thương người khác. Người tu luyện cần mang tâm từ bi, lời nói thốt ra hoa sen, do vậy cần thanh trừ triệt để tâm oán hận.

Khi chúng ta ôm mối hận xưa trong lòng, thì chính là oán hận chất chứa ghen ghét dữ dội; khi chúng ta liên tục chỉ trích thì chính là tiếng oán hờn khắp nơi; khi chúng ta muốn nói người khác sai, thì là oán giận người khác; khi chúng ta “kén cá chọn canh”, yêu cầu người khác thế này thế nọ mới được, thì cần cảnh giác oán giận đang nhe nanh múa vuốt.

Oán hận ẩn núp trong tâm, oán hận quấn đầy thân. Nó nghĩ đủ mọi cách để theo sát chúng ta mọi lúc, trăm phương ngàn kế theo chúng ta khắp nơi, nó hy vọng chúng ta vĩnh viễn ôm hận, vậy mới có thể cung cấp năng lượng cho nó, nó mới có không gian sinh tồn, nó mới có thể kéo dài mạng sống.

Nó sợ bị phát hiện, bị thanh lý, cho nên sẽ phản kháng để không bị tiêu diệt. Do vậy, oán hận sẽ không tự biến mất, nó không cam tâm bị diệt trừ, chỉ khi chúng ta tích cực chủ động, cảnh giác oán hận mọi lúc mọi nơi, nắm bắt nó, thanh trừ nó, giải thể nó, nó mới không còn chỗ ẩn náu, dần dần bị thanh trừ hoàn toàn.

Oán hận là ác, làm tổn thương chính mình; oán giận là độc tố, làm tổn thương người khác; oán hận là tà sẽ chiêu mời ma. Người có oán hận sẽ ít từ bi, sẽ không được cứu độ; oán hận nhiều thì phiền não nhiều; oán cái không tốt của người khác, thì cũng tăng cái sai của bản thân; nếu tu khứ oán hận thì sẽ tự sinh thiện tâm; oán hận tiêu tan tâm mới vui vẻ.

Không oán hận thì mới có đức, không oán hận thì mới có thể siêu thoát. Con người có oán thì có khổ, Phật không oán nên Phật không ưu sầu. Buông bỏ oán hận, bỏ qua đúng sai, vứt bỏ tranh đấu, tha thứ cho người, dứt khỏi nhân tâm, như vậy thì bản thân mình mới có thể ung dung, hoàn thiện bản thân, thăng hoa tự mình. Buông bỏ oán hận, mới có đại tự tại, đại thanh tịnh, đại giải thoát.

Trên đây là hiểu biết nông cạn của cá nhân, xin đồng tu từ bi góp ý.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/271430

The post Hướng nội tìm, tu khứ tâm oán hận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tầm nhìn và nhận thứchttps://chanhkien.org/2022/10/tam-nhin-va-nhan-thuc.htmlFri, 14 Oct 2022 09:01:18 +0000https://chanhkien.org/?p=29170Tác giả: Lục Văn [ChanhKien.org] Cá nhân tôi cho rằng: tầm nhìn là phạm vi quan sát của con người, nhận thức (1) là tấm lòng rộng lượng của con người. Trên mạng có một cách so sánh: Nếu một công ty có 10 tầng, vậy thì tổng giám đốc ở tầng trên cùng, phó […]

The post Tầm nhìn và nhận thức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lục Văn

[ChanhKien.org]

Cá nhân tôi cho rằng: tầm nhìn là phạm vi quan sát của con người, nhận thức (1) là tấm lòng rộng lượng của con người.

Trên mạng có một cách so sánh: Nếu một công ty có 10 tầng, vậy thì tổng giám đốc ở tầng trên cùng, phó tổng giám đốc ở tầng tám, giám đốc ở tầng sáu, chủ quản ở tầng ba còn nhân viên ở tầng một. Ở độ cao khác nhau thì góc nhìn quan sát cũng khác nhau, phạm vi suy xét cũng khác nhau, kết quả tất nhiên khác nhau. Giám đốc cần bao quát toàn cục, ra sách lược; nhân viên chỉ cần theo đó mà làm, làm tốt việc của mình. Nếu nhân viên không chịu leo lên trên, cứ không muốn đứng ở tầng cao mà suy xét vấn đề, xử lý sự việc, vậy thì anh ta có thể vĩnh viễn ở mãi tầng một.

Tu luyện cũng giống như vậy. Sư phụ đứng trên đỉnh của thương khung vũ trụ, chính Thiên Pháp cứu độ chúng sinh. Đệ tử Đại Pháp là đệ tử của Phật Chủ, tu Đại Pháp của vũ trụ. Nhưng trong quá trình thực tu, có lúc chúng ta không đứng tại giác độ chính Pháp và cứu chúng sinh của Sư phụ để xem xét vấn đề, mà cố chấp vào được mất cá nhân. Như vậy là tự mình bó buộc trong cái khung nhỏ hẹp, không thể nhảy ra khỏi cái lợi cái hại của người thường, cũng không thể nhảy ra khỏi tự tư tự ngã, không thể nghĩ đến tiên tha hậu ngã, càng không thể đạt được vô tư vô ngã.

Ví dụ: vấn đề tiêm vắc xin. Có người kiên quyết không tiêm, sợ bản thân phạm sai lầm, sợ không thể viên mãn, sợ việc tu luyện của mình phí công vô ích.

Đứng từ góc độ cá nhân: Không tiêm vắc xin thì dường như là biểu hiện của tín tâm kiên định. Kỳ thực chủ yếu vẫn là tính toán nhỏ nhặt của bản thân, cân đo lợi hại, được mất cá nhân: Nếu đây là khảo nghiệm tín Sư tín Pháp, nếu tôi không vượt qua được, tôi có bị rớt tầng thứ không? Nếu đây là bài thi cuối cùng tiến về viên mãn, nếu tôi trượt ngã, tôi có bị huỷ diệt đến đáy không? Cho dù suy nghĩ thế nào cũng vẫn là chữ “tôi” đứng ở đầu, vẫn là cảnh giới tầng thấp của cá nhân, tầng thứ của người thường.

Đứng từ góc độ chúng sinh: Chúng ta là sứ giả của Thần, có trách nhiệm cứu độ chúng sinh. Sự việc hôm nay mặc kệ nó là gì, nếu chúng ta chỉ có một cái tâm vì người khác (vị tha), chỉ có một cái tâm cứu người, vậy thì tự nhiên không có gì phải lo lắng. Khi chúng ta ôm giữ hồng nguyện chính vũ trụ cứu chúng sinh, thì sinh mệnh, được mất và sự viên mãn của bản thân thực sự nhẹ như lông hồng. Có bao nhiêu chúng sinh trong tâm thì cảnh giới nhận thức khoáng đạt bấy nhiêu, con đường đi rộng rãi thênh thang bấy nhiêu, đây chính là cảnh giới cao nhất của việc quên đi tự ngã và là tầng thứ của người tu luyện.

Đứng tại góc độ của Sư phụ: Sư phụ đã ban cho chúng ta thân thể kim cương, ban cho chúng ta công lực Phật Pháp thần thông. Kim Chung Tráo, Thiết Bố Sam của người tu luyện hoàn toàn có thể ngăn chặn hết thảy tà ma loạn quỷ. Không tồn tại bất cứ vấn đề nhiễm vi rút hay hậu di chứng nào. Trí huệ và Pháp lực mà Sư phụ ban đã nhào nặn chúng ta thành những vị Thần trong người thường. Ngài muốn thành tựu nên những đệ tử Đại Pháp có thể chuyên tâm trợ Sư chính Pháp, ôm giữ nguyện ước cứu chúng sinh, là Vương của vũ trụ mới. Ngài trông đợi chúng ta sớm đạt được cảnh giới cao tầng vô ngã, cảnh giới của Thần.

Tất nhiên, trong tu luyện phải cam tâm tình nguyện từng chút một buông bỏ tự ngã, đề cao tâm tính, không ngừng vươn lên cao, mới có thể nhìn thấy nhiều chân tướng vũ trụ hơn, ngộ được nhiều chân lý vũ trụ hơn, mới có thể minh bạch được nhiều thiên cơ hơn.

Nghê Khoan đời Hán viết: “Đại trượng phu lấy thiên hạ làm trách nhiệm của bản thân, anh hùng chân chính mong muốn vạn thế thái bình”; Lâm Tắc Từ đời Thanh viết “Cẩu lợi quốc gia sinh tử dĩ, khởi nhân hoạ phúc tị xu chi” (Dịch nghĩa: Chỉ cần có lợi cho quốc gia thì sá gì chuyện sinh tử, sao lại có thể vì họa phúc của cá nhân mà trách né) Nếu một sinh mệnh có thể thật sự xem thiên hạ là trách nhiệm của mình, vậy thì được mất, vinh nhục của bản thân cũng thực sự nhỏ không đáng kể. Đây chính là tầm nhìn cao, nhận thức cao.

Khi tu luyện gặp nút thắt, khi mâu thuẫn trùng trùng, khi đường đi không thông, có thể là do tầm nhìn của chúng ta hạn hẹp, nhận thức chật hẹp. Thử thay đổi một giác độ khác, thay đổi phương hướng, mở rộng nhận thức. Đứng từ góc độ của Sư phụ, góc độ Chính Pháp, góc độ cứu chúng sinh mà suy xét. Trong tu luyện Chính Pháp, kỳ thực khi cứ quanh quẩn với tự ngã: tôi phải kiên định, tôi phải viên mãn, thì không phải là chân lý đại Đạo. Viên dung theo yêu cầu của Sư phụ, làm tốt những việc Sư phụ bảo làm, mới là đi con đường chân chính trong tu luyện.

Tạ Đạo Uẩn là cháu gái của tể tướng Tạ An triều Đông Tấn, con gái của An Tây tướng quân Tạ Dịch. Khi còn nhỏ, một lần bà đang chơi cùng các anh chị em, đột nhiên có tuyết rơi, Tạ An vui mừng chỉ vào những bông tuyết bay hỏi những đứa trẻ: “Bạch tuyết phân phân hà sở tự?” (dịch nghĩa: Tuyết trắng lất phất tựa điều chi?” Cháu Tạ Lang trả lời trước: “Tát diêm không trung soa khả nghĩ” (dịch nghĩa: Tựa như rắc muối trong không trung.”. Tạ Lang so sánh những bông tuyết trắng với muối, hình tượng cụ thể rất chuẩn xác, nhưng chỉ là cách nói ví von thay tuyết với muối, lấy vật thay vật. Còn Đạo Uẩn viết: “Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi” (dịch nghĩa: khác chi tơ liễu theo gió bay) Hoa tuyết không phải là thực vật, không có sinh mệnh, nhưng Đạo Uẩn ví hoa tuyết với tơ liễu, ban cho hoa tuyết một sinh mệnh, vượt khỏi thế giới sự vật. Hoa tuyết bay trong trời đông, còn tơ liễu bay trong trời xuân, như vậy vượt qua cả thời gian. Có thể thấy tầm nhìn và nhận thức của bà từ nhỏ đã vượt khỏi người bình thường.

Mỗi đệ tử Đại Pháp về bản tính đều có tầm nhìn và nhận thức cao, chỉ là bị chôn vùi trong con người quá lâu và quá sâu, nên mới bị nhân tâm tự ngã khống chế. Nhưng khi chúng ta chân tu thực tu gia cường chính niệm, đề cao tâm tính, phản bổn quy chân, chính là quay trở về với tầm nhìn cao xa hơn và nhận thức rộng mở hơn.

Một chút thiển kiến, mong các đồng tu từ bi chỉ chính.

Ghi chú:

(1) Cách cục: phạm vi nhận thức đối với sự vật, trong bài này dịch là nhận thức.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/273218

The post Tầm nhìn và nhận thức first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện tuỳ bút: Cảm ơnhttps://chanhkien.org/2022/09/tu-luyen-tuy-but-cam-on.htmlWed, 28 Sep 2022 02:51:35 +0000https://chanhkien.org/?p=29132[ChanhKien.org] Hai chữ “cảm ơn” này là một sự công nhận và cảm ân về những gì người khác đã làm cho mình, là một loại hình thức báo đáp người khác về mặt ngôn ngữ. Mỗi khi tôi chân thành nói tiếng “cảm ơn” ai đó, mỗi khi tôi dùng máy tính gõ chữ […]

The post Tu luyện tuỳ bút: Cảm ơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Hai chữ “cảm ơn” này là một sự công nhận và cảm ân về những gì người khác đã làm cho mình, là một loại hình thức báo đáp người khác về mặt ngôn ngữ.

Mỗi khi tôi chân thành nói tiếng “cảm ơn” ai đó, mỗi khi tôi dùng máy tính gõ chữ “cảm ơn” gửi cho ai đó, hoặc khi giao tiếp bằng điện thoại và dùng ngón tay viết chữ “cảm ơn”, thì tôi luôn cảm thấy ấm áp, trong lòng tràn ngập niềm vui và sự biết ơn.

Nếu như nói ngôn ngữ có màu sắc, thì tôi nghĩ chữ “cảm ơn” này nhất định là một gam màu cam ấm áp dịu mắt, nó giống như ánh lửa toả ra từ lò sưởi đêm đông khiến người ta thấy ấm cúng và yên bình.

Quá khứ, dân tộc Trung Hoa đã từng là những người biết đủ mà biết cảm ân, biết ơn trời xanh vô tư ban tặng vạn vật, ghi nhớ công ơn nuôi dưỡng dạy dỗ của cha mẹ, cảm ơn ơn tri ngộ bầu bạn của người vợ (hoặc chồng), cảm ơn sự giúp đỡ từ bè bạn.

Từ khi tà đảng bắt đầu thống trị đến nay, nó đã dốc hết sức để tuyên truyền cái gọi là thù hận giai cấp, khiến người ta quả thực là hận trời hận đất hận cả người trong gia đình, tạo thành thù hận đầy người, đến mức đánh chết rồi vẫn phải dẫm đạp lên thi thể họ mới được giải hận, tà đảng đã gieo mầm hận lên tinh thần người dân Trung Quốc. Người Trung Quốc hiện đại lớn lên trong môi trường giáo dục và tuyên truyền loại này đã hoàn toàn không ý thức được vấn đề “hận” nữa rồi.

Chúng ta là những người tu luyện Đại Pháp, trong tâm có thù hận là điều đại kỵ. Vậy chúng ta phải dùng tâm thái gì để đối đãi với những người đã làm tổn thương chúng ta? Trong sách Chuyển Pháp Luân Sư tôn có dạy rằng: “Chư vị không những không giống hắn mà tranh mà đấu, mà trong tâm chư vị phải không hận hắn, thật sự không thể hận hắn. Một khi chư vị hận hắn, thì chẳng phải chư vị tức giận là gì? Chư vị chưa thực hiện được ‘Nhẫn’. Chúng tôi giảng Chân Thiện Nhẫn; ‘Thiện’ của chư vị cũng chẳng còn có nữa. Do đó chư vị không thể theo giống như hắn, chư vị thật sự không thể tức giận hắn, ngay cả khi hắn làm chư vị rất mất mặt, không cất đầu lên được. Chư vị không những không tức giận hắn, mà trong tâm chư vị còn nên cảm ơn hắn, thật sự cảm ơn hắn”. Tôi ngộ được rằng người tu luyện chúng ta cần dùng sự cảm ơn thay cho tâm oán hận.

Khi gặp khổ nạn hãy nói cảm ơn; khi bị tổn thương hãy nói cảm ơn; khi chịu ấm ức hãy nói cảm ơn; khi bị hiểu lầm hãy nói cảm ơn. Trước tất cả những người và việc làm ta thấy không vui đều nói lời “cảm ơn” với tâm thái tràn đầy lòng biết ơn.

Tôi nhớ đã từng đọc một bài viết của một đồng tu đăng trên Minh Huệ Net, nói rằng khi đồng tu ấy bị tà đảng bức hại anh đã hướng nội tìm, phát hiện rằng bản thân anh chưa tu bỏ tâm oán hận là nguyên nhân khiến anh bị bức hại lần này, và anh quyết tâm tu bỏ nó. Trong khi bị bức hại, anh đã nói “cảm ơn” với mỗi người mà mình gặp, bất kể họ có đối với anh như thế nào anh đều mỉm cười nói lời “cảm ơn” một cách chân thành. Không lâu sau tâm oán hận của anh đã bị hai tiếng “cảm ơn” làm tiêu mất hoàn toàn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/271294

The post Tu luyện tuỳ bút: Cảm ơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiển đàm về “Lai khứ nhất thân quang” (“khi tới thân trống trơn, khi đi thân trơn trống”)https://chanhkien.org/2022/08/thien-dam-ve-lai-khu-nhat-than-quang-khi-toi-than-trong-tron-khi-di-than-tron-trong.htmlMon, 22 Aug 2022 07:52:49 +0000https://chanhkien.org/?p=29026Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục [ChanhKien.org] Vào những năm đầu tu luyện Đại Pháp, tôi cảm thấy việc buông bỏ chấp trước vào tiền tài rất dễ dàng, chứ không tốn nhiều công sức như hiện nay. Tôi đã từng không động tâm ngay cả khi bị mất thứ gì đó, […]

The post Thiển đàm về “Lai khứ nhất thân quang” (“khi tới thân trống trơn, khi đi thân trơn trống”) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại Lục

[ChanhKien.org]

Vào những năm đầu tu luyện Đại Pháp, tôi cảm thấy việc buông bỏ chấp trước vào tiền tài rất dễ dàng, chứ không tốn nhiều công sức như hiện nay. Tôi đã từng không động tâm ngay cả khi bị mất thứ gì đó, dường như tôi đã có thể buông bỏ mọi thứ. Thỉnh thoảng, khi điểm tài liệu cần tiền, tôi có thể phó xuất hàng trăm hàng nghìn nhân dân tệ. Nhưng hiện giờ không như vậy, tôi thường do dự có nên phó xuất hay không. Hồi đó, mỗi ngày, tôi thường học hai bài giảng, ngày nhiều nhất là bốn bài giảng, và luyện công hai lần tất cả các bài. Tôi cảm thấy trạng thái tinh thần rất tốt, có bước đột phá mạnh mẽ, dường như không gì có thể ngăn trở. Một lòng tôi nguyện theo Sư phụ trở về nhà.

Tuy nhiên, vài năm gần đây, tôi cảm thấy bản thân đề cao rất chậm. Mỗi ngày, tôi học một bài giảng, hiếm khi học được hai bài. Việc buông bỏ chấp trước cũng rất khó khăn. Lấy chấp trước vào lợi ích làm ví dụ. Dần dần tôi ngày càng coi trọng tiền bạc, và mong muốn tiết kiệm được nhiều hơn nữa. Khi mua bất cứ thứ gì tôi cân nhắc nhiều hơn trước đây, và luôn muốn tiết kiệm nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Tôi nộp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Khi xem tin nhắn của công ty bảo hiểm, tôi nghĩ: “Ồ, bây giờ mình đã đạt mức 30.000 nhân dân tệ, nhưng nó sẽ tăng lên thành 50.000, rồi thành 100.000 nhân dân tệ vào cuối năm sau”.

Khi ra chợ mua rau, tôi luôn tìm chọn những đồ rẻ hơn. Một lần, tôi mua được rất nhiều dưa chuột và ớt chuông với giá chỉ 2 nhân dân tệ, đủ dùng trong vài ngày và tôi cảm thấy rất hài lòng. Lần sau đi chợ, tôi lại cố gắng tìm món hời như vậy. Đôi khi, người bán đòi giá cao hơn, tôi lại nghi ngờ rằng liệu mình có bị mua hớ hay không. Tôi đã cách rất xa so với trạng thái tu luyện tinh tấn như thuở ban đầu và nhận ra rằng mình đã rớt xuống. Mang nhiều nhân tâm, khi ngồi đả tọa, tôi không thể tĩnh lại được, và đôi lúc còn phiền não một cách vô duyên vô cớ.

Sau khi Sư phụ công bố kinh văn Hãy tỉnh, tôi cảm thấy có áp lực. Dường như Ngài đang cảnh tỉnh các đệ tử: Bây giờ là lúc nào rồi? Chư vị còn chưa tỉnh ra ư? Tôi thể ngộ rằng, chúng ta đang ở thời khắc then chốt nhất của lịch sử, mỗi giây mỗi phút đều là cơ hội cuối cùng để tu luyện và thành thục bản thân.

Hôm qua, tôi đến nhà của một đồng tu. Cô ấy kể: “Tôi có một giấc mơ, anh có thể giúp tôi lý giải nó được không? Trong giấc mơ, tôi thấy những người thân quá cố của mình, tất cả đều không mặc gì. Mặc dù người ở không gian đó đều như vậy, nhưng tôi không hề cảm thấy có điểm gì không tốt khi chứng kiến cảnh đó. Anh nghĩ điều ấy có ý nghĩa gì?” Tôi đáp: “Khi đến thân trống trơn, khi đi thân trơn trống, đó là điểm hóa, khích lệ chị phóng hạ những chấp trước nhân tâm. Gần đây chị đã vượt quan không tốt đúng không?”

