Khám phá sinh mệnh | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 13 Mar 2024 05:27:48 +0000en-UShourly1Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (3)https://chanhkien.org/2024/03/truyen-thuyet-dan-gian-thoi-thuong-co-nguoi-dan-hoa-ha-danh-duoi-cong-cong-3.htmlSat, 09 Mar 2024 03:28:06 +0000https://chanhkien.org/?p=32753Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Chuyên Húc Đế là một trong năm vị Hoàng đế Hoa Hạ thời thượng cổ (Hoàng đế, Đế Khốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Chuyên Húc), được mệnh danh là Hoàng đế thủy đức phương bắc. Chuyên Húc đế là người nhân đức, trí huệ, khi còn tại thế, ông được […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Chuyên Húc Đế là một trong năm vị Hoàng đế Hoa Hạ thời thượng cổ (Hoàng đế, Đế Khốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Chuyên Húc), được mệnh danh là Hoàng đế thủy đức phương bắc. Chuyên Húc đế là người nhân đức, trí huệ, khi còn tại thế, ông được người dân bốn phương ngưỡng mộ, cảm phục về đức hạnh, đến cả các loài chim thú cũng được ông cảm hoá.

Chuyên Húc đế từ nhỏ đã được người chú Thiếu Hạo nuôi dạy, ông vô cùng yêu thích âm nhạc. Khi nghe thấy gió từ tám phương thổi trên mặt đất tạo ra những âm thanh ào ào, vi vu, lanh canh, ông cảm thấy rất vui tai, nên đã lệnh cho tám con rồng mô phỏng âm thanh của tiếng gió, đặt tên giai điệu này là “Thừa vân khúc”, chuyên dùng để tưởng nhớ Hoàng Đế. Ông còn có ý tưởng kỳ lạ, lệnh cho cá sấu sông Dương Tử làm khúc nhạc dạo đầu. Cá sấu sông Dương Tử có tiếng kêu như trống, trên lưng có vảy dày, nằm trong hang động dưới đáy ao ngủ suốt ngày, vốn không quen với âm nhạc. Nhưng sau khi nhận được mệnh lệnh nó không dám thất lễ, lập tức lật cái thân hình nặng nề nằm ngửa ra, vung vẩy cái đuôi dày đập vào cái bụng xám căng phồng, âm thanh phát ra quả thực rất to và rõ ràng. Thế nhân được Chuyên Húc đế chỉ dạy, đã dùng da cá sấu Dương Tử làm mặt trống. Loại trống này vô cùng quý giá, gọi là trống Đà.

Vào thời Chuyên Húc đế, đạo đức của người dân đã biến đổi. Ba mươi sáu châu phía bắc do Chuyên Húc đế trị vì có tiêu chuẩn đạo đức cao thượng, còn tiêu chuẩn đạo đức ở những nơi khác không còn tốt nữa. “Quân thần phú quý đều do đức mà sinh”, do đó mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao vốn dĩ không ngừng vận chuyển, bắt đầu gắn cố định trên bầu trời của 36 châu phương Bắc.

Thời thượng cổ, người dân Hoa Hạ kính bái Thần, do đó họ được hưởng rất nhiều phúc phận mà con người hiện nay không tưởng tượng được. Vào thời điểm đó, trời và đất tuy cũng bị phân khai nhưng khoảng cách tương đối gần, hơn nữa còn nối với nhau bằng những chiếc thang trời (thiên thê), chiếc thang này chính là những ngọn núi và cây đại thụ ở khắp nơi. Chiếc thang lên thiên đường vốn được thiết kế dành cho các vị Thần tiên, pháp sư, nhưng những bậc trí giả, dũng sĩ ở nhân gian lại có thể dựa vào trí tuệ và lòng dũng cảm mà leo lên được những chiếc thang này, bước thẳng đến thiên đình. Thời đó, người phàm có việc oan khổ có thể trực tiếp lên trời khiếu nại với Thiên Đế, Thần linh có thể xuống phàm trần du ngoạn núi non sông nước, ranh giới giữa con người và Thần không quá rõ ràng. Sau này, do Xi Vưu nổi loạn ở trần gian, bất kính với Thần, quấy nhiễu thiên đình, vì vậy, Chuyên Húc đế đã ra lệnh cho các cháu trai của mình là Trọng và Lê cắt đứt lối đi giữa trời và đất, để duy trì trật tự của vũ trụ.

Đại lực thần Trọng và Lê tiếp chỉ, vận dụng khí lực, một người hai tay nâng trời, một người hai tay ấn đất, đồng thanh hô to, vận lực, một người dùng hết sức lực nâng bầu trời lên, còn một người dùng hết sức ép mặt đất xuống, bầu trời dần dần cao lên, mặt đất dần dần thấp xuống, trời và đất vốn dĩ cách nhau không xa, đã trở thành giống như hiện nay, xa xôi cách trở. Núi cao, đại thụ không còn là những chiếc thang lên trời nữa. Từ đó về sau, Trọng được gọi là Nam Chính, chuyên quản việc trời đất, quỷ thần; Lê được gọi là Hỏa Chính, chuyên quản việc thế gian.

Hoàng đế Chuyên Húc cũng đặt định ra các chế độ lễ nghi khác nhau để duy trì đạo đức xã hội, ông quy định phụ nữ khi đi đường gặp đàn ông phải tránh đi, nếu không sẽ bị lôi ra giữa phố để trị tội trước dân chúng. Ông quy định anh chị em không được kết hôn với nhau, ông còn yêu cầu dân chúng định kỳ phải thờ cúng tổ tiên và thiên địa quỷ thần. Đạo đức, trí huệ của Chuyên Húc đế đã khiến người dân bốn phương ngưỡng mộ, cảm phục, các loài chim, thú cũng được ông cảm hóa.

Theo “Ngũ hoàng sử ký”, phạm vi quản lý của Chuyên Húc đế rất rộng lớn. “Bắc có âm hồn, Nam có Giao Chỉ, Tây có Lưu Sa, Đông có Bàn Mộc, vật động hay tĩnh, Thần lớn hay nhỏ, nhật nguyệt chiếu sáng, không thuộc về ai.

Tuy nhiên, khi cây lớn lên, chim muông loại nào cũng có. Đại đức và trí huệ của Chuyên Húc đế đã khiến những người tốt theo ông, nhưng lại khiến Cộng Công ghen tức đến mức phát điên. Cộng Công là một kẻ độc ác và vô pháp vô thiên, ông ta đã tập hợp một số vị thần xấu cũng vô pháp vô thiên và bất mãn với Chuyên Húc đế tập hợp thành một đội quân kỵ binh kiếm ngắn, đột kích vào kinh đô của thiên quốc.

Chuyên Húc đế nghe tình hình, vẫn bình tĩnh như thường, một mặt cho thắp 72 đèn hiệu, kêu gọi bốn phương chư hầu nhanh chóng hỗ trợ, mặt khác cắt đặt binh mã phòng vệ kinh kỳ, còn ông đích thân thống soái dẫn quân ra tiền tuyến chiến đấu.

Sau khi chiến tranh bắt đầu, Chuyên Húc đế đã lãnh đạo quân đội của mình truy đuổi bộ tộc Cộng Công từ thiên thượng xuống phàm giới, lại từ phàm giới đuổi tới thiên thượng, sau vài vòng, người của Chuyên Húc đế ngày càng giết được nhiều người, Thái Phùng với hình người đuôi hổ phóng ra vạn đạo hào quang từ núi Hòa Sơn đuổi đến. Kế Mông – đầu rồng thân người mang mưa to gió lớn từ núi Quang Sơn tới, Kiêu Trùng có hai cái tổ ong trên đầu phóng nọc độc từ núi Bình Phùng đến, bộ tộc của Cộng Công bị giết, người ngã ngựa đổ, gần như toàn quân bị xóa sổ. Cộng Công đã lưu lạc đến vùng Tây Bắc bên dưới núi Bất Chu, bên cạnh chỉ còn 13 kỵ sĩ. Núi Bất Chu cao chót vót, sừng sững từ trời xuống đất, chặn đường đi của đám cướp này. Núi Bất Chu là một cây cột khổng lồ chống đỡ bầu trời, là một trong những phương tiện chính để Chuyên Húc đế duy trì trật tự trong vũ trụ. Lúc này, Chuyên Húc đế dẫn quân từ các hướng xông vào, tiếng hò hét giết chóc, khuyên đầu hàng kinh thiên động địa, thiên la địa võng đã dệt thành. Cho đến khi chết, Cộng Công vẫn muốn làm điều xấu bất chấp hậu quả, hắn giận dữ đâm thẳng vào núi Bất Chu. Trong âm thanh rầm rầm, tiếng nước xối ầm ào, núi Bất Chu vốn chống đỡ trời đất đã bị hắn đâm gãy và đổ sụp xuống.

Sau khi cột chống trời bị phá vỡ, toàn bộ vũ trụ xảy ra biến hóa lớn, bầu trời phía Tây Bắc mất đi chỗ dựa mà nghiêng xuống, khiến mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao vốn bị ràng buộc với bầu trời phương Bắc nay không thể đứng ở vị trí ban đầu nữa, không còn bị ràng buộc nên trượt xuống về phía tây, tạo thành đường đi của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao mà chúng ta thấy ngày nay. Mặt khác, sợi dây khổng lồ treo ở góc Đông Nam của trái đất đã bị đứt do chấn động dữ dội. Đất ở phía Đông Nam bị sụp xuống, tạo nên địa hình mà chúng ta thấy ngày nay với địa thế cao ở phía Tây Bắc và thấp ở phía Đông Nam, cũng như tình trạng các dòng sông chảy về phía Đông, nước ngọt và nước biển trộn lẫn.

Sau khi núi Bất Chu bị húc đổ, một nửa bầu trời sụp xuống, lộ ra nhiều hố lớn, mặt đất cũng nứt ra, xuất hiện từng đường nứt sâu. Trong tình trạng mặt đất sụp đổ, lửa rừng bùng lên dữ dội, lũ lụt từ mặt đất phun ra, các loại dã thú hung dữ chạy khắp nơi, mặt đất giống như địa ngục trần gian.

Thần Nữ Oa vô cùng đau buồn khi thấy những người mà bà tạo ra phải chịu khổ nạn này. Vì để mọi người có lại được cuộc sống tự nhiên, Nữ Oa quyết định vá lại bầu trời đã bị tàn phá.

Đây là một công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp, Nữ Oa đầu tiên lấy những viên đá ngũ sắc từ dưới sông lên rồi dùng lửa lớn đốt những viên đá đó trong chín ngày chín đêm để tinh luyện thành hỗn hợp bùn đá ngũ sắc gồm đỏ, vàng, xanh, trắng và đen. Sau đó múc từng muỗng bùn đá vá lại các vết nứt trên bầu trời.

Nhiệm vụ tiếp theo là chống lại bầu trời. Nữ Oa dùng bốn chân của một con rùa lớn để thay thế các cột trời, dựng chúng ở bốn góc của mặt đất, đỡ bầu trời cao lên như một cái lều. Những cây cột trụ vững chắc giúp bầu trời sẽ không bao giờ sụp đổ nữa.

Nữ Oa cũng xua đuổi những loài chim và thú hung dữ đang gây rối khắp nơi, đồng thời dùng lau sậy đốt cháy thành tro để chặn đứng dòng nước lũ. Bầu trời được vá, mặt đất cũng đã được yên bình, người dân Hoa Hạ một lần nữa được sống cuộc sống bình an và hạnh phúc.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/34702

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Phục Hy dạy cách bắt cáhttps://chanhkien.org/2024/03/truyen-thuyet-dan-gian-phuc-hy-day-cach-bat-ca.htmlTue, 05 Mar 2024 02:52:26 +0000https://chanhkien.org/?p=32728Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Sau khi anh em Phục Hy đến thế gian, thế gian càng ngày càng náo nhiệt. Nhưng người thời đó rất khác con người chúng ta hiện nay. Thời đó vì đâu đâu cũng là rừng rậm, đất trống cực ít, cho nên con người không thể trồng được hoa […]

The post Truyền thuyết dân gian: Phục Hy dạy cách bắt cá first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Sau khi anh em Phục Hy đến thế gian, thế gian càng ngày càng náo nhiệt. Nhưng người thời đó rất khác con người chúng ta hiện nay. Thời đó vì đâu đâu cũng là rừng rậm, đất trống cực ít, cho nên con người không thể trồng được hoa màu, thức ăn chủ yếu là dựa vào săn bắt và hái quả trên cây. Môi trường của địa cầu khi đó thuần tịnh hơn, hoa quả đa dạng hơn, lại to hơn hiện nay nhiều, nhưng vẫn không đủ ăn, nên mọi người phải săn bắn để bổ sung thêm lương thực. Thời điểm đó, thiên thượng ban cho con người nhiều cách để có được thức ăn, những phương pháp này không phải do nghiên cứu ra mà là do thiên thượng ban cho.

Tương truyền rằng, thiên thượng đã giúp cho Phục Hy phát hiện một phương pháp tìm thức ăn khác, đó chính là dùng lưới bắt cá. Trước đây không hề có những danh từ như “đánh cá, bắt cá”, mà chỉ có một khái niệm hài hòa là “mò cá” mà thôi.

Vào một ngày rảnh rỗi, Phục Hy đi dạo quanh bờ sông. Đang đi thì Phục Hy vô tình ngẩng đầu, nhìn thấy một con cá chép vừa to vừa béo nhảy lên khỏi mặt nước, tung mình lên rất cao. Một lúc sau lại có con nữa nhảy lên, một lúc sau lại một con nữa nhảy lên, điều này đã khiến Phục Hy chú ý. Ông nghĩ lũ cá này vừa to vừa béo, làm đồ ăn thì có phải tốt không. Ông quyết định xuống sông mò cá. Mất rất nhiều công phu, Phục Hy cũng bắt được một con cá chép vừa to vừa béo. Phục Hy rất vui, xách con cá về. Trên đường về, thiên thượng lại ban cho Phục Hy biết cách ăn cá, đó là dùng lửa để xử lý. Người khi đó đều có công năng, vươn tay là phóng ra được lửa, đạo đức của con người rất cao, họ không tùy tiện dùng lửa để làm những việc không nên làm. Chỉ là về sau này, con người bắt đầu dùng lửa làm việc xấu, thiên thượng mới lấy đi công năng này. Những người ở cùng với Phục Hy thấy Phục Hy bắt được cá, đều chạy đến hỏi han đủ điều. Phục Hy dùng lửa nướng cá trước mặt mọi người, rồi gỡ cá cho mọi người ăn. Mọi người ăn xong, đều thấy hương vị khá ngon. Phục Hy nói: “Cá quả là rất ngon, sau này chúng ta sẽ bắt cá, để bổ sung cho cuộc sống”. Đương nhiên mọi người tán thành, liền chạy ra sông bắt cá. Bắt cả một buổi chiều, gần như mỗi người đều bắt được một con, có người còn bắt được ba, bốn con. Lúc này mọi người đều vô cùng vui thích, đem cá về thưởng thức một bữa thật ngon.

Sau đó, thiên thượng lại ban cho Phục Hy một số cách bắt cá khác.

Ngày nọ, Phục Hy lại rảnh rỗi nằm dưới gốc cây, mắt nhìn lên trời xuất thần. Đúng lúc đó, ông nhìn thấy giữa hai cành cây có một con nhện đang giăng tơ. Bên trái một đường, bên phải một đường, một lúc là kết xong cái lưới tròn. Sau khi nhện đan xong lưới, được một lúc, xa xa bay đến vài con muỗi, ruồi v.v. rất nhanh đều dính cả lên lưới. Nhện chén những con côn trùng này được một bữa no nê.

Phục Hy thấy nhện giăng tơ, trong tâm đột nhiên nghĩ ra một cách. Ông chạy lên núi tìm ít nhánh cây làm dây thừng, giống nhện giăng tơ, dệt thành một tấm lưới thô sơ. Sau đó ông lại dùng hai cành cây buộc hình chữ thập cố định lưới, lại lấy một cây gậy dài buộc vào giữa, thế là xong tấm lưới. Ông mang lưới ra ngôi bên bờ sông thả tấm lưới xuống, hồi sau, ông kéo lưới lên. Chao ôi, trong lưới cá nhảy lách tách. Phương pháp này thật tốt, so với dùng tay bắt cá không những bắt được nhiều hơn, mà người ta lại không cần xuống nước. Phục Hy liền dạy mọi người cách dệt lưới. Từ đó trở đi, mọi người đều biết cách dùng lưới bắt cá, cho đến tận ngày nay mọi người vẫn đang dùng cách đánh cá bằng lưới này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/33354

The post Truyền thuyết dân gian: Phục Hy dạy cách bắt cá first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thần Nông nếm bách thảohttps://chanhkien.org/2024/03/truyen-thuyet-dan-gian-than-nong-nem-bach-thao.htmlSun, 03 Mar 2024 03:26:29 +0000https://chanhkien.org/?p=32708Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Thời xưa, con người chưa biết cách điều trị bệnh tật. Thời đó bệnh dịch hoành hành khắp nơi, rất nhiều người chết. Thần Nông vì để giải quyết hai vấn đề này, bắt đầu lên núi nếm thử trăm loại cây cỏ. “Sử ký Bổ Tam Hoàng Bản Kỷ” […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Nông nếm bách thảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Thời xưa, con người chưa biết cách điều trị bệnh tật. Thời đó bệnh dịch hoành hành khắp nơi, rất nhiều người chết.

Thần Nông vì để giải quyết hai vấn đề này, bắt đầu lên núi nếm thử trăm loại cây cỏ. “Sử ký Bổ Tam Hoàng Bản Kỷ” ghi chép rằng: “Thần Nông thị đặt ra lễ tế chạp, lấy roi đỏ quất vào cây cỏ, nếm trăm loại cỏ cây, từ đó mới có thuốc chữa bệnh”. Tương truyền, Thần Nông khi gặp cây cỏ tươi tốt trên núi thì dùng roi thần quất, cho đến khi chất dịch chảy ra; sau đó tự mình nếm thử để biết tính chất, hương vị của nó.

Người dân Tứ Xuyên vẫn tương truyền câu chuyện về Thần Nông nếm bách thảo, nếm phải một loại cỏ đoạn trường, vì thế mà tử vong. Theo một truyền thuyết khác trong “Hoài Nam Tử – Tu vụ huấn” ghi chép rằng: “Thần Nông nếm vị của trăm loại cỏ, một ngày nếm 70 loại cỏ độc”.

Trong “Hắc Ám Truyện” viết rõ: “Khi Thần Nông nếm thử cây cỏ thì nếm phải độc dược, trong bụng đau đớn không yên, vội dùng thuốc giải độc, tìm ra được 72 loại độc thần. Đối với những kẻ muốn hại Thần Nông đó, Thần Nông gọi tên của chúng, trong 72 loại cỏ độc thì có 7 loại chạy trốn, 36 loại trở thành cây cỏ tốt, Thần Nông hái về cứu dân chúng, các loại cây thần độc trốn vào núi sâu rừng già. Đến ngày nay, cây thảo dược tốt mọc nhiều nơi đồng bằng, còn cây độc dược thực sự hiếm hoi…” Có thể suy ra, thời đó Thần Nông vì để tìm được cây lương thực và thảo dược có thể trồng trọt được, đã bất chấp nguy hiểm có thể trúng độc mà nếm vô số loại hoa quả, thảo dược. Do Thần Nông có cái bụng thủy tinh, có thể thấy được tác dụng của thuốc, nên mới có thể ​nhanh chóng hóa giải độc tố.

Cuối cùng, Thần Nông cũng đã tìm ra loại cây cỏ nào có thể ăn và loại nào không thể ăn, cũng như loại nào có thể dùng làm thuốc. Trong số đó có 120 loại thuốc cao cấp, có thể dưỡng sinh, ăn vào giúp cải thiện sức khỏe và kéo dài tuổi thọ; 120 loại thuốc trung cấp, có thể dưỡng sinh, ăn vào giúp bổ sung khí huyết; 125 loại thuốc cấp thấp có thể chữa bệnh. Thần Nông khi đến thế gian đã lập ra cho người Trung Quốc một nền tảng y dược khá hoàn chỉnh, sự phát triển của Trung y mấy nghìn năm sau, trên thực tế đều được tạo dựng dựa trên cơ sở kiến thức về thảo dược của Thần Nông. Vì vậy, Thần Nông cũng được tôn sùng là tổ tiên của Trung y Trung Quốc, dân gian ông gọi là “Dược Vương Bồ Tát”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49525

The post Truyền thuyết dân gian: Thần Nông nếm bách thảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (2)https://chanhkien.org/2024/02/truyen-thuyet-dan-gian-thoi-thuong-co-nguoi-dan-hoa-ha-danh-duoi-cong-cong-2.htmlTue, 27 Feb 2024 03:33:36 +0000https://chanhkien.org/?p=32674Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Thời Nghiêu Đế trị vì Hoa Hạ, lũ lụt lan tràn khắp nơi, trước tình hình Cổn trị thủy không thành công, vua Nghiêu phái con trai của Cổn là Vũ đi trị thủy. Đại Vũ lãnh đạo người dân bách tính điều chỉnh dòng nước lũ thông qua sông […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Thời Nghiêu Đế trị vì Hoa Hạ, lũ lụt lan tràn khắp nơi, trước tình hình Cổn trị thủy không thành công, vua Nghiêu phái con trai của Cổn là Vũ đi trị thủy.

Đại Vũ lãnh đạo người dân bách tính điều chỉnh dòng nước lũ thông qua sông Hoàng Hà chảy đến đầu phía đông núi Mang Sơn, dẫn nước đi theo đường sông về phía Đông quả thực không dễ vì có Cộng Công đang tác quái làm loạn.

Cộng Công là một thủy thần xấu xa, tính tình hung ác, bạo ngược, chuyên chống lại dân chúng Hoa Hạ. Khi suy nghĩ nông nổi sục sôi, ông ta thường triển hiện thần lực, hô mưa gọi gió, gây lũ lụt làm hại bách tính, biến vùng đất Hoa Hạ đang tươi đẹp yên lành thành biển nước mênh mông. Bách tính khóc trời kêu đất, ngày đêm khổ não.

Đại Vũ tìm Cộng Công, khuyên ông ta không nên hô mưa gọi gió, gây lũ lụt hại bách tính, cho người dân Hoa Hạ một đường sống, tích chút đức hạnh. Cộng Công cơ bản không nghe lời khuyên tốt của Đại Vũ, nói: “Ta chỉ huy nước của ta, liên quan gì đến ngươi?” Đại Vũ không muốn quan tâm đến vị thần xấu xa tâm địa thấp kém này nữa, đành phải đi lại trong nước, đội mưa đạp gió, quan sát địa hình, tìm đường thoát nước về phía đông qua sông Hoàng Hà.

Khi Cộng Công thấy Đại Vũ quyết tâm trị thủy chống lũ lụt, điều chỉnh dòng chảy sông Hoàng Hà để người dân Trung Quốc có cuộc sống bình yên, ông ta đột nhiên nổi giận lôi đình, sử dụng gần như toàn bộ thần lực của mình. Cả vùng Trung Nguyên mênh mông nước lũ, tràn ngập khắp nơi, lũ lụt ngày càng lớn.

Đại Vũ chạy đông chạy tây, dùng hết sức lực, nước ngày càng dâng lên nhiều, nước sông Hoàng Hà cũng chảy loạn khắp nơi. Vì Cộng Công làm loạn, nước Hoàng Hà không thể khơi thông, Đại Vũ không thể nhẫn nữa, quyết tâm lãnh đạo người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công.

Đại Vũ triệu tập Ứng Long, Hoàng Long, Bạch Long và Thanh Long cùng ông trị thủy, khích lệ người dân Hoa Hạ cùng nhau chiến đấu. Cộng Công hành ác khắp nơi từ lâu đã khét tiếng, khi người dân nghe tin Đại Vũ muốn đánh đuổi Cộng Công, liền lần lượt đến tham chiến. Đại Vũ dẫn mọi người chặn Cộng Công dưới nước, hai bên bắt đầu đánh nhau.

Cuộc chiến kéo dài suốt một tháng, Đại Vũ lãnh đạo quân Hoa Hạ thay nhau ra trận. Cộng Công dần dần kiệt sức, sau khi bị đánh bại, ông ta hoảng sợ bỏ chạy, bị Đại Vũ đuổi theo không tha. Cộng Công thấy bản thân trong kiếp nạn khó thoát, bèn quỳ xuống chân Đại Vũ thề rằng sẽ vĩnh viễn không xâm lược Hoa Hạ, không ​gây lũ lụt hành ác nữa. Đại Vũ mềm lòng, thả Cộng Công ra.

Đại Vũ đã lãnh đạo người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công, làm việc hăng say, xả hết nước lũ, lại tiếp tục khơi thông sông Hoàng Hà chảy đến biển Đông, ông còn dùng đá ở núi Thái Hành Sơn xây dựng những bờ kè vừa cao vừa dày, vô cùng kiên cố, nằm dọc hai bên bờ sông Hoàng Hà.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/53253

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (1)https://chanhkien.org/2024/02/truyen-thuyet-dan-gian-thoi-thuong-co-nguoi-dan-hoa-ha-danh-duoi-cong-cong-1.htmlTue, 20 Feb 2024 00:17:16 +0000https://chanhkien.org/?p=32629Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Vào thời Phục Hy, ở Hoa Hạ (Trung Quốc ngày nay) có một bộ tộc tên là Cộng Công Thị, bộ tộc này rất nhiều âm mưu quỷ kế đồi bại. Đối ứng với tộc Cộng Công ở trên trời là một vị Thủy Thần xấu xa tên gọi Cộng […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Vào thời Phục Hy, ở Hoa Hạ (Trung Quốc ngày nay) có một bộ tộc tên là Cộng Công Thị, bộ tộc này rất nhiều âm mưu quỷ kế đồi bại. Đối ứng với tộc Cộng Công ở trên trời là một vị Thủy Thần xấu xa tên gọi Cộng Công, ông ta có mặt người, thân rắn, tóc đỏ, tính khí vô cùng độc ác, tàn bạo. Cộng Công có hai thuộc hạ đều là những ác thần khét tiếng: Một vị là Tương Liễu chín đầu, cũng mang mặt người thân rắn, toàn thân màu xanh, tính tình tàn bạo tham lam, chuyên lấy giết chóc làm trò tiêu khiển; vị còn lại là Phù Du trông giống như hung thần, cũng là một kẻ làm nhiều việc xấu xa.

Người của tộc Cộng Công nói năng rất dễ nghe, ba hoa chích chòe, nhưng làm việc lại mờ ám, bề mặt thì cung kính, thực chất lại vô pháp vô thiên. Kẻ đứng đầu của tộc Cộng Công là Khang Hồi, râu tóc đỏ như chu sa, tay chân cơ bắp, cao hơn một trượng, sức mạnh vô song. Khang Hồi đối xử với người khác bề ngoài thì cung kính nhưng bên trong lại xảo quyệt mưu mô, hắn chỉ vì nể đại uy đại đức của Phục Hy mà tạm thời nhẫn nhịn. Sau khi Phục Hy rời đi, dân Hoa Hạ tôn phụng Nữ Oa khiến Khang Hồi căm hận. Hắn dựa vào địa hình vùng đất phong của mình vừa cao vừa hiểm trở, gây ra lũ lụt cuồn cuộn tàn phá Trung Nguyên, khiến trời đất Hoa Hạ biến thành biển nước mênh mông. Nữ Oa không thể nhẫn chịu được nữa, quyết định lãnh đạo người dân Hoa Hạ tiêu diệt Cộng Công.

Vì tộc Cộng Công hiểu rõ tính chất của nước, nên thường dùng thủy công trong các trận giao tranh với dân Hoa Hạ. Nữ Oa vận dụng 70 phép thần thông biến hóa, trước tiên tra rõ ràng địa thế đất phong của Khang Hồi, sau đó bảo người dân Hoa Hạ chuẩn bị 500.000 bó sậy, rất nhiều khối đá lớn nhỏ, 100 thanh gỗ ngắn dài, 20 thanh gỗ cực dài, trên mỗi thanh gỗ Nữ Oa đều tự tay khắc một con rùa. Lại chọn ra 2.000 người có thể lực tốt, luyện tập chạy nước rút mỗi ngày trên một ngọn núi cao, chạy nhanh lên núi rồi lại chạy xuống, tốc độ chạy càng nhanh càng tốt. Rồi lại chọn ra 1.000 người giỏi lặn, luyện tập ẩn mình dưới nước trong một thời gian dài. Đồng thời, Nữ Oa sử dụng thần lực, truyền dạy bí quyết cho một số người dân được bà tuyển chọn, dân chúng vui mừng cổ vũ, tài nghệ tăng cao. Sau đó Nữ Oa lại dùng đất sét nặn thành hình người, lớn nhỏ cộng lại lên đến hàng nghìn người.

Sau khi mọi việc đã sẵn sàng, Khang Hồi dẫn quân tấn công dân Hoa Hạ, vẫn như thường lệ dùng lũ mở đường tiên phong. Nữ Oa kêu gọi người dân Hoa Hạ lấy một nửa trong số 500.000 bó sậy đốt thành tro, sau đó lại lệnh cho người dân trộn đều bùn và tro sậy, mỗi người bốc một tải, lao tới vùng ngập lấp bùn và tro vào những nơi ngập nước. Cùng lúc đó, Nữ Oa ở phía sau sử dụng thần thông của mình đem toàn bộ nước lũ do tộc Cộng Công đổ ra đổ ngược trở lại, thủy công của Khang Hồi đã bị đánh bại. Sau đó, Khang Hồi lãnh đạo người của mình liều mạng xông tới, lúc này, hàng nghìn bức tượng đất sét mà Nữ Oa nặn ra liền sống dậy, tất cả đều lớn lên nhanh chóng, cao nhất tới khoảng năm trượng, nhỏ nhất cũng đến 3 trượng. Người người trong tay cầm binh khí, lao về phía bộ tộc Cộng Công. Khang Hồi vốn dĩ chưa chứng kiến nhiều việc, nào đã nhìn thấy cảnh tượng thần thánh tại nhân gian khi tượng đất sét biến thành người, đầu tiên là sững sờ, sau đó người người thất kinh khiếp đảm, chạy hỗn loạn trở về vùng đất của tộc Cộng Công.

Lúc này Nữ Oa lập tức ra lệnh cho 1.000 người lặn giỏi: “Lần này Khang Hồi tháo chạy, nhất định phải thủ giữ nơi hiểm yếu, nó chắc chắn ở đầm Đại Lục, nơi đó dẫn đến con đầm lớn Chiêu Dư quê hương của nó, nơi đó đã được xây dựng một bờ kè lớn để tránh vỡ đê. Các ngươi nếu gặp đầm hồ đã đắp đê, hãy dùng những thanh gỗ ta đã chuẩn bị đóng sâu bốn khúc gỗ dài xuống bốn góc của đầm, sau đó lại dùng vài khúc gỗ ngắn đóng bên cạnh. Hắn quyết không thể phá, bởi vì trong đại dương, rùa là loài lớn nhất, cũng là loài mạnh nhất, ta đã ra biển thương lượng với Thần biển, mượn tạm bốn chân của vài con rùa để dùng, vì vậy các hình chạm khắc trên gỗ, không chỉ có hình dáng của rùa, mà linh hồn của nó cũng ở trong đó”. Bách tính nghe xong hồ hởi tiến lên phía trước, Nữ Oa lại đưa 2.000 người lên núi luyện chạy nước rút, đầu tiên thu nhỏ người đất sét lại, cho bách tính mang theo người đất sét, đá .. nhanh chóng lên đường, cuối cùng hoàn toàn đánh bại Khang Hồi tại đầm Đại Lục và đầm lớn Chiêu Dư.

Khang Hồi trốn chạy thoát thân, nhưng 2.000 người dân Hoa Hạ vốn thời gian dài được tập chạy khi đó hợp thành từng đoàn người từ bốn phương tám hướng bao vây hắn lại, cuối cùng bắt sống hắn. Người dân đem giao Khang Hồi cho Nữ Oa, Nữ Oa đích thân cầm kiếm Côn Ngô, kể rõ từng tội ác của hắn xong thì giết chết hắn.

Như vậy, nhờ vào thần lực và trí huệ của Nữ Oa, người dân Hoa Hạ đã có thể tránh được đại họa diệt chủng, quay trở lại cuộc sống bình thường.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/34681

The post Truyền thuyết dân gian: Thời thượng cổ người dân Hoa Hạ đánh đuổi Cộng Công (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chu Tuyên giải mộnghttps://chanhkien.org/2024/02/chu-tuyen-giai-mong.htmlFri, 16 Feb 2024 03:26:55 +0000https://chanhkien.org/?p=32595Tác giả: Cổ Phong [ChanhKien.org] Trong cuốn “Tam Quốc Chí” do Trần Thọ thời Tây Tấn viết có ghi lại một chuyện thú vị về một người gốc Lạc An nước Ngụy tên là Chu Tuyên. Chu Tuyên rất giỏi giải mộng, một hôm Ngụy Văn Đế Tào Phi hỏi Chu Tuyên rằng: “Ta mộng […]

The post Chu Tuyên giải mộng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Cổ Phong

[ChanhKien.org]

Trong cuốn “Tam Quốc Chí” do Trần Thọ thời Tây Tấn viết có ghi lại một chuyện thú vị về một người gốc Lạc An nước Ngụy tên là Chu Tuyên.

Chu Tuyên rất giỏi giải mộng, một hôm Ngụy Văn Đế Tào Phi hỏi Chu Tuyên rằng: “Ta mộng thấy hai viên ngói của cung điện rơi xuống đất rồi hóa thành một đôi chim uyên ương, là chuyện gì vậy?” Chu Tuyên trả lời: “Điều này có nghĩa là hậu cung của Ngài sẽ có người chết đột ngột”. Ngụy Văn Đế nói: “Giấc mộng mà ta vừa nói đến là nói dối ngươi đó”. Chu Tuyên nói: “Giấc mộng chính là biểu hiện của tâm ý, chỉ cần nói ra, thì có thể coi được hung cát”. Lời chưa nói xong thì có thái giám đến tâu lên Văn Đế, rằng có người chết trong cung.

Có người hỏi Chu Tuyên: “Đêm qua tôi nằm mộng thấy một con chó cỏ (cổ đại khi tế lễ thường dùng một con chó được làm bằng cỏ bó thành), là chuyện gì vậy?” Chu Tuyên nói: “Đó là vì anh muốn ăn đồ ăn ngon”. Ngay sau đó, người này đi ra ngoài, quả nhiên đã được mời một bữa ăn thịnh soạn. Về sau, có một ngày, người này lại hỏi Chu Tuyên: “Đêm qua tôi nằm mộng thấy một con chó làm bằng cỏ, là chuyện gì vậy?” Chu Tuyên nói: “Anh sẽ bị ngã xe, và bị thương ở chân, anh phải cẩn thận”. Ngay sau đó dự ngôn này thực sự đã xảy ra.

Lại có một hôm, người này lại hỏi Chu Tuyên: “Đêm qua tôi nằm mộng thấy một con chó làm bằng cỏ, chuyện gì sẽ xảy ra?” Chu Tuyên nói: “Nhà của anh sắp cháy rồi, anh phải chú ý”. Không lâu sau, nhà của người này quả nhiên đã bốc cháy.

Về sau người đàn ông này nói với Chu Tuyên rằng: “Trước đây tôi đã nói với anh ba giấc mộng của tôi, đều là giả, tôi chỉ muốn thăm dò anh một chút mà thôi, nhưng tại sao chúng đều ứng nghiệm?” Chu Tuyên nói: “Đó đều là do Thần linh khiến anh nói ra mà thôi, cho nên nó giống với giấc mộng thực sự”. Người này lại hỏi: “Ba lần đều nằm mộng đến con chó làm bằng cỏ, nhưng mỗi lần giải thích lại không giống nhau, rốt cục là chuyện gì vậy? Chu Tuyên trả lời: “Chó làm bằng cỏ là đồ vật dùng để thờ cúng, cho nên lần đầu tiên mộng thấy nó là nói rằng anh sẽ nhận được đồ ăn thức uống”. Sau khi thờ cúng thì con chó cỏ này sẽ bị xe cán qua, cho nên nó xuất hiện ở trong mộng thì biểu thị rằng nó sẽ bị ngã từ trên xe xuống và bị thương ở chân. Sau khi con chó cỏ này bị xe cán rồi thì nó sẽ bị đem đi làm củi lửa, cho nên giấc mộng cuối cùng biểu thị là sẽ có hỏa hoạn”.

Đọc xong câu chuyện trên mọi người đều kinh ngạc trước khả năng giải mộng thần kỳ của Chu Tuyên, nếu nhìn dưới giác độ tu luyện, thì lại có một cách lý giải khác. Chu Tuyên sống vào cuối thời Tam Quốc, ông rất giỏi giải mộng, điều này được nhiều người biết đến vào thời đó, tuy nhiên chúng ta chỉ đề cập đến mấy giấc mộng ở trên, chủ nhân của những giấc mộng đó cuối cùng đều nói đó là giả, và họ chỉ muốn đến để thăm dò Chu Tuyên, nhưng tất cả lại đều ứng nghiệm, vậy rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?

Kỳ thực, Chu Tuyên không chỉ là dựa vào bói toán hay suy tính để giải mộng, mà bản thân Chu Tuyên hẳn phải có những công năng nhất định, ông ta đã nhìn thấy hoặc biết được chuyện gì sắp xảy ra, chỉ bất quá là thông qua hình thức giải mộng để nói ra mà thôi. Ba lời giải thích của ông ta về con chó làm bằng cỏ, cũng chỉ bất quá là để phù hợp với đạo lý của thế gian, khiến cho người thường dễ lý giải hơn, mà nguyên nhân thực sự thì chỉ có người tu đạo mới rõ.

Tài liệu tham khảo: “Tam Quốc Chí- Ngụy Thư” của Trần Thọ.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/279600

The post Chu Tuyên giải mộng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo địa ngục trong lục đạo luân hồihttps://chanhkien.org/2024/02/dao-dia-nguc-trong-luc-dao-luan-hoi.htmlSun, 11 Feb 2024 00:32:29 +0000https://chanhkien.org/?p=32557Tác giả: Quá Khách [ChanhKien.org] Truyền thuyết kể rằng sinh mệnh trong tam giới phải luân hồi trong lục đạo: đạo Thiên Thần, đạo nhân gian, đạo A Tu La, đạo súc sinh, đạo ngạ quỷ và đạo địa ngục; sáu loại hoàn cảnh sinh tồn khác nhau; đạo địa ngục là nơi khổ nhất […]

The post Đạo địa ngục trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quá Khách

[ChanhKien.org]

Truyền thuyết kể rằng sinh mệnh trong tam giới phải luân hồi trong lục đạo: đạo Thiên Thần, đạo nhân gian, đạo A Tu La, đạo súc sinh, đạo ngạ quỷ và đạo địa ngục; sáu loại hoàn cảnh sinh tồn khác nhau; đạo địa ngục là nơi khổ nhất trong số đó, trong tôn giáo cũng như các truyền thuyết dân gian đều có rất nhiều mô tả về tình cảnh nơi địa ngục. Phật vì sao lại giảng về địa ngục? Vì để có thể khởi lên tác dụng như một lời khuyên răn cảnh báo thế nhân, khiến cho người ta sẽ không đến mức dám làm những việc bại hoại một cách vô độ.

Tống Nhan Bính đã từng miêu tả địa ngục như sau: “Những kẻ khi sống làm điều ác, bị áp giải vào đường nước sôi, đường lửa, đường dao. Vạc nước sôi như vách núi lở, gươm dao dựng đứng như thế núi cao sừng sững. Rưới đồng nung lỏng khắp thân cho xác thịt nát rữa, nuốt viên sắt đến mức đầy miệng bốc khói. Bị chặt, đập xác thịt đến mức máu huyết chảy đầm đìa, hàn băng giá rét thấu xương khiến da thịt tê cóng nứt nẻ. Thân thể thịt nát xương tan, gió nghiệp thổi lại sống lại, hết mệnh chết đi quỷ La Sát lại cho uống thuốc tái sinh”. Những lời này đã kể hết ra những cảnh tượng khủng khiếp kinh hãi của địa ngục, khiến người ta khiếp đảm, kinh hãi.

Nói địa ngục đạo là một đạo trong luân hồi, mà lại không giống những đạo khác ở chỗ, sinh mệnh ở những đạo khác vẫn có cơ hội tiếp tục luân hồi, nhưng phần lớn các sinh mệnh khi đã đến nơi đây sẽ vĩnh viễn không có cơ hội được chuyển nhập luân hồi nữa; tam giới là bãi rác của vũ trụ, đây chính là nơi những rác thải bị tiêu hủy. Sinh mệnh trong đạo ngạ quỷ tuy rằng rất khổ, nhưng có thể đi các nơi tìm thức ăn; còn với những tội nhân trong đạo địa ngục thì không được tự do, không thể chạy trốn trong khi chịu những hình phạt tra tấn.

Địa ngục là một phạm vi thời không rộng lớn, bên trong có vô số thời không nhỏ hơn, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng về 18 tầng địa ngục, còn thấp hơn nữa thì Ông không giảng, người vào thời đó nói chung tư tưởng đều khá đơn giản, mô tả về 18 tầng địa ngục cũng đã đủ để khiến người ta cảm thấy khủng khiếp. 18 tầng địa ngục mà tôn giáo giảng là: Địa ngục Bạt Thiệt (rút lưỡi), địa ngục Tiễn Đao (kéo cắt), địa ngục Thiết Thụ (cây sắt), địa ngục Nghiệt Kính [1], địa ngục Chưng Lung (lồng chưng), địa ngục Đồng Trụ (trụ đồng), địa ngục Đao Sơn (núi đao), địa ngục Băng Sơn (núi băng), địa ngục Dầu Oa (vạc dầu), địa ngục Ngưu Khanh (hố trâu), địa ngục Thạch Áp (đá đè), địa ngục Thung Cữu (cối giã), địa ngục Huyết Trì (bể máu), địa ngục Uổng Tử (chết oan), địa ngục Trách Hình (phanh thây), địa ngục Hỏa Sơn (núi lửa), địa ngục Thạch Ma (cối xay đá mài sát), địa ngục Đao Cư (đao cưa).

Tầng tầng thời không của địa ngục không phải được sắp xếp theo từng tầng như kiểu tầng hầm, mà chúng là những cấu trúc thời không khác nhau đồng thời tồn tại ở cùng lúc cùng chỗ; những thể sinh mệnh đến đây phải chịu hình phạt trong thống khổ mà hoàn trả lại hết thảy những nợ nghiệp đã tạo ra ở đời trước.

Cái khổ trong địa ngục chủ yếu là cực lạnh, cực nóng và cô độc, chúng ta có thể hình dung cảnh tượng thống khổ khi chỉ mặc quần áo mỏng manh sinh sống ở Bắc Cực và Nam Cực hoặc khi bị lửa cháy bừng bừng thiêu đốt, bạn cảm thấy bạn có thể chịu đựng được trong bao lâu? Sự cảm nhận đối với thống khổ của các sinh mệnh trong địa ngục lại mẫn cảm hơn nữa, cảm giác cực lạnh và cực nóng khắc nghiệt trên trái đất đối với họ mà nói chỉ như trải qua một kỳ nghỉ vậy.

Địa ngục nổi tiếng nhất ở đây có tên là địa ngục Vô Gián hay còn gọi là Vô Gián đạo, những người bị đọa vào địa ngục Vô Gián đều là những người cực kỳ ác độc, đã phạm phải những tội cực kỳ nghiêm trọng; chẳng hạn như là phá hoại quy luật của vũ trụ; tại sao phá hoại quy luật của vũ trụ lại là trọng tội? Phật Pháp đã tạo ra toàn thể vũ trụ, phá hoại quy luật của vũ trụ sẽ bị đánh nhập vào địa ngục Vô Gián. Trong địa ngục Vô Gián vĩnh viễn không có hy vọng được giải thoát, không có cảm thụ nào khác ngoài thống khổ. Các địa ngục khác, chẳng hạn như địa ngục rút lưỡi là nhẹ nhàng nhất, âm sai dùng cái kìm sắt lớn kẹp lấy lưỡi của phạm nhân còn sống kéo ra ngoài, rồi liền thẳng tay rút lưỡi ra, sau đó đổ vào một loại nước thuốc, lưỡi có thể mọc lại ngay lập tức, sau đó lại bị rút ra. Khi thụ hình bị tra tấn thì đau đớn thống khổ không tả xiết, khi không bị tra tấn thì còn có thể thuyên giảm đi một lúc. Nhưng ở đây thì khác, Vô Gián có nghĩa là gì? Nghĩa là phải chịu tra tấn thụ hình không ngừng nghỉ, thân thể lúc nào cũng liên tục bị ngọn lửa thiêu đốt. Dây thần kinh cảm giác đau đớn của con người khó mà chịu đựng nổi được sự thiêu đốt của lửa, trong địa ngục Vô Gián, chủ yếu là bị ngọn lửa cháy mạnh thiêu người nên cũng còn được gọi là “địa ngục thiêu đốt A Tỳ”.

Vô Gián đạo vẫn chưa phải là địa ngục đáng sợ nhất, bên dưới còn nhiều địa ngục còn hơn cả thế nữa! Các lạp tử của thân thể từ hồng quan đến vi quan bị tiêu hủy từng tầng từng tầng, cuối cùng đi đến tận cùng địa ngục, ngay cả nguyên thần cũng bị tiêu hủy, hình thần toàn diệt, không còn nguyên thần thì phải chăng không cảm nhận được thống khổ đau đớn nữa? Trong kinh Phật từng giảng, rằng sẽ không để cho người đó cảm thấy thoải mái như vậy, còn phải cho người đó lưu lại một chút ý thức, biết và cảm nhận được bẩn và khổ, và họ sẽ vĩnh viễn chịu đựng như vậy.

Thời gian trong địa ngục khác với thời gian nơi không gian nhân loại, người ta thường nghe nói rằng đến nơi địa ngục phải chịu khổ hàng trăm, hàng vạn năm; đó là thời gian ở nơi đó, nhưng so với thế gian con người thì có thể chỉ là một vài ngày hoặc vài tháng, còn ở trong hoàn cảnh đó kỳ thực đã qua hàng vạn năm, mọi thứ trong không gian đó đều biến đổi trở nên nhanh hơn chậm hơn tùy theo thời gian, nếu nhanh lên cũng không cảm giác thấy nhanh, và nếu chậm đi thì cũng không cảm giác được là chậm. Trên thực tế, thời gian trong không gian nhân loại chúng ta nhanh hơn trước kia rất nhiều lần, mọi vật tham chiếu (như đồng hồ) đều biến đổi nhanh theo, nên không hề cảm giác được bất kì điều gì thay đổi. Trong kinh Phật từng giảng rằng tương lai sau hàng trăm triệu năm nữa Phật sẽ hạ thế độ nhân; đó cũng không phải là thời gian của nhân gian, mà là thời gian của cung Đâu Suất, khi quy đổi thành thời gian nơi không gian nhân loại, vừa đúng là thời điểm hiện nay. Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất; đó là một nhận định chung, thời gian của các không gian khác so với thời gian nơi không gian nhân loại thì thường nhanh hơn.

Khi nói đến địa ngục, không thể không nhắc đến một vị đại giác giả, đó chính là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ông đã lập thệ nguyện rằng “Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống không, thề không thành Phật). Rất nhiều người lý giải rằng Ông muốn siêu độ giải thoát tất cả chúng sinh trong địa ngục. Kỳ thực không hẳn là mang ý nghĩa này, làm sao có thể cứu độ được một sinh mệnh với tội nghiệp trầm trọng đến mức không thể cứu được đây? Thiện ác hữu báo, sinh mệnh thập ác bất xá nên phải bị tiêu hủy triệt để, như vậy mới phù hợp với lý của vũ trụ. Phật phải duy hộ lý của vũ trụ, trong đó đương nhiên là bao gồm việc phải hoàn toàn tiêu hủy những kẻ ác không đáng được cứu vớt. Liệu nguyện vọng làm cho địa ngục trở nên trống không này trở thành hiện thực có thể được chăng? Có độ khó nhưng không nhất định là tuyệt đối không có khả năng; nếu như có cơ hội trải qua việc đại canh tân của toàn thể vũ trụ, và có vị Đại Giác Giả cực cao cực cao chính Pháp trong mỗi từng không gian khác nhau; những sinh mệnh không phù hợp tiêu chuẩn sẽ bị đào thải và tiêu hủy triệt để, những sinh mệnh phù hợp tiêu chuẩn sẽ đắc được siêu độ và đề cao, khi ấy địa ngục chẳng phải trống không hay sao?

Có thể một ngày nào đó địa ngục sẽ trở nên trống không, hoặc có thể đây chỉ là một nguyện vọng tốt đẹp.

Chú thích của người dịch:

[1] Nghiệt Kính: là một cái kính, có thể soi ra những loại tội, nghiệp mà linh hồn người đã chết tạo ra khi còn sống.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286602

The post Đạo địa ngục trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Suy ngẫm từ câu chuyện “Tứ đệ tử đắc y bát”https://chanhkien.org/2024/02/truyen-thuyet-dan-gian-suy-ngam-tu-cau-chuyen-tu-de-tu-dac-y-bat.htmlWed, 07 Feb 2024 01:08:15 +0000https://chanhkien.org/?p=32534Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Những năm Khang Hy thời nhà Thanh, trong kinh thành Bắc Kinh có một học giả A. Anh là một cư sĩ Phật giáo vô cùng thành kính tín Phật, giới luật cũng giữ được rất tốt. Một ngày nọ, trên đường đi […]

The post Truyền thuyết dân gian: Suy ngẫm từ câu chuyện “Tứ đệ tử đắc y bát” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Những năm Khang Hy thời nhà Thanh, trong kinh thành Bắc Kinh có một học giả A. Anh là một cư sĩ Phật giáo vô cùng thành kính tín Phật, giới luật cũng giữ được rất tốt.

Một ngày nọ, trên đường đi A gặp một lão tăng đi vân du, nhận thấy lão tăng này coi rất nhẹ được mất, vinh nhục, hơn nữa tướng mạo phi phàm, dáng vẻ đường hoàng, từ đó anh nhận định rằng lão tăng này nhất định là một bậc cao tăng. Vậy nên anh bèn kính cẩn hỏi lão tăng có thể hạ cố đến phủ của anh ở một thời gian ngắn không? Lão tăng quan sát anh ta hồi lâu, rồi đồng ý lời thỉnh cầu của anh. Mấy ngày sau đó, lão tăng và vị học giả A nói chuyện vô cùng ăn ý, họ đều nói về những chuyện tu luyện Phật Pháp, không nói những chuyện phàm tục khác.

Khi đó là năm cuối thời Khang Hy, một số hoàng tử A ca khônng ngừng tranh giành ngôi vị, không chỉ người trong cung quan tâm chuyện này mà rất nhiều người trong xã hội cũng đều nghị luận, rốt cuộc là Thập tứ A ca hay là Tứ A ca, hoặc là vị A ca nào cuối cùng sẽ lên ngôi. Những chuyện bàn tán này cũng truyền đến tai vị học giả A, dần dần anh cũng hứng thú với câu chuyện này, càng ngày càng chấp mê, luôn nghĩ xem vị A ca nào cuối cùng sẽ giành được ngôi vị.

Một ngày nọ vị học giả không kiên nhẫn được, muốn hỏi lão tăng xem cuối cùng ai sẽ là hoàng đế. Nhưng anh ta biết tất cả tâm tư của lão tăng đều đặt tại việc tu luyện Phật Pháp, không tiện hỏi rõ, chỉ đành thay đổi phương thức. A hành lễ với lão tăng xong liền hỏi: “Khi Phật sắp niết bàn thì các chư đại đệ tử ai có thể nhận được y bát?” Câu hỏi này nhắc đến Phật để ám chỉ hoàng đế Khang Hy, vì vào những năm Khang Hy, người ta bắt đầu dùng “Phật” hoặc “Phật Gia” để ám chỉ Hoàng đế, cách gọi này sau vẫn được dùng để nói về người cai trị tối cao của nhà Thanh, còn “các chư đại đệ tử” ám chỉ các hoàng tử, “y bát” ám chỉ hoàng vị.

Lão hòa thượng nghe vậy giật mình, nhìn chằm chằm vị học giả một lúc rồi nói: “Tứ đệ tử được y bát”. Học giả A vừa nghe liền biết Tứ A ca sẽ thành Thiên tử, vấn đề của mình cuối cùng đã có câu trả lời. Nhưng chưa đợi anh ta kịp vui mừng xong, lão tăng thở dài nói: “Lão nạp vốn cho rằng ngươi không giống người thường, mà là một người chân chính tu luyện, không ngờ rằng ngươi cũng chỉ là kẻ phàm phu tục tử, lão nạp xin cáo từ”, nói xong liền rời đi. Anh A tỉnh ra muốn đuổi theo, nhưng đuổi thế nào cũng không theo được.

Sau đó quả nhiên Tứ A Ca lên ngôi hoàng vị, chính là hoàng đế Ung Chính. Lời lão tăng nói đã ứng nghiệm, nhưng anh A cũng không gặp được lão tăng nữa.

Câu chuyện này thật khiến người ta cảm khái muôn phần, một người chỉ vì chấp trước vào việc người thường, mà sau cùng lại mất đi cơ duyên được đắc độ. Liên tưởng đến hôm nay, tôi ngộ được rằng: Đệ tử Đại Pháp không được chấp trước vào chính trị, trong nội bộ đảng phái nào đấu với phái nào, làm thế nào để tranh quyền đoạt lợi, những việc tạp loạn đó chúng ta không cần quản, căn bản là không đáng để chúng ta động tâm, chúng ta chỉ cần nghiêm túc làm tốt những việc Sư phụ muốn chúng ta làm là được rồi.

Ghi chú: Đây là câu chuyện được ghi lại trong một bản dịch cuốn sách cổ trong gia đình, sau này bản dịch vô tình bị thất lạc, tôi thực sự đã quên mất tựa đề cuốn sách nhưng còn nhớ rất rõ câu chuyện, tôi viết lại câu chuyện bằng hồi ức của mình.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49963

The post Truyền thuyết dân gian: Suy ngẫm từ câu chuyện “Tứ đệ tử đắc y bát” first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Phú hộ và người ăn xinhttps://chanhkien.org/2024/02/truyen-thuyet-dan-gian-phu-ho-va-nguoi-an-xin.htmlMon, 05 Feb 2024 01:32:11 +0000https://chanhkien.org/?p=32520Tác giả: Tiếu Cộng [ChanhKien.org] Vào thời nhà Thanh, có một người giàu có tên là Chu Bát Khoảnh, biệt danh là Chu đại thiện nhân. Nói đến người này trong phạm vi bán kính trăm dặm đều biết tiếng. Những việc thiện của Chu phú hộ được người dân trong vùng khen ngợi, người […]

The post Truyền thuyết dân gian: Phú hộ và người ăn xin first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiếu Cộng

[ChanhKien.org]

Vào thời nhà Thanh, có một người giàu có tên là Chu Bát Khoảnh, biệt danh là Chu đại thiện nhân. Nói đến người này trong phạm vi bán kính trăm dặm đều biết tiếng.

Những việc thiện của Chu phú hộ được người dân trong vùng khen ngợi, người người ca tụng. Bên cạnh cổng nhà ông thường buộc ba loại gia súc để cho người khó khăn trong vùng dùng miễn phí. Dùng thời gian ngắn, dùng xong đem trả về là được; nếu dùng thời gian dài, đến bữa cho ăn là được. Còn rất nhiều việc tốt nữa sẽ không mô tả chi tiết, ở đây tôi xin kể câu chuyện về phú hộ Chu và một người ăn xin.

Có một người ăn xin mắc bệnh nặng, khi sắp trút hơi thở cuối cùng thì ông Chu đi qua phát hiện. Ông Chu không nói không rằng khiêng người ăn xin về nhà, mời thầy lang đến khám bệnh, còn phái người hầu đến chăm sóc. Một thời gian sau, người ăn xin khỏe lại và nhất định muốn rời đi, ông Chu lại lấy ra một xâu tiền đồng tặng cho người ăn xin. Người ăn xin cảm động quỳ xuống, dập đầu lia lịa, miệng không ngừng nói: “Chu đại thiện nhân, tôi sẽ không quên ngài, tôi phải báo đáp ngài, tôi sẽ trả đại ơn này”. Người xung quanh có người không lý giải được: một người ăn mày sao có thể báo đáp được ơn của phú hộ? Vậy mà chưa đến vài năm sau lời của người ăn xin đã ứng nghiệm rồi.

Thời gian trôi nhanh, mấy năm trôi qua. Lúc này, Chu phú hộ bắt đầu kinh doanh lưu huỳnh, ông mua lưu huỳnh từ nơi khác rồi về bán tại địa phương để kiếm thêm lợi nhuận.

Có lần phu đánh xe chuyến hàng chở lưu huỳnh của phú hộ Chu khi lưu lại phủ Chính Định thì bị quan sai cưỡng chế thu giữ. Tri phủ Chính Định là một tên tham quan, hắn ta muốn ông Chu nộp tiền phạt để chuộc tất cả hàng hóa. Khi đó, trên người ông Chu không còn một xu, ông lo lắng nhưng không có cách nào, phải lang thang khắp phố. Đúng lúc tuyệt vọng, một người ăn xin đến trước mặt ông, cúi mình hành lễ, vấn an. Khi ông Chu nhận ra người đàn ông này chính là người ăn xin ông đã cứu tế năm đó, ông định lấy tiền trong túi ra để bố thí, mới chợt nhớ ra mình không còn một xu dính túi, chỉ biết thở dài một tiếng. Người ăn xin hỏi sao ông thở dài, ông không nói. Sau khi bị người ăn xin hỏi liên tục, ông Chu không còn cách nào khác đành nói ra sự thật. Người ăn xin nghe xong, bảo Chu phú hộ hãy nghĩ thoáng, đừng quá lo lắng, nói rằng có thể giúp ông đòi lại công bằng, sau đó tìm cho ông một quán trọ rồi mới rời đi.

Ba ngày sau, chỉ thấy người ăn xin dẫn đầu một nhóm ăn xin mang số hàng hóa bị tên tham quan thu giữ cùng phu xe gửi đến quán trọ nơi Chu phú hộ đang ở một cách nguyên vẹn. Chu phú hộ cảm thấy kỳ lạ, hỏi nguyên nhân. Người ăn xin lúc đầu vốn không muốn nói, dưới sự truy hỏi của Chu phú hộ, đành không còn cách nào mà nói rõ ngọn ngành..

Năm đó sau khi được phú hộ Chu cứu sống, người ăn xin đã lưu lạc đến phủ Chính Định, anh ta hào hiệp dùng tiền mà ông Chu tặng để giúp đỡ người nghèo gặp đại nạn, những người ăn xin ở đó vô cùng kính trọng hành động nghĩa hiệp của anh ta, thống nhất tiến cử anh ta làm thủ lĩnh nhóm ăn xin nơi đó. Lần này ông Chu gặp nạn, anh vừa hô đã có hàng trăm thanh niên nguyện ý ra sức giúp đỡ Chu đại thiện nhân, giúp thủ lĩnh của mình đền ơn.

Vào thời đó, người giàu tìm đã khó, gọi ăn xin còn khó tìm thế nào? Vậy mà anh ta một cái phất tay có thể gọi hàng nghìn người ăn xin từ bốn phương tám hướng đến. Không bao lâu, tri phủ Chính Định bị bao vây ba vòng trong ba vòng ngoài, không có đường thoát. Lúc đầu, tri phủ vẫn ngang ngược, hai bên giằng co không ai chịu ai. Thời gian hai ngày trôi qua, có người ăn xin ngã gục vì đói, nhưng vì chưa đạt mục đích thề không bỏ cuộc, khi ngày càng nhiều người ngã xuống vì đói, lại khiến tri phủ kia vô cùng sợ hãi. Ông ta biết rằng người khác gây chuyện thì dễ xử lý, chỉ riêng với ăn xin thì khác, không những không kiếm chác được gì, lại còn phải trả lại, không có cách nào đành tự nhận mình xui xẻo, thuận theo ý của đội ăn xin, ngoan ngoãn thả hàng hóa bị giữ và phu xe cho Chu phú hộ, lại còn đưa tiền bồi thường cho nhóm ăn xin.

Từ đó trở đi, câu chuyện Chu đại thiện nhân hành thiện và sự báo ân của người ăn xin lan truyền khắp vùng. Cho đến nay, những người cao tuổi ở đó vẫn kể câu chuyện này một cách thích thú. Đúng như câu thế nhân thường nói:

Vi nhân bất tố khuy tâm sự
Bán dạ bất phạ quỷ khiếu môn
Vi nhân hành thiện tố hảo sự
Ngộ nan trình tường phú bạn hành

Dịch nghĩa:

Làm người không làm chuyện thẹn tâm
Nửa đêm không sợ quỷ gọi cửa
Làm người hành thiện làm việc tốt
Gặp nạn hóa tường, phúc đến theo

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49929

The post Truyền thuyết dân gian: Phú hộ và người ăn xin first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 2)https://chanhkien.org/2024/02/nu-than-hoang-gia-trong-vo-kich-lon-cua-lich-su-phan-2.htmlSat, 03 Feb 2024 23:38:22 +0000https://chanhkien.org/?p=32514Tác giả: Thiên Tải Vân [ChanhKien.org] 3. Vai diễn của vở kịch lớn có thể do mình quyết định không? Tôi phát hiện một số thần thoại và truyền thuyết như “Phong Thần diễn nghĩa”, “Tây du ký”, rất nhiều Thần ở trong đó đều là có thật, hơn nữa trong rất nhiều câu chuyện […]

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thiên Tải Vân

[ChanhKien.org]

3. Vai diễn của vở kịch lớn có thể do mình quyết định không?

Tôi phát hiện một số thần thoại và truyền thuyết như “Phong Thần diễn nghĩa”, “Tây du ký”, rất nhiều Thần ở trong đó đều là có thật, hơn nữa trong rất nhiều câu chuyện liên quan đến họ, một số sự thực cũng là thật. Trong câu chuyện dân gian kể rằng sau khi Tiết Cương phản Đường, gia đình họ Tiết bị tru di diệt tộc, khi ấy Phàn Lê Hoa đã nhấc hơn 300 người nhà họ Tiết lên không trung, sau đó bởi vì sư phụ của Phàn Lê Hoa đến, nói rằng đây là thiên ý, không thể làm trái ngược ý trời, bà mới đặt mọi người xuống, ngay cả những việc thần kỳ như vậy cũng là thật.

Trong một số câu chuyện thần thoại và truyền thuyết, nói về Ngọc Đế có bảy người con gái, câu chuyện này lại không hề hư giả, Ngọc Đế có bảy người con gái và hai người con trai, hơn nữa những nhân vật thần thoại như Na Tra, Dương Tiễn, Hoa Sơn Thánh Mẫu đều là có thật. Đối với những câu chuyện về bảy vị công chúa chuyển sinh đến nhân gian, tôi cũng không phải đều biết một cách rõ ràng, minh bạch. Dưới đây chỉ nói một chút những gì tôi biết, trọng điểm nói về những điểm khác biệt giữa truyền thuyết dân gian và thần thoại. Có thể có người cho rằng tôi đang biên tạo ra câu chuyện, kỳ thực không phải vậy. Nếu như mọi người không tin, cũng có thể xem đó như là một câu chuyện thông thường như bao câu chuyện khác.

Mẹ của Dương Tiễn là ai?

Dương Tiễn là nhân vật trong “Phong Thần diễn nghĩa” và “Tây du ký”, cũng là nhân vật có thật trong lịch sử, chỉ là có sự nhầm lẫn liên quan đến việc mẹ của ông ta là ai. Trong tiểu thuyết thần thoại “Tây du ký”, tác giả nói rằng mẹ của Dương Tiễn là em gái của Ngọc Đế, kỳ thực ở thiên giới, Ngọc Đế chỉ có chị gái, không có em gái, lại càng không có câu chuyện em gái tư tình tự xuống phàm trần. Mà người năm đó kết duyên với Dương Thiên Hựu là đại công chúa, tức đại công chúa là mẹ của Dương Tiễn và Hoa Sơn Thánh Mẫu.

Khi đó là thời kỳ mà người và Thần đồng thời tồn tại, do đó có rất nhiều Thần mang theo thân người. Đại công chúa kết duyên với Dương Thiên Hựu là do Ngọc Đế chỉ hôn, chứ không phải đại công chúa tư tình hạ phàm trần, gia đình Dương Thiên Hựu nhiều đời lương thiện, tích được nhiều công đức, do đó vốn dĩ sẽ có con đàn cháu đống, con cháu đầy nhà. Sau này đại công chúa sinh hạ một nam một nữ, tức Dương Tiễn và Hoa Sơn Thánh Mẫu. Sau khi đại công chúa sinh ra họ không lâu, phàm gian lại phát sinh chiến loạn, đại công chúa chỉ còn cách đem hai đứa con còn nhỏ lên thiên đình. Khi đó Hoa Sơn Thánh Mẫu còn chưa đầy tháng, đại công chúa do vậy đã làm ô nhiễm Thiên giới, Ngọc Đế bèn theo luật của Thần, đành phải đưa đại công chúa nhốt vào thiên lao. Hai đứa trẻ nhỏ đều do thất công chúa 14 tuổi nuôi nấng trưởng thành. Sau này thất công chúa có một đời chuyển thế làm người dân bình thường, đại công chúa hạ thế làm Thần bảo hộ, cũng là để báo đáp ân tình của thất công chúa đã dưỡng dục con mình.

Có phải thất tiên nữ tư tình hạ phàm trần không?

Thất tiên nữ hạ phàm kết hôn với Đổng Vĩnh cũng là thật. Câu chuyện thần thoại “Thiên tiên phối” cũng phát sinh vào thời kỳ con người và Thần đồng thời tồn tại, thời kỳ đó Thần Tiên cũng có nhân thể, không cần đầu thai có thể trực tiếp hạ phàm. Thất tiên nữ hạ thế kết hôn với Đổng Vĩnh cũng là Ngọc Đế chỉ hôn, chủ yếu là bởi vì Đổng Vĩnh bán thân mình để chôn cất cho cha, lòng hiếu thảo cảm động trời đất. Sau này thất tiên nữ hạ phàm chỉ có 100 ngày, là bởi vì lúc đó cuộc sống ở phàm gian quá khổ, nhà cửa lúc đó là lấy tre mà phủ lên, nồi và bát làm từ đất nung, có khi ngủ tới nửa đêm, gió lớn thổi một cái, trong nhà chẳng còn gì nữa. Mà thất công chúa lại là con gái được Vương Mẫu yêu chiều hết mực, bảy vị công chúa đều đã bái sư phụ, sư phụ mà thất công chúa bái là một vị đạo cô trên thiên giới có thần thông phi thường, bởi vì đạo cô thích tính cách thông minh lanh lợi của thất công chúa, bản thân bà cũng không có con gái, bèn thu nhận cô làm con gái của mình.

