Bí ẩn khoa học | Chánh Kiến Nethttps://chanhkien.orgChánh KiếnWed, 13 Mar 2024 05:27:48 +0000en-UShourly1Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.4)https://chanhkien.org/2024/02/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-phan-24.htmlWed, 28 Feb 2024 02:34:02 +0000https://chanhkien.org/?p=32682[ChanhKien.org] 2.4. Thu hoạch tri thức, cảm ngộ nhân sinh Có rất nhiều người trong quá trình trải nghiệm cận tử đã nhận được nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi về nhân sinh, thế giới và vũ trụ. Tại đây, chúng tôi chỉ đưa ra hai ví dụ. Ở phần trên chúng tôi […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

2.4. Thu hoạch tri thức, cảm ngộ nhân sinh

Có rất nhiều người trong quá trình trải nghiệm cận tử đã nhận được nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi về nhân sinh, thế giới và vũ trụ. Tại đây, chúng tôi chỉ đưa ra hai ví dụ.

Ở phần trên chúng tôi đã từng đề cập đến nghiên cứu trải nghiệm cận tử của tiến sĩ Kenneth Ring về cô gái mù Ami Paige. Ami Paige còn nói với tiến sĩ Kenneth Ring rằng: “(Lúc nhìn thấy ánh sáng và những bạn bè đã khuất), tôi cảm giác tôi hiểu ra tất cả mọi chuyện, mỗi sự việc đối với tôi mà nói, đều rất hợp tình hợp lý. Tôi hiểu ra rằng, ở nơi đây tôi sẽ tìm thấy được tất cả đáp án về nhân sinh, về trái đất này, về thượng đế và tất cả mọi việc”. Trong tất cả những người đứng xung quanh Ami Paige, có một người trên thân phát ra ánh sáng rực rỡ hơn những người khác, Ami Page cho rằng người này chính là Chúa Giê-su. Người này đã giao tiếp với cô ấy bằng thần giao cách cảm, cô ấy cảm nhận được tình yêu bao la vô cùng. Cuối cùng, sinh mệnh trong ánh sáng này nói với Ami Paige, cô nhất định phải quay về. Trước khi đưa cô về, người này đã triển hiện cho Ami Paige thấy toàn bộ mỗi sự việc mà cô đã trải qua từ khi sinh ra cho đến nay, không bỏ sót một sự việc nào. Trong quá trình này, người đó vẫn luôn ở bên cạnh Ami Paige và bình phẩm mỗi sự việc một cách hòa ái, giúp cô ấy hiểu được hành vi của mình trong suốt cuộc đời. Cuối cùng người đó nói với Ami Paige: “Bây giờ cô phải trở về”. Thế là, cô nhanh chóng bay trở về cơ thể mình giống như ngồi trên tàu lượn siêu tốc.

Giáo sư Kenneth Ring cũng kể một ví dụ vừa nổi tiếng vừa thú vị như thế trong cuốn sách “Hướng tới điều bí ẩn” (Heading toward Omega): Vào tháng 5 năm 1978, khi đó Tom 33 tuổi sống ở gần New York, khi anh đang ở dưới gầm sửa xe tải, thì con nâng xe tải bất ngờ trượt xuống khiến chiếc xe tải đập thẳng vào ngực anh, cậu con trai chín tuổi của anh đã gọi xe cấp cứu. Sau khi được cứu sống, anh đã miêu tả lại trải nghiệm cận tử của mình. Giống như những người khác, anh đi qua một đường hầm với tốc độ cực nhanh, ở cuối đường hầm là ánh sáng vô cùng rực rỡ, thuần tịnh và tao nhã nhưng không làm anh chói mắt. Ánh sáng đẹp đẽ ấy tiến hành giao tiếp tâm linh với Tom giống như một con người. Tom cảm nhận được điều thứ nhất mà ánh sáng nói với anh là: “Hãy thư giãn, mỗi việc (xảy ra) đều rất tốt đẹp”. Sau đó anh lập tức thả lỏng và cảm giác như mình đang ở trong một môi trường ấm áp và thoải mái. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, anh cảm nhận được tình yêu thuần khiết thực sự là như thế nào. Tom nói: “Thứ tình yêu đó không thể nào so sánh được với tình yêu dành cho vợ hay dành cho con cái”. Tiếp theo, Tom nhận thấy rằng, trong khi giao tiếp với ánh sáng, anh đã nhận được một thứ tri ​​thức tuyệt đối và đầy đủ, mọi vấn đề của anh đều có lời giải đối với sinh mệnh, cuộc sống, tôn giáo, thậm chí một số vấn đề mà trước đây anh chưa từng tiếp xúc qua, Tom đều nhận được lời giải.

Điều thú vị là, vào một buổi sáng không lâu sau khi anh hồi phục, anh tỉnh dậy, miệng lẩm bẩm từ “lượng tử”. Vợ anh hỏi: “Anh nói gì thế?” Tom lặp lại: “Lượng tử”. Vợ lại hỏi: “Rốt cuộc anh đang nói cái gì?” Tom đáp: “Anh cũng không biết”. Anh và vợ anh lúc đó cũng không biết từ này có ý nghĩa gì. Bởi vì trình độ học vấn của Tom chỉ tới bậc trung học phổ thông. Hai tuần sau, vào một buổi chiều khi anh và vợ đang xem tivi, Tom đột nhiên nói một câu: “Max Planck, một lúc nữa em sẽ nghe được những sự việc liên quan về ông ấy”. (Ghi chú của người dịch: Max Planck là người sáng lập ra cơ học lượng tử). Một lần nữa vợ anh lại cảm thấy bối rối và không hiểu anh đang nói điều gì. Thực ra, lúc ấy Tom cũng giống như vợ anh, cái gì cũng không biết. Kể từ đó về sau, Tom bắt đầu thích thú với một số công thức và ký hiệu toán học. Anh hỏi bạn bè ký hiệu toán học PSI nghĩa là gì. Trên thực tế đây là một chữ cái Hy Lạp được sử dụng rộng rãi trong toán học, vật lý học và tâm lý học. Nó đại diện cho những sự vật chưa được biết đến, không một người bạn nào của anh có thể đưa ra một câu trả lời thỏa đáng, cho đến khi anh hỏi giáo sư Kenneth Ring. Cùng lúc đó, một số câu văn ngắn được lấy ra từ cuốn sách không ngừng tiến nhập vào đầu não của Tom, nhưng Tom trước giờ chưa từng đọc những cuốn sách đó. Anh ấy đã từng đưa cho giáo sư Kenneth Ring xem một đoạn văn, giáo sư nhận ra nó là một đoạn trong cuốn tự truyện khoa học của Max Planck, mà tên của cuốn sách này Tom thậm chí còn chưa nghe qua. Từ đó về sau, mọi chuyện trở nên có chút kịch tính.

Tom vốn dĩ là người chỉ học đến trung học phổ thông và là người không hề thích đến thư viện, nhưng một ngày nọ anh đã đến thư viện. Anh hỏi nhân viên quản lý: “Lượng tử, lượng tử, năng lượng lượng tử, ở đây có thứ như vậy không?” Người quản lý do dự một lúc rồi trả lời: “Chúng tôi có rất nhiều sách liên quan đến vật lý trong thư viện khoa học tự nhiên, anh đến đó tìm nhé”. Tom đến đó nhưng không biết nên chọn cuốn nào, bởi vì anh không có chút kiến thức nền tảng nào cả. Vừa hay có một người trông có vẻ rất có học thức đứng cạnh anh. Tom liền hỏi: “Xin lỗi, thưa ngài, ngài có thể giúp tôi không? Tôi muốn tìm hiểu một chút về lý thuyết lượng tử, nhưng tôi chỉ học tới trung học phổ thông”. Người đó trả lời: “Có lẽ anh bạn trẻ cần phải tham gia một số khóa học ở trường đại học mới có thể hiểu được một chút về lý thuyết này”. Sau đó, người này đã giới thiệu cho Tom vài cuốn sách cơ bản, trong số những cuốn sách này, bất ngờ có cuốn sách “Max Planck, cha đẻ của Cơ học lượng tử”. Tom đọc ngấu nghiến những cuốn sách này, những mảng kiến ​​thức thu được trong sách về ánh sáng trong trải nghiệm cận tử đều ăn khớp với nhau, chúng đều liên quan đến cơ học lượng tử, một môn học mà trước đây Tom không hề cảm thấy hứng thú, cũng không có chút kiến ​​thức nền tảng nào, cuối cùng Tom quyết định đăng ký một khóa học vật lý ở trường đại học. Anh giải thích với giáo sư hướng dẫn của mình lý do vì sao anh muốn học. Mặc dù giáo sư nghiêm túc lắng nghe, nhưng lại ông ấy không tin lắm khi nghe xong lý do của Tom, cuối cùng ông đưa cho Tom một loạt các cuốn sách. Điều ngạc nhiên là bốn cuốn sách trong danh sách này lại chính là bốn cuốn sách mà Tom đã từng đọc và cũng là bốn cuốn sách liên quan đến cơ học lượng tử duy nhất mà Tom từng đọc trong đời. Ở trường Tom học rất nghiêm túc, anh không chỉ dành nhiều thời gian cho việc học tập vật lý, mà còn học thêm môn tâm lý học tâm linh. Những điều này đều có liên kết với tri ​​thức mà anh ấy nhận được từ ánh sáng trong trải nghiệm cận tử của mình.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/index.htm

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.3)https://chanhkien.org/2024/02/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-phan-23.htmlSat, 17 Feb 2024 00:21:59 +0000https://chanhkien.org/?p=32599[ChanhKien.org] Rất nhiều người đều miêu tả rằng, họ nhìn thấy người thân hoặc bạn bè đã qua đời trong quá trình trải nghiệm cận tử. Ví dụ, cuốn sách mới “Mindsight” của Giáo sư Kenneth Ring kể về câu chuyện trải nghiệm cận tử của một phụ nữ 45 tuổi tên là Wedge Ami […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Rất nhiều người đều miêu tả rằng, họ nhìn thấy người thân hoặc bạn bè đã qua đời trong quá trình trải nghiệm cận tử.

Ví dụ, cuốn sách mới “Mindsight” của Giáo sư Kenneth Ring kể về câu chuyện trải nghiệm cận tử của một phụ nữ 45 tuổi tên là Wedge Ami Paige. Cô Webge bị mù bẩm sinh nên trong quá trình trải nghiệm cô không thể phân biệt được màu sắc (bởi vì cô sinh ra vốn không có khái niệm về màu sắc), nhưng những miêu tả của cô lại không khác nhiều so với những miêu tả của những người trải nghiệm cận tử khác. Vừa mới bắt đầu, linh hồn của cô đã rời khỏi thân thể rồi bay lơ lửng ở trên trần nhà, cô nhìn thấy thân thể của mình, thậm chí nhìn thấy ba chiếc nhẫn đeo trên tay cô. Sau đó cô bay ra khỏi trần nhà rồi bay lên phía trên của tòa nhà. Tiếp đó, cô bị hút vào một cái đường hầm rất dài, cô xuyên qua đường hầm với tốc độ cực nhanh, ở cuối đường hầm là vùng ánh sáng rộng lớn và sáng chói, cô nghe thấy âm nhạc, sau đó bị cuốn đến trên một bãi cỏ. Cô miêu tả rằng, xung quanh cô là đồng cỏ, cây cối, và rất nhiều người, tất cả mọi thứ, kể cả bản thân cô đều được tạo thành từ ánh sáng rực rỡ, nơi này tràn ngập ánh sáng, mà trong ánh sáng, cô cảm nhận được sự yêu thương vô tận. Sau đó có năm người đi tới chào đón cô, trong đó có hai bạn học ở trường dành cho người mù của cô năm đó, họ đã qua đời rất nhiều năm trước, một người 11 tuổi còn người kia lên 6 tuổi. Hai người bạn học này khi còn sống không chỉ bị mù mà còn là những đứa trẻ thiểu năng trí tuệ, nhưng bây giờ nhìn họ rất xinh đẹp, thông minh và khỏe mạnh, đồng thời không còn là trẻ con nữa. Cô Webge cũng nhìn thấy cặp vợ chồng đã chăm sóc cô khi cô còn nhỏ, họ cũng sớm qua đời từ nhiều năm trước. Cuối cùng cô nhìn thấy bà nội đã qua đời của mình. Họ tiến hành giao tiếp với nhau bằng cảm giác chứ không phải ngôn ngữ.

Huân tước William Barllet, giáo sư vật lý tại học viện khoa học Hoàng gia ở Dublin đã sớm có những nghiên cứu về trải nghiệm cận tử, ông kể về một trường hợp như vậy, chính vì trường hợp đó mà ông đã bước chân vào lĩnh vực này. Vợ ông là bác sĩ khoa phụ sản. Tối ngày 24/1/1924, sau khi từ bệnh viện về, vợ ông đã sốt sắng kể cho ông nghe những chuyện xảy ra trong ngày ở bệnh viện.

Một người phụ nữ tên Doris bị xuất huyết nặng sau sinh, mặc dù đứa bé bình yên vô sự, nhưng bản thân cô lại rơi vào tình trạng nguy kịch. Đúng vào lúc các bác sĩ đang đứng cạnh bệnh nhân, nhìn cô thoi thóp vì vô phương cứu chữa, đột nhiên cô vội nhìn về một hướng của căn phòng, nụ cười rạng rỡ hiện ra trên mặt cô, “A, tốt quá, tốt quá”. Bác sĩ hỏi: “Tốt cái gì chứ?”. Cô ấy trả lời: “Tôi nhìn thấy rồi”. “Cô nhìn thấy gì?” “Ánh sáng dễ thương – một sinh mệnh kỳ diệu”. Cái cảm giác chân thực được truyền đạt qua ánh mắt chăm chú của cô ấy thật khó diễn tả thành lời. Sau đó cô dường như dồn hết sức chú ý tập trung vào một nơi trong giây lát, cô vui sướng kêu lên: “A ha, là bố! Ông rất vui vì tôi đến, ông ấy rất vui sướng. Nếu là W (chồng của cô) cũng đến thì tốt quá rồi”.

Y tá ôm đứa bé cho cô ấy nhìn. Cô rất thích thú khi nhìn đứa bé. Sau đó nói: “Cô có cho rằng tôi phải sống vì đứa bé không?” Sau đó cô ấy lại nhìn về hướng ban đầu rồi nói rằng: “Tôi không thể – không thể ở lại, nếu như cô có thể nhìn thấy những gì tôi làm, cô sẽ biết tôi không thể ở lại”.

Em gái của sản phụ này tên Vida đã chết ba tháng trước. Tình cảm giữa cô và em gái rất tốt, bởi vì lúc đó cô đang mang thai, nên người trong nhà không nói cho cô biết. Huân tước cảm thấy khó mà tin nổi khi cô đã nhìn thấy em gái và người cha đã mất của mình ở cùng một chỗ.

Cô ấy nói với cha mình: “Con đến rồi”. Cô ấy quay sang nhìn bác sĩ và nói: “Ông ấy ở rất gần tôi”. Khi quay lại nhìn, trên khuôn mặt cô lộ ra vẻ bối rối: “Ông ấy mang theo Vida” rồi quay mặt nói với bác sĩ: “Vida ở cùng với ông ấy”. Ông nói tiếp: “Con có thật sự nhớ ta không”, “Con đến rồi”.

Lấy cảm hứng từ câu chuyện này, Huân tước đã làm nghiên cứu một cách có hệ thống về hiện tượng này. Ông cũng báo cáo một số trường hợp về bệnh nhân và một số người chăm sóc hoặc người thân và bạn bè ở bên cạnh chứng kiến cùng một cảnh tượng cận tử.

Sau đây là đoạn trích dẫn từ bài luận văn của Tiến sĩ Allan Kellehear đăng trên tạp chí “Nghiên cứu trải nghiệm cận tử” phát hành vào mùa thu năm 2001, bài viết miêu tả về trải nghiệm cận tử một người phụ nữ sống ở Kona, Hawaii:

Sau vài tuần mắc bệnh thì Kalima “qua đời”, người nhà và bạn bè của cô đều tin rằng cô đã chết, họ đã đào xong phần mộ cho cô, và đặt cô ở bên cạnh để chuẩn bị tang lễ. Đúng lúc này thì, Kalima thở dài một cái, hai mắt mở ra. Vài ngày sau cô mới từ trong tình trạng suy nhược dần dần khôi phục lại thể lực, và kể lại cho gia đình cô nghe một câu chuyện vô cùng kỳ lạ:

Sau khi chết, “tôi” dường như tách khỏi thân thể, đồng thời đứng bên cạnh và nhìn vào thân thể của mình. Phần tôi đang đứng và phần thân thể đang nằm của tôi có vẻ giống hệt nhau, chỉ có điều một người đã chết và một người còn sống. Tôi chăm chú nhìn thân thể mình trong vài phút, rồi quay người đi. Tôi rời khỏi căn phòng và thôn làng rồi đi một mạch đến làng bên cạnh. Ở đó tôi nhìn thấy một nhóm người – ồ, rất nhiều người. Nơi này trong ký ức của tôi là một ngôi làng nhỏ chỉ có vài hộ gia đình, bây giờ những gì tôi nhìn thấy lại là một nơi rất rộng lớn, có hàng trăm hộ gia đình và hàng ngàn người, bao gồm già trẻ trai gái. Tôi nhận ra một vài người trong đó, họ nói chuyện với tôi, thật có chút kì lạ, bởi vì tôi biết họ đã chết nhiều năm rồi. Những người khác đều là người lạ. Họ dường như đều rất vui vẻ, vô lo vô nghĩ. Trên gương mặt mỗi người đều tràn đầy niềm vui, nụ cười hớn hở trên môi, lời nói vui vẻ và từ ái.

Tôi rời khỏi làng đó rồi đi đến ngôi làng khác. Tôi không cảm thấy mệt mỏi, vì đi đường vô cùng nhẹ nhàng thoải mái. Tôi phát hiện nơi này cũng giống với ngôi làng trước đó, có hơn ngàn người, ai ai cũng đều tràn ngập niềm vui. Tôi nhận ra một vài người, tôi nói chuyện với họ. Sau đó lại tiếp tục đi về phía trước.

Câu chuyện tiếp tục miêu tả cuộc hành trình của cô ấy tương tự như trước đó, cuối cùng đi thẳng đến một ngọn núi lửa nơi mà dường như cô muốn đến, ở đó cô bị một nhóm người chặn lại, họ nói với cô: “Cô phải trở lại thân thể của mình. Cô chưa đến lúc phải chết”. Mặc dù cô cầu xin họ cho cô ở lại, họ vẫn đưa cô trở về thân thể của mình. Thế là cô tỉnh lại.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/index.htm

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.2)https://chanhkien.org/2024/02/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-phan-22.htmlTue, 13 Feb 2024 00:29:33 +0000https://chanhkien.org/?p=32570[ChanhKien.org] 2.2. Xuyên qua đường hầm, đối thoại với ánh sáng Trong rất nhiều lời kể từ những người trải nghiệm cận tử đều nói rằng, họ đã đi qua một đường hầm với tốc độ cực nhanh, đồng thời nhìn thấy ánh sáng vô cùng rực rỡ ở cuối đường hầm. Ví dụ, Tiến […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org]

Nguồn hình: Philipp Otto Runge, Birth of the Human Soul (ca. 1806), Wikipedia.