Tuy nhiên, ngay sau khi nói xong, tôi chợt nhớ ra mình cũng có một giấc mơ tương tự vào hai ngày trước, nhưng lúc đó tôi không nghĩ gì nhiều. Trong mơ, tôi đã thấy mẹ vợ quá cố của mình. Bà cũng không mặc gì, quay lưng về phía tôi và tựa người vào một chiếc xe đạp. Khi đồng tu kể về giấc mơ của cô ấy, tôi đột nhiên hiểu ra rằng: Kỳ thực, Sư phụ đã điểm hóa cho tôi:

“Người thường có câu rằng: khi sinh chẳng mang tới, khi chết chẳng mang theo; khi tới thân trống trơn, khi đi thân trơn trống” (Chương III: Tu luyện tâm tính, Pháp Luân Công)

Giấc mơ này nhắc nhở tôi tiếp thụ bài học giáo huấn, chớ để mình giống như mẹ vợ. Khi còn tại thế, thời kỳ đầu, bà từng rất tinh tấn. Mỗi lần tôi đến thăm đều thấy bà đang học Pháp hoặc luyện công. Bà thường hối thúc tôi: “Đừng quá coi trọng tiền bạc, chúng đều vô dụng, hãy tu luyện cho tốt. Con nhất định phải theo Sư phụ trở về”. Tôi đã từng coi bà như thượng sỹ văn Đạo, ngộ tính tốt, và là người có thể tu luyện đến cùng.

Tuy nhiên, vì nguyên nhân này khác, bà dần dần giải đãi trong tu luyện khi đối mặt với quan nghiệp bệnh, giống như một chiếc xe trên đường cao tốc lao chệch lên vỉa hè, càng ngày càng chậm. Mỗi lần tôi đến, bà đều hỏi tôi: “Khi nào thì mẹ mới khỏe hơn?” Tôi trả lời: “Khi nào mẹ tu luyện tinh tấn thì ngay lập tức mẹ sẽ thấy tốt hơn”. Bà không muốn nghe tôi nói. Bà đáp: “Ai chẳng biết rằng người tu luyện cần tinh tấn chứ? Mẹ sẽ tinh tấn sau khi mẹ khỏe lại”.

Tuy nhiên, tôi thấy rằng bởi vì bà học Pháp ít nên nhân tâm nổi lên như cỏ dại. Những trao đổi dựa trên Pháp ngày càng ít đi. Bà bắt đầu hỏi tôi những điều của người thường, chẳng hạn như: “Cháu ngoại ta thế nào rồi? Tại sao nó không đến thăm ta?” “Bây giờ nó đang làm gì vậy?” Nếu tôi không trả lời, bà sẽ khó chịu. Bà trở nên khó tính trong việc tiết kiệm tiền. Mẹ vợ tôi có một khoản tiết kiệm. Khi còn tinh tấn, bà không chấp trước vào nó, và thường nói với tôi: “Buông bỏ tiền tài, buông bỏ mới có thể rời đi”. Vậy nhưng, trong quan nghiệp bệnh, tôi thấy tâm lợi ích của bà rất nặng, bà thường hỏi chồng: “Còn bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm?” Bố vợ tôi trả lời: “Vẫn y nguyên. Chúng ta chưa tiêu chút gì cả”. Mỗi khi nghe vậy, mẹ vợ tôi lại cảm thấy vui mừng nhẹ nhõm.

Khi một người tu luyện ở trong trạng thái này, nhân tâm sẽ chiếm thế thượng phong. Cựu thế lực sẽ gia tăng bức hại, làm cho bạn mắc kẹt ở trong trạng thái ấy mà không thể thoát ra, thân thể bạn sẽ ngày một trở nên tồi tệ. Đó là những gì mẹ vợ tôi đã trải qua, và khi mất, bà không mang theo được bất cứ thứ gì nơi thế gian con người. Những gì còn lại chỉ là sự hối hận. Chỉ có cách đột phá và thúc đẩy bản thân khôi phục trạng thái tu luyện “như thuở đầu” thì mới có thể thoát khỏi hoàn cảnh khốn cùng. Nhưng nhiều người lại bỏ qua điểm then chốt này.

Thông qua giấc mơ, Sư phụ đã điểm hóa, thức tỉnh tôi, để tôi có thể nhanh chóng tu khứ nhân tâm, không chỉ là vấn đề tiền tài mà bất kể tâm gì cũng đều như vậy.

Sư phụ giảng:

“Mọi người bất kể có bao nhiêu tiền, có chức vị lớn đến mấy, cuộc sống an nhàn đến mấy, chư vị [cũng] không mang theo được gì. Khi đến trắng tay, khi đi cũng không mang được gì theo, duy nhất có thể mang được chính là những thứ đắc được trong tu luyện của người ta, bởi vì nó trực tiếp ở trên chân thể của con người.” (Giảng Pháp tại Pháp hội New Zealand [1999])

Tôi hướng nội và thấy tâm lợi ích của bản thân vẫn còn quá nặng. Thỉnh thoảng, khi cảm thấy phiền não hoặc lo lắng, tôi sẽ hướng nội và luôn tìm thấy vấn đề nào đó liên quan đến tiền. Ví như, có lần một người bạn nhờ tôi lấy xe chuyển đồ. Tôi cảm thấy bất công khi phải tự bỏ tiền xăng. Lần khác, có người tặng tôi vài chiếc tủ nhỏ và ghế sô-pha, nhưng sau đó một đồng tu khác lại muốn lấy tất cả những đồ đạc đó, và tôi cần tìm một chiếc xe để chuyển chúng cho anh ấy. Tôi cảm thấy có chút không thoải mái. Một lần, tôi tặng vài bộ quần áo gần như mới nguyên cho một người họ hàng nhưng khi họ tỏ vẻ không ưng ý, tôi lại cảm thấy tiếc vì đã đem cho. Có lần, vợ tôi nói rằng: “Em cần tiền để mua vài bộ đồ tốt”. Tôi ngay lập tức trả lời như bị điện giật: “Chẳng phải em cũng có lương sao? Tại sao em không dùng tiền của mình?” Có hằng bao nhiêu chấp trước trong lời nói ấy của tôi? Tôi thấy rằng biểu hiện của một người có thể đặt người khác lên trước hay không, người đó ích kỷ đến mức nào được thể hiện rõ nhất khi họ đối đãi với người thân.

Sau khi nhận được điểm hóa của Sư phụ qua giấc mơ, và thông qua chia sẻ với đồng tu, tôi cảm thấy tư tưởng của bản thân bỗng chốc được đề cao lên rất nhiều. Tôi nhận ra tâm lợi ích, tâm hiển thị, tâm tranh đấu, tâm bất bình, tâm sắc dục,… trong lúc vô ý bỗng chốc nảy sinh rất nhiều. Tôi liền phát chính niệm triệt để thanh trừ chúng. Sau đó, tôi liên tưởng đến bài hát “Trân quý” do đồng tu sáng tác. Ca từ của bài hát ấy đã chạm đến tâm tôi:

“Xuân hoa thu nguyệt làm người say
Truy danh trục lợi không biết mệt
Vinh hoa phú quý quay đầu chẳng còn gì
Một đời tranh đấu để cho ai
Trân quý cơ duyên lên thuyền cứu độ
Sạch bong vọng niệm, trở về trời…”

Đúng là như vậy, thời khắc “trở về trời” đã đến, vậy chúng ta còn gì mà không buông bỏ được? Tôi chỉ mong muốn vứt bỏ hết thảy các chấp trước. Không còn nhiều cơ hội nữa, chúng ta chỉ có thể tu luyện tinh tấn, tinh tấn hơn nữa mới có thể không phụ sự kỳ vọng của Sư phụ, không để lại những hối tiếc sau này.

Trên đây là những thể ngộ của bản thân tại tầng thứ hiện tại.

Dịch từ:

https://big5.zhengjian.org/node/272414

https://www.pureinsight.org/node/7725

The post Thiển đàm về “Lai khứ nhất thân quang” (“khi tới thân trống trơn, khi đi thân trơn trống”) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khải thị từ câu chuyện cổhttps://chanhkien.org/2022/08/khai-thi-tu-cau-chuyen-co.htmlSun, 21 Aug 2022 03:04:47 +0000https://chanhkien.org/?p=29024Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Trong tập truyện cổ Grimm có một câu chuyện tên là Cái đinh như sau: Có một thương nhân ở phiên chợ nọ buôn bán rất đắt khách, hàng hoá được bán hết sạch và túi tiền của anh đã đầy ắp. Anh muốn về tới […]

The post Khải thị từ câu chuyện cổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Trong tập truyện cổ Grimm có một câu chuyện tên là Cái đinh như sau:

Có một thương nhân ở phiên chợ nọ buôn bán rất đắt khách, hàng hoá được bán hết sạch và túi tiền của anh đã đầy ắp. Anh muốn về tới nhà trước khi trời tối, bèn cột túi tiền lên lưng con ngựa rồi lên đường.

Đến trưa, anh dừng chân nghỉ ngơi một lát trong thành phố. Khi anh định đi tiếp thì người đầy tớ dắt ngựa đến báo: “Thưa ông, một cái đinh của móng ngựa ở chân trái sau đã rơi mất rồi”. Người thương nhân trả lời: “Cứ để nó đi, cái móng sẽ chẳng bị long ra đâu, ta phải về nhà trước khi trời tối, ta đương muốn mau chóng lên đường đây”.

Đến chiều người thương nhân lại bảo anh đầy tớ cho ngựa ăn, anh ta đi vào phòng bẩm: “Thưa ông, cái móng ở chân trái sau của con ngựa đã bị long mất rồi, hãy để tôi mang nó tới chỗ thợ rèn”. Người thương nhân đáp: “Cứ để nó đi! Chỉ còn vài dặm nữa thôi, con ngựa này còn đi được, ta phải về nhà gấp”.

Người thương nhân cưỡi ngựa đi tiếp, nhưng chẳng bao lâu con ngựa bắt đầu bước khập khiễng, một lúc sau nó bắt đầu loạng choạng, cuối cùng ngã khuỵu xuống đất và bị gãy chân. Người thương nhân đành phải xuống ngựa, dỡ túi tiền trên lưng nó xuống rồi đi bộ về nhà. Mãi đến khuya mới về được đến nhà. Anh này bực dọc nói: “Xúi quẩy thật! Cũng tại cái đinh chết tiệt này”.

Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến sự tu luyện của các đệ tử Đại Pháp, trong lúc bận rộn đồng thời làm tốt ba việc chúng ta cũng không thể xem nhẹ việc tống khứ các tâm chấp trước và đề cao tâm tính của bản thân. Nếu không, các tâm chấp trước sẽ bành trướng lên và phát triển khi chúng ta buông lơi, thậm chí chúng còn ảnh hưởng đến ba việc. Giống như người thương nhân trong câu chuyện cho rằng thời gian cấp bách, chiếc đinh của cái móng ngựa bị rơi mất cũng chẳng sao, kết quả là một chút “thiếu sót” ấy ngày càng lớn, cuối cùng ảnh hưởng tới cả hành trình. Chỗ khác biệt ở đây là phải mất thời gian đóng thêm đinh vào cái móng ngựa, còn việc tống khứ chấp trước không tốn quá nhiều thời gian, chỉ cần trong tư tưởng xem trọng việc trừ bỏ chấp trước là đủ.

Tôi có thể hội rằng, khi cái vật chất chấp trước ấy được loại bỏ đi rồi thì trong tâm đột nhiên có một cảm giác sáng tỏ thông suốt. Khi cảnh giới được đề cao thì nội tâm càng thuần tịnh hơn, tư tưởng càng khoáng đãng hơn, trí huệ cũng ào ào tuôn như suối chảy, vì vậy ba việc cũng làm được tốt hơn. Không những không mất thời gian mà còn làm được “sự bán công bội” (làm ít mà thành công nhiều)!

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/4489

https://www.zhengjian.org/node/42683

The post Khải thị từ câu chuyện cổ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Quên đi viên mãnhttps://chanhkien.org/2022/08/quen-di-vien-man.htmlMon, 15 Aug 2022 08:22:24 +0000https://chanhkien.org/?p=28971Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Tôi đã từng xem một câu chuyện tu Đạo, đại ý như thế này: Có một người tu Đạo tên là Khả Huyền tu hành tại một đạo quán trên núi, mỗi ngày ông đều xuống núi giúp người qua đường khiêng vác […]

The post Quên đi viên mãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Tôi đã từng xem một câu chuyện tu Đạo, đại ý như thế này:

Có một người tu Đạo tên là Khả Huyền tu hành tại một đạo quán trên núi, mỗi ngày ông đều xuống núi giúp người qua đường khiêng vác đồ đạc sang bên kia núi, đường núi gồ ghề hiểm trở, mỗi lần như vậy đều rất vất vả. Ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, thoáng chốc đã 20 năm trôi qua. Một ngày kia Khả Huyền nghĩ: “Mình tu hành đã 20 năm rồi, nên viên mãn rồi chăng?” Ông vừa nghĩ vừa đi xuống núi thì gặp một ông lão đang gánh đồ đạc qua núi. Khả Huyền bước đến, đón lấy gánh đồ đạc của ông lão cõng trên vai. Ông lão vừa đi vừa hỏi: “Anh tên gì?” “Tôi tên Khả Huyền”. Đi được vài bước ông lại hỏi: “Anh tên là gì thế?” “Tôi tên Khả Huyền”. Ông lão bước được mấy bước lại hỏi lần nữa, khi này, Khả Huyền Đạo nhân đã đi đến lưng chừng núi, cảm thấy gánh hành lý càng ngày càng nặng, mồ hôi ướt đẫm cả mặt, hơi thở hổn hển. Khi ấy ông lão vẫn liên tục hỏi: “Anh tên là gì vậy?” Lúc này Khả Huyền Đạo nhân đã mệt đến mức hoa mắt, bước đi khó nhọc, còn ông lão vẫn luôn miệng hỏi như cũ, Đạo nhân hét lớn: “Khả Huyền Khả Huyền Khả Huyền! Ông đã nghe rõ chưa? Tôi tên là Khả Huyền!”

Ông lão thấy Khả Huyền đã nổi giận bèn nói: “À, cậu tên là Khả Huyền? Tai ta bị lãng, lần này mới nghe rõ”. Đột nhiên, Khả Huyền Đạo nhân cảm thấy gánh hành lý trên vai nhẹ hơn, vừa quay đầu lại thì đã không còn thấy ông lão cùng gánh hành lý trên vai nữa. Khi này có một mảnh giấy từ trên đầu ông bay xuống, trên đó có bốn câu thơ:

Khả Huyền Khả Huyền chân khả liên,

Nhất tâm tu Đạo tưởng viên mãn;

Túng nhiên cật tẫn thế gian khổ,

Thử tâm bất khứ nan thành tiên.

Tạm dịch:

Khả Huyền Khả Huyền thật đáng thương,

Một lòng tu Đạo muốn viên mãn;

Dù rằng chịu hết khổ thế gian,

Tâm ấy không bỏ khó thành tiên.

Khả Huyền cảm thấy rất hối hận: lần này gặp được Thần Tiên, nhưng lại không qua được khảo nghiệm.

Qua chín năm nữa, trong lòng Khả Huyền nghĩ: “Cảnh giới của ta đã khác xa trước, cảm thấy rất thành thục rồi, nên chăng là viên mãn?” Ông nghĩ như vậy, lại đi từ trên núi xuống. Lúc này ông nhìn thấy một bà lão chống gậy đi lên núi, ông đón lấy cái túi của bà lão rồi tiếp tục đi lên phía trước. Lúc này bà lão hỏi: “Cháu tên là gì?” “Cháu tên Khả Huyền”. Trong lòng Khả Huyền vô cùng kinh ngạc: “Phải chăng ta gặp được Thần Tiên rồi? Lần này ta sẽ làm được tốt”. Thế nhưng bà lão chỉ hỏi qua vài lần rồi không hỏi nữa. Khả Huyền đang đi đang đi, thấy phía sau không có động tĩnh gì, quay đầu nhìn lại thì không thấy bà lão đâu nữa, lại nhìn cái túi trong tay, chỉ thấy một mảnh giấy, trên mảnh giấy có bốn câu thơ:

Khả Huyền Khả Huyền chân khả huyền (1),

Đa thiểu phó xuất vi viên mãn;

Túng nhiên cật tẫn thế thượng khổ,

Thử niệm bất khứ nan thành tiên.

Tạm dịch:

Khả Huyền Khả Huyền thật mơ hồ,

Bao nhiêu phó xuất vì viên mãn;

Dù rằng chịu hết khổ thế gian,

Tâm ấy không bỏ khó thành tiên.

Khi đọc thầm bốn câu thơ này, Khả Huyền hồi tưởng lại con đường mình đã đi qua, ông dường như ngộ ra hết thảy. Từ đó ông không nghĩ đến chuyện viên mãn nữa, mỗi ngày trừ việc đọc sách và đả toạ ra, thời gian còn lại ông đều xuống núi giúp người qua đường khiêng vác đồ đạc. Mỗi lần giúp người ông đều xem việc của họ như việc của mình, thành tâm phó xuất, không cầu bất kỳ báo đáp nào. Mỗi khi đưa người qua núi, trong lòng ông đều có cảm giác thanh thản thế này: ông thấy mình nên trở thành sinh mệnh như thế, nên nghĩ cho người khác, chứ không phải vì để viên mãn.

Qua hai năm nữa thì Khả Huyền viên tịch. Đồ đệ cùng đồ tôn (2) của Khả Huyền đã thay ông tiếp tục năm này qua năm khác đưa người qua núi. Nhưng những khách qua đường đều nói rằng: “Trong những người tu luyện trên núi này, chỉ có Khả Huyền mới là Thần Tiên thực sự”.

Khi nhớ lại câu chuyện của Khả Huyền, tôi cũng nhớ lại nhận thức của mình đối với viên mãn: Trước đây khi đọc những đoạn Pháp của Sư phụ về phương diện này như “thời gian không còn nhiều”, “sắp kết thúc rồi”, tôi chỉ lý giải được là cần “cứu nhiều người, hoặc là nhanh chóng đạt đến tiêu chuẩn viên mãn, không được để rớt lại phía sau”. Kỳ thực còn có một tầng nội hàm thâm sâu hơn mà tôi chưa ngộ đến, đó chính là “không được chấp trước vào thời gian và viên mãn”. Từ năm 2011 đến nay Sư phụ đã nhiều lần đề cập đến “thời gian không còn nhiều, sắp kết thúc rồi”, đặc biệt là trong kinh văn Giảng Pháp ở Pháp hội tại Vùng đô thị New York năm 2013, Sư phụ có giảng: “Thời gian thật sự là không nhiều quá đâu, nói kết thúc liền kết thúc, bước tiếp theo nói đến liền đến”. Thiển ngộ của tôi là: Pháp mà Sư phụ trong những năm đó giảng liên quan đến “thời gian không nhiều” chính là để chúng ta buông bỏ chấp trước vào thời gian và viên mãn, là để chúng ta quên đi viên mãn. Nếu như trong tâm chúng ta vẫn thường nghĩ đến “Khi nào thì kết thúc? Năm nay? Năm sau? Vài tháng nữa?”, như thế chẳng phải chúng ta cũng hệt như Khả Huyền sao?

Trên đây là một chút thiển ngộ, có gì không đúng xin các đồng tu từ bi chỉ rõ.

Chú thích: (của người dịch)

(1) Chữ “khả huyền” (可悬) được dùng trong cách chơi chữ với tên gọi của Khả Huyền (可玄) cùng một âm đọc, ngụ ý rằng: ý niệm về tu luyện và viên mãn của Khả Huyền thực sự còn rất mông lung, huyền hoặc.

(2) Đồ đệ của đồ đệ thì gọi là “đồ tôn”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/120007

The post Quên đi viên mãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phật Pháp, đạo đức, ngũ hành và khoa họchttps://chanhkien.org/2022/06/phat-phap-dao-duc-ngu-hanh-va-khoa-hoc.htmlSun, 19 Jun 2022 00:16:40 +0000https://chanhkien.org/?p=28687Thể hội tu luyện và thảo luận với các chuyên gia, học giả Tác giả: Lân Lân [ChanhKien.org] Lão Tử đã nói trong Đạo Đức Kinh rằng: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. […]

The post Phật Pháp, đạo đức, ngũ hành và khoa học first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thể hội tu luyện và thảo luận với các chuyên gia, học giả

Tác giả: Lân Lân

[ChanhKien.org]

Lão Tử đã nói trong Đạo Đức Kinh rằng: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo” (dịch nghĩa: Có một vật hình thành từ trong hỗn độn, nó đã tồn tại trước cả khi thiên địa hình thành. Nó không có tiếng, không có hình, tịch mịch hư không, nó độc lập và bất biến vĩnh hằng; chuyển động tuần hoàn khắp vũ trụ mà không ngừng nghỉ, có thể coi là căn bản của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, cho nên miễn cưỡng gọi nó là Đạo).