Việc thất công chúa hạ phàm, bị bà kiên quyết phản đối, Ngọc Đế tuy rằng uy nghiêm, cũng không thể lay chuyển đạo cô có uy vọng rất cao trong số các Thần Tiên, đạo cô rất thương yêu con gái của mình, cũng là điều hợp tình hợp lý. Do đó bèn triệu thất tiên nữ trở về thiên đình. Lúc đó cuộc sống trên thiên giới so với địa giới cách biệt quá lớn, làm gì có Thần Tiên nào muốn hạ phàm kia chứ? Do đó trong một số câu chuyện nói rằng tiên nữ hạ phàm là do thiên giới cô liêu tịch mịch, hạ phàm tìm khoái lạc ở nhân gian, đó quả là chuyện nực cười.

Câu chuyện trong chốn hồng trần của những vị công chúa

Bài viết trước đã nói về việc đại công chúa chuyển thế trở thành Vương Chiêu Quân, tam công chúa chuyển thế thành Phàn Lê Hoa, ngũ công chúa chuyển thế thành Tôn Thượng Hương, lục công chúa chuyển thế thành Tống Khánh Linh, thất công chúa chuyển thế thành Nhạc phu nhân, Nghi Phi của Khang Hy, những người này đều là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử và thời hiện đại, mọi người đều không lạ lẫm gì đối với họ. Dưới đây nói về câu chuyện mà mọi người hoàn toàn không biết về nhị công chúa và tứ công chúa.

Đối với nhị công chúa và tứ công chúa, tôi chỉ biết về một đời của họ. Nhị công chúa chuyển thế làm người dân bình thường trong những năm khoảng từ 1930 đến 2000, thời điểm đó bà đã khoảng 60 – 70 tuổi nhưng nhìn thì chỉ giống như mới 40 tuổi, người ở vùng đó cũng nói bà là tiên nữ chuyển thế. Bản thân bà cũng lờ mờ biết rằng mình là con gái của Vương Mẫu, mỗi năm, hội Bàn Đào vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, nguyên thần của bà cũng tới tham gia. Việc ở trên thiên thượng đối với bà mà nói thì giống như nằm mơ vậy. Khi nguyên thần của bà xuất ra, trong tâm bà nghĩ và nhớ về những điều tốt đẹp và náo nhiệt ở trên Tiên giới, khi quay trở về chỉ biết rằng có một vị lão thần tiên râu bạc bồng bềnh gõ nhẹ phía sau đầu của bà thế rồi bà không biết gì nữa. Khi bà 70 tuổi đã ước hẹn với chồng của mình, cùng nhau quay về thiên đình, cách nghĩ của họ là con người thì phải chết, hơn 70 tuổi rồi, không chết thì sống để thành yêu quái sao, liền uống thuốc trừ sâu. Tự sát lại không phải là một việc tốt, bà không chỉ không thể quay trở về thiên đường, còn bị đả nhập địa ngục chịu khổ. Thật không ngờ nhị công chúa lại hồ đồ như vậy, việc này mỗi khi nghĩ đến đều khiến tôi thở dài; Vương Mẫu cũng vì vậy mà tâm can vô cùng đau lòng.

Tôi được biết về một đời của tứ công chúa, cô chuyển sinh vào một nhà bách tính bình thường, khoảng 16 tuổi thì gả cho một vị thư sinh, sau này sinh được hai người con một trai, một gái. Vị thư sinh sau này vào kinh dự thi, có tên trong bảng vàng, được một vị quan cao chức trọng để mắt, nhận làm rể, từ đó một đi không trở lại, không còn chút tin tức. Tứ công chúa ở nhà, trên thì hiếu kính với bố mẹ chồng, dưới thì nuôi dạy hai người con, ăn rau quả dại mà sống qua ngày, lại ăn uống dè sẻn dành dụm tiền để cho con ăn học, người con trai này là Văn Khúc tinh quân được Vương Mẫu phái xuống chuyển sinh nên thông minh khác thường, đây cũng là hy vọng duy nhất của tứ công chúa. 20 năm sau, người con này liên tục đỗ khoa cử, cuối cùng đỗ tới trạng nguyên, tứ công chúa lúc này mới được khổ tận cam lai. Cảnh ngộ này khá giống với Tần Hương Liên.

Ở đây lại nói thêm một chút về lục công chúa Tống Khánh Linh. Tống Khánh Linh sau 60 tuổi bàn về chính sự, tâm tĩnh xuống, liền có thần thông, có lần ở trong nhà ngủ một giấc, nguyên thần xuất ra du hành giữa đất trời, cũng nhiều lần đến nhà của tôi, chỉ là dáng vẻ vội vàng. Khi tôi còn niên thiếu, từ trong một số tuyên truyền ở trong nước, nói rằng Tống Khánh Linh và Tống Mỹ Linh giống như kẻ địch vậy, kỳ thực chị em họ tình cảm sâu đậm. Ở đây xin lấy một ví dụ: Vào tháng 3 năm 2003, có một ngày, ở trên trời, lục công chúa nói với thất công chúa: “Ta muốn tới phàm gian thăm người em của ta, mấy hôm nữa là sinh nhật của cô ấy, đây cũng là lần sinh nhật cuối cùng của cô ấy rồi”. Thất công chúa hỏi: “Em gái của chị, là em gái nào vậy?” Lục công chúa trả lời: “Chính là Tưởng phu nhân đang sống ở nước Mỹ, bà ấy năm nay đã 105 tuổi, tuổi thọ sắp hết rồi”. Sau này do một đệ tử Đại Pháp bị an ninh quốc gia Trung Quốc bắt giữ, vị đệ tử Đại Pháp này có duyên với họ, lục công chúa bị đại công chúa triệu hồi gấp, sau đó họ sử dụng pháp lực thần thông để cứu vị đệ tử Đại Pháp này ra.

Vương Mẫu cùng với một số Thần cũng nói cho tôi về một số câu chuyện hồng trần của Nhạc phu nhân do thất công chúa chuyển sinh. Khi ấy Nhạc gia rất nghèo, có thể nói là nghèo xơ xác, cho đến giờ Vương Mẫu vẫn còn nhớ một số chuyện cũ của Nhạc gia. Lúc đó hai người con trai của Nhạc phu nhân (Nhạc Vân, Nhạc Lôi) cùng với một người con gái có tên ở nhà được gọi lần lượt là Đại Mao, Tiểu Mao, Tam Mao. Món ăn mà gia đình họ thường ăn là thứ giống như mộc nhĩ thường mọc trong rừng sau mưa. Khi còn nhỏ cả ba đứa trẻ đều rất gầy. Nhạc Vân 12 tuổi đã tòng quân. Sau khi cha con Nhạc Phi bị gian thần hại chết, Nhạc gia trở thành phạm nhân của triều đình, thậm chí đến cỏ cũng không được phép ăn. Nhạc phu nhân cũng vì quá đau lòng mà dường như đã khóc cạn nước mắt. Cuối cùng, Vương Mẫu ở trên trời nhìn thấy con gái của mình đã quá khổ rồi, mới đưa con gái trở về thiên đình trong nước mắt. Sau này Nhạc Vương chuyển thế trở thành Khang Hy đại đế, thất công chúa chuyển thế là Nghi phi, Khang Hy hết mực sủng ái Nghi phi, có lẽ là một sự đền bù cho thời loạn ở kiếp trước của họ.

Tôi là một người có tâm hiếu kỳ rất lớn, từng cười hỏi Vương Mẫu và các vị công chúa rằng: “Theo các vị chuyển thế thành cuộc đời như thế nào thì tốt? Chuyển thế thành hoàng thượng, hoàng hậu tốt, hay chuyển thế thành bách tính bình thường tốt hơn?” Họ nói rằng thác sinh thành người đều không tốt. Chuyển thế thành hoàng thượng, cần phải lo lắng cho giang sơn xã tắc, bách tính trong thiên hạ, nếu làm không tốt, giết người vô cớ, sẽ nợ món nợ mà vài đời cũng không trả hết; chuyển thế thành hoàng hậu, thì những đấu đá trong cung đình rất gay gắt, thất công chúa có một đời chuyển sinh thành hoàng hậu, bị một hoàng phi ác độc có ý đồ muốn ngồi vào vị trí hoàng hậu nên sai người phóng hỏa đốt cung, suýt nữa thì bị thiêu chết, may là Vương Mẫu biết được, Vương Mẫu đã nhấc thất công chúa lên không trung đem đi. Chuyển thế thành vương tử cũng không tốt, tương lai tranh ngôi hoàng vị cũng sẽ huynh đệ trở mặt, tàn sát lẫn nhau. Chuyển thế thành bách tính bình thường, chịu khổ chịu nạn, không sống được ngày nào yên ổn. Thông thường cho rằng chuyển sinh thành công chúa và phò mã thì tốt hơn chút, có được cuộc sống tương đối bình yên, nhưng hạ thế diễn vai gì thì phần nhiều là do thiên định, nào do người quyết định. Những nữ Thần trên Thiên giới đều đã chán ghét với việc lại hạ phàm trần, cũng biết rằng vở đại kịch của lịch sử đã đến cuối cùng rồi. Chỉ có trở thành Thần ở tầng thứ cao, không phải tiến nhập luân hồi mới là tốt nhất.

(Hết)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/38079

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Không nghe lời Thần chịu kiếp nạnhttps://chanhkien.org/2024/02/truyen-thuyet-dan-gian-khong-nghe-loi-than-chiu-kiep-nan.htmlSat, 03 Feb 2024 03:05:47 +0000https://chanhkien.org/?p=32508Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Vào thời mà nước Liêu đối kháng với nhà Bắc Tống, và cũng sắp bị nước Kim tiêu diệt, tại một thành phố của nước Liêu có một vị học giả, tuy bình thường không làm việc thiện gì nổi bật nhưng ông […]

The post Truyền thuyết dân gian: Không nghe lời Thần chịu kiếp nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Không nghe lời Thần chịu kiếp nạn (Hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Vào thời mà nước Liêu đối kháng với nhà Bắc Tống, và cũng sắp bị nước Kim tiêu diệt, tại một thành phố của nước Liêu có một vị học giả, tuy bình thường không làm việc thiện gì nổi bật nhưng ông lại rất sùng kính Thần Phật. Hàng ngày ông thành kính bái Phật, ông không những có Phật đường ở nhà, mà còn thường xuyên đến chùa thắp hương lễ Phật.

Một hôm, ông đến chùa lễ Phật, phát hiện thấy một hiện tượng kỳ lạ: trên thân một bức tượng Thần hộ pháp đầy những giọt nước nhỏ, giống như người toàn thân đổ mồ hôi vậy. Mấy ngày liền sau đó ông đến chùa đều phát hiện hiện tượng như vậy. Vị học giả rất sợ hãi, không biết xảy ra chuyện gì, do đó đặc biệt thành kính bức tượng Thần hộ pháp này.

Một đêm nọ, vị học giả nằm mơ thấy vị Thần hộ pháp này nói với mình: “Nước Liêu vận mệnh sắp kết thúc, thiên thượng sẽ an bài nước Kim sắp hưng vượng đến tiêu diệt nó. Liêu vong Kim hưng, đây là định số của trời cao quyết không thể thay đổi. Ngày mai binh mã của nước Kim sẽ đến, rất nhiều con dân Liêu quốc trong thành phố này sẽ bị giết, vốn dĩ ngươi cũng phải chịu nạn này. Nhưng vì ngươi rất thành kính bái Phật, nên mấy ngày nay ta vẫn luôn vì ngươi mà bôn ba khắp nơi, hy vọng ngươi có thể tránh khỏi tai họa này, những giọt nước nhỏ trên tượng thực sự là mồ hôi của ta. Giờ đây nỗ lực của ta cũng không vô ích, vị Thần bên trên an bài kiếp nạn này cuối cùng cũng gật đầu đồng ý cho ngươi một cơ hội thoát khỏi kiếp nạn này. Bây giờ ta nói cho ngươi biết, sáng mai khi cổng thành mở, ngươi lập tức ra khỏi cổng phía Đông, ra ngoài thành tìm một nơi ẩn nấp, đến ngày kia mới có thể quay về, trên đường nhất định không được quay đầu lại, không được tham lam tiền bạc, ai lôi kéo cũng không được đi theo, đây là cách duy nhất để ngươi tránh được tai họa, hãy ghi nhớ kỹ”.

Ngày hôm sau, người học giả vừa tỉnh dậy đã nhanh chóng thu dọn lương khô và quần áo, vội vàng theo hướng cổng thành phía Đông mà đi, đi nửa đường đột nhiên nhớ ra, bảo vật gia truyền đặt tại nơi dễ thấy trong nhà, không thể để quân lính Kim lấy đi. Người học giả quên lời cảnh báo của Thần, lại quay đầu về nhà, sau khi về nhà giấu bảo vật thật kỹ.

Sau đó người học giả lại ra khỏi nhà thì gặp một người bạn, người bạn kéo anh ta lại bảo: “Đừng đi, đừng đi, nhà tôi mở tiệc thết khách đang tìm anh đến dự tiệc”. Người học giả kể lại cho người bạn nghe câu chuyện giấc mơ, người bạn nghe xong cười to nói: “Đồ ngốc, đồ ngốc, chỉ một giấc mơ lung tung sao có thể có căn cứ được, anh đang tự dọa mình thôi. Anh xem thành trì của chúng ta rất kiên cố, trên tường thành còn có một tháp canh, đằng xa có đài phong hoả cảnh báo. Quân Kim vừa lộ diện sẽ bị phát hiện, ngay lập tức lính canh sẽ đốt đèn hiệu, đóng chặt cổng thành, cố thủ chờ giúp đỡ. Hơn nữa nếu có chiến tranh, chúng ta sẽ nghe được tin phong thanh, bây giờ khắp nơi hòa bình, ở đâu ra lính Kim chứ? Thôi nào, mau cùng tôi đi dự tiệc”.

Vị học giả nghĩ, bạn mình nói cũng đúng, giấc mơ đó đúng là một giấc mơ vô căn cứ, nên anh ta thực sự đã đi dự tiệc. Bữa tiệc rất thịnh soạn, mọi người ăn uống rất hào hứng, sau ba tuần rượu, anh bạn kể giấc mơ của người học giả cho mọi người nghe như một câu chuyện cười, khách khứa nghe xong đều cười to. Tiếng cười còn chưa kết thúc, thì đã nghe thấy những tiếng la hét hoảng loạn, chém giết. Thì ra quân Kim lợi dụng địa hình, ẩn nấp rất kỹ, binh mã nhà Liêu đi tuần tra đều không phát hiện ra, kết quả là quân Kim phát lệnh tấn công bất ngờ, quân Liêu giữ thành thậm chí không kịp đóng cổng thành.

Sau khi quân Kim vào thành, chúng tàn sát nhiều người, người học giả và một số vị khách bị quân Kim xông vào chặt đầu, còn người bạn của học giả và một số vị khách khác sống sót. Câu chuyện này từ đó đã truyền rộng, ai nghe xong cũng thở dài tiếc nuối, một là tiếc nuối cho sự hưng vong của một triều đại, sinh tử của con người là do ông trời sắp đặt, hai là tiếc nuối cho người học giả kia lẽ ra có thể sống sót, nhưng vì không nghe lời Thần mà đánh mất đi sinh mệnh.

Chú ý: Đây là câu chuyện được ghi lại trong một bản dịch cuốn sách cổ trong gia đình, sau này bản dịch vô tình bị thất lạc, tôi thực sự đã quên mất tựa đề cuốn sách nhưng còn nhớ rất rõ câu chuyện, tôi viết lại câu chuyện bằng hồi ức của mình.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/49995

The post Truyền thuyết dân gian: Không nghe lời Thần chịu kiếp nạn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1)https://chanhkien.org/2024/02/nu-than-hoang-gia-trong-vo-kich-lon-cua-lich-su-phan-1.htmlFri, 02 Feb 2024 03:24:20 +0000https://chanhkien.org/?p=32496Tác giả: Thiên Tải Vân [ChanhKien.org] Lịch sử xoay vần giống như một vở kịch dài đằng đẵng, mỗi người chúng ta đều đóng một vai trong vở kịch lớn này. Một số vai diễn trong đó lại không phải là ý nguyện của con người, thậm chí khiến người ta đau khổ tận cùng, […]

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thiên Tải Vân

[ChanhKien.org]

Lịch sử xoay vần giống như một vở kịch dài đằng đẵng, mỗi người chúng ta đều đóng một vai trong vở kịch lớn này. Một số vai diễn trong đó lại không phải là ý nguyện của con người, thậm chí khiến người ta đau khổ tận cùng, nhưng lịch sử đã làm ra an bài như vậy, bạn cũng không thể không đi đóng vai đó. Tuy nhiên, nếu bạn vén lớp màn sương mù của thời gian và không gian, bạn sẽ phát hiện tuy rằng những an bài này rất phức tạp, nhưng chúng không hỗn loạn lộn xộn mà là vô cùng có trật tự, tự có huyền cơ và mục đích ở trong đó. Cũng như hàng vạn con suối phải chảy về sông, hàng ngàn con sông phải đổ ra biển cả.

1. Tại sao lại tức giận vung trượng?

Ở thành Bắc Kinh cũ (trước năm 1949) có rất nhiều chùa chiền, miếu mạo với các loại khác nhau, tính ra có lẽ lên tới hàng nghìn, trong đó nhiều nhất là miếu Quan Đế, tương truyền chỉ riêng ở thành Bắc Kinh cũ, những ngôi chùa, miếu thờ riêng Quan Công và cả thờ chung Quan Công có tổng cộng là 116, còn nhiều hơn cả chùa thờ Quan Âm. Miếu Quan Đế ở vùng đất Thần Châu, cũng là nhiều nhất. Đặc biệt là đoạn thời gian vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, tốc độ tăng trưởng lại càng nhanh.

Do được các đế vương các triều đại tôn sùng, địa vị của Quan Vũ dần trở nên nổi bật, từng bước được thần thánh hoá, được quan lại và dân chúng tế tự một cách phổ biến, được xưng là “võ vương”, “võ thánh nhân”, đứng cùng hàng ngũ với “văn vương”, “văn thánh nhân” Khổng Tử. Ông ấy phù hợp với nhu cầu của những người khác nhau, Quan Vũ là hoá thân của trung nghĩa, trong con mắt của đế vương các thời đại, ông ấy là trung thần nghĩa sĩ; ba người kết nghĩa vườn đào, đồng cam cộng khổ là tấm gương mẫu mực của tình bạn chân thành; ông ấy giảng nghĩa khí, trong lúc nguy nan trung trinh không thay lòng, gặp nạn không trốn tránh, dám gánh vác nguy hiểm.

Kỳ thực còn có nguyên nhân ở tầng thâm sâu hơn nữa. Nghe nói rằng vào cuối thế kỷ 19, Ngọc Hoàng đã từng làm thiên đế cùng với Vương Mẫu do thọ mệnh trời đã mãn, nên đã hạ giới chuyển thế thành người, mà người thay thế lại chính là Quan Đế. Ở nhân gian, cũng có không ít cao nhân biết được sự việc ở trên trời, xuất phát từ sự tôn kính Quan Đế, đã tu sửa không ít miếu Quan Đế. Khi ấy, hương hỏa của Quan Đế cũng trở nên vô cùng hưng thịnh.

Tuy nhiên, thời gian trôi qua, chớp mắt một cái, vào những năm 80 của thế kỷ 20, lúc này Ngọc Đế chuyển thế xuống nhân gian cũng đã đi hết gần 100 năm cuộc đời con người và quay về thiên giới. Lúc này Quan Đế lại không có ý định nhượng lại ngôi vị, mà Ngọc Đế lại cho rằng Quan Đế đã tại vị 100 năm, không thể tiếp tục ngôi vị nữa, thế là không tránh khỏi một trường tranh chấp đế vị. Vào hôm ấy, hai Đế trong khi đàm phán đã phát sinh lời qua tiếng lại, không có chút lời hay lẽ phải nào, việc hai vị Đế tranh chấp kịch liệt đã kinh động tới một vị nữ Thần, vị nữ Thần này nhất thời phẫn nộ, đã vung trượng đầu rồng lên, đẩy Quan Đế ngã xuống đất, nửa tháng cũng không thể ra khỏi giường.

Vị nữ Thần này là ai, vì sao lại tức giận như vậy? Bà là chị ruột trên trời của Ngọc Đế, từng vào triều đại nhà Tống chuyển sinh xuống nhân gian làm Xà Lão Thái Quân. Trượng này của bà không phải là vì bênh vực Ngọc Đế, mà là vì Quan Đế nói lời không đúng mực đã làm tổn thương những người con gái của Ngọc Đế. Quan Đế khi còn sống ở nhân gian không coi trọng giới nữ lưu, lên trời thì tính cách cũng không thay đổi. Mà những người con gái của Ngọc Đế, là bảy vị công chúa của nhà trời, nhiều lần bị lịch sử an bài xuống phàm gian, chịu đủ hết thảy khổ nạn và khuất nhục ở nhân gian. Trượng này của Lão Thái Quân, hoàn toàn là vì bất bình cho những người họ.

Những công chúa nhà trời này đã từng chuyển sinh thành những ai? Họ chính là Vương Chiêu Quân (đại công chúa), người con gái quốc sắc thiên hương gả cho đại mạc xa xôi, Tôn Thượng Hương (ngũ công chúa) tài mạo xuất chúng, vì nước vì tình mà chết, Phàn Lê Hoa (tam công chúa) người con gái nhưng có tính cách nam giới, trung dũng phi thường, Nhạc phu nhân (vợ của Nhạc Phi, thất công chúa) kiên trinh hiếu thuận, trải qua mọi khổ nạn, Tống Khánh Linh (lục công chúa) luôn thích từ thiện, bác ái cương cường,… Họ là những ngôi sao sáng lấp lánh trên bầu trời của dân tộc Trung Hoa, họ vì sự hoà hợp của dân tộc Trung Hoa và sự phát triển của văn hoá đã đóng góp những cống hiến bất diệt. Những gì tôi kể ở đây chỉ là một trong những kiếp sống của họ, kỳ thực, họ cũng đã từng nhiều lần chuyển thế làm người, như thất công chúa từng chuyển thế thành Lý Tịnh phu nhân (mẫu thân của Na Tra), Nhạc Phi phu nhân, vương phi của Khang Hy,… Ý của Lão Thái Quân là ta không quản việc các người tranh vị, ta cũng không muốn quản, nhưng không thể xúc phạm những người cháu gái của ta.

Lão Thái Quân khi còn ở thế gian con người một đời trải qua trăm trận, thân không hề tổn thương, điều này khiến bà cảm thấy tự hào; thế nhưng người đầu bạc lại phải tiễn kẻ đầu xanh, con cháu của bà lần lượt hiến thân trên chiến trường bảo vệ nước nhà, tuổi trẻ thoáng qua, cho dù hơn một ngàn năm trôi qua, Lão Thái Quân kiên cường cũng cảm thấy vô cùng đau lòng. Lão Thái Quân sau khi tự mình thống lĩnh 12 quả phụ tây chinh giành chiến thắng khải hoàn trở về quê hương, ẩn cư nơi quê nhà, tâm quay về với tự nhiên, nhất tâm hướng Đạo, cuối cùng nhục thân thành Thần, sau trăm tuổi chuyển đến vương quốc Thuỷ Tức (Âm). Dân gian lưu truyền Lão Thái Quân tóc bạc rồi lại xanh, răng gãy rồi tái sinh, quả không phải lời hư giả.

Một ngày nọ vào năm 2004, một số công chúa từ trên trời đã đến vương quốc Thuỷ Tức để thăm người cô ruột của họ. Các vị Thần nhìn bó tóc và giỏ răng nhỏ do Lão Thái Quân tu luyện hơn nghìn năm để lại, đều thở dài không thôi. Lão Thái Quân cười nói với chư Thần, nếu như các vị bằng lòng, ta sẽ cho các vị một cái, con cháu của các vị sẽ trở thành quan lớn. Chúng Thần không quan tâm đến danh lợi và sự giàu có ở nhân gian, họ mỉm cười và cảm ơn.

Lại nói, ngay khi Ngọc Hoàng vừa mới giành được ngai vàng và mọi việc đang diễn ra suôn sẻ thì trong cung đình lại xảy ra nội chiến, nguyên nhân là những người con gái của ông và một số thiên binh, thiên tướng đã làm loạn.

2. Chịu đủ khổ nạn quay trở về Thần vị

Nói về việc Ngọc Đế trở lại ngai vàng, chớp mắt đã trải qua tám, chín năm, ông đã hoàn toàn quên mất Vương Mẫu, người cùng với ông hạ thế, nhưng lại chuyển sinh ở nơi khác. Vương Mẫu lúc này cũng đã trải qua hết những khổ nạn cuộc đời của bản thân, nhưng bà ấy lại không quay trở về thiên giới, mà là bị đày xuống địa ngục tám, chín năm.

Vương Mẫu từng nhiều lần hạ thế, từng hai lần chuyển sinh vào nhà của đế vương, hai lần chuyển sinh vào nhà của bách tính bình dân. Ngô Quốc Thái ở thời Tam Quốc, tức mẫu thân của Tôn Quyền chính là bà ấy, con gái của bà Tôn Thượng Hương chính là ngũ công chúa chuyển thế; Tiêu Thái Hậu của nước Liêu vào thời Tống cũng chính là bà (Chú thích: Liêu Thái Hậu là Tiêu Xước vợ của Liêu Cảnh Tông, mẹ của Thánh Tông, tự Yến Yến, sử gọi là Hoàng Thái Hậu, bà phò tá Cảnh Tổng bệnh yếu, quyết định các việc lớn quân sự quốc gia trong 14 năm, lại giám hộ cho Thánh Tông còn nhỏ, lâm triều nhiếp chính 27 năm, cai trị nhà Liêu hơn 40 năm vô cùng xuất sắc. Bà chủ trương cách tân, hướng về Bắc Hán, khiến triều Liêu trong thời kỳ bà cai trị đạt đến thời thịnh trị đỉnh cao, bà là một vị nữ chính trị gia và quân sự gia có hùng tài thao lược của nhà Liêu, cũng là một người phụ nữ kiệt xuất không dễ thấy trong lịch sử Trung Quốc), Yến thái hậu có một người con gái chính là công chúa nhà trời chuyển thế.

Vương Mẫu vào kiếp này chuyển sinh vào gia đình bách tính bình thường, cuộc đời bà trong kiếp này đã trải qua đủ mọi khổ nạn và khuất nhục. Phụ thân của bà chính là một nông dân thực thà thiện lương, mà người mẹ lại là một người không có nhân tính, một người phụ nữ ác độc thích hút thuốc, bà chưa từng nhận được một ngày tình cảm của người mẹ. Lúc còn nhỏ, bà toàn ở trong sự che chở và trên lưng của người cha mà sống qua ngày, khi mới năm tuổi đã bị người mẹ độc ác gả cho người khác để làm vợ nuôi từ nhỏ. Bà ở trong một gia đình họ Trần làm vợ nuôi từ nhỏ, đồ ăn là lá cây khô, mặc bộ quần áo đơn rách rưới, ngủ trên cỏ khô, đắp chăn là áo xơ dừa, mùa đông bởi vì quá lạnh, chỉ có thể co ro đến khi trời sáng. Mẹ chồng của bà cũng rất ghê gớm, có một lần bà ăn “cơm” kẹp một miếng dưa chua, bị mẹ chồng chửi bới một trận, chửi bà ăn ngon, còn bị mẹ chồng dùng đũa đánh sưng cái tay nhỏ. Đứa trẻ sáu, bảy tuổi trong trời đất băng tuyết lại phải trèo đèo vượt núi để gánh nước, có một lần từ trên núi lăn một vòng gãy chân. Mà mẹ chồng lại không thương xót đứa trẻ nhỏ, mà lại tiếc cho cái thùng của mụ, vì chiếc thùng vỡ của mụ, lại đánh bà một trận đau. Sau ba năm làm dâu nhỏ tuổi, bím tóc dài xanh mượt đã biến thành những sợi tóc vàng khô.

Một đời của bà hai lần bị bán, một lần là khi bà 14 tuổi bị mẹ bán, lại một lần nữa là khi bà hơn 30 tuổi sau khi chồng mất bị ác phụ ở trong họ bán. Bà một đời sinh được chín người con gái, tám người trong đó đã bị chết trong những năm loạn lạc. Tuy nói rằng bà đã khổ một đời, nhưng bản tính từ bi chính trực không thay đổi. Mẹ và em trai của bà sau này đã tham gia đảng X thời kỳ đầu, kỳ thực chính là làm cường đạo thổ phỉ, từng nhiều lần cướp đoạt được những thứ của nhà giàu. Bà cho rằng những thứ tài vật này lấy được không thuần chính, không trong sạch, vì thế một xu cũng không cần, lại phát thệ đoạn tuyệt quan hệ với người mẹ độc ác và người em trai không ra gì; trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, bà từng lấy danh nghĩa nấu cơm cho người Nhật Bản, lặng lẽ thả người phụ nữ trẻ bị quân Nhật bắt được, bản thân lại bị quân Nhật đánh thậm tệ.

Vương Mẫu hạ địa ngục được tám, chín năm thì Thần điểu ở Nhạc Vương miếu cũng hướng lên Nam Thiên Môn kêu lên cả tám, chín năm. Những người con gái của Vương Mẫu, những người công chúa ở trên trời nhìn thấy mẫu thân vẫn không thể quy vị, trong tâm nóng ruột đứng ngồi không yên, một vài vị thủ lĩnh trong thiên binh thiên tướng cũng bất bình lên tiếng cho Vương Mẫu.

Trong số các vị công chúa, thì đại công chúa là có bản lĩnh nhất, lục công chúa có tài ăn nói nhất, khi đại công chúa chuyển thế thành Vương Chiêu Quân, người ta tán dương cô là quốc sắc thiên hương, vẻ đẹp kinh động lòng người, kỳ thực cô ở thiên giới tính cách mười phần mạnh mẽ, khá giống Ngọc Đế; mà lục công chúa tính cách ôn hoà, nói năng khéo léo, khá giống Vương Mẫu. Đại công chúa có Đạo Pháp thập toàn, mỗi một loại pháp thuật đối ứng với một loại pháp bảo, theo tôi được biết thì có bốn pháp bảo là kiếm trảm yêu, gương chiếu yêu, thừng trói tiên, bình hấp hồn. Bốn pháp bảo này cực kỳ có linh tính, giống như kiếm trảm yêu, không chỉ trảm yêu mà còn trảm tiên, có điều nếu như bạn là người tốt thì cho dù có phóng vào bạn, nó cũng sẽ tự động xoay chuyển, tuyệt đối không đả thương người vô cớ. Dù là Ngọc Đế cũng nể đại công chúa ba phần. Mấy vị thiên tướng cũng rất xuất sắc, trong đó một vị thiên tướng tính tình cương trực, giọng nói mạnh mẽ, khi tức giận lời nói ra oang oang như sấm, trên trời dưới đất đều có thể nghe được âm thanh của ông, bọn họ làm náo loạn yêu cầu đón Vương Mẫu về Thiên đình.

Sau khi Vương Mẫu quy vị, đội chiếc mũ phượng, tay vịn vào trượng đầu rồng, triển hiện uy nghiêm trở thành vị Thần lớn nhất, chưởng quản “địa bàn” (đĩa của đất), “địa bàn” chủ yếu là an bài đại sự ở nhân gian; “địa bàn” đối ứng với “thiên bàn”, “thiên bàn” do Ngọc Đế đích thân nắm giữ. Sau khi Vương Mẫu quy vị, Thần Thánh ở tám phương đều đến chúc tụng, trong đó có một vị vẫn luôn quan sát bà, cũng chính là kẻ địch của bà là Xà Thái Quân. Hai người họ vào triều đại nhà Tống từng đối đầu trời long đất lở, hai người có mối thù gặp nhau, nhưng lại hết sức thân mật. Ở trên từng nói đến, Xà Lão Thái Quân chính là chị ruột của Ngọc Đế ở trên trời chuyển thế, Vương Mẫu (Yến Thái Hậu) và Thái Quân, khi hạ thế trở thành kẻ thù lớn nhất của nhau. Ở trên trời là chị em tốt, an bài của lịch sử có lúc lại tàn khốc đến như vậy! Kỳ thực những vị Thần này là dùng nhiệt huyết thậm chí là sinh mệnh một đời để viết nên lịch sử, để nói cho con người ta biết, thế nào là “trung”, thế nào là “nghĩa”, trung, hiếu, tiết, nghĩa là tiêu chuẩn Thần định cho con người, đồng thời cũng là thúc đẩy sự hoà hợp của các dân tộc, dẫn dắt nhân loại đi đến văn minh.

Sau này khi Vương Mẫu đội mũ nhỏ mặc áo tuyết tuần tra địa ngục, nhìn thấy rất nhiều sinh mệnh ở địa ngục chịu khổ cảm thấy đau lòng, nhưng khi thấy người mẹ ở nhân thế của bà còn đang trong địa ngục khóc lớn, bà cũng không buồn bận tâm. Bà không thể quên được, mẹ của bà hút thuốc như thế nào, đã làm bại hoại gia đình ra sao, để bà ở nhà họ Trần chịu đủ thứ tra tấn giày vò; không thể quên được, mẹ của bà khinh thường người cha chân chất thật thà của bà như thế nào, thường xuyên thông gian cấu kết với “đồng chí cách mạng” ở bên ngoài làm điều ác, lại còn ác tâm bán cả con của mình đi, bà không thể quên được khi mình bị bán đi, cha của bà từ đó lâm bệnh, không ngừng kêu gọi con gái mà đoạn mệnh nơi hoàng tuyền,… Dùng lời nói của Vương Mẫu mà nói thì loại người không bằng chó lợn này, uổng phí làm người mẹ.

Tôi cũng từng nói chuyện với Vương Mẫu, tại sao ngài với thân phận là một vị Thần lớn như vậy lại chuyển thế làm bách tính bình dân, chịu cái khổ lớn như vậy. Vương Mẫu nói, việc Thần hạ thế, chịu khổ, chịu nạn, làm việc tốt, đều có thể tăng công tích đức, đây gọi là chịu cái khổ trong những cái khổ, làm một người ở trên người, người ở trên người có nghĩa là gì? Thần mới là người ở trên người. Nếu như chỉ hưởng thụ, tiêu xài hoang phí, cũng sẽ chuyển thế thành lợn, chó, trâu, ngựa để hoàn trả những gì đã nợ, giết người phải đền mạng, nợ thì phải trả, ngươi nhìn xem, hiện nay chẳng phải cũng có hoàng đế của triều trước vì không giữ nhân đạo, phung phí vô độ, vẫn đang lăn lộn trên phố sao, nếu như làm một việc xấu lớn vi phạm thiên đạo, như lạm sát vô cớ, Thần Tiên đi lầm đường, cũng bị đào thải trong kiếp nạn, cũng bị trời đánh sét đánh. Ngươi xem xem, có vị Thần nào hạ thế mà không phải chịu khổ, cho dù hạ thế làm hoàng đế, mỗi ngày vẫn phải lo lắng vì quốc gia, vì lê dân bách tính, chẳng phải ngủ cũng không ngon giấc đó sao!

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/37990

The post Nữ Thần hoàng gia trong vở kịch lớn của lịch sử (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chứng kiến sinh mệnh luân hồi: Mượn hoa dâng Phậthttps://chanhkien.org/2024/01/kien-chung-sinh-menh-luan-hoi-muon-hoa-dang-phat.htmlThu, 25 Jan 2024 07:17:38 +0000https://chanhkien.org/?p=32436Tác giả: Doãn Nhi [ChanhKien.org] Gần đây tôi nghe tin có một đồng tu qua đời, trong lòng tôi rất buồn. Người đồng tu đó là một đệ tử Đại Pháp đắc Pháp trước ngày 20 tháng 7 và bị nghiệp bệnh lấy đi nhục thân. Hôm nay tôi vô tình biết được quan hệ […]

The post Chứng kiến sinh mệnh luân hồi: Mượn hoa dâng Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Doãn Nhi

[ChanhKien.org]

Gần đây tôi nghe tin có một đồng tu qua đời, trong lòng tôi rất buồn. Người đồng tu đó là một đệ tử Đại Pháp đắc Pháp trước ngày 20 tháng 7 và bị nghiệp bệnh lấy đi nhục thân. Hôm nay tôi vô tình biết được quan hệ nhân duyên của vị đồng tu đó và chồng của bà ấy, gọi tắt là đồng tu A và chồng của bà ấy là đồng tu B.

Có một câu chuyện nhỏ có tên “Mượn hoa dâng Phật” được lưu truyền trong Phật giáo. Tương truyền vào 2500 năm trước, có một đệ tử của Bà La Môn tên là Thiện Huệ trong lúc đến thăm thành phố Liên Hoa, cậu nghe nói Phật Nhiên Đăng sẽ đến thành phố này thuyết Pháp nên muốn lấy hoa tươi để cúng dường Phật Nhiên Đăng, nhưng tất cả hoa sen trong thành trước đó đều đã bị quốc vương lấy hết để cúng dường Phật Nhiên Đăng. Thiện Huệ đã đi tìm khắp thành nhưng không tìm được một bông hoa tươi nào. Đúng lúc này có một tì nữ đi ngang qua, trong ngực cô giấu một chiếc bình cắm bảy bông hoa sen xanh. Bởi vì Thiện Huệ thành tâm xin hoa làm cảm động đến ông Trời nên đã khiến những bông hoa sen xanh kia nhảy ra khỏi bình. Thiện Huệ nhìn thấy cảnh này nên tha thiết xin cô ấy bán hoa cho mình. Người tì nữ cảm động trước sự thành tâm của Thiện Huệ nên đã đồng ý đưa năm bông hoa sen xanh cho cậu và nhờ Thiện Huệ lấy hai bông còn lại giúp cô dâng lên Phật để tích công đức cho bản thân. Đồng thời cô muốn Thiện Huệ đồng ý rằng trước khi đắc đạo, hai người đời đời kiếp kiếp sẽ là vợ chồng và sau khi đắc đạo phải độ cô ấy, Thiện Huệ đã đồng ý với cô.

Sau khi chuyển sinh, Thiện Huệ trở thành thái tử Tất Đạt Đa của vua Tịnh Phạn Vương nước Ca Tỳ La Vệ, năm đó người tì nữ chuyển sinh thành Da Du Đà La – là vợ của ông. Sau này Tất Đạt Đa rời cung đi xuất gia và giác ngộ dưới cây bồ đề. Sau khi ông truyền Pháp đến nước Ca Tỳ La Vệ, vợ của ông đem theo người con nhỏ là La Hầu La cùng nhau quy y. Như vậy Thiện Huệ đã thực hiện lời hứa của mình từ đời trước với người tì nữ.

Luân hồi qua hàng ngàn năm, Thiện Huệ lại lần nữa chuyển sinh thành đồng tu B; vào lúc Đại Pháp khai truyền, ông đã cùng vợ là đồng tu A đắc Pháp và cả hai đều trở thành đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp. Trước khi chuyển sinh, vì để không ảnh hưởng đến tu luyện nên đồng tu A đã từ bỏ vẻ đẹp của mình, trở thành một người phụ nữ rất bình thường. Mấy năm trước, đồng tu A xuất hiện trạng thái nghiệp bệnh, đồng tu B đã luôn ở bên cạnh túc trực chăm sóc cho đến khi bà qua đời.

Đồng tu A chính là người tì nữ chuyển sinh. Năm đó, thái tử Tất Đạt Đa ra đi để lại bà cô đơn ở trong cung mấy chục năm, kiếp này hai người lại được đoàn tụ trở thành vợ chồng. Trong tên của bà ấy có một chữ “Hoa”, chính là kết thánh duyên từ việc “mượn hoa dâng Phật” từ đời trước.

Từ trong câu chuyện này tôi ngộ được rằng, những người nhà bên cạnh đệ tử Đại Pháp, đặc biệt là những người nhà cùng tu luyện đều là được Sư phụ an bài duyên phận quan hệ thân thích. Mỗi thời kỳ trong lịch sử cũng đều đã từng kết thánh duyên như vậy để đến thời mạt thế mới có thể hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau đề cao. Chúng ta hãy cùng trân quý Pháp duyên, trân quý mỗi đồng tu bên cạnh mình.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/287433

The post Chứng kiến sinh mệnh luân hồi: Mượn hoa dâng Phật first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo thiên thần trong lục đạo luân hồihttps://chanhkien.org/2024/01/dao-thien-than-trong-luc-dao-luan-hoi.htmlSat, 20 Jan 2024 03:03:00 +0000https://chanhkien.org/?p=32407Tác giả: Quá Khách [ChanhKien.org] Nói về lục đạo luân hồi ở trong truyền thuyết, đạo thiên thần được xếp vào vị trí thứ nhất, còn gọi là đạo thiên nhân; sự sắp xếp này căn cứ chiểu theo mức độ phúc đức lớn nhỏ mà sắp đặt, đạo thiên thần là nơi tốt đẹp […]

The post Đạo thiên thần trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quá Khách

[ChanhKien.org]

Nói về lục đạo luân hồi ở trong truyền thuyết, đạo thiên thần được xếp vào vị trí thứ nhất, còn gọi là đạo thiên nhân; sự sắp xếp này căn cứ chiểu theo mức độ phúc đức lớn nhỏ mà sắp đặt, đạo thiên thần là nơi tốt đẹp nhất trong lục đạo, tầng thứ càng cao thì phiền muộn càng nhỏ và phúc báo càng lớn.

Phúc báo của thiên nhân còn được thể hiện ở ngoại hình; họ vô cùng xinh đẹp, mỗi người đều là những mỹ nữ tuấn nam, so với con người thế gian thì đẹp không biết là bao nhiêu lần. Thọ mệnh được quyết định bởi tầng trời họ ở, tầng càng cao thì thọ mệnh cũng dài lâu hơn, ít nhất cũng là vài trăm năm; nhưng không phải là thời gian ở nhân gian, một ngày của họ phải tương đương với rất nhiều năm ở thế gian. Có hành tinh trong hệ mặt trời phải mất hơn một trăm năm để quay hết một vòng quanh mặt trời, vì vậy một năm ở đó tương đương với hơn một trăm năm trên địa cầu.

Trong các đạo khác đều phải chịu khổ, duy chỉ có nơi đây là không có khổ, sinh vào nơi đây chính là đến để hưởng phúc. Cuộc đời của thiên nhân rất hạnh phúc, tầng thứ cao của thiên nhân cũng tựa hồ như bên ngoài tam giới vậy, nhưng họ vẫn có kỳ hạn; cho dù sinh mệnh ở đây có thể sống được bao nhiêu trăm năm, một khi thời hạn đến, họ vẫn sẽ phải nhập luân hồi trở lại.

Đời người chính là tu hành, nhưng không nhất thiết cứ phải tu luyện một cách rõ ràng minh xác thì mới nhập đạo thiên nhân; mà con người khi ở trong mê, khi còn sống nếu an phận giữ mình, không làm điều ác, làm nhiều việc thiện, giữ gìn phẩm hạnh thanh liêm, gieo phúc lành rộng khắp, nếu mà một đời kiên trì giữ vững được như thế thì cũng có thể vào thiên đạo để làm thiên nhân.

Đạo thiên thần có rất nhiều tầng trời. Trong ba giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều có không gian trong đạo thiên thần; thế nên tầng thứ của thiên nhân cũng có khác biệt rất lớn, và quả báo cũng là không giống nhau. Ví như Đâu Suất Thiên nơi Phật Di Lặc ở chính là tầng trời thứ tư của cõi dục giới. Nhưng Ông ở đó không có nghĩa là cảnh giới của Ông thấp; Ông chỉ là thiết lập một điểm dừng chân tại tầng không gian đó; Phật Đà độ nhân cần hiển hiện ở trong mỗi từng cảnh giới, như thế mới không làm cho các sinh mệnh trong các tầng không gian đó cảm thấy kỳ lạ và khó hiểu. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về Phật Di Lặc đã nói rằng Ông là vạn Vương chi Vương, vạn Phật chi Phật (Vương của vạn Vương, Phật của vạn chư Phật), có nguồn gốc cực cao, do đó Ông mới có thể cứu độ chúng sinh vào thời mạt Pháp khi mà hết thảy Pháp đã không còn được nữa. Nếu không thì chỉ cần Phật Thích Ca Mâu Ni hạ thế một lần nữa là được rồi.

Thiên giới ở tầng thứ cao rất tốt đẹp, không nhiễm bụi trần; con người thế gian quét sạch đường phố trong thành thị liền cảm thấy rất tốt đẹp; thế nhưng ở nơi thiên giới ấy, toàn thể không gian, bất kể ở góc ngách nào cũng đều là không nhiễm bụi trần; các công trình kiến trúc đều được làm từ ngọc bích, mã não, vàng kim. Thiên nhân không cần phải lao động làm việc, bởi vì họ đến đây chính là để hưởng phúc, không lao động vậy thì thức ăn đến từ đâu? Tài nguyên ở đây vô cùng phong phú, dồi dào đến mức khắp nơi đều có thức ăn; chẳng hạn như hoa quả kết trái trên cây ở ven đường vô cùng ngọt, sau khi hái xong lại mọc trở lại. Người có phúc phận lớn ở thế gian thông thường khi ngồi ở nhà cũng được người ta đưa cho tiền, ra ngoài liền nhặt được tiền, muốn làm việc gì đều có người giúp đỡ, có người phục vụ; ý tứ đại khái là như vậy. Con người chúng ta luôn hy vọng tiết kiệm đủ tiền và tìm được một nơi ở an nhàn thoải mái sống hết nửa phần đời còn lại, trên thiên thượng đều là những người đã tích lũy được rất nhiều phúc phận nên ở không gian đó họ không có khổ phải chịu.

Bệnh tật và tuổi già là cái khổ ở thế gian con người, nhưng trên thiên thượng thì không có những thứ này; khi bạn già đi, các chức năng cơ quan của thân thể bạn sẽ không suy giảm thoái hóa đi chút nào; chỉ có điều ánh quang huy tỏa ra từ thân thể bạn sẽ dần dần yếu đi. Giống như bóng đèn điện, đến khi hoàn toàn không còn phát quang nữa thì họ chính là đã chết rồi; căn cứ theo những việc họ làm ở đời này mà sẽ quyết định cõi mà họ chuyển sinh đến. Các thiên nhân ở tại cảnh giới ấy không thể làm điều ác gì lớn, họ hầu hết vẫn sẽ chuyển sinh nơi thiên thượng hoặc là chuyển sinh vào đạo A Tu La và đạo nhân gian.

Trong Phật giáo có một câu chuyện kể rằng: Khi Phật Đà còn tại thế, có vị đệ tử tại gia tên là Jīvaka tinh thông y thuật, trong tăng đoàn có người bệnh đều sẽ tìm đến ông ấy để trị bệnh. Bởi vì công đức này mà sau khi Jīvaka qua đời, ông đã được chuyển sinh làm thiên nhân. Khi ấy, trong tăng đoàn lại có người mắc bệnh, tôn giả Mục Kiền Liên đã thi triển thần thông lên thiên thượng tìm ông, muốn Jīvaka trở lại nhân gian để trị bệnh.

Jīvaka đang dẫn các các thiên nữ đến tham dự vũ hội, trên thiên thượng quả thật có rất nhiều điều để thưởng ngoạn vui chơi hơn ở nhân gian. Sau khi nhìn thấy tôn giả, Jīvaka không dừng xe mà cứ ngang nhiên đi qua. Mục Kiền Liên trước đây là sư thầy đã quy y cho Jīvaka, ông cảm thấy Jīvaka đã rất vô lễ; ta đến thiên thượng để tìm ông, mà ông lại liếc một cái rồi bỏ đi. Vì thế liền dùng thần thông giữ chặt xe lại để hỏi cho rõ ngọn ngành, Jīvaka trả lời lại rằng: “Thời gian hưởng lạc yên vui ngắn ngủi, niệm nghĩa thầy trò thế nên mới nhìn ngài một cái, nếu là người khác thì đã chẳng quan tâm để ý đến rồi”.

Đây là điều hạn chế của thiên nhân, ở nơi đây muốn gì có nấy, có đủ điều thú vị; người ta sẽ trầm mê trong đó, thậm chí sinh xuất ra tâm ngạo mạn và lười biếng. Ở nhân gian cũng có tình huống tương tự, vì vậy người ta không thể quá thoải mái, chẳng phải có câu rằng “Sinh vu ưu hoạn, tử vu an lạc” (sinh tồn do ở ưu hoạn, tử vong do ở an lạc) hay sao?

Thiên nhân nơi cao tầng có thể hiểu rõ việc nhân quả; họ thấy rõ ràng rằng khi làm điều xấu sẽ có báo ứng, có tâm bất hảo nào sẽ sản sinh kết quả bất hảo như thế; như vậy họ tự nhiên sẽ không làm người xấu nữa. Không có mê thì rất khó tu luyện lên cao. Người thế gian sở dĩ có thể tu luyện rất nhanh, là bởi vì ở đây có mê. Có người lúc nào cũng truy cầu công năng, truy cầu khai thiên mục, nếu như để họ thấy rõ ràng minh bạch thì họ sẽ rất khó mà tu luyện lên được; người đã viên mãn hầu như không có cách nào tu tiếp nữa, cũng chính là vì nguyên nhân này. Khi người tu luyện ở thế gian xuất công năng, thông thường công năng của họ cũng rất hạn chế, có thể thấy không rõ, có thể thấy không toàn diện, có thể thấy đều là giả tượng. Chỉ có những điều Đại Giác Giả độ nhân nhìn được mới là chân tướng, giảng ra mới thực sự là chân Pháp.

Thiên nhân sở dĩ được gọi là thiên nhân, là bởi có nguyên do, thiên nhân ở nơi đây về cơ bản đều xuất thân từ phàm nhân nơi thế gian; súc sinh, ngạ quỷ và chúng sinh trong địa ngục khó có thể trực tiếp được đầu thai làm thiên nhân, trước tiên họ phải được đầu thai làm người mới có cơ hội tu thành thiên nhân. Nhưng thiên nhân nếu như làm phải việc không tốt, họ vẫn có thể bị chuyển sinh vào bất kỳ một đạo nào khác ở bên dưới. Sinh mệnh học những điều tốt thì rất khó, nhưng học những điều xấu thì lại rất dễ dàng.

Có người lo lắng nhọc tâm, vất vả gian khổ tu luyện lên, hễ không cẩn thận liền bị rơi rớt xuống, vậy còn cần thiết phải tu luyện không? Sinh mệnh dễ dàng bị rơi rớt xuống, đây là nói đến tình huống nội trong Tam giới; còn ở bên ngoài Tam giới muốn rớt xuống thì quá khó rồi, hầu như đều là chủ động hạ xuống để hoàn thành một số sứ mệnh nào đó. Vậy nên khi tu luyện cần phải hạ quyết tâm tu luyện đến cùng, tu thành chính quả, nhảy xuất khỏi tam giới, thì mới không uổng phí một đời này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286951

The post Đạo thiên thần trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Thầy phong thủyhttps://chanhkien.org/2024/01/truyen-thuyet-dan-gian-thay-phong-thuy.htmlMon, 15 Jan 2024 02:15:58 +0000https://chanhkien.org/?p=32375Tác giả: Tiếu Cộng [ChanhKien.org] Vào thời Càn Long triều Thanh, mọi người dân đều bái kính trời đất, trai giới tắm rửa thắp hương bái Phật, thành tâm cầu nguyện Thần Phật bảo hộ, khắp nơi đều là khung cảnh yên bình, tràn đầy sức sống. Nghe kể rằng, vào thời đó ở làng […]

The post Truyền thuyết dân gian: Thầy phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiếu Cộng

[ChanhKien.org]

Vào thời Càn Long triều Thanh, mọi người dân đều bái kính trời đất, trai giới tắm rửa thắp hương bái Phật, thành tâm cầu nguyện Thần Phật bảo hộ, khắp nơi đều là khung cảnh yên bình, tràn đầy sức sống.

Nghe kể rằng, vào thời đó ở làng chúng tôi, khi mùa vụ nông nhàn người ta đều mời đoàn kịch hát đến để biểu diễn hí kịch. Một số người giàu có muốn làm công đức cho làng, sau khi bàn bạc, bèn tự nguyện quyên góp tiền xây dựng một hí lâu (nhà hát hí kịch) để dân làng đến xem thuận tiện hơn.

Thời đó, bất luận muốn xây dựng gì cũng phải mời thầy phong thủy. Vì vậy, có người đã mời một thầy phong thủy nổi tiếng trong vùng đến. Thầy phong thủy vừa đến đã đi một vòng quanh làng, và chọn được một khu đất phong thủy đẹp nằm ở phía Nam của khu làng, cách đường chính không xa. Sau đó, ông xem ngày giờ tốt nhất để động thổ làm móng, khởi công xây dựng, cất nóc… Cuối cùng, ông nhấn mạnh thời điểm tốt nhất để cất nóc, cần phải xảy ra ba sự việc mới được cất nóc. Đó là ba sự việc gì? Thứ nhất, vào buổi sáng hôm đó phải có một người vác lừa đi từ đường lớn qua đây. Thứ hai, vào buổi sáng hôm đó phải có một người đội mũ sắt từ đây đi ra. Thứ ba, buổi sáng hôm đó phải có người cõng người cầm ô từ đường lớn đi qua đây. Lúc đó mới là thời điểm tốt nhất để cất nóc.

Bên cạnh có người nảy ra câu hỏi trong đầu, nếu như không xuất hiện ba sự việc trên thì làm thế nào? Nhưng thấy mọi người đều im lặng nên anh ta cũng không tiện mở lời. Cứ như vậy, mọi việc đều thuận lợi. Đến ngày cất nóc, mọi thứ đã chuẩn bị xong, mọi người ở đúng vị trí, chỉ đợi ba sự việc xuất hiện. Đợi mãi đợi mãi, đột nhiên có người nói: “Nhìn kìa, người vác lừa đã đến”. Mọi người nhìn ra ngoài, thấy từ xa một tráng sĩ vác một con lừa nhỏ từ từ tiến đến. Viêc thứ nhất đã ứng nghiệm, tinh thần mọi người đã khởi lên. Mọi người tiếp tục đợi, đợi mãi đợi mãi, lại có người hô: “Nhìn kìa, người đội mũ sắt tới rồi”. Mọi người hướng về phía đó, quả nhiên có một người đội cái nồi sắt đi qua. Việc thứ hai cũng ứng nghiệm rồi, có người trong nhóm không khỏi vui mừng. Mọi người lại tiếp tục đợi việc thứ ba sắp đến để còn chuẩn bị cất nóc. Lần này phải chờ đợi khá lâu, đợi đến gần trưa mới có người ở trên cao hét lên: “Nhìn kìa, người cõng người cầm ô đến rồi”. Mọi người nghe thấy trông ra xa, dần dần nhìn thấy một người lớn cõng một đứa trẻ trên vai, vì trời nóng nên đứa trẻ tay cầm lá cây che nắng làm bóng mát. Khi người đó cõng đứa trẻ đi qua, có người hét lên: “Cất nóc đi thôi!” Mọi người vô cùng vui mừng, như thể mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của thầy phong thủy rồi.

Ngày qua ngày, hí lâu của làng rất nhanh đã hoàn thành. Đến khi mời được đoàn kịch hát đến cắt băng khánh thành và trình diễn hát một bài, thì mọi người càng ngạc nhiên hơn. Diễn viên ở trong nhà hát biểu diễn một bài, thì người ở cách đó 10 dặm vẫn nghe được giọng hát rất rõ ràng. Khi đó, tuy không có các thiết bị hiện đại như micro, âm li hay loa công suất lớn nhưng âm thanh vẫn có thể truyền đi xa như vậy, ngay cả người hiện đại cũng cảm thấy thật khó tin. Từ đó trở đi, khi trong làng có buổi biểu diễn, thì dân làng từ bốn phương tám hướng đều nghe thấy âm thanh mà đến, lúc đó cả ngôi làng trở nên náo nhiệt giống như hội chùa vậy. Biển người đông đúc nhộn nhịp, nhốn nháo hối hả, thật là sầm uất!

Thời gian thấm thoắt như thoi đưa, cho đến khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền thì hí lâu mới kết thúc sứ mệnh của mình, trong Cách mạng Văn hóa, nó được đại đội sản xuất chuyển thành nhà bật bông, sau đó lại đổi thành nhà ép dầu hạt bông, cho đến những năm 1980, nó mới thực sự kết thúc sứ mệnh của mình.

Ngày nay trong làng cũng có rạp hát, khi biểu diễn người ta sử dụng các thiết bị âm thanh hiện đại, nhưng giọng hát của ca sĩ ngay cả ở rìa làng cũng không truyền được tới. Các cụ già trong làng thường nói rạp hát hiện tại không thể sánh được với rạp ngày xưa, đúng là khác nhau một trời một vực!

Đúng vậy, chẳng phải chính là dùng sự thật để vả vào bộ mặt xấu xí của ĐCSTQ tà ác đang phá hoại văn hóa truyền thống và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần đó sao?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50052

The post Truyền thuyết dân gian: Thầy phong thủy first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Đạo súc sinh trong lục đạo luân hồihttps://chanhkien.org/2024/01/dao-suc-sinh-trong-luc-dao-luan-hoi.htmlThu, 11 Jan 2024 23:44:06 +0000https://chanhkien.org/?p=32347Tác giả: Quá Khách [ChanhKien.org] Một đôi vợ chồng trẻ vừa mới sinh bé Bảo Bảo xong thì gặp phải một chuyện thần kỳ, câu chuyện cứ khiến người ta cảm động mãi. Mẹ của Bảo Bảo khi còn nhỏ có nuôi một chú chó Samoyed dễ thương, chú chó đã ở bên cô cho […]

The post Đạo súc sinh trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Quá Khách

[ChanhKien.org]

Một đôi vợ chồng trẻ vừa mới sinh bé Bảo Bảo xong thì gặp phải một chuyện thần kỳ, câu chuyện cứ khiến người ta cảm động mãi. Mẹ của Bảo Bảo khi còn nhỏ có nuôi một chú chó Samoyed dễ thương, chú chó đã ở bên cô cho đến khi cô trưởng thành và đã trở thành người bạn đồng hành trung thành trong cuộc đời cô. Như chúng ta đã biết tuổi thọ của loài chó ngắn hơn rất nhiều so với con người, khi chú chó sống đến 12 tuổi thì chết, cả hai vợ chồng đều cảm thấy rất buồn. Chưa đầy một tháng sau người vợ có tin vui, qua gần 10 tháng mang thai cô ấy đã hạ sinh bé Bảo Bảo đáng yêu. Sự xuất hiện của Bảo Bảo khiến cả gia đình rất vui vẻ, nhưng lúc đó trên thân đứa bé không có dấu hiệu gì đặc biệt.

Một ngày nọ ba mẹ phát hiện ra trên cổ tay trái của em bé có một vết bớt màu đen. Khi nhìn thấy vết bớt này họ đã không khỏi rơi nước mắt vì chú chó đã chết cũng có vết bớt giống hệt như vậy ở chân trước bên trái. Hai người cùng rơi những giọt nước mắt hạnh phúc: “Là con đã trở lại phải không?”

Việc phát hiện ra vết bớt trên thân các em bé giống với vết bớt của thú cưng đã chết không phải là chuyện hiếm, nhưng không nhất định trùng hợp đến như vậy, có một số trường hợp xác thực là thú cưng chuyển sinh. Trong Phật giáo có giảng về lục đạo luân hồi, nói rằng các thể sinh mệnh trong lục đạo có thể chuyển sinh qua lại, dựa vào nghiệp lực tích lại từ đời trước là lớn hay nhỏ mà có thể chuyển sinh sang thiên thần đạo, nhân gian đạo, tu la đạo, đạo súc sinh, đạo địa ngục và đạo ngạ quỷ.

Chúng ta hãy nói về đạo súc sinh, súc sinh là chỉ những sinh mệnh mà cặp mắt thịt của chúng ta có thể nhìn thấy, ngoài việc có hết thảy tri giác của con người, chúng cũng có ý thức tự ngã của chúng. Có người cho rằng thực vật là sinh mệnh trung gian giữa sinh mệnh có tình cảm và không có tình cảm, chúng không có ý thức tự ngã cũng như hết thảy cảm giác vui sướng, đau khổ, cho nên thực vật không được xếp vào đạo súc sinh. Kỳ thực thực vật đều có cảm xúc, hiện nay các nhà thực vật học thông qua hàng loạt thí nghiệm đã chứng minh được điều này.

Một nhà sinh vật học đã nối một thiết bị đo vào một cây rau rồi đổ nước sôi lên lá rau, bộ phận nhận cảm của thiết bị có thể lập tức phản ánh ra tín hiệu cây đang rên rỉ vì đau đớn. Nếu lá của cây đột nhiên bị xé rách thì trên thiết bị sẽ lập tức xuất hiện khoảng chênh lệch điện thế lớn, giống hệt như tín hiệu phát xuất ra khi tứ chi con người phải chịu đau đớn dữ dội do một tổn thương bất ngờ. Thí nghiệm này đã phản ánh được rằng thực vật là có “cảm giác đau”. Nếu cho một ít thuốc tê vào chỗ “vết thương” thực vật sẽ bình tĩnh lại ngay. Để biết thêm nhiều hơn về các kết quả thí nghiệm, xin vui lòng tham khảo các bài báo cáo liên quan, thông qua các thí nghiệm thực tế người ta phát hiện thực vật không chỉ có cảm giác mà còn có cảm tình, thậm chí có mắt và thính giác, cho nên thực vật cũng được xếp vào đạo súc sinh, từ “súc” ở đây ý chỉ động vật, còn từ “sinh” chỉ chung các sinh vật, trong đó gồm cả thực vật v.v…

Đặc điểm của súc sinh là tham sân si, tham ăn, dễ nổi giận, ngu si, chỉ biết hành động dựa theo bản tính của động vật. Hầu hết chúng sinh trong đạo súc sinh tồn tại rất gian nan, phải chịu sự cạnh tranh, cá lớn nuốt cá bé và mạng sống không có bất cứ sự đảm bảo nào. Nếu một sinh mệnh đã từng sát hại rất nhiều sinh linh trong tiền kiếp thì họ có thể rơi vào cõi súc sinh và bị các sinh mệnh khác giết chết để hoàn trả nợ nghiệp hoặc có thể bị đọa vào cõi địa ngục và phải chịu tra tấn nhiều lần cho đến khi trả sạch hết ác nghiệp đã gieo rồi mới chuyển sang bước tiếp theo được. Nếu một người bình sinh vô tình vô nghĩa, không lý trí, tính cách quá phần tự tư, quá phóng túng và chạy theo dục vọng thì cũng dễ bị đọa vào cõi súc sinh. Một sinh mệnh trong thân phận một chú chó cưng ở kiếp sau thường dễ chuyển sinh thành người hơn vì loài chó vốn ngoan ngoãn và rất trung thành với chủ, không như những loài thú hoang dã kiếm sống bằng cách săn những động vật nhỏ khác, loài chó nhà hiếm khi tạo nghiệp sát sinh. Và trong vòng đời của chúng một khi thiên mệnh đã hết mà không muốn rời xa chủ nhân, nếu có nguyện vọng như vậy thì đời sau sẽ được an bài chuyển sinh thành người nhà của chủ nhân.

Là một sinh mệnh, không thể chỉ vì kiếp trước là động vật mà cho rằng nguyên thần của sinh mệnh ấy là động vật, có thể kiếp trước của kiếp trước nữa họ lại là một thiên nhân. Có thể nói, nguồn gốc của một sinh mệnh chuyển sinh thành người vào giai đoạn mạt kiếp của thời mạt Pháp này thật không hề đơn giản. Một số người hễ có được chút công năng nhỏ bé liền thích đi xem tiền kiếp cho người khác, nhưng họ nhìn không chuẩn xác, bởi con người vốn dĩ có rất nhiều kiếp trước, ai biết được điều họ đang nhìn thấy là tín tức từ một kiếp nào đó lưu lại? Chỉ khi tu luyện đến tầng thứ rất cao và có thể truy ra nguồn gốc sự việc thì mới có thể nhìn thấy được chân tướng. Nhưng mà những ai thực sự nhìn thấy được cũng sẽ không nói ra. Nhưng trong hoàn cảnh bình thường thì không được phép nhìn thấy, đây cũng là điều rất cấm kỵ trong Phật giáo, không cho nhìn, bởi vì không ai biết mục đích của người này đến đây là gì, có người là đến để phá hoại, vào thời kỳ mạt Pháp cũng có rất nhiều ma chuyển sinh thành người, nếu nói ra người này sẽ mang gánh nặng tâm lý rất lớn và không cách nào tu luyện được nữa.

Về việc chuyển sinh làm người và ký ức kiếp trước bị xoá mất chính là cấp cho con người cơ hội sống mới, bất kể nguồn gốc sinh mệnh là từ đâu, nếu như thật sự đến phá hoại và kiếp này tiến vào cửa Phật thì sinh mệnh ấy có thể được lựa chọn lại. Người ấy có thể tiếp tục thực thi nhiệm vụ định ra từ tiền kiếp hoặc cũng có thể dùng chính niệm mạnh mẽ để phủ nhận nó.

Làm súc sinh rất khổ, có người cảm thấy làm chó cũng tốt lắm, nhưng đổi lại, nếu trên thân bạn không có tuyến mồ hôi và bạn phải mặc áo khoác bông dày vào mùa hè thì liệu có dễ chịu không? Với những chú chó chết chủ thì lại càng khổ hơn, mỗi ngày ăn không đủ no, phải bới tìm thức ăn ở bãi rác và đi đâu cũng bị con người đánh mắng. Đáng sợ nhất chính là chúng bị phong bế một phần vị giác một cách hữu ý, với mùi hôi thối chúng lại ngửi thấy thơm, thích ăn phân, một người trong trạng thái thanh tỉnh liệu có dám làm điều này không? Nếu như chuyển sinh thành động vật hoang dã thì không giây phút nào là không bị cơn đói hành hạ, hoàn cảnh sinh tồn thì đầy rẫy hiểm nguy, phải học cách tự lập trong vòng vài tháng, đến lúc già thì chỉ có thể chết đói. Nếu là động vật ăn cỏ thì sẽ không tạo nghiệp quá nhiều, nếu là động vật ăn thịt thì vì vấn đề sinh tồn sẽ không ngừng săn bắt những động vật nhỏ khác, tức là sẽ không ngừng tạo nghiệp, vào đời sau sẽ chuyển sinh thành động vật nhỏ và lại bị dã thú săn đuổi.

Sư phụ từng giảng về chuyện trong dân gian có bà lão bị điên, bà ấy đột nhiên phát điên rồi tự đối xử tàn khốc với chính mình, vào mùa đông thì mặc quần áo phong phanh, vào mùa hè thì mặc áo bông, bà nhặt cục phân lừa lên ăn một cách ngon lành. Đây kỳ thực là một phương thức tiêu nghiệp mà sinh mệnh cao tầng cấp cho con người, để bà ấy dùng phương thức này mà chịu khổ và hoàn trả nghiệp, thông thường kiểu người này sẽ hoàn trả sạch nghiệp lực rất nhanh và sẽ xuất công năng.