2.2. Xuyên qua đường hầm, đối thoại với ánh sáng

Trong rất nhiều lời kể từ những người trải nghiệm cận tử đều nói rằng, họ đã đi qua một đường hầm với tốc độ cực nhanh, đồng thời nhìn thấy ánh sáng vô cùng rực rỡ ở cuối đường hầm. Ví dụ, Tiến sĩ Raymond Moody, người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về trải nghiệm cận tử đã đề cập đến lời kể lại của một đương sự trong cuốn sách nổi tiếng “Kiếp sau” của ông rằng: “Sự việc thứ nhất xảy ra như thế này, rất nhanh, tôi đi qua một không gian tối tăm và trống rỗng với tốc độ siêu thường. Tôi nghĩ, bạn có thể ví nó như một đường hầm. Tôi giống như đang ngồi tàu lượn siêu tốc trong công viên, đi qua nó với một tốc độ không thể tưởng tượng nổi”.

Trong một cuốn sách khác của mình, “Bên kia ánh sáng” (The Light Beyond), tiến sĩ Raymond Moody đã đề cập đến trải nghiệm cận tử của một bé gái 9 tuổi bị bất tỉnh trong một ca phẫu thuật ruột thừa. Sau khi được cứu sống, cô bé nhớ lại: “Cháu nghe thấy họ nói tim của cháu đã ngừng đập, cháu phát hiện mình bay lơ lửng trên trần nhà nhìn xuống. Kể từ lúc đó cháu có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ, sau đó cháu đi tới hành lang và thấy mẹ đang khóc, cháu hỏi bà vì sao lại khóc, nhưng bà không nghe thấy cháu nói, các bác sĩ cho rằng cháu đã chết. Sau đó, một người phụ nữ xinh đẹp bước đến trước mặt cháu và muốn giúp đỡ cháu, bởi vì cô ấy biết cháu sợ. Chúng cháu đi qua một đường hầm vừa tối vừa dài, đi rất nhanh, ở cuối đường hầm có ánh sáng rực rỡ, cháu cảm thấy rất vui vẻ”.

Có rất nhiều người trải nghiệm cận tử không chỉ nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm, mà còn giao tiếp với các sinh mệnh bên trong ánh sáng. Trong cuốn sách “Bên kia ánh sáng”, tiến sĩ Raymond Moody cũng đã miêu tả trải nghiệm cận tử của cậu bé 11 tuổi. Trong một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, cậu bé đã bị ô tô đâm khi đang đi xe đạp, sau đó cậu được đưa đến bệnh viện. Lúc này, nhịp tim và sóng điện não của cậu bé đã ngừng. Khi được cứu sống, cậu nhớ lại: “Cháu không nhớ mình đã bị đụng xe, nhưng bỗng nhiên cháu nhìn thấy bản thân mình ở phía dưới, thấy mình bị đè dưới chiếc xe đạp, chân bị gãy và chảy máu, sau đó một chiếc xe cứu thương đến, cháu thấy lạ là tại sao mọi người đều lo lắng cho cháu, bởi vì cháu cảm thấy mình vẫn ổn cơ mà. Xe cứu thương chạy đi, cháu bay ở trên chiếc xe và cố gắng đuổi theo nó. Cháu nghĩ mình đã chết. Nhìn xung quanh, cháu phát hiện mình đang ở trong một đường hầm, ở đầu bên kia đường hầm có ánh sáng rực rỡ thông thẳng lên trời. Cháu gắng sức chạy ra khỏi đường hầm. Cháu nhìn thấy rất nhiều người ở trong ánh sáng đó, nhưng cháu không biết ai cả, cháu nói với họ cháu bị tai nạn xe, rồi họ nói cháu phải quay lại, cháu chưa đến lúc phải chết, cháu phải quay về bên cha mẹ và chị gái. Cháu ở lại nơi đó rất lâu, ít nhất về cảm giác cháu thấy rất dài.

Cháu cảm thấy mỗi người ở nơi đó đều rất yêu thương cháu, và họ cũng rất vui vẻ hạnh phúc. Ánh sáng xoay chuyển ở đầu bên kia đường hầm giống như một xoáy nước. Cháu không biết tại sao mình lại ở trong đường hầm, chỉ biết rằng, khi ở trong ánh sáng đó thì không muốn quay về. Cháu gần như quên mất cơ thể của mình, lúc ở trong đường hầm cháu bay lên, cháu nhìn thấy có hai người tới giúp đỡ cháu, họ bước ra từ trong ánh sáng. Từ đường hầm đi vào nơi có ánh sáng, họ luôn ở bên cháu. Sau đó, họ bảo cháu phải quay về. Cháu từ đường hầm trở về, phát hiện mình đang nằm trên giường bệnh của bệnh viện.

Trong một bài báo đăng trên “Tạp chí nghiên cứu trải nghiệm cận tử” tập 16, số 4, Mùa hè năm 1998 (Journal of Near Death Studies, 16(4) Summer 1998) có một trường hợp: Cô C, 31 tuổi, làm y tá tại một phòng khám y tế. Năm cô tám tuổi, vì tiểu ra máu, cô được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Trong lúc đang mổ thận, tĩnh mạch cửa của cô bất ngờ bị vỡ. Khi xuất viện, cô và bố mẹ đều được khuyến cáo rằng cô không nên vận động mạnh. Nhưng sau khi về nhà, cô lại trèo cây khiến tĩnh mạch bị vỡ lần nữa, vì thế cô đã hôn mê trong hai ngày. Khi nằm viện truyền máu, cô không may bị nhiễm bệnh viêm gan, khiến sức khỏe nhanh chóng chuyển biến xấu. Không lâu sau, vào một ngày nọ cô nói với mẹ: “Con phải đi rồi”. Ngay sau đó, cô bé đã rời khỏi cơ thể. Cô nhìn thấy một đường hầm, cô bé cảm thấy rất thoải mái dễ chịu khi ở trong đường hầm này, điều này đối với cô mà nói là không bình thường, bởi vì đường hầm rất tối mà cô lại sợ bóng tối. Ở phía bên kia đường hầm, cô bé nhìn thấy ánh sáng mà giờ đây cô mô tả là sức mạnh của Chúa. Sau khi rời khỏi đường hầm cô bắt gặp một người đàn ông mặc tấm vải bố lớn, cô hỏi: “Ông có phải là Chúa Jesus không?” Người đàn ông trả lời không phải nhưng cũng không nói mình là ai, chỉ nói rằng ông ấy ở đây để “giúp đỡ” cô. Tiếp đó, cô C và ông ấy bắt đầu trò chuyện. Họ nói đến cái chết là một sự lựa chọn và cô có thể chọn ở lại hoặc quay trở về cơ thể của mình. Cô nhớ lại lúc họ nói chuyện, ánh mắt của cô có thể nhìn xuyên qua đường hầm, nhìn thấy mẹ mình trong bệnh viện. Cô nói họ khiến cô cảm nhận được tình yêu của mẹ. Sau đó, cô được biết lá gan của mình có thể “phục hồi”, nhưng thận thì không thể, vì vấn đề ở thận của cô là một loại “nghiệp quả mang theo” (Karmic Carrier), nó nhất định sẽ đi theo cô. Sau đó, cô cùng người đàn ông thảo luận về con đường nhân sinh. Cô nguyện mình sẽ trở thành một y tá, đợi đến khi lớn, cô sẽ tập hợp những thông tin này và chia sẻ nó với những người khác. Đổi lại cô được đảm bảo rằng cô có thể giao tiếp với “phía bên kia” của mình mọi lúc. Sau khi tỉnh lại, gan của cô hồi phục rất nhanh, ngay cả các nhân viên y tế đều sửng sốt kinh ngạc, không cách nào giải thích nổi. Kết quả xét nghiệm vào ngày hôm sau cho thấy cô đã không còn một chút triệu chứng viêm gan nào nữa.

Trong Tạp chí Nghiên cứu Cận tử, tập 19, số 2, mùa đông năm 2000 (Journal of Near Death Studies, 19(2) Winter 2000), Tiến sĩ Richard J. Bonenfant đã kể một ví dụ như sau:

“Sự việc xảy ra trong một buổi họp mặt gia đình của đương sự vào mùa hè năm 1981. Khi đó, đương sự đang bơi trong hồ bơi ‘hình dáng Florida’ ở nhà. Trong nhiều năm qua, cô đã tự rèn luyện để lặn hết chiều dài của hồ bơi. Khi cô vừa bơi đến chỗ sâu của hồ bơi và đang đạp vào thành hồ để bơi ngược lại thì một vị khách say rượu đã lao xuống nước ngay phía trên cô. Anh ta túm lấy cô và kéo xuống đáy hồ để chơi khăm. Vì cô vừa hoàn thành lần lặn đầu tiên chưa kịp lấy hơi, cô vùng vẫy muốn thoát khỏi anh ta nhưng đã nhanh chóng bất tỉnh”.

Sau đó, đương sự phát hiện mình đang chầm chậm nổi lên trong một hoàn cảnh tối tăm, tuy lúc này cô vẫn đang cảm thấy hoang mang và hỗn loạn, nhưng lại không còn cảm thấy sợ hãi và hoảng hốt về việc chết đuối nữa. Ngược lại, cô thấy rất dễ chịu và cảm giác mình nhạy bén hơn trong hoàn cảnh mới.

Cô cảm thấy bản thân đang xuôi theo một góc nghiêng từ từ bay lên, giống như đang đi trên cầu thang cuốn tự động vô hình. Sau khi cô dần quen với hoàn cảnh bóng tối xung quanh, cô có thể xuyên qua bóng tối đó mà nhìn thấy những nơi khá xa. Cô nhìn thấy khung cảnh thời thơ ấu, nơi đó có em gái vẫn còn sống của cô. Cảnh này xuất hiện thoáng qua trên nền tối đen, màu sắc tươi sáng, toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong cái khung hình vuông giống như tivi. Trong cảnh này, em gái cô khoảng chừng ba, bốn tuổi, buộc tóc đuôi ngựa, đang chơi đùa với con mèo trong nhà. Ngay sau đó một cảnh tương tự xuất hiện, lần này là cảnh con chó đã chết của nhà cô. Hai cảnh tượng đều không hề có tiếng động. Sau đó cô chú ý đến một chùm ánh sáng đến từ nơi xa xôi xuất hiện rõ ràng ở trước mặt mình, khi cô từ từ tiến gần chùm sáng, kích thước và độ sáng của chùm ánh sáng dần dần trở nên lớn hơn. Cô cảm giác mình đang xuyên qua một đường hầm tối tăm, tốc độ từ chậm chuyển sang nhanh, cô cảm thấy kính nể, bình yên và yêu thương. Cô nhận ra một người phụ nữ xinh đẹp xuất hiện trong chùm ánh sáng, mặc đồ trắng, tóc dài màu nâu sẫm, mắt màu xanh lam đang duỗi hai tay về phía cô. Người phụ nữ này giống như thiên sứ, toả ra cảm giác tình mẫu tử về phía cô. Lúc này, cô chỉ có một ý nghĩ, chính là nắm chặt đôi tay đang dang ra mang lại cảm giác an toàn cho cô. Ngay khi cô định nắm lấy đôi tay đó, người ấy lại nói với cô qua ánh mắt rằng cô chưa đến lúc phải chết, nhất định phải quay lại. Gần như cùng lúc đó, cô gái phát hiện mình đã trở lại cơ thể. Cô đang thở hổn hển trên bờ hồ. Cô đã được cứu ra khỏi hồ bơi, toàn bộ trải nghiệm cận tử kéo dài khoảng chừng hai phút.

Bác sĩ Melvin Morse và Paul Perry đã kể một ví dụ sinh động tương tự như thế trong cuốn sách khác của họ có tên “Bị ánh sáng biến đổi” (Transformed by the Light), bệnh nhân của họ mô tả rằng: “Tôi hỏi ánh sáng đó, bệnh ung thư của tôi có thể chữa khỏi không, tôi đang thỉnh cầu nó, thế nhưng ánh sáng đã nói với tôi, điều chúng ta thông thường cho là cầu nguyện thực ra là một loại phàn nàn, và điều mà chúng ta cầu thực chất là một kiểu trừng phạt, bởi vì chúng ta không hề thực sự ăn năn về lỗi lầm của mình. Ánh sáng đó yêu cầu tôi nghĩ đến một kẻ thù mà tôi căm hận nhất, tôi đã làm theo. Sau đó, ánh sáng bảo tôi trao hết toàn bộ năng lượng của mình cho kẻ thù, tôi lại làm theo. Bỗng nhiên, một luồng ánh sáng phun ra từ cơ thể tôi, sau đó chùm sáng quay trở lại cơ thể tôi như thể nó bị một chiếc gương phản chiếu. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng từng tế bào của cơ thể mình, thậm chí tôi có thể nhìn thấy từng tế bào từ trong cơ thể tôi phát ra âm thanh và ánh sáng. Tôi vừa khóc vừa cười, run rẩy dữ dội, tôi cố gắng bình tĩnh lại và điều hoà hơi thở. Cuối cùng khi tôi được chữa lành, ánh sáng đó nói với tôi, vừa rồi bạn đã trải qua lần cầu nguyện thật sự đầu tiên trong đời.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/02.htm

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.1)https://chanhkien.org/2024/02/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-phan-21.htmlWed, 07 Feb 2024 01:08:23 +0000https://chanhkien.org/?p=32535[ChanhKien.org] 2. Trường hợp điển hình về trải nghiệm cận tử Ở phần trước chúng tôi đã nhắc đến, các trường hợp trải nghiệm cận tử có một số đặc điểm chung. Dưới đây chúng tôi sẽ phân loại và đưa ra một số ví dụ điển hình cho mọi người. 2.1 Linh hồn ly […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

2. Trường hợp điển hình về trải nghiệm cận tử

Ở phần trước chúng tôi đã nhắc đến, các trường hợp trải nghiệm cận tử có một số đặc điểm chung. Dưới đây chúng tôi sẽ phân loại và đưa ra một số ví dụ điển hình cho mọi người.

2.1 Linh hồn ly thể phiêu đãng trên không trung

Bác sĩ Pim Van Lommel thuộc trung tâm tim mạch của bệnh viện Rijnstate ở Hà Lan là một học giả đương đại nổi tiếng chuyên nghiên cứu về trải nghiệm cận tử. Ông và các đồng nghiệp đã nghiên cứu trải nghiệm cận tử theo hình thức theo dõi (truy dấu vết) kéo dài 8 năm trên 334 bệnh nhân ở độ tuổi từ 26 đến 92 bị nhồi máu cơ tim cấp được cấp cứu thành công trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1992, đồng thời kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí học thuật có uy tín ở quốc tế “The Lancet” vào tháng 12 năm 2001, gây chấn động giới học thuật.

Điều gây chú ý nhất trong báo cáo nghiên cứu của bác sĩ Lommel là trải nghiệm linh hồn ly thể của một số bệnh nhân. Những trải nghiệm này rất khó để giải thích từ góc độ sinh lý thần kinh, bởi vì khi bệnh nhân kinh qua trải nghiệm cận tử đã được cho là chết lâm sàng, nhịp tim và hô hấp đã ngừng hoạt động, mất sóng điện não, não bộ hoàn toàn rơi vào trạng thái ngừng hoạt động. Nếu tư duy ý thức của con người được sinh ra bởi hoạt động thần kinh của đại não, vậy thì bệnh nhân trong trạng thái chết lâm sàng làm sao có thể độc lập với thân thể, đồng thời có những hoạt động ý thức độc lập với cơ thể, lại còn tỉnh táo, có trật tự như vậy?

Ví dụ như một bệnh nhân 44 tuổi bị đau tim đột phát ngã trên bãi cỏ, sau khi người qua đường nhìn thấy liền gọi xe đưa đến bệnh viện cấp cứu. Lúc đó người này được chẩn đoán là đã chết lâm sàng và các chỉ số y tế cho thấy hy vọng được cứu sống trở lại là rất mong manh. Nhưng bác sĩ Lommel không bỏ cuộc, vẫn tiếp tục ép tim và hô hấp nhân tạo cho ông ấy. Khi bác sĩ Lommel chuẩn bị làm hô hấp nhân tạo thì phát hiện trong miệng bệnh nhân có chiếc răng giả làm vướng víu, nên đã tháo răng giả trong miệng bệnh nhân ra. Trải qua một tiếng rưỡi cấp cứu, bệnh nhân cuối cùng cũng có nhịp tim và huyết áp, nhưng vẫn trong trạng thái hôn mê. Đợi sau khi tỉnh lại, bệnh nhân vừa gặp được bác sĩ Lommel liền nói với ông, tôi biết chiếc răng giả của mình đang ở đâu. Bác sĩ Lommel đã rất ngạc nhiên. Sau đó bệnh nhân giải thích rằng: “Đúng vậy, khi tôi được đưa đến bệnh viện, ông ở đó và đã lấy răng giả trong miệng của tôi ra, rồi đặt trên một chiếc xe nhỏ. Trên xe có rất nhiều lọ thuốc, phía dưới chiếc xe còn có một ngăn kéo, ông đã để răng giả của tôi đặt trong ngăn kéo đó.”

Bác sĩ Lommel đã vô cùng kinh ngạc, lúc đó bệnh nhân đang ở trong trạng thái hôn mê sâu. Thông qua trò chuyện nhiều hơn, bác sĩ Lommel biết được lúc đó bệnh nhân đang bay lơ lửng trên không trung, nhìn xuống thấy thân thể của mình đang nằm trên giường và các nhân viên y tế đang bận rộn, đồng thời bệnh nhân cố gắng hết sức để giao tiếp với các nhân viên y tế, muốn họ đừng ngừng việc cấp cứu, nhưng dù ông ấy có cố gắng thế nào thì cũng vô ích, không ai có thể nhìn thấy ông trên không trung. Tất cả những chi tiết và cảnh tượng cấp cứu mà bệnh nhân này miêu tả đều ăn khớp với tình huống thực tế lúc đó. Nếu chúng ta coi hoạt động ý thức của bệnh nhân lúc đó quy thành hoạt động thần kinh của não bộ, thì làm thế nào để giải thích việc ông ấy dưới trạng thái đại não không hoạt động lại có thể nhìn thấy tất cả sự việc một cách rõ ràng như vậy?

Hai tác giả của cuốn “Đi về phía ánh sáng” (Closer to the Light) là tiến sĩ Melvin Morse thuộc đại học George Washington và Paul Perry cựu tổng biên tập tạp chí “American Health” đã kể lại một trải nghiệm ly thể như sau:

Auger Phil Hart là một cụ già 63 tuổi. Trong khi bà đang chờ được cấy ghép tim, một loại vi rút lây nhiễm nghiêm trọng đã xâm nhập vào hệ tim mạch của bà, làm cho tim bà ngừng đập. Bà lập tức được đưa đến Trung tâm đại học California (University of California Center) để tiến hành phẫu thuật. Cả gia đình bà đều đến bệnh viện, ngoại trừ người con rể của bà phải ở nhà.

Mặc dù ca phẫu thuật rất thuận lợi, nhưng vào lúc rạng sáng 2 giờ 15 phút, quả tim mới cấy ghép của Auger đột nhiên ngừng đập. Nhóm phẫu thuật cấy ghép đã nỗ lực hơn 3 giờ đồng hồ, cuối cùng lại cứu sống bà Auger thêm một lần nữa. Mãi đến khi trời sáng, người nhà bà Auger được thông báo ca phẫu thuật đã thành công, nhưng không được biết các chi tiết khác.

Khi người nhà bà Auger gọi điện báo tin vui cho người con rể. Con rể của bà cũng có tin tức báo cho họ biết. Anh nói anh đã biết tin ca phẫu thuật thành công rồi. Vào buổi sáng lúc 2 giờ 15 phút, khi anh đang ngủ thì phát hiện bà Auger đang đứng ở đầu giường. Bà Auger nói với anh đừng lo lắng, bà sẽ không sao đâu, và yêu cầu anh báo tin này cho con gái bà. Con rể của bà Auger đã ghi lại tin này cùng thời gian lúc đó rồi ngủ thiếp đi.