Có thể thấy rằng “Đạo” từ tiên thiên đã có, từ khi chưa có thiên địa thì đã có “Đạo”. Từ trong “Đạo” sản sinh ra thiên địa. Vậy thì “Đạo” rốt cuộc là vật gì? “Phật Pháp” rốt cuộc là gì? Từ cổ chí kim, những bậc trí giả vẫn luôn tìm hiểu vấn đề này. Chân truyền một câu nói: “Đại Đạo chí giản chí dị”. Trong sách “Chuyển Pháp Luân”, Sư tôn đã nói vô cùng minh xác:

“Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Lão Tử là người đại biểu cho Đạo gia, ông gọi Phật Pháp là “Đạo”. Nếu từ trong “Đạo” sinh ra thiên địa, vậy thì từ trong “Chân – Thiện – Nhẫn” chính là sinh ra vũ trụ.

Người tu Pháp Luân Đại Pháp biết rằng: Từ vạn cổ tới nay, đây là lần đầu tiên Sư phụ truyền Đại Pháp của vũ trụ, chân Pháp đại Đạo cho con người. Con người chỉ cần chiểu theo đặc tính Chân – Thiện – Nhẫn để làm một người tốt, thì chính là đang ở nơi thế gian mà đồng hóa với đặc tính của vũ trụ. Nếu như có thể đồng hoá với đặc tính vũ trụ để làm một người tốt hơn nữa, làm một người tốt vượt khỏi người thường, thì chính là đã tu luyện trên cao tầng rồi. Kỳ thực, văn hoá truyền thống của Trung Hoa chính là văn hóa tu luyện.

Lão Tử lại nói: “Đạo sinh chi, đức súc chi…Đạo chi tôn, đức chi quý, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên.” (dịch nghĩa: Đạo sinh ra vạn vật, đức bồi dưỡng vạn vật. Đạo sở dĩ được tôn sùng, đức sở dĩ được quý trọng là vì đạo và đức sinh ra vạn vận mà không can thiệp và chi phối vạn vật mà để vạn vật tự nhiên phát triển). Đạo và đức không thể tách rời, khi sinh ra vốn đã vậy, là bản tính tiên thiên không thể thiếu để làm người. Đạo đức có thể giải thích là: Lấy đức làm gốc, cái đức này nằm ở trong Đạo, nằm ở trong Pháp; hoặc: Người thuận theo Đạo thì có đức, người nghịch với Đạo thì vô đức.

Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử đã truyền cho thế nhân những tư tưởng tiêu biểu của Nho gia: Nhân (nhân từ), Nghĩa (nghĩa khí), Lễ (lễ nghi), Trí (trí huệ có được nhờ giáo dục), Tín (chính tín) để quy phạm nền tảng đạo đức của con người và xã hội. Con người chỉ cần tuân theo lời dạy của thánh nhân mà thực hành là được. Trong xã hội Trung Quốc thời xưa, biểu hiện của mối quan hệ bình thường giữa người với người là: Trung (trung thứ [1]), Hiếu (hiếu thuận với cha mẹ, huynh hữu đệ cung), Tiết (khí tiết), Nghĩa (xả thân vì nghĩa), Kính Thiên địa (kính Thần), Quân (trung quân ái quốc), Thân (thân thiết với gia đình), Sư (tôn sư trong đạo). Trạng thái xã hội biểu hiện ra tất yếu sẽ là Thành (chân thành), Thiện (thân thiện), Dung (bao dung), Hoà (hòa hợp). Đây là bộ phận “nhập thế” trong văn hoá truyền thống.

Tuy tư tưởng của Phật gia và Đạo gia là bộ phận “xuất thế” trong văn hoá truyền thống, người tu luyện tu Phật tu đạo Đạo có thể thành Phật thành Đạo, nhưng tư tưởng của Phật gia và Đạo gia lại có mối quan hệ mật thiết với cuộc sống của người dân thường. Tư tưởng từ bi phổ độ của Thích giáo và tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” của Đạo giáo kết hợp cùng với luân lý của Nho giáo tạo nên thành phần cốt lõi của văn hoá truyền thống Trung Hoa. Những khái niệm về thiện ác quả báo, thiên quốc địa ngục của Phật giáo đã trở thành những kiến thức thông thường trong xã hội ai ai cũng biết.

Bởi vì nghiên cứu trực tiếp nhắm vào thân thể người, sinh mệnh, vũ trụ, nên những bậc tiên hiền đã dung nhập tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” của Đạo gia vào trong huyết mạch văn hoá, làm cho văn hoá Trung Hoa càng trở nên bác đại tinh thâm, lưu tồn trong dân gian một nền khoa học cổ đại phát triển, gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân như: Trung Y, khí công, phong thuỷ và các dự ngôn.

Trong đó Trung Y là bảo vật của Trung Hoa, là tinh túy của đất nước. Trung Y truyền thống là lấy đức làm gốc, lấy điều hòa tâm tính (tu đức) làm chủ, phòng bệnh là chính, trị bệnh là phụ. Khí công là văn hóa tu luyện, nó bao hàm những lĩnh vực như: luân lý học, ngôn ngữ học (như ngôn ngữ cơ thể), truyền bá học (như truyền bá hành vi phi ngôn ngữ), khoa học nhân thể, khoa học sinh mệnh cho tới các lĩnh vực y học; nó bao gồm: Luyện, có thể giúp thân thể khoẻ mạnh, cường tráng; Tu (tâm, tu đức), có thể tề gia trị quốc bình thiên hạ. Quân vương minh tỏ lý lẽ, chăm chỉ thực hành, thì điều hành đất nước cũng như nấu một món ăn mỹ vị; bách tích minh tỏ lý lẽ, siêng năng chăm chỉ, thì mưa thuận gió hoà, ngũ cốc bội thu, phúc thọ kéo dài. Thuật phong thuỷ được lưu truyền trong dân gian của Trung Quốc thực tế là một môn khoa học tổng hợp, bao gồm: luân lý, triết học, lịch sử, thiên văn, địa lý, khí tượng, số học, vật lý, hoá học, lực học, mỹ học, sinh thái học, kiến trúc học v.v.; dù trong lĩnh vực quân sự hay dân sự, nó cũng phát huy tác dụng to lớn (ví như những điển cố thuyền cỏ mượn tên, hoả thiêu xích bích, trâu gỗ ngựa máy trong “Tam quốc diễn nghĩa”; hay như ứng dụng trong việc quy hoạch đồng ruộng, trồng trọt đất đai, đàn tế trời, tứ hợp viện [kiến trúc nhà cổ Trung Quốc], nhà ở của người dân…).

Bởi vì vật chất vận động tuần hoàn theo một quy luật nhất định, sự sinh sôi, phát triển của mọi sự vật đều tuân theo tiền nhân, có tiền nhân (nguyên nhân từ trước) mới có hậu quả (kết quả về sau), thiện có thiện quả, ác có ác quả, đều theo nhân đó, mà được quả đó, không ra khỏi cửa mà biết được việc trong thiên hạ, cho nên mới có dự ngôn. Trong cao trào khí công sau thời kỳ Đại cách mạng văn hoá, có một công năng được thế giới công nhận liên quan đến khả năng tiên tri, đoán trước sự việc gọi là công năng túc mệnh thông, Công năng này được giảng trong sách Chuyển Pháp Luân như sau:

“Sao lại gọi là ‘túc mệnh thông’? Ấy là có thể biết được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết được sự thịnh suy của xã hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật biến hoá của toàn thiên thể; đó chính là ‘công năng túc mệnh thông’.” (Bài giảng thứ hai, Chuyển Pháp Luân).

Từ hàng trăm nghìn năm nay, cuốn sách “Kinh Dịch” mà mọi người dân Trung Quốc đều quen thuộc, được tôn xưng là quần kinh chi đạo (đạo của các loại kinh), tính chuẩn xác của những dự ngôn trong sách Kinh Dịch thì ngay cả khoa học hiện đại cũng khó mà sánh được. Trong môi trường khoa học cổ đại phát triển và được kiến tạo bởi văn hóa truyền thống như vậy, từ quân vương đến thần dân bách tính đều có thể tự ước thúc tâm của mình để hành xử theo đạo, làm được “chớ thấy việc ác nhỏ mà làm, chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm”.

Nhìn tổng quan văn minh lịch sử của Trung Hoa, các tín ngưỡng Nho, Thích, Đạo đã tạo dựng nên cho người Trung Quốc một hệ thống đạo đức vô cùng hoàn chỉnh và ổn định, hệ thống đạo đức này là bộ chuẩn tắc, quy phạm về hành vi để con người chung sống cùng nhau, cũng là nền tảng đảm bảo cho sự tồn tại, an định và hoà hợp của xã hội.

“Đức là tích từ đời trước; vua, quan, phú, quý thảy đều từ đức mà ra, vô đức thì chẳng được gì, mất đức sẽ mất hết.” (Giàu mà có đức – Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Sư phụ đã chỉ rõ trong sách “Chuyển Pháp Luân”:

“Kim mộc thuỷ hoả thổ, ngũ hành ấy cấu thành nên mọi sự vật trong vũ trụ;” (Bài giảng thứ hai, Chuyển Pháp Luân)

“Vạn sự vạn vật trong vũ trụ này; [tất cả những thứ ấy] chúng đều có phương diện tồn tại vật chất; đồng thời chúng cũng có tồn tại đặc tính Chân Thiện Nhẫn. Dẫu là vi lạp vật chất nào thì cũng bao hàm chủng đặc tính ấy, trong vi lạp cực nhỏ cũng bao hàm chủng đặc tính ấy.” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân).

Ở trong thế giới vật chất mà chúng ta đang sinh tồn, chủng đặc tính đó được biểu hiện là: âm dương đồng tồn, tương sinh tương khắc.

Lấy một gia đình làm ví dụ. Nam là dương, nữ là âm; bên ngoài là dương, bên trong là âm; nam giới dương cương, nữ giới âm nhu; nam chủ ngoại, nữ chủ nội; đàn ông kiếm sống nuôi gia đình, phụ nữ hỗ trợ chồng và dạy dỗ con; cương nhu hòa hợp, một căng một trùng; gan mật đối chiếu nhau (phủ là dương, tạng là âm: mật là dương, gan là âm), kiên cố bất phá, có như vậy cuộc sống gia đình mới có thể hòa hợp mỹ mãn, phong phú đa dạng.

Cũng như vậy, trong xã hội nhân loại thiện ác đồng thời tồn tại, có như vậy sinh mệnh mới có sinh cơ; làm bất cứ việc gì cũng phải kính Thiên thuận Đạo thì mới trôi chảy thuận lợi, kỳ thực, đó chính là phù hợp với một tầng Pháp lý Chân – Thiện – Nhẫn ở tầng thế gian này. Con người trải qua nỗ lực sẽ biết trân quý thành quả mà họ không dễ dàng mới đạt được, sinh mệnh sống trong mâu thuẫn mới cảm thấy cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Vậy cũng nói âm dương ngũ hành, tương sinh tương khắc là hai mặt không thể tách rời của một sự vật, là quy luật và nguyên nhân sinh-diệt của vạn vật trên thế gian. Tương sinh thúc đẩy sự vật phát triển và trưởng thành, tương khắc duy trì sự cân bằng của sự vật trong quá trình biến hóa phát triển.

Con người là anh linh của vạn vật, Đạo gia coi thân thể người như một tiểu vũ trụ. Ngũ phủ và ngũ tạng (phủ là dương, gồm: túi mật, ruột non, dạ dày, ruột già, bàng quang. Tạng là âm, gồm: gan, tim, lá lách, phổi, thận) tương ứng với ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ), đây là trung tâm hoạt động của cơ thể; hoạt động ý thức tinh thần của con người (như ngũ thần: hồn, thần, ý, phách, chí; ngũ chí: nộ, hỉ, tư, ưu, khủng) cũng thuộc về ngũ tạng; Ngũ tạng thông qua kinh mạch (ngũ kinh: phế kinh, tâm kinh, can kinh, tỳ kinh, thận kinh) kết nối khắp cơ thể, thể hiện tính chỉnh thể của cơ thể con người. Ngũ tạng cũng có liên hệ với tự nhiên (như năm hướng: Đông, Nam, Trung, Tây, Bắc; hoặc năm mùa xuân, hạ, trường hạ, thu, đông), biểu thị tính thống nhất giữa con người với tự nhiên. Tính chỉnh thể của cơ thể người và tính thống nhất giữa con người với tự nhiên được duy trì dựa trên đạo đức.

Tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” đại biểu cho vũ trụ quan của tổ tiên chúng ta. Cũng chính nhờ thiên nhân hợp nhất, nên cơ thể con người mới có tính thích ứng nhất định với tự nhiên. Nếu vượt khỏi phạm trù thích ứng sinh lý này sẽ sinh ra phản ứng bệnh lý. Lấy mộc làm ví dụ: gan thuộc mộc, gan tàng hồn, có tính tĩnh, liên quan đến sự tức giận, tức giận quá sẽ làm thương tổn gan. Lại vì mộc khắc thổ, tỳ vị thuộc thổ, tức giận quá có thể tổn thương tỳ vị. Dựa theo đặc tính Chân – Thiện – Nhẫn ở tầng Pháp lý này mà nói, con người không nên tức giận, vì sẽ dẫn đến mất đức. Ngũ tạng cũng liên quan tới ngũ quan (mắt, lưỡi, miệng, mũi, tai), ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn) và ngũ sắc (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen). Các thầy thuốc thời xưa xem màu sắc của ngũ quan có thể đoán được bệnh của tạng phủ, sau đó dùng thuốc theo ngũ vị để điều trị. Gan thuộc mộc, có vị chua, gan thích chua, gan có thể dùng loại thảo dược có vị chua để chữa trị. Đương nhiên, đó chỉ là kế sách tạm thời, muốn trị tận gốc rễ bệnh, cần phải chú trọng điều tâm (tu đức), phải thủ đức mà không thất đức. Người đức cao vọng trọng thì có thể hưởng hết tuổi trời, bình thản mà ra đi.

Bởi vì thiên nhân hợp nhất, ngũ hành ứng với ngũ phủ, ngũ sắc, ngũ vật (trùng, binh hoang, phong, tang, khiếm), bậc trí giả quan sát năm màu sắc của mây có thể biết được cát, hung, phong, khiếm, vì thế mới có câu không ra khỏi cửa mà biết được việc trong thiên hạ. Như khi nước nhiều, nước vượng thì lấy đất bao quanh, có thể tưới ruộng, nuôi dưỡng vạn vật. Đó cũng bởi vì thổ khắc thủy, thủy sinh mộc. Hiện nay ở Trung Quốc xảy ra rất nhiều lũ lụt, cũng là do đạo đức suy đồi, chặt phá rừng quá mức, dẫn đến mộc không thể khắc chế thổ, thổ bị tổn hại nên không thể khắc chế thủy. Nên mới gọi là nhân khởi họa đoan, thiên giáng tai nạn (tai nạn ông Trời giáng xuống là do con người gây nên). Thiên nhân hợp nhất, những biến cố trong giới tự nhiên cũng là bởi con người thất đức mà dẫn tới.

Người xưa nói: “kẻ cướp cũng có đạo”, vạn vật đều có đạo. Vậy thì bậc trí giả không ra khỏi cửa mà biết việc thiên hạ, hay như thầy lang đoán và chữa bệnh, chẳng phải cũng bao gồm đạo của khoa học tự nhiên, đạo của y học, đạo của khoa học luân lý mà các chuyên gia, học giả đã dốc hết tinh lực cả đời siêng năng học tập, nghiên cứu mới có thể ngộ ra sao?

Cổ nhân có một câu nói hay: “văn chương bản thiên thành, diệu thủ ngẫu đắc chi” (văn chương vốn là thứ tự nhiên mà thành, người viết chỉ là ngẫu nhiên đạt được”. Văn chương từ vạn cổ đều là biến hoá trong các quy tắc của học thuyết ngũ hành âm dương, tương sinh tương khắc, tuần hoàn lặp lại, chính là trời xanh ban cho người hiền đức kia kỹ năng, để họ ngẫu nhiên đạt được mà thôi.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/64616

Chú thích:

[1] Trung Thứ:

Khổng Tử đang giảng bài, bỗng nói với Tăng Tử: “Này Tăng Tử, đạo của ta có phải được thấu hiểu chỉ với một nguyên tắc cơ bản?”.

Tăng Tử lễ phép: “Thưa đúng“

Tử Lộ hỏi thầy: ”Xin hỏi Phu tử, có hay không một chữ duy nhất để con có thể thực thi cả đời ?”. Khổng Tử đáp: ”Nếu muốn thế, đấy chính là chữ “Thứ !”.

Các học trò khác của Khổng Tử đều không hiểu họ đang luận bàn chuyện gì. Khổng Tử nói xong đã đứng lên đi mà không giải thích. Lúc đó, các học trò khác vội vây quanh Tăng Tử và Tử Lộ, xúm xít hỏi: ”Thầy nói thế có nghĩa là gì ?”.

Tăng Tử đáp: ”Thầy nói về đạo của người chỉ là “Trung Thứ” mà thôI!”.

Tăng Tử lại lấy chuyện mình ra giải thích tiếp: ”Mỗi ngày tôi đều nhiều lần tự cảnh tỉnh bản thân: Làm việc giúp người liệu đã tận lực tận tâm? Kết giao bạn hữu liệu có chân thành trung thực? Đạo thầy truyền cho đã ôn luyện chăng? Dốc lòng dốc sức, đó chính là “Trung“.

Tử Lộ bảo: ”Suy kỷ cập nhân (Suy từ mình để biết đến người khác) ấy là “Thứ“, điều gì mình không muốn thì không nên làm cho kẻ khác. Cái gì mình muốn gây dựng cho mình cũng nên gây dựng cho người khác. Cái gì mình muốn thành công cũng nên giúp cho kẻ khác thành công“.

The post Phật Pháp, đạo đức, ngũ hành và khoa học first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vì phóng túng sắc dục, kiếp sau chuyển sinh thành lợnhttps://chanhkien.org/2022/06/vi-phong-tung-sac-duc-kiep-sau-chuyen-sinh-thanh-lon.htmlFri, 17 Jun 2022 08:16:28 +0000https://chanhkien.org/?p=28682Tác giả: Bảo Châu, đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục [ChanhKien.org] Vào kỳ nghỉ hè mấy năm về trước, con trai tôi thi đỗ đại học, sau khi tổ chức ba bữa tiệc chúc mừng, tôi cùng chồng đi chơi ở thành phố nơi anh ấy làm việc. Vào buổi tối hôm […]

The post Vì phóng túng sắc dục, kiếp sau chuyển sinh thành lợn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Bảo Châu, đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

[ChanhKien.org]

Vào kỳ nghỉ hè mấy năm về trước, con trai tôi thi đỗ đại học, sau khi tổ chức ba bữa tiệc chúc mừng, tôi cùng chồng đi chơi ở thành phố nơi anh ấy làm việc.

Vào buổi tối hôm đến nơi, có người mời vợ chồng chúng tôi đi ăn tối. Hóa ra người mời lại là một người khác, là một ông chủ người Phúc Kiến tuổi ngoài 40 đang nhận thầu căng tin của một công ty lớn, lợi nhuận rất lớn. Bên cạnh ông ta là một cô gái trẻ đẹp, nước da trắng ngần, trạc ngoài 30 tuổi, cô gái đó thấy tôi còn hơi chút ngượng nghịu, nhưng người đàn ông kia ngược lại rất tự nhiên, tự giới thiệu đây là nhân tình của ông ta. Người vợ chính thức của ông đang ở quê nhà Phúc Kiến, gia đình ông có một trai một gái, đều sắp đến tuổi kết hôn, cho nên người vợ ở nhà chăm sóc con cái. Ông ấy còn nói mình đối xử với vợ rất tốt, đối xử với cô gái này cũng rất tốt, cô gái này trẻ hơn vợ ông mấy tuổi, cũng một lòng một dạ với ông, ông ta mua một căn nhà cho cô ấy cũng xem như là báo đáp. Cô gái tiếp lời nói: Người đàn ông này quả thực cũng chung tình với cô, mấy năm rồi vẫn ở bên cô.

Tôi tu luyện Pháp Luân Công, hiểu được con người ngày nay trong hôn nhân đã tha hóa rồi, đã hoàn toàn biến dị, không phân biệt đúng sai nữa rồi, người ta đã phạm phải tội ác tà dâm mà vẫn không hay biết. Rất nhanh sau đó, Sư phụ đã cho tôi thấy được hậu quả đáng sợ của họ trong tương lai.

Ăn tối xong, mọi người đều chuẩn bị về nhà, tôi đột nhiên cảm thấy tức bụng, vội chạy vào nhà vệ sinh, khi tôi quay lại nói lời chào họ, thì đột nhiên nhìn thấy ông chủ người Phúc Kiến thân người đầu lợn, khiến tôi một phen kinh hãi.