Mà loài chó cả đời đều ở trong trạng thái này, bạn nói xem có phải chúng đã tiêu được biết bao nhiêu nghiệp lực, cho nên việc chó chuyển sinh thành người cũng là thường gặp. Động vật có thể chuyển sinh thành người, con người cũng có thể chuyển sinh thành động vật. Một người thường hay làm việc xấu, thiếu nợ không hoàn trả, đánh người mắng người, thì vì để giúp người ấy tiêu nghiệp sẽ an bài cho họ chuyển sinh vào nhà địch nhân làm trâu, làm ngựa, làm dê, làm heo, đời trước thiếu nợ bao nhiêu tiền đời này làm bấy nhiêu phần công việc, hoàn trả không thiếu một xu, đời trước đánh người mắng người thế nào thì đời này lại bị người đánh mắng cũng thế ấy, một chút cũng không sai sót.

Động vật sau khi chuyển sinh thường không được xóa đi ký ức như con người, chúng có thể nhớ lại kiếp trước đã mắc nợ người khác nên kiếp này mới có kết cục như vậy, cho nên đa phần súc vật trong nhà đều rất thuần phục, tại không gian sở tại của chúng cho phép chúng thấy được cái lý này và chúng cũng muốn mau chóng hoàn trả nợ nghiệp. Nhưng cũng chính vì điều này mà động vật không được phép tu luyện, chúng có thể nhìn ra được làm việc xấu thì phải chịu báo ứng nên sẽ không chủ động đi làm việc bất hảo, đó cũng không phải là thành tâm muốn trở nên tốt, nên có tu cũng không được tính. Đương nhiên còn có một nguyên nhân nữa là động vật không có bản tính lương thiện của con người, tu cao rồi sẽ trở thành ma hại người. Trong các tác phẩm tu luyện chúng phải chịu thiên kiếp, thiên thượng sẽ dùng sét đánh chết chúng, trong các sách cổ viết rằng cứ vài trăm năm lại có một kiếp nạn, nếu nó tránh được thì sẽ đợi đến kiếp nạn tiếp theo, còn nếu tránh không được thì phải chịu cảnh hồn bay phách lạc. Những động vật ẩn náu trên cây lớn rất dễ bị đánh trúng, có người nói rằng sét đánh vào cây to là để đuổi tà, nếu động vật chết trên cây, tín tức lưu lại sẽ có tác dụng răn đe đối với đồng loại của chúng, chính là có nguyên nhân như vậy.

Chỉ có con người mới có thể được tu luyện và cũng chỉ có ở trong mê mới có thể tu xuất lai, nếu được sinh ra làm người là do kiếp trước nếm trải gian khổ mà đổi lại, có người thậm chí phải chịu khổ mấy mươi kiếp chỉ là vì để kiếp này được làm người, vậy nên phải biết quý tiếc cơ hội được làm người nghìn năm có một này!

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286950

The post Đạo súc sinh trong lục đạo luân hồi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (2)https://chanhkien.org/2024/01/luan-hoi-ky-su-van-thanh-cong-chua-2.htmlWed, 10 Jan 2024 00:14:48 +0000https://chanhkien.org/?p=32333Tác giả: Tử Vi [ChanhKien.org] Việc Tùng Tán Cán Bố kết thông gia với nhà Đường có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị. Ông muốn thông qua việc kết thông gia với nước lớn để thay đổi và làm suy yếu lực lượng của Bôn giáo – vốn đang kiểm soát thao […]

The post Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tử Vi

[ChanhKien.org]

Việc Tùng Tán Cán Bố kết thông gia với nhà Đường có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị. Ông muốn thông qua việc kết thông gia với nước lớn để thay đổi và làm suy yếu lực lượng của Bôn giáo – vốn đang kiểm soát thao túng chính trị. Việc công chúa Văn Thành vào Tây Tạng thực sự đã mở đường cho việc truyền bá Phật giáo ở nơi đây. Công chúa Văn Thành đã mang hai báu vật Phật giáo đến Thổ Phồn: một là pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, còn lại là 360 bộ kinh Phật. Công chúa Văn Thành đã mang theo pho tượng đến Tây Tạng và trải qua rất nhiều gian khổ để truyền bá văn hoá Phật giáo trên suốt quãng đường đi.

Các thế lực đen tối đằng sau Bôn giáo luôn không ngừng bài xích Phật giáo. Sau khi công chúa đến Tây Tạng, pháp sư của Bôn giáo đã liên tục làm phép để hãm hại công chúa. Công chúa luôn mang theo bên mình chiếc bảo gương minh giám phân biệt thiện ác, có thể chiếu ra hình ảnh của kẻ ác và ma quỷ. Bên cạnh công chúa còn có Thiên Long Bát Bộ hộ pháp, nàng còn được các vị Thần Phật bảo hộ và điểm hoá. Việc công chúa Văn Thành đến được Lhasa dường như nằm ngoài dự đoán của các pháp sư Bôn giáo. Họ vốn cho rằng công chúa nhà Đường sẽ chết vì bệnh tật ở Hà Nguyên.

Công chúa Văn Thành âm thầm, lặng lẽ quan sát địa thế của Lhasa.

Việc Tùng Tán Cán Bố có nhiều thê thiếp thực chất là sự kết hợp lực lượng từ mọi phía.

Công chúa Xích Tôn đến từ Nepal, một lòng tin vào Phật giáo, nàng muốn xây dựng một ngôi chùa nhưng cứ đến đêm các bức tường đã xây xong của ngôi chùa liền bị ác quỷ làm đổ, còn có người nghe thấy ma quỷ chửi rủa Thần Phật của thế giới mười phương. Xích Tôn công chúa rất khổ não. Một lần trong mơ, Xích Tôn công chúa nhìn thấy thánh điện nơi thiên giới, nàng thấy mình và một vị tiên tử khác đang nhận chỉ lệnh trước đức Phật, rằng cần hoằng dương Phật Pháp tại vùng núi tuyết cao ở nhân gian, sau đó nàng và tiên tử kia cùng nhau hạ thế. Sau khi tỉnh dậy, Xích Tôn công chúa nhớ lại giấc mơ và chợt nhận ra, vị tiên tử đó mang diện mạo của công chúa nhà Đường. Giấc mơ đã điểm hoá Xích Tôn công chúa, nàng hiểu ra nàng và công chúa Văn Thành có sứ mệnh mà đến, chính là cần truyền bá Phật Pháp ở khu vực cao nguyên núi tuyết. Nàng quyết định đi nhờ công chúa Văn Thành giúp đỡ. Công chúa Văn Thành giúp nàng chọn địa điểm xây dựng chùa, việc xây chùa đã có chút khởi sắc.

Cứ sau một khoảng thời gian, công chúa Văn Thành sẽ xuất hành và đến nhà của những thường dân Tây Tạng, tìm hiểu khó khăn của họ, quan tâm đời sống của họ và cố gắng hết sức giúp đỡ họ. Công chúa đồng thời khảo sát tỉ mỉ địa hình của Tây Tạng, nàng biết sự hung hiểm của địa hình Tây Tạng chính là tư thế ma nữ nằm ngửa, điều này vô cùng bất lợi đối với vương quốc Thổ Phồn và người dân. Bất cứ khi nào đi đến những nơi khớp nối của địa hình ma nữ, thân thể của công chúa đều có thể cảm nhận được. Nàng biết rằng cần phải trấn giữ thật chặt những khớp nối của ma nữ, cắt đứt các đường thông của nó, khiến năng lượng của nó không thể hình thành liên kết với mặt đất, năng lượng hắc ám phải bị lụi tàn thì Phật giáo mới có thể hưng thịnh.

Công chúa Văn Thành biết rằng cần phải hợp tác với công chúa Xích Tôn thì mới có thể đạt được mục đích. Hai người họ đều hết lòng tin vào Phật giáo, chính việc có chung tín ngưỡng đã khiến họ bắt đầu xích lại gần nhau hơn. Việc xây dựng chùa dần dần khởi sắc, địa điểm những chùa trấn ma ở Tây Tạng đều là do công chúa Văn Thành lựa chọn. Sau khi xây dựng xong sáu tự viện, công chúa Văn Thành biết rằng nếu dừng việc xây chùa trấn ma thì nàng sẽ có con trai nối dõi. Công chúa đối mặt với lựa chọn, thay đổi phong thuỷ hung hiểm của nơi này hay là có con trai nối dõi? Khi đó, lời căn dặn của thánh hoàng vang lên bên tai: “Giáo hoá dân tộc khác, chớ vì được mất cá nhân mà lo sầu”. Công chúa Văn Thành hiểu rằng cần hoàn thành sự uỷ thác của thánh hoàng. Nàng lựa chọn tiếp tục xây dựng chùa trấn ma. Sau khi xây dựng xong 12 ngôi chùa trấn ma, công chúa nhìn thấy phong thuỷ của Thổ Phồn sắp có thay đổi, nhưng vị trí tim của ma nữ vẫn chưa được trấn giữ.

Có tin đồn ở Lhasa rằng, Tán Phổ muốn xây dựng chùa cho Xích Tôn công chúa thờ pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng vàng mà nàng mang đến. Có người nói rằng, Tán Phổ cũng sẽ xây chùa cho công chúa Văn Thành để nàng thờ tượng Phật mang từ Đông thổ Đại Đường đến. Trong khi bàn bạc, một ngôi chùa đã được xây dựng, địa điểm là hồ Ngoạ Đường, hồ được lấp để xây chùa, ngôi chùa sau khi hoàn thành chính là Chùa Đại Chiêu. Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni được thờ trong chùa hướng về phía tim của địa hình ma nữ. Sau đó Tán Phổ lại cho xây dựng Chùa Tiểu Chiêu, bên trong thờ cúng pho tượng vàng Phật Thích Ca Mâu Ni do công chúa Văn Thành mang đến.

Các phe phái lực lượng ở Thổ Phồn vô cùng phức tạp, người của Bôn giáo rất kiêu ngạo và hung hăng. Quá trình xây dựng 12 ngôi chùa trấn ma thực ra chính là cuộc chiến giữa Phật giáo và Bôn giáo. Có người nói, công chúa Xích Tôn và công chúa Văn Thành bất hoà, có người nói Tán Phổ sủng ái Xích Tôn công chúa, lạnh nhạt với công chúa Đại Đường. Kỳ thực đây đều là biểu hiện bên ngoài mà thôi, tình huống thực tế là hai vị công chúa đều đang hỗ trợ Tùng Tán Cán Bố truyền bá Phật giáo.

Văn Thành công chúa hiểu rõ lý bất tranh, nàng khiêm tốn đối đãi với những người mình gặp, tâm thái bình hoà cũng khiến nàng tránh được một số phiền phức.

Về việc truyền bá Phật giáo, Văn Thành công chúa không chỉ mang theo tượng Phật và kinh Phật, nàng còn truyền bá các phương pháp xây dựng chùa. Nàng đã thiết kế và cho xây dựng chùa Tiểu Chiêu; mặc dù chùa Đại Chiêu được Xích Tôn công chúa đích thân hướng dẫn thi công, nhưng công chúa Văn Thành đã tham gia vào việc lựa chọn và khảo sát vị trí cũng như thiết kế cấu trúc ngôi chùa. Nàng cũng đưa “Mười bốn quy tắc xây dựng chùa” của Hán địa vào Thổ Phồn.

Công chúa Văn Thành nhìn thấy một số ngọn núi xung quanh Lhasa rất nguy hiểm. Trong khi thiền định, nàng nhìn thấy những hình tượng sinh mệnh đang hiển hiện đằng sau các ngọn núi, có cái giống như bong bóng, có cái là một con vật hung dữ, có cái còn phản chiếu ra hung khí. Công chúa Văn Thành đặt tên cho những ngọn núi này theo các báu vật của Phật giáo như Diệu Liên, Bảo Tán, Thạch Thi Bảo Loa, Kim Cương, Thắng Lợi Tràng, Bảo Bình, Kim Ngư, v.v… Sau khi những ngọn núi này được đặt tên, các vị hộ pháp Phật giáo đã đến và những pháp bảo của thiên giới cũng lần lượt tiến vào các ngọn núi. Thiên nhân cảm ứng chính là như vậy, thực ra đó là sự bảo hộ của thiên giới, là sự từ bi của Thần Phật.

Tùng Tán Cán Bố dốc sức ủng hộ Phật giáo, ông và công chúa Văn Thành cùng nhau thành kính lễ Phật. Vương giả thành tâm hướng Phật, đem những tượng Phật, kinh Phật, cấu trúc chùa Phật giáo và các tăng nhân của Hán địa tiến vào Thổ Phồn, Phật giáo đã bắt đầu được hoằng dương ở Thổ Phồn.

Công chúa Văn Thành cảm thấy chán ghét phong tục thích tô màu nâu đỏ lên mặt của Thổ Phồn, Tùng Tán Cán Bố liền hạ lệch cấm tô màu lên mặt; Tán Phổ cũng dần thay đổi tính cách nghi kỵ và thô bạo, ông còn phái con cháu trong hoàng thất đến nhà Đường du học.

Công chúa Văn Thành đã dựa vào tri thức và kiến giải của bản thân, quan sát một cách tỉ mỉ hoàn cảnh, tình hình của người dân Thổ Phồn và giúp đỡ Tùng Tán Cán Bố cai trị đất nước. Mặc dù có được sự tín nhiệm của Tùng Tán Cán Bố nhưng công chúa Văn Thành không cầu danh vị, nàng thiện đãi với những thần dân xung quanh, nàng được các đại thần của vương triều Thổ Phồn khen ngợi. Điều này đã mang lại lợi ích to lớn cho người dân Tây Tạng.

Công chúa Văn Thành còn truyền những nét văn hoá đặc biệt của Trung Nguyên vào Thổ Phồn như: Y thuật, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật in ấn, phương pháp sản xuất lên men (rượu, dấm, tương), thuật xem bói, âm dương ngũ hành, bát quái, v.v. Những người thợ thủ công theo công chúa đến Tây Tạng cũng giới thiệu các kỹ thuật sản xuất cho Thổ Phồn như: chế tạo nông cụ, dệt may, ươm tơ, xây dựng, làm giấy, làm rượu, làm đồ gốm, nghiền, mài, luyện kim, v.v. Kỹ thuật nông nghiệp của Thổ Phồn tương đối thô sơ, đất màu cũng dễ trôi. Sau khi kỹ thuật nông nghiệp của Đại Đường truyền vào, người dân Thổ Phồn bắt đầu đào kênh mương, phân chia các thửa ruộng, việc này đã khiến sản lượng lương thực tăng đáng kể.

Trong suốt 40 năm kể từ khi công chúa Văn Thành đến Tây Tạng, mọi nỗ lực của bà đã khiến nền kinh tế, văn hoá, chính trị của Thổ Phồn có bước đột phá rất lớn, khiến Thổ Phồn trở thành một quốc gia biên giới quan trọng bảo vệ xung quanh Đại Đường. Dưới thời vua Đường Thái Tông, Thổ Phồn luôn theo sát nhà Đường, những thập niên sau đó Thổ Phồn chung sống hoà thuận với nhà Đường, sứ giả hai bên cũng thường xuyên qua lại với nhau. Điều này là không thể không kể đến công lao về văn hoá và giáo dục của nhà Đường.

Tùng Tán Cán Bố còn xây dựng Cung điện Potala dành riêng cho công chúa Văn Thành với tổng cộng 1.000 gian cung thất, nguy nga tráng lệ. Bức tượng Phật Thích Ca Mâu Ni do công chúa Văn Thành mang đến sau đó được thờ cúng tại chùa Đại Chiêu, được người dân Tây Tạng coi là “nguồn gốc của hạnh phúc” và được thờ cúng hàng nghìn năm nay.

Công chúa Văn Thành dùng lòng từ bi như một vị Bồ Tát để độ hoá dân tộc Tạng, dùng văn hoá Trung Hoa để thay đổi đất nước lạc hậu này, khiến ngoại bang kết duyên với văn hoá Trung Hoa, mở đường sớm nhất cho Tây Tạng kết duyên với Trung Nguyên sau này.

Đại Đường nguy nga, vạn quốc kính ngưỡng; Văn Thành công chúa, vạn cổ lưu danh; Tuyết vực chi quang, vì Thần hoan xướng.

Vài năm trước, tôi gặp một vị đồng tu và được biết cô ấy từng là Xích Tôn công chúa; vài năm sau, tôi biết một vị đồng tu ở địa phương từng là công chúa Văn Thành trong lịch sử. Hai vị công chúa này đều là sinh mệnh cao cấp đến từ thiên giới. Xích Tôn công chúa là một vị tiên nữ trong Cửu Trọng Cung trên thiên giới, Văn Thành công chúa là một vị nữ Thần thiên giới, cưỡi phượng hoàng bay lại trên thiên cung. Còn Tùng Tán Cán Bố từng là quan tướng gác cổng trên thiên giới. Họ được giao cho thiên mệnh là đến thế gian hoằng dương Phật Pháp ở Tây Tạng.

Văn Thành công chúa hiểu rõ địa hình của Tây Tạng, còn Xích Tôn công chúa xây dựng chùa trấn ma, điều này đã thay đổi phong thuỷ xấu của Tây Tạng. Họ đã cùng nhau cống hiến trong việc truyền bá Phật Pháp ở Tây Tạng.

Vũ trụ đã đến thời kỳ diệt, lý tương sinh tương khắc cũng bị cựu thế lực sử dụng một cách cực đoan. Năm đó ở Tây Tạng, mỗi khi một chùa trấn ma được xây dựng xong, công chúa Văn Thành đều phải chịu gánh nặng về thân thể. Pháp sư của Bôn giáo tiếp thụ những chỉ lệch tà ác kia và phát ra thề độc, mỗi khi các khớp của ma nữ bị trấn vững thì đồng thời các khớp tương ứng của công chúa Văn Thành cũng trở nên yếu đi.

Cho đến nay, công chúa Văn Thành ngày trước, là đệ tử Đại Pháp hôm nay, rất tinh tấn trên con đường tu luyện, nhưng các chỗ khớp trên thân thể như vai, khuỷu tay, cổ tay, đầu gối, mắt cá chân vẫn luôn có cảm giác như không chịu được gánh nặng trọng lượng một cách khó hiểu. Những điều tôi nhìn thấy cũng có nhiều thứ bị hạn chế.

Lịch sử đã đi đến bước cuối cùng, mọi trở ngại và ràng buộc cuối cùng sẽ bị xoá bỏ, những người tu luyện Đại Pháp gánh vác sứ mệnh, thần thể sẽ được nhào nặn lại, đại khung trùng tổ, một kỷ nguyên mới đã đến.

Hy vọng của chúng sinh, hy vọng của Thần đang ở ngay trước mắt!

Chúng sinh thiên địa cần cảm tạ sự an bài của Thần và cảm tạ ân điển của Sáng Thế Chủ.

Hết

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/286719

The post Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (1)https://chanhkien.org/2024/01/luan-hoi-ky-su-van-thanh-cong-chua-1.htmlTue, 02 Jan 2024 03:06:35 +0000https://chanhkien.org/?p=32248Tác giả: Tử Vi [ChanhKien.org] Thần tạo ra con người, cấp cho con người những thứ quy phạm về ngôn hành cử chỉ lễ nghĩa giáo hóa và cấp cho con người trí huệ cần có. Đối với sự luân chuyển của sinh mệnh, sự ủy thác của linh hồn và hướng đi trong tương […]

The post Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tử Vi

[ChanhKien.org]

Thần tạo ra con người, cấp cho con người những thứ quy phạm về ngôn hành cử chỉ lễ nghĩa giáo hóa và cấp cho con người trí huệ cần có. Đối với sự luân chuyển của sinh mệnh, sự ủy thác của linh hồn và hướng đi trong tương lai vốn đã có kế hoạch và trù tính từ vĩ mô, tất cả những điều này đều do Thần cao hơn trong vũ trụ khống chế.

Nhưng trong lúc vũ trụ đang hướng đến thời kỳ hoại diệt thì có một nhóm sinh mệnh trong thiên giới muốn tự cứu, muốn thành tựu những thứ của bản thân; họ tự cho mình là đúng đắn và sắp xếp thể hệ một cách cẩn mật, cho rằng họ có thể hoàn thành được việc tự cứu. Không ngờ rằng những sắp xếp của họ lại chính là đang phá hoại những bố cục mà Sáng Thế Chủ đã an bài xong, bọn họ đã thuận theo những thế lực đen tối đó. Song Phật Pháp vô biên, ở đâu đó trong bóng tối Sáng Thế Chủ đã tự có trù tính để phá giải những an bài bại hoại đen tối đó.

Ở đây tôi muốn nói đến chính là Tây Tạng. Trên lịch sử, vì để đức tin vào Thần có thể bén rễ tại vùng đất này, vì để kết duyên với Thần Phật, vì để những chúng sinh ở nơi đây không bị bỏ lại phía sau khi Đại Pháp hồng truyền vào lúc mạt thế, đã có rất nhiều người tu hành góp phần vào việc hồng dương Phật Pháp, ví dụ như thượng sư Marpa, tôn giả Milarepa, đại sĩ Liên Hoa Sinh và quốc sư triều Nguyên Phagpa v.v…

Tôi muốn nói đến là vào khoảng thế kỷ thứ bảy, sự việc xảy ra dưới thời cai trị của Tùng Tán Cán Bố ở vương triều Thổ Phồn. Tùng Tán Cán Bố kết hôn với Văn Thành công chúa của Đại Đường và Văn Thành công chúa cũng là người thúc đẩy việc truyền bá Phật Pháp tại Tây Tạng.

Bởi vì thế nhân đại đa số đều là những sinh mệnh trên Thiên thượng chuyển sinh đến, sinh mệnh đáng được trân quý, không thể dung thứ cho những thứ độc hại và trụy lạc. Tuy nhiên nhân thế hiểm ác rất dễ làm cho linh tính của con người bị mê lạc. Tu hành có thể thăng hoa cảnh giới của con người, cứu vãn đạo đức bại hoại và tìm lại nguồn gốc sinh mệnh. Những người đã góp phần truyền bá Phật Pháp trong lịch sử nhân loại rất xứng đáng để chúng ta tôn kính.

Trong lịch sử, hoàng đế Thái Tông của triều đại nhà Đường có rất nhiều sự tích sáng lọi.

Thánh hoàng Lý Thế Dân thực thi nền chính trị nhân từ, lấy dân chúng làm căn bản của quốc gia, dùng quân sự để xây dựng và bảo vệ vận mệnh quốc gia, dùng văn trị (văn hóa, giáo dục) để mang lại sự hòa bình và ổn định cho đất nước. Những dân tộc thiểu số xung quanh đều quy hàng nhà Đường và tôn Đường Thái Tông là “Thiên Khả Hãn”.

Từ cổ chí kim, “hòa vi quý” , “đạo trung dung” là những tư tưởng được các vương triều Trung Nguyên tôn sùng. Trên cơ bản, việc thực hiện lý tưởng “bình thiên hạ” không dựa vào võ thuật mà là dùng văn hóa và giáo dục để trị quốc; thực hiện điều đó không phải là độc tài mà là vương đạo.

Mỗi một vương triều, ngôn xuất tất hành, đều phải thực hiện lời hứa của mình! Tôi nhìn thấy trong quá trình mỗi từng dân tộc kết duyên, sự an bài của lịch sử từng bước từng bước mở ra một cách có trật tự.

Tại Thổ Phồn, nơi cách Trường An tám ngàn dặm về phía Tây thời nhà Đường, Tùng Tán Cán Bố lên ngôi Tán Phổ (là danh hiệu của Quân chủ Đế quốc Thổ Phồn của người Tạng, tương đương với Hoàng đế) và dời đô đến Luoxie (Lhasa Tây Tạng ngày nay). Tùng Tán Cán Bố đặt ra các chế độ, thiết lập các cấp bậc quan lại, ban hành luật lệ, đưa vào văn hóa và kỹ thuật từ Nepal, Thiên Trúc v.v… để phát triển xã hội Thổ Phồn. Tùng Tán Cán Bố từng phái sứ giả đến Đại Đường, ông nghe sứ giả nói rằng các nước như Thổ Cốc Hồn và Đột Quyết đều kết hôn với công chúa nhà Đường, ông cũng có suy nghĩ như vậy nên đã phái sứ giả đến nhà Đường để cầu hôn nhưng bị Đường Thái Tông cự tuyệt.

Sứ giả trở về Thổ Phồn và nói dối rằng: “Khi vừa mới đến Trường An, nhà Đường đối xử rất ưu ái và cho phép kết thông gia, sau đó vì quốc vương Thổ Cốc Hồn vào triều gây ly gián cho nên việc thảo luận thông hôn bất thành”. Tùng Tán Cán Bố nghe vậy thì nổi giận lôi đình, liền đem quân tấn công Thổ Cốc Hồn, kết quả Thổ Cốc Hồn thất bại. Tùng Tán Cán Bố lại đem quân tấn công hai bộ lạc khác là Đảng Hạng và Bạch Lan, sau đó dẫn theo 20 vạn binh lính đóng quân tại phía Tây Tùng Châu (nay thuộc huyện Tùng Phan, Tứ Xuyên); đồng thời ông còn phái sứ giả mang ngân lượng, vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc đến Trường An, gọi đó là lễ vật cầu hôn. Sứ giả đến truyền tin rằng: Nếu như đại quốc không gả công chúa thì sẽ lập tức bị tấn công vào thành.

Quả nhiên Tùng Tán Cán Bố đã đem quân tấn công Tùng Châu, vì Tùng Châu xem thường quân địch nên bị thất bại. Sau đó Đường Thái Tông điều binh khiển tướng ra trận và đã đánh bại được Thổ Phồn. Tùng Tán Cán Bố dẫn binh rút lui, đồng thời cử sứ giả đến tạ tội, một lần nữa lại yêu cầu thông hôn và đã được Đường Thái Tông đồng ý. Năm 640 Công Nguyên, Tùng Tán Cán Bố đã cử đại tướng Lục Đông Tán vào triều.

Công chúa Văn Thành là thứ nữ (con gái vợ lẽ) của Lý Đạo Tông – chú của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, khuê danh (tên lúc chưa xuất giá) là Băng Nhạn, tên gọi lúc nhỏ là Hồng Nhi. Khi Băng Nhạn ra đời, trong giấc mơ mẹ nàng đã nhìn thấy cầu vồng trong suốt, một người con gái xinh đẹp đi men dọc theo cầu vồng mà hạ xuống, vì vậy khi đứa trẻ chào đời đã được đặt tên mụ là Hồng Nhi.

Hồng Nhi rất thông minh và lanh lợi, có kiến thức sâu rộng, năng lực lĩnh hội tốt, đặc biệt là rất thích xem sách lạ. Nàng biết xem chiêm tinh, có thể liên hệ đến việc chính sự, nàng còn biết xem phong thủy và biết được điềm lành dữ; ngoài ra nhìn đồ vật nàng có thể biết được hướng đi. Là con gái của tôn thất nhưng nàng lại chủ động xin gả cho Tạng Vương, chuyện này là như thế nào đây?

Trong thời gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Đường và Thổ Phồn, Hồng Nhi chỉ hơn mười tuổi, khi quan sát thiên tượng phía Tây trong đêm đã nói rằng: Thổ Phồn nhất định sẽ bị đánh bại. Lúc đó quản gia cho rằng điều này là chuyện hoang đường, cho đến khi có tin từ chiến trường truyền đến thì mọi người mới tín phục.

Hóa ra trước khi Sứ giả Thổ Phồn đến Trường An Hồng Nhi đã nhìn thấy sợi chỉ đỏ từ phía Tây lao đến trói chặt mắt cá chân của mình. Nàng liền lặng lẽ bói một quẻ cho bản thân, quẻ bói cho thấy sao Hồng Loan đang di chuyển và sẽ được gả cho quân vương Tây Thổ. Nàng đem theo cung nữ trốn ra ngoài thành tìm đến nơi xem quẻ, quẻ lại bói trúng sao Hồng Loan di chuyển.

Hồng Nhi là người có tư tưởng tự do không bị ràng buộc nên tin rằng đã là vận mệnh thì không tranh, nếu không phải vận mệnh thì có tranh cũng không có tác dụng gì, thuận theo mệnh mới được thịnh vượng. Cho nên sau khi Sứ giả Thổ Phồn đến Trường An, các công chúa hoàng thất đều không muốn gả chồng xa, điều này làm cho Thái Tông rất phiền não. Hồng Nhi nói với cha rằng nàng nguyện ý gả đến Thổ Phồn xa xôi để giải nỗi phiền muộn của bệ hạ. Thái Tông nghe được điều này rất vui mừng, ông đã bỏ chữ Băng trong tên của Hồng Nhi rồi gọi là Lý Nhạn Nhi và phong hiệu cho nàng là Văn Thành công chúa, hy vọng công chúa sẽ dùng văn hóa và giáo dục làm trợ thủ đắc lực hỗ trợ vua Thổ Phồn.

Có một đêm Văn Thành công chúa nằm mơ thấy địa hình Thổ Phồn, cảm thấy địa hình này rất kỳ quái, sau khi tỉnh lại nàng đã vẽ lại địa hình của Thổ Phồn. Sau khi xem đi xem lại nàng đã phát hiện rằng đằng sau địa hình này chính là hình tượng một nữ ma nằm ngửa, địa hình hung hiểm, bất lợi cho chúng sinh và vận mệnh đất nước.

Vào thời Đại Đường, Phật giáo, Đạo giáo hưng thịnh và được xem trọng, tư tưởng được mở rộng. Văn Thành công chúa cải trang thành nam giới cùng với đích huynh (anh trai con vợ cả của cha) đi gặp Viên Thiên Cang. Viên Thiên Cang là người rất nổi tiếng, ông đã từng cùng với Lý Thuần Phong suy diễn về các triều đại, lưu lại “Thôi Bối Đồ”, dự ngôn cho các triều đại tương lai. Văn Thành công chúa đến gặp Viên Thiên Cang, ông nói: “Công chúa gánh vác sứ mệnh của Thiên giới mà đến, có Phật duyên với Tán Phổ của Thổ Phồn, cùng với vua Thổ Phồn thay đổi phong thủy xấu của Thổ Phồn, truyền bá Phật giáo để tạo phúc cho dân chúng Thổ Phồn. Công chúa có hóa thân Bồ Tát, tọa Như Lai, công lao ghi dấu thiên cổ, mỹ danh lưu truyền đời đời”. Sau đó Viên Thiên Cang đã tặng cho Văn Thành công chúa một chiếc túi Như Ý, bên trong có một lá bùa hộ mệnh đã được Viên gia dùng rất nhiều công lực để gia trì, chiếc túi được công chúa mang theo bên mình và được dặn không được mở ra.

Văn Thành công chúa rất tin vào Phật giáo, lão tăng trong tu viện cũng điểm hóa cho nàng đi về phía Tây, kiên định không từ bỏ việc truyền bá Phật duyên và xây dựng chùa chiền ở đây. Công chúa minh bạch rằng đây là sứ mệnh của mình, không khước từ sứ mệnh và dũng cảm gánh vác trách nhiệm.

Thái Tông Lý Thế Dân dẫn theo hàng trăm các quan trong triều đưa tiễn Văn Thành công chúa ra khỏi thành Trường An và ân cần dặn dò: “Lần này đi Thổ Phồn, trọng trách lớn đường xá xa xôi, hãy vun đắp mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Hãy hoằng dương văn hoá thiên triều, giáo hóa dân tộc khác. Chớ vì được mất cá nhân mà lo sầu, hãy hỗ trợ Thổ Phần giảng dạy lễ nghĩa và trong tâm ghi nhớ sự uy nghi của thiên triều”. Văn Thành công chúa nhận lời. Đó là năm 641 Công Nguyên, lúc này công chúa mới 17 tuổi.

Trong lịch sử Trung Quốc, chính sách hòa hiếu kết giao đã có từ lâu đời. Những người đàn ông trong tôn thất chiến đấu trong những trận chiến đẫm máu để bảo vệ lãnh thổ; những phụ nữ trong tôn thất phải gả cho người của dân tộc khác để giữ gìn hòa bình biên giới, đây cũng là trách nhiệm của họ. Nhìn tổng quan về chính sách hòa hiếu kết giao trong suốt quá trình lịch sử, đa phần là khi quốc lực đã cạn kiệt thì hầu hết những cuộc hôn nhân như vậy đều là chiến lược để tìm kiếm và gìn giữ hòa bình đối với các nước bộ tộc xung quanh. Việc Văn Thành công chúa gả vào Tây Tạng lần này có khác biệt rất lớn so với những lần hoà hiếu kết giao khác trong lịch sử. Lúc đó nhà Đường rất cường thịnh, Thổ Phồn cũng là một chính quyền mạnh mẽ phồn vinh. Sau khi nhà Đường đánh bại Thổ Phồn và đồng ý với yêu cầu kết hôn của Thổ Phồn, việc này đã đặt nền móng cho sự giao hảo hữu nghị giữa nhà Đường và Thổ Phồn.

Lúc Văn Thành công chúa vào Tây Tạng, người đưa tiễn rất đông và hồi môn mà Thái Tông cho nàng cũng rất nhiều, như: bức tượng Thích Ca Mâu Ni bằng vàng, ngọc ngà châu báu, tủ sách bằng vàng ngọc, 360 cuốn kinh Phật và các loại trang sức bằng vàng ngọc. Ngoài ra còn có nhiều loại thực phẩm, chăn đệm gấm vóc với nhiều hoa văn đẹp đẽ, 300 loại kinh điển bói toán, gương minh giám phân biệt rõ ràng thiện ác, các tác phẩm về xây dựng và kỹ thuật, dược phương trị bệnh, các tác phẩm nghiên cứu y học và dụng cụ y tế v.v…, cũng như các loại ngũ cốc và hạt. Văn Thành công chúa đem theo lượng lớn vệ binh, cung nữ, thợ thủ công và nghệ nhân từ thành Trường An đi về phía Tây. Sau nhiều tháng bôn ba gian khổ, đi qua Cam Túc, đến Thanh Hải, vượt núi Nhật Nguyệt rồi băng qua con đập của sông lớn, cuối cùng đến được đầu nguồn sông Hoàng Hà nằm trong Thanh Hải là Hà Nguyên (huyện Hưng Hải, tỉnh Thanh Hải ngày nay).

Tùng Tán Cán Bố mang theo quân lính và vệ binh từ Lhasa hướng đến Bách Hải để chờ đợi, sau đó đến Hà Nguyên để đón tiếp. Văn Thành công chúa tương kiến vua Thổ Phồn đã chờ đợi từ lâu ở Hà Nguyên, Tùng Tán Cán Bố rất nể phục trước sự đoan trang và thanh cao của Văn Thành công chúa. Sau khi về đến Luoxe (Lhasa), Tùng Tán Cán Bố đã cử hành một hôn lễ rất hoành tráng với Văn Thành công chúa. Nhân dân ca hát nhảy múa, cả đô thành tràn ngập không khí vui tươi. Lúc đó Thần Tiên trên Thiên giới cũng chăm chú nhìn vào Lhasa.

Trước khi Tùng Tán Cán Bố nắm quyền, ở Thổ Phồn có một loại tôn giáo gọi là Bôn giáo đã tồn tại trên dưới 1000 năm; chuyên cầu phúc, xua đuổi tai họa, cầu mưa, bói toán, bùa chú v.v… Đến khi Tùng Tán Cán Bố lên nắm quyền đã thống nhất ngôn ngữ Tây Tạng, bắt đầu dịch kinh Phật và lần đầu tiên truyền bá Phật giáo. Tùng Tán Cán Bố phái người đến biên giới Ấn Độ và Nepal để thỉnh tượng Quan Âm (bức tượng hiện vẫn được lưu giữ tại cung điện Potala) làm đối tượng thờ cúng và tu Phật. Sau đó Tùng Tán Cán Bố kết hôn với Xích Tôn công chúa của Nepal. Công chúa đã mang đến tượng Thích Ca Mâu Ni, tượng Di Lặc và tượng Phật bất động, v.v…(tượng Phật bất động hiện được thờ tại chùa Ramoche, còn tượng phật Di Lặc và các tượng khác được thờ ở chùa Đại Chiêu).

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286692

The post Luân hồi ký sự: Văn Thành công chúa (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Lắng nghe cây hồ dươnghttps://chanhkien.org/2023/12/chan-troi-tim-phap-lang-nghe-cay-ho-duong.htmlSat, 30 Dec 2023 23:58:21 +0000https://chanhkien.org/?p=32236Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Tôi hiếm khi đưa ra nhận xét về động vật và thực vật, cũng không hay bình luận về chúng nhưng với cây hồ dương thì lại là một ngoại lệ. Tôi đã viết rất nhiều bài viết về cây hồ dương trong nhiều năm. Giờ lại đương là […]

The post Chân trời tìm Pháp: Lắng nghe cây hồ dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Tôi hiếm khi đưa ra nhận xét về động vật và thực vật, cũng không hay bình luận về chúng nhưng với cây hồ dương thì lại là một ngoại lệ. Tôi đã viết rất nhiều bài viết về cây hồ dương trong nhiều năm. Giờ lại đương là mùa thu, là tiết trời mà những cây hồ dương trở nên đẹp nhất và tôi không thể ngừng nghĩ về chúng, vì vậy tôi đã ngồi vào máy tính và bắt đầu viết về câu chuyện của cây hồ dương trong quá khứ.

Tôi thích những cây hồ dương vì tinh thần của chúng: sống ngàn năm không chết, chết rồi thì ngàn năm không đổ, nếu có đổ gục xuống thì ngàn năm không mục rữa. Vòng đời của nó là 3000 năm chờ đợi, 3000 năm trông mong. 3000 năm là khoảng thời gian đủ để chứng kiến bao hưng suy vinh nhục nơi trần thế. So với cây hồ dương thì đời người trăm năm vui buồn ly hợp có là bao?

Hôm qua khi đang làm việc, tôi đã nghĩ: Phật Đà từng bảo thế nhân rằng hoa Ưu Đàm Bà La 3000 năm mới nở một lần, báo hiệu rằng Chuyển Luân Thánh Vương sẽ ở nhân gian truyền Pháp độ nhân; các bậc Thánh giả và tiên tri như Jesus, Lão Tử, Khổng Tử và Socrates của Hy Lạp cổ đại đều đã xuất hiện trong khoảng thời gian 3000 năm trước. Nhân loại được các bậc Giác Giả ấy giáo hoá, từ đó mà đặt định ra tín ngưỡng, cũng đồng thời đặt định ra nền văn hoá và trải đường cho Đại Pháp giúp sinh mệnh có thể quay về mà Sáng Thế Chủ hồng truyền lúc tối hậu. Là một loài cây đặc biệt của sa mạc, hồ dương xuất hiện nhiều ở các vùng sa mạc như Tân Cương. Đại sư Lý Hồng Chí, nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp từng giảng rằng:

“Dải đất trung tâm của chủng tộc Trung Quốc thời thượng cổ trong quá khứ không phải là lưu vực sông Hoàng Hà hiện nay, mà là thuộc dải đất Tân Cương. Thời kỳ phồn thịnh nhất của dân tộc này khi đó cũng ở tại dải đất này”. (Giảng Pháp tại Lễ thành lập Phật học hội Singapore [1996])

Hoàn cảnh địa lý, khí hậu của Tân Cương thời thượng cổ khi đó khẳng định tốt hơn bây giờ rất nhiều. Nó rất thích hợp cho con người sinh sống vào thời điểm đó. Dưới sự tác động của môi trường tự nhiên, hoàn cảnh ban đầu dường như không còn phù hợp với sự sinh sống của con người, dẫn đến việc con người liên tục di cư về phía Đông.

Nếu tính một cách khái quát, bắt từ đầu thời Tây Chu (khoảng năm 1029 trước Công nguyên) đến nay (năm 2020) thì chính xác là 3000 năm.

Từ sự hình thành đất nước sơ khởi vào thời nhà Hạ, nhà Thương, đến hệ thống pháp luật và chế độ lễ nhạc đã rất hoàn chỉnh vào thời Tây Chu, trải qua sự phân tranh về tư tưởng và con người vào thời Xuân Thu Chiến Quốc thì nền tảng của văn hóa Trung Hoa về cơ bản đã được đặt định ra.

Nếu như trong truyện “Phong Thần diễn nghĩa” có đề cập đến việc bởi vì Ân Trụ Vương xúc phạm Nữ Oa Nương Nương dẫn đến đất nước diệt vong, và trong truyện “Phong Thần diễn nghĩa” việc Võ vương thảo phạt Trụ vương và quá trình thay triều đổi đại diễn dịch cho đại chiến giữa các chính Thần và tà Thần, trên thực tế, đó là để mở đường cho Khương Tử Nha phong Thần dưới sự an bài của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn. Cho đến hôm nay từ việc Trung Cộng do bức hại Pháp Luân Công dẫn đến thiên nộ nhân oán, rơi vào tình cảnh tứ diện Sở ca mà xét, việc các đệ tử Đại Pháp sẵn sàng mạo hiểm để nói cho mọi người biết sự thật về cuộc bức hại Pháp Luân Công, khuyên mọi người thoái xuất khỏi các tổ chức đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, đó đồng dạng cũng là cuộc đại chiến chính-tà, các sinh mệnh chính đồng thời thông qua đó đang thành tựu chính mình và đương nhiên những sinh mệnh tà ác là đang tiến trên con đường hủy diệt. 3000 năm thực sự là một vòng tuần hoàn. Theo lời của một người dẫn chương trình nổi tiếng thì “vòng tròn đã đầy”.

Bài viết này kể về câu chuyện xảy ra vào đầu thời Tây Chu khi một Đạo nhân, người đóng vai trò quan trọng trong quá trình Võ vương phạt Trụ, đi qua huyện Luân Đài (địa danh ngày nay, thuộc Tân Cương) ở phía Bắc vùng lòng chảo Tarim gặp phải một rừng hồ dương và hai đứa trẻ.

Vị Đạo nhân sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình đã vui vẻ trở về, khi đến khu rừng hồ dương rộng lớn ở huyện Luân Đài định nghỉ ngơi một chút thì thấy lát sau có một người đàn ông thân đẫm máu dẫn theo hai đứa trẻ tầm năm tuổi đang thở hổn hển đến. Người đàn ông ấy dường như không nhìn thấy ông, cứ nằm phịch xuống, hai đứa trẻ (một trai, một gái) có vẻ hơi đói và bắt đầu tìm kiếm các thứ xung quanh. Một lúc sau thì người đàn ông đã nằm bất động.

Vị Đạo nhân nhìn thấy cảnh tượng này vốn dĩ định ra tay cứu người đàn ông nhưng thông qua năng lực của mình ông thấy được ông ta trước đây đã làm rất nhiều chuyện xấu, kiếp này nên phải chịu nhận kết cục như vậy, riêng hai đứa trẻ vẫn có cơ hội được sống. Vậy nên ông đã giải cứu hai đứa trẻ và hỏi chúng tại sao lại rơi vào hoàn cảnh này.

Hai đứa trẻ kể rằng gia đình chúng rất giàu có, sau đó có một người đàn ông không biết từ đâu đến ăn ở tại nhà chúng. Về sau người đàn ông nọ đã giết cha mẹ chúng và bắt cóc hai anh em mang đi. Bởi vì trên đường đi có quá ít người nên chúng không dám bỏ chạy, đành phải ngoan ngoãn đi theo gã ta, sau đó cả bọn gặp phải một tên cướp, người đàn ông đánh nhau với tên cướp bị thương nặng, cuối cùng thì chạy đến đây.

Do mải nói chuyện, họ vô tình đi đến dưới gốc một cây hồ dương to khỏe nhất, trời bắt đầu đổ mưa, vị Đạo nhân đã dùng thân mình che cho hai đứa trẻ khỏi ướt. Một lúc sau thì mưa tạnh và bầu trời trong xanh trở lại.

Khi họ sắp sửa rời đi thì từ bên trong cây hồ dương có giọng nói phát ra: “Xin đợi một chút rồi hẵng đi, tôi có chuyện muốn nói”.

Vị Đạo nhân bỗng minh bạch được ý tứ của cây hồ dương. Thế là ông cùng hai đứa trẻ ngồi xuống và bắt đầu lắng nghe cây hồ dương nói chuyện.

Nhưng đợi cả nửa ngày vẫn không có động tĩnh gì, đứa bé trai nóng lòng không thể đợi thêm được nữa đứng dậy rời đi, bé gái liền nói: “Ca à, chúng ta hãy đợi thêm chút nữa nhé”. Bé trai nghe theo lời khuyên, lại ngồi đợi thêm. Qua một lúc từ trên thân cây truyền ra một khúc nhạc du dương, vị Đạo nhân định thần nhìn, hóa ra cây hồ dương đang dùng phương thức âm nhạc để triển hiện trải nghiệm của chính mình! Vị Đạo nhân hỏi hai đứa trẻ xem liệu chúng có hiểu được ý nghĩa của khúc nhạc không. Cả hai đứa bé đều có căn cơ rất tốt, chúng nói hiểu được ý nghĩa của khúc nhạc ấy là gì.

Chuyện rằng cây hồ dương vốn là một vị Thần hộ Pháp trên thiên thượng, bởi vì nhìn thấy con người ở nhân gian khi không còn trọng đức hành thiện nữa sẽ làm ra đủ loại hành vi ác, cuối cùng sẽ dẫn đến kết cục bị Thần đào thải. Ông thương xót chúng sinh, nên nguyện ý chọn ở trong một hoàn cảnh khổ nhất, dùng hình tượng cái cây để minh chứng với thế nhân về sự thần kỳ của vị Chủ Thần sáng tạo ra vạn vật cũng như sự kiên cường và nghị lực của sinh mệnh, cho đến loại cảnh giới vô tư vĩ đại chỉ muốn tạo ra một hoàn cảnh sống an định cho chúng sinh chứ không có mưu cầu gì khác. Vì điều này mà nhiều bạn bè của ông và các chư Thần đã đến đây, ở giữa thiên địa mà triển hiện sự từ bi và vĩ đại của Thần.

Cho dù con người ở tầng thứ này có nhỏ bé và tầm thường đến đâu, bởi vì họ đều là con dân của Thần, Thần vẫn sẽ dùng lòng từ bi bao la của mình coi sóc chúng sinh. Khi con người được những cây hồ dương che chở thì cũng nên nghĩ rằng hết thảy đều là tạo hoá của trời đất, chúng ta nên cảm tạ vị Chủ Thần sáng tạo ra vạn vật (hay còn gọi là Sáng Thế Chủ).

Khi này trong khúc nhạc phát ra từ cây hồ dương lại có nhiều nhân tố cấu thành hơn, vừa có âm thanh mềm mại êm ái, mượt mà uyển chuyển, vừa có âm thanh phóng khoáng hào sảng, từ trong đó vị đạo nhân và hai đứa trẻ đã nhìn ra được: tuy các cây hồ dương sống ở ngoài biên giới Trung Nguyên nhưng chúng có thể biết được tại vùng Trung Nguyên đại địa đã xảy ra chuyện gì và sắp xảy ra chuyện gì. Chúng có thể thấy được vào cuối thời nhà Chu các hệ tư tưởng khác nhau liên tiếp xuất hiện, sau đó lịch sử lại diễn tiết mục “binh chinh thiên hạ”, về sau lại tiến nhập vào thời kỳ chính trị chuyên chế của các vương triều. Các triều các đại tuy rằng trên bề mặt lúc phân lúc hợp, dùng các chủng phương thức khác nhau để diễn dịch về lòng trung thành, thiện và ác, cùng với “nhân nghĩa lễ trí tín”…, nhưng kỳ thực đằng sau đó đều có các nhân tố do Thần an bài.

Nhưng rốt cuộc hết thảy những bí ẩn này có ý nghĩa gì? Khúc nhạc từ cây hồ dương đã mang đến cho họ một câu hỏi chưa có lời giải.

Khi nghe khúc nhạc này vị Đạo nhân chợt nghĩ đến việc vì những gì Ân Trụ vương đã làm mà Thần an bài khiến nhà Thương diệt vong, từ đó mới có việc ông xuống núi giúp Khương Tử Nha và Chu Võ vương phạt Trụ, nhưng mục đích căn bản của hết thảy những việc này là vì điều chi?

Tuy vị Đạo nhân có đầy đủ thần thông nhưng về điểm này thì ông cũng không tìm ra nguyên do được.

Sau đó ba người họ đã phải nếm trải rất nhiều gian khổ rồi đi đến phía Nam sa mạc Taklimakan, ở nơi đây cũng có một cây hồ dương khổng lồ. Vị Đạo nhân và hai đứa trẻ cùng ngồi xuống nghỉ ngơi. Lại có một khúc nhạc êm dịu từ thiên thượng bay đến, một lúc sau khúc nhạc ấy dường như bay vào thân cây hồ dương, qua một lúc nữa thì lại có một bản nhạc du dương từ cái cây bay ra, lúc ấy toàn bộ thân và cành của cây hồ dương đều nhảy múa theo điệu nhạc, đó thật sự là:

Thụ chi khinh diêu diệp phiêu phiêu
Tùy khúc vũ động tư thái diệu
Thụ Thần an bài lai điểm ngộ
Linh thính Thần dụ tại kim triều

Diễn nghĩa:

Cành cây lay nhẹ lá đung đưa
Hoà theo khúc nhạc múa mỹ diệu
Do Thần an bài đến điểm ngộ
Đời này lắng nghe lời Thần căn dặn

Vị Đạo nhân và hai đứa trẻ dùng tâm thái thành kính nhất để đối đãi với tình huống này, bởi họ biết rằng Thần khẳng định là đang bảo cho họ điều gì đó. Quả nhiên ngay sau đó trước mắt họ xuất hiện trang phục của các triều các đại cũng như quang cảnh sinh hoạt của con người, rồi khung cảnh bỗng mở rộng ra từ Trung Quốc đến tận bên bờ của một đại dương (Thái Bình Dương), dường như toàn bộ hoàn cảnh mà con người có thể sinh sống được đều thu vào trong đó (trái đất), tiếp đến là quang cảnh người dân bình thường bắt đầu đi xe bốn bánh, xe bò và xe ngựa ngày càng hiếm, rồi khung cảnh chuyển sang những khu vực họ đã đi qua, khi đó gió và cát ở đây mạnh hơn, rất nhiều cây hồ dương đã chết, khí hậu lúc ấy hết sức khắc nghiệt. Trường khung cảnh cuối cùng định lại ở một nhóm người ở các công viên hai tay giơ cao cao ôm bánh xe, đồng thời họ còn nhìn thấy dưới cánh tay của những người ấy có một bánh xe tròn tròn phát ra ánh sáng nhiều màu sắc rực rỡ.

Nhìn đến màn cảnh cuối cùng vị Đạo nhân bỗng vỗ đùi một cái rõ to, kiểu như “A, ta đã minh bạch rồi”, liền nói với hai đứa trẻ rằng: “Kỳ thực chúng ta chuyển sinh thành người là để tìm kiếm điều này. Đây chắc hẳn là Thần dùng những hình ảnh này để nói với chúng ta rằng vào thời đại toàn cầu hóa đó, một vị Giác Giả sẽ hạ xuống nhân gian hồng truyền Đại Pháp khiến sinh mệnh có thể thực sự đắc được Đạo! Và môn Đại Pháp này chắc chắn sẽ có biểu tượng hoặc triển hiện ra hình cái bánh xe”.

Hai đứa trẻ nghe vậy tự nhiên cũng cảm thấy rất hứng khởi. Đương khi mọi người đang vui vẻ bàn luận về sự việc này thì cây hồ dương khổng lồ bỗng lên tiếng: “Thiên thượng an bài chúng tôi đến nơi này ngoài việc để triển hiện cho con người những tạo hoá của Thần, để con người biết cảm tạ Thần thì còn có một mục đích, chính là vào lúc tối hậu, sau khi nền văn minh nơi đây gần như bị hủy diệt toàn bộ, con người sẽ tìm thấy ý nghĩa của sinh mệnh và sự từ bi của vị Chủ Thần sáng tạo vạn vật từ những cây hồ dương chúng tôi. Vì đến lúc đó cả giao thông và thông tin đều rất phát triển nên sẽ có nhiều cơ hội để con người nhìn thấy chúng tôi, khi những người có ngộ tính nhìn thấy được sự kiên trì và ngoan cường của chúng tôi họ sẽ hiểu được ý nghĩa và mục đích cuối cùng của sự kiên trì mạnh mẽ đó rốt cuộc là vì điều gì. Chính là để chờ đợi Tạo Vật Chủ đến giải cứu con dân của Thần thoát khỏi nguy nan! Cũng có nghĩa là, khi con người hiểu rằng làm người không những cần ngoan cường mà còn phải có lòng vị tha, rộng lượng vô tư đối với người khác, ngoài việc triển hiện cảnh giới và sự mỹ lệ của bản thân sinh mệnh ấy ra, còn phải suy xét đến vấn đề trọng đại là vì sao mình lại đến nhân gian. Hy vọng rằng đến khi ấy tất cả chúng ta đều được Sáng Thế Chủ đích thân truyền độ…” Cây hồ dương nói xong thì từ những chiếc lá chảy ra từng giọt từng giọt nước, khi vị Đạo nhân và hai đứa trẻ uống những giọt nước ấy vào rồi thì phảng phất thấy thân thể mình đã được tịnh hoá. Vị Đạo nhân nghe xong những lời trên thì minh bạch được trách nhiệm của mình, liền dẫn hai đứa trẻ lên núi Côn Luân tu hành.

Đến đời này cả vị Đạo nhân và hai đứa trẻ đều đã lần lượt chuyển sinh thành đệ tử Đại Pháp. Một trong những đứa trẻ ấy đã trở thành thợ cắt tóc. Chúng ta sẽ không nói chi tiết về những điều này.

Đây chính là:

Hồ dương thụ hạ tế linh thính
Tam nhân đồng hành Pháp duyên nghênh
Kim triều đắc Pháp đồng tâm hành
Trấn tà diệt loạn bả thiên kình

Diễn nghĩa:

Lắng nghe cặn kẽ lời cây hồ dương
Ba người cùng đồng hành nghênh đón Pháp duyên
Đời này đắc Pháp cùng nhau đồng tâm
Trấn tà diệt loạn đỡ cột chống trời

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/262050

The post Chân trời tìm Pháp: Lắng nghe cây hồ dương first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện cây dương và cây liễu đổi tênhttps://chanhkien.org/2023/12/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-cay-duong-va-cay-lieu-doi-ten.htmlMon, 25 Dec 2023 23:23:40 +0000https://chanhkien.org/?p=32193Tác giả: Thanh Tâm [ChanhKien.org] Ở một số vùng của Kinh Sở, cây dương thường được gọi là cây liễu và cây liễu gọi là cây dương. Tại sao như vậy? Truyền thuyết kể rằng vào cuối thời nhà Tùy, Dạng đế là người dốt nát và ham ngao du, do giao thông thời đó […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện cây dương và cây liễu đổi tên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thanh Tâm

[ChanhKien.org]

Ở một số vùng của Kinh Sở, cây dương thường được gọi là cây liễu và cây liễu gọi là cây dương. Tại sao như vậy?

Truyền thuyết kể rằng vào cuối thời nhà Tùy, Dạng đế là người dốt nát và ham ngao du, do giao thông thời đó bất tiện nên ông ta đã bắt người dân đào kênh để thuận tiện cho việc dùng thuyền đi ngao du. Sau khi con kênh được đào xong, thấy hai bên bờ kênh đều trơ trụi, ông ta lại ra lệnh phải lập tức trồng cây phủ xanh hai bờ rậm như rừng. Vào thời điểm đó làm gì có nhiều cây con như vậy? Những người dân công thông minh chỉ có cách cắt rất nhiều cành liễu và cắm xuống đất, vì liễu là loài cây dễ sống nhất, khi cắt cành liễu ra cắm xuống đất thì mỗi cành đều có thể mọc rễ và lá. Do đó hai bên bờ kênh rất nhanh rợp bóng cây liễu. Dạng đế nhìn thấy rất vui mừng, khu rừng dù đẹp nhưng vẫn có chỗ khiếm khuyết này tên là “rừng liễu”, Dạng đế không thích nên lập tức đổi tên thành “rừng dương” (từ dương 杨 và dạng 炀 trong tiếng Trung là đồng âm). Cây được ban cho họ Ngự, ngụ ý là giang sơn của nhà Dạng mạnh mẽ giống như cây liễu, lưu truyền vạn đại, cho nên cây dương và cây liễu từ đó đã đổi tên cho nhau. Cho đến ngày nay, khu rừng phòng hộ hai bên sông vẫn được gọi là “rừng dương”.

Nhưng những người nông dân hiền hậu vẫn gọi cây thùy liễu bên hồ nước là thùy liễu, không xu nịnh theo trào lưu mà gọi là thùy dương. Mặc dù cây dương bị gọi là cây liễu, nhưng ngày nay trên cây dương có một loại sâu có hại tên là “Dương La Tử”, nó không vì áp lực của quyền lực mà đổi tên thành “Liễu La Tử”. Các văn nhân ở vùng đất Kinh Sơ thường giải thích rằng câu thơ: “Hữu ý tài hoa hoa bất phát, Vô tâm sáp liễu liễu thành ấm” (Dịch nghĩa: Hữu ý trồng hoa hoa không nở, vô tình cắm liễu liễu lên xanh”, vẫn là sự thật. Tùy Dạng đế phóng đãng vô đạo không thi hành chính sách nhân từ, tuy buộc người dân ngoài miệng gọi cây dương thành cây liễu, nhưng chính vì sự bạo ngược mà ông ta sớm đã mất lòng dân, dẫn đến cuộc khởi nghĩa phản Vương Thập Bát Lộ, nhanh chóng lật đổ xã tắc của nhà Tùy.

Nhìn lại quá khứ chớp mắt đã qua 1000 năm, dương liễu đảo ngược từ khi nào? Kẻ độc quyền tuy chỉ hoành hành một khắc, mà thực vật phải chịu hàm oan ngàn năm. Thế nhân vẫn quen với sự giả tạo, điều giả nói thành thật, người thiện lương bị vu oan là kẻ ác, triều đại đỏ ở Trung Quốc ngày nay dựa vào quyền lực mà đảo ngược trắng đen, có thể thấy đã đến lúc giống như Thiên tượng diệt Dạng đế rồi chăng?

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50182

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện cây dương và cây liễu đổi tên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Ông Trời có mắthttps://chanhkien.org/2023/12/truyen-thuyet-dan-gian-ong-troi-co-mat.htmlSun, 24 Dec 2023 22:35:15 +0000https://chanhkien.org/?p=32189Tác giả: Tiếu Cộng [ChanhKien.org] Chuyện kể rằng ngày xưa ở làng tôi có một người họ Hồ giàu có, tuy có tướng mạo tốt nhưng lại là người gian xảo, cay nghiệt, dối trá. Ông ta thường xuyên giở mánh khoé lừa đảo, hãm hại người khác, nhờ đó kiếm được gia tài bạc […]

The post Truyền thuyết dân gian: Ông Trời có mắt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiếu Cộng

[ChanhKien.org]

Ông Trời có mắt (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Chuyện kể rằng ngày xưa ở làng tôi có một người họ Hồ giàu có, tuy có tướng mạo tốt nhưng lại là người gian xảo, cay nghiệt, dối trá. Ông ta thường xuyên giở mánh khoé lừa đảo, hãm hại người khác, nhờ đó kiếm được gia tài bạc triệu. Tuy vậy ông ta cũng có những việc không ưng ý. Ông có một người con trai duy nhất, cưới được một cô vợ õng ẹo. Hễ nhắc đến con trai và con dâu là ông ấy rất tức giận. Cớ là con trai ông mê cờ bạc, còn con dâu lười biếng lại tham ăn, nghe mọi người nói thì con trai và con dâu ham chơi, lười biếng, làm gì cũng không thành.

Để không chướng tai gai mắt, ông mua một mảnh đất ở ngoài làng, xây một căn nhà chuẩn bị cho con dâu và con trai ra ở riêng. Nhà xây xong, ông bảo con trai và con dâu dọn về nhà mới sống. Nào ngờ sự việc không thuận buồm xuôi gió, hai vợ chồng vừa chuyển ra nhà mới thì ngay đêm hôm đó cả hai quần áo xộc xệch hoảng sợ chạy ra khỏi nhà. Hóa ra trong nhà có ma, doạ cho hai vợ chồng sợ kinh khiếp. Từ đó, nhà mới để không, bán cũng bán không được, ở thì không dám ở… Việc này lại còn khiến ông ta sinh tâm bệnh, ho liên tục.

Không lâu sau, ông chủ họ Hồ lâm bệnh qua đời, chẳng bao lâu sau vợ ông cũng đi theo ông. Ngôi nhà to đẹp rơi vào tay đứa con trai và con dâu bất tài. Lúc đầu hai người khá vui vẻ, người ung dung, kẻ tự tại! Thích ăn thì ăn, thích uống thì uống, muốn đánh bạc thì đánh bạc, tóm lại là thích làm gì thì làm nấy.

Hạnh phúc chẳng được bao lâu, tài sản cha mẹ để lại bị hai vợ chồng tiêu xài hết. Lúc này họ nghĩ đến ngôi nhà có ma, nghĩ đi nghĩ lại, không ai muốn mua, mọi người đều nói rằng đừng nói mua mà cho cũng không ai cần. Đúng vậy, ai dám ở cùng ma chứ. Họ bèn mời một thầy tướng đến xem. Thầy tướng nói, chỉ có cách tặng ngôi nhà đó cho người khác, có người dám sống ở đây thì tình trạng khó khăn trước mắt mới được giải quyết.

Vài ngày sau, trong thôn có hai người chạy nạn, đó là một đôi vợ chồng. Thấy trời sắp tối, hai người tìm chỗ trú chân. Anh ta nghe nói vậy, vội vàng đi tìm người chạy nạn nói: “Tôi có một căn nhà, nhưng trong đó có ma, nếu hai người không sợ ma thì tôi không lấy một đồng mà sẽ tặng nó cho hai người”. Lúc đầu, họ không tin, sau nghe những người trong thôn làm chứng, hai người mới tin là thật, không có cách nào khác họ đành đến sống ở đó, dự định an cư lạc nghiệp.

Người đàn ông chạy nạn tên là Vương Danh Thạch, người trong thôn gọi họ là vợ chồng anh Vương. Vào đêm mới ở đó, người vợ nghe nói có ma, có chút sợ hãi bèn rúc vào lòng chồng. Vương Thạch nhẹ nhàng an ủi: “Sợ gì? Cây ngay không sợ chết đứng, làm người không làm việc hổ thẹn, nửa đêm không sợ ma gõ cửa”. Nói thì nói như vậy nhưng trong lòng anh ta có chút nghi hoặc, sống từng này tuổi rồi có biết ma hình dạng thế nào đâu, nghe nói rất đáng sợ, nếu thật là như vậy…. nghĩ tới nghĩ lui, anh cũng thấy lạnh sống lưng.

Ngay khi Vương Thạch cảm thấy bất an thì đột nhiên, trong sân một cơn gió mạnh thổi qua, vốn dĩ trời không có gió, nhưng những tiếng “ù … ù…” lại vang lên. Ma đến rồi. Người vợ sợ quá lại càng rúc vào lòng Vương Thạch, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Vương Thạch, tim anh đập thình thịch. Anh ta cố giữ tinh thần, kiên định hơn. Đột nhiên có một giọng nói vang lên ngoài cửa sổ: “Cuối cùng thì chủ nhân của ngôi nhà này cũng đã đến, đã đến lúc hai chúng ta phải quay về bàn giao công việc rồi. Chúng ta có nên nói lời tạm biệt với chủ nhân của ngôi nhà này không?” “Đừng, nhìn bộ dạng của chúng ta sẽ khiến người ta sợ hãi, Diêm Vương mà trách tội thì lũ tiểu quỷ chúng ta chịu không nổi đâu!” “Vậy thôi, chúng ta trở về bàn giao công việc đi”. Một lúc sau, bên ngoài gió lặng, yên tĩnh không một tiếng động, tất cả đều im ắng. Vương Thạch cả đêm không ngủ, ngoài cửa sổ nghe hai tên tiểu quỷ trò chuyện, khiến anh ta rất bối rối. Anh chỉ hiểu tiểu quỷ đang nói mình là chủ nhân ngôi nhà này, nhưng tại sao vậy?

Sáng sớm hôm sau, cách đó không xa nhiều người dân đến tụ tập bên ngoài rất đông vui. Có người nói: “Đêm qua hai người bị dọa đến phát sợ, làm gì có ai không sợ ma!” Có người nói: “Có thể chưa đến nửa đêm đã tháo chạy rồi”. Còn có người nói: “Hay là chết vì sợ rồi?” Tóm lại chuyện gì cũng có. Thấy hai vợ chồng anh Vương từ trong nhà đi ra, người ta kéo đến, tụ tập lại hỏi cái này cái kia, rồi hỏi lý do. Vợ chồng anh Vương mỉm cười không đáp, chỉ nói sau này sẽ an cư lập nghiệp ở đây, hi vọng mọi người hàng xóm gần xa sẽ quan tâm, giúp đỡ.

Buổi sáng, vợ chồng anh Vương dọn dẹp sân và nhà cửa. Họ tìm thấy một chiếc bình nhỏ có niêm phong ở một nơi bí mật, mở nó ra xem thì ra đó là một chiếc bình đựng toàn bạc thỏi. Lúc đó, hai vợ chồng bàn bạc rằng số tiền này không phải của mình, không thể chiếm làm của mình mà phải trả lại cho hai vợ chồng họ Hồ nên họ đã mang chiếc hũ đựng bạc đến nhà họ Hồ.

Lại nói, vợ chồng họ Hồ đang vui vẻ ở nhà vì nghĩ nhà ma có chủ rồi, giờ đây chúng ta có thể sống yên rồi. Đúng lúc này, vợ chồng anh Vương đến, khi họ nói rõ ý định, hai vợ chồng họ Hồ rất vui mừng. Đợi vợ chồng anh Vương đi xong, vợ chồng họ Hồ mở nắp hũ ra, làm gì có bạc thỏi, bên trong toàn là đá. Vợ chồng họ Hồ vô cùng tức giận, cầm hũ đi thẳng đến nhà Vương gia. Đến nơi, họ cũng không vào nhà, mà lấy một viên đá từ trong bình ném mạnh vào nhà họ Vương. Vừa ném vừa hô: “Cho nhà các người bạc này, cho nhà các người bạc này…”

Vợ chồng anh Vương đang bận trong nhà, nghe thấy tiếng vội đi ra, chỉ nhìn thấy một thỏi bạc bay từ ngoài vào, rơi xuống đất. Khi vợ chồng họ Hồ mắng xong đi rồi, vợ chồng họ Vương vẫn còn bối rối.

Buổi tối, Vương Thạch mơ một giấc mơ, thấy bố về nói với anh ấy: “Con trai, việc xảy ra hôm nay bố rất rõ, đừng khó nghĩ vì hũ bạc này, nó là của con”. Vương Thạch không hiểu, hỏi nguyên do. Người cha bèn kể lại ngọn ngành câu chuyện.