Sau đó bà Auger tỉnh lại, câu hỏi đầu tiên của bà là: “Mọi người có nhận được tin nhắn của tôi không?”

Paul Perry và Tiến sĩ Melvin Morse đã nghiên cứu kỹ lưỡng trải nghiệm cận tử của bà Auger, phát hiện rằng mỗi chi tiết đều có bằng chứng khách quan, thậm chí còn nhìn thấy mảnh giấy có ghi dòng tin nhắn mà con rể bà Auger đã ghi lại.

“Trải nghiệm linh hồn ly thể” không chỉ có ở người trải qua cận tử, mà còn là trải nghiệm tương tự của một số người khỏe mạnh. Tiến sĩ Charles T. Tart, giáo sư tại Đại học California, đã mô tả một số thí nghiệm có tên gọi là “linh hồn ly thể” được thực hiện ở người khỏe mạnh trong bài báo được đăng tải trên tạp chí học thuật “Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử” (Journal of Near Death Studies) năm 1998.

Vào giữa những năm 1960, có một lần cô Z, người trông trẻ cho gia đình ông Charles đã nói với tiến sĩ rằng, từ khi còn nhỏ cô thường thường có cảm giác như “tinh thần” tỉnh táo lại sau một giấc ngủ say, linh hồn rời khỏi thân thể bay lên gần trần nhà, từ đó nhìn xuống thân thể của mình. Loại trải nghiệm rõ ràng này khác với giấc mộng. Lúc đầu cô còn tưởng là hiện tượng bình thường trong giấc ngủ. Sau khi cô nói chuyện này với người khác khoảng 1,2 lần, mới biết được không phải như vậy. Về sau, cô cũng không tùy tiện nhắc tới chuyện này với người khác nữa. Cô nói thỉnh thoảng mình vẫn có loại trải nghiệm này. Tiến sĩ Tart nói với cô rằng vào thời điểm đó có hai giả thuyết liên quan đến “linh hồn ly thể”, một thuyết cho rằng tư tưởng của con người trong một thời gian ngắn đã rời khỏi nhục thân, lý thuyết còn lại thì cho rằng đó hoàn toàn là một loại ảo giác. Tiến sĩ đề nghị rằng cô có thể sử dụng biện pháp sau để phân biệt hai loại giả thuyết đó: Viết mười số từ 1 đến 10 lên mười tờ giấy, lật úp chúng lại rồi đặt vào trong chiếc hộp trên bàn, trước khi đi ngủ chọn ngẫu nhiên một tờ rồi lật ngược chúng nhưng không được nhìn. Nếu khi cô ấy ngủ thực sự trải qua “linh hồn ly thể” thì cô ấy sẽ nhìn vào tờ giấy đó và nhớ kĩ con số viết bên trên. Sáng hôm sau lại kiểm tra con số trong trí nhớ của cô và trên tờ giấy có trùng khớp không. Vài tuần sau đó, khi tiến sĩ Tart gặp lại cô, cô nói rằng cô đã thử bảy lần, và lần nào những con số được ghi nhớ cũng đều chính xác.

Sau đó bác sĩ Tart đã mời cô đến phòng thí nghiệm của ông và tiến hành thử nghiệm trong bốn đêm. Vào mỗi đêm, bác sĩ sử dùng máy điện não đồ (EEG) có thể phân biệt được các giai đoạn khác nhau của giấc ngủ để tiến hành thử nghiệm với cô, liên tục ghi lại số liệu máy điện não đồ của cô ấy mỗi đêm khi ngủ. Đồng thời, ông còn dùng thiết bị kiểm tra hoạt động của mắt, điện trở của da, nhịp tim, huyết áp, v.v.

Để xác định khi cô có cảm giác ly thể có đúng là “linh hồn ly thể” hay không, bác sĩ đã thực hiện trình tự sau đây:

Mỗi đêm sau khi đợi người tham gia thử nghiệm nằm trên giường và máy đo hiển thị rằng cô sắp ngủ, tiến sĩ đi đến hành lang phòng làm việc, mở một bảng chữ số ngẫu nhiên đã chuẩn bị trước, ném một đồng xu lên bảng và chọn một con số ngẫu nhiên mà đồng xu rơi vào, lập tức ghi lại năm con số đầu tiên lên một mảnh giấy nhỏ. Sau đó đặt tờ giấy vào trong một cái kẹp không trong suốt, rồi trở lại phòng thí nghiệm nơi có người thử nghiệm, rồi đặt tờ giấy lên trên một cái giá trong tình huống người được thử nghiệm không nhìn thấy tờ giấy. Nếu mắt của một người cách mặt đất với độ cao khoảng 2 mét, người đó có thể nhìn thấy rõ ràng nội dung trong tờ giấy. Ngoài cách này ra thì người tham gia không cách nào nhìn thấy tờ giấy. Sau đó bác sĩ bảo người được thử nghiệm đi ngủ, yêu cầu cô nếu xuất hiện hiện tượng “linh hồn ly thể”, hãy cố gắng tỉnh lại ngay và nói cho bác sĩ sau khi kết thúc hiện tượng “linh hồn ly thể”, để ông biết được những gì máy đo ghi lại khi phát sinh hiện tượng “linh hồn ly thể”. Ông cũng yêu cầu cô nếu như linh hồn bay đủ cao, hãy ghi nhớ nội dung trong tờ giấy và sau khi kết thúc hiện tượng này lập tức tỉnh lại và báo cho tiến sĩ biết nội dung.

Trong 4 đêm thử nghiệm, cô Z đã báo cáo tổng cộng 5 lần có cảm giác “linh hồn lơ lửng”, trong đó có 3 lần cô cảm giác dường như bộ phận linh hồn ly thể và có 2 lần trải nghiệm “linh hồn ly thể”. Trong ba đêm đầu tiên, cô Z báo cáo tuy rằng cô thỉnh thoảng có trải nghiệm linh hồn bay lơ lửng hoặc trải nghiệm ly thể, nhưng cô không cách nào khống chế linh hồn để bay lên vị trí đủ cao để nhìn thấy con số trên tờ giấy (con số mỗi đêm đều không giống nhau). Vào đêm thử nghiệm thứ tư, bắt đầu từ 5 giờ 57 phút sáng, điện não đồ hiển thị có lúc giống như giai đoạn đầu của giấc ngủ trong vòng 7 phút, có lúc giống như thức tỉnh trong giây lát. Sau đó cô Z tỉnh dậy và nói với tiến sĩ con số trên tờ giấy là 25132, tiến sĩ ghi lại con số này và chứng thực đây đúng là con số được ghi trên tờ giấy. Mà xác suất ngẫu nhiên đoán trúng một chữ có 5 chữ số là 1/100.000!

Kenneth Ring, giáo sư tâm lý học tại đại học Connecticut, trong cuốn sách nổi tiếng của mình “Hướng tới Omega— Tìm kiếm ý nghĩa của trải nghiệm cận tử” (Heading toward Omega—in Search of the meaning of the Near Dearth Experience) đã kể lại trải nghiệm cận tử của một người phụ nữ 48 tuổi như sau:

Phịch, tôi rời đi, sau đó tôi bay lơ lửng lên trần nhà, khi nhìn xuống dưới, tôi có thể nhìn thấy đầu và mũ của bác sĩ. Tôi có thể phân biệt được bác sĩ chính chữa trị cho mình bởi vì trên mũ của ông có kí hiệu rất đặc thù, cảnh tượng đó rất rõ ràng và sống động. Tôi bị cận thị rất nặng. Người khác có thể nhìn thấy đồ vật ngoài 122 mét, tôi phải đến gần ở khoảng cách 4.5 mét mới có thể nhìn thấy, nên việc này (nhìn thấy ký hiệu đặc thù trên mũ của bác sĩ) khiến tôi rất ngạc nhiên. Họ nối tôi vào một vào một cái máy đặt ở phía sau đầu của tôi, niệm đầu đầu tiên của tôi là: “Trời ạ, tôi có thể nhìn thấy, tôi quả thực không thể tin nổi, tôi có thể nhìn thấy nó”. Tôi có thể đọc được những con số ở trên máy móc, mà chiếc máy này lại ở phía sau đầu của tôi. Tất cả mọi thứ đều rất sáng và rõ ràng, từ chỗ tôi có thể nhìn thấy cái chụp đèn, trên chụp đèn rất bẩn, toàn là bụi bặm. Tôi nhớ lúc đó tôi nghĩ: “Nhất định phải nói chuyện này với các y tá”.

Một trường hợp trải nghiệm cận tử sinh động khác được ghi lại trong cuốn “Đi về phía ánh sáng” của Melvin Morse thuộc đại học George Washington và đồng tác giả Paul Perry cựu tổng biên tập tạp chí American Health: Một phụ nữ tên là Paula 25 tuổi, trong một lần bộc phát bệnh tim, tim cô đã ngừng đập, sau khi cấp cứu cô tỉnh lại, cô miêu tả rằng: Tôi bay lơ lửng trên trần nhà nhìn xuống dưới, có ba y tá đang ở xung quanh cơ thể tôi, có một người sau khi đo mạch cho tôi xong rồi hét lên với hai người còn lại: “Gọi điện thoại cho bác sĩ và chồng của cô ấy”. Bác sĩ lập tức đến. Sau khi kiểm tra sơ bộ xong, bác sĩ nói: “Cô ấy chết rồi”. Tôi bay ra khỏi phòng, đi trong hành lang và nhìn thấy dì của tôi là y tá của của bệnh viện này. Cô ấy đang nói với người khác: “Thật đáng tiếc, Paula đã từng là một người mẹ trẻ tốt”. Tôi thấy rất kỳ lạ là tại sao lại dùng “đã từng là”. Tôi đã cố gắng nói chuyện với họ, nói với họ rằng tôi vẫn còn ở đây, nhưng không cách nào nói chuyện được với họ. Tôi thậm chí còn có thể bay vào một căn phòng khác, tôi nghe thấy một bệnh nhân đang phàn nàn: “Ồn ào quá”. Y tá nói với cô: “Paula ở phòng bên cạnh bệnh rất trầm trọng”. Sau đó tôi bay trở về, nhìn thấy chồng tôi đã đến, anh nói với bác sĩ: “Làm sao tôi có thể nói với các con điều này đây?” Tôi nghĩ tôi thực sự đã chết rồi, niệm đầu thứ hai của tôi không phải là sợ hãi, mà lại cảm thấy đây có thể là một trải nghiệm thú vị, tôi muốn nói với họ: “Tôi đang ở đây khi đó, tôi thậm chí có thể nhìn thấy họ và nghe được họ nói chuyện, nhưng không cách nào nói chuyện với họ, điều này khiến người ta rất chán chường. Khi tôi nhìn thấy họ đang cấp cứu cho tôi, trong phòng trở nên sáng rực, như một cái lồng chụp lớn đầy màu sắc bao phủ lên tôi, ở giữa cái lồng là ánh sáng lấp lánh vô cùng rực rỡ. Tôi biết trung tâm ánh sáng kia chính là nơi tôi muốn đến. Sau đó có vài người bước ra từ ánh sáng, họ không phải là Thượng Đế hay Thiên Sứ mà là những người bình thường giống như tôi. Cuối cùng tôi đã trở về thân thể của mình. Tôi nhìn thấy bác sĩ đang lắc bả vai của tôi gọi lớn: “Paula, Paula, hãy trở lại”. Vào lúc đó tôi đã trở về thân thể và tỉnh lại.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/02.htm

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn (Phần 2.1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầuhttps://chanhkien.org/2024/01/mo-canh-cua-sinh-tu-kham-pha-bi-an-cua-linh-hon-mot-nganh-khoa-hoc-moi-danh-dau-buoc-ngoat-ve-trai-nghiem-can-tu-phan-1-loi-mo-dau.htmlWed, 31 Jan 2024 05:40:46 +0000https://chanhkien.org/?p=32485[ChanhKien.org] Cuốn sách “Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn” được tổng hợp từ nhiều hiện tượng trải nghiệm cận tử, đồng thời tác giả sẽ dựa trên trí huệ trong quá trình tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để đưa ra một số lời giải thích đối với hiện […]

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Cuốn sách “Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn” được tổng hợp từ nhiều hiện tượng trải nghiệm cận tử, đồng thời tác giả sẽ dựa trên trí huệ trong quá trình tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để đưa ra một số lời giải thích đối với hiện tượng này. Hy vọng quyển sách này sẽ giúp ích cho những ai đang tìm kiếm chân lý nhân sinh của đời người.

1. Lời mở đầu

Đời người ngắn ngủi, từ xưa đến nay, bất luận là đế vương khanh tướng, hay là bậc thánh hiền hào kiệt, đều khó tránh khỏi cái chết. Rất nhiều người cho rằng, con người chết giống như ngọn đèn tắt, là chấm dứt hết rồi, tất cả những gì khi còn sống đều trở thành khói mây. Thế nhưng, sự tồn tại của đời người lẽ nào chỉ như giây phút thoáng qua; nhục thể tiêu tan rồi, lẽ nào đồng nghĩa với việc sinh mệnh vĩnh viễn biến mất? Kỳ thực trong thế giới mà chúng ta đang sinh sống này, có quá nhiều hiện tượng và ví dụ nói cho chúng ta biết rằng, con người thực sự có linh hồn, mà linh hồn con người sẽ không tiêu mất sau khi chết, do đó tất cả những gì một người làm lúc sống, từ việc lớn cho tới việc nhỏ, dù tốt hay xấu, cũng đều sẽ mang theo cùng với linh hồn của người đó trong nhiều đời nhiều kiếp. Các bằng chứng cho thấy sự tồn tại của linh hồn là nhiều vô số kể. Trong cuốn sách điện tử này, chúng tôi đã chuẩn bị để cùng mọi người khám phá một nội dung trong vô số hiện tượng và trường hợp, đó là: Trải nghiệm cận tử (Viết tắt là NDE:Near Death Experience).

Rất nhiều người trong đời từng trải qua một lần hoặc thậm chí nhiều lần trải nghiệm thần bí: Nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ, gặp người thân đã qua đời, thậm chí chết đi sống lại, v.v. Trong khi mọi người giữ kín những hiện tượng này, thì những nhà khoa học chính trực và có nhận thức mới mẻ đã lặng lẽ bắt đầu một cuộc nghiên cứu khó khăn nhất trong lịch sử khoa học nhân loại, nhưng lại có ý nghĩa nhất, đó chính là nghiên cứu về trải nghiệm cận tử.

Trải nghiệm cận tử là một hiện tượng khá phổ biến. Ngay từ hơn 2000 năm trước, Plato trong cuốn sách “Cộng hòa” (The Republic) của mình đã viết về hiện tượng trải nghiệm cận tử. Nghiên cứu cho thấy, những người từng trải nghiệm cận tử phân bố tại các khu vực khác nhau trên thế giới, các chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và bối cảnh văn hóa khác nhau. Theo cuộc điều tra của Công ty thống kê Gallup nổi tiếng của Mỹ dự đoán, chỉ tính riêng nước Mỹ thì đến nay có ít nhất 130 triệu người trưởng thành sống khỏe mạnh từng kinh qua trải nghiệm cận tử, nếu tính luôn cả trẻ em, con số này sẽ còn cao hơn. Nghiên cứu của tiến sĩ Kenneth Ring và một số nhà nghiên cứu khác tiết lộ thêm rằng, có khoảng 35% người khi cận kề cái chết có trải nghiệm cận tử. Hiện nay, hiện tượng trải nghiệm cận tử đang ngày càng thu hút các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực. Trong đó rất nhiều đều là học giả sáng giá trong lĩnh vực mà họ đã nghiên cứu. Ngoài tiến sĩ Kenneth Ring của trường đại học Connecticut, còn có Melvin Morse giáo sư của Trường đại học Washington, tiến sĩ Raymond A. Moody của trường đại học Nevada, tiến sĩ Ian Stevenson của trường đại học Virginia, tiến sĩ Linz Audain bác sĩ khoa nội của Đại học George Washington và đồng thời ông cũng là giám đốc điều hành cấp cao của công ty Mandate, tiến sĩ Charles Tart giảng viên Đại học California, v.v. Các bài báo liên quan đến nghiên cứu cận tử không ngừng được công bố trên các tạp chí y khoa có uy tín quốc tế như The Lancet và The Journal of Near Death Studies (Nghiên cứu trải nghiệm cận tử). Năm 1987, theo đề xuất của một số học giả, hiệp hội nghiên cứu trải nghiệm cận tử quốc tế chính thức được thành lập. Có thể nói, sự nghiên cứu đối với lĩnh vực thần bí này của giới khoa học đang trên đà phát triển.

Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử (NDE) thời cận đại bắt nguồn từ nhà địa chất học người Thụy Sĩ Albert Heim. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ông bắt đầu nghiên cứu NDE từ một lần trải nghiệm của bản thân mình. Heim thích leo núi, một lần, khi ông đang leo lên dãy núi Alps (hay Anpơ), thì bị một trận cuồng phong thổi rơi xuống vách núi. Trong khoảng khắc đó, một kỳ tích đã xảy ra.

—–

“Dường như, ở trên vũ đài cách tôi một khoảng, tôi nhìn thấy mình xuất hiện với nhiều hình tượng khác nhau và toàn bộ quá khứ của bản thân. Tôi nhìn thấy bản thân mình là vai chính trong vở diễn này. Mỗi sự vật dường như đều bị ánh sáng của thiên đường tô điểm, không còn bi thương và lo âu, tất cả đều tươi đẹp rực rỡ. Ký ức về nỗi khốn khổ mà tôi đã từng chịu đựng hiện ra rất rõ ràng, nhưng nó không làm cho người ta cảm thấy đau buồn. Không có xung đột và mâu thuẫn, xung đột đã chuyển hóa thành yêu thương. Tư tưởng cao thượng và hòa ái ngự trị và thống nhất những ấn tượng đơn độc. Một loại cảm giác tĩnh mịch thần thánh giống như âm nhạc kỳ diệu gột rửa tâm hồn tôi”.

Trải nghiệm đó đã thôi thúc Heim tiến hành nghiên cứu sâu rộng về rất nhiều người đã từng kinh qua trải nghiệm tương tự, bao gồm cả những người lính bị thương trong chiến tranh, từ những công nhân xây dựng rơi từ trên công trình kiến trúc xuống, những ngư dân suýt chết đuối,… Năm 1892, trong luận văn nghiên cứu của mình ông đã nhắc đến: Trong số 30 người bị rơi và may mắn sống sót mà ông khảo sát, thì 95% người nói rằng họ cảm thấy bình tĩnh và hạnh phúc trong quá trình cận kề cái chết. Ông còn phát hiện trải nghiệm của họ là cực kỳ giống nhau: Rất nhiều hoạt động ý thức bay vút qua, năng lực siêu phàm dự đoán trước kết quả, ý thức tiêu tán khắp thời gian, nhanh chóng nhớ lại một đời của mình, nhìn thấy những cảnh tượng mỹ lệ siêu nhiên, nghe được âm nhạc thiên thượng văng vẳng bên tai.

“Không một chút bi thương, cũng không có nỗi sợ hãi có thể xuất hiện khi gặp một chút nguy hiểm… Không có lo lắng tuyệt vọng và thống khổ, chỉ có nghiêm túc, tiếp nhận một cách sâu sắc; tinh thần minh mẫn và hoạt động cao độ”.

Nghiên cứu của Heim dường như trở thành chất xúc tác mạnh mẽ khiến rất nhiều nhà nghiên cứu đã lần tiếp bước ông. Năm 1903, tác giả người Anh F.W.H. Myers đã hoàn thành cuốn sách “Bản chất con người và sự tồn tại của nó khi nhục thể tử vong” (Human personality and its survival of bodily death) gồm hai quyển; năm 1907, James H. (James Hervey) đã xuất bản bài báo “Ảo giác của người đang hấp hối” tại Hoa Kỳ, mang lại sức ảnh hưởng rất lớn. Năm 1926, nhà vật lý học nổi tiếng người Anh William Barrett đã xuất bản cuốn “Ảo giác lúc lâm chung”. Trong thời gian này, nghiên cứu cận tử nhận được sự ủng hộ rộng rãi.