Tối hôm đó, trong mộng tôi bất ngờ nhìn thấy một dãy chuồng lợn, chính là chuồng lợn của trại nuôi lợn tập thể ở cánh đồng thôn làng khi tôi còn nhỏ, trong đó đang có hai con lợn một đực một cái, một suy nghĩ xuất hiện trong đầu tôi, hai con lợn này chính là ông chủ người Phúc Kiến và cô nhân tình tôi gặp lúc ăn tối chuyển sinh thành, trong nháy mắt cảnh tượng này biến mất.

Thì ra Sư phụ hai lần cho tôi nhìn thấy nhân quả, sự phóng túng sắc dục của ông chủ người Phúc Kiến khiến ông ta kiếp sau sẽ bị chuyển xuống cõi súc sinh đầu thai thành lợn, cô gái cũng vậy.

Tôi ngay lập tức hiểu ra câu chuyện trong “Tây Du Ký”, Chư Bát Giới kiếp trước là Thiên Bồng Nguyên Soái trên trời, chỉ vì động sắc tâm, trêu ghẹo Hằng Nga mà đọa vào bụng lợn, chuyển sinh thành lợn, mà cũng phù hợp với thực tế. Thì ra câu chuyện thần thoại này không chỉ đơn giản là câu chuyện, mà nó còn tiết lộ một số thiên cơ. Tôi viết ra trải nghiệm lần này cũng là để cảnh tỉnh thế nhân.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/275512

The post Vì phóng túng sắc dục, kiếp sau chuyển sinh thành lợn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhờ bao dung mà trở nên to lớn (Hữu dung nãi đại)https://chanhkien.org/2022/06/nho-bao-dung-ma-tro-nen-to-lon-huu-dung-nai-dai.htmlThu, 16 Jun 2022 07:44:36 +0000https://chanhkien.org/?p=28680Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Thành ngữ “Hải nạp bách xuyên” (Biển nạp trăm sông) vốn dĩ mô tả sự rộng lớn bao la của biển cả, nhưng người Trung Hoa còn dùng câu nói ấy để hình dung tấm lòng rộng mở bao dung của con người. Nhưng đại dương […]

The post Nhờ bao dung mà trở nên to lớn (Hữu dung nãi đại) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Thành ngữ “Hải nạp bách xuyên” (Biển nạp trăm sông) vốn dĩ mô tả sự rộng lớn bao la của biển cả, nhưng người Trung Hoa còn dùng câu nói ấy để hình dung tấm lòng rộng mở bao dung của con người.

Nhưng đại dương bất quá cũng chỉ là một giọt nước mắt của Đức Phật. Điều đó nói lên rằng tâm của một người phải rộng lớn đến mức nào mới có thể đạt tới cảnh giới của Phật. Có câu nói: “Phật Di Lặc với cái bụng lớn mỉm cười nhìn thế gian, có thể dung nhẫn những việc thiên hạ khó có thể nhẫn” đã thể hiện cảnh giới uy đức của Phật.

Tôi đã từng đọc bài chia sẻ về trải nghiệm của hai đồng tu trong việc phát chính niệm. Một đồng tu viết rằng anh đã phát chính niệm để diệt trừ tà ác can nhiễu đến hoạt động giảng chân tướng liên quan đến máy tính. Đồng tu này đã dùng công lực nhắm đến tất cả các máy tính liên quan đến hạng mục Đại Pháp trên toàn cầu. Một đồng tu khác chia sẻ kinh nghiệm về việc phát chính niệm hỗ trợ các đồng tu đang bị giam giữ. Anh vận dụng công lực phát chính niệm bao phủ khắp các địa khu trên toàn quốc, những nơi các đệ tử Đại Pháp đang bị giam giữ phi pháp, cũng như nhắm đến các trường không gian đối ứng; gia trì hỗ trợ các đồng tu sớm thoát khỏi hang ổ ma quỷ, nhập vào hồng lưu Chính Pháp.

Về phần mình, thi thoảng, tôi cũng phát chính niệm hỗ trợ, nhưng chỉ là cho chồng tôi, anh ấy bị giam giữ bất hợp pháp vì tu luyện Pháp Luân Công. So sánh với hai đồng tu nói trên, tôi thấy mình thật nhỏ bé.

Sau đó, mỗi khi phát chính niệm, tôi đã cố gắng bao hàm tất cả các đệ tử Đại Pháp đang bị giam giữ trên toàn Trung Quốc đại lục vào trong phạm vi phát chính niệm của bản thân. Bằng cách này, tôi thấy năng lượng phát ra rất mạnh mẽ và tâm trí cũng trở nên rộng mở hơn.

Đột phá khỏi cái khung nhỏ hẹp của vị tư vị ngã, tôi thăng hoa lên một cảnh giới cao hơn của vô tư vô ngã, cảm nhận được sự mỹ diệu rộng lớn bao la của vị tha. Quả là tâm tính đa cao, dung lượng đa đại (tâm tính cao bao nhiêu, dung chứa nhiều bấy nhiêu).

Trên đây chỉ là thể ngộ cá nhân, xin vui lòng chỉ ra những điều chưa phù hợp.

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/zj/articles/2004/9/30/29349

https://www.pureinsight.org/node/2580

The post Nhờ bao dung mà trở nên to lớn (Hữu dung nãi đại) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nói sơ về trạng thái béo và gầy của người tu luyệnhttps://chanhkien.org/2022/06/noi-so-ve-trang-thai-beo-va-gay-cua-nguoi-tu-luyen.htmlSat, 11 Jun 2022 03:50:15 +0000https://chanhkien.org/?p=28664Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại lục [ChanhKien.org] Tôi thường nghe một số đồng tu nữ nói rằng: “Gần đây mình lại béo lên, lại tăng cân rồi”. Còn có người nói: “Mỗi ngày tôi chỉ ăn có mỗi bữa trưa, như vậy có thể bảo trì được thể hình thon gọn, nhìn […]

The post Nói sơ về trạng thái béo và gầy của người tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đại lục

[ChanhKien.org]

Tôi thường nghe một số đồng tu nữ nói rằng: “Gần đây mình lại béo lên, lại tăng cân rồi”. Còn có người nói: “Mỗi ngày tôi chỉ ăn có mỗi bữa trưa, như vậy có thể bảo trì được thể hình thon gọn, nhìn không bị già đi”. Còn có đồng tu sử dụng phương pháp của người thường, như là ăn cái gì đó để giảm cân. Lại có đồng tu nói rằng chú trọng vẻ ngoài của bản thân cũng chính là đang chứng thực Đại Pháp.

Tôi nghĩ rằng, làm một người tu luyện, trước tiên cần phải đặt cơ điểm cho chính. Dù béo hay gầy cũng đều là vẻ bề ngoài của con người. Tu được tốt hay không đều phải xét ở tâm tính, tâm tính mới là gốc rễ để đo lường mọi thứ. Béo hay gầy không đại biểu cho cảnh giới và tầng thứ bản thân. Nếu quá chú trọng vào ngoại hình béo gầy của bản thân, cũng đã bộc lộ ra rất nhiều nhân tâm, như tâm hư vinh, tâm hiển thị, tâm sợ già, tâm sợ béo, tâm giữ thể diện, tâm thích được người khác khen… Khi người khác khen bạn một câu: “Ồ, chị có tuổi rồi mà trông trẻ như vậy, dáng người cũng rất thon gọn, so với tuổi của chị thì phải trẻ hơn ít nhất 10 tuổi, chị tu tốt thật đấy”, mà bạn không nổi tâm gì mới kỳ lạ đó. Tôi nhớ có một lần, tôi cùng một vài đồng tu nữ tham dự tiệc cưới con của một đồng tu, trong đó có một nữ đồng tu lúc bình thường rất chú trọng việc giảm cân, cũng rất coi trọng việc ăn mặc. Khi mọi người gặp mặt, có một đồng tu liền khen: “Nhìn vào thân hình và khuôn mặt của chị, đâu có giống như người trên 50 tuổi? Nhìn dáng người của tôi thì già đi trông thấy”, “Đúng đấy, đúng đấy, mọi người tu tốt nên mới biểu hiện ra thon gọn và gầy như vậy”. Lúc đó, cháu bé đứng bên cạnh đột nhiên buột miệng nói: “Mẹ của cháu trông sau thì mưa thuận gió hòa, nhìn phía trước thì hạn hán mất mùa”. Câu nói đó đã làm mọi người cười ồ một trận. Tôi nhớ “hạn hán mất mùa” là một câu để chọc ghẹo những người giảm cân trên một chương trình kịch truyền hình. Mọi người đều ngộ ra rằng, đây là Sư phụ mượn lời của cháu bé để điểm hoá.

Kì thực, những biện pháp giảm cân của người thường xác thực có một số tác dụng nhất định với người thường, đây chỉ là một sự truy cầu và hướng tới của sinh mệnh trong cảnh giới này. Người tu luyện là phải cao hơn người thường, pháp môn của chúng ta là công pháp tính mệnh song tu, chỉ cần thực tu thì những điều mỹ hảo của Đại Pháp sẽ triển hiện ra vẻ bề ngoài của con người. Đối với con người thì trang điểm và giảm cân có thể làm giảm đi sự lão hóa và khiến bản thân trông xinh đẹp hơn, nhưng tu luyện là vượt rất xa những thứ đó, vẻ đẹp của một vị Phật hay Bồ Tát là điều mà con người không cách nào tưởng tượng được. Vậy còn cần phải giảm cân và trang điểm không? Hơn nữa, tinh thần và vật chất là nhất tính, trong khi bạn không ngừng tu luyện, thân thể từ vi quan không ngừng cải biến ra bề mặt, hết thảy đều đang cấp tốc chuyển hóa hướng lên Thần thể, tầng tầng lạp tử của thân thể không ngừng được thay thế bởi vật chất cao năng lượng; thậm chí, ít nhất chúng ta có thể nhìn thấy vẻ bên ngoài là tinh lực sung mãn, trên mặt có rất ít nếp nhăn, đi trên đường như có lực đẩy… Những điều này dù con người có nỗ lực cũng không thể đạt được. Nếu bạn lý tính nhận thức Pháp tầng nào thì tầng Pháp lý ở đó sẽ khởi tác dụng chế ước đối với bạn. Khi chúng ta cho rằng dùng cách của người thường có thể giảm cân, vậy thì tầng Pháp lý này của con người sẽ khởi tác dụng với bạn. Thậm chí cựu thế lực sẽ dùi vào sở: khiến bạn càng giảm cân càng béo, càng muốn xinh đẹp thì càng trông xấu xí. Quả thật có những ví dụ như vậy.

Đối với việc trang điểm, Sư phụ đã giảng rất rõ ràng trong Chuyển Pháp Luân:

“các cô nương trẻ tuổi đều trang điểm, muốn da dẻ trắng trẻo hơn, đẹp hơn. Tôi nói rằng chư vị tu luyện công pháp tính mệnh song tu một cách chân chính, [thì] tự nhiên đạt được điều ấy; bảo đảm là chư vị không [cần] trang điểm.” (Bài giảng thứ năm – Chuyển Pháp Luân).

Tôi lý giải rằng, đây là Sư phụ đang giảng cho chúng ta về đặc điểm và uy lực của Pháp, đồng thời cũng khiến chúng ta trừ bỏ những chấp trước và nhân tâm không cần thiết. Mà đối với việc giảm cân, tôi cho rằng đó là hành vi và truy cầu biến dị của nhân loại, Thần bảo chúng ta phản bổn quy chân chứ không phải để chúng ta ở đây hưởng thụ cái vẻ đẹp hình tượng của bề mặt thân thể con người và sống cuộc sống tốt đẹp. Trong văn hóa Thần truyền 5000 năm không hề nhắc đến một câu về giảm cân.

Còn nữa, tôi cho rằng giảm cân không liên quan gì đến ăn uống, bản thân tôi đã có thể hội về điều này. Trong những năm tu luyện, tôi không hề kén ăn, có thể ăn gì cũng được, thậm chí có lúc ăn rất no. Miễn ăn no là được, đây là nguyên tắc của tôi. Nhưng mà, sau này tôi phát hiện, bản thân ăn thế nào thì cân nặng luôn vẫn vậy, không tăng cũng không giảm, không béo cũng không gầy. Bởi vì tôi không chấp trước vào gầy hay béo, những nhân tố truy cầu đều không có. Tôi tin tưởng vào một điểm: Sư phụ đã đặt cho chúng ta một cơ chế, vào mọi thời khắc nó đang khởi tác dụng, thiếu khuyết cái gì sẽ bổ sung cái đó. Khi bạn ăn nhiều đến mấy, nếu thân thể không cần phần năng lượng đó, cơ chế của Pháp sẽ giải phóng chúng ra ngoài. Khi bạn ăn uống kém thế nào, cơ chế của Đại Pháp trong quá trình vận chuyển cũng sẽ tự động bồi bổ năng lượng. Có một lần, tôi thấy tóc mình khô và xơ như cọng rơm. Mẹ tôi cũng là đồng tu, nói: “Tóc của con sao lại thiếu chất dinh dưỡng thế này?”. Khi đó tôi phát xuất ra một ý niệm mãnh liệt: “Tôi không thiếu chất gì cả, cơ chế của Đại Pháp bao hàm mọi thứ, thiếu thứ gì sẽ bổ sung thứ đó, đây đều là giả tướng”. Kết quả sau ba ngày, mẹ tôi gặp lại và nói: “Con ăn gì mà tóc bóng mượt như vậy? Trông khác hẳn hôm trước”. Tôi nói: “Con không ăn gì cả, chỉ là tinh thần và vật chất là nhất tính”.

Trong tu luyện là “Pháp luyện người”, chứ không phải con người có chủ đích đi làm gì đó. Con người có nỗ lực đến mấy cũng không thể cải biến được bản thân con người, càng không thể chuyển biến từ nhân thể thành Thần thể. Hơn nữa, béo, gầy, đẹp, xấu cũng không quan trọng đối với người tu luyện, khi tâm tính của bạn không ngừng đề cao, lực lượng thiện và biểu hiện từ bi của bạn sẽ khiến cho những người xung quanh bất tri bất giác bị bạn tác động và cải biến. Huống hồ Chính Pháp đã tới hôm nay, thời gian cũng rất gấp rút rồi, có biết bao con người thế gian đang chờ đợi chúng ta tới cứu độ họ, làm gì còn tâm tư để nghĩ tới việc giảm cân đây?

Một chút ý kiến nông cạn chỉ để giao lưu, mong bài chia sẻ ngắn này không làm tổn thương đến các đồng tu đang giảm cân.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/62449

The post Nói sơ về trạng thái béo và gầy của người tu luyện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một chút thể ngộ về: “Chẳng nói gì” và “vui vẻ thoải mái”https://chanhkien.org/2022/06/chang-noi-gi-va-vui-ve-thoai-mai.htmlTue, 07 Jun 2022 00:16:41 +0000https://chanhkien.org/?p=28659Tác giả: Phục Nhất Tân [ChanhKien.org] Hôm nay khi học Pháp, tôi học đến đoạn: “Tâm tính chư vị tu lên rồi; chẳng hạn như tại nơi người thường, người khác [nhục] mạ chư vị một câu, chư vị chẳng nói gì, tâm chư vị thật thản nhiên; đánh chư vị một đấm, chư vị […]

The post Một chút thể ngộ về: “Chẳng nói gì” và “vui vẻ thoải mái” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Phục Nhất Tân

[ChanhKien.org]

Hôm nay khi học Pháp, tôi học đến đoạn: “Tâm tính chư vị tu lên rồi; chẳng hạn như tại nơi người thường, người khác [nhục] mạ chư vị một câu, chư vị chẳng nói gì, tâm chư vị thật thản nhiên; đánh chư vị một đấm, chư vị cũng chẳng nói chi, chỉ mỉm cười, bỏ qua; [đó là] tâm tính chư vị đã lên rất cao. ” (Bài giảng thứ nhất – Chuyển Pháp Luân), tôi tự hỏi bản thân: “Đối diện với lời mắng chửi, bạn đã làm được chẳng nói chi hay chưa?” Trả lời: “Vẫn chưa”. Tôi lại hỏi bản thân: “Khi đối diện với việc bị người khác đánh, bạn đã làm được chẳng nói chi, chỉ mỉm cười bỏ qua hay chưa?” Trả lời: “Vẫn chưa làm được”

Bản thân tu luyện Đại Pháp đã được 23 năm rồi, nhưng ngay cả yêu cầu tối thiểu nhất mà Sư phụ đưa ra tôi cũng không làm được, thật sự rất xấu hổ! Năm 1992 khi Sư phụ mới truyền Pháp, Ngài đã yêu cầu người luyện công phải làm được: “Đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu” (Giảng Pháp tại Pháp hội Sydney [1996]), mặc dù tu luyện đã lâu như vậy nhưng tôi vẫn chưa thể làm được yêu cầu thấp nhất mà Sư phụ đưa ra. Tôi cảm thấy tiếc cho bản thân, thấy mình thật kém cỏi, trong vạn cổ cơ duyên này tôi mới đắc được Đại Pháp cao thâm, nếu vẫn không thể tu tốt bản thân, làm sao tôi có thể xứng đáng với Sư phụ từ bi vĩ đại đây?!

Suy xét lại bản thân, nguyên nhân làm không được, chính là vì lý giải đối với Pháp lý của Chân-Thiện-Nhẫn cũng như tu Thiện và tu Nhẫn đều chưa tốt. Cũng chính là không tu xuất tâm đại từ bi, chưa có tâm đại từ bi, thì hiển nhiên không thể làm được “Đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu”, hiển nhiên không thể làm tốt hơn ba việc, cũng không đạt đến tiêu chuẩn của một người tu luyện.

Khi đối diện với lời nhục mạ nặng nề, đã làm không được “chẳng nói chi” thì càng không thể “vui vẻ thoải mái”. Sư phụ giảng:

“Ai nạt dối vị ấy, ai đá vị ấy, vị ấy cũng đều khoan khoái: ‘Các ngươi cứ đến đi, thế nào cũng cấp đức cho ta mà, ta không đẩy ra chút nào hết đâu!’” ……”còn chư vị cấp đức cho vị ấy, vị ấy cũng không đẩy trở lại một chút nào, đều nhận hết, nhận một cách rất khoan khoái.”. (Bài giảng thứ chín – Chuyển Pháp Luân)

Sư phụ còn giảng:

“Như mọi người đã biết, [khi đã] đạt đến tầng La Hán, [thì] gặp sự việc gì cũng không để trong tâm, hết thảy những sự việc nơi người thường đều hoàn toàn không để tâm, đều là vui vẻ thoải mái; chịu thiệt thòi lớn đến mấy, vẫn cứ vui vẻ thoải mái.” (Bài giảng thứ chín – Chuyển Pháp Luân)

Mặc dù tôi đã tu luyện hơn 20 năm mà vẫn chưa thể đạt đến trạng thái của La Hán. Đây thật sự là tu luyện quá kém rồi!

Tôi nghĩ đến ví dụ tu đến quả vị La Hán chịu thiệt thòi đến mấy vẫn cứ vui vẻ thoải mái không để tâm. Ông vì sao không để tâm, vẫn vui vẻ thoải mái? Theo lý giải của tôi, bởi vì Ông đã hiểu rằng Ông đắc được thứ tốt nhất rồi, đó chính là Đức. Do vậy, việc không tốt đối với người tu luyện mà xét thì lại là hảo sự, đó là tiêu nghiệp, vượt quan, hướng nội tìm, đề cao tâm tính, thăng hoa lên trên. Người tu luyện chẳng phải là muốn điều này sao? Do đó, người tu luyện nhất định phải chuyển biến quan niệm của con người thành chính niệm (Thần niệm) thì mới có thể tu tốt bản thân, thăng hoa lên trên.

Khi bị đánh đập hay bị mắng chửi cần phải làm được “chẳng nói gì” và “vui vẻ thoải mái”, đây là yêu cầu cơ bản của Sư phụ đối với chúng ta, làm được thế mới là tu. Chưa làm được, vậy thì cần nghiêm túc học Pháp tốt, nghiêm khắc dùng Pháp lý của Đại Pháp để quy chính bản thân, nhất tư nhất niệm đều dùng Đại Pháp để đo lường, tu khứ các chủng dục vọng và tâm chấp trước, khiến chủ ý thức của bản thân làm chủ chính mình, không thụ nhận bất kỳ can nhiễu ngoại lai nào. Chỉ khi làm được điều đó, mới là tu tốt, mới có thể viên mãn chính mình trong Đại Pháp.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/273862

The post Một chút thể ngộ về: “Chẳng nói gì” và “vui vẻ thoải mái” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một chút thiển ngộ “nói thẳng” và “Chân”https://chanhkien.org/2022/06/mot-chut-thien-ngo-noi-thang-va-chan.htmlSun, 05 Jun 2022 22:57:34 +0000https://chanhkien.org/?p=28656Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] Tôi là một người nhanh mồm nhanh miệng. Lâu nay tôi không hề cảm thấy “nhanh mồm nhanh miệng” này có gì không đúng, mãi cho đến gần đây tôi mới có chút nhận thức về vấn đề này. Vì loại hiện tượng này khá phổ […]

The post Một chút thiển ngộ “nói thẳng” và “Chân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

Tôi là một người nhanh mồm nhanh miệng. Lâu nay tôi không hề cảm thấy “nhanh mồm nhanh miệng” này có gì không đúng, mãi cho đến gần đây tôi mới có chút nhận thức về vấn đề này. Vì loại hiện tượng này khá phổ biến trong các đồng tu, nên tôi muốn viết ra để cùng chia sẻ với các đồng tu.