Hóa ra, phụ thân anh, Vương viên ngoại là người tinh minh, có năng lực, lại thiện lương. Bằng chính khả năng của mình, ông đã gây dựng sự nghiệp và trở thành một người có danh tiếng và giàu có ở địa phương. Vì tốt bụng và hay giúp đỡ mọi người nên ông được mọi người đặt cho biệt danh: Vương đại thiện nhân. Một lần, trong khi làm ăn ông đã kết giao với một người bạn họ Hồ. Hai người quen nhau, càng nói chuyện càng ăn ý, càng nói chuyện càng thân thiết, sau đó họ trở thành anh em kết nghĩa và cùng hợp tác kinh doanh. Người ta thường nói, gặp chuyện vui thì tinh thần cũng phấn chấn hơn, kinh doanh rất phát đạt. Nhưng thời gian vui vẻ không kéo dài được bao lâu, Hồ viên ngoại nổi ý đồ xấu xa lấy đi số vốn làm ăn của hai người rồi bỏ trốn. Không chịu nổi cú sốc, phụ thân anh tức hộc máu mà chết, không lâu sau mẫu thân cũng qua đời. Phụ thân còn nói với anh rằng ngôi nhà và hũ bạc này chính là Hồ viên ngoại đã lấy trộm của nhà chúng ta, không cần phải từ chối, hãy nhận lấy và sử dụng không cần ngại.

Lúc này, Vương Thạch cuối cùng cũng hiểu tại sao cha mình lại tức mà chết và sau khi mẹ qua đời nơi đó lại xảy ra đại hạn hán, mùa màng thất bát, nông dân chạy loạn khắp nơi.

Từ đó trở đi, vợ chồng Vương Thạch định cư ở làng chúng tôi, sống một cuộc sống hạnh phúc và mạnh khỏe với khối tài sản của mình. Điều đáng ngưỡng mộ là hoàn cảnh của họ ngày càng khá giả như được Thần giúp. Họ thường cứu tế, giúp đỡ những người khó khăn, đói khát và tất nhiên họ không thể quên vợ chồng họ Hồ. May mắn là, dưới sự ảnh hưởng và dẫn dắt của vợ chồng Vương Thạch, gia đình họ Hồ đã thay đổi nhiều thói quen cũ và dần dần cũng biết quý trọng cuộc sống hơn. Dù không quá giàu nhưng vẫn có thể xoay sở được…

Câu chuyện này chính là ứng nghiệm điều người ta thường nói: Thứ của mình thì ném không mất, không phải của mình thì đừng tranh giành, có tranh cũng không được. Ông Trời có mắt, mắt Thần như điện, xem ra đúng là như vậy.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50324

The post Truyền thuyết dân gian: Ông Trời có mắt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của chiếc quạthttps://chanhkien.org/2023/12/nguon-goc-cua-chiec-quat.htmlSat, 23 Dec 2023 04:16:43 +0000https://chanhkien.org/?p=32164Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Về nguồn gốc của chiếc quạt có nhiều truyền thuyết ​​khác nhau được lưu truyền lại. Ngược dòng về thời thượng cổ, chiếc quạt sớm nhất có thể có nguồn gốc từ thời Phục Hy và Nữ Oa. Một truyền thuyết kể rằng nữ Thần Nữ Oa đã lấy đất […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của chiếc quạt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Về nguồn gốc của chiếc quạt có nhiều truyền thuyết ​​khác nhau được lưu truyền lại. Ngược dòng về thời thượng cổ, chiếc quạt sớm nhất có thể có nguồn gốc từ thời Phục Hy và Nữ Oa.

Một truyền thuyết kể rằng nữ Thần Nữ Oa đã lấy đất để tạo ra con người, còn Phục Hy thì quy định ra các lễ nghĩa hôn nhân và chế độ vợ chồng nghiêm ngặt. Còn có truyền thuyết kể rằng khi vũ trụ mới sơ khai, trên mặt đất chưa có bách tính thì Nữ Oa và Phục Hy đã thành vợ chồng rồi, cho nên hậu thế tôn họ là tổ tiên của loài người, bện cỏ làm quạt chính là một phần trong câu chuyện hôn sự của họ.

Về truyền thuyết này, trong cuốn “Độc Di Chí” đời Đường có ghi chép đầy đủ như sau: Khi vũ trụ còn sơ khai, mặt đất chỉ có hai người là Phục Hy và Nữ Oa. Họ đến núi Côn Luân đốt cỏ hướng lên trời cầu nguyện: “Nếu chúng con có thể kết duyên thành vợ chồng thì khói tụ lại với nhau, còn không được thì khói tản đi”. Kết quả tất cả khói tụ lại với nhau. Thế là Nữ Oa bện cỏ thành quạt, làm tấm che mặt, cùng Phục Hy kết thành vợ chồng. Từ đó có thể thấy chiếc quạt đầu tiên được tết bằng cỏ, có công dụng che chắn, người đời sau có người gọi loại quạt này là “quạt Hy”. Lý Tăng Bá thời nhà Tống đã viết bài thơ “Tị thử phú”, trong đó có câu thơ: “Cử hy phiến, phi sở y” (dịch nghĩa: Nâng chiếc quạt Hy, khoác chiếc áo Sở), quạt Hy ở đây có công dụng che mưa nắng.

Dưới thời Nghiêu Đế, vua Nghiêu dùng đức cảm hóa thiên hạ, bách tính đều kính trọng ông. Thiên Thượng cũng vì thế mà ban điềm lành xuống, từ trong nhà bếp sinh ra một loại cỏ tiên tên là Tiệp Phủ, lá của nó chuyển động tạo ra gió, giúp cho thức ăn mát mẻ không bị ôi thiu, còn có tác dụng đuổi côn trùng. Loại cỏ tiên Tiệp Phủ này có công dụng như chiếc quạt, không khỏi khiến người ta liên tưởng đến chiếc quạt cói vào mùa hè. Trong tiếng Hán cổ, Tiệp Phủ đồng nghĩa với chiếc quạt, khái quát về nguồn gốc của chiếc quạt là như vậy.

Sau thời vua Nghiêu, vua Thuấn vì muốn thể hiện sự lắng nghe cầu người hiền tài trợ giúp vua, đã chế tạo ra chiếc quạt Ngũ minh. Ngũ minh ý nghĩa là quảng đạt thánh minh, ngũ đại biểu cho năm hướng đông, tây, nam, bắc, trung. Khi vua Thuấn đi tuần du các phương để chiêu mộ hiền nhân, ông luôn mang theo bên mình chiếc quạt chướng phiến (chiếc quạt lông lớn để che cho vua khi đi ra ngoài), gọi là quạt Ngũ minh. Sau này, quạt Ngũ minh được thay thế bằng quạt Nghị trượng được các vương hầu, công khanh sử dụng. Vào thời nhà Tần và nhà Hán, các công khanh, sĩ đại phu đều dùng loại quạt này, nhưng đến thời nhà Ngụy, nhà Tấn, chỉ những người giàu có mới có thể dùng.

Đến thời Ân Thương còn xuất hiện một loại quạt Trĩ vĩ, nghe nói loại quạt này được làm từ những chiếc lông đuôi chim trĩ rực rỡ sắc màu. Sau này, vì lông đuôi chim trĩ càng ngày càng ít, nên người ta ít dùng loại quạt lông chim này, nó cũng trở thành của hiếm. Vào thời Tây Chu, những chiếc quạt lông màu trắng muốt bắt đầu xuất hiện, nó được dùng trong các nghi lễ dành cho vua Chu nên còn được gọi là quạt Nghi thức. Khi đó, quạt chủ yếu không dùng để quạt mát mà để bảo vệ hoàng đế khỏi nắng, gió, cát, bụi khi ra ngoài thị sát. Mọi người thường dùng quạt Tiệp phiến.

Vào thời Chiến Quốc còn xuất hiện một loại quạt hình bán nguyệt gọi là “quạt Tiện diện” (quạt che mặt), nó có hình dạng giống như cánh cửa nên còn được gọi là quạt cánh cửa. Theo trào lưu thời bấy giờ, người ta dùng quạt cánh cửa để che mặt khỏi bị nhìn trộm. Loại quạt này được làm bằng những lạt tre mỏng, từ hoàng đế đến dân thường đều có thể sử dụng.

Sau thời nhà Tần và nhà Hán, hình dạng của chiếc quạt đã thay đổi nhiều hơn, chủ yếu gồm có hình vuông, tròn, lục giác và các hình dạng khác, chất liệu quạt được làm từ lụa.

Vào thời nhà Hán, quạt rất phát triển và được sản xuất với số lượng lớn, không chỉ có nhiều chủng loại mà kỹ thuật thủ công làm quạt cũng rất tinh xảo. Thời đó, người ta bắt đầu sử dụng những chiếc quạt tre nhẹ và đơn giản. Quạt đã trở thành đồ trang trí bất ly thân của mọi người, còn được dùng làm quà tặng. Khi Triệu Phi Yến được phong làm hoàng hậu của hoàng đế nhà Hán, trong số các món quà mà em gái của bà tặng có sáu loại quạt rất quý như quạt Vân mẫu, quạt Khổng tước, v.v.

Sau thời Tây Hán, quạt bắt đầu được sử dụng nhiều hơn để làm mát. Vào cuối thời nhà Hán, người ta sử dụng một loại vải lụa gọi là “Tề Hoàn” để làm những chiếc quạt hình mặt trăng gọi là quạt Đoàn, loại quạt này có khung bằng tre và mặt quạt bằng lụa nên được gọi là quạt Lụa, hoặc quạt “Tề Hoàn”. Có lẽ vì quạt Tề Hoàn rất nổi tiếng nên người đời sau đã coi “Tề Hoàn” là ông tổ của nghề làm quạt. Cán quạt Lụa hầu hết được làm bằng xương, ngọc bích, ngà voi…, đuôi quạt trang trí bằng dải tua rua, mặt quạt viết thư pháp hoặc tranh vẽ, khiến những chiếc quạt này trở nên vô cùng quý phái và trang nhã. Sau khi loại quạt này xuất hiện, nó đã thịnh hành ở Trung Quốc hơn một nghìn năm và được các cung nữ khuê các đặc biệt yêu thích.

Các văn nhân thời Hán cũng để lại nhiều bài thơ về chiếc quạt, chẳng hạn như “Phiến Phú” của Phó Nghị, “Trúc Phiến Phú” của Ban Cố và “Đoàn Phiến Phú” của Thái Ung, ca ngợi kỹ thuật thủ công tinh xảo và công dụng của chiếc quạt.

Đề thơ, vẽ tranh trên quạt bắt đầu từ thời Tam Quốc, trong thời nhà Ngụy và nhà Tấn, thói quen đề thơ và vẽ tranh trên quạt để làm quà tặng cho người thân và bạn bè trở nên thịnh hành. Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” còn miêu tả rằng vào thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng của mình mà đưa ra những kế hoạch và chiến lược thông minh, chiếc quạt lông vũ đã trở thành biểu tượng của trí tuệ.

Vào thời nhà Tùy và nhà Đường, những chiếc quạt khá tinh xảo với nhiều kiểu dáng và màu sắc đa dạng, quạt càng được mọi người ưa chuộng hơn. Những loại phổ biến lúc bấy giờ chủ yếu là quạt lụa và quạt lông, cũng có một số ít quạt giấy. Vào thời Bắc Tống, quạt gấp xuất hiện, loạị quạt này vô cùng tiện lợi khi mang theo. Quạt gấp còn gọi là “quạt Tụ cốt”, “quạt Tản”, sở dĩ được đặt tên như vậy vì nó có thể hợp nhất hai đầu thành một khi gấp lại. Đến thời Nam Tống, việc sản xuất quạt gấp đã đạt quy mô đáng kể, phong trào vẽ tranh trên quạt, bán quạt, tích trữ quạt trở nên rất phổ biến, còn xuất hiện các cửa hàng bán quạt và vẽ tranh trên quạt. Sau thời nhà Tống, quạt gấp trở nên tiện lợi hơn, hoàng đế nhà Minh còn ra lệnh cho các thợ thủ công trong cung mô phỏng theo quạt Triều Tiên và tiếp thu nghề thủ công nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của quạt trong nước. Vào thời nhà Thanh, ngoài hình tròn, các loại quạt đối xứng còn có hình bầu dục, hình dẹt, hình vuông, hình hoa mai, hình hoa hướng dương, hình thắt lưng, hình móng ngựa, v.v. Đặc điểm nổi bật của các loại quạt này là tính đối xứng, nhẹ và là đồ thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra, vào thời nhà Minh và nhà Thanh, một loại hình hội họa Trung Quốc gọi là “quạt họa” xuất hiện đã thu hút sự tham gia sôi nổi của một số bậc thầy hội họa Trung Quốc, khiến quạt họa đạt trình độ nghệ thuật rất cao.

Căn cứ lịch sử phát triển của chiếc quạt, về cơ bản có thể chia thành hai loại: một là loại quạt bằng (bao gồm quạt Đoàn, quạt lá cọ, quạt cỏ, quạt ngọc bích, v.v.), không thể gấp lại được; hai là loại quạt gấp có thể mở và gấp lại dễ dàng.

Ngày nay, chiếc quạt mang lịch sử văn minh Trung Hoa ngoài công dụng làm mát, còn được giới trí thức yêu thích bởi kết cấu trang nhã, tinh tế cùng nghệ thuật thư pháp hội họa tinh xảo.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50837

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của chiếc quạt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Phá trừ an bài của cựu thế lực, thiện giải oan oán trong lịch sửhttps://chanhkien.org/2023/12/luan-hoi-ky-su-pha-tru-an-bai-cua-cuu-the-luc-thien-giai-oan-oan-trong-lich-su.htmlThu, 21 Dec 2023 02:42:48 +0000https://chanhkien.org/?p=32157Tác giả: Hư Cực [ChanhKien.org] Những năm Trinh Quán triều vua Đường Thái Tông, Phàn Lê Huê sinh ra ở nước Tây Lương (Tây Đột Quyết) trong phủ tướng quân Phàn Hồng ở ải Hàn Giang. Mẫu thân sớm qua đời, Phàn Lê Huê lớn lên cùng với hai anh trai, ngay từ khi còn […]

The post Luân hồi ký sự: Phá trừ an bài của cựu thế lực, thiện giải oan oán trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Hư Cực

[ChanhKien.org]

Những năm Trinh Quán triều vua Đường Thái Tông, Phàn Lê Huê sinh ra ở nước Tây Lương (Tây Đột Quyết) trong phủ tướng quân Phàn Hồng ở ải Hàn Giang. Mẫu thân sớm qua đời, Phàn Lê Huê lớn lên cùng với hai anh trai, ngay từ khi còn rất bé phụ thân đã định hôn nhân cho cô, hứa gả cô cho Tây Lương đại tướng quân Dương Phàm. Năm 12 tuổi Dương Phàm theo cha đến Phàn phủ làm khách, bị nha hoàn của Phàn phủ nhìn thấy, nha hoàn liền chạy đi báo cho tiểu chủ nhân. Phàn Lê Huê nấp sau bức bình phong nhìn thấy dáng vẻ xấu xí kỳ dị của Dương Phàm, nghĩ đến năm tháng sau này phải gả cho một người xấu xí như vậy đã hết sức không bằng lòng, nhưng Phàn Lê Huê không dám trái lệnh phụ thân, trong cơn nghẹn ngào cô đã chạy đến gốc cây sau vườn treo cổ tự tử. Đúng lúc ấy Lê Sơn Thánh Mẫu đang trong định, nhìn thấy tình cảnh trên liền dùng thần thông cứu Phàn Lê Huê lên núi và nhận làm đồ đệ, từ đó Phàn Lê Huê ở trong núi học nghệ suốt tám năm, nhờ chuyên tâm học nghệ mà đạt được công phu thâm hậu (học được các phép di sơn trấn hải, thượng thiên nhập địa, thần tiễn phi đao, nhiếp hồn linh, khổn tiên thằng v.v…). Một ngày nọ Lê Sơn Thánh Mẫu gọi đồ nhi đến và bảo cô xuống núi, Phàn Lê Huê e sau khi xuống núi phụ thân sẽ lại gả cô cho Dương Phàm nên không chịu xuống núi. Lê Sơn Thánh Mẫu bảo với Phàn Lê Huê rằng trượng phu của cô sau này không phải là Dương Phàm mà là Tiết Đinh San, con trai của đương kim đại nguyên soái Đại Đường Tiết Lễ (Tiết Nhân Quý). Cô sẽ gặp Tiết Đinh San trên chiến trường và tương lai sẽ phò tá thiên tử Đại Đường. Phàn Lê Huê tuân mệnh sư phụ, về sau thực sự đã gặp Tiết Đinh San trên chiến trường rồi sau đó quy thuận triều Đường, lập được nhiều công trạng hiển hách. Trải qua bao sóng gió, về sau Phàn Lê Huê phụng chỉ gia nhập phủ nguyên soái, thành hôn với Tiết Đinh San.

Trong thời kỳ này người Tây Đột Quyết chưa bao giờ từ bỏ ý định xâm chiếm Đại Đường nên chiến sự cứ kéo dài nhiều năm không dứt. Khi ấy đại nguyên soái Tiết Lễ tuổi tác đã cao, trong một trận giao chiến với danh tướng Dương Phàm không may bị vây khốn và đã tử chiến sa trường. Phàn Lê Huê sau đó tiếp nhận chức đại nguyên soái. Khi này Phàn Lê Huê đang mang thai gần đến ngày sinh nở, hiềm nỗi trong trận chiến giữa hai quân không ai có thể địch lại Dương Phàm, Dương Phàm có sức mạnh vô tỉ lại hữu dũng hữu mưu. Phàn Lê Huê trang phục chỉnh tề cưỡi ngựa ra trận, khi hai người gặp nhau trước trận chiến, Dương Phàm nhìn thấy Phàn Lê Huê đã không nén nổi tức giận và hai bên bắt đầu đánh nhau. Cuối cùng Phàn Lê Huê đã dùng đao chém chết Dương Phàm, lúc đầu của Dương Phàm rơi xuống đất thì một luồng oán khí (linh hồn) bay thẳng vào bụng Phàn Lê Huê, phút chốc sau Phàn Lê Huê đau bụng dữ dội, liền vội cưỡi ngựa vào rừng sinh con. Do mệt mỏi và mất máu quá nhiều nên cô đã bất tỉnh, khi tỉnh dậy, cô thấy đứa con mình sinh ra giống hệt Dương Phàm. Nghĩ đến tất cả những chuyện xảy ra từ sau khi kết hôn với Tiết Đinh San… Tiết Đinh San dựa vào vị thế con trai của đại nguyên soái, bản tính vốn kiêu ngạo, thờ ơ, đa nghi và có tình cảm không tốt với mình. Giờ đây đứa trẻ sinh ra trông giống hệt như Dương Phàm, Phàn Lê Huê dù có miệng cũng không thể giải thích rõ ràng được. Nghĩ đi nghĩ lại Phàn Lê Huê nước mắt đầm đìa nén lòng bóp chết đứa con do chính mình sinh ra (kỳ thực là Dương Phàm chuyển sinh). Phàn Lê Huê lên ngựa quay về phủ tướng soái, nói dối với mẹ chồng là đứa con mà mình sinh ra đã chết rồi.

Vài năm sau Phàn Lê Huê và Tiết Đinh San lại có với nhau một đứa con trai, đứa trẻ này cũng trông giống Dương Phàm như đúc (cũng là Dương Phàm chuyển sinh). Khi Phàn Lê Huê sắp bóp chết đứa bé thì Lê Sơn Thánh Mẫu đến và bảo với Phàn Lê Huê rằng không thể làm trái thiên ý. Đứa trẻ này được đặt tên là Tiết Cương, từ nhỏ đã có sức mạnh vô song, Tiết Đinh San có ba vị phu nhân, trong số các người con Tiết Đinh San đặc biệt không thích đứa con này nhất. Khi Tiết Cương lên tám tuổi đã vô tình đá chết con trai của quốc trượng, Tiết Cương thấy bản thân đã gây ra họa lớn, sợ quá không dám về nhà và đã trốn đi. Tiểu hoàng đế hạ chỉ bắt tất cả người của Tiết gia già trẻ lớn bé trên 300 nhân khẩu trói lại mang ra ngọ môn chuẩn bị chém hết. Vào giờ ngọ ba khắc lúc sắp hành hình thì một trận cuồng phong quét qua, Lê Sơn Thánh Mẫu cứu Phàn Lê Huê mang đi, còn lại cả Tiết gia đều bị xử trảm, chỉ riêng Tiết Cương trốn ở bên ngoài nên thoát nạn.

Phàn Lê Huê nếm trải bao khinh bạc của kiếp nhân sinh, cảm thấy đời người tựa hồ như mây khói thoảng qua, từ đó tỉnh cơn mê, cuối cùng quyết định cắt đứt duyên trần, dốc lòng cùng Lê Sơn Thánh Mẫu tu luyện. Lại nói về Tiết Cương, khi Tiết Cương biết được cả nhà họ Tiết đều bị xử trảm, trong cơn tức giận đã chạy đến Tây Hạ cầu viện nhà vua. Vua nước Tây Hạ vốn có ý mưu phản, nay lại có sự giúp đỡ của Tiết Cương liền khởi binh tấn công thành Trường An. Lúc này trong triều các lão thần đều đã già, không ai có thể đánh bại nổi Tiết Cương, vào thời khắc nguy nan Phàn Lê Huê đã kịp đến, Phàn Lê Huê đứng trên mây bảo với Tiết Cương rằng ông nội của con là Tiết Lễ một đời vùng vẫy sa trường, vì bảo vệ Đại Đường mà đã lập được vô số chiến công lẫy lừng, vì vậy ta lệnh cho con tiếp tục bảo vệ tiểu hoàng đế, hãy buông bỏ ân oán cá nhân, hãy nghĩ cho đất nước Đại Đường. Những lời này khiến vị tiểu hoàng đế lập tức sinh lòng kính phục và hạ chỉ miễn tội mưu phản cho Tiết Cương. Tiết Cương tuân mệnh mẫu thân, tiếp tục phò tá Đại Đường. Khi ấy Phàn Lê Huê đã hoàn thành sứ mệnh của mình, tu thành viên mãn bạch nhật phi thăng, kết thúc việc tu luyện trong đời ấy.

Trong các thời kỳ trong lịch sử tôi đã diễn nhiều vai diễn khác nhau, đồng thời cũng là đặt định ra nền văn hóa cho các thời kỳ khác nhau, trong quá trình ấy cựu thế lực đã an bài để tôi mắc nợ một số sinh mệnh. Vào đời này tôi may mắn được làm đệ tử của Sư tôn trong thời kỳ Chính Pháp, Tiết Lễ trong kiếp đó chính là một đồng tu bên cạnh tôi hiện giờ. Thông qua tu luyện, vào những thời điểm khác nhau Sư phụ đã đả khai bộ phận ký ức cho tôi. Cựu thế lực đã nhiều lần vào những thời điểm khác nhau an bài để Dương Phàm trở thành chồng hoặc con của tôi, kết nên mối oan duyên oán duyên, mục đích là để can nhiễu việc tu luyện Chính Pháp và cứu độ chúng sinh của tôi trong thời kỳ Chính Pháp. May thay Sư phụ từ bi vĩ đại đã kịp thời thức tỉnh tôi và lợi dụng điều này như một nhân tố để tôi đề cao trong tu luyện. Trong quá trình này có cả những đau khổ và nước mắt, khi tôi buông bỏ nhân tâm và những quan niệm được hình thành hậu thiên, không ngừng làm thuần tịnh bản thân, quy chính bản thân, phủ định an bài của cựu thế lực thì Sư phụ đã giúp tôi thiện giải rất nhiều sinh mệnh mà tôi mắc nợ trong lịch sử, lại còn giúp tôi cứu độ họ (chồng của tôi trong đời này vẫn chính là Dương Phàm). Tôi đã phá trừ hoàn toàn những an bài từ tiền sử của cựu thế lực. Đến lúc này tôi càng có lĩnh ngộ sâu sắc hơn về câu Pháp mà Sư phụ giảng: “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn”.

Trước khi dừng bút con xin kính chúc Sư phụ sinh nhật vui vẻ và chúc mừng Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới, nhân cơ hội này con cũng xin chúc Sư phụ mọi điều tốt lành! Chúc các đệ tử Đại Pháp toàn thế giới cộng đồng tinh tấn, cứu độ chúng sinh, viên mãn theo Sư phụ trở về! Hợp thập!

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/66125

The post Luân hồi ký sự: Phá trừ an bài của cựu thế lực, thiện giải oan oán trong lịch sử first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Chu Hồng Vũ, Mã Nương Nương và triều Minhhttps://chanhkien.org/2023/12/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-chu-hong-vu-ma-nuong-nuong-va-trieu-minh.htmlSun, 17 Dec 2023 03:22:15 +0000https://chanhkien.org/?p=32129Tác giả: Phúc Chính [ChanhKien.org] Nhà Nguyên sau khi thành lập được hơn 80 năm thì bắt đầu trở nên hung hãn tàn bạo. Ngày hôm ấy vị Thần ngự sử tuần thiên là Thái Bạch Kim Tinh hạ phàm khảo sát dân tình, khi ông nhìn thấy nhà Nguyên đang dùng đủ cách ngược […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Chu Hồng Vũ, Mã Nương Nương và triều Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phúc Chính

[ChanhKien.org]

Nhà Nguyên sau khi thành lập được hơn 80 năm thì bắt đầu trở nên hung hãn tàn bạo. Ngày hôm ấy vị Thần ngự sử tuần thiên là Thái Bạch Kim Tinh hạ phàm khảo sát dân tình, khi ông nhìn thấy nhà Nguyên đang dùng đủ cách ngược đãi bách tính, giết người như giết một con ngoé đã hết sức đau lòng, liền lập tức quay về Thiên cung bẩm báo sự thật lên Ngọc Hoàng Đại Đế.

Ngọc Đế vừa nghe ở nhân gian có chuyện tàn bạo như vậy đã vội hạ chỉ triệu tập tất cả Thiên Thần các phương và 28 vị Thần quan đến nghị sự, quyết định chọn ra một người từ 28 Thần quan hạ phàm thu phục thiên hạ, diệt trừ nhà Nguyên, thay bằng một triều đại khác tốt đẹp hơn.

28 Thần quan đều đã từng nhiều lần hạ phàm, ai nấy đều thấu hiểu cái khó của việc thu phục thiên hạ, thế là người nọ cứ đùn đẩy người kia, chẳng ai chịu xuống trần cả. Khi ấy Kim Đồng, Ngọc Nữ cầm quạt ba tiêu đứng cạnh Ngọc Đế nhìn thấy bộ dạng đùn đẩy trách nhiệm của 28 vị Thần quan đã vô thức bật cười “hi hi”, Ngọc Đế thấy vậy liền hỏi: “Thế nào, hai ngươi muốn hạ phàm thu phục thiên hạ sao?” Kim Đồng, Ngọc Nữ đáp: “Bẩm Ngọc Đế chúng con chỉ là hai tiểu ngoan đồng, lại chẳng có bản lĩnh gì, chúng con không được đâu, xin hãy đổi người khác ạ”. Ngọc Đế phán: “Ta nói được! Ta lệnh cho các ngươi hạ phàm thu phục thiên hạ, sau khi các ngươi hạ phàm ta tự nhiên sẽ phái người đến giúp đỡ”.

Kim Đồng Ngọc Nữ nghe Ngọc Đế bảo sẽ phái người đến giúp đỡ mình, lại nghĩ nếu từ chối nữa sẽ không hợp lẽ nên đành lĩnh chỉ. Lúc sắp hạ phàm họ tiện hỏi Ngọc Đế triều đại mới sẽ có tên gì, Thái Bạch Kim Tinh đang đứng một bên, thấy hai cây quạt của họ đang sáp lại làm một bèn thuận miệng bảo “triều Đại Minh”. Vốn dĩ do trên cây quạt Kim Đồng đang vác có chữ nhật 日, cây quạt của Ngọc Nữ vác có chữ nguyệt 月 (chữ nhật 日và chữ nguyệt 月 ghép lại thành chữ minh 明).

Kim Đồng sau khi hạ phàm đã chuyển sinh thành Chu Hồng Vũ (Chu Nguyên Chương), còn Ngọc Nữ chuyển sinh thành Mã Nương Nương. Chu Hồng Vũ, Mã Nương Nương cùng các thiên binh thiên tướng xuống trần hợp sức lại tiêu diệt nhà Nguyên, sau đó Chu Hồng Vũ lập ra nước Đại Minh.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/33118

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Chu Hồng Vũ, Mã Nương Nương và triều Minh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Núi Vũ Di xinh đẹphttps://chanhkien.org/2023/12/chan-troi-tim-phap-nui-vu-di-xinh-dep.htmlSun, 17 Dec 2023 03:22:07 +0000https://chanhkien.org/?p=32128Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Tôi nhớ tầm 20 năm trước khi tôi còn bán trái cây ở quê nhà, tôi nhớ cam của vùng Vĩnh Xuân và Chương Châu có mùi vị rất ngon, rất được khách hàng ưa chuộng. Sau này tôi đến các tỉnh khác, tình cờ hữu duyên được uống […]

The post Chân trời tìm Pháp: Núi Vũ Di xinh đẹp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Tôi nhớ tầm 20 năm trước khi tôi còn bán trái cây ở quê nhà, tôi nhớ cam của vùng Vĩnh Xuân và Chương Châu có mùi vị rất ngon, rất được khách hàng ưa chuộng. Sau này tôi đến các tỉnh khác, tình cờ hữu duyên được uống trà Đại Hồng Bào, mùi vị thực sự rất tuyệt, cũng chính tại đây lần đầu tiên tôi nghe được câu chuyện về trà Đại Hồng Bào. Có lần tôi đến thăm nhà một người bạn và thật trùng hợp là gia đình ấy đang xem bộ phim truyền hình “Truyền thuyết Ma Tổ”, tôi đã liễu giải được những thần tích cứu người trên biển của Lâm Mặc Nương tại vùng lân cận vịnh Mi Châu.

Tôi được trực tiếp nghe đến hai từ Phúc Châu này từ một người gốc Giang Tô, anh ấy từng đến Phúc Châu làm đầu bếp, anh ấy nói những món anh ấy nấu rất được thực khách ưa chuộng.

Trong thiên Vũ Cống (sách Thượng Thư) thì Phúc Kiến thuộc về Dương Châu, còn vào thời Chu thì nó thuộc về vùng đất “Thất Mân”. Vào năm Khai Nguyên thứ 21 triều Đường, triều đình vì để tăng cường lực lượng vũ trang biên phòng đã đặt ra chức quan đốc quân kinh lược sứ, từ tên gọi của hai thành Phúc Châu và Kiến Châu lấy hai từ Phúc và Kiến, đặt ra chức Phúc Kiến kinh lược sứ, đó là khởi nguồn của tên gọi Phúc Kiến (nguồn tư liệu: Tập bản đồ phân chia các tỉnh Trung Quốc, P3). Học giả Chu Hi cũng từng trú chân tại núi Vũ Di để dạy học, tại nơi này văn hoá người Khách Gia (người Hẹ), văn hoá trà và văn hoá Ma Tổ rất phát triển.

Bài viết này nói về câu chuyện tìm Pháp của cô gái xinh đẹp Lâm Nhân ở Phúc Kiến, diễn ra vào đầu thời Thanh.

Vài ngày trước khi Lâm Nhân ra đời, mẹ cô đã có một giấc mộng, trong mộng bà thấy các vị Thần Tiên đang sống rất tốt trên Thiên thượng, về sau không biết vì lý do gì mà tại cảnh giới ấy phát sinh rất nhiều biến hoá, các vị Thần Tiên cũng lần lượt hạ xuống đây. Từng có một vị Thần Tiên chỉ vào một nữ Thần và nói: “Cô ấy sẽ đến với ngài, ngài nhất định phải giúp đỡ cô ấy”. Người mẹ đang tự hỏi làm cách nào để có thể giúp cô ấy hoặc trong lai cô ấy sẽ đạt được thành tựu gì ở một số phương diện nào, thì những vị Thần kia lại ẩn đi mất. Bà vội choàng tỉnh. Vài ngày sau bà sinh hạ Lâm Nhân.

Sinh ra và lớn lên tại vùng núi Vũ Di, miền núi sông xinh đẹp nơi đây đã góp phần hun đúc nên tính cách lương thiện, lanh lợi hoạt bát của Lâm Nhân. Mặc dù lúc sinh ra gia cảnh nhà Lâm Nhân rất bần hàn nhưng cha mẹ cô đã cố gắng hết sức để tìm thầy giáo ở trường tư và những người có học vấn đến dạy Lâm Nhân đọc viết. Họ hy vọng tương lai cô bé sẽ có được chút thành tựu. Trong hoàn cảnh xem trọng con trai vào thời ấy, việc để một bé gái đọc sách là chuyện hết sức khó khăn.

Vì vùng núi Vũ Di là một khu vực tập trung đa dạng các loại sinh vật nên Lâm Nhân có thể được thoả mắt nhìn các thứ quý hiếm khó thấy. Đồng thời đây cũng là điều kiện giúp cho khả năng nhận thức của cô trở nên rất phong phú.

Một hôm có một vị hòa thượng đi đến nơi này, tay gõ gõ vào con cá gỗ, vừa đi ông vừa tuyên giảng những lời khuyên thế nhân nên hành thiện. Lúc đó Lâm Nhân đang ở bên ngoài chơi đùa với những đứa trẻ khác. Nhìn thấy vị tăng nhân cô bé chạy đến nói: “Ống có đói không? Cháu về nhà lấy chút đồ ăn cho ông nhé”. Nói xong cô bé quay người chạy vào nhà lấy ít đồ ăn đưa cho vị hoà thượng. Kết quả là vị hoà thượng không những không rời đi mà còn bước vào nhà. Ông nói với cha mẹ của Lâm Nhân rằng: “Đứa bé này có duyên với Thần Phật. Sắp tới nếu người lớn các vị có đi đến Cửu Long Khoa thì hãy đưa cô bé đi cùng”. Nói xong chẳng đợi cha mẹ Lâm Nhân trả lời vị hòa thượng đã vội vã cất bước.

Khoảng một tháng sau, thật trùng hợp là có người đề nghị đi Cửu Long Khoa hái trà. Cha mẹ Lâm Nhân bèn mang cô bé theo. Cô kết thân với một nhóm người lớn đi hái trà và cùng nhau đi đến Cửu Long Khoa, trên vách đá của Cửu Long Khoa họ nhìn thấy mấy cây trà. Tại đây cô nghe người lớn bảo rằng giống trà này là trà Đại Hồng Bào, tương truyền rằng vào triều Minh có một người học trò muốn lên kinh đô ứng thí, nhưng đi đến nơi này thì đổ bệnh, tình cờ được một vị tăng nhân lấy những lá trà dự trữ của ông ra pha cho anh ta uống, uống xong liền khỏi bệnh. Người học trò sau khi đỗ trạng nguyên đã quay lại cảm tạ vị tăng nhân và hỏi về nguồn gốc của lá trà, khi biết được đây là những chiếc lá trên mấy cây trà kia, anh đã cởi chiếc áo choàng lớn màu đỏ của mình đi vòng quanh mấy cây trà ba vòng, rồi khoác chiếc áo choàng đỏ (đại hồng bào) lên mấy cây trà, vì thế mà giống trà này có tên như vậy. Người ta còn bảo rằng những cây trà này đã có lịch sử trên nghìn năm. Sau đó do người lớn bận rộn các việc ở nơi khác nên đã để cô cùng một cô gái lớn hơn ở lại đây một lúc. Lâm Nhân ngồi đó ngẩn người nhìn mấy cây trà, lúc này cô gái lớn tuổi hơn hưng phấn nói: “Lâm Nhân em nhìn xem, sao mấy cây trà lại biến thành hình người, chúng từ từ rời khỏi chỗ ban đầu và đang bay về phía chúng ta!” Nghe cô gái nhắc Lâm Nhân mới phát hiện ra mọi chuyện thật sự là như vậy: Đằng sau mấy cây trà này là hình dáng của những con người ở nhiều độ tuổi khác nhau, nhưng họ đều mang theo tiên khí, trên đầu mỗi người đều có một lá trà. Họ chầm chậm bay về phía hai cô gái.

Một vị Thần trà trông giống như một ông lão bay tới chỗ họ và ân cần nói: “Các con, chúng ta là những sứ giả được Thiên thượng phái tới, tại nơi đây dùng phương thức trà để điểm hóa thế nhân rằng chớ trầm mê trong nhân gian, phải thực sự hiểu được ý nghĩa của việc quý tiếc sinh mệnh”. Hai người Lâm Nhân nghe vậy cảm thấy hết sức kinh ngạc, hỏi: “Lão bá bá, nhóm các ngài thật sự là đến từ đảo Bồng Lai sao?” (ghi chú: tương truyền rằng nguồn gốc của giống trà Đại Hồng Bào là do tiên hạc cắp hạt giống từ đảo Bồng Lai mang về đây, thả xuống rồi chúng sinh trưởng tại đây, nên Lâm Nhân mới hỏi như vậy). Ông lão nghe cô bé hỏi vậy thì cười ha hả đáp: “Bọn ta được Thần Tiên ở cảnh giới cao hơn cho phép bén rễ và lớn lên ở đây. Sau này danh tiếng của bọn ta sẽ còn vang xa hơn nữa”. Cô gái lớn tuổi hơn nói: “Vậy tại sao Thần lại để các vị tới đây?” Một vị Thần trà trông dáng vẻ trẻ tuổi nói: “Trà có thể khiến con người thế gian, trong trạng thái thanh tịnh, nhận ra được ý nghĩa thực sự của kiếp nhân sinh. Hãy khắc ghi đạo lý rằng sinh mệnh là đến từ Thiên thượng, và cuối cùng sẽ trở về với Thiên thượng”. Lâm Nhân suy nghĩ một lúc rồi nói: “Sinh mệnh nếu thực sự muốn trở về Thiên thượng, thì cần có một số phương pháp mới có thể quay về. Uống trà có thể giúp quay trở lại sao?” Vị Thần trà trẻ tuổi nhìn khuôn mặt đầy vẻ ngây thơ của Lâm cũng bật cười: “Khi đến lúc, con người sẽ làm những gì họ nên làm trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau, nếu làm tốt thì tự nhiên sẽ có thể quay trở về. Nhưng tình huống đó hiện giờ không được, phải đợi cho đến khi có một vị Thánh giả hồng truyền Đại Pháp trong tương lai thì mới được”. Cô gái lớn hơn sốt ruột nói: “Vậy chúng ta phải đi đến đâu để tìm thấy vị Thánh giả truyền Đại Pháp trong tương lai ấy?” Vị Thần trà trông như một ông lão nói: “Theo chúng tôi được biết, khi giống trà nguyên sinh của chúng tôi trở nên cực kỳ quý hiếm, vị Thánh giả ấy sẽ bắt đầu hồng truyền Đại Pháp, hơn nữa sau khi bị đối đãi bất công ở đây, tại bờ bên kia (Đài Loan) Đại Pháp sẽ được truyền bá hết sức rộng rãi”. “Vậy làm thế nào chúng tôi có thể tìm thấy Đại Pháp?”, Lâm Nhân hỏi.

Lúc này, một tiểu Thần trà (trông như một đứa trẻ bốn, năm tuổi) trầm mặc hồi lâu rồi nói: “Các bạn hãy đi đến một vài chỗ quanh vùng sông Mân Giang hỏi thử xem, đặc biệt là ra biển xem thử, có thể sẽ có thu hoạch”. Nói xong mấy vị Thần trà đồng loạt ẩn đi mất.

Cô gái lớn nói với Lâm Nhân: “Những gì chúng ta gặp hôm nay em chớ nói cho người lớn nghe, nếu không họ sẽ hiểu lầm chúng ta. Họ có thể cho rằng chúng ta đã gặp phải yêu quái”. Lâm Nhân gật đầu đồng ý.

Một lúc sau những người lớn đi hái trà đã trở về. Hai cô gái cùng theo người lớn quay về nhà.

Qua năm, sáu năm sau, một hôm nọ cô gái lớn nằm mộng, trong mộng cô thấy lão trà thần nói: “Chẳng phải các cô cần đi tìm vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp ở nhân gian trong tương lai sao? Bây giờ đã đến lúc lên đường rồi đó”. Sau đó cô gái lớn đi tìm Lâm Nhân và nói về giấc mộng của mình. Lâm Nhân cũng nói với cha mẹ rằng sẽ cùng cô gái lớn bắt đầu hành trình đi tìm Pháp.

Họ lần lượt đi qua các huyện Nam Bình, Mân Hầu, cuối cùng thì đến Phúc Châu. Tại đây vì để tạm an thân hai cô gái chọn cách làm việc trong một tiệm trà, cũng là để thuận tiện cho việc nghe ngóng tin tức về vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp trong tương lai.

Một hôm, có một nhóm người trông giống như thủy thủ đến tiệm trà, vừa ngồi xuống thì một người nói: “Ngày hôm ấy ra biển, nếu như không có Ma Tổ hiển thánh thì chúng ta đã sớm vùi thây nơi đáy biển rồi”. Một người khác nói: “Việc như vậy tôi đã gặp qua ba, bốn lần rồi. Đều là nhờ Ma Tổ cứu chúng ta cả”. Hai người họ (cô gái lớn và Lâm Nhân) đi tới và hỏi chuyện gì đã xảy ra. Mọi người lần lượt kể cho hai cô gái nghe câu chuyện về Ma Tổ đến từ Mi Châu.

Sau khi nghe xong hai cô gái cảm thấy rất phấn chấn, lập tức quyết định đi đến đảo Mi Châu, xem xem bản thân có cơ duyên gặp được Ma Tổ hay không.

Khi đến đảo Mi Châu, họ bắt đầu nghe ngóng những câu chuyện liên quan đến Ma Tổ (Lâm Mặc Nương, thời Tống) và đến thăm nơi ở cũ của Ma Tổ. Khi nghe những câu chuyện Ma Tổ cứu người trong lúc nguy nan, họ nghĩ: “Ngoài việc cứu tính mệnh ra, Ma Tổ còn có thể cho chúng ta chút khải thị nào không?” Qua mấy ngày nấn ná trên đảo Mi Châu, có một hôm có mấy cô gái địa phương rủ họ cùng ra biển chơi. Lúc ban đầu thì thuyền thuận nước ra khơi an lành, về sau thì trời bỗng nổi gió, sức gió càng ngày càng mạnh. Mọi người bắt đầu khấn cầu Ma Tổ hiển linh cứu giúp. Vào thời khắc nguy hiểm nhất, Ma Tổ đã hiển hiện ra trên bầu trời, bà lấy tay chỉ vào những ngọn sóng đang cuồn cuộn dâng cao thì dần dần trời êm biển lặng trở lại. Các cô gái khác đều vui mừng lạy tạ. Riêng Lâm Nhân sau khi cảm tạ ân cứu mạng của Ma Tổ xong đã hỏi Ma Tổ rằng: “Ngoài việc cứu người trên biển ra, ngài còn có thể lưu lại cho chúng con chút gì khác không?” Ma Tổ đáp: “Tất cả những việc ta làm, ngoài biểu hiện trên bề mặt là cứu người khi họ gặp nạn thì còn có một phương diện khác là để con người tin vào sự tồn tại chân thực của Thần. Người lương thiện khi gặp nguy hiểm thì tự nhiên sẽ được cứu độ”. Cô gái lớn nói thêm: “Hai người chúng con khi ở núi Vũ Di đã nghe mấy vị Thần trà bảo nên mới ra biển đi tìm vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp trong tương lai, ngài có biết tin tức gì liên quan đến vị Thánh ấy không?”

Ma Tổ nói: “Theo ta được biết, vị Thánh ấy trong tương lai sẽ xuất sinh ở vùng Đông Bắc và đến lúc sẽ dùng phương ngữ vùng Đông Bắc để giảng Pháp. Nếu như tương lai các ngươi đi đến vùng Đông Bắc thì cơ hội đắc Pháp khi ấy sẽ cao hơn”. Nói xong Ma Tổ liền biến mất.

Sau khi trở lại bờ, hai cô gái nghe nói rằng trà Thiết Quan Âm của vùng An Khê rất nổi tiếng nên đã đến An Khê. Tại đây, họ gặp một người phụ nữ khoảng 50 tuổi, khi đi đường bà ấy đội một lá trà Thiết Quan Âm trên đầu. Cả hai đều cảm thấy người phụ nữ này dường như có mối liên hệ nào đó với các vị Thần trà. Họ bèn bước tới hỏi người đó xem đã từng thấy Thần trà của giống trà này chưa. Người phụ nữ nhìn họ rồi nói: “Lá trà này là người khác tặng cho ta, ta thấy nó rất thơm nên cài lên tóc. Còn về việc người tặng lá trà cho ta có phải là Thần trà hay không thì ta cũng không biết”. Lâm Nhân sốt ruột hỏi: “Vậy người tặng lá trà ấy giờ đang ở đâu ạ?” Người phụ nữ đưa cả hai đến một tiệm trà. Bà tìm ông chủ tiệm và bảo: “Chính là ông ấy đã tặng lá trà cho ta”. Hai cô gái thấy ông chủ trông có vẻ rất phúc hậu nên đã đem những trải nghiệm của mình nhất nhất kể cho ông nghe. Cuối cùng Lâm Nhân hỏi: “Có phải các giống trà khác nhau sẽ có các vị Thần trà đối ứng khác nhau?” Ông chủ nói: “Theo tổ tiên của ta được biết, các loại trà khác nhau sẽ có hương vị khác nhau, đặc điểm và hình dáng của Thần trà đương nhiên cũng khác nhau”. Cô gái lớn bảo: “Các vị Thần trà đại hồng bào trên núi Vũ Di của chúng cháu bảo chúng cháu đi tìm vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp tại nhân gian trong tương lai. Vậy Thần trà Thiết Quan Âm sẽ cho chúng cháu biết điều gì?” Ông chủ chợt nín lặng một lúc, không biết phải trả lời cô bé ra sao. Chính vào lúc này bỗng đâu có một vị hoà thượng tay cầm trái quýt bước tới, ông vừa đi vừa ngâm nga: “Lô cam lô cam chân cam điềm, nhập trần bất nhiễm triển tiếu nhan, nhân sinh chung cứu hà xử khứ, Vũ Di sơn thượng ngộ tiên duyên!” (tạm dịch: Quýt ngọt quýt ngọt quýt thật ngọt lành, Nhập trần không ô nhiễm lộ nét mặt cười, Đời người rốt cuộc đâu là phương hướng, Trên núi Vũ Di gặp được tiên duyên!). Lâm Nhân nhìn kỹ vị hòa thượng, thấy ông ấy có chút quen thuộc. Vị hòa thượng tự mình ngồi xuống, nhìn Lâm Nhân bảo: “Tiểu cô nương, những việc gặp ở Cửu Long Khoa cô đã minh bạch ra chưa?” Lâm Nhân liền nhớ ra ngay, vị hoà thượng trước mắt cô chính là người mà năm xưa từng bảo cô có duyên với Thần Phật. Cô bé lập tức hỏi ông: “Nhiều năm trôi qua như vậy ông đã đi đâu? Ông đã gặp được vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp tại nhân gian trong tương lai chưa?” Vị hoà thượng cười đáp: “Chẳng phải Ma Tổ đã nói cho các cháu biết tình huống của vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp trong tương lai sao? Chẳng phải các cháu cũng muốn biết một chút thông tin về Thần trà Thiết Quan Âm sao?” Cả hai đồng thanh đáp phải. Ông bảo vậy thì hai cô bé hãy đi theo ông. Nói xong vị hòa thượng đứng dậy bước ra ngoài. Lâm Nhân, cô gái lớn tuổi hơn, ông chủ tiệm trà, người phụ nữ tầm 50 tuổi kia và có cả mấy vị khách hiếu kỳ nữa cùng đi đến bên một cây trà Thiết Quan Âm. Vị hoà thượng cũng đứng cạnh cây trà, miệng niệm một tràng: “Thần trà Thần trà mau hiện thân, đời này đã gặp người có duyên, hãy nói những lời chân thật của ngài, đợi đến ngày sau còn bảo với thế nhân”. Trong phút chốc một vị Thần trà có hình dáng của một nữ tử xuất hiện. Sau khi hai cô gái thi lễ với nữ Thần xong, Lâm Nhân hỏi: “Thần trà ơi, các vị Thần trà đại hồng bào đã giúp chúng cháu hiểu được ý nghĩa của sinh mệnh và điểm hoá cho chúng cháu rằng hãy đi tìm vị Thánh giả sẽ hồng truyền Đại Pháp trong tương lai ở nhân gian. Còn ngài có khuyên bảo chúng cháu điều gì không ạ?” Nữ Thần trà đáp: “Loại trà này của chúng ta sau khi uống vào sẽ cho con người cảm giác hương thơm nồng đậm được lưu lại rất lâu, âm vị rõ ràng, có mang theo mùi hương của hoa lan và mùi vị của quả dừa. Điều ta muốn khuyên các cô là hãy triển hiện sự bền tâm và những thành quả trong tu hành trong tương lai (biểu hiện của Thiện cũng là một trong số đó) cho thế tục thời ấy”. Nữ Thần trà nói xong liền biến mất. Vị hoà thượng cũng rời đi. Mọi người đều cảm thấy bản thân vô cùng may mắn, đặc biệt là Lâm Nhân và cô gái lớn đều biểu thị rằng sau này nếu thật sự đắc được Đại Pháp mà vị Thánh giả hồng truyền sẽ hết lòng trân quý Pháp.

Đời này Lâm Nhân sinh ra ở Phúc Kiến, sau đó đến phương Bắc học đại học, tại nơi đây cô đã gặp lại cô gái lớn tuổi hơn năm xưa. Lúc bấy giờ cô gái lớn tuổi hơn đã sớm đắc Pháp. Về sau Lâm Nhân đã mua cho cô ấy một bộ ấm trà tinh xảo, đây cũng được xem như họ đang tiếp nối mối duyên phận từ tiền kiếp.

Đời này do nhiều nguyên nhân nên Lâm Nhân vẫn chưa đắc Pháp, nhưng tính cách vẫn rất lương thiện và hoạt bát, đối với Đại Pháp vẫn có ấn tượng tốt và chính niệm.

Đây chính là:

Vũ Di sơn trung trà Thần điểm
Đông khứ hải biên tầm Thần Tiên
Ma Tổ hải thượng hiển thần tích
Kim triều loạn thế trì chính niệm!

Diễn nghĩa:

Trên núi Vũ Di Thần trà điểm hoá
Đi về hướng Đông ra biển tìm Thần Tiên
Ma Tổ hiển hiện thần tích trên biển
Đời này trong loạn thế bảo trì chính niệm!

Ghi chú:

1. Tuổi của cây trà không tương ứng với tuổi của hình người mà Thần trà biểu hiện ra. Trạng thái hình tượng Thần trà chỉ là triển hiện cho con người một loại hình tượng mà thôi. Nói một cách chặt chẽ thì nó không liên quan gì đến tuổi tác lớn nhỏ.

2. Những ngọn núi, dòng sông, danh lam thắng cảnh và những đặc sản độc đáo (trà, tơ lụa, đồ gốm sứ, v.v..) được đề cập trong loạt bài này đều là để giải thích cho ý nghĩa của chúng trong việc đặt định nền văn hóa giúp chúng sinh đắc Pháp, chứ không phải là cái cớ cho chấp trước của những người hiếu kỳ. Tác giả không chịu trách nhiệm về bất kỳ chấp trước nào vào núi, sông, danh lam thắng cảnh và các sản vật đặc biệt do đọc bài viết này mà dẫn khởi, xin độc giả tự có trách nhiệm với chính mình, bản thân tác giả cũng sẽ không chịu bất kỳ trách nhiệm liên đới nào. Đây không phải là chủ ý của tác giả. Xin được nói rõ ở đây.

Chú thích của người dịch:

Theo trang Wiki Ma Tổ (媽祖) hay còn được gọi là Thiên Hậu Thánh Mẫu (chữ Hán: 天后聖母) hay bà Thiên Hậu, còn gọi là Mẫu Tổ (母祖), hay là Thiên Thượng Thánh Mẫu (天上聖母) hoặc Thiên Hậu Nguyên quân (天后元君); là một vị Thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt gốc Hoa.

Bà được xem như vị Thần bảo trợ của ngư phủ và người đi biển, được tôn kính đặc biệt cả trong Phật giáo và Đạo giáo ở các quốc gia Đông Á, và nhất là tại Đài Loan.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/255037

The post Chân trời tìm Pháp: Núi Vũ Di xinh đẹp first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về Kim Phượng, Ngọc Long và viên minh châuhttps://chanhkien.org/2023/12/truyen-thuyet-dan-gian-cau-chuyen-ve-kim-phuong-ngoc-long-va-vien-minh-chau.htmlFri, 15 Dec 2023 22:25:15 +0000https://chanhkien.org/?p=32090Tác giả: Phúc Chính chỉnh lý [ChanhKien.org] Từ xưa đến nay vẫn luôn có rất nhiều truyền thuyết thần thoại mỹ diệu liên quan đến nguồn gốc của Tây Hồ, trong đó câu chuyện về Kim Phượng, Ngọc Long và viên minh châu là một trong những câu chuyện huyền diệu nhất. Tương truyền rằng […]

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về Kim Phượng, Ngọc Long và viên minh châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Phúc Chính chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Từ xưa đến nay vẫn luôn có rất nhiều truyền thuyết thần thoại mỹ diệu liên quan đến nguồn gốc của Tây Hồ, trong đó câu chuyện về Kim Phượng, Ngọc Long và viên minh châu là một trong những câu chuyện huyền diệu nhất.

Tương truyền rằng vào thời kỳ viễn cổ cách đây rất lâu, con người trên trái đất có thể nhìn thấy được dải Ngân Hà xa xôi. Ở phía đông của dải Ngân Hà có một vị tiên tên là Ngọc Long sống trong một hang đá và một vị tiên khác tên là Kim Phượng sống trong khu rừng ở phía tây, Ngọc Long và Kim Phượng rất hợp nhau, họ thường cùng nhau làm một số việc, cùng chia sẻ niềm vui đến từ thế giới tự nhiên.

Có lần họ tìm thấy một khối ngọc thô trên Đảo Tiên của dải Ngân Hà, thế là họ cùng nhau mài giũa khối ngọc thô qua nhiều năm, cuối cùng cũng đến một ngày viên ngọc tỏa ra ánh sáng rực rỡ và biến thành một viên minh châu đẹp lóng lánh. Ánh sáng của viên minh châu chiếu đến đâu thì cây cối sẽ trở nên xanh tươi và trăm hoa sẽ đua nở đến đấy.

Tin này sau khi truyền đến Thiên cung, Vương Mẫu Nương Nương muốn thử xem cái tâm của Ngọc Long và Kim Phượng như thế nào, Vương Mẫu giả vờ cảm thấy rất hiếu kỳ về viên ngọc, muốn xem xem viên ngọc châu ấy rốt cuộc sao lại huyền diệu đến vậy, nên đã phái thiên binh đến bí mật lấy viên minh châu đi.

Rồi có một ngày Ngọc Long và Kim Phượng đột nhiên phát hiện viên minh châu không thấy đâu nữa nên đã tìm kiếm khắp nơi. Sau đó họ biết được viên ngọc đang ở trong tay Vương Mẫu Nương Nương nên vội vàng chạy đến thiên cung cầu xin Vương Mẫu cho họ được lấy lại viên ngọc, Vương Mẫu vì muốn thử cái tâm của Ngọc Long và Kim Phượng nên đương nhiên không trả lại. Ngọc Long và Kim Phượng không biết rằng Vương Mẫu đang khảo nghiệm mình, cả hai chẳng màng đến quy củ của Thiên cung lao tới chộp lấy viên ngọc, trong quá trình giằng co viên minh châu đã lăn theo bậc thang của Thiên cung rơi xuống nhân gian. Ngọc Long và Kim Phượng vẫn luôn nghĩ tưởng đến viên minh châu nên đã vội bay theo xuống hạ giới. Viên minh châu ấy vừa chạm xuống mặt đất thì lập tức biến thành Tây Hồ trong veo, xanh biêng biếc. Ngọc Long và Kim Phượng không nỡ rời xa viên minh châu mà mình đã bỏ công cần mẫn mài giũa nên đã hóa thành hai tòa núi để canh giữ viên ngọc. Trong hai tòa núi ấy có một tòa là núi Ngọc Long hùng vĩ, ngày nay nó có tên gọi là núi Ngọc Hoàng, còn toà núi kia là núi Kim Phượng biếc xanh, ngày nay nó được gọi là núi Phượng Hoàng.

Đây đúng là “Tây Hồ minh châu tòng thiên giáng, Long phi phượng vũ đáo Tiền Đường”(Diễn nghĩa: Tây Hồ là viên minh châu từ trên trời giáng xuống, Rồng bay phượng múa đến Tiền Đường). Cũng từ đó Ngọc Long và Kim Phượng mãi mãi canh giữ bên bờ Tây Hồ, sớm tối bầu bạn với người dân Tây Hồ, trải qua năm tháng dài đằng đẵng cho đến tận hôm nay.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/33261

The post Truyền thuyết dân gian: Câu chuyện về Kim Phượng, Ngọc Long và viên minh châu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Thái Hành tuyệt bíchhttps://chanhkien.org/2023/12/chan-troi-tim-phap-thai-hanh-tuyet-bich.htmlThu, 14 Dec 2023 00:17:14 +0000https://chanhkien.org/?p=32067Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Chuyện kể rằng vào giữa thời nhà Đường khi loạn An Sử vừa mới bình định xong, ở vùng đất nay là Trịnh Châu có một Lý lão hán khoảng hơn 50 tuổi, ông có một người con trai và ba cô con gái. Ông nâng niu những đứa […]

The post Chân trời tìm Pháp: Thái Hành tuyệt bích first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Chuyện kể rằng vào giữa thời nhà Đường khi loạn An Sử vừa mới bình định xong, ở vùng đất nay là Trịnh Châu có một Lý lão hán khoảng hơn 50 tuổi, ông có một người con trai và ba cô con gái. Ông nâng niu những đứa con như nâng niu những viên minh châu trên tay. Gia cảnh của Lý lão hán tuy không khá giả nhưng cũng không đến nỗi bần cùng. Sau đó nơi đây xảy ra một trận dịch nhỏ, hàng xóm chung quanh không có ai qua đời, tuy nhiên trong gia đình ông, vợ ông, ba cô con gái và người con trai đều lần lượt rời bỏ thế gian. Đây thực sự là một trận đả kích rất lớn đối với ông. Cả ngày ông cứ đắm chìm trong đau khổ mà không thể tự thoát ra được.

Một hôm, ông nhìn thấy ở xa xa có một hòa thượng điên vừa đi vừa hát:

Phu thê ân ái nan cửu trường
Nhất tràng đại bệnh táng phần cương
Ký vọng nhi nữ tẫn hiếu bàng
Vô nại tạc nhật quan lí thảng
Thế đạo thương thương dữ mang mang
Tẫn đạo thị bi lương vô thường
Tế tư lượng thượng đắc thái hành
Tầm trảo na cao nhân đạo tràng
Khán tẫn xử phàn nham tuyệt bích
Cô độc lệ lưu hoán trình tường

Diễn nghĩa:

Tình cảm phu thê ân ái khó dài lâu
Một trận dịch bệnh chôn đôi gò mộ
Trông mong con cái sẽ ở bên tận hiếu
Hôm qua đành nhìn con nằm trong quan tài
Thế đạo mênh mông không bờ bến
Cuối con đường lạnh lẽo thê lương vô thường
Nỗi nhớ nhung đi đến núi Thái Hành
Tìm kiếm cao nhân nơi đạo trường
Nhìn tận nơi núi non vách đá
Cô độc và nước mắt đổi lại là điềm may

Khi nghe hòa thượng điên hát như vậy Lý lão hán dường như có phần tỉnh ngộ, vội đuổi theo nói: “Những lời ông vừa hát rất giống với chuyện xảy ra ở gia đình tôi, tôi bây giờ thực sự rất đau khổ, ông có thể chỉ ra cho tôi một con đường tươi sáng không?” Vị hoà thượng nhìn Lý lão hán, nói như một kẻ điên: “Vừa rồi chẳng phải ta đã hát xong rồi sao? Chính là ‘tế tư lượng thượng đắc thái hành, tầm trảo na cao nhân đạo tràng’. Hãy đến Thái Hành Sơn tìm cao nhân, chỉ e thân thể ông yếu nhược, tuổi đã nhiều rồi khó mà chịu được nỗi khổ sở ấy”. Lý lão hán nói: “Không sao, hiện tại sức khỏe của tôi rất tốt”. Thế là ông quay về nhà vội thu dọn hành lý, rồi mang theo hai người hầu cùng nhau bôn ba đến núi Thái Hành.

Khi đến núi Thái Hành ông mới biết, hóa ra đây là một dãy núi rất lớn, với dãy núi lớn như vậy thì tìm cao nhân ở đâu đây? Ông vừa đi vừa hỏi thăm, sau đó thực sự gặp được một vài người, nhưng trong số những người này không có một ai đi theo con đường ngay chính cả, tuy họ có biết một chút nhưng hoàn toàn không hiểu rõ được nhân duyên nơi thế gian cũng chẳng hiểu được việc từ bỏ sinh tử. Trong tâm Lý lão hán biết rất rõ, nhưng những lời ngon ngọt của những kẻ đó đã lừa được hai người nhà ông, khiến hai vị người nhà mang hết tiền tài đi theo họ, để lại Lý lão hán trơ trọi không một xu dính túi.

Lý lão hán là một người thiện lương đôn hậu, ông không muốn phân bua gì với người ta, vả lại ông thường nghĩ rằng nếu không tìm được người giúp ông giải thoát thì ông cũng sẽ sớm rời xa nhân thế, đi gặp mặt vợ con, hà tất phải chịu đựng nỗi đau ly biệt!

Ông một mình bước đi một cách vô định về phía trung tâm núi Thái Hành. Có lần ông bước nhầm vào một hang động, trong động có một ít thức ăn, ông gọi to mấy lần xem có ai ở đó không nhưng không ai trả lời, lúc ấy do thực sự quá đói nên ông cứ bốc từng vốc to thức ăn cho vào miệng. Ăn xong ông cảm thấy hơi buồn ngủ nên đã ngủ thiếp đi.

Qua một lúc lâu sau, một người thợ săn già đánh thức ông dậy. Khi thấy chủ nhân của hang động đã trở về, ông lập tức đứng dậy xin lỗi, nói rằng mình đi nhầm vào động, thực sự do quá đói nên đã ăn mà chưa có sự cho phép của chủ nhân. Người thợ săn già không những không trách cứ mà còn ân cần hỏi han: “Vậy ông đã ăn no chưa?” Lý lão hán vội đáp: “No rồi”. Ngay sau đó Lý lão hán hỏi người thợ săn già có biết vị cao nhân nhìn thấu nhân duyên, xem nhẹ sinh tử trong núi Thái Hành không? Người thợ săn suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tôi chưa từng gặp qua cao nhân nào như vậy, chỉ là trong dãy Vạn Tiên tôi thấy có mấy ngọn núi trông như đầu tượng Phật, không biết trong ấy có Thần tiên hay không”. Nói xong ông ấy chỉ rõ đường đến núi Vạn Tiên, lại còn tặng cho Lý lão hán một ít lương khô.

Lý lão hán lần theo chỉ dẫn của người thợ săn tìm đến núi Vạn Tiên. Ở đây ông thật sự nhìn thấy rất nhiều đỉnh núi trông giống như đầu tượng Phật, cũng cảm thấy nơi này khẳng định rất có linh khí. Vì vậy, ông đã dựng một túp lều tranh ở đây để tạm che mưa che gió và chờ đợi sự xuất hiện của các vị Thần tiên.

Qua một đoạn thời gian mà các vị Thần tiên vẫn chưa xuất hiện. Ông rất sốt ruột nhưng cũng không biết phải làm sao. Chính vào lúc ấy thì vị hòa thượng điên khi trước cũng tìm đến, nhìn thấy hòa thượng điên Lý lão hán rất vui mừng, ông nhờ vị hòa thượng chỉ cho mình chút phương hướng. Hòa thượng điên bảo: “Nếu ông đã trông thấy ngọn núi trông giống đầu tượng Phật kia, hãy đi lên đó, biết đâu sẽ gặp được Thần tiên”. Nói xong vị hòa thượng điên bỗng biến mất chẳng thấy đâu nữa.

Lý lão hán cảm thấy lời của vị hòa thượng rất có đạo lý, nhưng cách đó không xa là một hẻm núi nằm đối diện với một vách đá cheo leo, làm sao vượt qua được đây? Bây giờ ông gặp phải trắc trở rồi.

Sau đó Lý lão hán hạ quyết tâm, cho dù là thế nào, kể cả nhỡ có… thì ông cũng sẽ quyết bước trên con đường đi tìm Thần tiên này, và tuyệt sẽ không hối hận. Nghĩ đến đây, lòng ông bỗng tràn ngập sức mạnh.

Ông tìm được một con đường nhỏ bên dưới vách đá đối diện, do chút bất cẩn ông lỡ trượt chân, giờ đây việc leo lên vách đá trở nên khó khăn hơn nhiều. Không còn cách nào Lý lão hán chỉ đành ngồi đó dưỡng thương. Thật chẳng may lúc này trời lại đổ mưa rất to khiến toàn thân ông ướt sũng. May thay cơn mưa nặng hạt ấy kéo dài không lâu, một lúc sau thì tạnh hẳn. Sau trận mưa lớn, ông cảm thấy mình bị sốt cao, trong cơn mê sảng ông dường như nhìn thấy người vợ đã khuất của mình và bốn đứa con, cảm thấy mình có thể sớm đuổi kịp họ. Ông cứ mê man như thế trong ba ngày. Đến một hôm ông cảm thấy tinh thần dường như tốt lên nhiều nên đã gắng gượng ngồi dậy, ông nghĩ có lẽ đây là chút sức lực cuối cùng trỗi dậy, ông nhìn quanh tứ bề và lặng lẽ nói lời từ biệt cuối cùng.

Đến khi ông nhắm mắt lại một lần nữa chờ tử thần tới mang ông đi thì đột nhiên cảm thấy như có một bàn tay to lớn nào đó nâng mình lên, cảm giác toàn thân tràn đầy sinh lực, cơn sốt và cơn đau chân ban đầu đều biến mất.

Khi Lý lão hán mở mắt ra lần nữa, ông phát hiện ra ngọn núi giống như đầu tượng Phật đã được ai đó dựng dậy (là triển hiện cho ông như vậy, ngọn núi vẫn tồn tại như cũ), không những được dựng dậy mà ngọn núi còn nói với ông một cách từ bi rằng: “Chân tâm và thành ý của ông chúng tôi đều đã thấy. Việc người vợ và các con ông bị bệnh qua đời kỳ thực đều có nguyên nhân, cũng là số mệnh của họ như vậy, đồng thời đó cũng là một phần cơ duyên khiến ông tìm đến đây. Tương lai Sáng Thế Chủ sẽ giáng lâm đến nơi này, ông phải kiên nhẫn chờ đợi. Để đáp lại thành ý của ông, sau khi nói cho ông biết những việc này ta sẽ đưa ông trở lại hẻm núi. Trước ngày mùng 3 tháng 3 năm sau ông phải leo lên vách núi, dù khó khăn đến mấy cũng nhất định phải vượt qua. Đó là cơ hội lớn nhất để ông được tái sinh trong tương lai”. Ngọn núi nói xong thì có một bàn tay khổng lồ đưa ông trở lại vị trí ban đầu dưới vách đá.