Năm 1959, nhà tâm lý học Karlis Osis thuộc Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ lại tiếp tục nghiên cứu của Albert Heim bằng cách phân tích hàng trăm ghi chép chi tiết về trải nghiệm của bệnh nhân trong quá trình tử vong. Năm 1972, với sự giúp đỡ của E.Haraldsson, một nhà tâm lý học tại Iceland, nhóm nghiên cứu đã vượt qua ranh giới chủng tộc và văn hóa, mở rộng nghiên cứu sang Ấn Độ. Họ hợp tác cùng nhau và xuất bản cuốn sách Thời khắc tử vong (At the Hour of Death, 1972). Osis kết luận:

“Mặc dù nhiều bệnh nhân rơi vào trạng thái mất trí nhớ, bất tỉnh nhưng vẫn có những người ý thức giữ được tỉnh táo đến phút cuối cùng. Họ nói đã ‘nhìn thấy’ kiếp sau và có thể kể lại những trải nghiệm của mình trước lúc lâm chung. Ví dụ: Họ đã nhìn thấy người thân quá cố và linh hồn của bạn bè, nhìn thấy các nhân vật trong tôn giáo và truyện thần thoại, nhìn thấy ánh sáng thần kỳ, màu sắc rực rỡ mỹ lệ và những cảnh vật ở thế giới khác. Những trải nghiệm này rất có sức ảnh hưởng, nó mang lại cho họ sự yên tĩnh, an nhàn và tình cảm tôn giáo. Các bệnh nhân đã trải nghiệm ‘cái chết tốt đẹp’ một cách kỳ lạ, điều này hoàn toàn trái ngược với bóng tối và bi thương mà mọi người thường nghĩ về cái chết”.

Vào những năm 1970, Russell Noyce Jr., giáo sư tâm thần học tại Đại học Iowa và đồng nghiệp Roy Clayty đã cùng nhau nghiên cứu lượng lớn các mô tả về người lúc sắp chết, đồng thời cũng tiến hành nghiên cứu đối với những tường thuật mang tính tự truyện của từng cá nhân, trong nhóm nghiên cứu có cả nhà tâm lý học nổi tiếng, bậc thầy tâm thần học người Thụy Sĩ Karl G. Jung. Năm 1944, do mắc bệnh tim, ông Jung đã có trải nghiệm cận tử, trải nghiệm này đã thay đổi quan điểm nhận thức của ông về nhân loại. Ông viết: “Những gì xảy ra sau khi chết thật huy hoàng sáng lạn, nó khó diễn tả thành lời, đến mức cảm xúc và sức tưởng tượng của chúng ta không thể mô tả được đại khái về chúng”.

Trong khoảng thời gian từ năm 1972 đến năm 1974, tiến sĩ Raymond Moody đã thu thập được 150 trường hợp thực tế trải nghiệm cận tử (NDE), từ đó quy nạp những yếu tố thường gặp nhất của NDE: Nhẹ nhàng rời khỏi thân thể; đi qua một đường hầm tối đen; hướng về một chùm sáng mà bay đi; gặp gỡ những người thân thích; nhớ lại toàn bộ cảnh tượng lúc còn sống; không muốn quay trở lại thân thể; nhìn các thời không rõ ràng một cách phi thường; cảm giác thất vọng sau khi được chữa trị. Năm 1975, cuốn sách “Kiếp sau” (Life After Life) của ông được xuất bản, từ đây nghiên cứu trải nghiệm cận tử bước vào giai đoạn mới.

Những yếu tố được Moody liệt kê ra đều được miêu tả tương tự trong các báo cáo về trải nghiệm cận tử sau này, do đó chứng thực các nghiên cứu của Albert Heim, Karlis Osis, Russell Noyce Jr và Roy Clayty. Sau khi tổng hợp các trường hợp trải nghiệm cận tử, ông Moody đã đề xuất “Trải nghiệm lý tưởng hoặc trải nghiệm hoàn chỉnh dựa trên lý thuyết”, ông đã miêu tả như thế này:

“Một người đang cận kề cái chết, khi đạt đến sự thống khổ cực điểm của nhục thân, anh ấy nghe thấy tuyên bố của bác sĩ rằng bản thân mình đã chết, anh ấy bắt đầu nghe được âm thanh hỗn độn, tiếng chuông ngân hoặc tiếng vo ve, đồng thời cảm thấy mình đang lao nhanh qua một đường hầm đen tối. Sau đó, anh ấy đột nhiên phát hiện mình đã rời khỏi nhục thể, nhưng vẫn đang trong môi trường vật chất trực tiếp (Giải thích của người dịch: môi trường xã hội hiện tại). Anh ấy ở phía xa nhìn thân thể của mình, giống như một người đứng bên ngoài quan sát. Anh ấy quan sát quá trình sống lại của mình từ trên cao, cảm xúc hỗn loạn.

Một lúc sau, anh ấy bình tĩnh lại, dần dần quen thuộc với tình trạng này. Anh chú ý tới bản thân mình vẫn có một “thân thể”, nhưng mà tính cách đặc tính của nó so với anh khác biệt quá nhiều. Thoáng chốc lại xảy ra một số sự việc khác. Anh nhìn thấy linh hồn của người bạn đã chết, một vị Thần ân cần nhiệt tình mà anh chưa bao giờ nhìn thấy trước đây — một sinh mệnh giống như tia chớp — xuất hiện ở trước mặt anh ấy. Sinh mệnh này dùng phương thức phi ngôn ngữ để hỏi anh một vài vấn đề, bảo anh ấy đánh giá cuộc đời của mình, trong nháy mắt, những sự kiện chính trong đời của anh được triển hiện ra. Trong nhất thời, anh ấy phát hiện bản thân mình đang đến gần chướng ngại vật hoặc ranh giới nào đó, điều này hiển nhiên là đại biểu cho ranh giới giữa kiếp này và kiếp sau. Thế nhưng anh ấy biết mình nhất định phải trở lại nhân gian, là vì thời khắc tử vong vẫn chưa tới. Bởi vậy cho đến tận bây giờ anh vẫn cảm thấy hứng thú với trải nghiệm đã xảy ra sau khi chết, anh không muốn quay về nhân gian. Nhưng cho dù thái độ của bản thân anh như thế nào, cuối cùng anh ấy vẫn phải nhập vào thể xác và sống lại.

Moody thận trọng nhấn mạnh: Quá trình của mỗi trường hợp trải nghiệm cận tử đều không phải là hoàn toàn dựa theo phương thức kể trên, nhưng ông bị cuốn hút mê mẩn bởi một số trải nghiệm “giống nhau đến kinh ngạc”. Nghiên cứu của Moody đã mở đầu cho các nhà nghiên cứu trải nghiệm cận tử của thế hệ mới, những người xuất sắc trong số ấy gồm có: Tiến sĩ Kenneth Ring, tiến sĩ Michael Sabom, tiến sĩ Melvin Morse,… Nghiên cứu của họ rút ra các kết luận chủ yếu như sau:

– Không thể nghi ngờ gì nữa, trải nghiệm cận tử từng xảy ra nhiều lần trên thế giới. Trải nghiệm cận tử không chỉ giới hạn ở người trưởng thành, mà còn xảy ra ở trẻ em. Khoảng 35% người cận kề cái chết đều sẽ có trải nghiệm cận tử.

– Tuyệt đại đa số người trải nghiệm cận tử đều nói họ cảm thấy yên tĩnh và vui vẻ, mà không phải là thống khổ hoặc bị dày vò.

– Một số hiện tượng mà người trải nghiệm cận tử nhìn thấy không nhất định là trùng khớp với sự hiểu biết của bản thân anh ấy. Ví dụ, nhà vật lý học William Barrett có ghi chép rằng, một số trẻ em trong lúc trải nghiệm cận tử đã nhìn thấy một số thiên sứ không có cánh nên cảm thấy thất vọng.

– Trải nghiệm cận tử có ảnh hưởng rất lớn đối với đương sự, phần lớn những người này phát sinh sự chuyển biến cực kỳ lớn, tích cực, tâm hồn trở nên phong phú. Một số người vô thần luận sau khi kinh qua trải nghiệm cận tử đã hoàn toàn cải biến nhân sinh quan của bản thân, từ đó về sau trở thành người tín ngưỡng hữu thần luận thành kính.

Điều khiến người ta ngẫm nghĩ sâu hơn là, cũng không phải là tất cả những gì mà người trải nghiệm cận tử nhìn thấy đều là cảnh tượng tốt đẹp khiến người ta hạnh phúc. Có một số người trong trải nghiệm cận tử cũng nhìn thấy một số cảnh tượng đáng sợ. Ví dụ: Trong bài viết “Ấn tượng Thiên đường – 100 câu chuyện truyền miệng của những người sống lại sau khi chết” được đăng trên Minh Huệ Net có ghi chép về trải nghiệm cận tử đáng sợ của một trưởng cục cảnh sát ở Đức tên Stein Heideler. Trong một lần trải nghiệm cận tử ông nhìn thấy bản thân bị rất nhiều linh hồn tham lam xấu xí vây xung quanh, trong đó một linh hồn mở miệng lớn như cái chậu máu nhào tới muốn cắn ông. Còn có một số người khi trải nghiệm cận tử đã nhìn thấy những linh hồn có được kết cục khác nhau chiểu theo những việc làm khi họ còn sống. Những trường hợp trải nghiệm cận tử này khiến người ta vô tình nghĩ đến lời dạy “thiện ác hữu báo” của người Trung Quốc thời xưa.

Hiện tượng “linh hồn ly thể” không chỉ giới hạn trong những người cận kề cái chết, có một số ít người đang trong trạng thái thân thể khỏe mạnh cũng có trải nghiệm tương tự. Hiện tượng “linh hồn ly thể” của những người này càng khiến cho các nghiên cứu về NDE trở nên khả thi hơn khi tiến nhập vào thực nghiệm kiểm chứng. Ví dụ, tiến sĩ Charles Tart của Đại học California từng tiến hành kiểm tra thực nghiệm nghiêm ngặt đối với một phụ nữ tự xưng là thường trải nghiệm trạng thái “linh hồn ly thể”. Ông đặt tờ giấy ghi năm chữ số ngẫu nhiên trên một cái giá cao gần hai mét, yêu cầu người phụ nữ nằm trên giường trong phòng thí nghiệm không cách nào nhìn thấy được. Sau đó ông yêu cầu người được thí nghiệm này tìm cách bay tới chỗ cao kia để nhìn nội dung của tờ giấy, tức là “linh hồn ly thể”. Kết quả của thí nghiệm thực chứng là bà đã nói chính xác năm con số trên tờ giấy sau khi tuyên bố rằng linh hồn của bà ly thể vào đêm thứ tư. Mà xác suất đoán trúng năm con số này là 1/100.000, thí nhiệm chứng thực trên đã minh chứng cho khả năng tồn tại khách quan của trải nghiệm cận tử.

Người trải qua linh hồn ly thể nổi tiếng nhất

Trong lịch sử phải kể tới nhà khoa học, nhà triết học và nhà thần học nổi tiếng người Thụy Điển sống tại thế kỷ 18, ông Emanuel Swedenborg. Ông căn cứ theo những cảnh tượng mà bản thân nhìn thấy được trong linh giới khi linh hồn ly thể đi ngao du, lưu lại kiệt tác lớn “Học thuyết thiên đàng” (Heavenly Doctrine), đã miêu tả chi tiết cảnh tượng ông nhìn thấy tại linh giới và những tri thức liên quan tới linh giới mà ông có được khi giao tiếp với các sinh mệnh khác. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng quan trọng đối với những gì xảy ra sau này, nó cũng ảnh hưởng đến nhiều người ngày nay. Nhiều học giả nổi tiếng vô cùng sùng bái ông, bao gồm Carl Jung nhà tâm thần học, nhà văn Mỹ nổi tiếng Helen Keller, nhà thơ Mỹ nổi tiếng Emerson, chính trị gia và nhà khoa học người Mỹ Benjamin Franklin, vợ chồng nhà thơ người Anh Browning, nhà thơ nhà văn nổi tiếng người Đức Goethe, nhà triết học và học giả thiền tông người Nhật Suzuki Daisetsu Teitarō, hai tổng thống Mỹ George Washington và Franklin D. Roosevelt cũng chịu ảnh hưởng của kiệt tác này.

Ngày càng xuất hiện nhiều ví dụ thực tế về trải nghiệm cận tử, các thành quả nghiên cứu ngày càng thấu triệt, khiến cho những người luôn hoài nghi không tin càng khó khăn hơn trong việc che giấu sự thật của trải nghiệm cận tử. Nghiên cứu trải nghiệm cận tử tiết lộ cho chúng ta không chỉ đơn thuần là hiện tượng, mà càng quan trọng hơn là phương pháp tư duy và con đường nghiên cứu được biểu thị bằng hiện tượng; nó không chỉ mở ra cho chúng ta cánh cửa thế giới sau khi chết, nhiều hơn là ý thức, sinh hoạt, cánh cửa của sinh mệnh.

Khoa học đang khám phá thế giới bên kia đạt được tiến triển rất lớn, nhưng khi khám phá lĩnh vực của bản thân nhân loại thì lại giống như nhà vật lý học Einstein từng nói: “Vẫn còn đang trong giai đoạn trẻ sơ sinh”, khám phá điều bí ẩn của bản thân nhân loại chắc hẳn sẽ phải trở thành mục tiêu của khoa học tương lai. Đối với những ai theo đuổi chân lý mà nói, ở chỗ khoa học vẫn chưa dám tiến vào, thì tín ngưỡng và dũng khí có vẻ rất trọng yếu. Nhìn chung từ những hiện tượng trải nghiệm cận tử và những người trải nghiệm cận kề cái chết từ đó có được cảm ngộ đối với nhân sinh, hiện tượng trải nghiệm cận tử có lẽ đang ám chỉ linh hồn của chúng ta không hề tiêu biến khi nhục thể của chúng ta tử vong. Vì để có trách nhiệm vĩnh viễn đối với sinh mệnh bản thân, chúng ta nên thiện đãi với bản thân mình và người khác. Giống như Pierre Teilhard de Chardin từng nói: “Có lẽ trong vũ trụ tồn tại một sự vật như là mục đích, thứ đó như là hy vọng và nhân từ, có lẽ trải nghiệm cận tử là lễ vật hoặc manh mối mà Thần đã ban cho nhân loại để khám phá sự bí ẩn của bản thân nhân loại”.

Dịch từ: https://media.zhengjian.org/media/zjbooks/life_gate/01.htm

Tài liệu tham khảo:

1. “Ấn tượng Thiên đường – 100 câu chuyện truyền miệng của những người sống lại sau khi chết”, tháng 1 năm 1999.

2. “Mở cánh cửa sinh tử” của Jean Rithie, tháng 10 năm 1998.

3. http://www. iands. org

4. Charles T. Tart,Journal of Near Death Studies, 17(2) Winter 1998

5. Melvin Morse, Paul Perry, Villard Books, New York,1994, Parting Visions: Uses and Meanings of Pre-Death, Psychic, and Spiritual Experiences

The post Mở cánh cửa sinh tử, khám phá bí ẩn của linh hồn – Một ngành khoa học mới đánh dấu bước ngoặt về trải nghiệm cận tử (Phần 1): Lời mở đầu first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tin ảnh: Bí ẩn chưa lời giải đáp – Hai mặt trời cùng lúc xuất hiệnhttps://chanhkien.org/2023/07/tin-anh-bi-an-chua-loi-giai-dap-hai-mat-troi-cung-luc-xuat-hien.htmlWed, 26 Jul 2023 03:53:17 +0000https://chanhkien.org/?p=30911[ChanhKien.org] Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/284441

The post Tin ảnh: Bí ẩn chưa lời giải đáp – Hai mặt trời cùng lúc xuất hiện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/284441

The post Tin ảnh: Bí ẩn chưa lời giải đáp – Hai mặt trời cùng lúc xuất hiện first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Nhận thức của tôi đối với khoa học tối caohttps://chanhkien.org/2020/08/nhan-thuc-cua-toi-doi-voi-khoa-hoc-toi-cao.htmlMon, 17 Aug 2020 14:54:30 +0000https://chanhkien.org/?p=26477Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đài Loan   [ChanhKien.org] Lời nói đầu: Lúc còn bé đi học, tôi mãi cứ không hiểu về những thứ như thuyết duy vật, khoa học thực chứng, thuyết tiến hóa v.v. Lúc đó tôi cứ luôn thắc mắc vì sao lại thế này, vì sao lại biến thành […]

The post Nhận thức của tôi đối với khoa học tối cao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp Đài Loan

 

[ChanhKien.org]

Lời nói đầu:

Lúc còn bé đi học, tôi mãi cứ không hiểu về những thứ như thuyết duy vật, khoa học thực chứng, thuyết tiến hóa v.v. Lúc đó tôi cứ luôn thắc mắc vì sao lại thế này, vì sao lại biến thành thế kia, rất nhiều câu hỏi vì sao, đến nỗi thầy giáo và người lớn mất kiên nhẫn nói, em chỉ cần nhớ và học những nội dung trong sách là đủ rồi, truy đến tận cùng vẫn không hiểu được căn nguyên, làm bài kiểm tra toàn bị điểm không, không có đáp án nào có thể giải khai những thắc mắc trong tâm tôi về khởi nguyên của sinh mệnh.

Từ nhỏ đến lớn, tôi không tiếp xúc với bất kỳ tôn giáo hay pháp môn nào, cũng không hiểu biết gì về những sự vật huyền hoặc, tâm trí tôi giống như một tờ giấy trắng, nhưng lúc bình thường khi nhắm mắt lại tôi có thể nhìn thấy những cảnh tượng khác nhau, cũng có thể tùy ý tiến nhập vào không gian mình muốn tiến nhập vào. Lớn lên tôi được tiếp xúc với Pháp Luân Đại Pháp, từ đó tôi đã đi trên con đường tu luyện phản bổn quy chân. Sau khi đọc cuốn Chuyển Pháp Luân và hơn 40 cuốn giảng Pháp ở các nơi của Sư phụ, tôi đã hiểu được việc tu luyện là gì, từ thời khắc đó, Đại Pháp đã giải khai cho tôi những ẩn đố về khởi nguyên của sinh mệnh.

1. Khởi nguyên của sinh mệnh

Nói một cách đơn giản theo nhận thức của cá nhân tôi:

Trật tự sắp xếp các hạt vật chất của sinh mệnh là có quy luật. Nói về phân tử, một phân tử có cơ chế cấu thành của nó, cũng như phạm vi bên ngoài và phạm vi bên trong nó, giống như cành cây phân nhánh mọc hướng ra ngoài vậy, giữa các phân tử cũng có một cơ chế vô hình liên kết chúng với nhau, giống như các mấu nối liên kết các cành cây tạo thành các mắt xích cần thiết. Phân tử cũng có chu kỳ nhất định, nó có thể tiêu vong rồi lại tái sinh, sự tiêu vong của phân tử thì con người hiện nay không cách nào tính toán bằng số liệu, nhưng đối với Thần thì có thể dùng đơn vị triệu “kiếp” để hình dung.