Khi chưa tu luyện tôi đã là người “nhanh mồm nhanh miệng”, sau khi tu luyện, tôi cho rằng loại biểu hiện này phù hợp “Chân” trong Đại Pháp, có lời gì thì nói thẳng, không vòng vo, chất phác thẳng thắn. Thấy đồng tu có điểm thiếu sót gì thì tôi liền nói thẳng, không che giấu, cảm thấy nói như vậy là tốt cho đồng tu. Nhưng mà sau này tôi thấy rằng: Khi tôi chỉ ra chỗ thiếu sót của đồng tu, có lúc hiệu quả không tốt, đồng tu không tiếp thu và cũng không nói gì, có khi còn xuất hiện mâu thuẫn, rằng tôi nói lời tổn thương. Trong tâm tôi cũng uất ức, lời tôi nói là thật mà, muốn bạn tốt thôi sao bạn lại không tiếp nhận? Lúc đó, tôi không hướng nội tìm bản thân, mà là đi tìm cái sai của đồng tu, lại còn đi nói với các đồng tu khác về sự bất công mà mình gặp phải: “Người đó không chân tu, tôi chỉ cho họ chỗ thiếu sót nhưng lại không sửa…”

Cho đến dạo gần đây tôi mới ngộ ra “nhanh mồm nhanh miệng” này hoàn toàn khác với “Chân” của Đại Pháp. “Chân” là biểu hiện của cảnh giới sinh mệnh, là lý trí, và là tiêu chuẩn “Chân – Thiện – Nhẫn” của Đại Pháp; còn “nhanh mồm nhanh miệng” là thứ của người thường, là đặc điểm tính cách con người, hai cái không thể trộn lẫn với nhau được. Trước đó tôi nói thẳng thắn không kiêng kỵ, không cân nhắc, chỉ có thể nói là phù hợp với yêu cầu tiêu chuẩn “Chân” trong một tầng thứ nào đó của Đại Pháp, hơn nữa “nhanh mồm nhanh miệng” cũng có phần ma tính của con người trong đó, ví như: cao hơn người một bậc, chiếm ưu thế, áp chế người khác, không sửa sai thì không được, bề ngoài là vì tốt cho bạn, nhưng thực ra là vì bản thân.

Nội hàm “Chân” trong Đại Pháp rộng lớn vô tận, đứng trên cơ điểm “Chân” trong Đại Pháp, là hoàn toàn vì muốn tốt cho người khác, lời nói ra thì ngữ khí bình hòa, trong tâm đầy thiện lương, bình tĩnh bình hòa, như vậy sẽ giống như dòng nước trong trẻo, như ánh mặt trời ấm áp, đều là muốn tốt cho người ta, vậy thì họ có thể không tiếp thụ không?

Sau khi nhận ra điều này, tôi cảm thấy suy nghĩ của mình bỗng trở nên rõ ràng hơn, và tôi thẳng thắn nhìn lại bản thân: Tôi phải loại bỏ những thứ phụ diện trong “nhanh mồm nhanh miệng”, để bản thân đồng hóa với “Chân” của Đại Pháp, cho dù nhất tư nhất niệm cũng đều đứng trên cơ sở nghĩ tốt cho người khác, thì “Chân” mới mang theo lực lượng Đại Pháp, hiệu quả làm việc và nói chuyện mới tốt.

Đây chỉ là một chút thể ngộ của tôi.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/274039

The post Một chút thiển ngộ “nói thẳng” và “Chân” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (2)https://chanhkien.org/2022/06/luan-hoi-ky-su-su-an-hao-dang-2.htmlWed, 01 Jun 2022 11:35:02 +0000https://chanhkien.org/?p=28645Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Chúng sinh trên thiên thượng vốn dĩ có rất, rất nhiều năng lực; chỉ khi những sinh mệnh ấy trải qua sự bại hoại to lớn thì phía phụ diện của họ mới biểu hiện xuất lai. Nhiều sinh mệnh trong số đó đã an bài một bộ hoàn chỉnh […]

The post Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Chúng sinh trên thiên thượng vốn dĩ có rất, rất nhiều năng lực; chỉ khi những sinh mệnh ấy trải qua sự bại hoại to lớn thì phía phụ diện của họ mới biểu hiện xuất lai. Nhiều sinh mệnh trong số đó đã an bài một bộ hoàn chỉnh các phương thức để tự cứu lấy mình. Nhưng do bản thân họ đã bị trộn lẫn với rất nhiều nhân tố bất hảo, nên những an bài kia cũng trở nên bất thuần và không thể hoàn toàn đạt được mục đích cứu vãn đại khung cùng tất cả chúng sinh. Bởi vũ trụ này quá to lớn, không cách nào có thể dùng ngôn ngữ của nhân loại để hình dung, nên những an bài của cựu thế lực cũng trở nên phi thường chi tiết, trật tự và “hoàn mỹ”. Còn một điểm nữa là, trong vũ trụ đồng thời tồn tại hai nhân tố chính và phụ, nên khi một cá nhân muốn hoàn thành một sự việc nào đó, đặc biệt là những sự việc to lớn, có quan hệ đến toàn vũ trụ, thì các nhân tố phụ diện sẽ khởi tác dụng “khảo nghiệm”. Nếu sinh mệnh không biến dị, thì loại “khảo nghiệm” này là chính thường, là phương thức để sinh mệnh kiến lập uy đức và từ đó biết trân quý những gì mình đạt được. Nhưng vấn đề là sinh mệnh đã trở nên bại hoại, nên nếu chúng lại dùng danh nghĩa “khảo nghiệm” để can nhiễu đến sự kiện trọng đại này thì sẽ ảnh hưởng đến sự an nguy của các chúng sinh trong toàn vũ trụ. Đây là điều tuyệt đối không được phép. Nhưng vô số sinh mệnh không hiểu được điều này. Ngoài ra, vì sinh mệnh đã phát sinh biến dị, nên vô số các chủng nhân tố vật chất cấu thành nên sinh mệnh, trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì sự sống, bản thân chúng cũng khởi tác dụng can nhiễu. Ví như, tế bào ung thư không tốt, nhưng chúng sẽ không cam lòng tự đào thải, phải vậy không?

“Ức vạn gian hiểm trùng trùng lan” (Khổ Độ, Hồng Ngâm)

Vấn đề mà Sư phụ cần giải quyết phức tạp hơn rất, rất nhiều so với những gì tôi nói trên đây. Hơn nữa, sinh mệnh tồn tại theo quần thể, nên giữa chúng sản sinh ra những mối liên hệ nhất định. Khi các sinh mệnh trở nên bại hoại, giữa chúng sẽ xuất hiện những ân oán và các mối quan hệ nhân duyên phức tạp. Tuy nó không hiểm ác như thế gian con người, nhưng ảnh hưởng phụ diện của tình huống này cũng rất to lớn.

Đó là những nhận thức của tôi dựa trên Pháp, sau đây là vài ví dụ cụ thể:

Sau khi chúng ta ký thệ ước với Sư phụ, Sư phụ đã thiết lập ra những an bài cụ thể dựa theo tình huống của mỗi cá nhân và theo yêu cầu của vũ trụ. Ví như, khi nào bạn đến thế gian con người, khi nào bạn đắc Pháp, khi nào bạn kết duyên với ai đó, khi nào bạn cần đề cao các phương diện tâm tính, v.v…

Và những sinh mệnh biến dị cũng an bài cho chúng sinh đến các hoàn cảnh khác nhau trong thế gian con người. Chúng cũng làm ra những an bài tinh tế và tỉ mỉ cho chúng sinh trong quá trình đi xuống, từ lúc họ sinh ra cho đến khi đắc Pháp, đề cao và thậm chí cả việc luân hồi chuyển thế và các biểu hiện tại các tầng thứ khác nhau, bao gồm cả tầng nhân loại. Tôi nhớ vào thời điểm ngay trước khi tôi hạ xuống, Sư phụ đã nghiêm túc nói: “Đến lúc đó, con phải ghi nhớ và nghe lời Sư phụ. Con nhất định phải nhớ kĩ điều này!”

Bây giờ nghĩ lại, tôi mới minh bạch sâu sắc sự khổ tâm của Sư phụ!

Khi chúng ta hạ thế, có những sinh mệnh rất ngưỡng mộ, nhưng cũng có một bộ phận cực kỳ ghen tị với chúng ta. Một số thậm chí còn nói: “Để xem các vị làm được ra sao!” (Hàm ý rằng họ không tin sinh mệnh sau khi hạ xuống có thể trở về vị trí nguyên lai).

Lấy bản thân làm ví dụ. Sau khi ký thệ ước với Sư phụ, tôi bắt đầu đi xuống. Những vật chất cùng tư duy tầng thấp không ngừng bao kín lấy thân thể tôi. Để chúng ta không bị mê lạc ở tầng thứ thấp, Sư phụ đã nhiều lần ký giao ước với chúng ta. Nhiều sinh mệnh cũng biết rằng Sư phụ hạ thế Chính Pháp, nên chúng cũng chuyển sinh, nhưng là đến để “khảo nghiệm” Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp.

Khi hạ xuống các tầng thứ thấp hơn, kỳ thực Sư phụ đã bắt đầu bảo hộ chúng ta rồi. Nếu không chúng ta rất có thể đã gặp nguy hiểm, thậm chí bị tiêu hủy trước khi đến được nhân gian vì vô tình vi phạm các quy tắc của Thiên thượng. Trên Thiên thượng cũng có rất nhiều nhân tố biến dị. Để duy hộ cho những lý lẽ và an bài của mình, chúng đã tạo thành những thế lực rất ngoan cố. Trong Chính Pháp, Sư phụ gọi chúng là “cựu thế lực”.

Khi tôi chuyển sinh đến một tầng thứ nhất định với hình tượng của một vị Bồ Tát, cựu thế lực đã an bài một sinh mệnh khác, cũng xuất hiện tại tầng thứ đó dưới hình tượng Bồ Tát, để tạo vết nhơ cho tôi.

Tôi nhớ có lần, các vị Thần tiên đều tề tựu về một hòn đảo nhỏ ngoài khơi trên Thiên thượng. Mỗi chư Thần đều thi triển năng lực của mình. Đến lượt mình, tôi chọn một Pháp khí có hình tượng miếng ngọc bội. Tôi để nó tự quay và triển hiện cho các vị Thần khác xem.

Vị Bồ Tát do cựu thế lực an bài kia đã bí mật động thủ, dùng pháp lực để làm rớt miếng ngọc bội của tôi xuống biển. Ngay lập tức, nó tạo ra một cơn sóng cao nghìn thước, làm nhiều sinh mệnh sống ở biển không thể chịu nổi sóng gió mà mất đi sinh mệnh. Hết thảy chúng Thần đều bất mãn, muốn triệt để tiêu hủy tôi (theo luật Trời, Pháp khí của Thần không thể tùy tiện sử dụng, không được can nhiễu đến hoàn cảnh sống của chúng sinh, ngoại trừ tình huống cực kỳ đặc thù). Lúc ấy, tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Lúc này, Sư phụ xuất hiện, vẫn là từ phía chân trời rất xa, nơi chúng Thần không thể nhìn tới. Tất cả chư Thần đều quỳ xuống. Sư phụ không nói gì, Ngài chỉ tái hiện lại cảnh tượng vừa xảy ra cho mọi người thấy: tôi đã dùng Pháp khí như thế nào, vị Bồ Tát kia đã dùng pháp lực để làm rớt Pháp khí của tôi xuống biển và gây đại họa ra sao. Khi tất cả sáng tỏ, vị Bồ Tát kia mới nói: “Ta đến đây để khảo nghiệm ngươi. Ta không chỉ để lại vết nhơ cho ngươi, mà còn hoàn toàn khiến ngươi biến mất khỏi vũ trụ này trước khi đến được nhân gian!” Nói xong liền bay đi mất. Chúng Thần lập tức minh bạch. Bởi các vị Thần rất từ bi nên đã hỏi Sư phụ: “Chúng con phải làm gì với những chúng sinh đã chết ở biển kia?” Tôi thấy Sư phụ nắm các sinh mệnh đã chết trong lòng bàn tay Ngài và đả một bộ thủ ấn rất đẹp. Lập tức, tất cả hồi sinh và bay đi.

Sư phụ nói: “Tôi làm những điều này bởi tôi là Sư phụ của vị ấy. Tương lai, sau khi đắc Pháp ở thế gian, vị ấy sẽ có uy đức của mình, đến lúc ấy có thể cấp phúc báo cho những sinh mệnh mà vị ấy đã vô tình hoặc cố ý làm hại.”

Một vị Thần hỏi: “Sẽ ra sao nếu vị ấy không tu luyện tốt ở thế gian, và không thể làm được những điều này?”

Sư phụ từ bi, uy nghiêm nói: “Vậy thì tôi sẽ cấp phúc báo cho những sinh mệnh kia!”

Lúc ấy, tôi chỉ có thể bật khóc. Sư phụ, như một người cha, xoa đầu tôi và nói: “Hạ xuống tầng thứ thấp chính là như thế này, tương lai con nhất định phải tu luyện thật tốt!” Nói xong, Ngài biến mất.

Một lần khác, tại một tầng thứ thấp hơn, tôi xuất hiện trong diện mạo của một tiểu đồng theo hầu một vị La Hán. Vì có rất nhiều biến dị nơi đây nên các chủng nhân tố biến dị đan xen và can nhiễu lẫn nhau như mạng nhện. Có lần, vị La Hán này đưa tôi đi hộ Pháp, muốn thanh trừ một vị Thần bất hảo đang hủy diệt chúng sinh. Vị La Hán dùng Pháp lực bắt lấy Thần xấu xa kia và bảo tôi trông chừng hắn. Lúc đầu, tôi tận lực làm tốt. Nhưng sau đó, vị Thần xấu kia đã thuyết phục tôi bằng những lời lẽ quanh co, ngụy thiện, hy vọng được tôi thả đi. Dù ban đầu không bị lung lay, nhưng cuối cùng tôi đã động tâm mà để hắn đi mất. May mắn thay, vị La Hán kia trở về và bắt lại vị Thần xấu đó. Nhưng tôi lập tức phải chịu phạt. Khi vị La Hán đưa tôi tới Phật đường, một vị Phật đã nói rằng vì tôi vi phạm luật Trời nên sẽ bị tiêu hủy triệt để.

Lúc này, Sư phụ một lần nữa lại xuất hiện. Ngài nói: “Tình huống này xảy ra là bởi tất cả chúng sinh đều đã biến dị, mà vị này (ám chỉ tôi) đến đây từ một tầng thứ cao hơn, có mang sứ mệnh trên thân, vì ở trong mê nên đã làm những điều không nên làm. Vị ấy sẽ bù đắp hết thảy hậu quả sau khi hoàn thành việc tu luyện ở nhân gian và quay trở về. Đồng thời, vì các vị đều đã kết duyên cùng vị ấy tại đây, nên vị ấy sẽ có thể cứu độ tất cả mọi thứ trong cảnh giới của các vị!”

Một vị Phật băn khoăn hỏi: “Sự tình xa xôi như vậy quả thật chúng con không dám nghĩ đến, liệu có thể thành hiện thực chăng?”

Sư phụ nói: “Nếu không tin thì các vị hãy nhìn xem”; rồi Ngài vẫy bàn tay, không gian rộng lớn đột nhiên trở nên thuần tịnh và mỹ hảo. “Đó không phải là năng lực cự đại của tôi sao? Nếu như vị ấy không thể, thì tôi sẽ cấp cho các vị, tôi sẽ độ các vị!” Chúng Thần một lần nữa cúi đầu khấu bái Sư phụ.

Lúc đó, Sư phụ đã thanh lý rất nhiều nhân tố vật chất và tư duy biến dị cho tôi, để tôi có thể tiếp tục hạ xuống nhân gian và đắc Pháp.

Hành trình này giống như:

Thiêm ước hạ thế mông Sư ân (Ký thệ ước xuống thế gian nhờ ơn Sư phụ)

Tầng tầng hạ tẩu kết duyên phận (Tầng tầng đi xuống kết duyên phận)

Vô số kiếp hiểm Sư thao tâm ([Chúng ta gặp] vô số hiểm nguy, Sư phụ lo lắng dõi theo)

Vi đáo thế gian đắc nhân thân ([Tất cả] chỉ để đến thế gian đắc được thân người)

Lưu ý: Những điều chia sẻ trên đây chỉ hữu hạn trong tầng thứ của tôi.

Dịch từ:

https://www.zhengjian.org/node/50973

https://www.zhengjian.org/node/273599

https://www.pureinsight.org/node/7700

The post Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (1)https://chanhkien.org/2022/05/luan-hoi-ky-su-su-an-hao-dang-1.htmlThu, 26 May 2022 10:00:21 +0000https://chanhkien.org/?p=28634Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Làm người tu luyện, chúng ta đều biết rằng, nhờ có sự từ bi khổ độ của Sư phụ, chúng ta mới có được một thân thể khỏe mạnh, một trái tim bao dung, một trí huệ nhìn thấu lịch sử và hết thảy mọi thứ tại thế gian, có […]

The post Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Làm người tu luyện, chúng ta đều biết rằng, nhờ có sự từ bi khổ độ của Sư phụ, chúng ta mới có được một thân thể khỏe mạnh, một trái tim bao dung, một trí huệ nhìn thấu lịch sử và hết thảy mọi thứ tại thế gian, có chính niệm chính hành không gì cản nổi. Mỗi khi nghĩ về những gì Sư phụ đã phải chịu đựng vì chúng ta, tôi thường bật khóc. Chúng ta chỉ có thể thực hiện tốt những gì mình cần làm thì mới xứng đáng với sự khổ độ của Sư phụ. Sau đây tôi xin chia sẻ một số điều nhìn thấy ở cao tầng về những gì Sư phụ đã phải chịu đựng trong lịch sử để chúng ta có thể đắc Pháp ngày hôm nay. Vì chủ đề “Sư ân hạo đãng” quá hồng đại, nên tôi chỉ xin kể một vài ví dụ minh họa.

Vào ngày mùng một Tết, Sư phụ công bố Kinh văn mới. Tôi lập tức tải xuống và bắt đầu đọc.

Sau khi đọc xong, tôi cảm nhận sâu sắc những lao tâm khổ tứ của Ngài. Tôi nhìn thấy Sư phụ từ ái đặt tôi vào lòng bàn tay của Ngài, Ngài xoa đầu tôi và mỉm cười nhìn tôi (lúc ấy tôi xuất hiện trong diện mạo khoảng 15, 16 tuổi). Vào lúc đó, tôi dường như hiểu được sự khổ tâm của Sư phụ: Tôi phải làm những gì cần làm – đó là con đường của tôi, là con đường mà tôi cần đi!

Tôi khóc như mưa, và tự hỏi bản thân, tại sao tôi không thể làm tốt những gì mình cần làm chứ?

Bây giờ, tôi xin chia sẻ những hiểu biết của bản thân về lòng từ bi và những hy sinh của Sư phụ dành cho chúng ta.

“Nguy nan lai tiền giá Pháp thuyền” (Khổ Độ, Hồng Ngâm)

Nhiều đệ tử Đại Pháp ngày nay đến từ tầng thứ cao phi thường, đại diện cho những thể hệ to lớn với vô lượng chúng sinh và các chủng vật chất trong đó. Tất cả đều là do Đại Pháp khai sáng và cấp cho. Lấy bản thân làm ví dụ, tại một tầng thứ, khi dành vô số giờ mà vốn không thể tính đếm được bằng thời gian của con người để quan sát, tôi nhìn thấy vũ trụ phía dưới tầng thứ của mình bị nổ tung và giải thể rất nhiều lần, nhưng tôi không nghĩ rằng thế giới của mình cũng sẽ phải đối mặt với một thảm họa nghiêm trọng như vậy.

Bởi vì cảnh giới đó của bản thân đã bại hoại, nên rất nhiều vật chất trong đó không chỉ biến dị mà còn rất hỗn độn. Giống như cơ thể của người mắc bệnh nan y, khi một bộ phận bị suy, thì nhiều cơ quan khác cũng suy theo. Điều tồi tệ nhất là nếu như mọi thứ trong cảnh giới đó của tôi chỉ là một lạp tử trong phạm vi thể hệ lớn hơn, tức là điều tương tự sẽ xảy ra ở thể hệ lớn hơn đó, và chẳng phải cũng như vậy với các thể hệ lớn hơn, lớn hơn, lớn hơn nữa sao? Dù tôi không thể nhìn được xa đến vậy, nhưng nếu dùng Pháp để nhận định, thì điều đó là sự thực.