Sau khi nhận được khải thị từ sinh mệnh cao tầng, trong tâm Lý lão hán khởi lên chính niệm vô cùng kiên định.

Dưới vách núi ông bắt đầu chuẩn bị cho hành trình leo núi của năm sau, vì vẫn còn sớm nên ông cũng không vội, chỉ đi thăm thú nhìn ngắm chung quanh. Kể ra cũng thật kỳ lạ, khi này ông có thể nhìn thấy những sự vật mà trước đây ông không thể nhìn thấy. Ví như trên núi Thái Hành có một giống đào tiên ăn rất ngon, khi nhìn thấy quả đào rồi mà ông chưa kịp hái xuống thì quả đào đã nói với ông: “Trước khi ăn, xin hãy để tôi nói cho ông biết về lai lịch của tôi”. Ông nghe vậy cũng không thấy ngạc nhiên lắm, bởi vì ông cảm thấy trên dãy núi này có rất nhiều thứ đều có linh tính. Thế là ông ngồi xuống cạnh cây đào và nghe nó kể: “Thái Hành Sơn nguyên vốn là một tảng đá trên Thiên thượng, cũng là chiếc cầu nối liền hai cung điện. Bởi vì mọi thứ ở trên Thiên thượng đều to lớn vô tỉ. Sau đó cảnh giới ấy của Thiên thượng xuất hiện một số vấn đề, tảng đá này vừa hay lại được Thần chọn dùng khi tạo ra trái đất. Nơi này đóng vai trò là rào chắn trong lịch sử sơ kỳ của nền văn minh Trung Quốc, giúp đảm bảo rằng các bộ lạc ở các khu vực khác nhau sẽ không tham chiến quá nhiều, và cũng để duy trì sự phát triển của mỗi từng bộ lạc. Đào vốn dĩ có rất nhiều chủng loại, trên Thiên thượng đào tiên được xếp vào loại quả ngon thượng phẩm, đương nhiên đào của Thiên thượng thì càng ngon hơn, so với của nhân gian thì phẩm vị xuất chúng hơn nhiều. Thần trên Thiên thượng vì để tổ tiên của các dân tộc thời thượng cổ có được thức ăn đầy đủ dưỡng chất đã hữu ý đưa giống đào này xuống nhân gian. Đương nhiên nhiều loại thức ăn khác cũng được đưa đến nơi thế gian con người. Điều này đã giúp triển hiện đầy đủ sự từ bi của Thần”.

Lúc này, các loại hoa cỏ xung quanh cũng nói chuyện với ông, qua đó ông cảm thấy Sáng Thế Chủ vì an bài sự kiện tối hậu mà đã tổn hao rất nhiều tâm huyết.

Trong khoảng thời gian tiếp theo, ông bắt đầu ở nơi đây tự mình độc tu. Vào tháng 3 năm sau, sau khi chuẩn bị xong mọi thứ, ông bèn bắt đầu hành trình leo núi của mình. Trong quá trình leo núi ông tự nhủ với bản thân rằng nhất định phải khắc phục hết thảy mọi khó khăn. Bằng cách ấy ông đã leo lên đến lên đỉnh núi rất nhanh, khi còn cách đỉnh núi hai bước chẳng hiểu sao ông lại bất cẩn bị trượt chân theo sợi dây và rơi xuống, việc này cứ lặp đi lặp lại nhiều lần. Sau đó ông quyết tâm không dùng đến sự hỗ trợ từ dây thừng nữa và lấy hết dũng khí bắt đầu leo lên. Khi leo được nửa đường, bỗng đâu một hòn đá to bằng cái cối xay rơi từ trên xuống, ông vội nép vào vách núi, hòn đá thuận theo đó rơi thẳng xuống cạnh người ông rồi trượt xuống. Ông lau mồ hôi lạnh toát khắp người rồi tiếp tục leo lên, vừa leo chưa được bao lâu ông nghe thấy tiếng gầm thét khiến người ta kinh hồn bạt vía của đám dã thú và các loài chim dữ. Lý lão hán nhắm mắt lại một lúc, định thần lại rồi tiếp tục leo lên, trong quá trình đó, ngay cả việc lũ chim săn mồi bay tới tấn công cũng không làm gián đoạn được hành trình của ông, bởi vì ông đã giữ cái tâm kiên định từ trước: “Đời này chỉ vì để đi tìm Sáng Thế Chủ, dẫu phải trả cái giá bao nhiêu ta cũng không hối tiếc”. Trời thậm chí còn đổ mưa khiến những hòn đá trên vách núi trở nên trơn trượt, ông phải ra sức chân đạp tay bám để bò lên. Ông còn mấy lần suýt bị trượt xuống dưới. Vào lúc ấy ông chợt nghĩ, lần trước khi ở giữa lằn ranh sinh tử ông đã được sinh mệnh cao tầng ra tay cứu giúp, lần này vì để sớm gặp được Sáng Thế Chủ, ông cũng hy vọng sinh mệnh cao tầng ấy sẽ cứu ông thêm một lần. Khi ông đương nghĩ như vậy thì trên trời bỗng có một âm thanh vang rền: “Hãy buông tay ra”. Ông đã buông tay ra mà không chút do dự. Sau khi buông tay thân thể ông rơi vun vút xuống bên dưới, lúc này ông chẳng hề thấy hối hận cũng không có suy nghĩ nào khác mà chỉ có một niệm: “Vị sinh mệnh cao cấp ấy tuyệt sẽ không hại ta”. Trong khoảnh khắc thân thể Lý lão hán sắp rơi xuống đáy thung lũng thì bỗng đâu một bàn tay khổng lồ mềm mại như bông lại nhấc ông lên và đặt ông lên đỉnh vách núi.

Vị sinh mệnh cao tầng bảo ông: “Ngươi ở đây chờ đợi vài ngày, Sáng Thế Chủ sẽ rất nhanh đến thôi”. Kết quả ông tìm được một sơn động ở đây, chờ đợi qua 15 ngày. Trong chuỗi ngày trông chờ ấy ông nghĩ: “Có thể vị sinh mệnh cao tầng kia e ta không đủ nhẫn nại, hoặc là đang khảo nghiệm ta, ta nhất định chờ được Sáng Thế Chủ đến”. Thời gian nhích từng chút trôi qua, cảm giác cô độc lại trào dâng, nước mắt ông cứ lặng lẽ tuôn rơi.

Sau này, có một số vị Thần núi hoặc các vị du Thần tản Tiên thường ghé qua chỗ ông, cùng ông trò chuyện cả ngày, nhờ vậy ông cũng hiểu hơn được một chút về những sự tình trong giới Thần tiên. Lại qua một đoạn thời gian nữa, cuối cùng ông cũng gặp được Sáng Thế Chủ, Sáng Thế Chủ căn dặn ông rằng tương lai khi Sáng Thế Chủ tại nhân gian hồng truyền Đại Pháp khiến sinh mệnh thật sự được đắc độ, Lý lão hán một khi đã có được thân người rồi thì nhất định phải bảo trì bản tính thiện lương, đến lúc ấy nhất định phải làm tốt những gì bản thân cần làm, cũng không được cô phụ chính bản thân mình đã phải trải qua vô số gian khổ trong hành trình đời đời đi tìm Pháp…

Đời này Lý lão hán chuyển sinh đến vùng Đông Bắc, từ nhỏ đã phải chịu rất nhiều khổ, trong hoàn cảnh gian khổ và khó khăn ông vẫn giữ được bản tính thiện lương, điều này đã tạo cơ sở rất tốt cho việc đắc Pháp. Sau khi đắc Pháp ông đã ra sức nỗ lực tu luyện vô cùng tinh tấn…

Đây chính là:

Vi liễu tầm Pháp lai Thái Hành
Tuyệt bích phàn nham nan trình tường
Kiên thủ tín niệm lai đẳng đãi
Kim triều đắc Pháp chính khí dương

Diễn nghĩa:

Vì đi tìm Pháp mà đến núi Thái Hành
Vách núi cheo leo lại có điềm may mắn
Kiên trì giữ vững tín niệm chờ đợi
Đời này đắc Pháp một trường chính khí

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/271297

The post Chân trời tìm Pháp: Thái Hành tuyệt bích first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với hũ tràhttps://chanhkien.org/2023/12/van-vat-deu-co-linh-noi-chuyen-voi-hu-tra.htmlFri, 01 Dec 2023 23:16:24 +0000https://chanhkien.org/?p=31964Tác giả: Chân Hàm [ChanhKien.org] Chồng tôi mang về nhà một hũ đựng trà rồi tiện tay để trên quầy bar đã một tháng rồi. Một hôm hũ sứ đựng lá trà nói với tôi: “Cô có thể viết về con được không?” Tôi nói: “Được, đợi một chút, ta viết xong bài ‘Nói chuyện […]

The post Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với hũ trà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Chân Hàm

[ChanhKien.org]

Chồng tôi mang về nhà một hũ đựng trà rồi tiện tay để trên quầy bar đã một tháng rồi. Một hôm hũ sứ đựng lá trà nói với tôi: “Cô có thể viết về con được không?”

Tôi nói: “Được, đợi một chút, ta viết xong bài ‘Nói chuyện với ấm trà’ rồi sẽ viết về ngươi”. Trong lúc giải lao, tôi mở hũ sứ ra và ngửi thấy mùi thơm dịu của lá trà. Hũ sứ nói: “Đây là một loại trà ngon”.

Trong lúc tôi đang viết bài, sinh mệnh phía trong của hũ trà thoát ra khỏi hũ, đó là một thiếu nữ có dáng vẻ đoan trang, thanh tú mặc bộ y phục màu đỏ. Tôi nói: “Ngươi rất đẹp đấy”. Nó có vẻ hơi thẹn thùng nhút nhát, nó hành lễ và nói lời chúc phúc với tôi rồi lặng lẽ đứng trước máy tính. Tôi phát hiện ra rằng đôi mắt của nó rất thông minh. Tôi đoán rằng nó đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn trong các kiếp trước. Rất nhanh sau đó, tôi bắt đầu trò chuyện với hũ sứ.

Hũ sứ nói: Con tên là Dục Tú, con có ký ức 5000 năm, con sẽ chọn chuyện quan trọng để nói với chủ nhân.

Tôi nói: Được đấy, ta cũng rất có hứng thú rồi đấy!

Dục Tú nói: Con sẽ không làm chủ nhân thất vọng, câu chuyện của con rất thú vị.

Tôi nói: Ta thích những câu chuyện ý nghĩa, thú vị và có nội hàm, như vậy mới xứng đáng với độc giả, với những ngày tháng đã trải qua, xứng đáng với những năm tháng lâu dài chờ đợi. Có lẽ ngươi đến đây cũng là vì có sứ mệnh mà tới. Ta có thể hiểu được ngươi. Ta hy vọng ngươi không phụ lời thệ ước.

Ôi trời! Tôi nhận thấy nước mắt của Dục Tú đang chảy dài trên khuôn mặt, tôi nói: “Ngươi đừng khóc nữa, ta không thể chịu được khi nhìn thấy nước mắt. Khi người khác khóc, trái tim ta cũng thổn thức đó”.

Dục Tú nói: Là do con đã cảm động đến rơi nước mắt, con chờ đợi ngày này đã rất lâu rồi, con nghĩ rằng không có cơ hội thì con sẽ không thể hoàn thành được sứ mệnh của mình.

Tôi nói: Được rồi, việc gì không quá quan trọng cũng không cần nói, chúng ta quay về chủ đề chính, hồi tưởng lại với những câu chuyện trong quá khứ của ngươi nhé!

Dục Tú nói: Kỳ thực con không chỉ có ký ức 5000 năm, mà con còn mơ hồ nhớ lại được một số sự việc từ thời kỳ khai thiên tịch địa.

Tôi nói: Có phải là những sự việc đã xảy ra trong thời kỳ hình thành tiểu vũ trụ của Bàn Cổ không? Những câu chuyện thời kỳ viễn cổ rất kỳ dị, chúng ta hãy nói chuyện một cách thoải mái nhé.

Dục Tú bắt đầu kể: Con nhớ khi đó con là một quả bầu hồ lô, treo trên dây leo của dàn bầu hồ lô, đung đưa trong gió, thính giác của con rất tốt, các âm thanh truyền trong gió con đều có thể phân biệt được.

Tôi hỏi: Có phải là quả bầu hồ lô đã tồn tại trong thời kỳ khai thiên tịch địa không?

Dục Tú nói: Đúng vậy, một vị Thần Tiên đã gieo hạt bầu, rồi thổi vào đó một luồng sinh khí, sau đó thì hạt bầu nảy mầm, mọc lá, nở hoa, kết thành trái bầu hồ lô, và chỉ kết duy nhất có một trái đó chính là con.

Tôi cười và nói đùa: Nói như vậy thì ngươi là tổ tiên của bảy anh em hồ lô, ngươi chính là quả hồ lô kỳ lạ.

Dục Tú nói: Có một vị Thần Tiên dùng con để đựng đan dược trong một thời gian rất dài. Sau đó có một vị Thần Tiên khác dùng con để đựng rượu, cũng được một thời gian rất lâu dài, rồi cuối cùng có một hôm con bị một con côn trùng nghiện rượu cắn thủng phía bên ngoài, vị Thần Tiên tiếc nuối đành mang con bỏ đi, con bị phong hoá rất nhanh. Sau đó con lại chuyển sinh, con chuyển sinh thành một cái chum sứ lớn dùng để trồng sen ở hoa viên phía sau phủ tể tướng, trong chum hoa sen có hai con cá chép Koi, vị tể tướng đó tên là Vương Đạo.

Tôi nói: Đó là thời kỳ Đông Tấn, Vương Đạo là người khai quốc ra triều đại Đông Tấn và là một nhân vật nổi tiếng, ngươi đã được đầu thai trong một gia đình quyền quý, kiếp đó chắc ngươi đã có một kiếp sống rất lâu.

Dục Tú nói: Đúng vậy, con cảm thấy dưới chân đế của con như có mọc rễ rất dài. Nói chung, kiếp đó con đã sống được 200 năm rồi sau đó bị đánh vỡ.

Tôi nói: Trong lịch sử có câu chuyện “Tư Mã Quang đập vỡ chum”, vì hành động của Tư Mã Quang mà sinh mệnh trong cái chum đó đã được chuyển sinh, không biết nó đã đi đâu. Nói chung, sinh mệnh lại có cơ hội thay đổi. Thực ra, khi một sinh mệnh bị tổn hại thì lại chính là cơ hội cho một sinh mệnh mới bắt đầu!

Dục Tú nói: Con lại chuyển sinh một lần nữa, lại trở thành một cái chum lớn, vẫn là một chum hoa sen, nhưng là ở trong cung điện hoàng gia, chính là trong cung điện của Trần Bá Tiên.

Tôi nói: Trần Bá Tiên rất xuất sắc, ông đã thành lập ra nhà Trần và là một vị hoàng đế khá thành công, đáng tiếc thời gian tại vị có phần ngắn ngủi. Con cháu của ông đã bị nhà Tùy tiêu diệt.

Dục Tú nói: Đúng vậy, đời sau của ông ấy, đặc biệt là Trần Hậu Chủ, hoang dâm vô độ, sủng ái kẻ gian nịnh, dẫn đến quốc gia suy vong. Khi quân Tùy công phá Kiến Khang, con đã tận mắt chứng kiến sự hoảng loạn của Hậu Chủ, ông cùng hai mỹ nhân trốn trong một cái giếng, và rất thảm hại khi bị binh sĩ quân Tùy kéo lên. Con đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng hoang đường của lịch sử này. Con còn nhìn thấy Tấn Vương Dương Quảng, toàn thân mặc quân phục, lúc đó trông ông ấy rất tuấn tú oai phong.

Tôi nói: Vào thời khắc ấy có thể nói rằng, ngươi đã nhìn thấy hai vị hoàng đế trong lịch sử.

Dục Tú nói: Nhưng lúc đó con cũng rất xui xẻo, có một cung nữ vì để tránh khỏi sự giằng co lôi kéo của quân lính nên đã đập đầu vào thân con mà chết, máu bắn tung tóe lên thân chiếc chum, điều đó làm con rất khó chịu.

Tôi nói: Ngươi nói Dương Quảng là người tuấn tú oai phong, chẳng lẽ ngươi đã soi thấu được nội tâm ông ấy rồi sao? Ngươi có thấy ham muốn dục vọng trỗi dậy trong ông ấy không?

Dục Tú nói: Đúng vậy, khi ông ấy nhìn thấy mỹ nữ, hai mắt sáng lên, ông ấy đã nảy sinh ý nghĩ muốn chiếm đoạt làm của mình.

Tôi nói: Con người ấy, chính là bị sự si mê dẫn động, nói chung, sự kết thúc của một triều đại, khi bước xuống khỏi vũ đài lịch sử đều là u ám và đồi phế suy tàn, và lại mở đầu cho sự trỗi dậy của một triều đại khác.

Dục Tú nói: Con lại nhanh chóng bị phá vỡ, như vậy con lại xuất lai ra, lại chuyển sinh thành một chiếc đĩa sứ, cô có biết Bí sắc sứ (*) không?

Tôi nói: Ta biết, đồ sứ ở triều đại nhà Đường, có sự phân chia từ trong quá trình sản xuất đồ gốm, phía Nam sản xuất sứ men xanh, phía Bắc sản xuất sứ men trắng, có câu nói “Nam Thanh và Bắc Bạch”. Trong sứ men xanh của phía Nam thì Bí sắc sứ vô cùng nổi tiếng, màu sắc của sứ giống như ngọc vừa ôn nhuận, lại mịn màng. Bạch Cư Dị đánh giá rất cao về Bí sắc sứ, ông cho rằng loại màu sắc này “đoạt được màu xanh biếc của núi non đại ngàn”.

Dục Tú nói: Con chính là chiếc đĩa sứ bí sắc, trên đó có đặt chiếc bình sứ bí sắc ở trong cung đình triều đại nhà Đường, dùng để chiêm ngưỡng. Sau này con được thưởng cho mẫu thân của Lý Thầm là bà Trịnh Thị, bà Trịnh Thị lại mang con thưởng cho con dâu là Triều Thị.

Tôi nói: Lý Thầm, chính là Hoàng đế Huyền Tông sau này!

Dục Tú nói: Khi đó thường xuyên thay đổi Hoàng đế, không ai nghĩ rằng Lý Thầm sẽ trở thành Hoàng đế.

Tôi nói: Đó là một vị Hoàng đế có thành tựu, đã chấn hưng triều đại nhà Đường.

Dục Tú nói: Sau này con bị một nha hoàn lỡ tay đánh vỡ, sau đó lại chuyển sinh thành một cái đĩa sứ.

Tôi nói: Có lẽ lúc ở trên Thiên Thượng, ngươi cũng là một đĩa ngọc cao quý phải không?

Dục Tú nói: Khi ở trên Thiên Thượng, con đã từng là một cái hộp đựng đồ trang điểm, trong đó đựng rất nhiều bảo bối, tất cả đều long lanh sáng chói, nào là vương miện lưu ly, nhẫn ngọc, dây chuyền vàng, trâm ngọc, khuyên tai, v.v. Sau đó con lại tiếp tục đầu thai thành một chiếc đĩa sứ, con đã ở trong dinh phủ của Chu Ôn vào cuối thời nhà Đường.

Tôi nói: Chu Ôn đã kết thúc triều đại nhà Đường và thành lập nhà Lương trong lịch sử, được gọi là “Nhà hậu Lương”, vợ của Chu Ôn rất xuất sắc. Hãy kể cho ta nghe về trải nghiệm của ngươi đi.

Dục Tú nói: Vợ của Chu Ôn là một người phụ nữ thực sự xuất sắc, bà ấy có thể kiểm soát chồng mình. Chu Ôn là một con Nghiệt Long trong thời kỳ loạn thế, còn vợ của ông ấy, mang số phận của Phượng Loan. Những vĩ nhân đó, có những sinh mệnh nguyên lai là ở tầng rất cao tổ thành sinh mệnh của họ, chẳng hạn như rồng, phượng trên Thiên Thượng.

Tôi nói: Chu Ôn đến nhờ cậy đội quân khởi nghĩa Hoàng Sào, sau này lại quy thuận nhà Đường, khi Chu Ôn được phong là Lương vương, vợ ông là Trương Huệ trở thành Lương vương phi, trong lịch sử bà cũng là một phi tần đức hạnh, người đời sau gọi bà là “Ngũ Đại đệ nhất hiền phi”.

Dục Tú nói: Khi Chu Ôn quy thuận nhà Đường, Trương Huệ là người đầu tiên được phong làm Vệ Quốc phu nhân, lúc đó con chính là tặng phẩm ban thưởng. Khi con được đưa vào Chu Ôn phủ, con đã nhìn thấy Trương Huệ. Nói về Trương Huệ, bà một nữ nhân xinh đẹp, khí chất anh kiệt toát lên giữa hai hàng lông mày, là người tướng mạo vượng phu ích tử. Đáng tiếc rằng sau khi bà ấy chết, Chu Ôn không có ai ước thúc ngăn cản, khi trở thành hoàng đế, ông biến thành một người khát máu và háo sắc, không ai dám khuyên can, hành vi tàn ác của Chu Ôn đã dẫn đến hoạ sát thân của chính ông ấy.

Tôi nói: Đây cũng là sự an bài của lịch sử. Ngươi lại một lần nữa tận mắt chứng kiến sự hưng suy của một triều đại, nhưng đáng tiếc là nó thăng trầm quá nhanh. Trong 50 năm cuối của triều đại nhà Đường, đã có năm chế độ chính trị lần lượt thay đổi, bách tính lầm than không kể xiết.

Dục Tú nói: Số mệnh của con cũng không tệ, sau này con được đưa vào cung đình nhà Tống.

Tôi nói: Trong lúc thời thế loạn lạc, con người còn khó có thể bảo toàn, nhưng ngươi lại có thể trải qua sáu triều đại một cách trọn vẹn, ngươi thực sự là có số mệnh phú quý.

Dục Tú nói: Kỳ thực con đã trải qua bảy triều đại, khi Bắc Tống bị Kim diệt, con được đưa đến Đông Bắc.

Tôi kinh ngạc nói: Ngươi đi tới phương Bắc, chắc là ngươi không quen với thời tiết phương Bắc, mùa đông lạnh run người phải không?

Dục Tú nói: Phương Bắc mùa đông rất lạnh, con thật sự không quen, mùa hè thì ngắn, mùa đông lại quá dài. Người Kim sau khi uống say thì đánh nhau, con bị đánh vỡ và xuất ra. Con không muốn nhanh chóng chuyển sinh, con muốn nghỉ ngơi một chút. Nhưng đúng là, “Thân bất do kỷ” (người tính không bằng trời tính), con không thể tự mình sắp đặt được số phận, con đã đầu thai thành một giá để nến mạ vàng và bị đưa vào doanh trại của người Mông Cổ, sau đó con được chuyển đến Bắc Kinh.

Tôi nói: Ngươi đã ở trong cung điện của Đại Đô, kinh đô của triều đại nhà Nguyên.

Dục Tú nói: Đúng vậy, con lại được vào cung đình, kỳ thực, con không muốn nhìn thấy những âm mưu tính kế ở đó. Con nghe nói những người ở đó âm mưu chống lại Văn Thiên Tường.

Tôi nói: Những điều ngươi nghe được không phải là những câu chuyện bình thường. Văn Thiên Tường là người cuối cùng bảo vệ vương triều, kỳ thực, sau thời gian ở trong ngục, ông ấy đã nhận được thọ ký từ một cao nhân và bước vào tu luyện, ông ấy đã nhìn thấu hết thảy mọi thứ ở thế gian, tất cả những gì là danh lợi, vinh hoa hay tình cảm đều không làm ông ấy động tâm. Cảnh giới tu luyện của ông đã rất cao.

Dục Tú nói: Theo con nhìn nhận, những khổ não của con người thế gian đều đến từ danh lợi, người như Văn Thiên Tường, thiên hạ hỏi có được bao nhiêu?

Tôi nói: Thực ra Văn Thiên Tường là vì để sáng tạo văn hóa mà tới thế gian.

Trong quá trình viết bài, tôi nghỉ ngơi một chút và làm một số công việc nhà. Tôi tự nghĩ: Trong thời gian này, tôi viết những câu chuyện về vạn vật có linh, tôi đã thực sự kết duyên với gốm sứ, kỳ thực tôi vẫn còn nhiều việc cần phải làm.

Dục Tú đi theo bên cạnh tôi và nói với tôi rằng: Thiên Thượng thương xót chúng sinh luân hồi trong khổ, chủ nhân dùng ngòi bút để bày tỏ ý nguyện của chúng sinh, tất cả chúng sinh đều rất cảm kích.

Tôi đã chính lại từng ý từng niệm của mình và thầm nghĩ: “Thời gian luân hồi của chúng sinh kỳ thực rất dài và cũng không hề dễ dàng”, và tôi lại tiếp tục viết.

Dục Tú nói: Sau thời kỳ nhà Nguyên, con bị nung làm cho tan chảy, con tự hỏi liệu mình có thể đầu thai thành sinh vật sống chỉ cần co chân là có thể chạy được hay không, thậm chí là làm một con kiến cũng được. Kết quả là điều con mong muốn vẫn không thể đạt được. Và con lại tiếp tục chuyển sinh, lần này con chuyển sinh thành chiếc trâm phượng cài trên đầu một người phụ nữ, chủ nhân có biết đó là người phụ nữ nào không?

Tôi nói: Ta không biết, ngươi nói xem sao!

Dục Tú nói: Chủ nhân có chút mệt rồi, con không nói vòng vo nữa, cô có biết về Mã Đại Cước không?

Tôi nhìn Dục Tú và nói: Đó có phải là Mã hoàng hậu không?! Bà là vợ cả của Chu Nguyên Chương, và là người rất nổi tiếng! Bà là một phụ nữ dù ở trong phú quý cũng không quên cội nguồn của mình, là một vị Hoàng hậu hiền đức.

Dục Tú nói: Đúng vậy, con ở trên đầu của bà ấy, quan sát từng tư từng niệm của bà, bà thật sự là một người phụ nữ hiền thục đức hạnh.

Tôi nói: Ta hỏi ngươi một chuyện, ngươi đã từng nhìn thấy Chu Nguyên Chương, ngươi hãy mô tả về một chút về ông ấy. Hậu thế có những bức họa vẽ về ông ấy rất xấu!

Dục Tú nói: Chu Nguyên Chương có dáng vẻ biểu hiện ra là một nhân tài, nhưng tính tình xấu xa, rất đa nghi, ông rất sợ thế hệ sau của mình không giữ được thiên hạ, quan đại thần bị ông ấy giết chết không ít, ông là một người bạo lực.

Ta nói: Ta nhìn thấy ngươi bị Mã hoàng hậu ban thưởng cho Yên vương phi, nhưng không bị tuỳ táng theo, thật là chúc mừng ngươi!

Dục Tú nói: Yên vương phi là trưởng nữ của đại tướng Từ Đạt, là một người phụ nữ xuất sắc, là một người vợ hiền thảo của Yên vương, người phụ nữ này nếu là nam nhân thì sẽ là một nhân tài có thể dùng tài năng văn võ để an bang trị quốc.

Tôi nói: Thiên thượng đã an bài cho cô ấy trở thành Yên vương phi, sau đó lại trở thành hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ, giúp đỡ phu quân, đây là kịch bản trong kiếp nhân sinh của cô ấy! Theo ghi chép lịch sử, Chu Doãn Văn đã phái Lý Cảnh Long dẫn 10 vạn đại binh đến bao vây Bắc Bình, Yên vương phi đã dẫn theo phụ nữ trong thành và hơn một vạn quân đội để bảo vệ Bắc Bình, tranh thủ thời gian quý báu chờ Yên vương quay lại tiếp viện, thật là xuất sắc.

Dục Tú kể: Sau khi quân của Lý Cảnh Long bị đánh bại, khi Yên vương gặp mặt Từ phi, hai người họ rất xúc động, Yên vương nắm chặt tay phi tử, và khen ngợi nàng: “Nàng là nữ nhi khăn gấm nhưng lại không thua kém nam tử mày râu”. Từ phi nói: “Phu phụ là một, vinh nhục cùng hưởng, thiếp chỉ mong bảo vệ được thành trì và trợ lực giúp phu quân”. Khi hai người họ nói chuyện với nhau con rất cảm động. Cả hai người này đều thật xuất sắc, cô nói xem, ở một thời đại vĩ đại như thế, con đã gặp được một cặp phu thê vĩ đại như vậy, thật là vinh hạnh!

Tôi cười và nói: Đúng vậy, lúc Từ phi chưa xuất giá, nàng đã rất giỏi cách bài binh bố trận, nổi tiếng là một phụ nữ tài hoa, ngươi có biết tên thời con gái của nàng không?

Dục Tú nói: Từ phi có tên là Từ Tuyết Oánh, tiểu danh là A Trinh. Sau khi Yên vương xưng đế, con được Từ hoàng hậu ban cho thái tử phi Trương thị, người phụ nữ đó cũng không tầm thường! Sau này cô ấy trở thành Trương hoàng hậu, và Trương hoàng hậu lại đem trâm phượng tặng cho Thái tử phi Hồ Thiện Tường, chính là người sau này trở thành Hồ hoàng hậu. Đáng tiếc là, Hồ hoàng hậu không có con và bị Tôn quý phi dùng quỷ kế ép thoái vị. Sau khi thoái vị, Hồ thị cảm thấy rất đau khổ, cô ấy đã có lúc ôm con mà rơi lệ. Sau đó con đã bị đánh cắp và bị dung hoá tan chảy.

Tôi nói: Xem ra chiếc trâm phượng này là tín vật do mẹ chồng Vương triều Chu Minh tặng cho con dâu. Hồ thị là do khi sau khi Tư Thiên Quan quan sát Thiên tượng tại Tế Hà, hoàng thất đã chọn ra một Thái tử phi, bà trở thành hoàng hậu, nhưng vì không có con nối dõi, nên hoàng đế đã sủng ái quý phi và yêu cầu hoàng hậu thoái vị, do vậy hoàng hậu cũng bất lực không có cách nào nữa cả!

Dục Tú nói: Con nhìn thấy vui buồn hợp tan đã quá nhiều nên không còn để tâm nữa. Trong dòng chảy dài đằng đẵng của sinh mệnh không có gì là dễ dàng cả. Từ đời này sang đời khác, những danh lợi, tình, thù, nếu như không coi nhẹ thì sẽ mãi mãi luân hồi trong đau khổ, chỉ những sinh mệnh đã minh bạch mới sáng tỏ được những điều này.

Tôi nói: Sau này ngươi lại chuyển sinh thành gì nữa?

Dục Tú nói: Tiếp theo con vẫn chuyển sinh thành một cái chum lớn, nhiều lần đều chuyển sinh thành cái chum, bao gồm có chum nước, chum muối dưa chua, chum đựng tương, chum làm đậu lên men, chum cá, con không thích nhất là chum chứa đậu phụ lên men vì con không thích mùi vị đó. Lần gần đây nhất là cách đây nửa năm, khi đó con chuyển sinh thành đồ sứ đựng trà.

Tôi cười và nói: Và khi đó duyên phận giữa ta và ngươi đã bắt đầu rồi.

Dục Tú nói: Thật không hề dễ dàng gì, có thể gặp được nhau là do duyên phận, con rất vui mừng.

Tôi nói: Những vật phẩm đó là để cung cấp cho con người sử dụng, nhưng nguồn gốc của chúng cũng không hề tầm thường. Nguồn gốc của một số sinh mệnh là ở trên Thiên Thượng, cho dù có chuyển sinh thành đồ vật trên trái đất thì cũng chuyển sinh thành sản phẩm cao cấp, ta thấy sinh mệnh của ngươi cũng có khuynh hướng như vậy.

Dục Tú nói: Đúng vậy, trải qua năm tháng lâu dài, có lúc con cũng cảm thấy nhàm chán. Được kể lại trải nghiệm của mình với chủ nhân, con chợt thấy cuộc đời mình không hề lãng phí một cách vô ích, và con cũng cảm thấy hành trình sinh mệnh của mình thật đáng giá!

Tôi nói: Vạn vật sinh ra tất thảy đều có chức năng của nó. Sinh mệnh vô luận là lớn hay nhỏ, cuộc sống cũng đều sẽ có trải nghiệm, thật thú vị khi ngươi đã kể cho ta nghe về cuộc đời của mình. Sinh mệnh của ngươi cũng là đến từ Thiên Thượng, ta hy vọng tương lai ngươi có thể trở lại Thiên Thượng.

Dục Tú bày tỏ cảm tạ đối với tôi, câu chuyện về Dục Tú tôi cũng đã viết xong, hy vọng độc giả sẽ yêu thích bài viết này, cũng là không uổng tâm nguyện mong ước của Dục Tú.

(*):Theo hiểu biết của người dịch, “Bí sắc sứ” là loại cống phẩm sứ men xanh nổi tiếng, thường chỉ có các thành viên trong hoàng thất mới được sử dụng. Sở dĩ mang tên Bí sắc sứ vì kỹ thuật chế tác, tráng men được giữ bí mật rất kỹ và không nhiều người được biết đến loại sứ này.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/286012

The post Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với hũ trà first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Dương Liễu Quán Âmhttps://chanhkien.org/2023/11/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-duong-lieu-quan-am.htmlMon, 27 Nov 2023 02:34:26 +0000https://chanhkien.org/?p=31927Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Tương truyền rằng: Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, Dương Liễu Quán Âm là một trong số đó. Vào một ngày, Quan Âm Bồ Tát nghe nói khu vực Trung Châu dân chúng đạo đức bại hoại, bách tính ngu muội vô tri, tham tài háo lợi. Bồ […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Dương Liễu Quán Âm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Tương truyền rằng: Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, Dương Liễu Quán Âm là một trong số đó.

Vào một ngày, Quan Âm Bồ Tát nghe nói khu vực Trung Châu dân chúng đạo đức bại hoại, bách tính ngu muội vô tri, tham tài háo lợi. Bồ Tát từ bi quyết định đi hoá độ những kẻ ngu muội đó.

Quan Âm Bồ Tát cưỡi mây đến núi Thái Thất ở vùng Trung Châu. Vào đêm đó, bà báo mộng cho bách tính địa phương rằng ngày mai Quan Âm Bồ Tát sẽ đi qua đây, điểm hóa người hữu duyên, giải cứu bách tính khỏi khổ nạn.

Ngày hôm sau, người dân địa phương xôn xao về giấc mộng tối qua, phát hiện mọi người đều mơ cùng một giấc mơ. Cho nên mọi người đều rất hy vọng chờ đợi sự xuất hiện của Quan Âm Bồ Tát. Mỗi lần nhìn thấy một người lạ, họ đều đến hỏi thăm, xem có phải là Quan Âm Bồ Tát hóa thân không. Nhưng điều làm mọi người thất vọng là không có ai là Quan Âm Bồ Tát cả.

Hóa ra, Quan Âm Bồ Tát hóa thành một bà lão nghèo khổ đi ăn xin dọc đường, không một ai chú ý đến bà.

Khi đó vùng đất Trung Châu khô hạn, mùa màng khô héo, người dân rất thiếu thốn lương thực. Quan Âm Bồ Tát hóa thành bà lão ăn xin đến rất nhiều nhà mà đều không xin được chút gì ăn, bà không nén được than rằng: “Hạn hán quả thực là thiên tai nhưng đó cũng là kết quả do chính con người gây ra”. Vừa hay có một ông lão tên là Lưu Thế Hiển nghe thấy tiếng than của Bồ Tát, ông liền động tâm, thầm nghĩ: “Lẽ nào lão phu nhân này chính là Quan Âm Bồ Tát?” Cho nên ông đến trước hỏi: “Bà lão, bà nói rất có đạo lý, ý của bà là vì người ở đây không nhất tâm hướng thiện nên mới gây ra thiên tai như thế này phải không. Nếu từ giờ trở đi, mỗi người đều tích đức hành thiện, sửa chữa sai lầm, thì thiên tai hôm nay có thể cứu được nữa không?”

Bồ Tát cười nói: “Ông Trời là nhân từ nhất, phúc thiện còn hơn trừng phạt cái ác gấp ba lần. Chỉ cần mọi người thành tâm sửa đổi, ông Trời sẽ nhìn thấy”. Lưu Thế Hiển nghe Bồ Tát điểm hóa, liền quỳ xuống bái lạy nói rằng: “Đa tạ Quan Âm Bồ Tát điểm hóa. Giờ đệ tử đã hiểu ra, xin Bồ Tát phát đại từ bi, thi triển pháp lực giáng mưa xuống. Đệ tử nguyện xây miếu thờ phụng Bồ Tát và khuyên mọi người quy y cửa Phật”.

Quan Âm Bồ Tát nói: “Hiếm có người một lòng thành tâm thay chúng sinh cầu xin như ngươi. Canh ba giờ ngọ ngày mai, ta sẽ hiện hóa chân thân và làm phép cho mưa xuống. Nhờ ngươi đi nói với bách tính ở đây, đến lúc đó sẽ được chứng kiến”. Lưu Thế Hiển vái thêm ba lạy thì Bồ Tát đã lặng lẽ biến mất.

Lưu Thế Hiển kể chuyện đã gặp Bồ Tát với mọi người, Mọi người nghe nói bà lão ăn xin là Bồ Tát, đều bán tín bán nghi, chỉ mong đến canh ba giờ ngọ để xem kết quả.

Ngày hôm sau, gần đến giờ ngọ, trên đỉnh núi Thái Thất có một đám mây trắng, mây trắng tản đi, Quan Âm Bồ Tát hiện ra chân thân. Chỉ thấy Bồ Tát thân dát vàng cao sáu thước, đầu đội mũ gấm, mặc áo cà sa, đôi chân trần, trong tay cầm một chiếc bình dương chi bạch ngọc, trong bình có nước cam lộ và cành liễu. Mọi người nhìn thấy vội vàng cúi lạy, miệng niệm pháp hiệu: “Đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát”. Quan Âm Bồ Tát từ trong bình lấy ra cành dương liễu, nhúng vào nước cam lộ, nhẹ nhàng rắc xuống đồng ruộng, hình ảnh của bà cũng dần dần biến mất. Chẳng mấy chốc, mưa như trút nước kéo dài nửa giờ mới tạnh.

Từ đó trở đi, vùng đất Trung Châu không ai không tin Phật Pháp, Lưu Thế Hiển quyên tiền xây miếu trên núi Thái Thất, thờ cúng Bồ Tát Quan Âm tay cầm bình dương liễu.

Hiện thân của Quan Âm Bồ Tát lần này được gọi là Dương Liễu Quán Âm.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52061

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Dương Liễu Quán Âm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của núi Lệ Sơnhttps://chanhkien.org/2023/11/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-nui-le-son.htmlSun, 26 Nov 2023 02:26:33 +0000https://chanhkien.org/?p=31923Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Ở Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc có một ngọn núi tên là Lệ Sơn. Theo truyền thuyết dân gian ngọn núi này là do một Tiên nữ hóa thành. Tương truyền thời xa xưa khi trời đất sụp đổ, bách tính gặp nạn, lão mẫu của Thiên Thần […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của núi Lệ Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Ở Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc có một ngọn núi tên là Lệ Sơn. Theo truyền thuyết dân gian ngọn núi này là do một Tiên nữ hóa thành.

Tương truyền thời xa xưa khi trời đất sụp đổ, bách tính gặp nạn, lão mẫu của Thiên Thần Lệ Sơn mang theo hai người con gái xuống hạ giới để luyện đá vá trời.

Lão mẫu cùng con gái lớn luyện đá, con gái nhỏ hóa thành một con thiên mã cõng mẹ và chị bay lên bay xuống. Cuối cùng khi đã vá trời xong, thì lại có một con rồng đen từ đống đất đá chui lên, tạo ra hồng thủy nhấn chìm mặt đất. Lão mẫu cùng hai người con gái lại chế ngự được ác long, cứu giúp con người. Sau đó, họ bắt đầu luyện đá vá đất.

Sau khi vá kín mặt đất, người con gái nhỏ vì quá kiệt sức, không kịp trở về diện mạo ban đầu nên đã nằm trên đất nghỉ ngơi. Khi tỉnh dậy, nhìn thấy bốn phương non xanh nước biếc, cảnh vật thanh nhã cô liền quyết định ở lại đây. Cô biến thành một ngọn núi cao, hình tượng giống như một con ngựa đen xinh đẹp nằm tại nhân gian. Đây chính là núi Lệ Sơn.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52457

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của núi Lệ Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của suối Tam Nhãnhttps://chanhkien.org/2023/11/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-suoi-tam-nhan.htmlFri, 24 Nov 2023 03:30:48 +0000https://chanhkien.org/?p=31912Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Thời Tam Quốc, có một ngọn núi ở huyện Di Đạo thuộc quyền quản lý của nước Thục (phía Tây Bắc huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), trên núi không có nguồn nước nên cư dân sống ở núi đó phải đi rất xa gánh nước về. Một […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của suối Tam Nhãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Thời Tam Quốc, có một ngọn núi ở huyện Di Đạo thuộc quyền quản lý của nước Thục (phía Tây Bắc huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), trên núi không có nguồn nước nên cư dân sống ở núi đó phải đi rất xa gánh nước về.

Một ngày, trong thôn dưới chân núi có một người ăn xin quần áo rách rưới, tướng mạo khó coi, toàn thân nổi mụn. Anh ta đến từng nhà xin ăn, người trong thôn đều rất ác cảm với anh ta, chỉ có một người phụ nữ nghèo không ghét bỏ anh ta, cho anh ta đồ ăn.

Người ăn xin vô cùng cảm tạ người phụ nữ nghèo, nói rằng: “Tôi vô cùng cảm kích hành động của cô nên muốn báo đáp cô, cô có cần cái gì không?” Người phụ nữ trả lời: “Tôi không cần cảm tạ gì cả. Huống hồ thứ tôi cần cũng không phải là thứ anh có thể cho được”. Người ăn xin liền hỏi cô ấy rốt cuộc cần thứ gì, người phụ nữ nói: “Tôi chỉ hy vọng rằng trong thôn này sẽ có nước để dùng”.

Người ăn mày nghe xong, lập tức rút bộc đao ra đâm ba nhát xuống dưới chân núi. Trong phút chốc, từ ba nơi này nước suối ồ ạt chảy ra. Ngay sau đó người ăn xin biến mất. Người phụ nữ mới minh bạch, hóa ra đã gặp được Thần Tiên.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52028

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của suối Tam Nhãn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Mỹ ngọc cứu chủhttps://chanhkien.org/2023/11/truyen-thuyet-dan-gian-my-ngoc-cuu-chu.htmlThu, 23 Nov 2023 02:50:48 +0000https://chanhkien.org/?p=31906Tác giả: Đệ tử Đại Pháp thuật lại, đồng tu chỉnh lý [ChanhKien.org] Cổ nhân có thói quen đeo ngọc, nam thì đeo ngọc ở thắt lưng, nữ thì làm thành vòng tay đeo ở cổ tay. Vì sao người xưa lại có sự yêu thích đặc biệt đối với ngọc như vậy, có một […]

The post Truyền thuyết dân gian: Mỹ ngọc cứu chủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp thuật lại, đồng tu chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Mỹ Ngọc cứu chủ (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Cổ nhân có thói quen đeo ngọc, nam thì đeo ngọc ở thắt lưng, nữ thì làm thành vòng tay đeo ở cổ tay. Vì sao người xưa lại có sự yêu thích đặc biệt đối với ngọc như vậy, có một số loại ngọc thậm chí còn được xem là vô giá? Cũng có rất ít người biết giá trị đích thực của ngọc.

Vào thời Trung Hoa Dân Quốc, có một người đàn ông quen sống xa hoa, trên lưng ông có đeo một viên mỹ ngọc do tổ tiên truyền lại. Đó là một khối ngọc thuần khiết không tì vết, sáng lấp lánh. Mặt trước của viên ngọc có khắc hình hai con cá nhìn hết sức sống động và trông chúng cũng rất tự do tự tại.

Người đàn ông họ Lý, chúng ta hãy gọi ông ấy là Lý tiên sinh. Một hôm khi Lý tiên sinh đang đi loanh quanh trên phố thì gặp một người Nhật. Người Nhật này nhìn thấy viên ngọc của Lý tiên sinh thì vô cùng yêu thích, ông ta sẵn lòng trả 5000 lạng bạc để mua lại mỹ ngọc. Lý tiên sinh vốn không thiếu tiền và cũng không đồng ý bán; nhưng lại bắt đầu cảm thấy hứng thú với viên mỹ ngọc này.

Lại có một hôm Lý tiên sinh đang uống rượu ở tửu lâu thì có người đánh nhau dẫn đến trận xô xát, đám đông bắt đầu chen lấn, xô đẩy nhau. Lý tiên sinh bị chèn hất ra khỏi cửa sổ tầng ba, bên dưới là vỉa hè bằng đá cứng. Lý tiên sinh bị hất xuống nhưng không bị thương, ông cảm thấy mình như rơi lên một cái gì đó rất mềm mại nên thân thể không bị thương tổn. Lý tiên sinh đứng dậy xong, phủi phủi bụi trên người, nhìn lại viên ngọc thì thấy nó vẫn còn nguyên không bị vỡ. Điều kỳ lạ là một trong hai con cá được khắc trên ngọc đã thay đổi hình dạng và nó trông như một con cá chết, trong khi con cá còn lại nhìn vẫn sống động phi thường.

Sau này vị người Nhật nọ gặp lại Lý tiên sinh, Lý tiên sinh đã kể cho ông ấy nghe về trải nghiệm của mình. Vị người Nhật bảo rằng viên mỹ ngọc đã cứu mạng chủ nhân. Ngọc cũng có sinh mệnh, sau khi cứu Lý tiên sinh xong nó chỉ còn một nửa mạng sống (tức là còn lại một con cá). Viên ngọc này hiện giờ chỉ có giá trị 2500 lạng. Sau khi Lý tiên sinh biết được điều ấy đã một lần nữa từ chối yêu cầu mua ngọc của vị người Nhật.

Rất nhiều đệ tử Đại Pháp đắc Pháp trước năm 1999 đều biết rằng đóa sen ở bìa sau cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” lúc mới mua sách vẫn chưa nở, cành sen cũng không thẳng lắm. Hôm nay nhìn lại, hoa sen trên sách đã nở rộ, cành hoa cũng vươn lên thẳng tắp.

Tất cả vật chất đều có mặt sinh mệnh của nó, chỉ là con người không biết mà thôi.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/264199

The post Truyền thuyết dân gian: Mỹ ngọc cứu chủ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Chuyện cổ về vách núi Xả Thânhttps://chanhkien.org/2023/11/truyen-thuyet-dan-gian-chuyen-co-ve-vach-nui-xa-than.htmlTue, 21 Nov 2023 23:33:02 +0000https://chanhkien.org/?p=31904Tác giả: Sơn Minh [ChanhKien.org] Trên núi Thái Sơn có một vách núi gọi là Xả Thân, về nguồn gốc của tên gọi này có rất nhiều giả thuyết, nhưng trong dân gian lại lưu truyền một câu chuyện như sau: Dưới chân núi Thái Sơn có một gia đình có hai cha con sống […]

The post Truyền thuyết dân gian: Chuyện cổ về vách núi Xả Thân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Sơn Minh

[ChanhKien.org]

Trên núi Thái Sơn có một vách núi gọi là Xả Thân, về nguồn gốc của tên gọi này có rất nhiều giả thuyết, nhưng trong dân gian lại lưu truyền một câu chuyện như sau:

Dưới chân núi Thái Sơn có một gia đình có hai cha con sống nương tựa vào nhau. Họ đều thật thà, lương thiện, tấm lòng đôn hậu, chỉ là người con tính tình rất bướng bỉnh. Khổ nỗi vì gia đình bần hàn nên người con vẫn chưa lấy được vợ.

Năm đó gần đến tết, hai cha con đi chợ mua sắm ít đồ tết, đột nhiên họ thấy trước mặt một đám đông vây quanh, lại nghe thấy tiếng khóc thút thít, khi họ đi tới nhìn thì thấy một cô gái xinh đẹp đang quỳ dưới đất, nước mắt lưng tròng, trước mặt cô gái viết mấy chữ đập vào mắt ‘’Bán mình chôn mẹ”. Trong tiết trời đông tháng 12 âm lịch, cô gái mặc bộ y phục mỏng manh, run lẩy bẩy vì lạnh.

Nhìn thấy cảnh tượng này, hai cha con chợt sinh lòng thương hại, nghĩ đến khi người thân ra đi, họ cũng không một xu dính túi, nhờ sự giúp đỡ của những người hảo tâm nên người thân mới được chôn cất. Hai người đàn ông lấy số tiền tiết kiệm ít ỏi của mình đặt trước mặt cô gái rồi quay người bỏ đi. Cô gái đứng dậy đuổi theo hai người, nhưng trong đám đông náo nhiệt đã không thấy bóng dáng của họ đâu nữa. May mắn thay, có người biết hai người đó và bảo cho cô biết, cô gái ghi nhớ trong tâm rồi về nhà chôn mẹ.

Một ngày nọ, dưới chỉ dẫn của dân làng, cô gái đến cảm ơn và muốn thực hiện lời hứa bán thân nhưng hai cha con không đồng ý, khi các trưởng bối trong thôn biết chuyện, họ cảm động làm mai mối, kết duyên cho hai người, chàng trai cùng cô gái bái lạy trời đất và trở thành vợ chồng.

Năm đó mùa màng thất bát, nhiều người trong thôn rủ nhau đi làm ăn xa, chàng trai cũng đi theo. Một năm trôi qua nhanh chóng, lại đến một mùa đông lạnh giá, người cha chân bị phong hàn, năm nay dường như càng nặng hơn, người con dâu thấy vậy liền sưởi ấm giường trước rồi mới để bố chồng nằm ngủ, người cha vô cùng cảm kích.

Không ngờ những kẻ lòng dạ bất chính trong làng lại tung tin đồn con dâu không làm theo nữ tắc, tin đồn lan truyền nhanh chóng. Không lâu sau, tin đồn truyền đến tai người con trai, chàng trai không chịu được sự kỳ thị tủi nhục không hỏi rõ trắng đen liền quyết định ly hôn với vợ.

Hôm đó, có người trở về trước nói rằng chàng trai ngày mai sẽ về đến nhà, cũng bí mật nói với người cha về việc người con trai định ly hôn vợ, cô con dâu cũng đã nghe thấy.

Nhân duyên trắc trở, mây đen che mặt trời, mưa gió ập đến, bố chồng sinh tâm sầu khổ, nghĩ đến người con trai vô phúc kết nhân duyên này, nghĩ đến những tin đồn đau lòng lại càng nức nở nghẹn ngào.

Người con dâu lại thêm dằn vặt, biết đi đâu về đâu bây giờ, thật khó để tốt cho cả hai. Suy xét trước sau, chủ ý đã định, người con dâu an ủi bố chồng không cần đau buồn như vậy, rồi nói với bố chồng, ngày mai khi chồng về đến nhà bố hãy nói với anh ấy rằng nếu tin vợ vô tội thì trước khi mặt trời lặn hãy đi đến vách đá đó để tìm cô.

Ngày hôm sau, người con trai về nhà muốn tra hỏi vợ thì người cha nói rằng vợ đã lên núi và thúc giục con trai đi tìm con dâu về. Người con trai tưởng vợ làm như vậy để tránh bị trách hỏi, liền trở nên ương ngạnh, giận dỗi không chịu nghe lời bố, khiến người cha rất đau lòng.

Khi cơn hờn dỗi ngoan cố dần lắng xuống, người con trai bắt đầu lo lắng, lúc này mới vội vã lên núi tìm vợ. Đoạn đường dốc ngoằn ngoèo uốn lượn, mặt trời dần dần xuống đến gần đỉnh núi, chàng trai vội vàng chạy nhanh, khi chàng trai vòng qua khúc quanh núi kịp đến nơi thì đúng lúc mặt trời lặn xuống đỉnh núi, chỉ nhìn thấy một bóng người nhảy từ vách đá xuống. Chàng trai hét to gọi vợ nhưng đã quá muộn.

Nhưng khi bóng người vừa rơi xuống giữa chừng không, đột nhiên có một con hạc xuất hiện đỡ lấy người con dâu, bên trên xuất hiện những đám mây cát tường ngũ sắc bay lơ lửng, con hạc cõng người con dâu bay thẳng lên mây rồi dần dần biến mất.

Sau này, để tưởng nhớ người con dâu đã xả thân vì nghĩa, người ta đã đặt tên cho vách đá này là vách đá Xả Thân.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/50895

The post Truyền thuyết dân gian: Chuyện cổ về vách núi Xả Thân first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (3)https://chanhkien.org/2023/11/luan-hoi-ky-su-kiep-nay-tu-duyen-3.htmlMon, 20 Nov 2023 23:13:35 +0000https://chanhkien.org/?p=31896Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Sau khi ra khỏi nhà chị dâu, tôi chạy về hướng Tây, vì đã quá mệt nên tôi dừng lại nghỉ ngơi một chút. Vừa hay chỗ này có một con suối nhỏ, cũng đang vào đúng giờ nấu cơm chiều. Có một người con gái chừng hơn 20 tuổi […]

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Sau khi ra khỏi nhà chị dâu, tôi chạy về hướng Tây, vì đã quá mệt nên tôi dừng lại nghỉ ngơi một chút. Vừa hay chỗ này có một con suối nhỏ, cũng đang vào đúng giờ nấu cơm chiều. Có một người con gái chừng hơn 20 tuổi đang vo gạo, nhìn lên bầu trời tôi chìm đắm trong suy nghĩ. Đúng lúc này, một nhóm cường đạo từ đâu xuất hiện, chúng không ngừng nói muốn bắt người con gái đó về sơn trại làm phu nhân. Tôi chẳng quản mệt nhọc vội vàng chạy đến trước mặt cô gái đó đứng ra ngăn cản. Nhưng nhóm cường đạo đó xác thực là có chút lợi hại nên tôi không còn cách nào, đành phải cõng người con gái đó trên lưng, vận dụng một chút công năng, trong “36 kế sách, chạy là thượng sách”, tôi liền hóa thành một làn khói, trong chớp mắt đã bỏ xa đám đạo tặc không còn chút dấu vết. Khi cảm thấy đã thực sự an toàn, tôi mới đặt cô gái xuống và dặn dò an ủi cô ấy: “Đã làm cho cô nương hoảng sợ rồi, thân là nữ nhi, cô nương sau này phải hết sức chú ý, đã đến lúc tại hạ phải đi rồi”. Không ngờ cô ấy lại nói: “Huynh đưa tôi đến đây, làm sao tôi có thể tự mình quay về được?! Huynh đã làm người tốt thì làm đến cùng được không, phiền huynh cõng tôi về nhà!” Tôi nghĩ bụng “Ái chà, thật là phiền phức!”

Khi trời đã rất khuya tôi mới cõng cô ấy về đến nhà, trong nhà cô ấy chỉ có một người mẹ già. Cô gái này rất nhiệt tình và vội vàng giới thiệu: “Đây là La ma ma, tôi từ nhỏ vốn không có cha mẹ, là La ma ma tốt bụng nhận nuôi tôi, coi tôi như là con gái ruột của bà”. La ma ma nghe vậy liền nói: “Con bé là một đứa trẻ tội nghiệp, từ nhỏ không có cha mẹ, thân già này tuổi đã cao rồi, vì cậu đã cứu mạng con bé, nên ta tính giao phó con bé cho cậu, cậu thấy thế nào?” La ma ma hỏi dò, cô gái lập tức đỏ mặt, giọng mang chút quở trách nói: “La ma ma…..tạm thời đừng nhắc đến chuyện này, mời ân công vào nhà ăn cơm đã rồi có gì hãy nói”. Cô gái nói xong thì quay người bước vào nhà bắt đầu chuẩn bị đồ ăn.

Lúc đó, tôi nhớ lại điều Sư phụ từng nói về việc tôi sắp gặp một cô gái bên bờ suối nhỏ. Thế là tôi hỏi: “Xin hỏi La ma ma, tiểu thư nhà ta đã từng có nốt ruồi đen trên trán hay không, hình như con không nhìn thấy nó?”, “Phải rồi, con gái nhà ta vốn dĩ là có một nốt ruồi đen trên trán. Sau này vì lúc nhỏ chơi ở bên ngoài không cẩn thận bị ngã trầy da, khi vết thương lành lại thì nốt ruồi đen này cũng biến mất”. “Vậy nhà bà có hai con ngỗng lớn nữa, sao con không nghe thấy chúng kêu?”, “Đừng nhắc đến nữa, hai con ngỗng lớn đó hôm trước lúc ta thả chúng ra, trong lúc không để mắt đến đã bị xe qua đường cán chết mất rồi. Bây giờ thịt ngỗng vẫn còn đang ở trong nồi, hai mẹ con ta vẫn chưa ăn hết. Cậu đến thật vừa khéo, chúng ta cùng ăn cho hết nhé!”, “La ma ma, ma ma còn nói gì nhiều thế vậy! Cơm đã nấu xong rồi, chúng ta mời ân công cùng ngồi xuống ăn cơm đi!” Cô gái ở trong nhà gọi lớn vọng ra.

Vào trong nhà, cô gái vừa mời tôi ăn món thịt ngỗng vừa hỏi thăm hoàn cảnh gia đình tôi. Tôi có sao nói vậy, kể lại một lượt về mình. Được một lúc, La ma ma hỏi: “Làm sao cậu biết con gái ta có nốt ruồi đen trên trán, và trong nhà còn có hai con ngỗng lớn?” Tôi mỉm cười nói: “Xem ra đúng là thiên ý, năm đó khi con học Đạo, Sư phụ nói với con, bảo con thành thân với cô gái có nốt ruồi đen trên trán và trong nhà cô có hai con ngỗng lớn, ông nói rằng đó là để hoàn thành lời hứa của ông. Con không biết lời hứa đó là gì”. “Sư phụ con đã nói như vậy, xem ra cơ duyên đã đến rồi, các con thành thân tại đây đi. Con gái, con có nguyện ý hay không?” “Dạ”.

Chuyện xảy ra sau này nói ra thì dài, ở đây tôi chỉ kể vắn tắt lại. Vào một buổi sáng sớm nửa năm sau ngày cưới, vừa ra cổng thì tôi nhìn thấy một gói đồ ở trước cửa. “Là ai làm rơi vậy nhỉ?”, tôi vừa nghĩ vừa nhặt nó vào trong nhà, mở ra thì thấy hóa ra là hai bộ quần áo trẻ con, nhìn rất mềm mại, trẻ con khoảng bốn, năm tuổi mặc vừa. Khi vợ tôi nhìn kỹ thì thấy hình như đây không phải là y phục bình thường. Nhưng chẳng hiểu sao, lúc đó tôi cũng không nhìn ra nguyên cớ gì. Tối hôm đó, khi chúng tôi vẫn chưa thắp đèn thì phát hiện hình như y phục này có thể phát ra ánh sáng vàng hết sức êm dịu (bản thân y phục này cũng là màu vàng kim).

Do bản thân đang bị truy sát nên tôi không thể ở lại đây lâu được, nên đi đâu đây? Khi chúng tôi đang lúc lo lắng thì tứ tỉ tìm đến. Tỉ ấy rất cao hứng khi thấy tôi đã lấy vợ, thế là tỉ đưa chúng tôi đến nhà chị dâu cả để ở tạm, trên đường đi chúng tôi bị mấy cao thủ trong giang hồ truy sát, nhưng điều kỳ lạ là khi họ đến gần chúng tôi thì hai bộ y phục đó lại phát ra năng lượng rất lớn khiến họ sợ hãi bỏ chạy mất!

Chúng tôi ở nhà chị dâu tổng cộng được năm năm, trong khoảng một năm đầu sống ở đây, vợ tôi sinh hạ được hai đứa con (một trai và một gái), sau này khi hai đứa trẻ lớn lên mới có thể mặc được hai bộ y phục nhỏ đó. Chúng tôi dường như chợt hiểu ra rằng hóa ra sự kết hợp của hai người chúng tôi là vì hai đứa trẻ này! Để chúng có thể ở đây mà đắc được thân người, và từ đó đặt định một ra một nền văn hóa.

Tôi cũng được nhị ca giới thiệu đến làm việc trong một xưởng rượu để che mắt người khác. Chủ xưởng rượu là hai anh em, họ rất tốt bụng, đối với tôi cũng rất tốt. (Đời này một người làm ở công ty nước ngoài, người còn lại cũng mở nhà máy).

Do bị rất nhiều cao thủ không ngừng truy sát, chúng tôi buộc lòng phải rời khỏi nhà chị dâu và xưởng rượu, tạm ở trong một ngôi nhà trống xa xôi hẻo lánh. Lúc này hai đứa con của tôi mới được năm tuổi.

Một đêm nọ khi chúng tôi đang nằm nghỉ, bỗng nghe thấy có tiếng người bước vào trong sân, tôi bay ra ngoài, nhưng nhìn thấy một người mặc y phục đen đang đứng trong sân. Tôi chắp quyền trước ngực: “Không biết huynh đệ đêm khuya đến đây làm gì?” Anh ta nhìn thấy tôi bước ra, liền nói: “Nghe nói huynh đệ có khả năng toán quái, đoán chữ, hôm nay muốn mời huynh đoán một chữ”. Tôi vừa nghe liền biết rõ anh ta đang kiếm cớ, kỳ thực tôi không biết toán quái hay đoán chữ gì. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng là người tu Đạo, có thể nhìn thấy chút huyền cơ trong một số việc, nhưng tôi chưa bao giờ thể hiện cho người khác thấy. “Không ngại huynh hãy nói thử xem”. Tôi trả lời với thái độ đúng mực không tự ti cũng không kiêu ngạo. “Vậy hãy đoán chữ ‘嬌’ (Kiều) này xem sao. Thế là tôi với anh ta ngồi xuống đất, tôi nhìn kĩ chữ này và chầm chậm nói: “Dù chữ này nhìn kiểu gì cũng đều là có ý chỉ một người hay một loại sự vật tốt đẹp. Thiện đãi với những điều tốt đẹp, đây là cái gốc làm người, làm quan và làm vua. Nếu đối đãi với những sự vật tốt đẹp mà vẫn giơ đao đồ tể, vậy là đã mất đi cái gốc làm người, không xứng làm người nữa, và nhất định sẽ bị trời trách phạt!” Anh ta nghe tôi nói như vậy dường như có chút cảm động, tôi tiếp tục nói: “Thực ra anh là muốn tới giết bốn người nhà tôi, anh vừa bước vào trong sân là tôi đã biết mục đích của anh rồi! Nhưng tôi là người tu Đạo, không muốn làm hại ai, thực ra tiểu tử xấu đó căn bản không phải là tôi, là các anh đã tìm nhầm người rồi”.

Anh ta vừa nghe, có vẻ như đột nhiên hoàn toàn tỉnh ngộ, rồi vỗ vào vai tôi, nguyện ý kết thành huynh đệ tốt với tôi. Khi chúng tôi nắm tay nhau bước ra khỏi sân, chỉ thấy anh ta móc trong túi ra một quả bóng tròn ném lên không trung, quả bóng bắt đầu cháy, nó có phần giống đạn báo tín hiệu. Điều đó có nghĩa là tạm hoãn không giết nhà này.

Lúc này dường như tôi nhìn thấy phía đối diện hiện ra một cái ao, cha tôi và một số người (cao thủ trong giang hồ) đang ở trong nước ngập đến thắt lưng, còn nhìn thấy “chú” (chồng dì ba) của tôi trong kiếp này đang ở trong xưởng! Có vẻ như họ vẫn đang muốn dùng công năng để đánh tôi, nhưng công năng đã rất yếu rồi. Tôi cũng vận dụng công năng tự phòng hộ để tránh khỏi bị đả thương, nhưng tôi cũng không muốn đả thương đối phương. Đang lúc giằng co thì đột nhiên có nhiều đám mây cát tường từ trên trời giáng hạ xuống, sau đó một số vị Thần Tiên xuất hiện, còn có Sư phụ của tôi và một vị Thần khác, chỉ thấy vị Thần đó dắt trong tay một con động vật có hình dáng giống như một con chó. Sư phụ mỉm cười nói: “Vân Phi, khảo nghiệm của con đã kết thúc rồi, tên tiểu tử xấu xa đó chính là con vật này hóa thành hình người mà xuất hiện. Một mặt, con đã hoàn thành đủ loại khảo nghiệm trên con đường tu luyện, mặt khác con cũng đã kết thiện duyên với rất nhiều vị Thần tương lai. Hãy giữ chính niệm thật tốt! Hết thảy phải đợi sau khi Phật Chủ của vũ trụ xuống nhân gian Chính Pháp thì những duyên phận này sẽ lại tái diễn một lần nữa. Có thể các chi tiết sẽ có biến đổi. Đến lúc đó hãy nhớ kỹ: ‘Ở bất kỳ lúc nào, đều cần phải thiện đãi người khác! Hãy nhớ! Hãy nhớ!’”

Nói xong, tất cả đều biến mất…

Thời gian trôi nhanh, giờ đây thực sự đã đến lúc Phật Chủ đích thân xuống nhân gian Chính Pháp rồi, chúng tôi cũng đều đã trở thành đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp. Tôi cùng những huynh đệ họ, chị dâu họ và các tỉ tỉ của tôi, còn cả huynh đệ chủ xưởng rượu, cha mẹ của Tư Tư đều lần lượt đắc Pháp, đều đang tận tâm tận lực làm những việc bản thân cần làm vì sự đắc cứu của chúng sinh.