Đại sư Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp giảng:

Vì con số lớn nhất của con người chính là ‘triệu triệu’, dùng con số mà Phật tính đếm thì lớn nhất là ‘kiếp’, một kiếp là tương đương với hai tỷ năm, hai tỷ năm cấu thành một kiếp. Dùng ‘kiếp’ cũng không tính đếm được vũ trụ này có bao nhiêu tầng; không phải [nói về] bao nhiêu tầng trời, mà là bao nhiêu tầng vũ trụ, khổng lồ như thế. (Giảng Pháp Tại Pháp Hội Mỹ Quốc [1997])

Khi sự liên kết giữa các phân tử bị đứt đoạn, không hình thành được cấu trúc phân tử liên kết hoàn chỉnh, thì giữa nó sẽ sinh ra một nhân tố vật chất tối, nhân tố vật chất tối này không chịu ảnh hưởng bởi bất cứ lực tác động nào, nó hoàn toàn là một hạt vật chất đơn nhất khác.

Trong vũ trụ mà chúng ta nhìn thấy có tồn tại hình thái hố đen vũ trụ với các kích thước to nhỏ khác nhau, thành phần vật chất tối bên trong nó nhiều gấp hàng triệu lần so với số lượng vật chất đen ở xung quanh một hạt vật chất thông thường, nó là một trong những nhân tố cấu thành sự sinh ra và tái tạo vũ trụ. Vì cơ chế bên trong hố đen có tác dụng hấp thu tất cả mọi vật chất, sau khi hút vào trong, nó có thể phân giải tất cả vật chất, rồi ở trong một không gian vũ trụ khác nó phun ra một đám khí vũ trụ khác, quá trình này làm sản sinh ra các thiên hà trong vũ trụ mới. Đây là một hiện tượng xuất hiện trong quá trình sản sinh ra thiên thể vũ trụ mới mà các nhà thiên văn học hiện nay quan sát được. Bất cứ vật chất trong không gian nào đều có một đường vào và một đường ra, cơ chế tiêu vong và trùng tổ của nó đều đã được sắp xếp một cách có trật tự.

Nhân loại sinh tồn trong tam giới, xét từ góc độ khoa học hiện tại thì cũng là quá trình từ giải thể đến trùng tổ diễn ra trong phạm vi không gian vũ trụ thuộc tam giới. Trong tam giới có vô số tầng tầng không gian, nhưng ở đây chỉ nói đến một hạt vật chất trong đó chứa đựng một tiểu vũ trụ được tổ thành từ 3 tỷ thiên hà, vượt ra khỏi phạm vi ba nghìn lần trong chiều không gian của một hạt vật chất này thì tiến vào không gian kết cấu của tầng vũ trụ thứ hai, số lượng hạt vật chất lúc đó thì không thể dùng khoa học của con người để tính toán được nữa.

Hạt vật chất nguyên thủy tạo ra sinh mệnh là khởi nguyên từ Pháp Luân Đại Pháp, Ông là Pháp tạo ra tất cả các tầng thứ không gian vũ trụ, phương pháp cấu thành của Ông là toàn cơ. Trong lịch sử mà con người có thể biết được hiện nay, chữ Vạn (卍) đại biểu cho Phật, Thái Cực đại biểu cho Đạo, nhưng đó đều là những phù hiệu, ấn ký của những Giác giả đã đến độ nhân trong các thời kỳ lịch sử nhân loại khác nhau truyền thụ và lưu lại, thực ra ở không gian cao tầng mà nhìn thì đều là cùng một loại cơ chế có pháp tắc trong không gian vũ trụ. Mà đồ hình nguyên thủy hoàn chỉnh được pháp tắc trong không gian vũ trụ này tạo thành chính là đồ hình Pháp Luân, đặc tính của Ông là Chân, Thiện, Nhẫn. Những Giác Giả đã đến độ nhân trong các thời kỳ lịch sử nhân loại khác nhau, ấn ký mà họ truyền thụ không thể có kết cấu hoàn chỉnh như đồ hình Pháp Luân, vì những đại Giác Giả đến vào lúc đó chỉ có thể dùng ấn ký theo pháp tắc tầng thứ sở tại của họ để hạ thế truyền pháp độ nhân, còn hiện nay tất cả các không gian vũ trụ đang ở vào thời kỳ Đại Pháp chính Pháp, là thời đại Sáng Thế Chủ chính Pháp canh tân vũ trụ.

2. Ai mới thực sự là nhà khoa học chân chính

Khi tu luyện đến một tầng thứ tâm tính nhất định, con người có thể lấy một hạt vật chất đơn nhất cấu thành nên phân tử trong trường không gian của bản thân mình sắp xếp, tổ hợp thành một mặt phẳng của phù hiệu chữ vạn (卍) gồm chín điểm, nhưng không phải là kết cấu dạng điểm của một hạt vật chất (hạt điểm) mà khoa học ngày nay nghiên cứu được. Chín hạt điểm trong mặt phẳng này đều có mối liên hệ với nhau, mối liên hệ này có thể giống như sự phân nhánh của cây, nhìn bằng mắt thường thì không thấy được mối quan hệ liên quan của nó, nhưng trên thực chất nó có mối liên hệ. Khi công năng đạt đến mức có thể tổ hợp một hạt vật chất đơn nhất trở thành kết cấu bề mặt, thì có thể trực tiếp nhìn thấy hình ảnh dạng 2D của không gian khác, khi tổ hợp bề mặt của hạt vật chất thành sáu mặt phẳng tạo nên kết cấu hình lập phương, thì đồng thời có thể sinh ra hình ảnh lập thể 3D của không gian khác, hiện tượng này giới tu luyện chúng ta gọi là dùng thiên mục để nhìn thế giới (không gian ở vi quan).

Đại sư Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp giảng:

Khoa học là gì? Chư Phật, chư Thần nắm [trong tay] chính là khoa học tối cao. Họ nhận thức rõ ràng nhất về vật chất, họ ở vi quan đã có thể nhìn vật chất đến một [mức] vi quan nhất định rồi, cũng nhìn thấy vật chất lớn hơn của vũ trụ. (Chuyển Pháp Luân (Quyển II)– “Giảng Pháp ở Đại Dữ Sơn”)

Tâm tính của người tu luyện trực tiếp quyết định nhân tố chủ yếu để đột phá số tầng không gian, khi tầng thứ thiên mục có thể liên kết thể lập phương này với thể lập phương khác, thì có thể trực tiếp vượt khỏi không gian này để nhìn thấy cảnh tượng ở không gian khác, xuyên qua các chiều không gian của các tầng lạp tử, trong điện ảnh gọi là xuyên qua lỗ sâu (Wormhole), hình dung như vậy không chính xác lắm, nhưng lý luận trong điện ảnh không hề hư cấu. Trong điện ảnh, chúng ta có thể biết được những kiến thức phổ biến như vũ trụ song song, không gian đa vũ trụ, lỗ sâu, nhưng đó chỉ là do điện ảnh nhận thức từ một góc độ. Còn khoa học của Trung Quốc cổ đại mới là khoa học chân chính, tiếp cận gần nhất với văn hóa Thần truyền, khoa học hiện đại, chủ nghĩa duy vật, dinh dưỡng học, thuyết tiến hóa v.v. đều là thứ khoa học kỹ thuật phiến diện mà ma quỷ cố ý để những người ngoài hành tinh xấu xa truyền cho con người, mục đích chính là muốn dẫn dụ con người theo con đường khoa học giả tạo vô căn cứ, từ đó mà hủy hoại con người, đồng thời chiếm lấy thân thể người.

Năm ánh sáng hay vũ trụ, theo nhận thức của con người dường như có khoảng cách rất ra xôi, khoa học của người ngoài hành tinh cũng có thể sử dụng lỗ sâu để xuyên qua không gian, nhưng khoa học của chúng không thể thâm sâu như khoa học theo văn hóa bán Thần. Khoa học kỹ thuật của chúng dù phát triển đến mấy cũng chỉ đi xuyên qua được khoảng cách thời gian. Chúng đi xuyên qua các thời không khác nhau, có khi chỉ mất vài giây đã có thể nhảy đến không gian vật chất mà chúng muốn tới, nhưng chúng lại không có cách nào thoát khỏi sự ước chế của thời gian và không gian, vì thời gian cũng là Thần. Người ngoài hành tinh là một loại sinh mệnh do Thần tạo ra, chúng không thể trở thành Thần là vì không có thân thể người nên không thể tu luyện, cho nên chúng muốn đánh cắp thân thể người để tìm hiểu vì sao khoa học truyền thống của văn hóa Trung Quốc cổ đại lại tiến bộ hơn so với khoa học kỹ thuật của chúng. Đáng tiếc là chúng không thể được như ý, vì thứ mà chúng đánh cắp được chỉ là thân xác thịt lớn lên nhờ ăn lương thực chứ không phải là lớp da người cấu thành nên con người chỉnh thể, là vì tất cả mọi thứ đều do Thần an bài, không có lớp da người thì không thể nào tu luyện được. Muốn tu luyện thì phải tiến vào tam giới, nhập luân hồi, đắc được lớp da người thì mới có thể tu luyện, nhưng tất cả các sinh mệnh trong vũ trụ đều biết rằng, một khi tiến vào tam giới thì sẽ vĩnh viễn không quay trở ra được nữa, cho nên không ai dám xuống đây.

Trong mắt người ngoài hành tinh, người tu luyện là đáng kính nể nhất. Trong quá trình tu luyện, người tu luyện có thể kích phát ra bản năng tự thân của thân thể người, công năng của thân thể người thực ra đã có thể sánh với khoa học ngoài hành tinh, nhưng nhà khoa học chân chính (người tu luyện) lại không phải là con người có mang theo công năng đặc dị (bản năng của thân thể người), mà là khi tu luyện vượt ra khỏi tầng thứ thế gian pháp, thì tiến vào tầng thứ nắm giữ năng lượng Phật pháp thần thông. Đó không phải là bản năng của con người mà là một loại siêu năng lượng, các hạt vi quan của nó có thể xuyên thấu qua hạt vật chất của các tầng không gian, tầng thứ cao hơn thì có thể dùng một niệm để tạo thành vạn vật, dùng một niệm để tạo thành vũ trụ, cho nên ai mới là nhà khoa học chân chính? Đó chính là Thần.

3. Sự đề cao tâm tính có liên quan đến ước chế của pháp lý vũ trụ

Người tu luyện viên mãn, chúng ta vẫn gọi là Người giác ngộ, Phật giáo gọi là Phật, Đạo gia gọi là Chân nhân, họ có thể tự do xuyên qua thời không (quá khứ, hiện tại, tương lai), cũng có thể xuyên qua các chiều không gian vũ trụ khác nhau. Nhưng có một điều kiện ràng buộc để người tu luyện xuyên qua không gian, đó là cần phải phù hợp với tiêu chuẩn tầng thứ đạo đức và tâm tính, khi tâm tính càng cao thì vật chất tầng tầng không gian chuyển hóa càng lớn, tầng thứ đột phát càng nhiều, còn ngược lại thì sự ước chế càng nhiều.

Đại sư Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp giảng:

Bất kể vật chất nào trong vũ trụ, bao gồm tất cả toàn thể những vật chất tràn đầy trong toàn vũ trụ, chúng đều là những linh thể, chúng đều có tư tưởng; chúng đều là những hình thái tồn tại của Pháp vũ trụ tại các tầng khác nhau. Chúng không cho phép chư vị thăng hoa lên; chư vị muốn đề cao, nhưng đâu có đề cao được, chúng không cho phép chư vị nâng cao lên. Vì sao không cho phép chư vị lên cao? Bởi vì tâm tính của chư vị chưa đề cao lên. Mỗi một tầng đều có tiêu chuẩn khác nhau; muốn đề cao tầng, chư vị nhất định phải vứt bỏ những tư tưởng không tốt và đổ đi những thứ dơ bẩn, [và] đồng hoá với yêu cầu tiêu chuẩn của tầng ấy; có như vậy chư vị mới có thể lên đó. (“Bài giảng thứ nhất” – Chuyển Pháp Luân)

Người ngoài hành tinh không có nhận thức và yêu cầu về tầng thứ đạo đức tâm tính giống như con người, nó dựa vào kỹ thuật để nâng cao khoa học kỹ thuật, đây là chỗ khuyết thiếu khiến người ngoài hành tinh không thể vượt qua được Thần. Người ngoài hành tinh vì sao lại sợ Thần, là vì sự tồn tại của Thần là lĩnh vực mà nó chưa biết, giống như con kiến (người ngoài hành tinh) mà nhìn loài người (Thần), vì vậy người ngoài hành tinh rất sợ Thần.

Đại sư Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp giảng:

Các lạp tử vật chất nào cũng tồn tại một đặc tính, gọi là Chân, Thiện, Nhẫn. Đặc tính Chân, Thiện, Nhẫn của vũ trụ này ước chế hết thảy hết thảy mọi thứ tại các tầng vũ trụ khác nhau, vật chất chính là do các đặc tính của tinh thần tập hợp mà thành, do đó, vật chất và tinh thần, chúng là nhất tính. (Giảng Pháp tại Pháp hội Australia [1999])

Với khoa học của Trung Quốc cổ đại thì việc xuyên qua thời không không phải là chuyện thần thoại. Ví dụ một người tu luyện có siêu năng lực có thể lấy một cái cốc giấy, dùng cánh tay được tổ thành bởi các hạt vi quan ở không gian khác để tiến vào tầng không gian bề mặt của cốc giấy, lấy ra vật chất khác được cấu thành từ hạt vật chất khác của cốc giấy, quá trình tiến vào và lấy ra này là quá trình xuyên qua các không gian, tầng tầng không gian đều có một cái cốc giấy tương ứng. Hình dạng của cái cốc giấy do hạt vật chất càng vi quan hơn tổ hợp thành thì bề mặt của nó càng tinh tế và đẹp hơn, chúng tôi gọi đó là khái niệm về thời không trùng điệp, đây không hề là chuyện thần thoại, khoa học hiện nay cũng có thể nhận thức rõ điểm này.

4. Đại Pháp là căn bản

Qua kinh sách của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta có thể biết rõ rằng, tầng thứ tâm tính đạo đức có liên quan đến sự ước chế của trường thời gian của vũ trụ. Căn nguyên nguồn gốc của tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều bắt nguồn từ Đại Pháp, Sáng Thế Chủ không chỉ lưu lại Pháp lớn như vậy truyền cho con người thế gian, mà điều quan trọng nhất là phải đưa con người có thể tu luyện quay trở về, chân Pháp vạn năm khó gặp này ai có thể biết rõ và ngộ được thì người đó đã có thể bước lên con đường phản bổn quy chân viên mãn trong Đại Pháp.

Trong quá trình tu luyện và học Pháp, khi nhận thức được Đại Pháp là căn bản, tôi cũng từng thời từng khắc không ngừng đề cao, bài viết này chỉ có thể nói qua về một chút nhận thức rất ít ỏi của tôi. Chỉ cần con người kiên trì thực tu, thì Đại Pháp sẽ khai mở tương lai và trí huệ cho con người.

Ghi chú: Độc giả quan tâm đến Pháp Luân Đại Pháp có thể tìm hiểu trang web của Pháp Luân Đại Pháp tại địa chỉ: http://www.falundafa.org/

 

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/253174

The post Nhận thức của tôi đối với khoa học tối cao first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Khái quát về các không gian kháchttps://chanhkien.org/2015/06/khai-quat-ve-cac-khong-gian-khac.htmlMon, 15 Jun 2015 14:18:08 +0000http://chanhkien.org/?p=24224Tác giả: Xinfaming [ChanhKien.org] Các không gian khác với không gian chúng ta đang sống luôn là một điều bí ẩn đối với con người. Vậy thì các không gian khác trông như thế nào? Ở đây tôi xin giới thiệu một cách đơn giản. Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Siddarth Guatama) đưa ra […]

The post Khái quát về các không gian khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Xinfaming

[ChanhKien.org] Các không gian khác với không gian chúng ta đang sống luôn là một điều bí ẩn đối với con người. Vậy thì các không gian khác trông như thế nào? Ở đây tôi xin giới thiệu một cách đơn giản. Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Siddarth Guatama) đưa ra thuyết ‘Tam thiên đại thiên thế giới’. Ông nói rằng trong một hạt cát có 3.000 thế giới rất giống với thế giới của chúng ta.

Vậy một thế giới trong một hạt cát trông như thế nào? Trên thực tế, chúng ta đề cập đến ở đây là một thế giới trong một không gian vi quan. Không chỉ một hạt cát có nhiều thế giới, mà bên trong các vật chất khác cũng có nhiều thế giới. Tôi đã nhìn thấy một thế giới như vậy.

Tôi nhặt một mảnh gỗ nhỏ và nhìn thật sát vào nó. Bỗng nhiên một cảnh tượng hiện ra trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy một sân bay ở bên trong với các đường băng và máy bay. Trên bầu trời, một vài máy bay đang hạ cánh. Có một chiếc trực thăng, giống như trực thăng trong thế giới chúng ta, đang lượn vòng quanh phía trên sân bay, có vẻ như nó vừa mới cất cánh. Một điều lạ là có một con rùa to bằng chiếc trực thăng cũng đang bay phía sau nó. Hình dáng của con rùa trông giống như rùa mà chúng ta biết trong thế giới của chúng ta, ngoại trừ cái đuôi của nó trông lớn hơn. Chú rùa này cũng có thể bay trên bầu trời.

Sư phụ Lý giảng trong Chuyển Pháp Luân rằng trong mỗi lỗ chân lông có một thành phố có xe lửa xe hơi đang chạy. Đó là cảnh tượng trong những thế giới vi quan. Trong Chuyển Pháp Luân Pháp Giải, Ngài còn giảng rõ:

“Thích Ca Mâu Ni giảng rằng trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới. Học thuyết của ông nói rằng trong hệ Ngân Hà này của chúng ta có ba ngàn tinh cầu, trong đó lại có con người có trí tuệ giống như nhân loại chúng ta. Ông còn giảng rằng trong một hạt cát cũng có tam thiên đại thiên thế giới như thế này. Nếu đúng như lời ấy, mọi người thử nghĩ xem, tại mức vi quan, một hạt cát cũng giống như hệ Ngân Hà này, cũng có xã hội nhân loại. Nếu cứ nhìn thật sâu xuống, chẳng phải trong hạt cát ấy cũng có sông và cát phải không? Như vậy bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy thì mỗi hạt cát bên trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy nên, đến tầng Như Lai mà nhìn cũng không đến tận cùng của nó được. Con người chỉ có thể nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nếu tránh dùng cặp mắt thịt này do phân tử tạo thành. Tầng càng cao thì càng nhìn được vi quan hơn, và càng nhìn được ở phạm vi rộng lớn hơn. Thích Ca Mâu Ni không nhìn thấy được vật chất nhỏ nhất của vũ trụ, cũng không thấy được biên giới tối hậu của vũ trụ. Do đó vào những năm cuối đời, ông đã giảng một câu: “Kỳ đại vô ngoại”, ông không biết được vũ trụ rốt cuộc lớn ngần nào, và “kỳ tiểu vô nội”, vật chất nhỏ đến mức ông không thể nhìn thấy tận cùng.” (Chuyển Pháp Luân Pháp Giải) (tạm dịch)

Vật chất trong không gian của chúng ta đều được cấu thành từ phân tử. Dưới phân tử là nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, proton, neutron (trung hòa tử), electron (điện tử), quark và lạp tử nhỏ nhất mà con người biết được là neutrino (trung vi tử), trên thực tế vẫn còn rất xa mới đến được thành phần nhỏ nhất tồn tại. Chẳng phải hình ảnh các electron quay quanh hạt nhân nguyên tử giống với hình ảnh Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời sao? Thực ra, chúng đều được kiểm soát bởi cùng một cơ chế. Liệu có các sinh mệnh sống trên bề mặt các electron không? Nếu thiên mục người ta mở đến một tầng cao nào đó thì có thể nhìn thấy họ. Hiện nay, người ta gọi sự chuyển động của các electron là các ‘đám mây electron’. Đó là vì họ không có thiết bị nào để đo quỹ đạo của electron. Thiết bị của chúng ta đều được cấu tạo từ phân tử, vì thế nó không thể thấy được các sinh mệnh sống trên các electron. Con mắt thứ ba của người tu luyện được cấu thành từ các lạp tử cao năng lượng, vì thế họ có thể quan sát các cảnh tượng này.