Trong thế gian con người, chúng ta biết rằng không có vật chất nào là tồn tại biệt lập. Chúng đều liên hệ với nhau, từ hồng quan đến vi quan, từ xa đến gần. Sự tồn tại của con người trên Trái Đất là một ví dụ.

Sư phụ đã giảng trong Giảng Pháp tại Pháp hội Châu Âu [1998]:

“Bởi vì trong vũ trụ này, xung quanh trái đất có một môi trường vật chất khổng lồ, hết sức hết sức vi quan, do tầng tầng sinh mệnh vật chất tổ thành, đã cấu thành cho con người một môi trường như thế này, có thể ở đây mà sinh tồn. Hơn nữa có nước ở vi quan của các tầng thứ khác nhau mà chư vị không nhìn thấy, đã tạo thành cho chư vị rất nhiều rất nhiều nhân tố mà có thể có thực vật, động vật và vật chất tồn tại, có thể khiến con người ở đây mà có sinh cơ, có thể sinh sống.

Có một chủng vật chất nó có thể khiến con người đứng thẳng trên mặt đất, không để họ bị nghiêng đi; có một chủng vật chất kiểu như áp lực, ấn chắc con người và vật thể không để họ lơ lửng lên; có một chủng vật chất có thể đảm bảo khiến bộ não con người và hết thảy cơ quan đều ổn định. Bộ não và các loại cơ quan của chư vị nếu không ổn định, chư vị đang đứng bình thường, chư vị sẽ cảm thấy chư vị y như là đang nằm; hoặc dù chư vị có đứng thẳng đến mấy, chư vị cũng sẽ phát hiện chư vị như thể là luôn đứng không được thẳng”.

Với con người trên trái đất, việc duy trì sự tồn tại bình thường cho con người đã là rất phức tạp; tại tầng cao hơn, thì mối quan hệ liên đới giữa các chủng vật chất thậm chí còn phức tạp hơn. Nhưng dù phức tạp đến đâu, nó đều là một chỉnh thể hữu cơ có trật tự. Bất kể phạm vi của một thiên thể lớn đến đâu, thì nó chẳng phải cũng là một sinh mệnh hoặc một vị Thần sao? Chỉ là hình thức biểu hiện của Thần là khác nhau mà thôi.

Những điều nói trên là để minh họa cho sự phức tạp của vũ trụ. Trong người thường có câu: “Khản nhất phát, động toàn thân” (tạm dịch: Nhổ một sợi tóc [cũng sẽ] rung động toàn thân), dùng trong trường hợp này cũng có chút đạo lý. Khi một cá thể phát sinh biến dị, thì những thứ liên quan và có quan hệ tuần hoàn với nó đều biến đổi theo, từ đó ảnh hưởng ngược lại đến cá thể đó, hình thành một vòng tuần hoàn ác tính.

Phương diện tâm tính của chúng sinh thảy đều biểu hiện ra tâm vị tư cùng các chủng biến dị khác. Vật chất ở tầng đó không còn thuần tịnh, ngay cả những thứ biến dị trầm trọng cũng đều đang bị phong hóa, như thể chúng sắp giải thể. Vương chủ của những thể hệ này cũng muốn tự cứu chính mình và các chúng sinh trong đó, nhưng sau tất cả những nỗ lực gian khổ, họ nhận thấy rằng mình không thể làm được.

Kỳ thực, Thần muốn cải biến điều gì cũng có những nhân tố chế ước. Vị Thần đó phải có năng lực, uy đức và trí huệ to lớn mới có thể xoay chuyển được càn khôn. Nó không đơn giản như con người tưởng tượng.

Tại thời khắc then chốt này, khi tất cả chúng sinh đang đối diện với nguy hiểm trước mắt, từ tầng trời cao hơn và xa hơn, Sư phụ đã đến đây cùng với bộ Pháp viên dung nhất!

Vô lượng vô số chúng Thần đã chứng kiến cảnh tượng khó quên này: từ nơi cao hơn và xa hơn, nơi chúng Thần không thể nhìn tới… đột nhiên hào quang xuất hiện, một thứ ánh sáng thuần khiết, tường hòa. Không chỉ chúng sinh ở tầng thứ đó ngạc nhiên, mà cả những vương chủ của họ cũng không khỏi trầm trồ thán phục. Tôi xin tái hiện cảnh tượng ấy bằng một bài thơ:

Thuần chính Pháp quang thiên tế lai (Ánh sáng thuần chính của Pháp đến từ chân trời)

Tường hòa từ bi phúc tứ hải (Tường hòa từ bi trải khắp bốn biển)

Vô biên Thần vận trí huệ hiển (Phong thái và trí huệ vô biên của Thần hiển lộ)

Chúng sinh hữu vọng thoát khổ hải! (Chúng sinh có hy vọng thoát khỏi biển khổ!)

Tiếp sau ánh hào quang tường hòa vô biên này, một đóa sen trong suốt vô ngần xuất hiện, thật đúng là:

Phấn trang ngọc trác kim quang hiển (Ánh sáng vàng lấp lánh như phấn như ngọc)

Tầng tầng liên hoa uy đức hiện (Tầng tầng hoa sen, uy đức hiển lộ)

Chúng sinh miểu tiểu hựu khả liên (Chúng sinh nhỏ bé lại đáng thương)

Tầng tầng hạ tẩu kết Pháp duyên! (Tầng tầng hạ xuống kết Pháp duyên!)

Chúng sinh dần dần nhìn thấy một vị Phật khổng lồ đứng trên tòa sen vô số tầng, với bàn tay lập chưởng trước ngực. Đó chính là:

Uy nghiêm vô tỉ từ bi hiển (Uy nghiêm và từ bi vô hạn hiển lộ)

Pháp quang phổ chiếu vạn đại thiên (Ánh sáng Pháp phổ chiếu vạn khung trời)

Vi cứu chúng sinh thoát kiếp nạn (Vì để cứu chúng sinh thoát kiếp nạn)

Thân giá Pháp thuyền độ chúng phản! (Đích thân chèo lái con thuyền Pháp cứu độ hết thảy!)

Trong khung cảnh ấy còn xuất hiện âm nhạc và những cảnh tượng mỹ diệu mà các chúng sinh thiên thượng chưa từng nghe, chưa từng thấy, đó quả là:

Vạn ban mỹ diệu nhất đồng hiện (Tất cả mỹ diệu cùng xuất hiện)

Thiên ban tráng cảnh thiên địa gian (Muôn vàn tráng cảnh khắp đất trời)

Chủ Phật hạ tẩu cứu chúng sinh (Phật chủ hạ thế cứu chúng sinh)

Lực giải uyên oán từ bi hoán! (Lực giải uyên oán từ bi gọi!)

Vào thời điểm ấy, hết thảy chúng sinh đều đắm mình trong sự từ bi to lớn vô hạn và chấn động trước uy đức vĩ đại vô biên của Sư phụ. Tất cả đều quỳ xuống, hướng đến Phật Chủ thể hiện tấm lòng thành kính nhất!

Có lẽ để dễ dàng giao tiếp với chúng sinh, Sư phụ đã thu nhỏ thân thể lại. Mỗi từng chúng sinh đều vô cùng xúc động và rơi lệ; những giọt nước mắt ấy đã tạo thành vô số đại dương ở tầng thứ bên dưới.

Sư phụ nói với lòng từ bi vô hạn (đại ý): “Trong vũ trụ này, các tầng thứ thiên thể lớn hơn và nhỏ hơn của chư vị đều đã phát sinh vấn đề, ảnh hưởng đến sự an nguy của toàn thể chúng sinh vũ trụ, vì vậy tôi đã đến. Để giải cứu hết thảy vũ trụ, viên dung hết thảy, chúng ta phải hạ xuống tầng thấp nhất, chỉ như vậy mới có thể giải quyết vấn đề từ trên xuống dưới, từ vi quan đến hồng quan. Tôi đến đây, ở một phương diện, là để kết duyên với chư vị; ở một phương diện khác, tôi cũng muốn xem xem vị nào xuất nguyện cùng tôi hạ xuống tầng thấp nhất của vũ trụ để trợ giúp tôi cứu độ chúng sinh. Các vị cũng phải biết rằng, hạ xuống từng tầng từng tầng cũng đồng nghĩa với từng tầng từng tầng rơi vào cõi mê. Nếu các vị không tu luyện tốt thì sẽ vĩnh viễn không cách nào có thể hồi thăng. Nếu các vị không xuống, với sự biến dị và bại hoại nơi đây, hết thảy sẽ đi đến hủy diệt. Khi hồng thế của Chính Pháp tiến tới, thì các vị chỉ có thể được tái tạo, và những đặc tính nguyên lai của các vị sẽ mất hết. Trước khi hạ xuống, các vị phải ký thệ ước. Chư Thần không thể vi phạm thệ ước. Lúc đó, nếu có những can nhiễu của nhân tố phụ diện thì chư vị nhất định phải nhớ tới thệ ước hôm nay!”

Rất nhiều vị thần với quyền năng phi thường đều nói không chút do dự: “Chúng con nguyện ký thệ ước với Ngài, hạ xuống tầng thấp nhất, trợ giúp Ngài cứu độ chúng sinh! Chúng con không sợ bị hủy diệt, không sợ bị mê lạc, chỉ mong tận sức làm tốt những gì có thể để cứu độ hết thảy chúng sinh! Thệ ước của chư Thần, bất biến bất phá, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi!”

Lúc ấy một cuộn giấy hiện ra, trên đó ghi lại rõ ràng lời thệ ước của chúng ta.

Vào thời điểm đó, đất trời ca hát, cảm thán cho hành động từ bi vĩ đại của chúng ta. Họ mừng vui vì các chúng sinh trong thể hệ đó cuối cùng đều có cơ hội được đắc cứu. Những tiếng cười trong trẻo hòa cùng những giọt nước mắt thán phục!

Lúc ấy, Sư phụ đem mệnh của tất cả chúng sinh thu hết về nơi Ngài. Sư phụ an bài quá trình hạ thế và hồi thăng cho từng vị, dựa theo các chủng quan hệ nhân duyên và đủ loại nhân tố tại các tầng thứ sinh mệnh khác nhau, nói một cách đơn giản là tùy theo tình huống của từng người. Sự an bài này quá đỗi tỉ mỉ và huyền diệu; đó chính là tâm huyết và sự từ bi vô hạn của Sư phụ dành cho chúng sinh.

(Còn tiếp)

Lưu ý: Những điều tôi chia sẻ trên đây chỉ là những gì nhìn thấy tại tầng thứ hữu hạn của bản thân.

Dịch từ:

https://big5.zhengjian.org/node/273561

https://www.zhengjian.org/node/50933

https://www.pureinsight.org/node/7699

The post Luân hồi ký sự: Sư ân hạo đãng (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tu luyện tùy bút: Không tức giậnhttps://chanhkien.org/2022/03/tu-luyen-tuy-but-khong-tuc-gian.htmlWed, 02 Mar 2022 09:39:25 +0000https://chanhkien.org/?p=28404[ChanhKien.org] Con người sống trên thế gian, sống chỉ dựa vào cái khẩu khí, duy trì cách sống như vậy. Một người phổ thông rất coi trọng “khí”, cái “khí” này chúng ta có thể lý giải rằng nó là “tôn nghiêm bất khả xâm phạm”. Vậy nên phải duy trì khẩu khí này, không […]

The post Tu luyện tùy bút: Không tức giận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Con người sống trên thế gian, sống chỉ dựa vào cái khẩu khí, duy trì cách sống như vậy. Một người phổ thông rất coi trọng “khí”, cái “khí” này chúng ta có thể lý giải rằng nó là “tôn nghiêm bất khả xâm phạm”. Vậy nên phải duy trì khẩu khí này, không thể chịu ủy khuất, không thể bị nhục mạ, không thể bị mạo phạm, không thể chịu oan uổng, không thể chịu hạ thấp sỉ nhục, cũng không thể cúi đầu thuận theo ý người khác v.v. Nếu không thì cơn nóng giận trong tâm sẽ hoành hành và bùng cháy. Có rất nhiều người dễ nổi nóng, cả đời chỉ vì một khẩu khí, mà sống, mà khổ, mà mệt, mà chết, nhưng họ đến chết vẫn không nhận ra điều đó. Giống như trong Chuyển Pháp Luân, Sư phụ giảng:

“Có bao nhiêu người chỉ vì một khẩu khí mà sống, chịu không nổi liền treo lên mà chết.”

Người dễ nổi nóng thường sẽ vì một chuyện nhỏ nhặt mà nổi nóng, cho rằng nhân cách và lợi ích của bản thân đã bị tổn hại mà không thể chịu được, thậm chí còn chất vấn than với ông trời vì sao, tâm lý của họ mất cân bằng, rồi lại sinh ra oán hận và sự thù ghét.

Tôi nhận ra được những điều này vì gần đây tôi nhận thấy tôi là một người rất dễ nổi nóng. Mẹ tôi kể rằng lúc tôi còn nhỏ mẹ đi xem bói, thầy bói nói rằng bà có một cô con gái không thể chịu ủy khuất, thiệt thòi, chỉ cần chịu một chút tủi nhục là sẽ bật khóc. Tôi biết rằng người con gái đó là tôi.

Từ nhỏ đến lớn, trong tâm tôi đều phảng phất một luồng khí, nếu xảy ra một điều gì đó chạm vào tâm linh thì trong lòng sẽ bị xáo trộn, đầu tiên là trong tâm cảm thấy “chua chua”, tựa như trạng thái đang lên men vậy, sau đó luồng khí tức này cứ dần trướng lên, sau đó bùng phát ra, hóa ra “khí” thật sự là được “sinh” ra (người Trung Quốc dùng từ “sinh khí” để chỉ sự tức giận).

Sau khi tu luyện, chiểu theo những gì Sư phụ giảng, cần phải đồng hóa đặc tính của vũ trụ “Chân, Thiện, Nhẫn”, cái “Nhẫn” này trên bề mặt có lúc đã làm được, nhưng thực ra vẫn chưa làm được ở tận gốc. Khi người khác động tới tâm của bản thân mình, mỗi lời nói và hành động làm tổn thương đến tôi, đều giống như gửi lưu giữ vào ngân hàng từng chút một, từng chút từng chút một, đều được niêm phong trong sâu thẳm tâm tôi. Để rồi đến thời gian thích hợp sẽ bày ra ngay trước mắt, không sót một chút nào bày ra cái khí ấy. Như trong kinh văn Giảng Pháp tại Pháp hội Singapore [1998], Sư phụ giảng:

“Biết bao năm tháng cay đắng ngọt bùi, đều sẽ khiến họ nhớ lại, nói chung là để xem họ đối đãi như thế nào.”

Sư phụ trong bài “Thế nào là Nhẫn – Tinh Tấn Yếu Chỉ” giảng:

“Nhẫn mà uất hận, uỷ khuất, hay đẫm lệ là cái nhẫn của người thường với chấp trước vào tâm lo nghĩ, hoàn toàn không hề nảy sinh uất hận, không cảm thấy uỷ khuất thì mới là cái Nhẫn của người tu luyện.”

Theo lý giải của tôi thì là không có cảm giác, cười ha ha không động tâm mới là Nhẫn của người tu luyện. Trong Chuyển Pháp Luân, Sư phụ giảng:

“Như mọi người đã biết, [khi đã] đạt đến tầng La Hán, [thì] gặp sự việc gì cũng không để trong tâm, hết thảy những sự việc nơi người thường đều hoàn toàn không để tâm, đều là vui vẻ thoải mái; chịu thiệt thòi lớn đến mấy, vẫn cứ vui vẻ thoải mái. [Nếu] thật sự có thể làm được vậy, thì chư vị đã đạt đến quả vị sơ cấp của La Hán.”

Tôi thật xấu hổ vì từ trước tới giờ tôi chưa làm được và đề cao tới cảnh giới đó.

Nguyên nhân tức giận chính vì tâm hồn hẹp hòi, độ lượng không lớn, lòng dạ không đủ rộng rãi, không đủ bao dung, không có tâm từ bi với chúng sinh. Làm một người tu luyện nếu như tức giận, thì đó chính là không lấy lý ở tầng thứ cao để đo lường sự việc xảy ra, không nghe lời Sư phụ, chưa hoàn toàn tin vào Pháp mà Sư phụ giảng. Mà lại dùng lý của người thường, lấy cái đúng sai của người thường để đi đo lường và tính toán, trong tâm bất bình nên mới tức giận.

Nhớ lại bài chia sẻ trên Minh Huệ Net, có một đoạn khiến tôi ấn tượng sâu sắc. Đồng tu ấy nằm mơ, trong mơ có một người lạ không biết tại sao muốn đẩy cô ấy xuống biển, dùng sức lực rất mạnh, nếu ngã xuống thì chắc chắn sẽ chết, đồng tu trong giấc mơ nhanh chóng bị đẩy xuống biển, trong tâm tức giận lên tới cực điểm, nhưng đột nhiên đổi suy nghĩ lại, chết thì chết thôi, là người tu luyện thì không tức giận, không hận. Niệm đầu vừa xuất ra, bỗng dưng có một lực lượng định cô ấy lại, và cô ấy không bị rớt xuống đại dương. Khi tôi xem bài chia sẻ này thì tôi thầm biết, người tu luyện trong bất kể tình huống nào cũng không được hận, không được tức giận.

Trước đây tôi nghe người khác nói rằng người tu luyện cần phải nhẫn nhịn và không được tức giận, thậm chí khi bị người khác nhổ nước bọt vào mặt, ngay cả lau nước bọt cũng không lau, chỉ mỉm cười cho qua, càng không nói đến để nó trong tâm.

Trong Chuyển Pháp Luân, Sư phụ giảng:

“Người có công sẽ không muốn khí, điều ấy là khẳng định.”

“Như vậy cũng nói có khí là có bệnh.”

“Mọi người thử nghĩ coi, thân thể chư vị có khí là có bệnh.”

Trước kia tôi hay đi tiêu chảy, nhất là khi ăn trái cây hay cơm nguội, ngay lập tức là đi tiêu chảy. Khi tôi nhận thức ra được điều này, tôi ít khi tức giận, tôi uống nước lạnh và ăn trái cây đều không bị tiêu chảy nữa.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/271173

The post Tu luyện tùy bút: Không tức giận first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Từ chuyện của Khương Tử Nha và Thân Công Báo thiển đàm về mối nguy hại của tâm tật đốhttps://chanhkien.org/2022/01/tu-chuyen-cua-khuong-tu-nha-va-than-cong-bao-thien-dam-ve-moi-nguy-hai-cua-tam-tat-do.htmlTue, 11 Jan 2022 05:13:17 +0000https://chanhkien.org/?p=28265Tác giả: Nhân Như [ChanhKien.org] Nhân vật Thân Công Báo trong truyện “Phong Thần diễn nghĩa” là sư đệ của Khương Tử Nha, vì ỷ mình có bản lĩnh cao cường nên chẳng coi ông lão già yếu sư huynh Khương Tử Nha ra gì, cái tâm tranh đấu và tâm tật đố mạnh mẽ […]

The post Từ chuyện của Khương Tử Nha và Thân Công Báo thiển đàm về mối nguy hại của tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Nhân Như

[ChanhKien.org]

Nhân vật Thân Công Báo trong truyện “Phong Thần diễn nghĩa” là sư đệ của Khương Tử Nha, vì ỷ mình có bản lĩnh cao cường nên chẳng coi ông lão già yếu sư huynh Khương Tử Nha ra gì, cái tâm tranh đấu và tâm tật đố mạnh mẽ này dễ khiến ông ta lầm đường lạc lối. Về điểm này thì Nguyên Thuỷ Thiên Tôn đã sớm nhìn rõ, còn Khương Tử Nha bản tính hiền lành đôn hậu lại gánh vác thiên mệnh giúp sư phụ phong Thần, vậy nên Nguyên Thuỷ Thiên Tôn đã phái Khương Tử Nha theo thiên mệnh xuống núi Côn Luân phò nhà Chu diệt vua Trụ, hoàn thành việc ấy cũng chính là hoàn thành xong sứ mệnh trợ sư phong Thần. Bản thân Thân Công Báo không thể nào hiểu được nguyên do của sự an bài ấy, lại tự cho mình có bản sự mạnh hơn Khương Tử Nha gấp trăm lần, vì sao sư phụ lại phái sư huynh vừa già vừa không có bản sự gì đi chủ trì việc phong Thần mà không phái ông ta đi? Từ đó trong lòng thấy căm phẫn bất bình, thậm chí còn oán trách sư phụ thiên vị.