Đây chính là:

Nhân duyên tiền định kỷ thiên niên
Duyên tụ kim triều liễu hồng nguyện
Tu giả tinh tấn bất mê đồ
Cứu đắc chúng sinh phản gia viên

Diễn nghĩa:

Nhân duyên tiền định mấy nghìn năm
Kiếp này tụ duyên thực hiện hồng nguyện
Người tu tinh tấn không bị mê lạc đường
Cứu độ hết thảy chúng sinh trở về quê hương

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/272268

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (2)https://chanhkien.org/2023/11/luan-hoi-ky-su-kiep-nay-tu-duyen-2.htmlWed, 08 Nov 2023 02:51:54 +0000https://chanhkien.org/?p=31761Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Tôi đành phải lưu lạc bên ngoài, không may một lần nọ chân phải của tôi bị trầy xước, vết xước tuy không quá sâu, nhưng cũng làm mất đi nốt ruồi ở dưới chân của tôi. Khoảng nửa năm sau, tình cờ tôi nghe thấy người qua đường nói […]

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Tôi đành phải lưu lạc bên ngoài, không may một lần nọ chân phải của tôi bị trầy xước, vết xước tuy không quá sâu, nhưng cũng làm mất đi nốt ruồi ở dưới chân của tôi. Khoảng nửa năm sau, tình cờ tôi nghe thấy người qua đường nói mẫu thân của tôi bị bệnh nặng, tôi không nghĩ nhiều nữa, thế là vào một đêm trăng sáng, tôi đã trở về nhà. Qua lớp giấy dán cửa sổ, tôi nhìn thấy bóng dáng mẫu thân đã gầy yếu đi rất nhiều, nằm trên giường bệnh, sắc mặt nhợt nhạt, phụ thân hình như đã đi ra bên ngoài nhà, chỉ còn tứ tỉ đang chăm sóc mẫu thân trong nhà, tôi đẩy cửa bước vào nhà, vừa khóc vừa nói: “Mẹ, con đã trở về rồi!” Chỉ nghe mẫu thân nói với giọng rất yếu ớt: “Là Vân Phi về rồi phải không con?” “Con trai à, con đã làm cho ta quá khổ vì nhớ con rồi!” Tôi đang định chạy đến gần mẹ. Đúng lúc này phụ thân quay lại, vừa nhìn thấy tôi, ông tức giận đến lắp bắp: “Tên tiểu tử xấu xa nhà ngươi, ngươi còn dám quay lại sao?!” Rồi tiện tay cầm chiếc ghế đẩu hướng vào đầu và mặt tôi mà đánh tới tấp! Tôi vội vàng vừa né tránh vừa nói: “Con không phải là tên tiểu tử xấu xa kia! Con là Vân Phi! Con là con trai của người, không tin người xem”, rồi tôi giơ chân phải ra. (Lúc đó, trong tình huống cấp bách, tôi quên mất nốt ruồi ở bàn chân phải đã không còn nữa). Phụ thân khi nhìn thấy không có nốt ruồi, lúc này lại càng tức giận! Nhận định rằng tôi là tiểu tử xấu xa đó, phụ thân lập tức mất đi lý trí, vào bếp lấy dao muốn giết tôi. Tứ tỉ vội vàng nói: “Đệ mau đi đi, mau đi đi!” “Tỉ quên mất chiếc gương nhỏ đệ đưa cho tỉ rồi sao? Đệ thực sự là tiểu đệ Vân Phi!” Tứ tỉ nói: “Đệ đi đi, đi mau đi! Đợi phụ thân hồi phục lý trí, rồi ta sẽ từ từ giải thích với người. Sau này tỉ sẽ đi tìm đệ”.

Tôi nhìn thời gian thấy cũng không thể nào làm sáng tỏ sự thật, tôi liền nói với mẫu thân: “Mẫu thân, xin hãy bảo trọng, con đi đây!” Không đợi mẫu thân nói thêm gì, tôi đã quay người bay ra khỏi nhà, rồi bay nhanh đi.

Tôi chạy một mạch không biết được bao xa, cho đến khi gặp một con sông chắn ngang trước mặt mới dừng chân. Mặc dù tôi tu luyện đã nhiều năm như vậy, tâm tính đã có nền tảng nhất định, nhưng khảo nghiệm lần này vẫn khiến cho tôi đau thấu tâm can! Không hay trời đã chuyển sang sầm tối khi nào, không lâu sau gió bắt đầu nổi lên, và mưa nhỏ kéo theo sau, nhìn lên bầu trời u ám, tâm tôi đã trở nên buốt lạnh. Dường như tôi đã hiểu những gì sư phụ nói, hết thảy mọi thứ trong hồng trần đều không thể xem trọng. Ôi chao! Tôi thở dài một tiếng, rồi tìm một nơi để nghỉ ngơi. Thế là tôi nhìn xung quanh nhưng không có nhà nào sáng đèn, mãi mới tìm thấy được một nhà. Hình như ông chủ nhà vừa mới trở về, và đang ăn cơm ở trong nhà, nữ chủ nhân thì đang dỗ dành con nhỏ: “Tư Tư mau ngủ sớm đi, ngày mai mình còn phải sang giúp đỡ ngoại tổ phụ nữa!” Thế là tôi liền đưa tay nhẹ nhàng gõ cửa: “Đại ca à, có thể mở cửa một chút không, tôi là người qua đường, muốn tá túc nhờ ở đây một đêm, không biết có được không?”, tôi hỏi. Ông chủ nhà cầm đèn lồng bước ra, thận trọng nhìn tôi, toàn thân tôi đã ướt sũng rồi, lúc này, mưa càng ngày càng lớn. Tôi vội nói tiếp: “Đại ca à, tôi là người qua đường, không may gặp phải mưa to, muốn tá túc ở đây một đêm không biết có tiện không?!” Ông chủ nhà cho tôi vào mà không nói lời nào, nữ chủ nhân cũng nhiệt tình cho tôi ăn. Vì tôi là khách không mời mà đến, nên đồ ăn không được chuẩn bị đầy đủ, trong nhà cũng chẳng có nhiều thức ăn thừa, lúc này ông chủ chân thành nói: “Huynh đệ hôm nay đã đến nhà ta rồi, vậy hãy coi đây là nhà của mình đi! Những đồ ăn này, huynh đệ cứ ăn hết đi! (Bây giờ tôi nghĩ đến câu này, vẫn cảm thấy rất cảm động). Nhìn ấn đường huynh đệ có luồng chính khí, chúng ta hãy cùng kết bằng hữu”. Lúc đó tôi rất cảm động, nên đã kể đại khái cho họ biết cuộc sống của mình từ nhỏ đến lớn. Sau khi nghe xong, họ càng quý trọng tôi hơn.

Sáng sớm hôm sau tôi muốn rời khỏi nơi này, ông chủ nhà nói thế nào cũng không cho tôi đi, không biết làm sao tôi đành phải ở lại nơi này thêm mười mấy ngày nữa. Sau đó tôi nói với ông chủ nhà, tôi không thể ở lại được nữa, vì nếu có người truy sát tôi, e rằng sẽ liên lụy mọi người. Và rồi chúng tôi chia tay trong bầu không khí rất buồn.

Thiên hạ rộng lớn, tôi biết đi đâu đây? Tôi đang đi một mình trên con đường lớn, vừa đi vừa nhẩm niệm lại những lời sư phụ dạy tôi rằng cần phải trọng đức như thế nào. Bỗng nhiên trước mặt xuất hiện hai người đàn ông cao lớn, vừa nhìn là biết không phải là người lương thiện. Một người đàn ông trong họ hình như đang vội đi vệ sinh, còn một người đang ngồi nghỉ ngơi bên đường. Họ nhìn thấy tôi như thể là họ đã gặp được một con mồi. Chỉ nghe thấy một người hét lên: “Này, Mao tiểu tử, không thấy quần của đại gia đang bị lỏng à? Mau buộc lại giúp ta!” Người kia hét lớn: “Không thấy giày của đại gia ta bị tuột à, mau xỏ vào cho ta!” Tôi nghe vậy, thấy buồn cười, trong tâm nghĩ rằng hai người này có thể đã uống quá nhiều, nếu không thì là họ đang gặp phải chuyện rắc rối nào đó. Thôi được, tôi quyết định giúp họ cho xong. Thế là tôi đã kiên nhẫn giúp họ chỉnh lý lại áo mũ cho chỉnh tề. Sau đó nói từ đáy lòng rằng: “Ngài xem, lần này đã hài lòng chưa, hai vị đại — gia!” Tôi cố ý kéo dài giọng của mình để làm xoa dịu sự điên cuồng của họ.

Họ nhìn tôi và nói với nhau một cách bối rối: “Xem ra cậu ta không giống tiểu tử xấu xa làm đủ mọi điều ác đó. Chúng ta quay trở về báo lại với lão gia. Đi thôi!” Sau đó hai người họ rời đi mà không ngoảnh đầu lại.

Trong lòng tôi dường như đã hiểu ra được. Nếu tôi động thủ thì sẽ gây ra một số rắc rối, vả lại tôi đã quyết tâm bất cứ lúc nào cũng sẽ luôn đối xử thiện với người khác!

Cứ như thế nhiều năm trôi qua, mặc dù đã trải qua một số chuyện nguy hiểm, nhưng vì tôi luôn đối xử thiện với người khác nên rất nhiều chuyện đã hóa nguy thành an.

Nhoáng một cái tôi đã 35 tuổi rồi, tết Nguyên Đán năm đó tôi lưu lạc đến một thành phố vô cùng hẻo lánh, một ngày nọ khi tôi đang đi bộ trên một con phố, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng kêu cứu mạng. Trong tâm tôi nghĩ, tính mạng con người quan trọng, làm sao tôi có thể không quản được? Thế là tôi bước tới xem: Chỉ thấy một tiểu tử xấu xa đang nắm tay một cô gái xinh đẹp kéo vào nhà, cô gái này trông khoảng trên dưới 20 tuổi. Tôi giơ nắm đấm và đánh bay tiểu tử xấu xa đó. Hết lòng giúp cô ấy chỉnh trang lại y phục. Nhưng lúc này đúng lúc chị cả của cô gái đi qua, nhìn thấy cảnh tượng này, thì mở to mắt tức giận, không suy nghĩ gì mà đã lao về phía tôi mà đánh. (Cô ấy biết một ít công phu). Vì tôi không có chuẩn bị trước, tức thời bị đánh đến nỗi trên mặt và thân dính đầy vết máu. Lúc này em gái của cô ấy liên tục nói: “Tỉ à, huynh ấy cứu muội, chứ không phải là hại muội. Tỉ, đừng đánh nữa, đừng đánh nữa”.

Có lẽ cô ấy đã mệt vì đánh tôi, thế là hạ quyền xuống. Lưỡng lự hỏi: “Thật sao!?” Tôi mỉm cười một cách thật thà, hồn nhiên rồi rời đi mà không nói gì. Đang đi thì bỗng thấy đói bụng, thế là tôi quyết định đến một quán ven đường gọi mấy cái bánh bao và ngồi ăn, ăn xong định trả tiền, nhưng khi thò tay vào túi sờ thì thấy tiền đã bị rơi mất, có lẽ túi đã bị rách khi bị cô gái vừa rồi đánh. Mặt tôi đỏ bừng từ đầu đến chân, và tôi cảm thấy rất xấu hổ. May mắn thay, cái túi nhỏ mà sư phụ đưa cho tôi vẫn còn. Nhưng mà tôi nghĩ, làm như vậy có được tính là dùng một cách chính đáng không? Một vị thực khách bên cạnh dường như nhìn thấy hoàn cảnh túng quẫn của tôi, thế là hào phóng nói: “Huynh đệ, mấy cái bánh bao đó coi như tôi mời khách”. Không đợi tôi nói, chỉ nghe thấy vị khách nói: “Ông chủ, đến lấy tiền!”

Trong lòng tôi tràn đầy cảm kích và nói: “Xin hỏi tôn tính đại danh của huynh đài?” “Vân Lực”. “Vân Lực… vậy anh trai của huynh có phải là Vân Long không?” “Đúng, nhưng làm sao huynh biết?” “Ta chính là Vân Phi đây, chính là người con thứ sáu trong nhà đại ca của phụ thân huynh!” “Vậy sao?! Ta thực sự không dám tin! Thật là có duyên hội ngộ!” “Đúng vậy”. Nước mắt của chúng tôi hợp lại như nước lũ vỡ đê! Khóc một hồi lâu mới dừng, tôi chậm rãi kể tỉ mỉ cho huynh ấy nghe về những thống khổ mà tôi đã trải qua trong ngần ấy năm. Nhị ca nói: “Tứ tỉ Vân Mai của đệ vẫn chưa gặp đệ sao?” “Tỉ ấy nhìn thấy đệ mấy lần qua chiếc gương nhỏ, một lần tỉ ấy nói với đệ, mẫu thân của đệ đã qua đời, khiến cho phụ thân lại càng căm hận tiểu tử xấu xa đó và nhiều lần thề rằng sẽ mau chóng tìm cách để giết tiểu tử đó trừ hại cho dân”. “Ối, bác trai cũng là căm hận cái ác như kẻ thù! Đệ cũng là vô tình mà gặp phải chuyện kỳ quái?” “Đúng, đúng vậy, đại ca Vân Long gần đây ra sao?” “Đại ca Vân Long của đệ vốn dĩ làm ăn lớn kiếm được rất nhiều tiền, sau này cưới được chị dâu mười phần hiền đức, về sau nữa có một cô con gái tên Hân Hân, bây giờ Hân Hân đã 12 tuổi rồi. Nhưng đại ca của đệ không may bị người ta hãm hại vào năm ngoái, hiện tại đang ở trong tù, bản thân chị dâu của đệ cũng đang gặp khó khăn, có điều là Hân Hân rất hiểu chuyện. Hay ta đưa đệ đi gặp họ chút nhé?” “Được rồi!” Tôi nghĩ bản thân cũng không có chỗ nào để đi nên cũng đã đồng ý.

Khi đến chỗ chị dâu, ở đó tôi cảm thấy như giống nhà của mình vậy. Nhưng ở đó vài ngày, tôi cảm thấy dường như mình có việc cần phải làm. Thế là tôi liền chào từ biệt chị dâu và rời đi.

(còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/272204

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Những chuyện nhỏ trong luân hồi giữa tôi và vợhttps://chanhkien.org/2023/10/nhung-chuyen-nho-trong-luan-hoi-giua-toi-va-vo.htmlFri, 27 Oct 2023 02:22:33 +0000https://chanhkien.org/?p=31632Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục [ChanhKien.org] 1 Hồi tôi và vợ còn đang yêu nhau, có một lần cô ấy đã dùng khăn tay của mình để lau mồ hôi cho tôi. Tôi thuận tay cầm lấy chiếc khăn tự lau rồi sau đó nhét chiếc khăn vào túi quần. Sau này […]

The post Những chuyện nhỏ trong luân hồi giữa tôi và vợ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đại Lục

[ChanhKien.org]

1

Hồi tôi và vợ còn đang yêu nhau, có một lần cô ấy đã dùng khăn tay của mình để lau mồ hôi cho tôi. Tôi thuận tay cầm lấy chiếc khăn tự lau rồi sau đó nhét chiếc khăn vào túi quần. Sau này tôi đã làm mất chiếc khăn của cô ấy, kết quả là cô ấy nhất quyết đòi tôi phải tìm lại chiếc khăn ấy bằng được. Lúc đó tôi không hiểu, chẳng phải chỉ là mất cái khăn tay thôi sao, sao lại phải gây chuyện với tôi đến vậy? Đền cho cô ấy một cái mới, cô ấy cũng không chịu, nhất định đòi cái khăn cũ kia, thật không thể hiểu nổi. Bao nhiêu năm sau đó tôi vẫn còn canh cánh trong lòng về việc này.

Nguyên nhân của sự việc này bắt nguồn từ ở mấy kiếp trước, ở thời cổ xưa cũng đã xảy ra việc tương tự như vậy. Tôi đã làm mất chiếc khăn của cô ấy, chiếc khăn bị người ngoài nhặt được. Vào thời đại mà nam nữ thụ thụ bất thân, danh dự và trinh tiết của cô ấy bị nghi ngờ, cuối cùng cô ấy đã bị tin đồn đánh bại và tự sát. Vì vậy, theo quan điểm của cô ấy, việc mất chiếc khăn tay là một vấn đề chí mạng. Tâm tình vô lý của cô ấy ở đời này lại là cái giá phải trả của sinh mệnh ở đời trước.

2

Ngày thứ hai sau đám cưới, tôi đã nói với cô ấy rằng: “Đời này anh sẽ không bao giờ bỏ em, dù cho xảy ra bất cứ chuyện gì. Kể cả khi em có người khác, anh cũng sẽ không bao giờ ly hôn”. Khi đó, lời nói của tôi phát ra từ tận đáy lòng, sau sự việc tôi cảm thấy sao mình lại nói ra những lời nói mất mặt, xấu hổ như vậy kia chứ. Sau này khi đã tu luyện, sau khi buông được cái tình với cô ấy, tôi đã nhìn thấy nhân duyên của mình với cô ấy.

Ở một đời nào đó, tôi và cô ấy sống trong một trang viên nhỏ ở miền Nam nước Mỹ. Cô ấy ngoại tình và có ý định bỏ trốn cùng tình nhân. Sau khi biết chuyện tôi đã dùng súng để đuổi theo người tình của cô ấy, nhưng do kỹ năng dùng súng chưa chuẩn, nên đã để tình nhân của cô ấy trốn mất, tôi mang theo căm phẫn chưa nguôi về nhà và đã giết cô ấy.

Sau khi cơn bốc đồng qua đi, tôi vô cùng hối hận. Nhìn vào thi thể của cô ấy, tôi bày tỏ sự ăn năn, hối lỗi với cô ấy. Ở kiếp đó, cô ấy đã không thể nghe thấy được nữa rồi. Vào ngày thứ hai của cuộc hôn nhân ở kiếp này, tôi đã kể lại với cô ấy về những ăn năn, hối lỗi của mình ở năm đó.

3

Sau khi kết hôn, tôi giao toàn bộ tiền lương cho cô ấy giữ, nhưng cô ấy vẫn thỉnh thoảng đòi tiền tôi, tôi thường xuyên thấy khó chịu, tức giận. Sau khi buông bỏ được oán giận với cô ấy, tôi nhìn thấy ở một đời nào đó tôi và cô ấy là một cặp “thanh mai trúc mã”, sau khi lớn lên tôi trở thành một kẻ lưu manh vô lại, suốt ngày đánh nhau và không làm gì cả. Không có tiền tôi lại vòi cô ấy, cô ấy đã đưa hết số tiền của mình cho tôi, khi không lấy được tiền thì tôi bắt cô ấy phải nghĩ cách. Cô ấy đã cưới tôi trong hoàn cảnh như thế.

4

Tôi luôn là người độc lập, có chủ kiến trong công việc, nhưng trong cuộc sống tôi lại phụ thuộc vào cô ấy một cách khó hiểu. Với những việc mà cô ấy không đồng ý thì tôi không dám làm. Sau khi kết hôn tôi sống trong tình trạng khủng hoảng, luôn lo sợ một ngày nào đó cô ấy sẽ rời xa mình.

Sau này tôi mới hiểu ra lý do tôi phụ thuộc vào cô ấy. Ngày xưa tôi và cô ấy từng là mẹ con, cô ấy là mẹ, tôi là con gái. Năm tôi 7 – 8 tuổi, cha bỏ nhà đi, hai mẹ con nương tựa và nhau mà sống. Vào lúc tôi 11 tuổi, mẹ tôi – tức là cô ấy đã tự tử vì bị cha bỏ rơi và vì nghèo khó. Tôi được người thân nhận nuôi. Lúc đó, tôi nghĩ là do tôi không nghe lời nên mẹ mới tự sát. Vì vậy, đời này tôi không dám không nghe lời cô ấy, cũng rất sợ cô ấy rời xa tôi.

Tôi phát hiện ra rằng, trong cuộc sống, bất cứ chuyện gì dù là to hay nhỏ, đều có quan hệ nhân duyên từ đời trước.

“Vạn sự đều có nhân duyên, nhưng có mấy ai biết được”. Trong lòng tôi thầm nói với Sư phụ: “Sư phụ ơi, con đã biết rồi ạ”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/285714

The post Những chuyện nhỏ trong luân hồi giữa tôi và vợ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Công chúa và hạt đàohttps://chanhkien.org/2023/10/chan-troi-tim-phap-cong-chua-va-hat-dao.htmlThu, 26 Oct 2023 03:00:24 +0000https://chanhkien.org/?p=31628Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Nhắc đến Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, mọi người trên thế giới đều biết rằng đây là nơi cuối cùng và là nơi huy hoàng nhất của xã hội Trung Quốc cổ đại. Nếu nói Bắc Kinh là kinh đô của các triều đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh […]

The post Chân trời tìm Pháp: Công chúa và hạt đào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Nhắc đến Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, mọi người trên thế giới đều biết rằng đây là nơi cuối cùng và là nơi huy hoàng nhất của xã hội Trung Quốc cổ đại. Nếu nói Bắc Kinh là kinh đô của các triều đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh và Thanh thì Tử Cấm Thành lại là trung tâm của kinh đô và cũng là trung tâm chính trị, văn hóa của toàn bộ hệ thống chính quyền qua các thời đại.

Tử Cấm Thành ngày nay vốn được Minh Thành Tổ xây dựng trên cơ sở cung điện của các hoàng đế triều Nguyên. Tử Cấm Thành chủ yếu là nơi ở của các hoàng đế Minh, Thanh cùng các phi tần.

Trên cơ bản Tử Cấm Thành được xây dựng dựa theo lý niệm “thiên nhân hợp nhất” của văn hoá truyền thống Trung Hoa. Về điểm này chúng ta có thể tìm thấy thông tin trong các bài viết liên quan trên các trang Chánh Kiến Net và Epoch Times, ở đây chúng tôi chỉ đưa ra thông tin ngắn gọn trong phần câu chuyện chính.

Kể từ khi được xây dựng, Tử Cấm Thành đã nhiều lần hứng chịu những đợt hỏa hoạn, binh đao, nhiều bộ phận của Tử Cấm Thành đã phải trùng tu nhiều lần.

Trong một trận mưa lớn vào năm 2016, hệ thống thoát nước của Tử Cấm Thành đã thể hiện ra ưu điểm vượt trội, nhưng bước ra khỏi Tử Cấm Thành thì lại là một cảnh tượng khác. [1]

Nhắc đến Minh Thành Tổ, nhân tiện chúng ta hãy nói một chút về Kiến Văn Đế. Khi Kiến Văn Đế lên nắm quyền ông đã thi hành chính sách chính trị nhân từ và yêu thương nhân dân, về sau do vấn đề tước phiên [2] nên đã dẫn đến loạn Tĩnh Nan, rồi mới xảy ra việc Minh Thành Tổ Chu Đệ lên chấp chính. Tung tích của Kiến Văn Đế sau cuộc chính biến trước nay vẫn luôn là một chỗ mê của lịch sử.

Kỳ thực có một phó nguyên thần của Kiến Văn Đế vốn là một vị Phật Đà, vì vậy thuở sinh thời ông có tính cách khá nhân từ. Còn về việc bị mất giang sơn, lịch sử sớm đã an bài sự tình này. Kịch bản đã được viết sẵn, đợi đến thời điểm thì diễn thôi. Nhờ có chiến dịch Tĩnh Nan mà Bắc Kinh mới thực sự trở thành trung tâm cũng như là kinh đô của cả nước. Khi Bắc Kinh còn là kinh đô của nhà Nguyên, một mặt nó có thời gian tồn tại tương đối ngắn, mặt khác, nhà Nguyên dù sao cũng do người Mông Cổ thành lập nên trong lòng hầu hết người Hán mức độ công nhận kinh đô này vẫn rất hữu hạn. Hơn nữa trình độ phát triển của Bắc Kinh lúc bấy giờ còn khá hạn chế. Dù trong cuốn “Marco Polo du ký” Bắc Kinh được mô tả như một thiên đường, nhưng đó là đang so sánh Bắc Kinh với một số thành bang của Tây Vực hoặc châu Âu vào thời ấy. Bắc Kinh khi đó không thể nào so sánh được với các thành phố giàu có ở Giang Nam. Còn có một điểm ở đây cũng liên quan đến vấn đề văn hóa, mặc dù văn hóa Mông Cổ và văn hóa Hán đều là những bộ phận không thể tách rời của văn hóa Trung Hoa, nhưng với tư cách là kinh đô, bộ phận văn hóa ấy chủ yếu là để lưu lại cho con người ngày nay, điều này cũng là do Thần an bài. Bao gồm cả việc người Mãn Thanh tiến vào Trung Nguyên, văn hóa của tộc Mãn thực ra còn dung chứa cả văn hóa Mông Cổ, vào thời Thanh nó được những người thống trị mang theo vào Tử Cấm Thành.

Viết đến đây tôi chợt nhìn thấy một trường cảnh tượng: văn hoá Mãn tộc của người Mãn Thanh nằm ở phía Đông Bắc, tại Bắc Kinh bởi vì nhà Minh cũng đã hội nhập với những đặc điểm thành thục, tiên tiến của văn hoá Hán, trải qua hai ba trăm năm vẫn không ngừng dung nhập vào Tử Cấm Thành, đó chẳng phải là tượng trưng cho hướng đi tương lai của văn hóa Thần truyền Trung Hoa hay sao? Điều này cũng đang báo hiệu rằng, một vị Thánh nhân đến từ vùng Đông Bắc sẽ dung hợp lại văn hoá Trung Hoa (bao gồm văn hoá Hán, Mãn, Mông Cổ cũng như văn hoá của các dân tộc anh em khác), tái tạo huy hoàng!

Nếu như nói Hiên Viên Hoàng Đế đã khai sáng ra nền văn hóa Thần truyền 5000 năm của Trung Hoa, lại thông qua các trận chiến với Viêm Đế, Xi Vưu mà xúc tiến sự hội nhập của các dân tộc, lại còn trở thành thuỷ tổ của liên minh các bộ lạc ở Trung Thổ, vậy khi thời kỳ vương triều kéo dài hơn 2000 năm kết thúc, vương triều cuối cùng này đương nhiên sẽ mang đặc điểm của một quốc gia đại thống nhất, như các dân tộc hoà nhập, lãnh thổ rộng lớn và vương triều này sẽ đến từ Đông Bắc. Vì sao lại đến từ vùng Đông Bắc? Bởi vì bước tiếp theo của lịch sử sẽ được diễn dịch ở vùng Đông Bắc, nơi phát triển tương đối muộn trong lịch sử, nói cách khác, là nơi có tiềm năng phát triển. Còn Đài Loan sẽ thành nơi tị nạn cho những tinh hoa của văn hóa Thần truyền Trung Hoa.

Nhìn từ góc độ này, cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Trung Quốc ở vùng Đông Bắc cuối cùng đã dẫn đến việc Trung Cộng lần đầu tiên trở nên lớn mạnh hơn ở nơi đây và sau đó Trung Cộng đã thôn tính Trung Thổ cả về mặt văn hóa lẫn hành chính. Điều này cũng dễ lý giải, bởi vì những kẻ cầm quyền đã dùng học thuyết Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản tà ác đến từ phương Tây để chỉ đạo những việc ở Trung Thổ, đấy chẳng phải thôn tính là gì?

Vùng Đông Bắc là nơi hưng khởi của hoàng triều Đại Thanh, là căn cứ địa để Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, là nơi Trung Cộng thôn tính Trung Hoa đầu tiên, và cũng là nơi hoằng dương Pháp Luân Đại Pháp. Tất cả những nhân tố chính diện và phụ diện đều biểu hiện ra nơi đây, mục đích là để sử dụng cho việc ngày nay truyền Đại Pháp.

Chúng ta sẽ không nói xa hơn về chủ đề này. Năm ấy khi Nam Kinh thất thủ, nội cung chìm trong biển lửa, Kiến Văn Đế hoá trang bỏ chạy, bản thân việc ông trốn chạy thành công cũng là được các vị Thần khác bảo hộ, ông đã xuất gia tu hành. Đương thời Minh Thành Tổ cũng không tin rằng Kiến Văn Đế đã chết, về sau Chu đệ đã phái Tam Bảo Thái giám Trịnh Hòa thám hiểm Tây Dương, một trong những mục đích của ông là để tìm kiếm Hán Văn Đế. Một mục đích khác là để nâng cao uy tín của nhà Minh. Mục đích cơ bản là để cho các quốc gia mà Trịnh Hòa đến thăm cảm thấy ngưỡng mộ văn hóa Trung Thổ, để tương lai họ sẽ có thể lý giải mọi việc ở mức thâm sâu hơn khi Sáng Thế Chủ ở Trung Thổ hồng truyền Đại Pháp cứu độ chúng sinh. Trong quá trình này, ngoài việc trao đổi thương mại và văn hóa với các quốc gia và bộ tộc liên quan, một số ít người Trung Thổ cũng cần cùng với người bản địa kết hôn, sinh sôi nảy nở đời sau, đó là để cắm sâu gốc rễ văn hóa Trung Thổ ở khắp nơi, để con người nơi ấy kết nên mối duyên được cứu độ bén rễ sâu sắc hơn với văn hoá Trung Hoa.

Nói đến Kiến Văn Đế, chúng ta hãy nói sơ lược một chút về hoàng đế Thuận Trị. Thuận Trị Đế là vị hoàng đế Mãn Thanh đầu tiên chinh phục làm chủ Trung Nguyên, là người hùng tài đại lược, nghe nói rằng ông còn am tường địa lý nên đã tự chọn vùng đất xây lăng mộ có phong thuỷ tốt cho mình và con cháu (tức lăng Thanh Đông ngày nay). Về sau vì cái chết của một phi tần mà ông trở nên u sầu, có người bảo ông lụy tình, kỳ thực hoàn toàn không phải là chuyện như vậy. Việc ông cảm thấy rất bi thương trước cái chết của quý phi là sự thật, nhưng đó chỉ là đang hoàn trả món nợ tình ông mắc từ kiếp trước mà thôi. Hoàn trả xong rồi thì ông không còn điều gì vướng bận nữa. Về sau có người nói rằng cuối cùng ông đã xuất gia tu hành, cũng có người nói ông đã qua đời tại Tử Cấm Thành. Thực ra cái chết trẻ của vị quý phi chính là một lời nhắc nhở đối với Thuận Trị Đế, rằng nhân gian vốn vô thường. Khi Thuận Trị Đế thực sự đặt bản thân mình vào hoàn cảnh đó để cảm thụ những điều này, ông đã hiểu thấu hoàn toàn ý nghĩa của nhân sinh.

Con người luôn có những lý giải sai lầm to lớn về tu luyện, họ cho rằng chỉ khi một người gặp phải những trắc trở lớn trong cuộc đời thì mới tìm kiếm sự an ủi tinh thần trong các hoàn cảnh tu hành mà làm tăng, theo Đạo. Thực ra hoàn toàn không phải như vậy. Những trở ngại mà con người gặp phải trên đường đời chỉ là “khởi đầu” để khơi dậy Phật tính từ sâu thẳm trong tâm, từ đó mà bước trên con đường đi tìm chân lý.

Hoàng tộc Mãn Thanh nói chung đều tín Phật, đều có mối Phật duyên rất tốt, cả nguồn gốc lẫn ngộ tính của Thuận Trị Đế đều rất cao, khi thấy hết thảy mọi thứ thật sự đều là vô thường ông đã thuận theo tình thế đó mà dấn thân vào con đường tu hành. Nhưng với vai trò là một thành viên của hoàng thất Đại Thanh, với một vị hoàng đế mà ngay cả ngôi vị cũng không cần, lại muốn xuất gia đi tu hành thì điều này quả thật chẳng dễ dàng gì, sẽ làm tổn hại đến uy nghiêm của hoàng gia, do vậy chỉ có thể nói là Thuận Trị Đế đã băng hà tại Tử Cấm Thành.

Trước khi đi vào nội dung chính, đầu tiên chúng ta hãy kể về câu chuyện của Hán Vũ Đế như là phần “dẫn nhập”. Trong một cuốn cổ thư tên là “Hán Vũ Đế nội truyện” có ghi chép rằng Tây Vương Mẫu từ núi Côn Luân đi đến cung điện của Hán Vũ Đế, bày yến tiệc đãi ông, sau đó thậm chí còn mời Hán Vũ Đế ăn đào, trong đó có đoạn: “….Vương Mẫu lệnh cho thị nữ mang đào đến, trong chốc lát trên mâm ngọc xuất hiện bảy quả đào tiên, to như con vịt, hình tròn, màu xanh lá, thị nữ dâng lên Vương Mẫu. Vương Mẫu ban cho Đế bốn quả, tự mình ăn ba quả. Đào có vị rất ngon, ăn vào như hoà tan trong miệng. Đế muốn thu lại hạt để trồng. Vương Mẫu hỏi: ‘Vì sao lại làm thế?’ Đế đáp: ‘Muốn trồng quả này’. Vương Mẫu nói: ‘Đào này 3000 năm mới kết quả, đất ở Trung Hạ mỏng, trồng cũng không ra quả đâu’, Đế bèn thôi”. Đoạn này không cần diễn giải, hầu hết người xem đều hiểu được. Tác giả mượn lời của Tây Vương Mẫu để nói lên rằng giống đào tiên không phải có quá trình sinh trưởng như bình thường. Câu chuyện vẫn chưa dừng lại ở đó. Hán Vũ Đế tuy không giữ những hạt đào lại để trồng nhưng ông dường như vẫn giữ lại chúng để làm kỷ niệm. Sau này trong sách “Uyển Uỷ Dư Biên” có ghi chép rằng: “Những năm Hồng Vũ người ta tìm thấy trong nội khố của nhà Nguyên có cất trữ một hạt bàn đào (đào tiên), dài năm thốn, rộng bốn thốn bảy phân, trên đó có khắc các chữ: ‘Tây Vương Mẫu tứ thực Vũ Đế bàn đào vu Thừa Hoa điện’ (Tây Vương Mẫu ban cho Vũ Đế đào tiên để ăn ở điện Thừa Hoa)”. Đây được cho là lần xuất hiện cuối cùng của Tây Vương Mẫu hoặc là sự tích có liên quan đến Tây Vương Mẫu. Sau này thì không có ghi chép nào về Tây Vương Mẫu hoặc những sự tích liên quan tới bà nữa.

Tại sao lại cần trích dẫn những đoạn ghi chép này từ hai quyển sách cổ? Bởi vì hôm nay tôi muốn “tiếp nối” câu chuyện về hạt đào này.

Vào thời nhà Minh có một nàng công chúa không xuất giá mà chỉ chuyên tâm tu hành, nàng công chúa ấy là con gái của Cảnh Thái Đế – vị hoàng đế thứ bảy của nhà Minh. Người đời sau không biết năm sinh năm mất của cô, chỉ biết cô không lấy chồng mà chỉ chọn con đường tu hành. Hôm nay chúng ta sẽ kể về câu chuyện của cô ấy.

Nàng công chúa này từ khi sinh ra đã không giống với những người khác, những đứa trẻ khác đều thích ăn ngon mặc đẹp còn cô thì không thích những thứ ấy mà chỉ thích sự thanh tĩnh. Khi ấy có một lão bộc hay chăm sóc cô. Lão bộc ấy thường kể cho cô nghe những câu chuyện về việc tu hành thời cổ đại. Thực ra lúc đó trong cung khá hỗn loạn, hoàng đế thường xuyên bận rộn chính sự, đất nước cũng đang lâm nguy. Nhưng cô không quan tâm đến những điều này cho lắm, từ nhỏ cô đã một lòng chỉ muốn tu hành, còn những thứ khác thì cô không nghĩ ngợi nhiều. Sau này nghe nói trong nội khố có cất trữ mấy hạt đào mà Tây Vương Mẫu từng tặng cho Hán Vũ Đế, cô muốn lấy một hạt ra xem thử. Ban đầu phụ hoàng của cô không đồng ý, nhưng về sau do không thể chịu được những lời khẩn cầu liên tục của cô nên cũng đã miễn cưỡng gật đầu. Khi cầm hạt đào trong tay, công chúa vô tình nói với hạt đào rằng: “Tây Vương Mẫu người đang ở đâu? Hiện tại con cũng muốn tu hành!” Không ngờ, từ trong hạt đào truyền ra giọng nói của một tiểu đồng tử: “Chỗ của tôi là núi Côn Luân ở Tây Vực, nhóm người chúng tôi hiện có 120 người đang tu hành (không phải nói cả núi Côn Luân chỉ có bằng đó người tu hành). Người cao tuổi nhất đã 80 rồi, người nhỏ nhất là tôi chỉ mới sáu tuổi”. Công chúa lúc đầu có chút kinh ngạc, bèn ngẩng đầu lên nhìn các cung nữ và thái giám xung quanh, dường như không ai trong số họ nghe thấy âm thanh này. Cô nghĩ có lẽ là cô có duyên với hạt đào nên người khác không thể nghe thấy. Thế là cô mang hạt đào về phòng, đóng cửa lại, lấy hạt đào ra và nói chuyện với đối phương (chỉ dùng ý nghĩ chứ không dùng miệng). Công chúa nghĩ rằng tốt hơn nên nói chuyện với người tu hành lớn tuổi trước, vì có lẽ ông ấy biết được nhiều điều hơn. Cô bèn nói với hạt đào: “Xin hãy để người tu hành lớn tuổi nhất trò chuyện với tôi một chút”. Bên kia chợt vang lên giọng nói của một người tu hành lớn tuổi: “Cô muốn biết điều gì?” Công chúa tò mò hỏi: “Người tu hành nhỏ tuổi bảo rằng ở chỗ các ngài có 120 người đang tu hành, ông kể tên của họ ra có được không?” Người tu Đạo ấy nói: “Hãy tìm bút mực lại đây”. Công chúa mang bút mực đến, người tu Đạo lớn tuổi nhất liền kể tên 120 người tu hành ra. Công chúa vừa viết vừa kinh ngạc bởi trong danh sách được kể ra có hai, ba cái tên trùng tên với những người mà cô biết! Cuối cùng, đối phương căn dặn công chúa: “Đừng quên sứ mệnh của mình ở kiếp sau!” Nói xong âm thanh ấy liền biến mất.

Công chúa nhiều lần muốn lấy hạt đào ra và nói chuyện lần nữa nhưng đối phương lại không đáp lại. Công chúa không còn cách nào khác, chỉ đành tĩnh tâm suy nghĩ, đồng thời cũng gắng tìm cho mình một phương pháp tu hành.

Kể ra cũng thật kỳ lạ, kể từ khi công chúa câu thông được với những người tu hành trên núi Côn Luân, không lâu sau cô có thể nhìn thấy những cảnh tượng mà người khác không thể nhìn thấy, đồng thời cũng biết được nguyên nhân của một số sự việc.

Ví dụ như khi đi dạo trong hoàng cung và nhìn thấy món đồ gỗ cao cấp được vận chuyển từ phương Nam về, cô có thể thấy loại đồ gỗ này được vị Thần nào an bài và có đặc điểm gì; từ nền móng cho đến mái hiên, hành lang, bình phong… của đại điện đều có biểu hiện của phong cách trên thiên thượng trong đó, cho đến trí huệ được Thần ban cấp cho một số thợ thủ công lành nghề trong quá trình xây dựng công trình. Lại nhìn vào những món đồ được bày biện, bàn, ghế, ghế dài, các vật dụng, bình phong, kể cả các món đồ gốm, đồ thêu, v.v. của từng gian cung điện, không chỗ nào là không chứa đựng trí huệ của Thần. Có lần cô nhìn thấy nhiều hình chạm khắc rồng khác nhau, thậm chí còn thấy các loại rồng đang tụ họp trước mắt mình; những con rồng với nhiều hình dạng khác nhau đang cùng nhau yến ẩm, có một số rồng tham gia múa góp vui, có con thậm chí còn có thể múa kiếm, từ đó cô hiểu rằng giữa rồng với nhau cũng có sự khác biệt về ngoại hình lẫn năng lực, ngay cả chức trách cũng không giống nhau. Còn một số thợ thủ công tại nhân gian, dưới sự an bài của Thần, đã tạo ra một số “sản phẩm mỹ nghệ” (nói chung là chỉ tất cả các món đồ vật trong Tử Cấm Thành), nhìn trên bề mặt thì hết thảy chúng đều phù hợp với tư tưởng và lý niệm thiên nhân hợp nhất của văn hoá truyền thống Trung Hoa.

Nhìn tất cả những thứ long lanh đẹp đẽ trước mắt, công chúa nghĩ: “Thần an bài hết thảy những điều này rốt cuộc là vì điều gì, lẽ nào chỉ để con người kính sợ trí huệ và năng lực của Thần, phải chăng còn có ý nghĩa sâu xa hơn?” Cô đã hỏi rất nhiều người về vấn đề này, trong đó gồm cả một số đạo sĩ rất có tiếng trong cung. Nhưng không ai có thể cho cô câu trả lời thỏa đáng. Cho đến một ngày từ phương Nam tiến cống cho triều đình một số trái cây quý hiếm. Hoàng đế ban trái cây cho các thành viên hoàng thất cùng thưởng thức. Khi công chúa cầm quả cây trên tay, cô đã vô tình nhìn thấy một cảnh tượng một vị Thần vĩ đại nắm trong tay một ít hạt giống, nói: “Khi đến nhân gian các ngươi nhất định phải kiên trì đợi đến ngày Sáng Thế Chủ hạ thế hồng truyền Đại Pháp, đến lúc ấy các ngươi cũng sẽ được cứu”. Vừa nói ông vừa rải các hạt giống khắp nhân gian. Tại nhân gian những hạt giống này trong quá trình sinh trưởng cũng đã bị các nhân tố như hoàn cảnh và khí hậu đương thời, cho đến bệnh tật, côn trùng, muông thú… làm hạn chế, quá trình sinh trưởng của chúng cũng chẳng hề dễ dàng gì, nhưng chúng vẫn ghi nhớ lời của vị Thần tiên kia, sống một cách kiên cường, sau này, dần dần người ta phát hiện ra loại quả này ăn rất ngon, cũng có thể dùng để tiến cống hoặc làm quà biếu, thế là loại quả này bắt đầu được mang ra khắp bốn phương. Bởi vì bản thân chúng có mang theo linh khí rất mạnh, nên trong quá trình kết duyên với thực khách, nếu như thực sự gặp được người có duyên hoặc gặp được sinh mệnh có ngộ tính tốt thì họ sẽ có thể minh bạch được thông điệp và ý nghĩa mà chúng truyền tải. Công chúa cũng may mắn trở thành một trong số họ.

Khi công chúa minh bạch tất cả những điều này, cô đã hiểu được rằng hết thảy mọi thứ là để mở đường cho Sáng Thế Chủ trong tương lai tại nhân gian hồng truyền Đại Pháp. Nhưng vấn đề lại là, làm sao để có thể kết duyên với Sáng Thế Chủ? Đến lúc ấy làm sao mới có thể tìm được Sáng Thế Chủ? Cô lại nằm trằn trọc trên giường với trăm mối ngổn ngang chưa có lời giải.

Sau này công chúa còn gặp một người xa lạ cứ đi qua lại trước mặt cô mà lẩm bẩm: “Được hưởng phúc mà không biết đó là phúc”, người ấy cứ lẩm bẩm như vậy tổng cộng đến mấy lần. Ban đầu cô không nghĩ ra điều gì, về sau thì chợt minh bạch: “Hiện giờ ta đang sống trong hoàn cảnh văn hoá mà Sáng Thế Chủ khai sáng, bản thân việc ta duy trì sự tôn kính và ngưỡng mộ đối với nền văn hóa Thần truyền này chẳng phải là đang kết duyên với Sáng Thế Chủ hay sao? Tại sao ta lại cứ một mực tìm cầu ở bên ngoài?” Khi minh bạch ra tất cả những điều này, Tây Vương Mẫu dường như đã xuất hiện trước mặt cô và nói: “Năm xưa vì để điểm hoá cho Hán Vũ Đế mà ta đã hiển hiện ra trước mặt ông ấy, lại còn lưu lại những hạt đào nhằm tiếp nối duyên phận sau này, đời này lại dùng hạt đào để tiếp tục mối duyên với công chúa, mọi việc quả thật chẳng hề dễ dàng gì. Đợi đến tương lai, cô (công chúa) nhất định sẽ được đích thân Sáng Thế Chủ truyền độ, hơn nữa sẽ là ở Bắc Kinh. Bởi vì lô những người của triều Minh sẽ chuyển sinh đến nước khác, trong tương lai cô cũng sẽ ở một đất nước khác mà bôn ba cầu viện cho người thân”. Công chúa muốn hỏi chi tiết hơn, nhưng Tây Vương Mẫu đã mỉm cười rồi biến mất.

Sau khi minh bạch được những điều này, công chúa đã hạ quyết tâm tu hành, vì để tương lai thực sự có thể được Sáng Thế Chủ đích thân truyền độ mà đã đặt định ra rất nhiều văn hoá và cơ duyên.

Đời này, cha của công chúa đã trở thành một trong những học viên lô đầu tiên của nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp khi Ngài đến Bắc Kinh truyền Pháp, sau này ông còn trở thành một liên lạc viên tình nguyện. Vào tháng 7 năm 1999, khi Giang Trạch Dân lợi dụng tà đảng Trung Cộng bức hại Đại Pháp, cha cô cũng đã bị kết trọng án một cách phi pháp, lúc này cô đang ở Mỹ bắt đầu bôn ba kêu gọi giúp cha mình và các học viên Pháp Luân Đại Pháp đang bị bức hại ở Trung Quốc đại lục. Sau này, qua 16 năm cha cô mới được trả tự do, nhưng trước khi xuất cảnh lại bị cấm xuất cảnh, không biết cha con họ bây giờ có được đoàn tụ ở hải ngoại hay không. Hy vọng bây giờ cha của cô ấy vẫn ổn.

Đây chính là:

Tu hành thiện duyên đào hạch khiên
Vinh hoa phú quý bất nhập nhãn
Nhất tâm chỉ vi quy chân phó
Kim triều đắc Pháp đoái tiền nguyện!

Diễn nghĩa:

Thiện duyên tu hành gắn liền với dẫn dắt
Vinh hoa phú quý không lọt vào mắt
Một lòng chỉ hướng đến việc quy chân
Đời này đắc Pháp thực hiện nguyện xưa!

Chú thích:

[1]: Để biết thêm chi tiết về hệ thống thoát nước của Tử Cấm Thành có thể tham khảo bài viết “Vì sao Tử Cấm Thành chưa bao giờ ngập úng” ở đây.

[2]: Tước phiên: Là chính sách mà vua chúa áp dụng để củng cố quyền lực của bản thân bằng cách thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyền lực, đất phong của chư hầu hoặc của thế lực cát cứ tại địa phương.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/252744

The post Chân trời tìm Pháp: Công chúa và hạt đào first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Thủy Nguyệthttps://chanhkien.org/2023/10/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-quan-am-thuy-nguyet.htmlTue, 17 Oct 2023 02:30:57 +0000https://chanhkien.org/?p=31552Tác giả: Như Chi chỉnh lý [ChanhKien.org] Một hôm, Quan Âm Bồ Tát đến thành Cô Tô (nay là Nam Kinh), chứng kiến hàng trăm nghìn người bị quân Kim sát hại trong chiến loạn. Quan Âm Bồ Tát sinh lòng từ bi, muốn dùng pháp lực để giải cứu những oan hồn này. Vì […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Thủy Nguyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Một hôm, Quan Âm Bồ Tát đến thành Cô Tô (nay là Nam Kinh), chứng kiến hàng trăm nghìn người bị quân Kim sát hại trong chiến loạn.

Quan Âm Bồ Tát sinh lòng từ bi, muốn dùng pháp lực để giải cứu những oan hồn này. Vì thế, Bồ Tát hóa thành một phu nhân xinh đẹp, tay cầm bình cam lồ và cành dương liễu đi tới nơi tập trung oan hồn. Bà dùng đá xếp thành một bệ cao vài thước, rồi ngồi kiết già trên bệ đá và tụng kinh “Thần Chú Đại Bi”. Mỗi khi niệm được một ngàn lần, Bồ Tát liền nhúng cành liễu vào bình, vẩy nước cam lồ lên không trung, sau đó lại cắm cành dương liễu vào bình tiếp tục niệm kinh.

Người dân địa phương thấy một người phụ nữ xinh đẹp xây đài niệm kinh, vô cùng khó hiểu nên vây lại xem và còn bàn luận sôi nổi. Quan Âm Bồ Tát nói với mọi người rằng: “Hiện nay mọi người đang bị nhà Kim ức hiếp, hàng trăm vạn người chết oan, thật đáng thương vô cùng. Những vong hồn này tam giới không nhận, lục đạo không quản, tản mạn bên ngoài. Hôm nay ta có duyên đến nơi đây, quyết tâm siêu độ họ, nên phát nguyện dựng đài tụng kinh 49 ngày, dùng dương liễu vẩy cam lộ giúp họ sớm ngày thoát khỏi khổ hải. Ta không cần quyên góp, cũng không xin khất thực. Đợi sau 49 ngày ta sẽ giải thích rõ cho mọi người”. Dân chúng biết rằng bà đang làm việc công đức cho người dân Cô Tô nên không ai bàn luận nữa.

Sau 49 ngày, hết thời gian Bồ Tát niệm kinh, người dân lại tập trung đến xem. Quan Âm Bồ Tát thuyết giảng tường tận cho dân chúng hiểu rõ kinh Phật. Trong đó có một người ngộ được rằng phu nhân xinh đẹp này là Quan Âm Bồ Tát hóa thân, nên anh ta tiến đến trước mặt bà bái lạy nói: “Con nghe nói Quan Âm Bồ Tát khi vân du nhân gian thường hiện thân bảo tướng, không biết hôm nay chúng con có diễm phúc được thấy thân chân của Ngài không?” Bồ Tát đáp: “Được”. Sau đó chỉ về phía hồ nước nói: “Giữa hồ nước kia chẳng phải có Bồ Tát sao?”

Mọi người nhìn theo hướng Bồ Tát chỉ tay, nhìn thấy dưới nước hiện ra hình ảnh bảo tướng của Quan Âm Bồ Tát. Mọi người vội vàng quỳ xuống bái lạy, khi đó dưới nước vừa hay xuất hiện một bóng trăng tròn sáng rực, bảo tướng của Bồ Tát dần dần ẩn đi biến mất dưới bóng trăng. Khi mọi người đứng dậy thì phát hiện phu nhân xinh đẹp trên đài đá cũng biến mất. Mọi người lúc này mới hiểu ra phu nhân xinh đẹp kia chính là Quan Âm Bồ Tát hóa thân. Vì vậy, người dân đã dựng một ngôi miếu ở nơi Bồ Tát niệm kinh, trong miếu có một pho tượng Quan Âm Bồ Tát tụng kinh và vẩy nước, dân gian gọi là “Quan Âm vẩy nước” hay “Quan Âm nhỏ nước”.

Trong số những người nhìn thấy bảo tướng của Bồ Tát bên bờ sông có một người giỏi hội họa tên là Khâu Tử Tĩnh. Để người thế gian thấy được hình tượng của Bồ Tát, anh liền dụng công vẽ lại hình tượng của Bồ Tát dưới hồ nước, bức tranh mang vẻ xuất thần, sống động như thật, khiến mọi người không ngớt ca ngợi. Bức tranh Quan Âm Bồ Tát hiện lên dưới nước và trăng này được thế nhân gọi là “Quan Âm Thủy Nguyệt”. Về sau, người dân tấp nập tới xin Khâu Tử Tĩnh vẽ tranh về thờ cúng ở nhà.

Đến nay, người dân ở vùng Tô Châu hầu hết vẫn thờ cúng Quan Âm Thủy Nguyệt.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52257

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Thủy Nguyệt first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết: Nguồn gốc của Quan Âm Thi Dượchttps://chanhkien.org/2023/10/truyen-thuyet-nguon-goc-cua-quan-am-thi-duoc.htmlMon, 16 Oct 2023 02:55:59 +0000https://chanhkien.org/?p=31549Tác giả: Như Chi [ChanhKien.org] Tương truyền Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, Quan Âm Thi Dược là một trong số đó. Một hôm, Quan Âm Bồ Tát đến Đăng Châu ở Sơn Đông. Khi đó đúng vào giữa mùa hè, thời tiết nóng nực, có một loại bệnh đang lây nhiễm rất […]

The post Truyền thuyết: Nguồn gốc của Quan Âm Thi Dược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi

[ChanhKien.org]

Tương truyền Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, Quan Âm Thi Dược là một trong số đó.

Một hôm, Quan Âm Bồ Tát đến Đăng Châu ở Sơn Đông. Khi đó đúng vào giữa mùa hè, thời tiết nóng nực, có một loại bệnh đang lây nhiễm rất nhanh, rất nhiều người không trị khỏi mà chết. Quan Âm Bồ Tát từ bi không nỡ nhìn thấy cảnh tượng này. Nên hóa thành một cụ ông bán thuốc đến khám cho bách tính. Khám cho vài bệnh nhân xong, Bồ Tát hiểu rằng nguyên nhân của dịch bệnh là do thân thể con người bị hư tổn chính khí mà bị tà ác bên ngoài xâm nhập, chỉ có hoắc hương mới có thể chữa khỏi.

Bồ Tát liền lên núi hái lượm hoắc hương, sau đó mang ra chợ bố thí. Người dân địa phương tuy bệnh tật khốn khổ nhưng vì ông lão bán thuốc là người ở nơi khác đến nên mọi người cũng không dám tùy tiện sử dụng. Sau đó một số người nghèo bèn nghĩ liều một phen uống thuốc của ông lão. Không ngờ rằng bệnh lại khỏi. Cứ như vậy một truyền mười, mười truyền trăm, mọi người tấp nập đến xin thuốc. Rất nhiều người được cứu.

Đến khi bệnh dịch hoàn toàn biến mất, Bồ Tát mới hiển lộ pháp tượng cho pháp sư Ưu Đàm chùa Trí Lâm và truyền phương pháp trị bệnh cho ông. Pháp sư Ưu Đàm kể cho dân chúng về sự thánh thiện của Bồ Tát, mọi người tự đáy lòng cảm kích ơn cứu mạng của Bồ Tát nên đã quyên tiền xây dựng chùa Quan Âm và thờ tượng Quan Âm. Tượng Quan Thế Âm không phải tay cầm bình liễu mà cầm một cây thuốc, cho nên thế gian gọi là “Quan Âm Thi Dược”.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52096

The post Truyền thuyết: Nguồn gốc của Quan Âm Thi Dược first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diệnhttps://chanhkien.org/2023/10/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-quan-am-tam-dien.htmlSun, 15 Oct 2023 02:32:51 +0000https://chanhkien.org/?p=31543Tác giả: Như Chi chỉnh lý [ChanhKien.org] Tương truyền rằng Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, ngoài Quan Âm Dương Liễu, Quan Âm Thi Dược, Quan Âm Ngư Lam, còn có Quan Âm Tam Diện. Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diện như thế nào? Một hôm, Quan Âm Bồ Tát hóa thành […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Như Chi chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diện (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Tương truyền rằng Quan Âm Bồ Tát có 33 hóa thân, ngoài Quan Âm Dương Liễu, Quan Âm Thi Dược, Quan Âm Ngư Lam, còn có Quan Âm Tam Diện. Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diện như thế nào?

Một hôm, Quan Âm Bồ Tát hóa thành hình dáng một thôn nữ, tay cầm tráp gấm, bên trong đựng chiếc gương quý bằng đồng, đem rao bán trên phố ở thành Lạc Dương.

Trên phố có không ít người hỏi giá của chiếc gương, Bồ Tát nói: “Chiếc gương này của tôi là vật báu hiếm có, phải bán 1000 lượng bạc, thiếu một đồng cũng không bán”. Nghe Bồ Tát nói vậy, có người hỏi chiếc gương báu này quý báu ở chỗ nào. Bồ Tát giải thích rằng: “Chiếc gương này, một là có thể nhìn thấy nhân tâm thiện ác, hai là có thể nhìn thấy những việc đã qua. Vì hai đặc điểm này mà có giá 1000 lượng bạc”.

Có một người không tin, liền hỏi: “Bảo vật này có thể để tôi thử không?” Bồ Tát trả lời: “Đương nhiên là được, nhưng mượn chiếc gương này của tôi một lần phải trả ba đồng”. Người kia lập tức lấy ra ba đồng đưa cho Bồ Tát. Bồ Tát lấy gương báu ra, nói với người kia khi soi gương nhất định phải tập trung tinh thần, không được suy nghĩ lung tung, mới có thể soi được chân hình.

Người kia gật gật đầu, tập trung soi gương, trong nháy mắt, quả thật anh ta nhìn thấy lần lượt từng bức tranh, đều là những việc mình đã từng làm. Sau cùng, anh ta nhìn thấy mình sau khi chết bị đọa vào cửa súc sinh, kiếp sau đầu thai làm một con chó mẹ. Xem xong tất cả, người này vô cùng kinh hãi. Nhưng những người xung quanh đều không nhìn thấy gì.

Quan Âm Bồ Tát lấy lại chiếc gương từ tay anh ta, hỏi rằng: “Giá soi gương một lần ba đồng có đáng không?” Người đó tái mặt sợ hãi, liên tục nói: “Đáng giá, đáng giá”. Những người xung quanh nghe anh ta nói như vậy, đều tới tấp muốn soi gương. Trước sau tổng cộng có 3000 người soi gương. Soi gương xong, đa số mọi người gương mặt biểu lộ sự sợ hãi hoặc đăm chiêu ủ dột, chỉ có một số ít người có trạng thái hết sức phấn khởi.

Thấm thoắt trời đã tối, Bồ Tát nói với mọi người: “Chiếc gương này chỉ bán 1000 lượng bạc là không đắt. Tiếc rằng mọi người đều là mắt trần tục, không người nào nhìn ra giá trị của nó”. Nói xong, Bồ Tát cho gương báu vào trong tráp, trước mặt mọi người triển hiện pháp tượng. Mọi người mới minh bạch hóa ra là Quan Âm Bồ Tát đến điểm hóa mọi người. Chỉ là trong mắt mỗi loại người thì Bồ Tát triển hiện các hình tượng khác nhau: trong mắt người ác, Bồ Tát hiện thân là Kim Thần Thất Sát, rất đáng sợ, trong mắt người bình thường, Bồ Tát hiện ra hình tượng phẫn nộ, cũng khiến người ta kinh hồn bạt vía; trong mắt người thiện Bồ Tát mới hiện ra hình tượng Quan Âm Bồ Tát khuôn mặt hiền hậu. Thế là mọi người bàn nhau dùng số tiền vừa đưa ra mà Bồ Tát không lấy xây dựng một ngôi chùa tại đó để thờ tượng Quan Âm Bồ Tát. Có điều bức tượng Quan Âm Bồ Tát này có ba mặt, mặt chính là mặt Quan Âm, bên trái là khuôn mặt giận dữ, mặt phải là khuôn mặt sân si, trong tay cầm một chiếc gương, thế nhân gọi là Quan Âm Tam Diện hoặc là Quan Âm Du Hý Tam Muội.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52095

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Quan Âm Tam Diện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (1)https://chanhkien.org/2023/10/luan-hoi-ky-su-kiep-nay-tu-duyen-1.htmlWed, 11 Oct 2023 02:52:57 +0000https://chanhkien.org/?p=31512Tác giả: Tiểu Liên [ChanhKien.org] Đó là một trải nghiệm bất thường và khó quên đến mức khắc cốt ghi tâm trong một đời nào đó mà tôi không nhớ được rõ. Tôi chỉ nhớ được rằng trải nghiệm kiếp đó của tôi xảy ra ở tỉnh Hà Nam ngày nay. Ở đó có một […]

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Tiểu Liên

[ChanhKien.org]

Đó là một trải nghiệm bất thường và khó quên đến mức khắc cốt ghi tâm trong một đời nào đó mà tôi không nhớ được rõ. Tôi chỉ nhớ được rằng trải nghiệm kiếp đó của tôi xảy ra ở tỉnh Hà Nam ngày nay.

Ở đó có một ngôi làng nhỏ, trong làng có hai anh em khá giàu có. Nhà của người em nói một cách tương đối thì vô cùng giàu có. Nhà của người anh cả không giàu bằng, nhưng so với nhà những dân làng khác lại giàu hơn nhiều. Người em có hai người con trai, con trai lớn tên Vân Long, con trai út tên Vân Lực. Lớn lên Vân Long sống ở nơi khác, rất giàu có. Cuộc sống của Vân Lực cũng sung túc không kém. Còn người anh có năm người con gái và một người con trai, người con trai út đó chính là tôi, tên Vân Phi. Lúc mới sinh ra tôi có một nốt ruồi đen ở lòng bàn chân phải, nốt ruồi tuy nhỏ nhưng lại rất rõ ràng.

Khi tôi năm, sáu tuổi, thì đại tỉ, nhị tỉ và tam tỉ đều đã được gả đi ở nơi rất xa rồi, ngũ tỉ về sau mắc bệnh chết yểu. Chỉ có tứ tỉ Vân Mai lớn hơn tôi 13 tuổi đối xử rất tốt với tôi. Tôi cả ngày chỉ quanh quẩn bên tứ tỉ, cuộc sống khá vui vẻ.

Một ngày nọ có một vị Đạo nhân đến nhà, khi nhìn thấy tôi thì ông nói với cha mẹ rằng muốn đưa tôi đi, muốn cho tôi học một số võ nghệ để tương lai tránh bị người khác bắt nạt. Đương nhiên cha mẹ rất không tình nguyện cho tôi đi. Lúc này vị Đạo nhân ấy biểu diễn một màn công phu trong sân nhà, chỉ thấy:

Thân khinh như yến thiên địa hành,
Động tác mẫn tiệp tự hùng ưng,
Triển chuyển đằng na thị thân pháp,
Huyền diệu siêu phàm hiện thần công!

Tạm dịch:

Thân nhẹ nhàng như én thiên địa hành,
Động tác nhanh nhẹn tựa chim ưng,
Chuyển dịch ngang dọc triển thân pháp,
Siêu phàm huyền diệu triển hiện thần công!

Phụ mẫu thấy vậy liên tục khen ngợi không ngớt, lúc đó mới để cho tôi đi cùng Đạo nhân. Đương nhiên tứ tỉ có chút lưu luyến không muốn tôi rời đi, nhưng khi nghĩ tôi đi rồi có thể học được bản sự lớn nên cũng đành buồn bã để tôi đi.

Thế là tôi cùng Đạo nhân đi một quãng đường rất xa, cuối cùng đến đỉnh một ngọn núi cao (Tung Sơn), từ đó trở đi tôi theo Đạo nhân học võ nghệ.

Ban đầu, các võ nghệ mà ông ấy dạy tôi là những công phu ngoài ngũ hành. Sau đó, ông ấy nhìn thấy căn cơ của tôi tốt, nên đã dạy cho tôi công pháp tính mệnh song tu chân chính, đây mới là tu luyện chân chính, tu luyện thật sự. Kết quả sau cùng cần bạch nhật phi thăng lên Thiên giới.

Có lần nọ, khi đang trò chuyện cùng với Đạo nhân, tôi hỏi ông ấy: “Sư phụ, nếu như lúc ấy ngài nói với cha mẹ con rằng dạy con một phương pháp tu luyện và cuối cùng thoát ly khỏi nhân gian, vậy thì chắc chắn cha mẹ sẽ không để cho đứa con trai duy nhất trong nhà ra đi, phải không?” Đạo nhân thở dài rồi nói: “Đúng vậy, con người luôn luyến tiếc thời gian trong cõi người, nhưng lại trong vô tri mà lãng phí sinh mệnh của bản thân, không biết được rằng vốn dĩ sinh mệnh có thể được sống tốt đẹp hơn!”

Thời gian trôi qua thật nhanh, nháy mắt đã 20 năm trôi qua, tôi cũng lớn thành một chàng trai trẻ tuổi rồi. Ngày nọ, sư phụ gọi tôi đến và nói: “Con về nhà đi, nhưng con nhất định phải ghi nhớ bất kỳ lúc nào cũng không được trễ nải việc tu hành. Và khi con 35 tuổi sẽ gặp một nữ tử có nốt ruồi trên trán, khi con gặp cô ấy, cô ấy đang vo gạo bên con suối nhỏ, trong nhà cô ấy có cặp ngỗng to. Con nhất định phải kết thành phu thê với cô ấy”. “Vì sao ạ?” “Một mặt con còn có rất nhiều tâm chấp trước cần vứt bỏ, một mặt khác, ta là sư phụ lại muốn con thành gia là vì trước đây ta đã từng hứa với người khác một việc (Về sau tôi mới minh bạch làm vậy là để kết duyên với hai vị Thần). Còn những việc khác không cần hỏi nhiều. Phải rồi, con hành tẩu ở nhân gian này khi chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ thì không được hiển hiện công phu thật sự của mình, ở bất cứ nơi đâu đều phải dùng thiện đối xử với người khác, con hãy nhớ lấy!” “Sư phụ cũng không có thứ gì cho con, chỉ có túi nhỏ này (bách bảo nang). Con đừng coi thường nó, trong này có thể biến hóa ra bất cứ thứ gì mà con cần. Và đương nhiên phải sử dụng cho chính, nếu không sau này sẽ khó lòng mà sử dụng túi nhỏ này nữa. Con đã minh bạch chưa?!” Tôi gật đầu.

Tôi rưng rưng nước mắt bái biệt sư phụ, mang theo cái túi nhỏ sư phụ cho liền xuống núi. Dùng năng lực tự mình tu xuất ra để về nhà thật sự rất nhanh. Khi về đến thôn, cảm thấy không khí có gì đó không bình thường, dường như mọi người đều đang tránh né tôi, muốn tìm một người để hỏi rõ sự tình cũng khó. Trong tâm lúc ấy rất khó xử. Nhưng nếu không hỏi thì trong lòng có chút không yên tâm cho lắm, sau đó nghĩ lại chẳng phải bản thân mình là người có công phu, vậy thì chẳng phải tôi chỉ cần biến hóa dung mạo bề ngoài một chút là được sao?! Tôi dứt khoát phải làm cho bản thân trở nên tiêu dao tự tại hơn một chút, về cơ bản thì trông tôi khác hẳn với lúc đầu.

Lúc này tôi lại tìm một người để hỏi rõ thì mới biết được sự tình: Hóa ra nửa năm trước có người giống tôi y đúc về đây, anh ta lợi dụng được chút yêu thuật đã học được để sát nhân phóng hỏa, hiếp đáp, làm nhục người khác, không việc xấu xa nào không làm. Ông cụ (cha tôi) quá tức giận, đã tìm rất nhiều cao thủ giang hồ về, thề sẽ bắt và giết chết nghịch tử nọ. Nghe nói hai tháng gần đây tiểu tử xấu xa kia không xuất hiện nữa, không biết nó lại đi đâu làm mưa làm gió nữa?

Tôi nghe xong trong tâm rất khó chịu, tôi tự nghĩ sao lại xảy ra sự việc này? Vậy là tôi đã cáo từ người đó. Tôi buồn bã trở về nhà, trong lòng nghĩ phải giải thích rõ ràng với phụ mẫu.