Thực ra, ‘tam thiên đại thiên thế giới’ mà Thích Ca Mâu Ni giảng là chỉ nói đến một phần của kết cấu theo chiều ngang của vũ trụ, trong đó các sinh mệnh sống thuộc về một tầng thấp, hoặc trong lớp vỏ ngoài của vũ trụ. Kết cấu của vũ trụ rất phức tạp. Nó còn bao gồm một số hệ thống khác nữa. Các thế giới của Phật và Thần đều không tồn tại trong hệ thống này; chúng ở trong các không gian theo chiều dọc. Các thế giới này được cấu thành từ các thành phần vi tế hơn và mức năng lượng cao hơn. Con người không thể hiểu được chúng trừ phi con người tu luyện. Tôi cũng đã nhìn thấy một thế giới như thế. Vẻ tráng lệ của nó không thể mô tả được bằng ngôn ngữ của con người. Tôi đã trải nghiệm những gì Sư phụ Lý giảng: “Vẻ đẹp và sự vi diệu vô hạn của nó không thể mô tả được bằng lời. Hàng vạn ánh sáng và màu sắc làm loá hai mắt.” Ở một tầng thứ nhất định, những vật chất này trông như làm bằng kim cương, có những lối đi có mái vòm được trang trí rất đẹp mắt cùng những kiến trúc trông như cung điện….

Người tu luyện gom chọn vật chất cao năng lượng từ không gian chiều dọc. Khi cơ thể của họ được hoàn toàn thay thế bằng vật chất cao năng lượng, họ có thể đi xuyên qua không gian này. Tôi cũng đã có một trải nghiệm như thế. Một buổi sáng vào cuối năm 1999 sau khi tôi thức giấc và chuẩn bị luyện các bài công pháp của Pháp Luân Công, cơ thể tôi đột nhiên bay lên khỏi chiếc giường tầm một mét. Tôi đã ở trên không một lúc lâu. Sau đó tôi bắt đầu trôi trong không khí và đi xuyên qua một bức tường. Sau đó tôi lại đi xuyên trở lại rồi lại vượt qua một bức tường khác. Rồi đột nhiên tôi tăng tốc và đi vào một không gian khác, di chuyển bên trong và nhìn thấy các sinh mệnh đang sống trong không gian đó.

Những trải nghiệm này chỉ là những triển hiện của Đại Pháp ở một tầng thứ thấp. Tuy nhiên, đối với khoa học hiện đại thì điều này đã là không thể hiểu được. Về điều này, Sư phụ Lý đã giảng như sau: “Tư tưởng chỉ đạo về nghiên cứu và phát triển của khoa học nhân loại hiện nay chỉ có thể hạn cuộc trong thế giới vật chất. Sự vật được nhận thức rồi thì nó mới được nghiên cứu. Người ta cứ theo lề lối ấy. Nhưng tại không gian chúng ta có những hiện tượng tuy nhìn không thấy sờ không được, nhưng tồn tại một cách khách quan, và lại có khả năng phản ánh đến không gian vật chất chúng ta, có biểu hiện hết sức thực tại, người ta lại khước từ không động chạm đến, cho đó là những hiện tượng bất minh”. (“Luận ngữ”, Chuyển Pháp Luân)

Cách duy nhất để hiểu được các hiện tượng này là thông qua Phật Pháp. “Từ nghìn xưa đến nay, có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại, sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ, thì chỉ có Phật Pháp”. (“Luận ngữ”, Chuyển Pháp Luân)

Dịch từ http://www.pureinsight.org/node/988

The post Khái quát về các không gian khác first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Trí khôn của loài khỉhttps://chanhkien.org/2015/05/tri-khon-cua-loai-khi.htmlSun, 10 May 2015 15:22:08 +0000http://chanhkien.org/?p=24121Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp ở Seatle [ChanhKien.org] Cách đây vài năm, nữ khoa học gia xuất sắc người Anh, Jane Goodall, đã khiến cả thế giới sửng sốt với kết quả nghiên cứu của bà về những con tinh tinh hoang dã ở châu Phi biết sử dụng công cụ. Phát hiện […]

The post Trí khôn của loài khỉ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một đệ tử Đại Pháp ở Seatle

[ChanhKien.org] Cách đây vài năm, nữ khoa học gia xuất sắc người Anh, Jane Goodall, đã khiến cả thế giới sửng sốt với kết quả nghiên cứu của bà về những con tinh tinh hoang dã ở châu Phi biết sử dụng công cụ. Phát hiện này đã gây nên một chấn động, không chỉ trong giới khoa học mà cả cho những người không chuyên. Đầu tiên, một trong các con tinh tinh đã dùng một cái que trong khi các con khác đứng nhìn. Không lâu sau đó, vài con khác đã dùng công cụ này và sau một vài ngày thì cả đàn tinh tinh, cả con cái lẫn con đực và tinh tinh con, đều sử dụng que gỗ làm công cụ.

Việc những loài linh trưởng không phải người biết sử dụng công cụ đã từng là khái niệm không tưởng. Người ta luôn giả thuyết rằng những loài cấp thấp hơn con người trong đồ hình tiến hoá đều thiếu trí khôn để có thể suy nghĩ một cách logic và chúng vẫn luôn muốn có được khả năng giải quyết vấn đề. Những quan sát của tiến sĩ Goodfall đã chứng minh rằng giả thuyết đó là sai lầm. Những con tinh tinh mà bà nghiên cứu đã biết sử dụng cành cây để khều những con côn trùng ưa thích của mình ra khỏi những khúc gỗ khi ngón tay của chúng không đủ với tới bên trong khe hở. Chúng ta đã nghiên cứu loài động vật này chưa đủ thấu đáo để nhận ra rằng chúng có thể có ý thức và có khả năng biết suy luận (Tham khảo thêm về Tiến sĩ J. Goodall và nghiên cứu của bà tại đây http://www.janegoodall.org).

screen-shot-2014-07-20-at-3-23-48-am

Tinh tinh đã biết sử dụng cành cây để khều những con côn trùng ra khỏi những khúc gỗ khi ngón tay của chúng không đủ với tới bên trong khe hở. (Nguồn: JaneGoodall.org)

Bởi vì tất cả những sinh mệnh sống và các thành phần bên trong của chúng, kể cả vật chất, trí khôn, khái niệm, và khả năng suy luận đều là một phần khăng khít của vũ trụ khổng lồ này. Không ngạc nhiên khi các nhà khoa học luôn luôn và mãi mãi tò mò về hành vi của con người, động vật, các sinh mệnh dưới biển, các điều kiện khí quyển, trăng sao, hành tinh, vũ trụ học, thời tiết và những thứ hiện tượng không tưởng khác. Chúng ta không nên coi nhẹ bất kỳ một phát hiện nào chỉ vì khoa học chưa thể chứng minh nó thông qua phương pháp loại trừ hay qua khảo sát. Nếu chúng ta cởi mở đối với các trải nghiệm mới, tách khỏi sự cứng nhắc của những yêu cầu khoa học dựa trên nền tảng của châu Âu về cái gọi là “bằng chứng tuyệt đối”, tâm trí của chúng ta sẽ có thể mở rộng và cho phép các khả năng hoàn toàn mới có thể xảy ra.

Một khoa học gia khác, tiến sĩ Cleve Backster, đã mở rộng tư duy của mình để mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta, bằng những thí nghiệm trên thực vật nổi tiếng của ông. Những thí nghiệm này được phát triển từ những nghiên cứu của ông với máy dò nói dối. Năm 1996 ông tiến hành một thí nghiệm để tìm hiểu xem liệu thực vật có thể phản ứng giống với những người được nối với máy dò nói dối hay không. Tiến sĩ Backster đã vô cùng sửng sốt khi phát hiện rằng thực vật thật sự có phản ứng với giọng nói, cũng như với những ý niệm mang tính gợi ý. Phản ứng của chúng thể hiện trên máy dò nói dối bằng những đường cong tương tự giống như con người khi được đặt một số câu hỏi. Những câu trả lời được phiên dịch lại dựa trên “phản ứng kích ứng da” được hiển thị trên máy dò nói dối. Một số người đã dèm pha những thí nghiệm của tiến sĩ Backster, nhưng những người khác đều bảo vệ ông và phương pháp sử dụng máy dò nói dối, nói rằng những phản ứng kích ứng da có liên quan đến sự kích thích thần kinh, mà điều này lại liên quan với tính trung thực, vốn dĩ Chân là một nguyên lý của vũ trụ. Tiến sĩ Chundra Bose ở Ấn độ đồng tình rằng thực vật là những sinh mệnh, và một diễn giả tại hội thảo ở IBM cũng đã xác nhận rằng thực vật thật sự có thể hồi đáp lại những thông điệp gửi bằng suy nghĩ của con người. (Tham khảo thêm về những thử nghiệm trên đây và về ngài Jagadis Chundra Bose trong cuốn Từ điển của những người theo chủ nghĩa hoài nghi của Robert Todd Carroll, hoặc trên website http://skepdic.com/plants.html, tại đây cũng có nhiều bình luận của độc giả).

Nếu thực vật thật sự có thể thể hiện trí khôn, chẳng phải chúng cũng có liên kết với một hệ thống tổng hoà trong vũ trụ sao? Năm 1992, một nhà hiền triết hiện đại đã xuất hiện ở Trung Quốc, những bài giảng của ông dựa trên quy luật của vũ trụ, chân lý của vũ trụ, được thể hiện qua ba nguyên lý giản dị: Chân, Thiện, và Nhẫn. Đâu mới là mục đích tối hậu thật sự của tất cả các nghiên cứu khoa học? Theo ngôn ngữ hiện đại, người ta cho rằng để đạt được mục đích này thì phải lấy thực nghiệm làm biện pháp tìm kiếm chân lý. Việc theo đuổi khoa học chân chính có nghĩa là tìm kiếm chân lý tối cao trong mọi lĩnh vực, thậm chí là tìm ra sự lý giải cho các thay đổi trong xã hội, con người, thực vật hay động vật.

Tiến sĩ Ken Keyes. Jr đã phát hiện ra một sự chuyển biến đáng kinh ngạc trong hành vi xã hội của một đàn khỉ Nhật trên đảo Koshima mà ông quan sát. Những phát hiện của ông đã được đưa vào một chuỗi phóng sự truyền hình. Những con khỉ này đã được nghiên cứu trong môi trường sinh sống của chúng trong hơn ba thập kỷ. Môi trường sinh sống của chúng gồm có địa hình đồi núi, cát, đá cuội, cây cối và sông suối nhỏ. Một trong số các nhà khoa học ném khoai lang sống vào những con khỉ này, những miếng khoai này rơi xuống cát. Các con khỉ thích ăn khoai nhưng không thích ăn cát. Thế là, một con khỉ nhặt một miếng khoai lang và mang ra suối để rửa, ngay trước mắt những nhà khoa học. Những con khỉ còn lại cũng quan sát chăm chú. Một con dạy một con khác rửa khoai lang. Trong sáu năm, tất cả khỉ con đã học được cách rửa khoai, và rồi một ngày nọ, tất cả các con khỉ trong bầy đều rửa thức ăn trước khi ăn. Hành động này một lần nữa cho thấy khả năng suy luận và kỹ năng giải quyết vấn đề. Sau đó một thời gian, một sự phát triển kinh ngạc chưa từng thấy đã xảy ra, các con khỉ thuộc giống nòi này trên những hòn đảo khác ở quần đảo Nhật Bản cũng bắt đầu rửa sạch củ quả mặc dù không ai quan sát thấy có con khỉ nào đi sang các hòn đảo khác. Sự kiện này chỉ có thể xảy ra bằng truyền cảm tư duy, bằng việc kết nối với nhận thức vũ trụ. Người ta còn có thể giải thích thế nào khác nữa về khả năng điều chỉnh hành vi của động vật từ một hòn đảo này tới một hòn đảo khác? (Tham khảo thêm cuốn sách của Tiến sĩ Ken Keyes, Jr Con khỉ thứ một trăm, [trong Thư viện Quốc hội nhưng không có bản quyền] hoặc trên website tại http://www.sfheart.com/hundredth_monkey.html. Cuốn sách này của Tiến sĩ Keys được nhà xuất bản Vision Books/USA xuất bản tháng 04 năm 1984).

172f6e88-3ee1-4f9c-be89-c3a9c86d4bf9

 

Nhà khoa học ném khoai lang sống xuống cát. Thế là, một con khỉ nhặt một miếng khoai lang và mang ra suối để rửa. (Nguồn: The 100th Monkey)

Trong hàng thế kỷ người ta luôn cho rằng chỉ bằng cách đi theo các nguyên tắc khoa học nhất định nào đó thì con người mới có thể học tập và có thể phát triển kỹ năng. Nếu không có một quyền năng dẫn lối, liệu có đủ thời gian trong một đời người để tìm kiếm chân lý tối hậu, chân lý của vũ trụ, hay không? Nếu người nào muốn theo đuổi chân lý tối hậu một cách nghiêm túc, có lẽ họ nên nhìn nhận khoa học hiện đại với một sự hoài nghi nhất định và chú ý hơn nữa đến những bài giảng mới được giảng ra gần đây ở Trung Quốc, tất cả đều được tập hợp thành một công trình khoa học thực sự, một chân lý khoa học tối hậu, cuốn sách Chuyển Pháp Luân.

Dịch từ: http://pureinsight.org/node/193

The post Trí khôn của loài khỉ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Cuộc chiến của người Trung Quốc cổ đại với người ngoài hành tinhhttps://chanhkien.org/2015/02/cuoc-chien-cua-nguoi-trung-quoc-co-dai-voi-nguoi-ngoai-hanh-tinh.htmlWed, 11 Feb 2015 03:12:38 +0000http://chanhkien.org/?p=23910[ChanhKien.org] Căn cứ theo một số bức bích họa thời Trung Quốc cổ đại, miền bắc Trung Quốc có thể đã từng chịu sự xâm lược của người ngoài hành tinh, hơn nữa còn phát triển một cuộc chiến tranh với người ngoài hành tinh kéo dài 300 năm! Quân đội người ngoài hành tinh […]

The post Cuộc chiến của người Trung Quốc cổ đại với người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]Căn cứ theo một số bức bích họa thời Trung Quốc cổ đại, miền bắc Trung Quốc có thể đã từng chịu sự xâm lược của người ngoài hành tinh, hơn nữa còn phát triển một cuộc chiến tranh với người ngoài hành tinh kéo dài 300 năm! Quân đội người ngoài hành tinh nô dịch người Trung Quốc, kiến tạo các kim tự tháp, hơn nữa còn khởi phát chiến tranh với thế lực của các bộ lạc khác nhau. Đồng thời cùng với đó, cư dân các bộ lạc miền bắc cũng phát động những cuộc kháng chiến chống lại người ngoài hành tinh! Theo những gì ghi trên bích họa, khi đó có một nhóm người khổng lồ tóc đỏ thân mặc áo giáp da, cao khoảng 12 feet (khoảng 3,65m) giúp đỡ người Trung Quốc cổ đại phản kháng kẻ xâm lược ngoài hành tinh. Cùng thời kỳ đó, người khổng lồ tóc đỏ cũng xuất hiện ở các nơi trên thế giới, họ đã đánh đuổi đội quân xâm lược ngoài hành tinh trở về vũ trụ, họ đã cứu người Trung Quốc, hoặc có thể nói, họ đã cứu cả Trái Đất này.

Chữ Giáp cốt tiết lộ về cuộc chiến giữa người ngoài hành tinh và người khổng lồ tóc đỏ

Tiến sĩ Zecharia Sitchin, nhà nghiên cứu về người Annunaki và các nền văn hóa khác, cho biết từ 25.000 đến 30.000 năm trước, hai thành phố phát triển cao độ ở miền bắc Ấn Độ và vùng sa mạc Gobi ở Mông Cổ từng gặp phải thời tiết ô nhiễm nghiêm trọng và chiến tranh hạt nhân.

Nhưng phương Tây lại có rất ít người biết một điều rằng, nơi miển bắc Trung Quốc bị băng tuyết che phủ, cũng đã từng có một cuộc chiến tranh với quy mô ngoài sức tưởng tượng của con người. Những bên tham chiến gồm có: người Trung Quốc và người khổng lồ tóc đỏ, chống lại người ngoài hành tinh.

Một cuộc chiến tranh đáng sợ

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện được những thông tin kỳ lạ trong các “Giáp cốt văn” khai quật được tại Trung Quốc và Siberia, kết hợp với những câu chuyện thần thoại lưu truyền từ xưa tại vùng đó. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một giả thuyết đáng kinh ngạc: Người ngoài hành tinh đáp xuống từ trên bầu trời và xâm nhập vào miền bắc Trung Quốc, hơn nữa còn coi người Trung Quốc và muôn thú như nô lệ.

Những thông tin liên quan tới cuộc chiến này vẫn được lưu giữ

Vì để con cháu đời sau nhớ được sự tích của tổ tiên, người Trung Quốc thời cổ đã ghi lại những sự kiện có ý nghĩa trọng đại lên xương bả vai trâu bò hoặc trên mai rùa – gọi là “Giáp cốt văn” (chữ khắc trên xương). Trải qua nhiều niên đai, chữ viết của Trung Quốc đã có những cải tiến rất lớn, hình và âm đều trở nên thích hợp cho việc giao lưu hơn, nhưng cùng với đó, những sự kiện có tính lịch sử được truyền dưới dạng chữ viết lại không thể dùng văn tự hiện đại mà biểu đạt ra được.

Ngọc bội thời cổ đại có khắc hình người ngoài hành tinh

Điều may mắn là một bộ phận lớn tơ lụa và giấy Tuyên Thành, dùng để ghi lại những việc lớn, vẫn được bảo tồn đến ngày nay.

“Thần” phẫn nộ xâm lược người cổ đại tay không tấc sắt

Xâu chuỗi lại sự kiện của cuộc xâm lăng

Khi phi thuyền của những người ngoài hành tinh này đến Trung Quốc, lịch pháp của Trung Quốc lúc bấy giờ vẫn chưa xuất hiện, do đó chỉ có thể suy đoán đại khái thời gian người ngoài hành tinh xâm nhập vào Trung Quốc. Bộ phận học giả người châu Á cho rằng, lịch pháp của Trung Quốc bắt nguồn từ thế kỷ 14 TCN. Nhưng lại có một quan điểm khác cho rằng lịch pháp của Trung Quốc xuất hiện vào năm 2637 TCN, do Hoàng Đế sáng tạo ra.

Quan điểm thứ hai đã được chính phủ công nhận, tức là lịch âm của Trung Quốc khởi nguồn từ thế kỷ 27 TCN, tức là nếu theo Tây lịch là năm 2012, thì theo âm lịch Trung Quốc là năm 4710.

Văn vật có liên quan tới cuộc chiến

Vậy là chúng ta có thể suy đoán, sau sự kiện người ngoài hành tinh xâm lăng, nô dịch còn có cuộc chiến tranh sau đó nữa, xảy ra trước thế kỷ 30 TCN.

Sự việc phát sinh trong khoảng thời gian đó không có cách nào dùng Giáp cốt văn để ghi chép lại. Nhưng trên một tảng đá có lịch sử 3000 năm, các học giả phát hiện ra rằng đội quân xâm lược ngoài hành tinh có thể vẫn chưa rời đi. Tảng đá khắc hình người này, được phát hiện ở giáp biển Nam Hải – Quảng Đông của Trung Quốc, là một phần của ẩn đố về cuộc chiến tranh thời viễn cổ, đồng thời đã miêu tả người Trung Quốc cổ đại bị ép buộc phải tham dự vào cuộc chiến tranh giữa các hành tinh.