Thân Công Báo ghen tức mãi không thôi việc Khương Tử Nha được nắm quyền phong Thần, hơn nữa còn tự khiến bản thân bước sang đường bất chính, đánh mất trí huệ của người tu Đạo, cuối cùng ông ta đã đi kích động một toán cao nhân đến đối phó với Khương Tử Nha, gây ra khó nạn lớn cản trở việc Võ vương phạt vua Trụ, không những làm ngược lại ý của sư phụ (ý của sư phụ ông là thuận theo thiên ý) mà còn làm ngược lại với lời hứa của mình, cuối cùng vì tội ác chất chồng nên bị Nguyên Thuỷ Thiên Tôn ném thân xác vào mắt biển Bắc Hải mà bỏ mạng, quả thật là quá ư ngu muội. Điều này cho thấy tâm tật đố gây nguy hại rất lớn cho con người, nó khiến người ta dễ mất lý tính và tâm trí, thậm chí đánh mất cả lương tri, thế nên nhất định phải tu bỏ ác tâm này. Giới tu luyện còn quy định rõ:

“…rằng trong tu luyện nếu người ta không vứt bỏ được tâm tật đố thì không đắc chính quả, tuyệt đối không đắc chính quả.” (Chuyển Pháp Luân)

Tâm tật đố của Thân Công Báo biểu hiện rất rõ ràng và mãnh liệt. Truyện Phong Thần diễn nghĩa hồi 37 có đoạn:

– Tử Nha từ giã ôm bảng phong thần đi đến núi Kỳ Lân toan độn thổ mà đi, xảy nghe có tiếng gọi cheo chéo sau lưng: Bớ Khương Tử Nha!

– …… Hoá ra là sư đệ Thân Công Báo.

– Thân Công Báo nói: “Sau này anh tính phò ai?”

– Tử Nha cười nói: “…… Nay Võ Vương ân đức cao dày sánh với bậc Nghiêu, Thuấn; cơ nghiệp Thành Thang tối tăm, chỉ truyền được một đời nầy nữa là đứt, há sư đệ không biết hay sao?”

– Thân Công Báo nói: “Anh bảo là khí số nhà Thương đã dứt, vậy hôm nay tôi xuống núi bảo vệ cơ nghiệp Thành Thang, phò tá vua Trụ. Anh cứ xuống phò Châu, tôi sẽ quấy nhiễu anh thử thế nào cho biết”.

– Tử Nha nói: “Sao sự đệ lại nói bừa như vậy? Lệnh của Sư Tôn lẽ nào dám cãi?”… “Sư đệ có ý như vậy, nhưng tôi không thể trái lời thầy. Vả lại lúc nào tôi cũng phục tùng thiên mệnh”.

– Thân Công Báo nổi giận nói: “Tử Nha, ngươi tu luyện có 40 năm, công lực bao nhiêu mà dám phò Châu. … Ngươi chẳng qua học thông thuật ngũ độn và phép di sơn đảo hải mà thôi, sánh với ta sao được. Ta chặt thủ cấp liệng lên trời, đi chơi muôn dặm rồi mây đỏ chở thủ cấp đem ráp lại như thường, vậy mới đáng công học đạo. Chớ như ngươi tài phép gì mà phò Chu diệt vua Trụ!”

– Tử Nha nghe Thân Công Báo nói thế, nghĩ thầm: “Đầu người thứ đứng đầu lục dương, lẽ nào lại có thể cắt đầu quăng lên trời cho bay một hồi rồi lắp lại được? Thật là hiếm thấy!”…

– Bấy giờ Nam Cực tiên ông, sau khi đưa Tử Nha ra khỏi cửa, thơ thẩn mãi chưa vào cung, thấy Thân Công Báo cưỡi hổ chạy theo Tử Nha đến núi Kỳ Lân lại múa tay múa chân mà nói chuyện. Lại thấy đầu của Thân Công Báo bay qua bay lại trên trời. Nam Cực tiên ông nghĩ rằng: “Tử Nha tánh tình thật thà e lầm mưu gian trá”. Liền gọi Bạch Hạc đồng tử nói: “Ngươi hãy hiện nguyên hình, tha đầu Thân Công Báo đem qua Nam Hải cho ta”….

Nam Cực tiên ông hiện đến vỗ vào lưng Tử Nha một cái… Nam Cực tiên ông chỉ Tử Nha nói: “Ngươi ngốc hay sao mà tin nhảm như vậy. Thân Công Báo là tả đạo, dùng huyễn thuật (ảo thuật), ngươi tưởng thật à? Chỉ nội trong một giờ ba khắc mà không ráp đầu được, nó sẽ tuôn máu ra mà chết. Thầy dặn ngươi không được nói chuyện với ai, sao ngươi không tuân lời. Nó sẽ kêu 36 đạo binh đến đánh ngươi đó. Lúc trước ta ở trước cung Ngọc Hư nghe ngươi giao ước với nó đốt bảng phong thần xuống Triều Ca phò vua Trụ, ngươi tưởng bảng Phong Thần dễ đốt lắm sao? …. Ta thấy vậy nên sai Bạch Hạc tha đầu nó quăng xuống Nam Hải đặng quá giờ nó chết cho rồi. Hễ nó chết là ngươi khỏi lo”.

– Tử Nha nói: “Xin tha cho hắn một phen. Lòng đạo ai cũng lấy từ bi làm trọng. Thân Công Báo tu luyện đã lâu năm, chẳng lẽ vì biểu diễn công lực cho bạn bè xem mà hại nó như vậy?” – Nam Cực tiên ông nói: “Ngươi có tình thương đối với nó, nhưng nó không có tình thương đối với ngươi đâu. Ngày nay tha nó, ngày sau có 36 đạo binh đến đánh ngươi, ngươi đừng than thở!”

Tử Nha nói: “Sau này có 36 đạo binh tìm tới, tôi sẽ không từ bi nữa, nay làm thế là bất nhân bất nghĩa”.

Còn Thân Công Báo bị Bạch Hạc tha đầu không thể lắp vào thân thể, trong lòng sốt ruột, Tử Nha cầu xin Tiên ông tha cho sư đệ, Tiên ông phất tay lệnh cho Bạch Hạc đồng tử tha đầu về thả xuống, cái đầu rớt nhầm chỗ mà trở mặt ra sau lưng. Thân Công Báo đưa tay sửa lại, mở con mắt ra, nhìn Nam Cực Tiên ông chứa đầy thù hận, Nam Cực tiên ông hét lớn: “Ngươi là yêu nghiệt, theo cám dỗ Tử Nha, bảo đốt bảng Phong thần bỏ Chu phò Trụ? Lẽ ra ta bắt ngươi dẫn đến cung Ngọc Hư cho thầy ta trị tội!” Rồi bảo Thân Công Báo: “Đi đi!”

Thân Công Báo chỉ vào Khương Tử Nha nói: “Huynh đi đi! Trong chốc lát ta sẽ biến Tây Kỳ thành biển máu, xương trắng chất như núi cho huynh xem!” Nói rồi Thân Công Báo hậm hực rời đi.

Khương Thượng (Tử Nha) 32 tuổi mới lên núi Côn Luân theo thầy Nguyên Thuỷ Thiên Tôn tu Đạo, tu được 40 năm rồi sư phụ liền bảo ông xuống núi lo việc phong Thần, Tử Nha một lòng muốn tu Đạo thành Tiên, đối với phú quý quyền thế nơi nhân gian đã sớm chẳng truy cầu, dẫu rằng sư phụ nói ông từ nhỏ đã bạc mệnh, đạo Tiên khó thành, chỉ có thể lấy công phu mấy chục năm tu luyện đổi lấy phúc báo công danh tại nhân gian mà thôi, ngay cả khi ông phát nguyện chịu khổ hạnh, cầu xin sư phụ ở lại thì sư phụ vẫn chiểu theo thiên mệnh bảo ông lập tức xuống núi. Thân Công Báo tuy rằng bản lĩnh cao cường hơn Khương Tử Nha rất nhiều, nhưng vì tâm tính bất hảo (tâm tranh đấu và tâm tật đố quá mạnh mẽ, lại còn tham luyến công danh lợi lộc chốn nhân gian) nên không được sư phụ giao phó chuyện phong Thần; từ một góc độ khác mà xét, bản lĩnh cao cường của Thân Công Báo trong con mắt chư Thần chỉ là chút ảo thuật nhỏ nhoi, có thể mê hoặc thế nhân nhưng không được tiên giới xem trọng, điều trên thiên thượng xem trọng là tâm tính một người cao thấp ra sao: người tâm tính tốt (ví như không ghen ghét đố kỵ, không thù hận, có thể suy nghĩ cho người khác, thành tín trung thực…) thì có thể được hưởng phúc phận ở nhân gian, lúc sinh thời được bái tướng phong hầu, khi chết đi thì được thiên thượng ghi tên trong bảng phong Thần; còn người tâm tính bất hảo (tâm đố kỵ mạnh mẽ, không muốn thấy người khác hơn mình, vì mình hại người, trợ Trụ vi ngược…) có thể lúc sinh thời may mắn được công thành danh toại, nhưng nếu một mực buông lơi bản thân, vì tư dục mà làm hại người khác thì sẽ thành hại chính mình, trường hợp này thì Thân Công Báo là một ví dụ điển hình. Bậc trí giả có câu: “Thiện ác đều là do tự mình lựa chọn” Người gieo mầm thiện sẽ được thiên thượng ban cho điều tốt (có thể là khi còn tại thế, cũng có thể là sau khi chết, mỗi người đều có nhân duyên khác nhau), kẻ hành ác kỳ thực là đang đào hố chôn mình, dương dương tự đắc mà không biết, điều đó chẳng phải đáng thương lắm hay sao?

Vậy nên khi gặp phải người (hoặc chuyện) bất nhân bất nghĩa hoặc tuỳ tiện làm hại chúng ta, thì ta không cần oán trách trời cao bất nhân, không trừng trị mà ngược lại còn để kẻ ác ngang ngược hoành hành. Bởi chúng ta cần nhớ rằng thiện ác cuối cùng cũng sẽ báo, hết thảy những việc con người đã làm đều không qua được mắt chư Thần, lẽ nào một người có thể thoát khỏi báo ứng cho được? Hết thảy mọi kết cục đều là con người tự chọn lấy mà thôi! Chúng ta cần minh bạch đạo lý này, cần dùng thái độ khoan dung mà đối đãi với hết thảy cảnh ngộ nhân sinh một cách lý tính, không cho phép nghịch cảnh khiến ta nảy sinh cảm giác phẫn uất quá khích, cần thời thời khắc khắc lấy tấm gương Thân Công Báo để cảnh giác và tự răn mình. Chớ vì chút tiểu năng tiểu thuật mà kiêu căng tự mãn, ghen ghét vì người khác hơn mình mà thốt ra những lời phỉ báng, thậm chí vì tranh đấu thắng thua mà đánh mất bản tính thiện lương của chính mình. Kỳ thực những thứ có được từ sự tranh giành sẽ không thuộc về chúng ta vĩnh viễn, ngược lại cái tâm lo sợ mất đi những thứ đó sẽ khiến chúng ta hãm trong hiểm cảnh, người được thiên thượng chiếu cố ắt hẳn là người có đức tính tốt, những người mà đời này được hưởng đại phú đại quý hoặc có trí tuệ hơn người đều là đã tích được đại đức từ tiền kiếp.

Người ta thông thường hay chịu ảnh hưởng của câu nói sai lầm “hảo nhân bất trường thọ, hoạ hại di thiên niên” (người tốt thì thường không sống lâu nhưng tai hoạ lại kéo dài từ đời này sang đời khác), cho rằng kẻ ác đường hoàng bệ vệ không những không chịu ác báo mà còn vì tính kế hại người khác mà được hết thảy những điều tốt. Kỳ thực họ là đang hưởng tận số phúc đức tích được từ tiền kiếp, không biết hối cải vẫn khăng khăng hành ác, đến khi phúc đức dùng cạn sẽ chịu nhận ác báo (có thể là chết vì tai nạn, chết do bệnh hiểm nghèo, thậm chí chết rồi vẫn bị hành hạ đến không ngừng nghỉ…). Lại thấy người tốt ở đời này thường chịu ức hiếp, chịu đủ loại khổ nạn thậm chí phải chết oan ức, nên cho rằng kẻ ác được hưởng phúc còn người tốt ngược lại phải chịu nhận ác báo. Thật ra đó cũng là vì đời trước họ đã từng gieo mầm ác và kết oán với người nên mới chịu kiếp nạn (đời này là họ người tốt, nhưng trong tiền kiếp đã làm việc ác và kết oán với người mà gây nợ nghiệp, nên phải hoàn trả món nợ cũ). Đạo của trời đất xưa nay vận hành công chính không thiên lệch, thiên thượng nhất định sẽ không vô cớ khiến ai phải chịu kiếp nạn hay chịu tội, một người bình thường vốn không nhìn rõ nhân duyên quan hệ đằng sau sẽ dễ bị oai lý tà thuyết dẫn dắt. Thật ra hết thảy mọi thứ con người phải hứng chịu đều là do tự mình tạo nên, chính như câu nói của người xưa: “Muốn biết nhân đời trước, cứ xem quả đời này; muốn xem quả đời sau, xem nhân đời này tạo”. Chúng ta khi chịu tội nghiệp hoặc gặp phải những sự tình không như mong muốn thì không nên oán trách trời cao không thương xót, mà nên dũng cảm đón nhận cũng như đối đãi với hết thảy những gì mình gặp phải một cách khoan dung độ lượng, và càng nên nhớ rằng truyện Phong Thần diễn nghĩa đã cho con người một gợi mở: mắt Thần như điện, thiện ác đều do tự mình lựa chọn, chớ thấy việc ác nhỏ mà xem thường, trong tâm thường mang thiện niệm thì sẽ được trời cao phù hộ!

Ghi chú: xế trửu nghĩa là cản tay, ví như ngăn cản ai làm gì đó. Khiên chế kỳ trửu là để người khác làm nhưng cố ý gây khó dễ để ngăn cản.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/110615

The post Từ chuyện của Khương Tử Nha và Thân Công Báo thiển đàm về mối nguy hại của tâm tật đố first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tật cận thịhttps://chanhkien.org/2021/11/tat-can-thi.htmlSat, 13 Nov 2021 16:28:00 +0000https://chanhkien.org/?p=28098Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đài Loan [ChanhKien.org] Ngày nay, cứ mười em học sinh thì có đến tám, chín em bị cận thị. Có người nói rằng nguyên nhân của tật cận thị là do đọc sách quá nhiều, tư thế ngồi không đúng hoặc do lượng ánh sáng không đủ, v.v… […]

The post Tật cận thị first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Đài Loan

[ChanhKien.org]

Ngày nay, cứ mười em học sinh thì có đến tám, chín em bị cận thị. Có người nói rằng nguyên nhân của tật cận thị là do đọc sách quá nhiều, tư thế ngồi không đúng hoặc do lượng ánh sáng không đủ, v.v… Trước tiên chúng ta không nói việc các em đang xem gì đọc gì, mà nói về tư thế ngồi, hiện nay người ta ngồi học chẳng có tư thế, ngồi nghiêng bên này lệch bên kia, lại còn nằm ngửa, nằm sấp mà đọc sách.

Sư phụ đã giảng trong Chuyển Pháp Luân rằng:

“Thời ấy người đi học, đều phải chú trọng đả tọa, khi ngồi cũng giảng [phải] có tư thế;”

Còn hiện nay trong sách mà học sinh đọc và chương trình TV mà học sinh xem cái gì cũng có, hễ mở ra thì những thứ bạo lực, sắc tình, quan niệm biến dị đều tạp lẫn trong đó, trong đầu chỉ toàn những thứ bất hảo ấy thì hỏi mắt có thể tốt được không?

Thời gian đọc sách của các thư sinh ngày xưa có ít hơn học sinh ngày nay không? Thời ấy còn chưa có các thiết bị chiếu sáng như bây giờ, trời tối thì người ta phải nhờ vào ánh trăng hoặc thắp nến để chiếu sáng. Nhưng trong sách cổ rất ít đề cập rằng người thời ấy phổ biến bị cận thị hoặc các bệnh tương tự về mắt.

Trong y học người ta vẫn luôn nghiên cứu xem làm sao để chữa khỏi tật khúc xạ này, điều chỉnh thế nào, phẫu thuật cắt bớt giác mạc, loại bỏ mô giác mạc bằng tia laser, phương pháp điều trị thật sự là không ít, nhưng tất cả đều chỉ là chữa trị bề mặt.

Người xưa biết rõ rằng cái gì không nên xem, do đó họ giảng: phi lễ vật thị, nhãn bất kiến vi tịnh (điều gì không hợp lễ nghĩa thì không nên nhìn mà giữ tâm thanh tịnh), nhưng con người ngày nay mắt chỉ nhìn những thứ không thanh tịnh, còn cố ý muốn nhìn, vấn đề rốt cuộc nằm ở đâu? Các bạn đã tìm ra chưa?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/11406

The post Tật cận thị first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Những nhân tâm nguy hiểm (2)https://chanhkien.org/2021/11/nhung-nhan-tam-nguy-hiem-2.htmlTue, 09 Nov 2021 15:26:24 +0000https://chanhkien.org/?p=28088Tác giả: Thiên Chi Dao – đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Chủ nguyên thần tu luyện đã luân hồi nơi người thường qua hàng trăm nghìn năm. Trong tận xương cốt đã hình thành nên những quan niệm và nghiệp tư tưởng cố chấp, trong năm tháng nhân sinh dài […]

The post Những nhân tâm nguy hiểm (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thiên Chi Dao – đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Chủ nguyên thần tu luyện đã luân hồi nơi người thường qua hàng trăm nghìn năm. Trong tận xương cốt đã hình thành nên những quan niệm và nghiệp tư tưởng cố chấp, trong năm tháng nhân sinh dài đằng đẵng, có rất nhiều quan niệm và nhân tâm đã trở thành tự nhiên, rất khó để phân biệt ra. Những ngày gần đây, tôi còn phát hiện ra một số chủng tâm sau đây mà chúng ta cần phải tống khứ.

8. Tâm tham lam

Đối với người thường mà nói, tham tiền háo sắc, tham danh trục lợi đã là bản tính tự nhiên, nhưng là một người tu Đạo, tâm tham không bỏ sẽ khó thành chính quả. Chư Bát Giới tham ăn háo sắc, tham tiền tài, kiên trì nhưng không dứt khoát, thật không dễ dàng mới đến được Tây Thiên. Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự hủ bại của tà đảng chính là hai nhân tố tiền và sắc. Chủng tâm này rất dễ bị phụ thể ngạ quỷ kéo xuống địa ngục. Tham lam và hủ bại luôn luôn đi cùng với nhau.

9. Tâm lười biếng

Có lúc luyện công thì đầu voi đuôi chuột (chỉ việc luyện công ban đầu rất quyết tâm, nhưng được một thời gian thì lại nản chí), học Pháp cũng không chuyên chú, đa số đều là do nhân tố lười biếng này tạo thành. Bởi vì nếu như càng không tinh tấn, vật chất trong cơ thể sẽ càng hỗn tạp, vật chất bất hảo sẽ xuất hiện trở lại khiến cơ thể mệt mỏi buồn ngủ, cũng bởi vì nhục thân nặng nề mà cản trở việc tinh tấn. Bản thể không thể chuyển hoá được, không khởi phía mặt Thần lên được, cũng không đạt được mục đích tính mệnh song tu và trường sinh. Lúc này tà linh trong cựu vũ trụ sẽ thừa cơ can nhiễu và bức hại.

10. Tâm truy cầu

Chủng tâm này sẽ dẫn động bản thân hướng ngoại tìm mà không tu tâm tính. Việc cầu điều này, cầu điều kia, rất dễ chiêu mời những nhân tố bất hảo. Tu luyện Chính Pháp cần phải thay đổi quan niệm triệt để, phải thật sự coi tất cả những vật ngoài thân là tuỳ duyên, lấy khổ làm vui. Hướng nội tìm là Pháp bảo. Lời dạy của Sư phụ lúc nào, ở đâu cũng không được quên. Chỉ có dừng việc hướng ngoại tìm mà phải hướng nội tìm mới có thể chân chính đề cao tâm tính của bản thân, nội tâm mới có thể thật sự mạnh mẽ lên. Tu thành người có đức cao, mới có thể không phụ sự kỳ vọng của chúng sinh.

11. Tâm tự ti

Chủng tâm này rất đáng thương, nó không giống với tâm khiêm nhường, khiêm nhường là kính nể đối với Thiên thượng và Thần linh, còn tự ti sẽ làm cho bản thân bị phong bế quá mức, cũng là một chướng ngại của tu luyện.

12. Tâm ngạo mạn

Tu luyện trong xã hội người thường, có đôi khi sẽ bị lẫn lộn với họ. Biểu hiện ra là khinh miệt, kiêu căng và ngạo mạn. Tà linh cũng trói buộc nhân loại vào cái tâm khinh miệt người khác, loại tâm này sẽ bất lợi cho việc tu Đạo.