Vào đến cửa nhà thấy bố cáo treo giải tìm người do cha tôi viết: “Người nào bắt được tên nghịch tử kia sẽ được thưởng 500 lượng bạc”. Tôi đẩy cửa bước vào sân nhà vừa đúng lúc tứ tỉ cũng mở cửa, tôi vừa nhìn thấy tứ tỉ liền khóc, tứ tỉ lúc đó ngây người ra, vội hỏi: “Xin hỏi tiểu huynh đệ tìm ai vậy, tại sao lại khóc?” Lúc này tôi mới biết là vì mình đã thay đổi dung mạo nên tỉ không nhận ra. Thế là dung mạo lập tức đổi về như cũ. Tôi nghẹn ngào kêu lên: “Tứ tỉ, đệ là tiểu đệ của tỉ đây!” Tứ tỉ kinh ngạc, nói: “Ngươi không phải là tiểu đệ của ta, là tên tiểu tử xấu kia” “Tỉ không tin sao? Tỉ còn nhớ lòng bàn chân phải của đệ có một nốt ruồi nhỏ không?” Tôi cởi giày ra cho tứ tỉ xem. Tứ tỉ vừa xem quả đúng lòng bàn chân có nốt ruồi. Tứ tỉ lúc ấy gần như muốn ôm tôi mà khóc lớn một trận nhưng tỉ ấy cố kìm nén lại tình cảm của bản thân, nhanh chóng kéo tôi đến nơi vắng lặng cách xa làng, hỏi nhiều năm như vậy tôi sống thế nào. Tôi đã khóc và nói hết ra sự thật. Sau đó tôi mới hỏi: “Sao tỉ nhiều năm như vậy vẫn chưa lấy chồng?” “Ai chà, chắc có lẽ đời này tỉ không nên lấy chồng! Rất nhiều lần đã sắp xếp xong, cả ngày cưới cũng định xong xuôi nhưng lúc thì nam nhân nhà này mắc bệnh, lúc thì cha mẹ nhà kia mất, còn không thì nhà trai lại có hung sự”. “Hung sự nghĩa là gì vậy?” “Là rất không thuận lợi trôi chảy, giống như nếu như làm quan không bị giáng chức thì cũng bị vào ngục, nếu làm thương nhân đi buôn không bị lỗ thì cũng bị trắng tay. Ngay cả đại thẩm nhà hàng xóm kế bên cũng nói mệnh của tỉ không tốt!” “Vậy tỉ không cần lấy chồng nữa, sau này đệ lấy vợ, tỉ giúp đệ chăm cháu là được rồi”, tôi vừa nói vừa làm nũng tỉ. “Coi bộ dạng ngốc nghếch của đệ này, toàn nói linh tinh không đâu. Được rồi tỉ không nói với đệ nữa, đệ ngàn vạn lần không được quay về nhà, nếu không phụ thân khẳng định sẽ coi đệ là tiểu tử xấu xa kia mà giết đệ đó!” “Thật sự nghiêm trọng đến vậy sao?” Tôi không hiểu được hỏi lại. “Bây giờ phụ thân đã cam đoan với mọi người trong làng nếu thấy đệ là sẽ giết đệ, bất kể đệ ở nơi chân trời góc biển nào, chỉ cần thấy đệ là sẽ giết, để trừ hại cho dân! Đệ nhất định phải cẩn thận!” “Vậy đệ tới đâu ở, ăn cơm ở đâu đây?”, đối mặt với cảnh tượng thê lương, có nhà mà không thể về được, tôi buồn đến phát khóc. “Tỉ có dành dụm được chút bạc vụn, đệ cầm lấy mà dùng tạm, nhớ là đừng bao giờ về nhà nữa”. “Vậy đệ nhớ tỉ thì phải làm sao?” “Chẳng lẽ đệ không có cách nào sao, bao nhiêu năm nay đệ đã học những gì rồi?” Câu này đã khiến tôi tỉnh ngộ. Tôi nghĩ chuyện này nhất định là chuyện chính đáng, liền nghĩ: “Nếu như có chiếc gương nhỏ thì tốt, tới lúc đó nếu tứ tỉ muốn tìm mình thì nhìn về phía gương gọi ba lần lúc đó gương sẽ hiện ra mình đang ở đâu”. Vì vậy tôi hiếu kỳ lấy tay tìm trong cái túi nhỏ, trong túi hình như có vật tròn tròn, tôi lấy ra xem, quả nhiên là một chiếc gương đồng tròn nhỏ. Vì vậy tôi đã giao cho tứ tỉ, nói cho tỉ ấy cách dùng và sau đó chúng tôi chia tay nhau.

(Còn tiếp)

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/272180

The post Luân hồi ký sự: Kiếp này tụ duyên (1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cháu gái ngoại là người chồng chuyển sinhhttps://chanhkien.org/2023/10/chau-gai-ngoai-la-nguoi-chong-chuyen-sinh.htmlMon, 09 Oct 2023 04:48:51 +0000https://chanhkien.org/?p=31494Thiện Lương thuật lại câu chuyện của Nguyệt Nga [ChanhKien.org] Nguyệt Nga và chồng có cửa hàng chuyên buôn bán sỉ các mặt hàng nhỏ, quan hệ giữa hai vợ chồng thường ngày rất tốt, có nhiều lần người chồng đã cảm khái nói với Nguyệt Nga rằng, em thực sự quá tốt, kiếp sau […]

The post Cháu gái ngoại là người chồng chuyển sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thiện Lương thuật lại câu chuyện của Nguyệt Nga

[ChanhKien.org]

Nguyệt Nga và chồng có cửa hàng chuyên buôn bán sỉ các mặt hàng nhỏ, quan hệ giữa hai vợ chồng thường ngày rất tốt, có nhiều lần người chồng đã cảm khái nói với Nguyệt Nga rằng, em thực sự quá tốt, kiếp sau anh vẫn muốn ở bên cạnh em. Nguyệt Nga biết mình là người tu luyện Đại Pháp sẽ không có kiếp sau, nên mỗi lần sau khi nghe xong câu nói này của chồng mình, cô chỉ mỉm cười. Người chồng của cô có vẻ ngoài cao lớn đẹp trai, còn Nguyệt Nga có vẻ đẹp rất thanh tú, hai vợ chồng đúng là trai tài gái sắc, việc kinh doanh của họ cũng thuận buồm xuôi gió. Mười mấy năm trôi qua, người con gái tên Vân Anh của họ cũng đã trưởng thành, đồng thời tìm được một chàng trai tính khí hiền lành và rất yêu thương Vân Anh, gia cảnh cũng khá tốt, những ngày tháng của gia đình cứ thế trôi qua trong êm đềm.

Rồi phong ba đột nhiên ập đến, một ngày kia, Nguyệt Nga đặt một cuốn tài liệu chân tướng nhỏ dưới quầy bán hàng. Buổi sáng hôm sau người chồng đến sớm hơn cô một chút, khi thấy quyển chân tướng thì nổi giận đùng đùng, thuận tay xé rách hơn nữa còn vứt vào thùng rác. Nguyệt Nga đột nhiên nhớ ra cô để cuốn chân tướng dưới quầy hàng liền vội vàng chạy đi lấy, nhưng phát hiện không còn cuốn tài liệu ở đó. Cô cố gắng hỏi chồng đã vứt cuốn chân tướng nhỏ đi đâu thì anh đáp đã xé và vứt vào thùng rác. Sau khi nghe thấy như vậy Nguyệt Nga rất sốt ruột, nói với chồng rằng xé cuốn tài liệu đó sẽ không tốt cho anh và sẽ phải chịu báo ứng. Không ngờ người chồng lại buột miệng nói: “Tôi bị báo ứng cũng đáng, tôi chết cũng đáng thôi”.

Lời thề lúc buột miệng nói ra đó đã nhanh chóng lấy mạng chồng của Nguyệt Nga.

Mấy tháng sau chồng Nguyệt Nga bất ngờ nhận được chẩn đoán bị ung thư dạ dày, vì nhà có người thân làm tại bệnh viện lớn ở Thượng Hải nên đã lập tức đi kiểm tra một lần nữa và kết quả vẫn là ung thư dạ dày.

Bởi vì bệnh ung thư dạ dày cần làm phẫu thuật sớm nên ca phẫu thuật được thực hiện vào ngày 10 tháng 12 âm lịch và đã làm hoá trị một lần trong tháng giêng, nhưng khi đến xét nghiệm lần hai thì ung thư đã di căn. Lúc đó mọi người trong nhà không tin rằng đó là sự thật liền vội đến Thượng Hải để xét nghiệm lần nữa, kết quả của chuyên gia sau khi hội chẩn là ung thư đã di căn khắp cơ thể và đã lan đến xương, y học hiện đại cũng vô phương cứu chữa.

Sau khi chồng của Nguyệt Nga được chẩn đoán bị bệnh ung thư anh ấy đã đưa chìa khóa xe cho đứa cháu trai bên ngoại, nói rằng sau này cháu hãy dùng chiếc xe này. Mỗi lần đến bệnh viện thì thuận tiện nhờ cháu trai đến đưa đón.

Chồng của Nguyệt Nga lại phải nằm viện, lần này anh ấy không còn phản đối Đại Pháp nữa và còn niệm “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo” cùng Nguyệt Nga, nhưng anh lại quên xóa đi lời thề độc trước đây.

Chồng Nguyệt Nga giấu cô, tự mình đã thu xếp hậu sự cho bản thân và còn đem chiếc xe hơi mà anh ấy thích nhất để lại cho con gái Vân Anh, tất cả những việc này Nguyệt Nga đều không hề hay biết.

Hai tháng sau, chồng Nguyệt Nga đột nhiên nói với người em trai đang vội đến viện thăm anh rằng, nếu em đến muộn chút nữa thì sẽ không gặp được anh nữa đâu… Vân Anh và người chú vội vàng đến thăm bố, nghĩ rằng ông ấy chắc không có vấn đề gì. Khoảng 6 giờ chiều, chồng Nguyệt Nga đưa hai nắm tay hướng lên không trung, kêu lên mấy tiếng rồi bỏ lại người vợ và con gái thân yêu.

Nguyệt Nga đang bận việc kinh doanh trước cửa, đột nhiên có một người xem bói đi đến nói rằng xem bói miễn phí cho cô, Nguyệt Nga nói không xem. Điều kỳ lạ là người xem bói kia nói rằng con gái và chồng cô có một nút thắt cần được giải khai, nhưng Nguyệt Nga vẫn quyết không xem. Không lâu sau lại đến một người xem bói đến và vẫn nói như lần trước, Nguyệt Nga vẫn không động tâm. Cho dù là nút thắt gì thì ta đã tu luyện Đại Pháp rồi, sẽ không quan tâm những chuyện này.

Mấy tháng sau con gái gọi điện thoại đến nói rằng lại mang thai lần nữa. Điều kỳ lạ là sau khi mang thai, mỗi lần vừa nhắm mắt Vân Anh lại nằm mơ thấy đang ở cùng bố, ngày nào cũng ở cùng với ông ấy giống như lúc cô còn nhỏ vậy. Sau khi nghe xong câu chuyện, em gái Nguyệt Nga cũng là người tu luyện nói với cô rằng, đây chính là bố Vân Anh chuyển sinh rồi.

Không lâu sau Nguyệt Nga nằm mơ, trong giấc mơ cô thấy chồng mình nằm trên giường, còn cô và con gái ngồi cạnh hai bên giường. Cô thấy Sư phụ cũng ở đó, Sư phụ nói với Nguyệt Nga rằng: “Ta đã đưa anh ta quay lại với hai mẹ con con đó”.

Rất nhanh sau đó cháu gái ngoại chào đời và Vân Anh cũng không còn mơ thấy ở cùng bố nữa. Ở trong phòng sinh, khi đứa trẻ được bế đến trước mặt, Vân Anh vừa nhìn đứa trẻ liền cảm thấy yêu thương tột độ, một loại tình cảm yêu thương vô bờ bến.

Đến khi cháu gái đã biết đi, Vân Anh đưa con về nhà mẹ đẻ, không cần ai chỉ dẫn đứa trẻ đã tiến thẳng đến tủ kính rồi ngẩng đầu lên quan sát. Nguyệt Nga thấy vậy liền cười, đó chính là nơi mà chồng cô lúc còn sống thích nhất, “anh ấy” vẫn chưa quên nó, bên trong tủ sưu tầm đủ các loại rượu nổi tiếng. Cháu gái quay đầu lại rồi dùng ngón tay bé nhỏ của mình chỉ vào căn phòng mà lúc trước chồng của Nguyệt Nga từng ở và muốn đi vào trong. Đứa cháu nhỏ vẫn còn mang theo ký ức tiền kiếp, nó đi vào quan sát căn phòng trước đây của mình rồi vui vẻ rời đi.

Cháu gái nhỏ nay đã biết nói và lại được đến nhà bà ngoại, Nguyệt Nga hỏi đây là nhà của ai, cháu gái liền đáp là nhà của cháu.

Bây giờ Vân Anh thường xuyên đưa con gái nhỏ đi chơi khắp nơi trên chiếc xe hơi mà bố cô thích nhất khi còn sống.

Rồi một ngày Nguyệt Nga đến nhà con gái chơi, sau khi cháu gái nhìn thấy cô, nó không nhìn thẳng vào cô mà nghiêng nghêng mắt nhìn, Nguyệt Nga cũng không biết là tại sao. Cùng lúc đó đứa cháu gái lớn chạy đến vui vẻ nói rằng: “Bà ơi, câu chân ngôn bà dạy cháu vẫn còn nhớ, cháu đã niệm nó và thấy rất tốt”. Nguyệt Nga nghe vậy liền rất vui quay sang hỏi đứa cháu gái nhỏ: “Tây Tây, con đã niệm chưa?” Đứa cháu nhỏ đáp lại rằng con không niệm, con nghe lời mẹ, mẹ không cho con niệm, nói xong liền chạy đi mất.

Đến tối lúc đi ngủ, đứa cháu gái nhỏ lại lén đi vào phòng Nguyệt Nga, ngồi lên giường hai chân song bàn, hai tay hợp thập hỏi: “Cháu làm như thế này có đúng không ạ?” Nguyệt Nga gật gật đầu, rồi đột nhiên cháu gái liền nói: “Bà ơi, lúc cháu còn nhỏ bà đã từng bắt nạt cháu đấy”. Nguyệt Nga nói: “Tây Tây à, từ trước đến nay bà chưa từng bắt nạt cháu”, nhưng cháu gái vẫn nhấn mạnh rằng: “Không đúng, bà ngoại trước đây đã từng bắt nạt cháu”. Nguyệt Nga suy nghĩ một lúc và nhận thấy bản thân quá mạnh mẽ, trước đây từng rất nhiều lần bắt nạt chồng, mà đứa cháu nhỏ Tây Tây lại chính là người chồng chuyển sinh… Đúng giây phút đó Nguyệt Nga minh bạch ra vấn đề và vội vàng nhận lỗi, nói với cháu gái rằng bà đã sai rồi. Đứa cháu nhỏ nghe xong thì vui vẻ và chạy về phòng của mẹ mình.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/280698

The post Cháu gái ngoại là người chồng chuyển sinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Tại sao núi Hằng Sơn không có sơn môn?https://chanhkien.org/2023/10/truyen-thuyet-dan-gian-tai-sao-nui-hang-son-khong-co-son-mon.htmlSun, 08 Oct 2023 02:50:04 +0000https://chanhkien.org/?p=31479Chu Hiểu Huy chỉnh lý [Chanhkien.org] Trong tam sơn ngũ nhạc [1] của Trung Quốc, ngoài núi Bắc Nhạc Hằng Sơn ra thì bốn ngọn núi còn lại đều có sơn môn, tại sao núi Hằng Sơn không có sơn môn? Trong dân gian có truyền thuyết như sau: Không rõ vào triều đại nào, […]

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao núi Hằng Sơn không có sơn môn? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chu Hiểu Huy chỉnh lý

[Chanhkien.org]

Trong tam sơn ngũ nhạc [1] của Trung Quốc, ngoài núi Bắc Nhạc Hằng Sơn ra thì bốn ngọn núi còn lại đều có sơn môn, tại sao núi Hằng Sơn không có sơn môn? Trong dân gian có truyền thuyết như sau:

Không rõ vào triều đại nào, ở huyện Khúc Dương, tỉnh Hà Bắc có một tú tài hiếu thuận với cha mẹ. Một hôm, mẹ của tú tài mắc bệnh nặng, tú tài đã mời rất nhiều danh y nhưng bệnh tình không có chuyển biến gì, anh vô cùng nôn nóng. Một buổi tối, mẹ của anh nằm mơ, trong mơ hiện ra một ngọn núi lớn ở hướng Tây Bắc, trên núi có một người có thể trị được bệnh của bà.

Tú tài tìm người hỏi thăm, biết được ngọn núi ở phía Tây Bắc là núi Hằng Sơn ở Sơn Tây. Vì vậy, anh lập tức đến Hằng Sơn để tìm thuốc. Đến núi Hằng Sơn, anh vào đền thắp hương cầu khấn: “Nếu có thể khiến mẹ con khỏe mạnh trở lại, con sẽ đi từng bước khấu đầu từ Khúc Dương đến núi Hằng Sơn”. Cầu khấn xong anh xin đạo sĩ trong đền vài loại thảo dược.

Xin được thuốc rồi, tú tài vội trở về nhà sắc thuốc cho mẹ. Uống vài loại thảo dược xong quả nhiên mẹ của anh khỏi bệnh.

Thấy mẹ đã khỏi bệnh, tú tài quyết tâm thực hiện lời hứa của mình, anh cõng lương khô trên lưng từng bước từng bước khấu đầu đi về núi Hằng Sơn. Tấm lòng hiếu thảo của anh đã cảm động đến Thần núi Hằng Sơn, Thần núi đã dùng Thần lực ném một tảng đá lớn có khắc chữ “Hằng Sơn” xuống huyện Khúc Dương. Tú tài chưa đi khỏi cổng thành huyện Khúc Dương liền thấy một tảng đá lớn rơi xuống trước mặt, trên có khắc chữ “Hằng Sơn”. Vì vậy, tú tài đã quyên góp tiền để xây dựng một ngôi miếu nơi tảng đá rơi xuống, đặt tên là “Miếu Bắc Nhạc“, trên cổng miếu treo một tấm biển “Bắc Nhạc Hằng Sơn Môn”, ý nghĩa là đến huyện Khúc Dương thì được tính là đến cổng thứ nhất của núi Bắc Nhạc Hằng Sơn.

Chú thích:

[1] Ngũ nhạc: Năm ngọn núi linh thiêng ở Trung Quốc gồm Đông Nhạc, Tây Nhạc, Nam Nhạc, Bắc Nhạc, Trung Nhạc.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52620

The post Truyền thuyết dân gian: Tại sao núi Hằng Sơn không có sơn môn? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nghe tiếng kêu trong nồi, bàn chuyện vạn vật đều có linhhttps://chanhkien.org/2023/10/nghe-tieng-keu-trong-noi-ban-chuyen-van-vat-deu-co-linh.htmlSat, 07 Oct 2023 03:38:50 +0000https://chanhkien.org/?p=31471Tác giả: Chân Hàm [ChanhKien.org] Vạn vật thật sự có linh, và biểu hiện cũng hết sức thú vị. Tôi xin chia sẻ với các bạn về những gì tôi biết. Một buổi trưa nọ, tôi đang nấu há cảo. Nước đang sôi và há cảo thì nổi trong nồi. Tranh thủ lúc chế thêm […]

The post Nghe tiếng kêu trong nồi, bàn chuyện vạn vật đều có linh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Chân Hàm

[ChanhKien.org]

Vạn vật thật sự có linh, và biểu hiện cũng hết sức thú vị. Tôi xin chia sẻ với các bạn về những gì tôi biết.

Một buổi trưa nọ, tôi đang nấu há cảo. Nước đang sôi và há cảo thì nổi trong nồi. Tranh thủ lúc chế thêm nước lạnh vào nồi, tôi đi làm việc khác. Khi đi ngang qua nồi lần nữa, tôi nghe thấy há cảo trong nồi la lớn: “Mau nhấc chúng tôi lên, nếu không bụng chúng tôi sẽ vỡ mất!” Tôi nhanh chóng tắt bếp từ, lấy ra một cái chao và vớt há cảo đặt vào đĩa. Một trong những chiếc há cảo nhỏ hơn vẫn đang thở hổn hển và nói một cách đầy biết ơn: “Nếu cô đến muộn hơn, tôi sẽ nổ tung mất!” Tôi cười khúc khích, nhận ra mình đã bất cẩn.

Sinh mệnh của chiếc há cảo đó cũng sẽ biểu hiện ở một không gian khác, lúc này nó đang lặng lẽ nằm trên đĩa, vươn hai cánh tay gầy guộc ôm bụng nghĩ thầm: “Vừa rồi trái tim nhỏ bé của mình thật kinh hãi. Trong cuộc đời ngắn ngủi này, ai lại muốn chết trong nước sôi? Ít nhất thì mình cũng đã thoát ra khỏi cái nồi. Lát nữa, cô chủ sẽ ăn mình”.

Kỳ thực khi tôi đang luộc bánh trôi nước, tôi cũng nghe thấy chúng nói chuyện. Chúng nói: “Cuối cùng thì chúng ta sẽ không bị đông cứng nữa”, chúng còn vui hơn khi tôi cho chúng vào nồi. Tôi nhìn vào nồi và nồi sẽ nói với tôi rằng bánh trôi sẽ sẵn sàng trong vài phút nữa. Ngay cả máy hút mùi đôi khi cũng nói chuyện. Nó phàn nàn về việc người hàng xóm ở tầng dưới nấu ăn luôn khiến không khí có mùi khó chịu vì họ dùng quá nhiều tỏi. Tôi thường nấu với hương vị nhẹ hơn, và đôi khi tôi quên mất không dùng hành, gừng, tỏi. Tôi nghĩ máy hút mùi chắc chắn không thích mùi đó.

Có lần đang pha cà phê, tôi lơ đãng đổ một gói cà phê vào cốc, chợt nhận ra trong đó có 1/3 là nước lạnh. Tôi choáng váng và nhận ra mọi thứ xung quanh tôi cũng choáng váng, bao gồm cả cốc, ấm đun, ấm trà và cái khay. Tất cả đều có chung một suy nghĩ: “Chúng ta nên làm gì bây giờ nhỉ? Có thể bổ cứu được không?” Tôi thở dài và phải đổ nước sôi lại để điều chỉnh cốc cà phê rồi uống. Các sinh mệnh ấy thở phào nhẹ nhõm, và cốc nước nói: “Cô chủ thật dễ chiều và không hề kén chọn”. Tách cà phê nói: “Cậu chủ nhỏ yêu cầu cao hơn về hương vị nên sẽ không thể chịu thỏa hiệp”. Ấm trà nói: “Cậu chủ cũng để ý đến đồ ăn, nhưng người ít kén cá chọn canh nhất chính là cô chủ. Cô ấy ở nhà một mình, cái gì cũng ăn để tiết kiệm thời gian, chắc hẳn là bụng cô ấy phải khó chịu lắm”.

Nghe chúng nói chuyện, tôi tự nhủ: “Mình không quan tâm, cái gì mình cũng ăn được. Các sinh mệnh trong bụng mình đôi khi cũng phản kháng, chúng thích đồ ăn ngon”. Có vẻ như tôi vẫn chưa tu sửa được mình, chưa thể khiến cho chúng tu được đến mức vô dục vô cầu. Tình huống là như thế này: Khi chồng vắng nhà mấy ngày, tôi tạm đối phó với sự thèm ăn của mình bằng cách ăn đồ thừa, cháo, rau muối, mua hai cái bánh xèo cho đỡ đói và bột ngô. Điều này giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Sau vài ngày, vào một ngày nọ, trong bữa ăn, một giọng nói trong bụng tôi vang lên: “Hãy xem dạo này cô sống thế nào. Không phải là cô không có tiền. Những gì cô đang ăn khiến tôi buồn nôn”. Tôi chợt nhận ra rằng trước đây khi ăn, tôi có những lúc cảm thấy buồn nôn. Sau khi tìm hiểu, tôi nhận ra rằng trong tôi có một sinh mệnh đang phản kháng. Tôi nói với nó: “Ngươi cần phải đồng hóa với Đại Pháp và không được kén chọn đồ ăn. Nấu một bữa ăn ngon tốn rất nhiều thời gian”. Tối hôm đó, tôi tráng trứng ăn kèm với vài lát dưa chuột, và lần này không hề có phản đối nào.

Một ngày nọ tôi muốn nấu mì ăn liền, vừa mở bao bì ra, tôi nhớ đến sự việc gói cải chua của một nhãn hiệu mì ăn liền nào đó bị người ta giẫm nát. Cầm gói dầu, tôi nhìn vào nó và định vứt nó đi thì gói dầu đột nhiên lên tiếng: “Tôi thực sự không thể ăn được. Quá trình sản xuất bẩn kinh khủng”. Lúc đó, gói dầu bày tỏ suy nghĩ trong đầu nó: “Dầu đó bẩn lắm – đó là dầu trong cống rãnh. Những thứ trong đó thật khủng khiếp làm sao”. Tôi tự nhủ: “Ta biết mà, ta vẫn luôn vứt gói dầu đi”.

Hôm qua khi đang nấu cháo, tôi bốc một nắm hạt ý dĩ rồi đặt chiếc túi nilon đựng ý dĩ lên tấm ván trên ban công. Trong khi dọn dẹp, tôi vô tình làm đổ tung tóe túi hạt ý dĩ ra khắp nơi, một số hạt còn trong túi, một số đổ ra ngoài. Tôi nhanh chóng dọn dẹp và nghĩ thầm: “Sao mình lại quên không buộc cái túi lại nhỉ?” Những sinh mệnh xung quanh đều rất cẩn thận, thì thầm nói với nhau: “Các bạn lại lãng phí thời gian của cô chủ rồi”.

Tôi cảm thấy mình không giỏi thu dọn đồ đạc. Đôi khi tôi thiếu kiên nhẫn và cảm thấy choáng váng như thể đầu mình đang trướng lên thì các sinh mệnh trong nhà đều tỏ ra rất cẩn thận. Một số chúng ví dụ như cái chổi vươn cổ ra nhìn tôi. Một số khác cẩn thận thu mình lại, chẳng hạn như ấm trà của chồng tôi, lò vi sóng, cốc nước, v.v. Tôi nghĩ trường năng lượng của tôi không thuần tịnh và chúng cảm thấy khó chịu.

Hôm nay khi mở nắp hộp trà Long Tỉnh, tôi đã dùng lực quá mạnh khiến một ít trà rơi vãi ra ngoài. Tôi vô thức liền nhặt số trà rơi trên đất, bỗng có một giọng nói vang lên: “Đừng lo, chẳng phải cô vẫn còn trà Phổ Nhĩ sao?” Tôi thấy trà cũng đã bẩn rồi nên đã lau sạch sàn nhà. Khi tôi nhìn lên, tách trà nói: “Mau uống hết trà Long Tỉnh đi, rồi cô có thể thử trà Phổ Nhĩ”. Ngừng một chút, nó nói thêm: “Cách đây mấy hôm, cậu chủ mang trà Mao Tiêm về, cô đã cho đi hết. Tại sao cô không giữ lại một ít? Tôi muốn thử để biết hương vị của trà Mao Tiêm”. Tôi thầm nghĩ: “Tất cả chỉ là hương vị của trà, đại đồng tiểu dị thôi mà”. Không ngờ lò vi sóng lại lên tiếng. Nó nói: “Mấy năm trước, anh trai cô mang một ít trà từ Tây Tạng về, nhưng cô không bao giờ nếm thử. Thay vào đó cô đã mang nó biếu bố chồng cô, và tách trà mấy hôm liền cứ hối tiếc mãi”. Tôi nói: “Ngươi thậm chí không thể uống được trà, tại sao lại quan tâm đến điều đó?” Lò vi sóng nói: “Tôi không uống trà, nhưng tách trà sẽ cho chúng ta biết nó cảm nhận về trà ra sao”. Tôi nói: “Ồ, thì ra là vậy”.

Trước đây, tôi thấy một đồng tu sử dụng máy tính và sinh mệnh ấy hiển hiện ra giống như một chiến binh thủy thủ mặt trăng xinh đẹp. Một lần khi máy tính bị trục trặc, tôi nói: “Chắc hẳn là tà ác đang can nhiễu. Nếu chúng ta phát chính niệm thì nó sẽ ổn thôi”. Trong khi phát chính niệm, tôi thấy chiến binh thủy thủ mặt trăng trong bộ trang phục màu xanh đang bị tà ác đè xuống và tay chân của cô ấy bị trói. Trong chính niệm, tôi đã nhìn thấy tà ác bị tiêu diệt, chiến binh thủy thủ mặt trăng thoát khỏi sự trói buộc và đứng dậy, cử động cổ tay. Khi đồng tu bật lại máy tính thì nó đã trở lại bình thường.

Một đồng tu khác có một chiếc máy vi tính, và sinh mệnh trong đó là một ông già lưng gù cứ thỉnh thoảng lại ho. Tôi nói với đồng tu những gì mà tôi nghe được, và anh ấy cũng nói: “Đôi khi tôi nghe thấy tiếng ho và tự hỏi nó đến từ đâu. Cứ như thể đó là tiếng ho của một ông già vậy”.

Một đồng tu còn giữ nhiều mảnh thủy tinh mà anh ấy không dùng đến, vì thế anh ấy gói chúng thật chặt và để chúng ngoài sân. Khi đi ngang qua, tôi nghe thấy một giọng nói từ trong gói nói rằng: “Chủ nhân cứ giữ chúng tôi như vậy trong suốt thời gian qua, và chúng tôi không thể chuyển sinh được”. Khi tôi hỏi vị đồng tu trong gói đó là cái gì, anh ấy nói: “Đó là thủy tinh”. Tôi kể cho anh ấy nghe những gì tôi đã nghe và nói: “Vạn vật luân hồi và sinh mệnh có sự lựa chọn của riêng mình. Anh có thể đem chúng ra ngoài, nếu có người muốn sử dụng thì họ sẽ lấy, nếu không sẽ đem bán làm phế liệu”.

Về hiện tượng này, Sư phụ đã giảng:

“Khi chư vị mở thiên mục tới Pháp Nhãn Thông, chư vị sẽ phát hiện thế giới này là một cảnh tượng khác, chư vị vừa ra khỏi cửa, thì tảng đá, tường, cây, v.v., đều sẽ nói chuyện với chư vị. Vật thể nào cũng đều có thể sinh mệnh tồn tại, khi mà nó hình thành, thì đã có một thể sinh mệnh nhập vào đó”. (Pháp Luân Công – Chương III – Tu luyện tâm tính)

Kỳ thực, vạn vật không chỉ có linh mà sinh mệnh của chúng còn có sự luân chuyển, và phương thức biểu hiện cũng khác nhau. Tất cả các sinh mệnh đều ở trong luân hồi. Chẳng hạn, chiếc chảo rán mà tôi từng dùng để nấu ăn thì kiếp trước của nó lại là một chiếc chảo dùng trong bếp của khách sạn. Khi tôi nấu ăn, nó sẽ cho tôi biết khi nào thức ăn gần chín. Có vẻ như chảo rán có rất nhiều kinh nghiệm nấu nướng.

Sư phụ đã giảng:

“Lục đạo luân hồi chính là người ta đời này có thể chuyển sinh thành người, đời sau là động vật. Lục đạo luân hồi trên thực tế không chỉ là sáu đường luân hồi. Đó là Phật Thích Ca Mâu Ni giảng thế. Có thể chuyển sinh thành người, có thể chuyển sinh thành người trời, có thể chuyển sinh thành quỷ ở đường Tu La, cũng có thể chuyển sinh thành động vật, súc sinh, những thứ vật chất đó”. (Chuyển Pháp Luân quyển II – Giảng Pháp ở Đại Dữ Sơn)

Vạn vật có linh, điều này khẳng định là đúng. Trong căn phòng yên tĩnh đó, các sinh mệnh có niềm vui riêng của chúng, trong tự nhiên, vạn vật đều có quỹ đạo sống và cách thức vận hành riêng. Chỉ khi mắt chúng ta nhìn thấy vật thể sống thì chúng ta mới nghĩ đó là vật thể sống. Thực ra ngay cả vật tĩnh cũng có những tư duy rất sống động, chỉ là rất nhiều người không biết điều đó.

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/7762

http://big5.zhengjian.org/node/274831

The post Nghe tiếng kêu trong nồi, bàn chuyện vạn vật đều có linh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Tần Hoàng Đảohttps://chanhkien.org/2023/10/truyen-thuyet-dan-gian-nguon-goc-cua-tan-hoang-dao.htmlThu, 05 Oct 2023 02:49:18 +0000https://chanhkien.org/?p=31456Tác giả: Như Chi chỉnh lý [ChanhKien.org] Về nguồn gốc của địa danh Tần Hoàng Đảo ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, dân gian có truyền thuyết như sau: Tương truyền sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, nhất quyết muốn trường sinh bất lão. Ông nghe nói ở Đông Hải có ba […]

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Tần Hoàng Đảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Như Chi chỉnh lý

[ChanhKien.org]

Về nguồn gốc của địa danh Tần Hoàng Đảo ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, dân gian có truyền thuyết như sau:

Tương truyền sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, nhất quyết muốn trường sinh bất lão. Ông nghe nói ở Đông Hải có ba ngọn núi thần tiên: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu, nếu leo ​​lên được ngọn núi thần tiên thì sẽ lấy được thuốc trường sinh bất lão. Thế là Tần Thủy Hoàng bèn phái rất nhiều người đi tìm núi tiên nhưng tựu chung đều thất bại.

Sau này, một phương sĩ (phương sĩ chỉ những người cầu Tiên học đạo) tên là Lư Sinh nói rằng ông có thể tìm được thuốc tiên, Tần Thủy Hoàng rất vui mừng, liền ban cho ông rất nhiều của cải, đồng thời chọn một bán đảo ở phía Đông Bắc núi Kiệt Thạch làm bến tàu để tiễn ông ra khơi.

Lư Sinh mang theo hơn 20 người xuống thuyền ra biển, tìm kiếm rất lâu nhưng vẫn không tìm được đan dược. Nhưng Tần Thủy Hoàng bất ngờ phát hiện ra bán đảo nơi Lư Sinh đi ra biển là một địa điểm tuyệt đẹp.

Người đời sau dựng lên tấm bia đá ghi đây là “Nơi Tần Hoàng xuống biển cầu Tiên”, cái tên Tần Hoàng Đảo từ đó mà ra đời.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/52456

The post Truyền thuyết dân gian: Nguồn gốc của Tần Hoàng Đảo first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Câu chuyện luân hồi: Ta là ai?https://chanhkien.org/2023/10/cau-chuyen-luan-hoi-ta-la-ai.htmlSun, 01 Oct 2023 00:15:01 +0000https://chanhkien.org/?p=31405Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục [ChanhKien.org] Do một cơ duyên đặc biệt mà tôi biết được trải nghiệm luân hồi giữa tôi, vợ tôi và các bạn đồng tu rất thân thuộc bên cạnh tôi trong một kiếp sống nào đó, những trải nghiệm này rất đặc biệt, bởi […]

The post Câu chuyện luân hồi: Ta là ai? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục

[ChanhKien.org]

Do một cơ duyên đặc biệt mà tôi biết được trải nghiệm luân hồi giữa tôi, vợ tôi và các bạn đồng tu rất thân thuộc bên cạnh tôi trong một kiếp sống nào đó, những trải nghiệm này rất đặc biệt, bởi vì nó thuộc dạng chuyển sinh theo quần thể. Tôi cảm thấy rằng việc đối đãi với tình một cách đúng đắn và nhìn thấu nhân thế sẽ rất có ích cho mọi người, vì vậy tôi đã chỉnh lý và viết lại những trải nghiệm luân hồi của mình, hy vọng có thể giúp ích được cho mọi người.

Vào đầu thế kỷ XVII, tại một ngôi làng chài nhỏ ở cực Nam đảo Shikoku, Nhật Bản có một gia đình rất đặc biệt. Gia đình ấy có ba người, người vợ vì goá chồng từ khi còn trẻ nên đã mang theo đứa con gái tái giá với ông chủ nhà. Nói rằng gia đình này rất đặc biệt, không phải vì sự kết hợp đặc biệt của họ, mà là vì ở chính cô con gái của gia đình, vẻ đẹp và sự hiền đức của cô đã nổi tiếng gần xa. Câu chuyện bắt đầu từ trải nghiệm thần kỳ của người thiếu nữ xinh đẹp này, ở đây tôi tạm gọi cô ấy bằng một cái tên thật đẹp: Lệ Na.

Một hôm Lệ Na một mình đi đến bờ biển và tình cờ phát hiện ra một con trai (ngọc) tuyệt đẹp lớn tầm một thước (40cm), loại trai ngọc to cỡ này là cực kỳ hiếm thấy, có thể xem là vật quý hiếm nơi thế gian, nhưng cô gái Lệ Na lương thiện lại chẳng hề làm hại nó mà đem nó thả trở về biển cả không chút đắn đo. Ngày hôm sau Lệ Na lại đi đến bờ biển và lại phát hiện ra con trai ngọc, Lệ Na vẫn rất mực trân quý nó và đem nó thả trở lại biển cả. Vào ngày thứ ba, Lệ Na lại đến bãi biển và kết quả lại tìm thấy con trai một lần nữa, cô gái lương thiện đã chọn cách thả nó xuống biển cả. Cứ như vậy Lệ Na đã kết thân với con trai thần kỳ theo một cách đầy thần tích, Lệ Na luôn có thể gặp được nó bên bờ biển, cô thường vuốt ve nó và kể cho nó nghe mọi thứ về mình. Tuy thế con trai này không phải là một sinh vật đơn giản, mà kỳ thực là một loài vật giúp linh thông với Thần, xuất hiện ở Nhật Bản vào thời điểm đó với sứ mệnh bí ẩn của nó. Cũng kể từ đó, Lệ Na và con trai đã bắt đầu một mối quan hệ thần kỳ, con trai ngọc thường cho Lệ Na xem những viên ngọc trai tuyệt mỹ mà người khác không thể nhìn thấy, lại còn câu thông tư tưởng với Lệ Na, cũng vì vậy họ đã trở thành những người bạn tốt có thể chia sẻ với nhau về bất cứ điều gì.

Trong thời gian này, Lệ Na đang rất khổ não, bởi vì cô gái xinh đẹp ấy đã đến tuổi lấy chồng, mà cô lại lương thiện và xinh đẹp thế nên có vô số người theo đuổi, người đến xin kết thân đã sắp dẫm nát cả cửa rồi, Lệ Na không chịu được sự phiền nhiễu ấy nên thường đến bờ biển trò chuyện với con trai. Ngày hôm ấy con trai bảo cô rằng bọn họ đều là những kẻ phàm phu tục tử, cô chớ nên đồng ý, một ngày nào đó sẽ có quý nhân tới đón cô, cô nhất định phải đi cùng anh ấy.

Tương truyền rằng Thiên hoàng Nhật Bản khi ấy rất hiền lương, ông dốc lòng xây dựng đất nước, thường cải trang vi hành đi khắp nơi để khảo sát dân tình. Hôm ấy Thiên hoàng mặc thường phục dẫn theo một số cận vệ và vài cận thần khá thông minh đi vi hành, trong đó có một vị đại thần chuyên phụ trách đi tìm kiếm hoàng phi cho Thiên hoàng. Nhóm người họ đến làng chài nơi Lệ Na ở và gặp được những người có uy tín trong làng. Khi những người dân chài nhìn thấy Thiên hoàng, khí chất cao quý và phong thái vương giả của Thiên hoàng đã làm họ choáng ngợp. Lúc bấy giờ người dân Nhật Bản đều đã biết được đại khái về tướng mạo của Thiên hoàng, lại còn học theo Thiên hoàng ở rất nhiều phương diện, cũng biết rằng Thiên hoàng thường xuất ngoại vi hành, nên lần này những người dân làng chài cũng có chút nghi ngờ về thân phận thực sự của các vị khách mới đến, cảm thấy phong thái của họ tuyệt không phải tầm thường, nên người trong làng đã tiếp đón vị quý nhân này theo lễ nghĩa dành cho giai tầng thượng lưu. Vì gia đình Lệ Na rất giỏi nấu các món ăn ngon từ cá để chuẩn bị tiệc thết khách nên Thiên hoàng được sắp xếp đến chỗ nhà Lệ Na, nhờ họ phụ trách tiếp đãi Thiên hoàng, họ cũng được thông báo rằng có một vị quý nhân lai lịch phi phàm sẽ đến, phải tiếp đãi ngài ấy chu đáo, chớ nên khinh suất.

Gia đình ba người bắt đầu bận rộn vì Thiên hoàng, mỗi bữa tiệc từ cá họ làm đều rất độc đáo, mỗi món ăn đều có nét đặc sắc riêng, từ khâu chế biến, tẩm ướp cho đến nấu nướng đều hết sức độc đáo, do vậy các món cá tươi được làm ra đều thơm ngon đến mức khó có ai bì. Lệ Na cũng bận rộn ở bếp sau, ba người họ mỗi người mỗi việc. Đôi vợ chồng lăng xăng chiêu đãi khách ở nhà trước, riêng Lệ Na lại không hề lộ diện. Trong bữa tiệc người cận thần siểm tâu với Thiên hoàng rằng tiếng đồn cô con gái của nhà này vô cùng xinh đẹp và hiền đức, xa gần nức tiếng, thật đáng để nhà vua gặp mặt một phen. Được đám cận thần bẩm báo, Thiên hoàng cũng động chút tâm tư, nên nói với đôi vợ chồng rằng các vị lớn tuổi ngần này còn phải bận rộn chiêu đãi chúng tôi thật vất vả cực nhọc, hãy để người nào khác trong nhà ra tiếp đãi.

Đôi vợ chồng già bèn gọi Lệ Na ra ngoài, bởi vì phải gặp mặt người lạ nên Lệ Na bèn đeo một chiếc mạng che mặt mỏng, khoan thai bước ra diện kiến Thiên hoàng. Lúc ấy Thiên hoàng như gặp được thiên nhân, dưới tấm mạng che, khuôn mặt mỹ nhân hiện ra như đoá hoa thấp thoáng trong sương, lại càng tôn lên vẻ đẹp huyền ảo, Thiên hoàng bỗng sinh lòng yêu mến, nên quay sang nói với đôi vợ chồng già và Lệ Na rằng muốn đem họ về Đông Kinh cùng hưởng phúc. Cả nhà họ đều kinh ngạc vui mừng, với họ thì đây quả thực là việc tốt lành từ trên trời rơi xuống, đôi vợ chồng già đã gật đầu ngay. Còn riêng Lệ Na thì đã được con trai khải thị từ trước, đồng thời cô cũng say đắm trước khí chất của Thiên hoàng nên tự nhiên cũng ưng thuận theo. Vậy là ba người họ theo Thiên hoàng về đến tận Đông Kinh, mãi khi đến hoàng cung Nhật Bản cả gia đình mới biết vị quý nhân này chính là Thiên hoàng mà họ vẫn kính mến và ngưỡng mộ, Lệ Na đã trở thành hoàng phi của Thiên hoàng như ý nguyện, từ đó cuộc sống của ba người cũng thay đổi một bước lên trời.

Câu chuyện kể đến đây tôi cũng muốn tiết lộ về các nhân vật trong chuyện, Thiên hoàng Nhật Bản lúc ấy chính là tôi, người mẹ của Lệ Na là vợ tôi bây giờ, còn Lệ Na và ông bố dượng sẽ được kể ở phần sau. Sau khi tôi và vợ tôi bắt đầu tu luyện thì có kết giao với một cặp vợ chồng trẻ trạc tuổi chúng tôi. Do cùng tu luyện Đại Pháp lại cùng chung chí hướng, và giữa chúng tôi có một sự thân thiết không thể giải thích được nên bốn người chúng tôi nhanh chóng trở thành những người bạn rất tốt của nhau. Hai người đàn ông trở thành hai anh em, hai người phụ nữ cũng trở thành hai chị em rất tốt, hai nhà thường giao lưu chia sẻ với nhau, lại cùng đến Bắc Kinh chứng thực Pháp, cùng nhau đối mặt với sự bức hại của tà ác. Tuy hai gia đình thường phải chịu đựng cuộc sống gian khổ, phải chịu cảnh vợ con ly tán, bạn bè xa cách do hai người đàn ông thường xuyên bị bức hại, nhưng bất kể là ai bị bức hại, những người còn lại đều giúp đỡ nhau và chúng tôi bây giờ đã lại đoàn tụ bên nhau. Điều tôi muốn chia sẻ ở đây là vai diễn của họ trong câu chuyện trên, vợ của bạn tôi là Lệ Na, còn ông chủ nhà trong tiền kiếp lại chính là người bạn của tôi. Khi biết được sự thật này tôi đã rất chấn động, nhưng dưới đây vẫn còn một nhân vật của câu chuyện từng khiến tôi kinh ngạc giờ lại xuất hiện.

Cuộc sống của ba người gia đình Lệ Na sau khi vào cung không hề yên bình, hoàng thái hậu lúc bấy giờ là một người rất thủ đoạn, vì không chấp nhận được xuất thân hèn kém của họ nên thường xuyên gây rắc rối cho họ, mà thói quen sinh hoạt của một gia đình thường dân cũng không cách nào dung hoà được với cuộc sống của những người trong xã hội thượng lưu. Để không làm mất mặt hoàng tộc, trong cung đã cử một nữ quan đến dạy họ những lễ nghi của hoàng gia. Vị nữ quan này tầm 30 tuổi, trông rất xinh đẹp nhưng cũng rất nghiêm khắc và luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với họ. Vì chưa quen với cách nói chuyện hoa chân múa tay của vị nữ quan trẻ mà lão phu nhân thường nảy sinh mâu thuẫn với cô ấy. Còn ông bố thì rất thích chơi cờ, vì ông là quốc công, nên bên dưới có nhiều người nghĩ đủ phương cách đến cùng ông đánh cờ tiêu khiển, vì những lỗi sai trong cuộc cờ mà đã sinh ra bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười.

Thiên hoàng và Lệ Na sau khi kết hôn đã sinh được hai người con, hai người con ấy giờ đây đã chuyển sinh đến bên cạnh chúng tôi, hơn nữa mối quan hệ giữa hai người cũng rất đặc biệt, bởi vì giữa họ bây giờ là mối quan hệ cha con. Người cha (trong hai cha con) rất thân với chúng tôi, anh ấy cũng là một đệ tử Đại Pháp, chúng tôi đã cùng nhau đến Bắc Kinh thỉnh nguyện cho Pháp Luân Công, và đã quen biết nhau ở Bắc Kinh, và anh ấy hiện đang làm việc chung với người bạn tôi cũng là một đồng tu. Còn vị hoàng thái hậu kiếp này chuyển sinh thành chị gái của người bạn đồng tu của tôi, tính cách rất giống với kiếp trước, hiện tại cô ấy cũng là một đệ tử Đại Pháp. Vị nữ quan thì bây giờ là hàng xóm của chúng tôi ở tầng trên và cô ấy cũng là một đệ tử Đại Pháp hết sức tinh tấn, chúng tôi thường xuyên giao lưu với nhau và giúp đỡ lẫn nhau trong các hạng mục chứng thực Pháp. Còn vị quan tổng quản trong triều đình Nhật Bản năm ấy, tương tự như quan đại thần lễ bộ thượng thư của Trung Quốc, giờ đây đã chuyển sinh đến bên cạnh tôi, hiện đang làm việc với người bạn của tôi, anh cũng là đệ tử Đại Pháp, chúng tôi thường xuyên giao lưu chia sẻ và cũng rất thân thiết với nhau. Còn con trai với sứ mệnh đặc biệt trong câu chuyện giờ đây hàng ngày đang sống và làm việc cùng chúng tôi, đồng thời cũng là một đệ tử Đại Pháp tinh tấn. Người chồng đầu tiên đã mất sớm của người phụ nữ trong câu chuyện (tức cha đẻ của Lệ Na) đời này cũng đã chuyển sinh đến bên cạnh chúng tôi, cũng là một đệ tử Đại Pháp, vợ chồng tôi cũng có duyên gặp gỡ ông ấy, tuy đã biết rõ nhau nhưng chưa giao lưu nhiều.

Câu chuyện luân hồi chân thật này khiến tôi cảm thấy vô cùng chấn động, hoá ra tất cả những đồng tu thân thiết với tôi và những người tôi thường gặp đều có mối liên hệ mật thiết với nhau trong kiếp trước, kiếp này chúng tôi đã lại ở bên nhau. Và mặc dù các mối quan hệ trong đời này khá rối ren, nhưng cũng đều là bè bạn và người thân, hơn nữa đều đã đắc Pháp, lại rất thân thiết với nhau. Tôi biết bản thân mình đã trải qua vô số lần luân hồi, vì để hôm nay có thể đắc được Đại Pháp, cũng là do sợi dây duyên phận được buộc rất chặt, tôi cùng Sư phụ, một số đệ tử Đại Pháp khác cũng như người thân và bè bạn, trong dòng sông dài của lịch sử nơi nhân gian, dùng các phương thức khác nhau để luân hồi và kết duyên. Do vậy, giữa các đồng tu với nhau chúng ta thực sự nên trân quý mối duyên phận này, nên giúp đỡ lẫn nhau, cộng đồng cùng tinh tấn, không nên lại để nhân tâm và hoàn cảnh can nhiễu, hãy cùng nhau tiến về viên mãn.

Sau khi biết được sự thật của lịch sử và nhìn lại những người xung quanh tôi, tôi chợt giật mình: hết thảy đều giống như một giấc mơ hay một vở kịch, trong trạng thái này, chủ ý thức của tôi hết sức thanh tỉnh, tôi không còn dùng tình cảm con người và các loại nhân tâm để nhìn nhận mọi thứ xung quanh nữa. Khi đi trên phố nhìn dòng người tất bật không ngừng qua lại, ánh mắt tôi nhìn xuyên qua lớp thân xác người, nhìn thấu thế gian, rốt cuộc bản thân mình là ai? Người thân của tôi là ai? Mỗi một con người trong dòng người xuôi ngược ngoài kia, họ là ai? Trong lòng tôi dâng tràn bao niềm xúc cảm, tu luyện Đại Pháp khiến tôi biết được nguồn nguyên lai của sinh mệnh và ý nghĩa thực sự của sự tồn tại của sinh mệnh, nhìn lại những sinh mệnh đáng thương vẫn còn ở trong mê này, trong tôi tự nhiên cũng sinh ra một cảm giác từ bi.

Ấy là:

Chúng sinh giai do Thiên thượng lai

Mê vu tình trung bất tri quy

Đắc cứu Đại Pháp dĩ tại truyền

Nhất tuyến chi cơ bất khả phao

Diễn nghĩa:

Chúng sinh đều đến từ Thiên thượng

Mải mê trong tình quên lối về

Đại Pháp cứu độ đã truyền ra

Mối cơ duyên này đừng bỏ lỡ

Hỡi con người thế gian, hãy thức tỉnh, lòng từ bi của Phật Chủ đang chiếu rọi khắp nhân gian, Đại Pháp từ bi đã ban cho chúng ta chiếc thang bắc lên trời, giúp chúng ta phản bổn quy chân quay trở về với bản nguyên của sinh mệnh. Sự vu khống và bức hại của tà đảng Trung Cộng đã huỷ diệt lương tri và cơ duyên được đắc cứu của con người, trân quý Đại Pháp cũng chính là đang trân quý sinh mệnh của chính mình, đi theo tà đảng chính là đang tiến đến chỗ huỷ diệt; việc hiểu rõ sự thật, đi trên con đường ngay chính nhất định sẽ giúp bạn tiến đến tương lai.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/146689

The post Câu chuyện luân hồi: Ta là ai? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Ly biệt Hằng Sơnhttps://chanhkien.org/2023/09/chan-troi-tim-phap-ly-biet-hang-son.htmlSat, 30 Sep 2023 00:51:07 +0000https://chanhkien.org/?p=31400Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Năm 2011, tôi cùng Uý Trì Đức Chính và một vài người đến núi Hằng Sơn tỉnh Sơn Tây, tới chùa Huyền Không Tự thì có người trong đoàn vào chụp ảnh, nên hai chúng tôi đứng bên ngoài ngắm cảnh. Sau khi các anh chị em đi chụp […]

The post Chân trời tìm Pháp: Ly biệt Hằng Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Năm 2011, tôi cùng Uý Trì Đức Chính và một vài người đến núi Hằng Sơn tỉnh Sơn Tây, tới chùa Huyền Không Tự thì có người trong đoàn vào chụp ảnh, nên hai chúng tôi đứng bên ngoài ngắm cảnh. Sau khi các anh chị em đi chụp ảnh quay lại rồi, Uý Trì Đức Chính lái xe chở chúng tôi đi ngắm toàn cảnh núi Hằng Sơn. Nói thật, nhìn Hằng Sơn lúc này ô yên chướng khí, vô cùng bất hảo.

Khi một ngọn núi tràn ngập quá nhiều những thứ kim tiền danh lợi tất nhiên đã không thể trở thành nơi tu hành thanh tịnh. Điều này gây ra ảnh hưởng rất lớn đối với đạo đức thế gian, chính là phá hủy tín ngưỡng của con người, khiến con người trong tâm chỉ có kim tiền, mỹ nữ, từ đó mất đi chính tín vào Thần; dối lừa và diệt mất thiện lương, cũng phóng túng tâm lý tự tư của con người, loại sự tình này thật sự chỉ có ma quỷ mới có thể làm ra được.

Tôi còn nhớ trong núi Tây Nhạc Hoa Sơn, từng có một người tu đạo tu hành tại một nơi hiểm trở, sau này bởi vì thời gian tu luyện lâu rồi, người ta cũng đã nghe nói có một cao nhân xuất thế như ông nên không ngừng tới hỏi thăm. Rốt cuộc người tu đạo này phải di cư đến một nơi hiểm trở hơn, đào hang trên vách đá thẳng đứng làm nơi tu hành, như vậy mới tránh khỏi sự quấy nhiễu của con người. Con người ngày nay tìm đến thăm viếng địa điểm này cũng khiếp đảm kinh hồn. Chính là nói rằng người chân chính tu luyện không thích trước mặt mọi người nói cao luận rộng, khoe khoang bản thân, mà là mong muốn tĩnh lặng thực tu những cái tâm kia của mình, vui buồn cùng trời đất.

Cũng vì những nguyên do kể trên, mượn phần duyên phận này của tôi với Hằng Sơn, tôi xin kể ra một phần trải nghiệm trước đây của Uý Trì Đức Chính tại Hằng Sơn, trong khi tu hành anh có suy nghĩ thế nào về trạng thái chân chính thực tu, từ đó cáo biệt Hằng Sơn đi tìm Sáng Thế Chủ.

Uý Trì Đức Chính vào thời đầu nhà Minh sinh ra tại huyện Hồn Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Lúc này Bắc Nhạc Hằng Sơn còn bị phong bế trong Đại Mậu Sơn của thành Bảo Định tỉnh Hà Bắc, Hằng Sơn lúc đó được gọi là Thiên Phong Lĩnh. Sau này vào cuối triều Minh, nhất là sau khi quân nhà Thanh nhập thành, Thiên Phong Lĩnh mới có tên là Bắc Nhạc Hằng Sơn.

Năm anh 18 tuổi dáng vẻ rất khôi ngô, tuấn tú, bởi được cha mẹ giáo dục tốt nên tuổi còn trẻ mà đã có học thức, hiểu lễ nghi, còn có tấm lòng nghĩa hiệp. Người tốt, dung mạo đẹp, học vấn cao nên trở thành đối tượng để mắt kén rể của những nhà có con gái, họ tìm đến bà mối nhờ mai mối con gái nhà mình, vậy mà cửa nhà bị dẫm nát rồi, bà mối mồm mép cạn lời rồi, thế nhưng Uý Trì Đức Chính vẫn không ưng ý một ai.

Sau cùng cha mẹ của anh nổi giận: “Hồi trước thì con nói cô gái mà vú Trương đề xuất có tính khí không tốt; cô gái mà chị Lý nói đến không biết nấu ăn; dì Giả giới thiệu thì con nói một người anh em của con thích cô ấy, con không thể lấy đi tình yêu của người ta; còn sau này Lưu bà bà đề cập đến, con lại nói cô ấy gia giáo không tốt, không biết lễ phép. Cô này không được, cô kia con không vừa mắt, có phải là con muốn nhà ta đoạn tử tuyệt tôn hay không?”

Thực ra Đức Chính rất hiếu thuận, rất hiểu nỗi khổ tâm của cha mẹ, anh chỉ đành nói: “Nếu như có thể gặp được một cô gái có thể cần kiệm lo toan việc gia đình, tính cách tốt, thông hiểu sách biết lễ nghĩa, lại không bị người khác thích thì con sẽ đồng ý”. Cha mẹ của anh nói: “Đây là con nói đó. Đến lúc đó không được nuốt lời”. Lần này cha mẹ anh đã chủ động nhờ mai mối tìm một cô gái đáp ứng được những điều kiện này. Kết quả, thật sự đã tìm được ba người.

Ngoài việc thỏa mãn những điều kiện trên, mỗi cô gái còn có những đặc điểm riêng: Con gái Nhan gia không chỉ xinh đẹp mà còn hiền hậu đức hạnh; con gái Lý gia vô cùng thông minh; con gái Vương gia còn có thể đánh đàn tỳ bà. Việc chọn lựa khiến cả gia đình Đức Chính rất bối rối.

Sau cùng gia đình Đức Chính quyết định bốc thăm tuyển chọn, đầu tiên chọn trúng Lý gia. Đương khi họ đến Lý gia cầu thân, người nhà Lý gia nói: “Thật không đúng lúc, mấy ngày trước có một họ hàng phương xa đến nhà tôi, người họ hàng này đã giới thiệu cho con gái chúng tôi một gia đình, công tử nhà này đang làm quan lớn, rất có tiền đồ. Chúng tôi chỉ có thể nói với các vị rằng: rất lấy làm tiếc”.

Gia đình Đức Chính nghe nói vậy cũng không quá thất vọng, bởi vì vẫn còn hai nhà nữa. Vậy nên đến Nhan gia cầu thân, kết quả đến Nhan gia, vừa đến đã thấy cửa lớn treo vải trắng, đáng tiếc mấy ngày trước chủ nhà Nhan gia đã đột ngột qua đời vì bạo bệnh.

Gia đình Đức Chính chỉ có thể đến Vương gia, Vương gia vui vẻ đáp ứng hôn sự, còn cho Đức Chính và con gái nhà Vương gia gặp mặt. Tương giao qua lại với nhau rất vừa ý.

Định hôn rồi, liền chọn ngày lành giờ tốt rước dâu, kết quả sáng sớm ngày rước dâu, con gái nhà họ Vương đột nhiên cảm thấy đau đầu, sau một lúc thì chết. Hỷ sự biến thành tang sự. Tuy rằng chưa qua cửa, nhưng cũng đã đến cửa rước dâu rồi, trước tình hình này Đức Chính chỉ có thể trọn đạo làm chồng, đưa cô gái vào quan tài, tìm nơi phong thủy tốt chôn cất.

Từ đó trong vùng có lời đồn: Đức Chính khắc thê. Lúc này cũng không còn ai dám giúp anh mai mối nữa. Kinh qua những trải nghiệm này anh cũng nhìn ra nhân thế vô thường, bèn nói với cha mẹ: “Con thật sự bất hiếu, con quyết định xuất gia làm tăng. Không thể giúp cha mẹ già kéo dài hương hỏa nữa rồi”. Cha mẹ anh tuy rằng có phần buông không đành, nhưng thấy con mình nhân duyên không thành, cũng đành để cho anh đi.

Đức Chính vì vậy đến Thiên Phong Lĩnh, vốn ở đây có một ngôi chùa, anh bắt đầu làm tăng nhân quét dọn, ngoài lúc quét dọn thì tham thiền đả tọa. Vài năm trôi qua, định lực của anh dường như cũng không có tiến triển nhiều lắm. Sau đó trụ trì thấy anh rất thông minh, nên cho anh quản lý những việc điền sản trong chùa. Bởi vì anh rất đẹp đẽ ưu tú, những người trẻ tuổi ở lân cận đều muốn tìm anh nói chuyện phiếm.

Có lần, anh nghe trong những người trẻ tuổi đó nói rằng những hòa thượng làm quản lý điền sản trong chùa trước đây thường nhận hối lộ và nuôi gái riêng, có hòa thượng thậm chí còn lén lút ra ngoài uống rượu, đánh bạc. Lúc này anh cảm thấy nơi này dường như không phải chốn thanh tu.

Sau đó có một người thường lên núi cãi cọ rất khó chịu với trụ trì, sau khi người đó rời đi, trụ trì đã mắng mỏ tất cả các tăng nhân một trận. Tiếp đó có vị quan lên núi, trụ trì giống như kẻ tùy tùng chạy trước chạy sau, khiến anh cảm thấy rất không hay.

Sau này vì việc của tăng nhân khác, trụ trì nghi ngờ anh lấy trộm mấy thứ, bắt anh trói lại, lúc này tất cả hòa thượng trong chùa không ai nói một lời công đạo, đều là lựa gió lái thuyền, thế là trụ trì đuổi anh ra khỏi chùa.

Anh cũng không muốn cùng hàng ngũ với những người không chân tu đó nên đã rời Thiên Phong Lĩnh đi vân du, sau đó anh đến hang đá Vân Cương. Tại đây, anh nhìn thấy những bức tượng Phật được tạc khắc trước đây, sâu trong nội tâm thật sự cảm thấy có duyên với Phật nên đã ở lại đây một thời gian. Có một ngày, anh đang đi bộ trong hang đá thì một lão nhân tóc trắng đi tới trước mặt.

Lão nhân kéo Đức Chính ngồi xuống dưới bức tượng Phật mang tính biểu tượng của hang đá Vân Cương, ông nói với Đức Chính: “Ta biết con chân tâm cầu Pháp, nên không muốn ở trong ngôi chùa đó của ta”. Đức Chính thấy ẩn ý trong lời mà lão nhân nói, liền hỏi thăm: “Ngài chẳng lẽ có quan hệ với Thiên Phong Lĩnh đó sao?” Lão nhân mỉm cười: “Ta là vị Thần cuối cùng quản lý Thiên Phong Lĩnh đó, sau này nơi đó sẽ không còn gọi là Thiên Phong Lĩnh nữa, mà gọi là Hằng Sơn, thiên thượng sẽ thông qua hoàng đế ở nhân gian phong danh cho ngọn núi này là Bắc Nhạc. Nhạc (岳) vào thời cổ ở Hoa Hạ được xem là ký hiệu phạm vi thống trị trực tiếp của Hoàng đế, sau này truyền thừa tiếp xuống trở thành tượng trưng cho quyền lực (chữ Nhạc 嶽). Thực ra từ Thiên thượng mà nhìn, để thế gian con người xuất hiện ngũ Nhạc (năm ngọn núi thiêng ở Trung Quốc gồm Đông Nhạc, Tây Nhạc, Nam Nhạc, Bắc Nhạc, Trung Nhạc), cũng chính là thể hiện của ngũ hành, là nền móng cho sự phát triển lớn mạnh của vương triều. Trường năng lượng của ngũ Nhạc dung hợp tương quan với nhau, sẽ mang đến cho vương triều quốc thái dân an; ngược lại mà nói, nếu như hoàng đế của vương triều thất đức, ngũ Nhạc này sẽ xuất hiện dị thường, nền móng của vương triều sẽ bất ổn. Trên những núi Nhạc này đều có các vị Thần Tiên khác nhau cai quản”.

Nghe được những điều này, Đức Chính nói: “Như vậy ngài là vị Thần Tiên cuối cùng quản lý Thiên Phong Lĩnh, vậy có phải là tương lai sau khi nơi này bị đổi thành Bắc Nhạc thì sẽ có một vị Thần Tiên khác tới quản lý phải không? Con không quan tâm ai đang quản lý ngọn núi này, con chỉ đang nghĩ, bây giờ các ngôi chùa trên Thiên Phong Lĩnh đã không phải là nơi tịnh thổ thực tu rồi, nếu như đổi tên thành Bắc Nhạc, danh tiếng xa rộng, người đến rất đông, thì càng không phải là chỗ thực tu, thanh tu mà thôi”.

Lão nhân vẫn cười như trước: “Thiên Phong Lĩnh bị phong thành Bắc Nhạc chính bởi vì Huyền Không Tự. Lai lịch của ngôi chùa này rất lớn, không chỉ là một kỳ tích trong kiến trúc, mà trọng yếu hơn là, trước đó đã có một nhân vật đặc biệt ở tại Huyền Không Tự này, do đó thiên thượng an bài tại thời kỳ cuối cùng của lịch sử, Thiên Phong Lĩnh đổi thành Bắc Nhạc, để làm nổi bật Huyền Không Tự và nhân vật đặc biệt này. Còn như nói về việc tu hành ở các ngôi chùa khác trên Thiên Phong Lĩnh, nếu như là người chân tu, sẽ thể ngộ được rằng từng được nhân vật đặc biệt ở Huyền Không Tự kia từ bi bảo hộ. Không phải là người chân tu trong hoàn cảnh không thực tu kia sẽ dần dần thoái hồi nhân thế, đó cũng là kiếp số của họ….”

Khi họ đang trò chuyện sôi nổi, Đức Chính nhìn thấy một luồng ánh sáng vàng đi vào trong tượng Phật, sau đó tượng Phật mở miệng nói.

Chỉ nghe tượng Phật nói: “Ta muốn bảo con rằng, bất kỳ ai chỉ làm các việc mà không tu tâm, thì căn bản đều không thể thành Phật. Bởi vì tại các tầng thứ khác nhau trên thiên thượng đều có tiêu chuẩn. Trong tư tưởng đều nghĩ những thứ dơ bẩn không tốt, thì làm sao có thể lên trời đây? Hơn nữa thân thể không đạt được yêu cầu của tầng thứ đó thì căn bản là không được, cho nên không như con người tưởng tượng, tôi có chức vụ nào đó trong chùa hoặc trong đạo quán hoặc tôi kính dâng Phật cái gì đó thì có thể thành Phật. Người tu thành Phật thì kính Phật là điều cơ bản nhất, nếu không thì chẳng còn gì để nói. Nhưng chỉ đơn thuần kính Phật thì không thể thành Phật”.

Nói xong tượng Phật huơ tay một cái, Đức Chính liền tiến nhập vào một không gian, đây là không gian do Phật diễn hóa ra cho anh, tại đây anh nhìn thấy mặt chân chính mỹ hảo thuần tịnh của sinh mệnh, từ thân thể tới tư tưởng của những vị Thần này đều vô cùng thuần tịnh. Sau đó lại cho anh nhìn thấy trạng thái tư tưởng của những người xưng là người tu Phật không tu tâm chỉ làm các việc, họ chỉ có một cái tâm kính Phật, nhưng thâm sâu trong tư tưởng lại rất dơ bẩn, thân thể cũng rất bẩn, rất nhiều người không chỉ là “rất bẩn” mà còn vô cùng dơ bẩn, họ khoác bên ngoài cái vỏ người tu hành, làm những việc thậm chí còn không phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức của người thường. Đức Chính thấy rằng những người này đã có tên trong địa ngục rồi. Trong những chùa chiền đạo quán mà họ trông coi không có Phật Đạo Thần, những vị Thần đó sớm đã bỏ đi rồi, vốn đã không còn quản họ nữa rồi.

Thấy cảnh này khiến Đức Chính vô cùng chấn động, sau cùng hướng tượng đại Phật hỏi: “Kính hỏi Tôn giả, con đến nơi đâu để tìm Đại Pháp tu tâm chân chính?” Tượng đại Phật nói: “Con đi Đông Nhạc Thái Sơn mà tìm. Ta biết Sáng Thế Chủ Phật tương lai sẽ hồng truyền Đại Pháp tại thế gian”.