Tảng đá ghi chép lại dấu tích người ngoài hành tinh

Căn cứ vào những văn vật cổ đại ghi chép về cuộc chiến này, những miêu tả về kẻ xâm lược xưa kia và người ngoài hành tinh hiện đại giống nhau đến kinh ngạc: dáng cao, người gầy, một khi rời khỏi phi thuyển thời gian lâu thì phải mang theo mũ sắt (cái chụp thở), trên mũ săt có hai đến ba cái giống như măng tre (dây ăng ten).

Đĩa bằng đá ghi lại cuộc chiến tranh

Sau khi người ngoài hành tinh đến Trung Quốc, người vùng đó bị bắt làm nô dịch cho người ngoài hành tinh. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến quan điểm về người Šumeru của tiến sĩ Sitchin: ông tuyên bố, người Šumeru và những nền văn hóa cổ đại khác đều có ghi chép rằng họ từng lâm vào tình cảnh làm nô lệ cho người ngoài hành tinh, hơn nữa họ còn khai thác mỏ vàng cho người ngoài hành tinh – dưới sự ép buộc của người ngoài hành tinh, họ đã xây dựng kim tự tháp và một số đường ống có thể hấp thụ vàng từ bên trong Trái Đất. Đây cũng là sự việc mà người Trung Quốc đã trải qua.

Học giả Trung Quốc cho rằng, kim tự tháp này là căn cứ địa của người ngoài hành tinh

Các kim tự tháp lớn nhỏ phân bố khắp vùng đất Thần Châu (tên cổ của Trung Quốc), một số học giả ở các trường đại học Trung Quốc chỉ ra rằng một bộ phận kim tự tháp trong đó đã có lịch sử vài chục nghìn năm. Giống như người Ai Cập cổ đại và nền văn minh châu Mỹ cổ đại, nền văn minh châu Á cổ đại mặc dù thần bí, nhưng không có khả năng kiến tạo kim tự tháp. Kim tự tháp không có bất kỳ sắc thái tôn giáo và mục đích nào, lại không có quan hệ gì với ngành nghề duy nhất trong xã hội thời bấy giờ (nông nghiệp).

Căn cứ vào những điều được lưu truyền trong các tác phẩm điêu khắc và những sách cổ quý giá, kết hợp với những thần thoại tại địa phương, các nhà nghiên cứu biết được rằng phần lớn người Trung Quốc trong thời gian bị người ngoài hành tinh nô dịch đã chết, hơn nữa còn xảy ra nhiều lần khởi nghĩa, họ định lật đổ những kẻ thống trị ngoại lai này, nhưng mỗi lần khởi nghĩa đều có kết cục thất bại.

Cứu tinh: người khổng lồ đến từ phương bắc

Dấu chân của người khổng lồ cổ đại dường như có ở khắp các nơi trên thế giới, họ đã giải cứu nhân loại bị nô dịch từ trong tay người ngoài hành tinh. Một bộ phận văn vật, di tích, xương, thậm chí là xác ướp của người khổng lồ vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay.

Châu Mỹ, châu Âu, Siberia và một số vùng ở châu Á đều có những ghi chép về họ: những chiến sĩ tóc đỏ này trên người mặc áo giáp da, đứng dậy thì cao khoảng 3,65 mét.

Không có chữ viết ghi chép, nhưng căn cứ vào những miêu tả trong thần thoại cổ đại hiện còn tồn tại, những người khổng lồ này từ vùng tây bắc Trung Quốc kéo nhau đến, hơn nữa họ còn phát động chiến tranh với người ngoài hành tinh. Theo thần thoại miêu tả, những người khổng lồ này vô cùng khỏe mạnh, có thể dễ dàng nhấc bổng người ngoài hành tinh, bẻ gẫy lưng người ngoài hành tinh giống như bẻ gãy một cành cây tươi vậy. Người khổng lồ dũng mãnh làm người khác sợ hãi và những hành động can trường của họ đã khiến cho những kẻ xâm lược ngoài hành tinh trông giống như yêu ma này phải run sợ.

Người Trung Quốc liên minh với người khổng lồ tóc đỏ đánh lui người ngoài hành tinh

Mặc dù kẻ xâm lăng ngoài hành tinh có vũ khí hiện đại, nhưng đối diện với người khổng lồ tóc đỏ hung dữ mạnh mẽ và sự phản kháng đầy phẫn nộ của những người nô lệ châu Á, cuối cùng người ngoài hành tinh đã từ bỏ việc xâm lược.

Cuộc chiến tranh này xảy ra cách đây đã hơn 5000 năm, kẻ xâm lược ngoài hành tinh cũng không xuất hiện nữa, và chúng ta cũng hy vọng lịch sử sẽ không tái diễn nữa.

Dịch từ: http://news.zhengjian.org/2012/01/20/10392.古代中国人与外星人的战争.html

The post Cuộc chiến của người Trung Quốc cổ đại với người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tô Đông Pha từng gặp UFO?https://chanhkien.org/2013/08/to-dong-pha-tung-gap-ufo.htmlSat, 31 Aug 2013 04:33:12 +0000http://chanhkien.org/?p=22102Ngay từ 3.000-4.000 năm trước, Trung Quốc đã có truyền thuyết về "phi xa" (xe bay).

The post Tô Đông Pha từng gặp UFO? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Một phần bức họa "Xích diệm đằng không" của Ngô Hữu Như thời nhà Thanh.

Một phần bức họa “Xích diệm đằng không” của Ngô Hữu Như thời nhà Thanh.

[Chanhkien.org] Ngay từ 3.000-4.000 năm trước, Trung Quốc đã có truyền thuyết về “phi xa” (xe bay). Về sau lại có những từ ngữ như “xích long”, “xa luân”, “úng”, “vu”, v.v. để miêu tả hoặc ẩn dụ về loại hiện tượng này.

Ngoại trừ truyền thuyết dân gian, trong cổ tịch Trung Quốc cũng có một lượng lớn ghi chép, chẳng hạn: «Trang Tử», «Thập di thiên», «Mộng khê bút đàm», «Ngự soạn thông giám cương mục», «Nhị thập tứ sử», «Sơn hải kinh», v.v. Ngoài ra, ở rất nhiều địa phương còn có ghi chép thực lục cực kỳ phong phú về loại “kỳ văn dị tượng” này. Tại huyện Tùng Tư tỉnh Hồ Bắc có ghi chép về cái gọi là “tiếp xúc loại thứ ba”. Thi nhân Tô Đông Pha triều Tống từng có một bài thơ miêu tả trải nghiệm tự thân của ông, thơ rằng: “…Giang tâm tự hữu cự hỏa minh, Phi diệm chiếu sơn tê điểu kinh…”

Kể rằng trên đường sang Hàng Châu nhậm chức, Tô Đông Pha từng đi chơi đêm tới chùa Kim Sơn ở Trấn Giang. Bấy giờ trên trời trăng mờ sao ít, bỗng nhiên giữa dòng sông nổi lên một quả cầu lửa, khiến Tô Đông Pha rất đỗi kinh ngạc. Do vậy trong bài «Du Kim Sơn tự», ông đã ghi lại tình cảnh này:

“Thị thời giang nguyệt sơ sinh phách,
Nhị canh nguyệt lạc thiên thâm hắc,
Giang tâm tự hữu cự hỏa minh,
Phi diệm chiếu sơn tê điểu kinh,
Trướng nhiên quy ngọa tâm mạc thức,
Phi quỷ phi nhân cánh hà vật?”

Tạm dịch:

“Dòng sông đang lúc đầu tháng còn chảy lững lờ,
Canh hai trăng xuống thấp trên bầu trời đen kịt,
Giữa dòng sông tự nhiên có ngọn lửa lớn chiếu rọi,
Lửa bay chiếu xuống núi khiến chim chóc thất kinh,
Trở về đi ngủ mà trong lòng bồn chồn trống rỗng,
Không phải người không phải quỷ rốt cuộc là vật gì?”

Thẩm Quát, nhà khoa học triều Tống thường dùng “địa học thuyết” để giải thích hiện tượng UFO. Trong «Mộng khê bút đàm», quyển 21 có ghi lại sự kiện về vật phát sáng bất minh như sau: “Ở phủ nhà họ Lư tại nước Ngô, từng có vật bất minh xuất hiện dưới bức tường và cây cột, tỏa ra ánh sáng. Khi nhìn nó, thấy chuyển động giống như nước chảy, tựa cánh quạt quay. Vật lạ có hình chiếc quạt xòe ra, mang dấu vết của nước mà ánh lửa lại chói lọi. Lửa cháy cần nến, mà nó không cần gì. Có vị chúa nước Ngụy thường thấy vật này, hay nói lại với quan quân, chỉ khác biệt rất ít với thứ thấy trong phủ họ Lư, không rõ là vật gì nữa”.

Triều Minh cũng xuất hiện miêu tả về “vật thể bay hình xoắn ốc”

Theo giới thiệu của nghiên cứu viên Đài Thiên văn Vân Nam thuộc Viện Khoa học Trung Quốc, vào những năm Càn Long, «Triều Châu phủ chí» ở Quảng Đông có ghi lại rằng: “Đêm mùng 3 tháng 12 năm Vạn Lịch thứ 5 thời Minh Thần Tông, ngôi sao có đuôi xoay chuyển như bánh xe, ngọn lửa sáng chiếu trời, một lúc sau thì tắt”.

Ghi chép này là điển hình trong miêu tả về “vật thể bay hình xoắn ốc” thời cổ đại. Người ta cho rằng vật thể bay hình xoắn ốc như miêu tả trên chỉ có trong thời hiện đại, thậm chí suy luận rằng hiện tượng này là xác tên lửa hoặc vệ tinh rơi xuống. Những ghi chép kiểu “ngôi sao có đuôi xoay chuyển như bánh xe” trong thư tịch cổ còn có rất nhiều.

Bức vẽ “Xích diệm đằng không” của họa sĩ triều Thanh được xem như báo cáo sinh động về UFO

Họa sĩ triều Thanh Ngô Hữu Như vào những năm cuối đời đã sáng tác ra bức họa “Xích diệm đằng không” (Ngọn lửa đỏ bay trên trời). Trong bức họa là cảnh người người qua lại đông nghịt trên cầu Chu Tước ở Nam Kinh, mắt đều hướng lên không trung, tranh nhau nhìn một khối cầu lửa tỏa sáng rực rỡ. Tác giả đã đề ký ở phía trên bức họa như sau: “Ngày 28 tháng 9, lúc 8 giờ tối, phía Nam thành Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh), đột nhiên trông thấy tấm thảm lửa (tức khối cầu lửa) hình tròn, hướng từ Tây sang Đông, dường như có lõi lớn, sắc đỏ mà không sáng, phiêu đãng giữa lưng trời. Khách đi đường dừng hết cả lại, đua nhau ngước lên không, càng phân biệt rõ ràng với bầu trời đen. Đứng ở trên cầu Chu Tước, kiễng chân lên xem có không dưới mấy trăm người, sau một lúc số người giảm dần. Có người nói là sao chổi quá giang, có kẻ bảo là ngôi sao đang chạy. Chỉ trong nháy mắt, quả cầu trông như gần mà đã xa, tưởng như ở đó mà đã không còn, bay nhanh không sao tưởng tượng được. Có người nói là trẻ con thả đèn trời, do gió lớn ban đêm thổi về phía Bắc. Thế nhưng quả cầu bay mất hút về phía Đông, nên không thể là đèn trời được. Mỗi người một miệng, nhao nhao cả lên, suy đoán cũng cạn, cuối cùng có một cụ già nói: Vật này ban đầu trông bé mà có âm thanh, bay tĩnh đến mức nghe cũng không thấy tiếng, là do từ ngoài cửa Nam bay qua đây. Ô, lạ thay!”

Bức họa “Xích diệm đằng không” của Ngô Hữu Như có thể nói là một bản báo cáo tận mắt rất sinh động và chi tiết. Thời gian, địa điểm, số người chứng kiến, kích thước lớn nhỏ, màu sắc, độ sáng, tốc độ bay của quả cầu lửa bay qua thành Nam Kinh đều được ghi lại rõ. Bức họa sáng tác vào khoảng năm 1892 (năm Quang Tự thứ 18). Từ hơn 100 năm trước, người ta vẫn chưa có khái niệm về đĩa bay và UFO, nên họa sĩ đương nhiên cũng không thể biết được. Ngày nay, bức họa “Xích diệm đằng không” này đã trở thành một tài liệu lịch sử quý giá để nghiên cứu vật thể bay không xác định (UFO).

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/18008

The post Tô Đông Pha từng gặp UFO? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Sông ở Tứ Xuyên hiện “hoa sen thần” (Video)https://chanhkien.org/2012/07/song-o-tu-xuyen-hien-hoa-sen-than-video.htmlhttps://chanhkien.org/2012/07/song-o-tu-xuyen-hien-hoa-sen-than-video.html#respondSun, 29 Jul 2012 13:58:41 +0000http://chanhkien.org/?p=20719Truyền thuyết cổ xưa đã trở thành sự thật? Trên sông Liên Hoa trường hà, thuộc trấn Liên Hoa, Tự Cống, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc bất ngờ hiện "hoa sen thần" như trong truyền thuyết thời nhà Minh, khiến người dân kinh ngạc!

The post Sông ở Tứ Xuyên hiện “hoa sen thần” (Video) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[ChanhKien.org] Truyền thuyết cổ xưa đã trở thành sự thật? Trên sông Liên Hoa trường hà, thuộc trấn Liên Hoa, Tự Cống, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc bất ngờ hiện “hoa sen thần” như trong truyền thuyết thời nhà Minh, khiến người dân kinh ngạc!

Ngày 13 tháng 7 năm 2012, vào lúc 6 giờ sáng, trên sông Liên Hoa trường hà, thuộc trấn Liên Hoa, thành phố Tự Cống, tỉnh Tứ Xuyên đột nhiên hiện hoa sen trong truyền thuyết thời Minh. Các đóa “hoa sen” nổi lên từ đáy sông, kéo dài gần 2 giờ. Hoa sen trên sông mọc rất có quy luật, cứ cách 3 phút lại mọc một bông, cách nhau khoảng 3 mét, hiện ra hình tròn, ra ngoài 30 mét thì dần thành hình hoa sen, trong gần 100 mét thì dần dần nhập vào dòng nước, cảnh tượng vô cùng tráng lệ.

Khoảng 5 giờ chiều ngày 19/7/2012, trên sông Liên Hoa trường hà một lần nữa nổi lên cao trào hoa sen.

Các “hoa sen” này thoạt nhìn thì như vết dầu loang trên mặt nước, nhưng kỳ lạ là chúng tụ thành hình hoa sen, giống như đóa đóa hoa sen nở rộ giữa dòng sông.

Trấn Liên Hoa (có nghĩa là “hoa sen” trong tiếng Trung) nằm cách Tây Nam thành phố Tự Cống, Tứ Xuyên 31 km.

Sự xuất hiện hoa sen này đã sớm có trong truyền thuyết: Tương truyền vào thời Minh mạt, giờ Tý một đêm nọ, một vị đạo nhân phát hiện ở thượng lưu sông nở rộ một đóa hoa sen; sau đó, đạo nhân này xây dựng một ngôi tự miếu, gọi là “Liên Hoa tự”. Theo truyền thuyết, Liên Hoa tự miếu có “5 vạn đại hòa thượng, vô số tiểu hòa thượng”. Mỗi khi đêm xuống, hương khói lượn lờ, đèn đuốc sáng choang, giống như một đóa hoa sen nở rộ, tỏa sáng tứ phương, bởi vậy có tên gọi này.

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/13183

The post Sông ở Tứ Xuyên hiện “hoa sen thần” (Video) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/07/song-o-tu-xuyen-hien-hoa-sen-than-video.html/feed0
Nhục thân không bị mục rữa của cao tăng Việt Namhttps://chanhkien.org/2012/05/nhuc-than-khong-bi-muc-rua-cua-cao-tang-viet-nam.htmlhttps://chanhkien.org/2012/05/nhuc-than-khong-bi-muc-rua-cua-cao-tang-viet-nam.html#respondWed, 30 May 2012 14:29:57 +0000https://chanhkien.org/?p=17046Dưới đây là ảnh chụp nhục thân không bị mục rữa của Vũ Khắc Minh, tăng nhân Việt Nam sống vào thế kỷ 17.

The post Nhục thân không bị mục rữa của cao tăng Việt Nam first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Đồng Văn Vũ

[Chanhkien.org] Dưới đây là ảnh chụp nhục thân không bị mục rữa của Vũ Khắc Minh, tăng nhân Việt Nam sống vào thế kỷ 17. Ảnh do AFP chụp vào ngày 15/6/2001 tại tỉnh Hà Tây ở miền Bắc Việt Nam.

Vị tăng nhân vẫn giữ nguyên tư thế xếp bằng đả tọa của người tu hành, biểu thị rõ ông đã viên tịch khi ngồi tọa thiền.

Các nhà khoa học Việt Nam nói nhục thân không bị mục rữa của Vũ Khắc Minh so với những xác ướp ở các nơi trên thế giới là có khác biệt rất lớn. Đó là bởi vì nội tạng của ông vẫn được bảo tồn một cách hoàn hảo, với tim, não và gan đều còn nguyên vẹn. Từ góc độ khoa học, không thể không nói đây là một kỳ tích. Đồng thời cũng thuyết minh thân thể không bị mục rữa của Vũ Khắc Minh là có khác biệt căn bản với những xác ướp thông thường. Xác ướp là người ta tiến hành xử lý thi thể nên mới bảo trì được. Còn rất nhiều cao tăng (bao gồm nhục thân không bị mục nát của rất nhiều cao tăng Trung Quốc thời cổ đại) lại là do tự thân tu hành nên mới đạt được.