13. Tâm tiếc của

Quý tiếc đồ vật mà không muốn vứt đi, nhưng đừng sản sinh tâm chấp trước, tiếc của giữ lại mà suy tính thiệt hơn. Đặc biệt tu luyện nơi xã hội người thường có quá nhiều dụ hoặc. Đối diện với danh, lợi, tình, chỉ cần có thể dám làm dám buông bỏ là được rồi. Hiện nay, người thường họ chấp trước thái quá vào thú cưng đến mức thần tình mê mẩn, nhưng nếu là người tu luyện thì như vậy không đúng rồi.

14. Tâm oán hận

Cái tâm này đa số đều do nghiệp lực dẫn tới, nếu lâu ngày không dứt bỏ niệm này thì cũng sẽ bị tà linh tăng cường lợi dụng, chúng ta cần kịp thời phân biệt rõ, phát chính niệm để thanh trừ và giải thể sự nguy hại của nó. Oán hận hay tức giận cũng là ma tính, không phù hợp với Đại Pháp và đặc tính của vũ trụ, loại tâm này cần phải tu bỏ.

15. Tâm lo lắng

Nó sinh ra từ tâm sợ hãi. Làm tốt ba việc Đại Pháp, thì có thể giữ vững lý trí và tu khứ tâm sợ hãi. Kì thực điều này cũng không mâu thuẫn, không sợ hãi không đồng nghĩa với việc hét to một cách mất lý trí. Tâm lo lắng sẽ dẫn đến tự tâm sinh ma, thuận theo việc nó phát triển cũng sẽ rất nguy hiểm. Bởi vì rất nhiều ma nạn đều là do chủng tâm này phát triển lên mà bị cựu thế lực nắm thóp bức hại. Người tu Đạo không thể không đề phòng cái tâm này.

16. Tâm an dật

Cái tâm này hễ xuất hiện thì con người sẽ truy cầu một cuộc sống an nhàn thoải mái, sẽ tăng trưởng cảm giác hưởng lạc mà phóng túng dục vọng. Tà ma lạn quỷ sẽ thừa cơ hủy hoại người tu luyện. Cho nên tu luyện Đại Pháp, khi nhân tố tà ác bị tiêu huỷ lượng lớn khiến cho hoàn cảnh trở nên thoải mái sẽ sinh ra tâm an dật, khiến cho bản thân không thể tinh tấn, đây là điều rất đáng sợ.

17. Tâm buông thả

Hài lòng với hiện tại mà không nghĩ cách tiến lên, thậm chí còn thụt lùi. Nếu như phát chính niệm và luyện công không theo kịp thì nhục thân sẽ trở nên nặng nề, ham ăn thích ngủ mà dẫn tới tâm tình giải đãi. Đây là một chủng tâm mà người tu đương nhiên phải trừ bỏ.

18. Tâm hư vinh

Thích giữ thể diện, nhìn gì cũng không thấy vừa mắt lắm, tâm này sẽ khiến người tu luyện trở nên nóng nảy. Nếu như không thể cải biến bản thân ở tầng thâm sâu thì biến hoá bên ngoài nhục thân sẽ không nhiều hoặc là tâm tính sẽ khó đề cao lên.

19. Tâm nóng vội

Tâm nóng vội khiến người ta dễ nổi cáu, phát hoả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự thăng hoa của tâm tính, hơn nữa còn làm cho tâm địa trở nên hẹp hòi. Nếu tâm tính không đề cao lên thì sẽ không được Đại Pháp gia trì, dẫn tới uy lực giảng chân tướng cứu người cũng sẽ không đủ.

20. Tâm ỷ lại

Chủng tâm này hại người ghê gớm nhất, nếu như xuất hiện tình trạng ỷ lại vào ai đó trên diện rộng thì sẽ làm hại chết đồng tu. Đã có biết bao bài học thương tâm về phương diện này. Người tu luyện cần bước đi trên con đường của mình, tuyệt đối không thể ỷ lại vào bất kỳ ai. Cựu thế lực vì để hại người mà thay đổi Pháp lý, chúng ta cũng cần tương kế tựu kế thay đổi cách thức cứu người. Con đường tu luyện của mỗi người đều không giống nhau, sứ mệnh và trí huệ cũng không giống nhau, cho nên tuyệt đối không thể sinh ra sự sùng bái và bắt chước làm theo đồng tu nào, càng không thể ỷ lại vào họ. Nơi nào trong xã hội nhân loại cũng là hoàn cảnh tu luyện Đại Pháp, chỉ cần dụng tâm thì Pháp thân Sư phụ sẽ an bài con đường tốt nhất cho chúng ta, tuyệt không thể mô phỏng và tham chiếu. Đặc biệt là các đồng tu kỹ thuật, cần chủ động đi làm các việc Đại Pháp, không nên đợi người khác ỷ lại.

Vô vi thanh tịnh, hoà ái từ bi, đây đã là những cảnh giới vượt rất xa người thường, những điều này không thể tính là nhân tâm. Sinh mệnh của vũ trụ cũ là vị tư. Con người sống chỉ vì tình, vì duyên mà sinh ra tình, vì tình mà sinh ra yêu và ghét, nên từ bi không phải là cảnh giới của người thường. Mỗi một chủng nhân tâm đều là cỏ dại độc hại trên con đường tu luyện, cũng là chướng ngại trong việc đề cao tâm tính. Cho nên chúng ta cần hạ quyết tâm, xả tận đến vô lậu, viên mãn theo Sư phụ trở về.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/266008

The post Những nhân tâm nguy hiểm (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Những nhân tâm nguy hiểm (1)https://chanhkien.org/2021/11/nhung-nhan-tam-nguy-hiem-1.htmlSat, 06 Nov 2021 15:02:38 +0000https://chanhkien.org/?p=28076Tác giả: Thiên Chi Dao – đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Tu luyện Đại Pháp, ngoại trừ việc thời thời khắc khắc bảo trì chính niệm và lý trí, tôi phát hiện một vài chủng loại nhân tâm sau đây có tác hại lớn nhất, đó cũng là những tâm […]

The post Những nhân tâm nguy hiểm (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thiên Chi Dao – đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Tu luyện Đại Pháp, ngoại trừ việc thời thời khắc khắc bảo trì chính niệm và lý trí, tôi phát hiện một vài chủng loại nhân tâm sau đây có tác hại lớn nhất, đó cũng là những tâm mà đến cuối cùng phải trừ bỏ sạch sẽ, nếu không sẽ chiêu mời phiền phức và sự bức hại của tà ác.

1. Tâm sợ hãi

Tâm sợ hãi sẽ chiêu mời ma quỷ, bởi vì tâm sợ hãi mang tính âm, cái tâm này một khi dấy khởi lên thì ở không gian khác sẽ hình thành một trường vật chất mang tính âm, sẽ xuất hiện cảm giác khiếp sợ, kinh hãi v.v. khiến người tu luyện mất đi chính khí và sự mạnh mẽ. Đồng thời sợ hãi sẽ sản sinh ra nghi tâm, từ sợ sẽ sinh nghi, nghi Thần nghi quỷ. Có một số người trong khi làm việc thì nói một đằng làm một nẻo, do dự không quyết định, kỳ thực đều là cái tâm sợ này, sợ nọ mà chiêu mời tới những vật chất biến dị khống chế họ. Những điều này đều do tâm sợ hãi tạo thành, thực ra sợ điều gì cũng đều không đúng.

2. Tâm sắc dục

Chủng tâm này một khi khởi lên thì sẽ chiêu mời đến rất nhiều những thứ dơ bẩn, một khi nó xuất ra, những ma tình lạn quỷ ở không gian tầng thấp sẽ ùn ùn kéo tới. Rất nhiều người tu Đạo vì điều này mà bỏ cuộc giữa đường. Loại tâm này cực kỳ dơ bẩn, giống như bãi rác hoặc nhà xí, là nơi ruồi bọ rất yêu thích. Nhưng chúng ta tu luyện trong xã hội người thường cũng thực sự rất khó cự tuyệt nó. Cá nhân tôi hiểu rằng Đại Pháp là khai truyền nơi xã hội người thường, cũng không thể xuất gia, xã hội nhân loại chính là một trường tu luyện to lớn, với mỗi cá nhân thì cuộc sống sinh hoạt và môi trường công việc đều là một hoàn cảnh tu luyện. Chúng ta cần phải xem nhẹ và buông bỏ nó. Vô dục tất cương (không có dục vọng thì sẽ mạnh mẽ), chúng ta cần hết sức coi nhẹ và trừ bỏ nó. Nếu đường đường chính chính kết hôn thì sẽ không thành vấn đề, nhưng quyết không thể mê dục háo sắc giống như người thường được, cần phải tu tâm đoạn dục, tuyệt đối không thể có những niệm đầu bất chính.

3. Tâm tranh đấu

Tâm này rất phù hợp với sự hận thù của tà linh, lúc biểu lộ ra thì là oán hận và tức giận, là một chủng tâm oán hận mạnh mẽ, là tâm căm ghét cái ác. Có lúc bị nhân tố tà ác phóng đại mà không tự biết, một khi cái tâm này dấy khởi lên thì sẽ rơi vào thế cục mê của tà ác, không còn phù hợp với tiêu chuẩn tâm tính của Đại Pháp nữa rồi. Đại Pháp của chúng ta là không có kẻ địch, mà chúng ta là tu Thiện, ở không gian bề mặt này nhất định phải cư xử thiện với người thường. Mà đệ tử Đại Pháp diệt trừ tà ác là hoàn toàn thông qua việc phát chính niệm, thanh trừ tà ác phá hoại Đại Pháp ở các tầng không gian, còn ở không gian bề mặt chỉ có thể lý trí thanh tỉnh mà giảng chân tướng để cứu người, tuyệt đối không thể động ác niệm mà sử dụng bạo lực. Đây là thể ngộ của cá nhân tôi. Chúng ta nhất định phải rõ điểm này, không được để tà ác dùi vào sơ hở.

4. Tâm tật đố

Đây là khởi nguồn của hết thảy tư tâm, nếu không tu bỏ cái tâm này thì sẽ không thể tu xuất ra được tấm lòng khoáng đạt, bao dung với người khác. Tâm tật đố sinh ác niệm, đối với người tu Đạo mà nói thì cũng đồng dạng như là tự huỷ hoại chính mình. Thân Công Báo tật đố với Khương Tử Nha chính là bài học.

5. Tâm hoan hỷ

Tâm hoan hỷ khiến người ta mất đi lý trí, sinh ra kích động, từ đó mà bị tà linh can nhiễu. Vậy nên dù có làm được bao nhiêu việc trong Đại Pháp đi nữa thì cũng không được sinh ra tâm hoan hỷ. Làm việc không cầu kết quả, mà chỉ vì chúng sinh có thể đắc cứu.

6. Tâm hiển thị

Tâm này sẽ khiến người ta trở nên cực kỳ kiêu căng và cuồng ngạo, mê mất bản tính, giống như say rượu mà điên cuồng, nó cũng có thể chiêu mời tới chuyện phiền phức. Giống như việc Tôn Ngộ Không ở chùa Quán Âm khoe chiếc áo cà sa cho tới việc người thường khoe tiền của trên mạng v.v. Trong tu luyện cần bảo trì sự khiêm tốn, ở đâu lúc nào cũng cần cảnh tỉnh bản thân, đều không thể phô trương.

7. Tâm chấp trước

Phạm vi của chủng tâm này cực kỳ rộng lớn. Nói một cách khái quát thì chủ yếu là buông bỏ đi danh, lợi, tình. Nói một cách cụ thể còn nhiều nữa, nhưng mà nó sẽ phình to ra, cũng có thể bị tà ác gia cường lợi dụng mà không tự biết, dù thế nào cũng đều rất nguy hiểm. Điều này cũng có thể cần một quá trình, nếu như không thể kịp thời phát hiện và trừ bỏ nó thì sẽ bị sập bẫy. Ví như chấp trước vào điện thoại di động, chấp trước vào xem tivi, chấp trước vào xe hơi v.v., còn có đồng tu lớn tuổi chấp trước vào con cái, chấp trước vào quê cũ v.v. Kì thực chúng ta có thể sản sinh ra chấp trước đối với mọi thứ vật chất và tình cảm xung quanh bản thân mình. Ngược lại, hết thảy vật chất và nhân tố danh, lợi, tình đều sẽ cố bám chắc lấy tâm của bản thân chúng ta mà không thoát ra, đây chính là điều khó khăn nhất của việc tu luyện chủ nguyên thần. Đặc biệt là hoàn cảnh biến dị hiện nay đã vượt xa mức độ thập ác đầu độc thế gian, những thứ cám dỗ vô cùng nhiều. Vậy nên cần phải nhảy ra khỏi con người, chủ động đột phá thoát khỏi cái mê của con người.

Thế gian có muôn hình vạn trạng, nên nhân tâm cũng có hàng vạn loại. Chúng ta cần giữ vững Chân-Thiện-Nhẫn, tu xuất tâm đại Thiện, đại Nhẫn, vô vi thanh tịnh, trừ bỏ hết thảy các tâm bất hảo của con người, thuần tịnh bước theo Sư phụ. Đây là một chút ý kiến của tôi, chia sẻ với các đồng tu để cùng cố gắng.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/264965

The post Những nhân tâm nguy hiểm (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thanh lý đồ dùng mang tín tức tà ác – Chứng trầm cảm biến mấthttps://chanhkien.org/2021/10/thanh-ly-do-dung-mang-tin-tuc-ta-ac-chung-tram-cam-bien-mat.htmlSat, 30 Oct 2021 09:45:02 +0000https://chanhkien.org/?p=28034Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tỉnh Sơn Đông [ChanhKien.org] Sư phụ đã giảng trong cuốn Chuyển Pháp Luân rằng: Con người là trân quý nhất, là anh linh của vạn vật; chư vị chịu để những thứ ấy khống chế là sao? Ngay cái thân thể của mình chư vị cũng chẳng thiết, thật […]

The post Thanh lý đồ dùng mang tín tức tà ác – Chứng trầm cảm biến mất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tỉnh Sơn Đông

[ChanhKien.org]

Sư phụ đã giảng trong cuốn Chuyển Pháp Luân rằng:

Con người là trân quý nhất, là anh linh của vạn vật; chư vị chịu để những thứ ấy khống chế là sao? Ngay cái thân thể của mình chư vị cũng chẳng thiết, thật đáng buồn thay! Những thứ ấy có thứ gắn lên thân người, có thứ không gắn lên thân người mà cách thân người một đoạn; nhưng chúng thao túng chư vị, khống chế chư vị. (Bài giảng thứ ba, Chuyển Pháp Luân)

Hơn mười năm qua, trong hành trình tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, lấy nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn làm kim chỉ nam, tôi đã hiểu được cái gì là thật sự thiện và ác. Khi đi giảng thanh chân tướng cứu người, tôi nhìn thấy nhiều xe ô tô ở vùng nông thôn có treo hình ảnh của tên đại ma đầu họ Mao trong cabin. Tôi đã thiện ý khuyên họ hãy mau chóng gỡ thứ đó xuống càng sớm càng tốt, nhắc họ rằng dưới thời Mao Trạch Đông cầm quyền, rất nhiều cuộc vận động chính trị được thực thi đã gây hại cho đất nước và giết chết khoảng 80 triệu người dân vô tội. Tôi khuyên họ hãy tránh xa tên ma đầu và thay thế nó bằng những thứ mang tính hòa bình và tốt lành. Hầu hết mọi người đều tiếp nhận lời khuyên của tôi và loại bỏ nó ngay lập tức.

Một số đồ vật mang hình ảnh của cáo, sói, đầu lâu hoặc những động vật khác, hay những hình người xấu xí; đó đều là những phụ thể và các linh thể tà ác khiến người ta mất đi chính niệm, không phân biệt được thiện ác, bộc phát ma tính và bị bệnh tật dày vò. Chúng ngăn trở người ta minh bạch chân tướng và được đắc cứu. Chỉ khi tránh xa tà linh cộng sản tà ác (bằng cách thoái xuất khỏi tà đảng Trung Cộng và các tổ chức liên đới của nó), loại bỏ các linh thể tà ác và minh bạch chân tướng về Đại Pháp thì người ta mới có thể được bình an và được thiên thượng bảo hộ.

Tháng 5 năm 2020, thời tiết ấm áp và hoa đang nở rộ. Tôi ghé thăm nhà bạn học cũ tên là Tiểu Xuân (hóa danh). Tôi đã không gặp cô ấy trong hơn nửa năm. Gương mặt Tiểu Xuân trông rất nhợt nhạt, vừa gặp tôi cô ấy đã bắt đầu than thở: “Liệu chúng tôi có thể cứ sống mãi như thế này được không? Chồng tôi, Đại Thanh (hóa danh), đã gặp rất nhiều vấn đề về thể chất kể từ tháng 9 năm ngoái. Anh ấy bị thoái hoá đốt sống cổ, chóng mặt và luôn lo lắng. Mặc dù đã nằm viện nhiều lần và tốn rất nhiều chi phí thuốc men nhưng vẫn không khỏi bệnh. Các bác sĩ xác nhận rằng anh ấy bị trầm cảm. Bây giờ tình trạng của anh ấy càng ngày càng tệ hơn, anh trở nên gắt gỏng và tính cách thất thường, suốt ngày buồn bã chán nản, có lúc thì tự nói chuyện một mình và có lúc thì chẳng nói một lời nào, mắt nhìn đờ đẫn vô định. Anh ấy thường xuyên nổi cáu với tôi và luôn nghĩ đến việc tự sát. Anh ấy đã không còn đi làm. Chúng tôi không thể tiếp tục sống như thế này được nữa.”

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chuyện này. Đại Thanh vốn là một người vui vẻ, hoạt ngôn và hài hước. Mọi người đều cảm thấy rất vui khi ở cạnh anh ấy. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng anh ấy lại có thể ra nông nỗi này. Vài năm trước, cả hai vợ chồng anh đều đã minh bạch chân tướng về Đại Pháp và thoái Đảng. Sao chuyện này lại có thể xảy ra nhỉ? Nhất định là phải có nguyên nhân đằng sau việc này, nhưng tôi chưa biết vấn đề bắt nguồn từ đâu.

Một tháng sau, vào một ngày trời nắng gay gắt, tôi bắt gặp họ trên đường. Tôi đã rất sốc khi nhìn thấy Đại Thanh. Sắc mặt của anh rất tối, ánh mắt đờ đẫn, lưng thì gù, trông không có sức sống. Quanh cổ anh quàng một chiếc khăn. Tôi hỏi: “Hôm nay trời rất nóng. Anh quấn chiếc khăn như vậy không cảm thấy nóng sao?” Đại Thanh đáp: “Đốt sống cổ của tôi rất đau và sợ gió sợ lạnh.” Tôi nhìn thấy chiếc khăn của anh đầy những hình đầu lâu lớn nhỏ. Tôi hỏi anh: “Anh bắt đầu sử dụng chiếc khăn này từ khi nào?” “Tôi bắt đầu dùng nó từ tháng 9 năm ngoái. Có chuyện gì vậy?” – Anh hỏi một cách yếu ớt. Tôi nhanh chóng nói với anh: “Đầu lâu xương chéo là biểu tượng của chết chóc và ma quỷ. Những thứ đó không phải là của một người chết đã không còn não sao? Mặc dù nó chỉ là hình vẽ, nhưng ở không gian khác nó thật sự là linh thể sống. Quàng chiếc khăn này không tốt cho anh đâu. Anh nên vứt bỏ nó càng sớm càng tốt!” Đại Thanh đột nhiên ngẩng đầu lên và dường như bừng tỉnh. Anh vội vàng nói: “Bạn nói đúng! Đúng vậy! Tôi bắt đầu cảm thấy không tốt từ khi dùng thứ này. Đầu lâu là ma quỷ! Tôi sẽ vứt nó ngay.” Tiểu Xuân thì có vẻ bán tín bán nghi, và họ rời đi. Một tiếng sau, chúng tôi lại gặp nhau. Mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy Đại Thanh. Sắc mặt anh hồng hào, mắt sáng, đầu ngẩng cao, ngực ưỡn thẳng. Anh nói với tôi một cách phấn khích: “Tôi đã vứt cái khăn đó xuống sông Tiểu Thanh và nó đã bị nước cuốn đi rồi!” Đại Thanh bây giờ nhìn hoàn toàn khác so với trước đó. Anh cười nói vui vẻ trở lại với khiếu hài hước vốn có. Trước khi họ rời đi, tôi nhắc nhở họ lần nữa: “Hãy nhớ lấy bài học này. Đừng giữ những thứ như đầu lâu xương chéo trong nhà bạn, đặc biệt là quốc huy, cờ máu và đầu lâu của tà đảng. Chúng đều là ma quỷ làm hại người.” Họ nói một cách tin tưởng: “Chúng tôi hiểu rồi!”

Những tin tức tốt đẹp đã đến ngay sau đó. Chứng trầm cảm của Đại Thanh đã biến mất, thân thể của anh hoàn toàn hồi phục và anh bắt đầu lái xe tải lớn đi giao hàng trở lại.

The post Thanh lý đồ dùng mang tín tức tà ác – Chứng trầm cảm biến mất first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>