Nghe đại Phật nói như vậy, Đức Chính vô cùng mừng rỡ, quyết định nhanh chóng khởi hành đến Đông Nhạc Thái Sơn.

Nơi này cách Thái Sơn rất xa, nhưng vì biểu thị lòng thành kính với Sáng Thế Chủ, Đức Chính quyết định bộ hành vân du. Bởi vì anh ăn mặc như tăng nhân, suốt đường đi cũng gặp được một số thiện nam tín nữ bố thí, anh cũng giảng cho họ nhân quả luân hồi của Phật gia và đạo lý trần thế vô thường.

Chuyện dài nói ngắn, ngày nọ cuối cùng anh cũng đến được chân núi Thái Sơn hùng vĩ. Anh ở lại chân núi ba ngày, sau đó mang tấm lòng thành kính nhất, đại thể là bò lên núi. Khi bò tới cầu Vân Bộ, anh nhìn xuống dưới, đột nhiên nhìn thấy rất nhiều chúng sinh đều rất cảm động trước sự thành kính của anh, họ cảm thấy dường như đã được cứu rồi. Đột nhiên khiến anh nhận ra: “Sự tu hành của bản thân không chỉ đơn giản vì công thành viên mãn sinh mệnh chính mình, mà còn vì thành tựu càng nhiều sinh mệnh hơn”. Khi bò tới Thập Bát Bàn, đột nhiên Thần hiển hiện cho anh cảnh tượng mấy trăm năm sau, Sáng Thế Chủ với vô lượng kim quang đi trên đường núi này, nhưng khi đó Sáng Thế Chủ mặc trang phục của thời đó, anh đưa mắt nhìn, hình như trên trời còn có chim sắt (máy bay) đang bay.

Cuối cùng đã đến Đỉnh Ngọc Hoàng và Thiên Nhai, lại nhìn xuống nhân gian, anh chợt cảm thấy không còn chút tạp niệm nào. Sáng sớm ngày thứ hai, anh đã thấy được bình minh lộng lẫy, tráng lệ.

Trông theo tia sáng vạn trượng của mặt trời, anh lớn tiếng phát nguyện: “Sau này nhất định phải đi theo Sáng Thế Chủ Phật, lúc đó nhất định phải làm thật tốt”. Sau khi anh phát nguyện xong, Sáng Thế Chủ trên trời từ từ hạ xuống. Đức Chính nhìn thấy rất vui mừng, quỳ xuống lắng nghe lời dạy của Sáng Thế Chủ Phật.

Chỉ nghe Sáng Thế Chủ Phật nói: “Ta tại nhân gian từ xưa tới nay chuyển sinh qua rất nhiều sinh mệnh, cũng đã ở tại Huyền Không Tự một thời gian. Tương lai ta sẽ lấy thân phận người thường hồng truyền Đại Pháp khiến sinh mệnh thật sự được cứu độ; ta cũng sẽ tới Đông Nhạc Thái Sơn, khi đó con nhất định phải tu cho tốt, bởi vì căn cơ và ngộ tính của con rất tốt, cho nên tới lúc thì con phải phát huy tác dụng của mình. Nhất định phải nhớ kỹ: vô luận làm gì đều phải tu tâm, đây là căn bản. Hơn nữa nhất định không được xem trọng những việc mình đã làm được, nếu không sẽ gây ra rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với việc tu hành. Có rất nhiều người sẽ bởi vì làm được chút việc tốt liền bành trướng kiêu hãnh, cuối cùng những người này không chỉ không đạt được gì, hơn nữa còn bị hạ địa ngục. Không phải nói rằng tới học Pháp của ta thì đều có thể công thành viên mãn, căn bản không phải khái niệm ấy. Chỉ có người chính tâm, người chân tu mới có thể viên mãn, nếu không đến khi gây tổn thất và ảnh hưởng phụ diện cho Pháp này thì tội đó lớn vô cùng! Điểm này con nhất định phải nhớ rõ!” Nói xong Sáng Thế Chủ liền biến mất.

Đức Chính được Sáng Thế Chủ đích thân ủy thác, trong lòng tràn đầy cảm giác thần thánh, đồng thời cũng có cảm giác trọng trách. Nhưng lúc này anh còn có một việc không rõ, cũng không kịp hỏi Sáng Thế Chủ Phật, đó là vì sao nhân duyên kiếp này của anh lại trắc trở như vậy? Nhưng Sáng Thế Chủ Phật đã rời đi, anh cũng không thể tìm được vị Thần nào khác để giải đáp ẩn đố trong lòng mình nên đã mang theo ẩn đố này xuống núi.

Sau khi xuống núi, anh tiếp tục vân du, khi đi đến nơi mà ngày nay là Liên Vân Cảng, tại đây anh trú trong một ngôi chùa nhỏ, không lâu sau có một vị Thần chưởng quản các việc ở đây đến, ông ta lấy diện mạo người thường xuất hiện.

Vị thần này nói với Đức Chính: “Tôi và anh tương lai sẽ còn gặp lại nhau tại nơi này (không phải chỉ nơi ngôi chùa nhỏ ấy, mà là nói tại Liên Vân Cảng), anh và miền đất này có duyên”. Đức Chính nói: “Tôi biết, tới lúc sẽ có duyên với rất nhiều sinh mệnh các nơi, hiện tại tôi muốn biết nhất là, tại sao nhân duyên đời này của tôi lại trắc trở như vậy? Liệu tương lai có đi lại vết xe đổ ngày hôm nay hay không?” Vị Thần Tiên này mỉm cười: “Bởi vì trước đây khi anh là nữ nhân đã từng phụ lòng ba nam nhân. Tất nhiên đều là không cố ý, đều vì hiểu lầm. Nhưng mà bất hạnh của ba vị nam nhân đó đều là vì anh mà ra….” Đức Chính lúc này liền nói: “Thế chắc lúc đó tôi đẹp nghiêng nước nghiêng thành, không như tứ đại mỹ nhân thì cũng không thua kém là bao”. Nào ngờ vị Thần nói: “Nếu là mỹ nữ thì tốt quá rồi, anh lúc đó không chỉ không phải mỹ nữ mà còn là bà lão xấu xí hơn 80 tuổi….” Đức Chính đang đợi vị Thần nói tường tận, tiếc thay vị Thần đột ngột thay đổi chủ đề: “Tôi còn có việc, không nói chuyện với anh nữa”. Đức Chính liền nói: “Ngài nói hết câu rồi hãy đi có được không?” Thế nhưng vị Thần đã đi luôn không quay đầu lại.

Vì vị Thần không nói cho Đức Chính biết nên tôi lưu lại thắc mắc này ở đây để độc giả suy ngẫm, trên thực tế một việc phát triển rất nhiều lúc cơ bản là không giống như chúng ta tưởng tượng.

Ngày nay Đức Chính sớm đã đắc Pháp, chỉ là tình cảm hôn nhân vẫn không như ý. Bất kể thế nào, anh bất luận làm việc gì đều xem việc đó như tu luyện, xem như là biểu hiện của tu tâm. Hy vọng anh có thể làm càng tốt hơn.

Đây chính là:

Phong Lĩnh xuất gia vi tầm đạo

Chẩm nại miếu lý ô yên nhiễu

Tẩu nhập Vân Cương ngộ tôn giả

Thái Sơn cực đỉnh Phật quang diệu!

Dịch nghĩa:

Xuất gia tìm đạo nơi Thiên Phong Lĩnh

Nào ngờ trong chùa khói đen bao quanh

Đến động Vân Cương gặp được tôn giả

Phật quang chiếu sáng trên đỉnh Thái Sơn

Cần nói rõ: Mặc dù ngọn núi này được gọi là Thiên Phong Lĩnh khi nhân vật chính đang đi tìm Pháp, nhưng bây giờ người ta đã có ấn tượng rằng Thiên Phong Lĩnh chính là Hằng Sơn. Nếu ngày nay mà gọi Thiên Phong Lĩnh thì có nhiều người không biết, vì vậy tiêu đề sử dụng hai từ Hằng Sơn thay vì Thiên Phong Lĩnh để nhiều người có thể hiểu vị trí địa lý và hoàn cảnh của nhân vật chính một cách trực quan hơn.

Bình luận phản hồi:

Tam Sơn Ngũ Nhạc bao huyền diệu, cổ kim chớp mắt cách một niệm, lưu lạc tùy tâm không tùy sự, tí tí chút chút giải kỳ duyên, đều nghe chính đạo là dâu bể, lầu nhỏ Huyền Không cầm kiếm báu, khởi thiên duyên, khai chính kiến, hiểu rõ định mệnh ca tụng Sư nguyện, lành thay, kết duyên hoàn nguyện, hồng trần mỉm cười xóa hết, nhiều lần đợi chờ, chuyển độ, tân vũ trụ vô hạn.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/262428

The post Chân trời tìm Pháp: Ly biệt Hằng Sơn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nguyên thần bất diệt: Những điều Lý Thời Anh đã thấy khi nguyên thần ly thểhttps://chanhkien.org/2023/09/nguyen-than-bat-diet-nhung-dieu-ly-thoi-anh-da-thay-khi-nguyen-than-ly-the.htmlThu, 28 Sep 2023 01:00:26 +0000https://chanhkien.org/?p=31385Tác giả: Đức Huệ [ChanhKien.org] Những năm Long Khánh thời nhà Minh (năm 1567 – 1572), có viên quan tên gọi là Lý Thời Anh, là người Tiền Đường (nay là Hàng Châu). Ông từng làm thái thú ở Nam Hải, Tần Châu (nay là thành phố Tần Châu, tỉnh Quảng Tây). Con người ông […]

The post Nguyên thần bất diệt: Những điều Lý Thời Anh đã thấy khi nguyên thần ly thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đức Huệ

[ChanhKien.org]

Những năm Long Khánh thời nhà Minh (năm 1567 – 1572), có viên quan tên gọi là Lý Thời Anh, là người Tiền Đường (nay là Hàng Châu). Ông từng làm thái thú ở Nam Hải, Tần Châu (nay là thành phố Tần Châu, tỉnh Quảng Tây). Con người ông thành tâm hướng Phật, mỗi ngày đều kiên trì tụng kinh niệm Phật. Năm Đinh Mão thời Long Khánh, tức những năm đầu thời Long Khánh (năm 1567), ông đảm nhận chức quan giám khảo coi thi cho các cuộc thi khoa cử. Không ngờ một lần khi ông đang ở trường thi thì đột nhiên phát bệnh, liền đó chìm vào hôn mê ba ngày ba đêm. Trong khoảng thời gian này nguyên thần của ông ly thể và đã có một số trải nghiệm ở không gian khác, hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu cho mọi người về câu chuyện này.

Theo lời kể của Lý Thời Anh, khi ông hôn mê, nguyên thần ly thể thấy một vị Thần Kim giáp (áo giáp vàng). Vị Thần Kim giáp này dõng dạc nói rằng muốn bắt ông, áp giải đến chỗ Thái Sơn Phủ quân để xét xử. Thái Sơn Phủ quân là vị Thần quản lý người chết trong truyền thuyết. Lúc ấy Thần Thành hoàng, Thần Thổ địa vùng này cũng có mặt, Thổ địa nói rằng Lý Thời Anh không chỉ là một vị quan tốt lại còn niệm kinh tín Phật, kiên quyết không ký tên đóng dấu vào văn thư áp giải Lý Thời Anh. Vị Thần Kim giáp vô cùng tức giận, từ trong tay áo lấy ra món pháp khí tên “Hỏa Đinh”, chỉ thấy món Hỏa Đinh này dài ba thước, chiếu thẳng xuyên qua đỉnh đầu của Thần Thổ địa, thân thể Thần Thổ địa lập tức bị thiêu rụi thành tro bụi, qua một lúc sau, Thần Thổ địa lại từ trong đống tro tàn mà biến thành hình người, khôi phục lại thân thể. Thần Thổ địa vẫn y nhiên như trước biểu thị rằng Lý Thời Anh là người tốt thường niệm kinh tín Phật, không chịu ký tên đóng dấu lên trát thư áp giải Lý Thời Anh. Vị Thần Kim giáp phẫn nộ nói: “Vậy ta sẽ áp giải Thần Thổ địa nhà ngươi đi cùng hắn đến chỗ Thái Sơn Phủ quân thẩm án”.

Chính vào lúc này, bỗng có mấy hồn quỷ từ đâu đột ngột nhảy về phía Lý Thời Anh như muốn đòi mạng, bọn quỷ hồn nói rằng Lý Thời Anh đời trước làm thái thú ở Cửu Giang, tham ô hối lộ, xử án oan sai rất nhiều. Lý Thời Anh nhất thời hoảng loạn chỉ biết tụng niệm kinh Phật, chợt thấy một vị Thần Tiên Đạo gia là Lã tổ Lã Động Tân ngồi mây bay đến, khi đến phía trên đầu họ, ông liền bay tà xuống bên dưới, những oan hồn khi nãy còn liến thoắng liên hồi đòi mạng, nhìn thấy Thần Tiên đến rồi, đều bị dọa sợ chạy ra xa, mất tăm mất tích. Lý Thời Anh liền quỳ xuống khẩn cầu Thần Tiên làm chủ cho mình, không ngờ rằng Lã Động Tân nói rằng: “Trả lại đan cho lão quân ta”, lại chăm chú nhìn ông ta một lúc, rồi nói: “Nghiệp nặng, nghiệp nặng, đáng tiếc thay đan cũng hỏng mất rồi, người hãy liên tục niệm “Kinh Kim Cương”, thử hướng đến lục tổ Huệ Năng của Thiền tông cầu cứu xem sao”.

Lý Thời Anh cứ thế mà tụng niệm liên tục “Kinh Kim Cương”, thuận theo sự thành tâm tụng niệm, lục tổ Huệ Năng của Thiền tông đã thật sự bất ngờ xuất hiện, Huệ Năng nhìn vào Lý Thời Anh đang quỳ rạp dưới mặt đất kia, nói rằng: “Nghiệp nặng, nghiệp nặng, ta cần phải thương lượng lại với ngũ tổ”, nói đoạn liền rời đi. Lý Thời Anh bi thương cực hạn, Thần của cả hai nhà Phật và Đạo đều nói rằng mình nghiệp nặng, không khống chế được liền đưa tay định nắm lấy vạt áo cà sa, mong lục tổ Huệ Năng đưa mình đi cùng, không ngờ tay giơ ra nhưng chỉ nắm được một khoảng không lớn. Tuy rằng ông đã nhìn thấy lục tổ Huệ Năng hiển hiện ra, nhưng vì tầng thứ khác nhau, làm sao có thể chạm vào được đây. Không lâu sau, trên không trung truyền đến từng đợt từng đợt hương thơm ngào ngạt lạ lùng, thì ra là ngũ tổ của Thiền tông Hoằng Nhẫn giá đáo. Sau đó, chỉ nghe thấy hai vị ngũ tổ Hoằng Nhẫn và lục tổ Huệ Năng cùng nói: “Hãy buông tha cho người tụng kinh ấy”.

Vị Thần Kim giáp nhanh chóng tiến lên trên, túm lấy Lý Thời Anh, ném xuống đất mà bỏ đi. Theo đó nhục thể nơi nhân gian bên này liền tỉnh lại, một thân đầy mồ hôi lạnh, bệnh cũng đã khỏi, hỏi ra thì đã trôi qua ba ngày rồi. Cuộc thi kết thúc, Lý Thời Anh bước ra khỏi trường thi liền xin từ quan về quê, về đến Tiền Đường (Hàng Châu), đến chùa Tịnh Từ ở vùng đó xuất gia tu hành. Ngôi chùa Tịnh Từ này cũng chính là chùa Tịnh Từ Hàng Châu ngày nay, vì nằm ở bờ phía Nam của Tây Hồ, người vùng ấy thời nhà Minh gọi là “Hồ Nam Tịnh Từ Tự”, là một trong bốn ngôi chùa cổ lớn trong lịch sử Tây Hồ. Lý Thời Anh sau khi xuất gia, liền thêm phần nỗ lực tụng niệm kinh Phật, mỗi ngày khổ tâm tu hành, mong được giảm nhẹ tội nghiệp, siêu độ những oan hồn, nhiều năm sau đó ông không bệnh mà lâm chung qua đời. Theo tìm hiểu của người viết, câu chuyện này không những được ghi lại trong “Kinh Kim Cương Tân Dị Lục”, mà trong “Tịnh Từ Tự Chí” do các tăng nhân chùa Tịnh Từ biên soạn sao chép cũng có ghi lại câu chuyện giống như vậy, cho thấy tính chân thực của câu chuyện khá cao.

Câu chuyện của Lý Thời Anh đã chỉ rõ ra rằng sinh mệnh của con người chính là không ngừng trong luân hồi. Đời trước của Lý Thời Anh là một ác nhân, thế nên Thần Kim giáp mới muốn bắt ông ta đến Phủ quân Thái Sơn để xét xử, Thần Thổ địa vì ông ta đời này là một người lương thiện niệm kinh tín Phật, mà không đồng ý để Thần Kim giáp đưa ông đi. Xem ra vì cảnh giới khác nhau, trách nhiệm khác nhau, mà những vị Thần khác nhau sẽ có những nhận thức và cách làm khác nhau. Sự tranh chấp giữa Thần Kim giáp và Thổ địa, lại dẫn đến sự tham gia của những vị Thần cao hơn, to lớn hơn lần lượt xuất hiện theo, như Lã Động Tân, lục tổ Huệ Năng, ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Mà Lã Động Tân lại hướng đến Lý Thời Anh nói “Đan của Lão Quân”, có lẽ Lý Thời Anh không những kiếp trước là kẻ ác, mà có thể trước đó nữa đã từng mắc nợ đan dược của Thần Tiên, xem ra sinh mệnh trong luân hồi đằng đẵng cũng là từ tầng cao đến tầng thấp, là quá trình giáng hạ từng tầng từng tầng, mỗi một tầng đều có thể mắc nợ làm tổn hại đến sinh mệnh khác, thậm chí còn có thể mắc nợ những vị Thần Tiên ở cao tầng. Như vậy phải chăng ở những tầng thứ khác nhau có lẽ cũng có những chủ nợ đòi nợ, thậm chí đòi mạng, kể cả khi bạn có thể trả hết mọi món nợ trên nhân thế này, thì làm sao có thể trả sạch hết những món nợ với các vị Thần Tiên khác nhau chứ? Có thể thấy con người muốn tu hành, muốn trở về thiên đường, chính là một quá trình cực kỳ gian khổ, không có sự từ bi to lớn cứu độ của Đại Giác Giả thì tuyệt đối không có khả năng.

Làm thế nào để tìm được Chính Pháp chân chính có thể độ nhân đây? Phật giáo đến ngày nay cũng đã đang trong mạt Pháp, theo cách nói của Phật giáo thì Phật giáo thời mạt Pháp cũng không thể độ nhân được nữa. Vậy thì phải chăng thế nhân ngày nay đã không còn hy vọng rồi sao? Không phải vậy! Ngày nay Pháp Luân Công dựa vào hình thức khí công truyền rộng toàn thế giới chính là Đại Pháp tu luyện Phật gia có thể độ nhân một cách chân chính. Pháp Luân Công không dùng hình thức tôn giáo, thật ra Phật Thích Ca Mâu Ni năm đó chỉ bảo đệ tử xuất gia tu hành, chứ không hề lập ra tôn giáo, Phật giáo là kết quả từ việc tổ chức hóa của người đời sau.

Học viên Pháp Luân Công trong quá trình tu luyện, có nhiều vô cùng những câu chuyện từ việc khỏi bệnh khỏe mạnh cho đến chữa khỏi các bệnh hiểm nghèo, cũng có học viên xuất hiện tình huống nguyên thần ly thể đến các không gian khác, thậm chí thấy được thế giới Phật quốc, vũ trụ bao la vô biên. Các câu chuyện thần tích xuất hiện vô cùng nhiều. Pháp Luân Công cũng vì hiển hiện ra hiệu quả thần kỳ, nhận được gần 6000 giải thưởng cùng lượng lớn thư ủng hộ của chính phủ các nước trên toàn thế giới. Người có lòng tu hành, xin đừng vuột mất cơ duyên với Pháp Luân Công.

Nguồn tài liệu:

[Kinh Kim Cương Tân Dị Lục nhị tổ Sắc Hoàn]

Dịch từ: https://big5.zhengjian.org/node/284447

The post Nguyên thần bất diệt: Những điều Lý Thời Anh đã thấy khi nguyên thần ly thể first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với ấm trà (4 – 2)https://chanhkien.org/2023/09/van-vat-deu-co-linh-noi-chuyen-voi-am-tra-4-2.htmlMon, 04 Sep 2023 02:14:04 +0000https://chanhkien.org/?p=31229Tác giả: Chân Hàm [ChanhKien.org] Bởi vì ấm sứ nhỏ không muốn kể về kiếp luân hồi lần đó của nó, nên tôi quay ra làm việc nhà một lúc, rồi đưa ra quyết định, tôi sẽ đi viết về lần luân hồi bi thảm đó của ấm sứ nhỏ, không cần nó phải khóc […]

The post Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với ấm trà (4 – 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Chân Hàm

[ChanhKien.org]

Bởi vì ấm sứ nhỏ không muốn kể về kiếp luân hồi lần đó của nó, nên tôi quay ra làm việc nhà một lúc, rồi đưa ra quyết định, tôi sẽ đi viết về lần luân hồi bi thảm đó của ấm sứ nhỏ, không cần nó phải khóc lóc kể lể nữa. Bởi vì khi viết xong bài “Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với ấm trà (3)”, tôi liền viết “Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với ấm trà (4)”, nhưng cái ấm sứ nhỏ này cứ khóc lóc mãi, nên tôi đành đi viết về hộp đựng trà, ở giữa lại viết thêm vài bài nữa rồi. Không thể tiếp tục bỏ lỡ thời gian thêm nữa.

Tôi nhìn thấy cái ấm sứ nhỏ này trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc của lịch sử, khi ấy nó là một người phụ nữ xinh đẹp ở nước Tề, có tên là Kỳ Trinh. Chồng của cô ấy tên Văn Thành, giữ một chức quan nhỏ trong quân đội, Kỳ Trinh trong một lần khi đưa đồ đến quân doanh, bị trưởng quan của chồng là Tiếu Lặc bắt gặp, Tiếu Lặc ngạc nhiên trước vẻ đẹp của Kỳ Trinh, liền nảy sinh ý đồ xấu. Đầu tiên hắn cử Văn Thành ra bên ngoài đi đưa thư, lại phái người đến nửa đường hại chết anh ta, sau đó ngụy trang thành thượng cấp chăm sóc người nhà của thuộc hạ hòng tiếp cận Kỳ Trinh, giúp đỡ, cứu tế cho cô ấy, làm cô ấy sinh lòng cảm kích. Cuối cùng đến một ngày, hắn chiếm hữu được Kỳ Trinh. Kỳ Trinh có một đứa con trai tên là Văn Xương mới ba tuổi, Kỳ Trinh đành nương thân vào Tiếu Lặc. Đây là năm 476 trước công nguyên.

Vợ cả của Tiếu Lặc là Tề Mẫn, là một người phụ nữ xấu xa, biết chồng mình thương yêu Kỳ Trinh, cô ta rất đố kị. Cô ta dần dần biết được ngọn nguồn của sự tình, quyết tính kế giành lại chồng, không những thế, cô ta còn muốn hại chết hai mẹ con Kỳ Trinh. Cô ta cố ý để Kỳ Trinh biết được nguyên nhân cái chết của Văn Thành, lại sắp xếp một người đầy tớ tỏ ra quan tâm đến cô ấy, còn bày tỏ sự bất mãn đối với chủ nhân. Kỳ Trinh muốn đem con trai bỏ trốn, người đầy tớ nói muốn giúp cô ấy. Kết quả đến ngày bỏ trốn lại bị Tiếu Lặc phát hiện, đây đương nhiên không thể thiếu sự sắp đặt của Tề Mẫn. Tiếu Lặc cho rằng Kỳ Trinh muốn cùng người đầy tớ bỏ trốn, phản bội mình, trong cơn thịnh nộ, hắn đã đánh đập Kỳ Trinh rất tàn nhẫn, lại lỡ tay đánh chết đứa bé, hắn sai người đem xác đứa bé vứt xuống một cái giếng khô, sau đó bắt nhốt Kỳ Trinh lại, đến nửa đêm Kỳ Trinh bị Tề Mẫn sai người bỏ thuốc độc hại chết.

Đây là âm mưu quỷ kế tính lên thân người phụ nữ xinh đẹp, là câu chuyện bi thảm của cả gia đình bị diệt khẩu, khó trách người trong cuộc không muốn nhớ lại, tôi đã thay nó kể ra rồi.

Sáng sớm hai ngày hôm sau, ấm sứ nhỏ nói: Chủ nhân thật quá đáng, đem những lời con muốn nói kể ra hết rồi, thực ra con vẫn còn trải qua một lần luân hồi bi thảm nữa.

Tôi nói: Ngươi muốn kể rồi à, chị ấm trà xinh đẹp đã khuyên ngươi phải không?

Ấm sứ nhỏ nói: Vâng, lời chị ấy nói thật dễ chịu, khiến con nghe thấy thoải mái làm sao.

Tôi nói: Xem ra, lần này, chị ấm trà đã mở được lòng ngươi rồi, ngươi không né tránh nữa rồi!

Ấm sứ nhỏ nói: Vâng, con vốn dĩ trong lòng quá uất ức, mọi người đều quan tâm con, khuyên nhủ con, con muốn thay đổi bản thân.

Tôi nói: Tiếp tục kể về luân hồi của ngươi sao?

Ấm sứ nhỏ nói: Đương nhiên rồi. Con lần đó bị hại chết, thuộc loại chết bất đắc kỳ tử, cần phải đợi thời gian rất lâu mới được chuyển sinh, con vô cùng oán hận người đã hại chết con, con phát lời thề muốn báo thù. Âm gian đã cho phép con báo thù. Thời gian báo thù được an bài vào thời Tần, khi Tần Thủy Hoàng tu sửa Trường thành, con làm đốc công, con nhìn thấy hai người rất không vừa mắt, họ chính là hai vợ chồng đã hại chết con, con cầm roi quất bọn họ vô cùng hung bạo, lúc nào cũng tìm cơ hội tiếp cận bọn họ, dùng roi hành hạ bọn họ. Cuối cùng, bọn họ chết rồi, con thở dốc cũng thấy dễ chịu.

Tôi nói: Lúc này thù báo được rồi. Thế còn tên giết người tham dự vào cái chết của chồng ngươi và tên đầy tớ xấu xa, cũng nên phải báo thù chứ!

Ấm sứ nhỏ nói: Đúng vậy, ông Trời làm sao có thể tha cho bọn họ. Tên đầy tớ đó chuyển sinh thành một người đầu bếp, con nhìn cô ta không thuận mắt, luôn kiếm cớ xoi mói, người khác cũng bắt nạt cô ta khiến cô ta sầu não, lại mắc thêm bệnh rồi chết đi. Còn kẻ hại chết Văn Thành, đã được âm gian sắp xếp cho Văn Thành đi báo thù rồi.

Tôi nói: Đều nói oan có đầu, nợ có chủ. Thời không tích đủ kiếp số rồi, Thần sẽ cho ngươi cơ duyên được báo thù. Thiện ác hữu báo, nhân quả không chừa một ai!

Ấm sứ nhỏ nói: Vào thời Hán Vũ Đế, con là một cái lan can xinh xắn ở trong cung, con cùng rất nhiều lan can khác đứng sừng sững trong cung, từng gặp qua rất nhiều người, từ Hoàng Đế, Trần A Kiều, Vệ Tử Phu, đến Đông Phương Sóc, và rất nhiều người nữa. Con lại tiếp tục đứng như thế thêm hơn 100 năm nữa, Hoàng Đế, Phi tần, nội giám, cung nữ qua lại tới lui. Con cảm thấy những người con gặp đều là khách vãng lai. Vào cuối thời Hán, con bị hủy đi, lại được chuyển sinh, đến thời Đông Hán ở trong cung điện thành Lạc Dương, con là một miếng ngói mái xinh xắn được khảm trên mái hiên, con đã gặp qua Quang Vũ Đế Lưu Tú, Âm Lệ Hoa, Quách Thánh Thông. Lưu Tú rất bận, Âm Lệ Hoa xinh đẹp vô cùng, còn Quách Thánh Thông gian xảo kinh khủng. Sau đó một cơn cuồng phong hất tung con xuống đất, con bị thịt nát xương tan.

Tôi nói: Ngươi gặp qua nhiều người thật đó! Hán Vũ Đế, Quang Vũ Đế, đều là bậc Đế Vương vĩ đại. Thời đại như thế, những nhân vật tên tuổi, làm mưa làm gió cũng không ít! Làm ngói mái, ngươi cũng được xem là nhìn xa trông rộng đó.

Ấm sứ nhỏ nói: Nhưng ở chỗ cao cũng nguy hiểm ạ! Bị ngã chết cũng đau lắm! Sau đó con biến thành một chú chó con lông trắng muốt rất đáng yêu ở gia đình họ Đặng, Hoàng hậu cao quý – Đặng Tuy ra đời ở nhà họ.

Tôi nói: Vị Hoàng hậu này quá nổi tiếng rồi! Nhà mẹ đẻ cô ấy cũng rất hiển hách! Ông nội Đặng Vũ của cô ấy là gia tộc quyền thế ở Nam Dương, cùng Lưu Tú khởi binh, giúp bình định nhà Hán lập nên công lao hiển hách (Hậu Hán Thư có ghi chép), Quang Vũ Đế nói Tướng quân Đặng Vũ là “Bày mưu trong màn trướng, quyết định thắng thua ngoài ngàn dặm”. Hán Minh Đế tại Nam Quan Vân Đài Các lệnh cho người vẽ chân dung 28 vị tướng lĩnh, gọi là Vân Đài 28 tướng, Đặng Vũ khiêm tốn đãi người, thống lĩnh quân đội, quân kỉ nghiêm minh, lấy được lòng của bách tính. Đặng Vũ từng nói “Tướng ta trăm vạn người, chưa dám giết bừa một ai. Thiên Đạo còn đó, hậu thế của ta tất có người hưng thịnh”.

Ấm sứ nhỏ nói: Cha của Đặng Tuy – Đặng Huấn cũng rất xuất sắc.

Tôi nói: Hoàng thượng để Đặng Huấn giám sát khơi thông vận tải đường thủy, trước đó quan viên địa phương thúc giục bách tính khơi thông đoạn đường sông nguy hiểm, bị chết đuối rất nhiều người. Đặng Huấn sau khi tiếp nhận bổ nhiệm, thông qua nghiêm túc khảo sát tính toán, nhận thấy công trình khó lòng thành công, liền kiến nghị Hoàng đế cho dừng công trình này, chuyển sang dùng xe kéo vận chuyển hàng hóa. Như vậy không chỉ mỗi năm tiết kiệm được chi phí lên tới hàng ức vạn, mà còn cứu vãn được mấy nghìn tính mạng. Đây đúng là việc lớn tích đức hành thiện. Cổ ngữ nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh” (ý nghĩa là: nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc). Cứu sống cả ngàn mạng người, tích đức dày cho hậu thế, gia tộc tất gặp được phúc lành, thiên lý luôn tồn tại.

Ấm sứ nhỏ nói: Lão Phu nhân của Đặng gia thường hay nói, tích đức hành thiện, phúc vận dài lâu, tạo phúc cho con cháu.

Tôi nói: Mệnh tốt đều nằm ở đức hạnh, mệnh xấu đều ở hành ác. Quan nhị đại và phú nhị đại của Đặng gia liên tục phát triển nhiều đời. Không giống như quan nhị đại và phú nhị đại hiện nay, thực lực kém cỏi, trực tiếp trở thành người kết thúc con đường quan lộ, tài lộ.

Ấm sứ nhỏ nói: Chủ nhân nói có lý, tiểu nữ Đặng Tuy của Đặng Huấn rất xuất sắc, nàng ấy từng mơ một giấc mơ kỳ lạ, mơ được lên Trời.

Tôi nói: Trong sử sách có ghi chép, Đặng Tuy mơ thấy mình chạm đến “Trời”. Thiên thể mênh mông rộng lớn, bao la bát ngát, Trời hình thành một số vật như thạch nhũ, Đặng Tuy liền ngửa mặt lên hút lấy nó. Đặng Tuy có giấc mơ thần kì này, người nhà liền tìm đến chiêm mộng gia hỏi xem như thế có điềm báo gì, người chiêm mộng nói: “Vua Nghiêu từng mộng thấy được leo lên Trời, Thương Thang từng mộng thấy chạm vào Trời, liếm Trời, đây đều là điềm báo trở thành Thánh Vương, là điềm cát lành, cát tường đến mức không biết dùng ngôn từ gì để nói. Người nhà lại mời Tướng sĩ (người xem tướng) đến xem cho Đặng Tuy, người này vừa nhìn thấy Đặng Tuy thì kinh ngạc thốt lên: “Đây là cốt cách tướng mạo của Thành Thang, quý đến mức không sao tả xiết”. Người nhà Đặng Tuy nghe thấy liền hiểu ra: Đây là giấc mộng báo trước Đặng Tuy sẽ có địa vị tôn quý, là một nữ tử lại có địa vị tôn quý, đó chẳng phải là nhân vật có cấp bậc Hoàng hậu sao!

Ấm sứ nhỏ nói: Con nghe được một số chuyện. Lúc đó, con được nha hoàn ôm trong lòng, nghe người toán mệnh đang giải mộng. Người nhà cô ấy rất hưng phấn, lại nhất tề ngậm miệng, không dám tùy tiện nói ra ngoài.

Tôi nói: Đặng Tuy và nữ tử các nhà khác cùng được tuyển vào trong cung, trong “Hậu Hán Thư” ghi chép rằng Đặng Tuy “dung mạo xinh đẹp, nổi bật giữa đám đông”. Đặng Tuy nhanh có được sự sủng ái của Hòa Đế Lưu Triệu, được phong làm quý nhân. Âm Hoàng hậu tức tối mang lòng đố kị cô ấy nhưng Đặng Tuy đối với Âm Hoàng hậu lại luôn cung kính, hành động trước sau đều có phép tắc, y phục trang nhã. Lúc cùng với Hoàng hậu đồng thời yết kiến Hoàng thượng, luôn đứng chứ không dám ngồi; lúc đi cùng Hoàng hậu thì từng bước đều khom lưng, tỏ ra khiêm tốn; Hòa Đế hỏi chuyện hậu cung, Đặng Tuy không bao giờ tranh trả lời trước. Hòa Đế cảm khái nói: “Quý nhân khiêm tốn, lao tâm khom mình, khổ cực tu đức, đại thể đều như vậy!”

Ấm sứ nhỏ nói: Con nghe thấy người nhà cô ấy cũng nói như vậy. Gia huấn của Đặng gia có câu: Ôn hòa khiêm tốn, không được vô lễ với bề trên, cẩn tu đức hạnh, vinh quang rọi cửa nhà.

Tôi nói: Âm Hoàng hậu đố kị với Đặng Tuy, cô ta ở nhà mẹ đẻ nuôi cổ trùng nguyền rủa Đặng Quý nhân bị Hoàng thượng biết được, Hoàng thượng liền phế truất Hoàng hậu. Hậu cung vô chủ, đại thần tấu trình Hoàng thượng tiếp tục lập Hoàng hậu, Hoà Đế nói: “Chỉ có Đặng Quý nhân đức quán hậu đình, quả thật xứng đáng”. Sau khi Đặng Tuy ba lần khiêm tốn từ chối thì được lập làm Hoàng hậu, có thể thấy được sự tín nhiệm và sủng ái của Hoà Đế đối với cô ấy.

Ấm sứ nhỏ nói: Đặng gia lúc đó vui mừng khôn xiết, thật là vinh quang chiếu rọi cửa nhà. Đừng nghĩ con chỉ là một chú chó con, rất nhiều việc con đều biết, vào năm thứ hai khi Đặng Tuy được phong làm Hoàng hậu, con già rồi chết đi, sống được những 20 năm kia đấy!

Tôi nói: Thọ mệnh cũng dài thật đấy, sau đó thì sao? Lại như thế nào nữa?

Ấm sứ nhỏ nói: Sau đó là vào thời nhà Tuỳ, con là một cánh cửa sổ của Quan Phong Hành Điện, hoa văn rất tinh mỹ.

Tôi nói: Đó sự việc của thời kỳ Tuỳ Dạng Đế à, thợ thủ công trứ danh Lý Xuân xuất hiện rồi. Tuỳ Dạng Đế xa hoa hưởng lạc, ăn ở đi lại, hao tốn biết bao nhiêu của cải của thiên hạ. Quan Phong Hành Điện đó được làm rất tinh xảo, chỗ trống có thể xây dựng lên một cung điện đẹp để cho nhiều người ở!

Ấm sứ nhỏ nói: Vâng! Một tòa cung điện được xây dựng rất tỉ mỉ công phu, đáng tiếc sau đó lại bị khói lửa chiến tranh đã huỷ đi mất.

Tôi nói: Đúng vậy, trong những kiến trúc của Lý Xuân xây dựng chỉ lưu lại một cây cầu Triệu Châu. Cây cầu Triệu Châu này tuyệt vời vô cùng, đã từng có ghi chép rằng Triệu Châu Thành Đô đều tan thành mây khói, nhưng cầu Triệu Châu vẫn đứng sừng sững y nguyên. Có tài liệu chỉ ra rằng, cầu Triệu Châu trải qua 10 lần lũ lụt, tám lần chiến loạn và nhiều lần động đất, nhưng vẫn bình an vô sự, đây quả là kì tích của lịch sử kiến trúc. Ta cảm thấy kiến trúc sư thời cổ đại vừa có trí huệ, lại có lương tâm, không giống như công trình bã đậu thời bây giờ, chỉ để làm giàu cho quan chức, lừa dối nhân dân.

Ấm sứ nhỏ nói: Con lại đi chuyển sinh, chuyển sinh vào trong cung, là một chậu trồng hoa cúc trong cung đình, con rất hâm mộ những cây đại thụ. Con tự nghĩ, làm một cái cây tốt biết bao nhiêu.

Tôi nói: Thần phụ trách việc chuyển sinh nhất định đã nghe thấy tiếng lòng của ngươi.

Ấm sứ nhỏ nói: Đúng thế ạ, con biến thành một cây hoa mai, được đưa đến trồng ở vườn mai, gặp được Mai Phi.

Tôi nói: Câu chuyện của ngươi tiếp nối đoạn bài viết trước rồi, ngươi đang kể ngược trật tự. Nhưng ngươi nói, ngươi chẳng phải vẫn còn một lần trải nghiệm bi thảm khác sao, thế mà ngươi đang từ một chú chó con nhà Hán liền nhảy sang cánh cửa sổ của triều Tùy, lược qua hẳn 500 năm, độ nhảy vọt quá lớn rồi đó.

Mặt của ấm sứ nhỏ lại căng ra, tôi nói: Nếu ngươi không muốn nói, chúng ta dừng bút ở đây, ta không muốn ép buộc ngươi phải kể ra.

Ấm sứ nhỏ nghĩ rồi nói: Con từng chuyển sinh thành một nữ nhân xinh đẹp, được gả cho một vị tướng lĩnh, chồng con lại đi sủng ái tiểu thiếp, con rất tức tối, trở thành một oán phụ, uất ức mà chết.

Tôi nói: Là thời kỳ Nam Bắc triều phải không? Nam triều hay là Bắc triều?

Ấm sứ nhỏ nói: Bắc triều, một vị tướng lĩnh của Bắc Tề, chàng ta là tướng dưới trướng của Lan Lăng Vương.

Tôi không khỏi hít một hơi: Lan Lăng Vương, chiến Thần của Bắc Tề, anh dũng thiện chiến, đây là một nhân vật thần kì. Lại là một mỹ nam tử nổi tiếng, khi đánh trận thì đeo mặt nạ tự chế. Thật tiếc, lại bị Hoàng thượng ban cho cái chết, tự hủy giang sơn.

Ấm sứ nhỏ nói: Người lúc đó đều cho rằng Lan Lăng Vương có vẻ đẹp vô song, công cao át chủ, làm cho Hoàng thượng sinh lòng đố kỵ. Trong 500 năm đó, con còn chuyển sinh thành cây trâm bạch ngọc, cài trên đầu của Phùng Thái Hậu.

Tôi nói: Là Tổ mẫu của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hồng? Đây là trước thời Bắc Tề.

Ấm sứ nhỏ nói: Vâng ạ, Phùng Thái Hậu thật là đẹp, lại có thủ đoạn chính trị, nhiều lần ổn định cục diện chính trị Bắc Ngụy.

Tôi nói: Bà đã thúc đẩy Hán hóa dân tộc Bắc Ngụy, dưới ảnh hưởng của bà ấy, Hiếu Văn Đế đã tiến hành cải cách nổi tiếng, lại cho dời đô, tiến thêm một bước là lấy họ của người Hán, mặc Hán phục, liên hôn với dân tộc Hán, từ họ Thác Bạt Thị đổi thành họ Nguyên, bản thân nguyên là Thác Bạt Hồng đổi thành Nguyên Hồng. Ta phát hiện, ngươi tiếp xúc toàn với người hoặc việc đều làm ta rất chú ý.

Ấm sứ nhỏ nói: Nhưng vì ở đời đó con trở thành oán phụ, sau khi uất ức mà chết, con phát nguyện không bao giờ làm người nữa, kết quả nguyện vọng của con thành hiện thực rồi, con nhiều lần chuyển sinh thành đồ vật. Trong cung đình của Nam triều, con còn từng là cây đèn cầy, nhìn thấy Trần Hậu Chủ và Phi tần vui vẻ tiệc tùng, rất xa hoa phù phiếm.

Tôi nói: Quá trình sinh mệnh của đèn cầy ngắn ngủi lắm!

Ấm sứ nhỏ nói: Nhưng con cũng không oán hận nữa!

Tôi cuối cùng cũng viết xong câu chuyện luân hồi của ấm sứ nhỏ, bản thân thân tôi cũng thở phào nhẹ nhõm. Tuy rằng câu chuyện luân hồi của ấm sứ nhỏ bình dị mộc mạc, nhưng tôi vẫn cứ hi vọng từ trong đó độc giả có thể thấy được những tình tiết có ích.

Tôi muốn nói rằng: Trong lục đạo luân hồi, bất luận là sinh mệnh như thế nào, trong quá trình vận hành của sinh mệnh, các trải nghiệm đều rất phong phú. Là một tiểu ấm sứ mà nói, trong sinh mệnh có lúc không được như ý, những chuyện cũ khó xử cứ luẩn quẩn mãi không thôi, trở thành chướng ngại trong lòng không sao vượt qua được. Nhưng quá khứ cuối cùng cũng trôi qua rồi, người ta phải luôn nhìn về tương lai. Làm một con người mà nói, nếu có nỗi lòng tương tự, thì càng cần phải thay đổi bản thân! Trân quý hiện tại, không oán trách, biết cảm ân, ung dung lạc quan, khoan người thứ mình, không sống trong trói buộc của quá khứ, cũng là một dạng trí huệ và độ lượng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/284939

The post Vạn vật đều có linh: Nói chuyện với ấm trà (4 – 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Chân trời tìm Pháp: Vó ngựa trên thảo nguyênhttps://chanhkien.org/2023/09/chan-troi-tim-phap-vo-ngua-tren-thao-nguyen.htmlSat, 02 Sep 2023 03:27:39 +0000https://chanhkien.org/?p=31215Tác giả: Thạch Phương Hành [ChanhKien.org] Nhớ lại cách đây nhiều năm tôi từng nghe qua một bài hát tên là “Nhớ cố hương”, trong đó có câu rằng: “Cừu dê khắp đồng, đẹp biên ải. Tuấn mã phi nhanh, đuổi trời mây”, đó là chỉ cảnh sắc nơi thảo nguyên Mông Cổ. Khi đó […]

The post Chân trời tìm Pháp: Vó ngựa trên thảo nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Tác giả: Thạch Phương Hành

[ChanhKien.org]

Nhớ lại cách đây nhiều năm tôi từng nghe qua một bài hát tên là “Nhớ cố hương”, trong đó có câu rằng: “Cừu dê khắp đồng, đẹp biên ải. Tuấn mã phi nhanh, đuổi trời mây”, đó là chỉ cảnh sắc nơi thảo nguyên Mông Cổ. Khi đó dường như tôi đã cảm nhận được mỹ cảm kỳ diệu ấy hiển hiện trước mắt mình.

Ngoài ra hai hôm nay tôi đã đọc được thông tin rằng Trung Cộng đang cưỡng chế các trường học ở Nội Mông phải học Hán ngữ, mục đích là muốn xoá tan văn hoá và ngôn ngữ của dân tộc Mông Cổ. Cách làm của Trung Cộng đã bị người dân Mông Cổ phản đối mạnh mẽ. Cũng chính vì vậy tôi thấy mình nên dùng câu chuyện đi tìm Pháp của một đôi vợ chồng trên thảo nguyên để bày tỏ sự yêu mến đối với văn hóa Mông Cổ và các nền văn hoá ngoài văn hóa của dân tộc Hán.

Tôi nhớ rằng tôi đã đến vùng Nội Mông cách đây nhiều năm và gặp một nữ đồng tu người Mông Cổ ở đó. Cô ấy bảo với tôi rằng khi lần đầu tiên chồng cô đọc về trải nghiệm của “cô gái áo đỏ” trong bài “Luân hồi ký sự: Tìm Phật Pháp trên cao nguyên Mông Cổ” do tôi viết dưới bút danh khác, anh ấy đã khóc và cảm thấy dường như mình đã từng là cô gái mặc áo đỏ. Tôi trả lời nữ đồng tu rằng chồng cô không phải từng là cô gái áo đỏ, mà là anh trai của cô ấy.

Thông thường thì màn diễn bình thường này đã qua từ lâu, nhưng hai ngày nay do thay đổi công việc, một người bạn đã chụp được vài bức ảnh khiêu vũ trong trang phục Mông Cổ, điều này lập tức đã khơi dậy linh cảm trong tôi, khiến tôi nhớ lại trải nghiệm cưỡi ngựa khắp thảo nguyên để tìm Pháp của vị nữ đồng tu và chồng cô ấy.

Có bài thơ rằng:

Thanh mai trúc mã đạp thảo hành
Hỗ tương phù trì tế đinh ninh
Thương mang thiên địa nhậm ngã hành
Tâm niệm hợp nhất thân khinh doanh!

Diễn nghĩa:

Thanh mai trúc mã bước chân trên cỏ
Giúp đỡ lẫn nhau dặn dò nhau tỉ mỉ
Trời đất xanh mênh mang ta tùy ý cất bước
Tâm niệm cùng hợp nhất thân thể nhẹ nhàng!

Dịch thơ:

Đôi lứa thanh xuân dạo cỏ xanh
Lẫn nhau tương trợ nguyện đinh ninh
Thiên địa mênh mang rong ruổi khắp
Tâm đầu ý hợp thân nhẹ tênh!

Đôi nam nữ này có thể nói là thanh mai trúc mã, môn đăng hộ đối, họ đều là con nhà vương công quý tộc Mông Cổ, và đều cùng sinh ra vào thời Khang Hy triều Thanh.

Cả hai luôn sẵn lòng cùng nhau cưỡi ngựa đi chăn cừu hoặc đến đâu đó chơi đùa. Họ cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm roi da, cùng vươn mình đón ánh nắng ban mai, làm bạn cùng gió mát, chuỗi ngày ấy quả thật vô cùng phóng khoáng và mãn ý:

Tuấn mã bôn trì thiên địa gian
Thải vân tương bạn các tranh tiên
Thanh phong phất diện hướng thiên tiếu
Thảo nguyên nhi nữ triển chân nhan

Huy tiên tiếu thanh kinh lạc nhạn
Tuấn mã trường tê phá kinh thiên
Nhĩ truy ngã cản bôn hướng tiền
Khoái ý nhân sinh tố Thần Tiên!

Diễn nghĩa:

Tuấn mã rong ruổi khắp thiên địa
Những áng mây rực rỡ tranh nhau đến làm bạn
Làn gió mát thổi qua khuôn mặt mỉm cười hướng lên trời
Cô gái thảo nguyên triển hiện dung nhan thật

Tiếng roi vun vút cùng với tiếng cười làm chim nhạn giật mình rơi xuống
Tiếng tuấn mã hí dài kinh động cả bầu trời
Chàng rượt thiếp đuổi chạy về phía trước
Cuộc đời vui vẻ như là Thần Tiên!

Dịch thơ:

Vó ngựa bôn ba giữa đất trời
Ráng mây bầu bạn khắp muôn nơi
Gió vờn bên má cười xanh thẳm
Thảo nguyên em gái hiển xuân thời

Roi huơ còi hú nhạn giật mình
Chiến mã hí vang Thiên thượng kinh
Nối nhau ruổi ngựa về phía trước
Thần Tiên, nguyện ước thế nhân sinh!

Người dân Mông Cổ bất kể là nam hay nữ đều có khí khái hào sảng, phóng khoáng, cởi mở, ở người nữ còn thể hiện ra vẻ dịu dàng ôn nhu như nước, đó là đặc điểm mà Thần tạo ra cho dân tộc này.

Từ nhỏ đến lớn hai người đã cùng nhau trải qua những ngày chơi đùa vô tư vô nghĩ như thế. Đến tuổi kết hôn cha mẹ hai nhà liền dự tính hôn sự cho họ. Nhưng chỉ một ngày trước khi họ kết hôn, cha của người thanh niên bị bệnh nguy kịch rồi qua đời, hôn sự của họ đành phải hoãn lại. Nhưng đợi đến ngày cưới lần sau thì mẹ cô gái lại qua đời, không những vậy túp lều của nhà gái cũng bị lửa thiêu rụi. Lúc bấy giờ trong bộ tộc của họ có tin đồn lưu truyền rằng hai người họ không có duyên để kết hôn (không thích hợp để kết hôn).

Tuy vậy họ vẫn kiên trì với duyên phận của mình như trước, kết quả là gia cảnh nhà trai dần dần lâm vào cảnh khốn khó, còn nhà gái cũng bị vương công khác công kích. Ngay lập tức không ai trong bộ tộc có cái nhìn lạc quan về họ.

Có một hôm hai người lại hẹn nhau cùng ra du ngoạn, bỗng hôm ấy trời đổ mưa rất to, mỗi người cưỡi trên một con ngựa đi về trước một cách vô định:

Thanh mai trúc mã quá khứ thời
Lưỡng tiểu vô sai dĩ tạc nhật
Tiền lộ mang mang tại hà phương
Tâm như đao giảo chẩm an thích?

Diễn nghĩa:

Trước kia đôi thanh mai trúc mã
Đã qua những ngày hai người cùng lớn lên
Con đường mù mịt phía trước đang ở phương nào
Lòng đau như dao cắt làm sao buông xuống được?

Dịch thơ:

Thanh mai trúc mã của ngày xưa
Hôm qua đôi lứa thuở ngây thơ
Lối trước mịt mùng đâu phương hướng
Buông xuống phiền tâm khó chẳng vừa?

Sau đó hai người buộc ngựa vào gốc cây rồi ngồi thụp xuống đất khóc lóc thảm thiết mãi không thôi. Mười mấy năm ròng sớm tối có nhau, làm sao có thể nói buông tay là buông tay được? Cả hai đều thấy rất không cam lòng.

Một lúc sau cơn mưa lớn ấy tạnh dần rồi trời trong trở lại. Trên bầu trời hiện lên một chiếc cầu vồng khổng lồ, cô gái nhìn thấy cầu vồng thì trong lòng rất vui và hưng phấn chỉ cho chàng trai thấy.

Chàng trai nhìn cầu vồng thì cũng vui vẻ được một lúc rồi lại thấy tương lai của hai người thật chẳng có ánh sáng.

Lúc này từ giữa cầu vồng bắt đầu hiện ra một vầng sáng kỳ diệu rồi một vị nữ Thần mỹ lệ xuất hiện, chỉ thấy vị nữ Thần ấy:

Lam sắc bảo quan đầu đỉnh đái
Lam sắc tiên y lam quần bãi
Thủ trì lam sắc ngọc cảnh bình
Bảo lam tịnh liên cước hạ thải

Diễn nghĩa:

Trên đỉnh đầu có dải ngọc màu lam
Y phục tiên màu lam váy cũng xanh lam
Tay cầm một bình ngọc màu lam
Chân đặt trên đài tịnh liên cũng màu lam

Dịch thơ:

Vương miện xanh lam đội trên đầu
Tiên y xiêm áo tỏa lam châu
Tay nâng lam sắc bình Ngọc Cảnh
Gót hài sen nở ánh lam màu

Hai người vội đứng dậy hành lễ, chỉ nghe vị nữ Thần nói rằng: “Dân tộc Mông Cổ cũng là một dân tộc do Thần tạo ra, là một dân tộc giúp triển hiện đặc điểm cương nhu tương tế của Thần, cũng đều là con cháu của Viêm Hoàng, cũng là được Sáng Thế Chủ trực tiếp tạo tựu. Chỉ là do trong tương lai, nền văn minh của dân tộc Trung Nguyên (đặc biệt chỉ dân tộc Hán) sẽ phát triển hơn, nhưng tính kiên cường không đủ nên cần một dân tộc khác bổ sung khiếm khuyết, là để cùng bảo vệ huyết mạch của nền văn minh; đồng thời cũng là để triển hiện tính đa dạng của nền văn hóa Thần truyền, những điều này đều là do Thần tạo ra.

Những gì các ngươi gặp phải trong đời này ta đều biết cả, kỳ thực các ngươi chớ nên thấy thương tâm và đau buồn, những gì các ngươi trải qua chính là để nói với các ngươi rằng, giữa con người tuy có sự phóng khoáng và tình yêu kiên trinh không đổi nhưng cũng có những việc vô thường và những chuyện bất đắc dĩ. Có rất nhiều thứ mà con người không thể dự liệu và quyết định được, nên các ngươi chớ nên mong tưởng quá nhiều đến những thứ mỹ hảo của cuộc đời, vô thường và bất đắc dĩ mới là trạng thái thực sự của kiếp nhân sinh”.

Chàng trai nói: “Xin hỏi nữ Thần, có phải là ngài vị Thần bảo hộ cho dân tộc chúng con không?” Nữ Thần đáp: “Ta đã từng quản dân tộc các ngươi một đoạn thời gian, nhưng về sau ta không quản nữa, hiện tại việc quản dân tộc các ngươi là do một vị Thần khác, bởi vì không bao lâu nữa ta cũng sẽ phải đến nhân gian tôi luyện, đồng thời cũng bởi vì ta có mối duyên phận với dân tộc Mông cổ, nên ta mới đến đây gặp các ngươi”.

Cô gái nói: “Hai chúng con nên làm gì bây giờ? Những thứ mỹ hảo trước kia đều phải buông bỏ hết sao?” Nữ Thần mỉm cười, sau đó nói một cách uy nghiêm: “Những gì các ngươi từng trải qua đều rất tiêu sái và vô cùng lãng mạn, các ngươi cảm thấy mọi thứ đều có thể đi đến thiên trường địa cửu, nhưng lại quên đi một điều quan trọng nhất: các ngươi sống ở nơi con người, mà con người thì có khổ, đau và vô thường cũng như các việc không được như ý. Có rất nhiều việc mà sức người không kham nổi. Vì vậy, những khổ nạn mà các ngươi gặp phải sau này đều là để nói cho các ngươi biết những điều này”.

“Vậy chúng con phải làm sao?”, chàng trai bối rối hỏi.

Nữ Thần đáp: “Kỳ thực nhân gian có sự vô thường là bởi vì vạn vật đều tồn tại nơi con người, nếu như sinh mệnh thật sự hiểu được rằng bản thân có thể thăng hoa, thì vạn vật sẽ trở nên chân thực hơn, vĩnh hằng hơn. Nghĩa là khi tìm được một Đại Pháp có thể khiến sinh mệnh quay trở về, thì sinh mệnh ấy tự nhiên sẽ có được hạnh phúc và niềm vui chân thực”.

Chàng trai sốt sắng hỏi: “Vậy chúng con phải đến đâu mới có thể tìm ra được Đại Pháp giúp sinh mệnh thực sự được giải thoát?” Vị nữ Thần trả lời rằng: “Điều này ta cũng không rõ lắm. Dù sao từ giờ các ngươi có thể từ từ tìm kiếm pháp môn ấy trên thảo nguyên bao la này. Cũng có thể các ngươi sẽ tìm được”. Nói xong nữ Thần liền biến mất.

Sau khi nghe khải thị như vậy từ nữ Thần, trái tim họ tràn ngập ánh sáng. Thế là họ quyết định rời khỏi bộ tộc, cùng quất ngựa bắt đầu cuộc hành trình tìm Pháp trong đời ấy:

Xuân

Thiển thảo một đề mã tật trì
Xuân phong tống noãn ngô tích thời
Vi tầm Đại Pháp bất kế khổ
Hoa khai lạn mạn tiếu ngô si

Dịch thơ:

Mùa xuân

Ngựa không guốc ruổi cỏ xanh rì
Gió xuân thổi ấm lúc xuân thì
Đại Pháp tìm cầu đâu kể khổ
Ngàn hoa khai nở nhạo kẻ si

Hạ

Tật phong sậu vũ mạn thảo nguyên
Âm phong tứ ngược vị tằng hoàn
Khổ trung kiên trinh mạc đình bộ
Diễm dương cao chiếu bất mang nhiên

Dịch thơ:

Mùa hạ

Gió rít mưa gào khắp thảo nguyên
Phong ba cuồng nộ chưa từng yên
Khổ quyết kiên trung không chùn bước
Ánh dương chiếu rọi xóa mù viên…

Thu

Thu phong tống sảng thảo tương hoàng
Sơn dã xử xử ngưu dương tráng
Đa thải thu ý vô tâm thưởng
Sách mã dương tiên bôn lộ thượng

Dịch thơ:

Mùa thu

Gió thu thổi rát áng cỏ vàng
Sơn cước dê cừu khắp mênh mang
Ý thu muôn sắc vô tư hưởng
Thúc ngựa vung roi ruổi khắp đàng

Đông

Tuyết hoa phiêu phi lạc thảo tràng
Thiên địa nhất phiến bạch mang mang
Tuấn mã bôn trì vị đình hiết
Khoái bộ tầm Pháp bả tiên dương

Dịch thơ:

Mùa đông

Hoa tuyết bay bay khắp cỏ vàng
Đất trời chung khoảng trắng miên man
Tuấn mã bôn ba không dừng lại
Tìm Pháp vung roi ngựa sẵn sàng

Bốn mùa xuân hạ thu đông, hết cái rét qua đi tới cái oi bức đến, hai người đều quất ngựa rong ruổi khắp thảo nguyên tìm kiếm Pháp, trong quá trình đó, hàng loạt những vấn đề như kế sinh nhai, sức khỏe, tình cảm v.v… đều khiến họ phải thấy phiền não, chưa kể rằng họ đều xuất thân từ gia đình quý tộc, chưa từng sống một cuộc sống độc lập. Lần này điều đầu tiên họ phải đối mặt là vấn đề sống tự lập, vì thế sẽ có rất nhiều ma sát và tranh chấp, nhưng cuối cùng họ đều vượt qua được.

Vì họ đều có thân phận quý tộc, người nhà và họ hàng đều rất có địa vị trong bộ tộc Mông Cổ, nên khi gặp khó khăn về kinh tế, nếu họ tìm gặp bất kỳ một gia đình quý tộc Mông Cổ nào và đề cập đến gia thế của mình thì những người đó đều sẽ giúp đỡ họ. Hơn nữa khi những người ấy biết rằng hai người đang tìm kiếm Đại Pháp giúp sinh mệnh được giải thoát thì đều sẽ vô tư giúp đỡ ủng hộ một việc thần thánh như vậy.

Nguyên ban đầu họ vốn cùng sống trong một bộ tộc, bây giờ họ có cuộc sống độc lập, ngay cả khi không phải lo lắng về kế sinh nhai thì sức khỏe cũng là một vấn đề. Tất cả các loại muỗi và côn trùng trên thảo nguyên đều cắn người ta, nếu xử lý không tốt sẽ bị trúng độc, việc đau đầu phát sốt là chuyện thường gặp. Dù họ có thấy khó chịu đến đâu thì cái tâm tìm kiếm Đại Pháp của họ vẫn không thay đổi, thậm chí khi trong tình huống tinh thần mơ màng họ vẫn khăng khăng tìm hỏi khắp mọi nơi rằng vị Giác Giả truyền Pháp đang ở đâu. Điều thần kỳ là khi họ cứ kiên trì như thế thì mọi cảm giác khó chịu đều tan biến cả.

Cứ như vậy họ đã vượt qua 10 năm mưa gió. Cuối cùng tại dãy núi Khanghai (tên dịch ra tiếng Hán là núi Hàng Ái – thuộc nước Mông Cổ) họ gặp được một người tu Đạo đã tu trong một thời gian rất lâu dài, vị Thần ấy nói với họ: “Ta biết hai vị đã trải qua rất nhiều gian khổ trong quá trình đi tìm kiếm Đại Pháp trong tương lai giúp sinh mệnh có thể thực sự được cứu độ; tình huống mà ta biết được là, tương lai vị Giác Giả ấy sẽ bắt đầu truyền Pháp ở vùng lân cận dãy Trường Bạch. Những điều khác thì ta không được biết”.

Có lẽ hai người họ cảm thấy rất cô đơn tịch mịch sau thời gian dài tìm kiếm Đại Pháp nên đã hỏi: “Ngài có thể nói cho chúng con nghe một chút về tình huống tu luyện của ngài không, xem như là đặt định chút cơ sở cho việc tương lai chúng con đắc Pháp”.

Người tu Đạo ấy nói: “Vì các vị muốn biết nên ta sẽ nói sơ lược cho các vị. Trước kia ta từng là một vương tử của tộc Mông Cổ, vốn có thể sẽ được kế thừa vương vị nhưng về sau do được cao nhân điểm hoá cộng thêm bản thân ta không muốn tham gia vào việc tranh đấu nơi trần thế, nên đã rời xa cha mẹ ta đi đến đây. Hoàn cảnh nơi đây tuy rất gian khổ nhưng khá thanh tĩnh và cũng không có ai đến quấy rầy ta. Tại đây ta đã gặp được sư phụ của mình và ông ấy đã truyền dạy phương pháp tu hành trong môn của ông cho ta. Trong quá trình tu hành này ta đã thể hội được một cách sâu sắc rằng, bình thường chúng ta luôn cảm thấy bản thân rất tốt, có định lực thâm sâu, có thể chịu khổ v.v…, nhưng tất cả đều vô dụng, bởi hết thảy mọi thứ nơi đây hoàn toàn khác biệt với những thứ nơi trần thế. Có những người có nhân tâm thì lúc ban đầu thường không thể chịu đựng được. Ví như để một người nhiều năm không nói một lời, liệu người đó có chịu được không? Huống chi, nơi này không có người, dù không có ai cưỡng chế các vị không được nói chuyện nhưng bởi vì các vị không có người câu thông cùng thì các vị sẽ tự nhiên không muốn nói. Hơn nữa những thú vui và phương thức sinh hoạt cơ bản nhất của con người đều không có ở đây. Qua thời gian lâu dần ta đã hình thành được cách sống phù hợp với chính mình. Rất nhiều khi ta đã nghĩ rằng mình tuy không có thú vui của con người nhưng cũng có niềm vui của riêng mình. Về sau cùng với việc đề cao cảnh giới tu hành thì ta có thể tiếp xúc với những điều thần thánh và mỹ hảo hơn, ta đã kết bạn với những người tu Đạo hoặc các vị Thần khác, cũng thường đến chỗ họ làm khách…” Nói đến đây hai người không bảo mà cùng đồng thanh nói: “Vậy ngài có thể gọi bạn bè của mình đến đây không, chúng con cũng muốn kết bạn với họ nữa”.

Người tu Đạo nhìn họ một chút rồi nói: “Hết thảy đều tùy duyên”. Rồi ông dùng pháp thuật gọi mấy người bằng hữu đến. Những người này đều là những người có tố chất tu luyện, họ đã đưa ra rất nhiều khải thị về phương diện tu luyện cho hai người đi tìm Pháp… Mà những khải thị này đã đặt một cơ sở rất tốt cho việc họ đắc Pháp trong tương lai. Sau đó họ đến bờ biển Bắc Hải (hồ Baikal, thuộc Nga) và sống ở đó, họ có với nhau một người con trai, con trai của họ sau khi lớn lên vẫn tiếp tục tìm kiếm Đại Pháp giúp chúng sinh được đắc cứu… Những việc này chúng ta sẽ không nói chi tiết.

Đến đời này, đôi nam nữ ấy đều đã trở thành đệ tử Đại Pháp. Vào thời điểm đó tôi nghe nói rằng vị nữ đệ tử Đại Pháp này vẫn chưa buông bỏ được sự gián cách và thành kiến ​​giữa các dân tộc. Điều này kỳ thực không nên xảy ra, tôi không biết hiện giờ cô ấy thế nào nữa. Tôi hy vọng những người tu luyện Đại Pháp thuộc tất cả các dân tộc trên thế giới đều có thể trân quý cơ duyên lịch sử khó có được này, đều có thể buông bỏ những thành kiến và khuôn sáo của tự mỗi dân tộc. Đại sư Lý Hồng Chí, nhà sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đã từng bảo chúng ta rằng:

“Không cho phép có tư tưởng cục bộ bài ngoại; độ nhân không phân biệt địa phương, nhân chủng; đâu đâu cũng thể hiện tâm tính của đệ tử chân tu; [hễ] tu Đại Pháp thì đều là đệ tử đồng môn” (Đại Viên Mãn Pháp, phần phụ lục)

Vì vậy, tôi nghĩ rằng đời này bất kể chúng ta là người thuộc về dân tộc hay chủng tộc nào, chỉ cần chúng ta tu luyện cùng một bộ Đại Pháp thì đều cần phối hợp với nhau cho tốt. Do vậy khi viết bài này, tôi cũng hữu ý viết về câu chuyện tìm Pháp của những người thuộc các dân tộc và chủng tộc khác ngoài dân tộc Hán. Bởi vì chúng ta đều cùng là con dân của Thần, hôm nay đến là để đắc Đại Pháp và hiểu rõ chân tướng!

Đây chính là:

Thanh mai trúc mã lai tầm Pháp
Trì sính thảo nguyên lịch đông hạ
Hàng Ái sơn biên ngộ cơ duyên
Phàn đàm quá vãng điện văn hóa!

Diễn nghĩa:

Thanh mai trúc mã đi tìm Đại Pháp
Cưỡi ngựa khắp thảo nguyên qua bao mùa đông hạ
Bên núi Hàng Ái gặp được cơ duyên
Cuộc trò chuyện với khách vãng lai là để đặt định nền văn hóa

Dịch thơ:

Lứa đôi tìm Pháp, kiếm dày công
Ruổi rong đồng cỏ hạ sang đông
Núi cao Hàng Ái cơ duyên đến
Văn hóa Thần truyền nay chấn hưng

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/262051

The post Chân trời tìm Pháp: Vó ngựa trên thảo nguyên first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>