Xem thêm:

>> Thân thể bất hoại của các tu sĩ phương Tây

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/9/8/18455.html

The post Nhục thân không bị mục rữa của cao tăng Việt Nam first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/05/nhuc-than-khong-bi-muc-rua-cua-cao-tang-viet-nam.html/feed0
Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 4)https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-4.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-4.html#respondSun, 15 Jan 2012 09:31:37 +0000https://chanhkien.org/?p=15708Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 4)

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Phần 4: 2010 – 2011

2010

2000

2011

1994-2010

1966-2011

2011

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9743

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 4) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-4.html/feed0
Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 3)https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-3.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-3.html#respondSun, 15 Jan 2012 09:31:12 +0000https://chanhkien.org/?p=15706Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 3)

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Phần 3: 2000 – 2009

2000

2001

2002

2002

2003

2004

2005

2006

2006

2007

2008

2008

2009-1

2009-2

2009

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9701

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 3) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-3.html/feed0
Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 2)https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-2.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-2.html#respondWed, 11 Jan 2012 08:54:49 +0000https://chanhkien.org/?p=15693Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 2)

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Phần 2: 1990 – 1999

1990

1991

1992

1993

1994

1994-1995

1995

1996

1997

1998

1999

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9740

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-2.html/feed0
Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 1)https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-1.htmlhttps://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-1.html#respondWed, 11 Jan 2012 08:54:28 +0000https://chanhkien.org/?p=15691Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 1)

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Phần 1: 1980 – 1989

1980

1982

1983

1984

1985

1986

1987

1988

1989

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9700

The post Video: Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ toàn tập (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2012/01/video-nhung-vong-tron-tren-ruong-lua-my-toan-tap-phan-1.html/feed0
Video: Liên hệ thần bí giữa tiên tri Maya và các vòng tròn trên ruộng lúa mỳhttps://chanhkien.org/2011/11/video-lien-he-than-bi-giua-tien-tri-maya-va-cac-vong-tron-tren-ruong-lua-my.htmlhttps://chanhkien.org/2011/11/video-lien-he-than-bi-giua-tien-tri-maya-va-cac-vong-tron-tren-ruong-lua-my.html#respondThu, 24 Nov 2011 15:02:47 +0000https://chanhkien.org/?p=14156Video: Liên hệ thần bí giữa tiên tri Maya và các vòng tròn trên ruộng lúa mỳ

The post Video: Liên hệ thần bí giữa tiên tri Maya và các vòng tròn trên ruộng lúa mỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9595

The post Video: Liên hệ thần bí giữa tiên tri Maya và các vòng tròn trên ruộng lúa mỳ first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/11/video-lien-he-than-bi-giua-tien-tri-maya-va-cac-vong-tron-tren-ruong-lua-my.html/feed0
Video: Hình vẽ ở Nazca được cho là kiệt tác của người ngoài hành tinhhttps://chanhkien.org/2011/11/video-hinh-ve-o-nazca-duoc-cho-la-kiet-tac-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh.htmlhttps://chanhkien.org/2011/11/video-hinh-ve-o-nazca-duoc-cho-la-kiet-tac-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh.html#respondThu, 24 Nov 2011 14:58:05 +0000https://chanhkien.org/?p=14153Video: Hình vẽ ở Nazca được cho là kiệt tác của người ngoài hành tinh

The post Video: Hình vẽ ở Nazca được cho là kiệt tác của người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
 [Chanhkien.org]

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9594

The post Video: Hình vẽ ở Nazca được cho là kiệt tác của người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/11/video-hinh-ve-o-nazca-duoc-cho-la-kiet-tac-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh.html/feed0
Mặt trăng, ngươi đến từ đâu?https://chanhkien.org/2011/11/mat-trang-nguoi-den-tu-dau.htmlhttps://chanhkien.org/2011/11/mat-trang-nguoi-den-tu-dau.html#respondWed, 09 Nov 2011 17:23:15 +0000http://chanhkien.org/?p=13617Mặt trăng đã đi theo trái đất kể từ khi nào? Có lẽ nó đã ngắm nhìn trái đất lâu hơn rất nhiều khi loài người xuất hiện trên trái đất.

The post Mặt trăng, ngươi đến từ đâu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Một bức ảnh chụp mặt trăng. (Ảnh: Wikipedia)

[Chanhkien.org] Mặt trăng đã đi theo trái đất kể từ khi nào? Có lẽ nó đã ngắm nhìn trái đất lâu hơn rất nhiều khi loài người xuất hiện trên trái đất.

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi con người lần đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Đó là ngày 19/7/1969, khi các phi hành gia người Mỹ của tàu Apollo 11 thực hiện sứ mệnh khám phá mặt trăng. Tuy nhiên cho tới nay, con người vẫn không khôn ngoan hơn trước bao nhiêu khi hiểu biết về mặt trăng. Ngược lại, các nhà khoa học đang lúng túng bởi những dữ liệu thu thập được từ các thiết bị đặt trên mặt trăng. Khi nhìn lên mặt trăng vào ban đêm, chúng ta vẫn chỉ có một cảm giác xa lạ tương tự. Chúng ta không thể kìm được ngoài việc hỏi: “Mặt trăng, ngươi có thể nói với chúng ta thêm một chút về bản thân ngươi được không? Chẳng hạn, ngươi đến từ đâu?”

Hiện tại, có ba giả thuyết chính giải thích về nguồn gốc của mặt trăng. Giả thuyết thứ nhất là bụi và những đám khí vũ trụ đã hình thành mặt trăng, cũng giống trái đất chúng ta 4,6 tỷ năm trước đây. Giả thuyết thứ hai là mặt trăng đã vỡ ra từ vỏ Trái Đất bởi các lực ly tâm, và để lại một vùng trũng – được cho là Thái Bình Dương ngày nay. Giả thuyết thứ ba là mặt trăng là một hành tinh độc lập bắt được lực hấp dẫn từ trái đất khi đi ngang qua, và nó xoay quanh trái đất kể từ đó.

Hầu hết các nhà khoa học ban đầu tin vào giả thuyết thứ nhất, mặc dù một số thích giả thuyết thứ hai hơn. Tuy nhiên, việc phân tích các mẫu đất mặt trăng được mang về bởi các phi hành gia chỉ ra rằng kết cấu mặt trăng là khác với trái đất. Trái đất có nhiều sắt và ít silicon hơn cấu thành nên nó, trong khi mặt trăng thì ngược lại. Ngoài ra, trái đất có rất ít quặng titan, trong khi mặt trăng có rất nhiều. Như vậy các phát hiện này cho thấy mặt trăng không phải được vỡ ra từ trái đất. Cũng bằng cách tiếp cận tương tự, giả thuyết đầu tiên là không vững chắc. Nếu mặt trăng và trái đất được hình thành bởi quy trình tương tự và cùng lúc, thì tại sao chúng lại khác nhau về kết cấu? Các nhà khoa học đã bỏ qua giả thuyết đầu tiên, và chỉ còn lại giả thuyết thứ ba. Nếu mặt trăng đi vào hệ mặt trời từ không gian bên ngoài, thì nó nên bay về phía mặt trời, thay vì trái đất, vì lực hấp dẫn của mặt trời lớn hơn trái đất rất nhiều.

Như vậy không giả thuyết nào trong ba giả thuyết được các nhà khoa học đưa ra là có thể trả lời tường tận mọi câu hỏi. Nguồn gốc mặt trăng vẫn là một bí ẩn. Có rất nhiều không gian cho con người đưa ra các giả thuyết mới về nguồn gốc mặt trăng. Bất kể chúng có vẻ nực cười như thế nào, người ta không nên dán nhãn chúng là phản khoa học mà không suy xét cẩn thận.

Một số “trùng hợp” đặc biệt giữa mặt trời, trái đất và mặt trăng

Hãy nhìn xem và nghĩ về một số hiện tượng thiên văn đặc biệt khó tin giữa mặt trời, trái đất và mặt trăng.

Khoảng cách trung bình giữa trái đất và mặt trăng là 380.000 km, còn giữa mặt trời và trái đất là 150.000.000 km. Cái sau lớn hơn 395 lần so với cái trước. Đường kính mặt trời là khoảng 1.380.000 km, trong khi mặt trăng là 3.400 km, tỷ lệ giữa chúng cũng lại là 395 lần. Cả hai đều là 395. Liệu có thể là ngẫu nhiên không? Điều này có nghĩa là gì?

Hãy nghĩ về nó. Mặt trời lớn hơn mặt trăng 395 lần, nhưng xa hơn trái đất 395 lần so với mặt trăng. Cả hai đều có cùng kích thước khi nhìn từ trái đất, bởi vì khoảng cách là khác nhau. Đây là một hiện tượng tự nhiên hay nhân tạo? Tại đâu trong vũ trụ, người ta có thể tìm thấy ba hành tinh có cùng loại “ngẫu nhiên” này?

Mặt trăng muôn hình vạn trạng khiến con người thích thú thưởng ngoạn. (Ảnh:AFP)

Hai hành tinh thay nhau chiếu sáng trái đất, một ban ngày và một ban đêm. Không có ví dụ nào khác của hiện tượng như vậy trong hệ mặt trời của chúng ta. Nhà khoa học uy tín, Isaac Asimov, từng nói rằng theo dữ liệu hiện có, mặt trăng về nguyên tắc không nên tồn tại ở vị trí đó. Ông cũng cho biết: “Mặt trăng đủ lớn để gây ra nhật thực (solar eclipse), nhưng đủ nhỏ để gây ra hiện tượng tán mặt trời (corona). Thiên văn học của chúng ta không thể giải thích sự ngẫu nhiên trong các ngẫu nhiên này.”

Liệu đây có thực sự là ngẫu nhiên? Không hẳn, theo một số nhà khoa học. William R. Sheldon, một nhà khoa học, nói: “Để theo quỹ đạo xoay quanh trái đất, một con tàu vũ trụ phải duy trì một tốc lực 10.800 dặm/giờ ở độ cao 100 dặm. Tương tự, để mặt trăng giữ quỹ đạo cân bằng với lực hấp dẫn của trái đất, nó cũng cần một tốc lực, sức nặng, và độ cao chính xác”. Câu hỏi là: nếu một bộ các điều kiện hiện tại là không thể đạt được bằng tự nhiên, thì tại sao chúng đi theo cách này?

Quá lớn để trở thành một vệ tinh

Có một vài hành tinh trong hệ mặt trời có thể trở thành các vệ tinh tự nhiên. Tuy nhiên, mặt trăng lớn một cách bất thường để có thể là một vệ tinh. Nó quá lớn so với hành tinh mẹ của nó. Chúng ta hãy thử so sánh các dữ liệu sau đây. Đường kính trái đất là 12.756 km, đường kính mặt trăng là 3.467 km, tức bằng khoảng 27% đường kính trái đất. Đường kính sao Hỏa là 6.787 km, và nó có 2 vệ tinh. Cái lớn hơn có đường kính 23 km, tức khoảng 0,34% đường kính sao Hỏa. Đường kính sao Mộc là 142.800 km, và nó có 13 vệ tinh. Cái lớn nhất có đường kính 5.000 km, tức 3,5% đường kính sao Mộc. Đường kính sao Thổ là 120.000 km, và nó có 23 vệ tinh. Cái lớn nhất có đường kính 4.500 km, bằng khoảng 3,75% đường kính sao Thổ. Không vệ tinh nào có đường kính vượt quá 5% đường kính hành tinh mẹ của chúng, nhưng đường kính mặt trăng lại bằng 27% đường kính trái đất. Chẳng phải khi so sánh, mặt trăng lớn một cách bất thường? Dữ liệu thực sự chỉ ra rằng mặt trăng là khác thường.

Các hố thiên thạch đều quá nông

Các nhà khoa học nói với chúng ta rằng các hố trên bề mặt mặt trăng được gây ra bởi tác động của thiên thạch hay sao chổi. Cũng có các hố thiên thạch trên trái đất. Theo tính toán khoa học, nếu một tảng thiên thạch đường kính cỡ vài dặm đâm vào trái đất hay mặt trăng với vận tốc 30.000 dặm/giây, nó tương đương với 1 triệu tấn thuốc nổ, và sẽ tạo ra hố thiên thạch có độ sâu 4-5 lần đường kính của nó. Các hố thiên thạch trên trái đất đã chứng minh tính toán này là chính xác. Thế nhưng các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng lại nông một cách khác thường. Lấy ví dụ, Gagrin Crater, hố sâu nhất, chỉ sâu 4 dặm, mặc dù đường kính của nó là 186 dặm. Với đường kính 186 dặm này, độ sâu hố thiên thạch nên là ít nhất 700 dặm, thay vì 4 dặm, một độ sâu chỉ bằng 12% đường kính. Đây là một điều không thể giải thích về mặt khoa học.

Tại sao như vậy? Các nhà thiên văn học không thể giải thích một cách hoàn hảo, và họ dường như không muốn đi sâu thêm nữa. Họ biết rằng một giải thích hoàn hảo sẽ lật đổ các lý thuyết đã được thiết lập. Giải thích duy nhất là lớp vỏ mặt trăng được cấu thành bởi một thứ vật chất cứng nằm dưới bề mặt của nó 4 dặm, lớp bề mặt bao phủ bởi đá và bụi. Các thiên thạch đã không thể xuyên qua lớp vỏ cứng này. Và rồi, thứ vật chất rất cứng ấy rốt cuộc là gì?

Thứ kim loại gần như không thể tồn tại

Không có gì là lạ nếu các miệng núi lửa trên bề mặt mặt trăng có một lượng lớn nham thạch. Nhưng điều kỳ lạ là nham thạch ấy chứa các nguyên tố kim loại như titanium, chromium, yttrium, v.v. mà rất hiếm thấy trên trái đất. Các kim loại này đều rất cứng, đồng thời có tính chịu nhiệt và ăn mòn rất mạnh. Các nhà khoa học ước tính cần nhiệt độ 2.000-3.000º C để làm tan chảy các kim loại này. Nhưng mặt trăng là một trái cầu đã nguội lạnh mà không có hoạt động núi lửa nào trong 3 tỷ năm. Vậy tại sao mặt trăng sản sinh ra quá nhiều thứ kim loại có sức chịu nhiệt cao như thế? Ngoài ra, việc phân tích 380 kg mẫu đất mặt trăng được đem về bởi các phi hành gia cho thấy có sắt và titan tinh khiết. Các khoáng chất kim loại tinh khiết như vậy là không thể tìm thấy dưới điều kiện tự nhiên.

Những sự thật không thể giải thích này nói với chúng ta điều gì? Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng chứng tỏ các nhân tố kim loại này không được hình thành dưới điều kiện tự nhiên, mà được chiết lọc. Vậy thì câu hỏi là bởi ai, và khi nào?

Mặt không thể được nhìn thấy từ trái đất

Bề mặt lồi lõm ở mặt sau của mặt trăng. (Ảnh: NASA)

Luôn có một mặt của mặt trăng quay về phía trái đất. Con người không thể thấy mặt bên kia, cho tới khi phi thuyền đáp lên đó và chụp ảnh. Các nhà thiên văn luôn nghĩ rằng mặt sau của mặt trăng nên tương tự mặt trước, với nhiều hố thiên thạch và biển dung nham. Nhưng các bức ảnh cho thấy một cảnh tượng hoàn toàn khác. Mặt sau của mặt trăng rất mấp mô. Hầu hết là các hố nhỏ và những rặng núi với rất ít biển dung nham.

Các nhà khoa học không thể giải thích sự khác biệt. Về mặt lý thuyết, xác suất bị thiên thạch đánh nên là như nhau giữa hai bên mặt của mặt trăng, nếu đây là một hành tinh hình thành một cách tự nhiên. Vậy tại sao có sự khác biệt? Tại sao luôn có một phía của mặt trăng quay mặt về trái đất? Lời giải thích từ các nhà khoa học là mặt trăng xoay quanh trục của nó với vận tốc 16,56 km/giờ, và cũng xoay quanh trái đất với vận tốc tương đương. Do đó một phía của mặt trăng luôn quay mặt về trái đất.

Hiện tượng này không tồn tại ở bất cứ hành tinh nào khác cùng các vệ tinh của nó trong hệ mặt trời của chúng ta, ngoại trừ trái đất và mặt trăng. Liệu có thể lại là “ngẫu nhiên” cùng các “ngẫu nhiên” khác? Có lời giải thích nào ngoài “ngẫu nhiên” chăng?

Các hiện tượng kỳ lạ trong vài trăm năm qua

Trong 300 năm qua, các nhà thiên văn học đã quan sát nhiều hiện tượng không thể giải thích về mặt trăng. Casini đã khám phá ra một đám mây bao phủ mặt trăng vào năm 1671. Tháng 4/1786, William Herser, cha đẻ của thiên văn học hiện đại, đã quan sát được các dấu hiệu núi lửa phun trào trên mặt trăng, mặc dù các nhà khoa học tin rằng không có hoạt động núi lửa nào trên mặt trăng trong 3 tỷ năm qua. Và rồi, điều gì đã được quan sát mà trông như núi lửa phun trào?

Năm 1843, nhà thiên văn người Đức John Schicoto, người đã vẽ hàng trăm tấm bản đồ mặt trăng, đã phát hiện ra rằng hố thiên thạch Leany Crater, với đường kính gốc vài km, đã trở nên nhỏ hơn. Ngày nay, Leany Crater chỉ là một chấm nhỏ với trầm tích màu trắng bao quanh nó. Các nhà khoa học không hiểu tại sao. Ngày 24/4/1882, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng có những vật thể không xác định di chuyển trên bề mặt vùng Aristocrat (Aristocrat’s Zone). Ngày 19/10/1945, người ta đã quan sát được 3 điểm sáng trên bức tường Darwin (Darwin Wall) tại bề mặt mặt trăng.

Tối ngày 6/7/1954, trưởng Đài Quan trắc Thiên văn Minnesota và các cộng sự của ông đã nhìn thấy một đường tối bên trong miệng núi lửa Picallomy, rồi biến mất ngay sau đó. Ngày 8/9/1955, tia chớp đã xuất hiện hai lần dọc bờ núi lửa Ross. Lại nữa, ngày 9/2/1956, Tiến sĩ Toyota thuộc Đại học Meiji, Nhật Bản đã nhìn thấy vài vật thể tối dường như đã hình thành hình dạng các ký tự DYAX và JWA.

Mặt trăng luôn quay một mặt về phía địa cầu, nhưng mấy nghìn năm trước người Maya đã đem mặt sau của nó khắc lên miếu thờ mặt trăng. Trong bức phù điêu còn có hình một thanh niên lái cỗ máy như phi thuyền. (Ảnh: Chánh Kiến Net)

Ngày 4/2/1966, một xe vũ trụ không người lái của Nga, Moon Goddess 9, đã đáp xuống biển Rain (Rain Sea) tại mặt trăng và chụp được hai dãy cấu trúc giống kim tự tháp cách đều nhau. Tiến sĩ Van Sunder tuyên bố: “Chúng có thể phản chiếu mạnh ánh mặt trời, khá giống các dấu trên đường băng”. Từ tính toán độ dài và độ sâu, người ta phát hiện các cấu trúc này có độ cao khoảng tòa nhà 15 tầng. Tiến sĩ Van Sunder nói: “Không có cao nguyên gần đó, nơi những tảng đá có thể lăn xuống vị trí hiện tại để hình thành các dạng hình học trên.”

Thêm nữa, Moon Goddess 9 cũng chụp được một cái hang bí ẩn ở bờ của biển Stormy (Stormy Sea). Chuyên gia nghiên cứu mặt trăng, Tiến sĩ Wilkins tin rằng những cái hang tròn này thông trực tiếp tới trung tâm mặt trăng. Bản thân Wilkins từng khám phá ra một cái hang khổng lồ tại hố Casiny A. Ngày 20/11/1966, tàu vũ trụ American Orbit 2 Exploration Spaceship đã chụp được vài kiến trúc hình kim tự tháp từ độ cao 46 km trên  biển Tranquility (Tranquility Sea). Các nhà khoa học ước tính các kim tự tháp cao từ 15-25 mét và cũng được định vị hình học. Các kiến trúc có màu nhạt hơn đất và đá quanh chúng, và chúng rõ ràng không phải các vật thể tự nhiên.

Ngày 11/9/1967, nhóm thiên văn học Montelow đã phát hiện một “đám mây đen với những đường viền màu tía” trên biển Tranquility. Hiện tượng kỳ lạ này không được quan sát bởi mắt thường, mà bởi các nhà thiên văn và tàu thăm dò. Điều này có nghĩa mặt trăng còn nhiều bí mật chưa được nhân loại biết đến.

Khi phi thuyền Apollo tiếp cận mặt trăng, bề mặt mặt trăng dường như không tồn tại từ trường, từ đó có thể thấy bên trong mặt trăng là rỗng. (Ảnh: Wikipedia)

UFO trên mặt trăng

Ngày 24/11/1968, tàu Apollo 8, trong khi điều tra các điểm đỗ trong tương lai, đã chạm trán một vật thể bay khổng lồ với kích cỡ vài dặm vuông. Khi Apollo 8 trở lại cùng địa điểm từ quỹ đạo của nó quanh mặt trăng, vật thể kia đã không còn ở đó. Nó là gì? Không ai biết. Tàu Apollo 10, khi đang ở độ cao 50.000 feet phía trên mặt trăng, đã được tiếp cận bởi một vật thể bay không xác định. Vụ chạm trán này đã được ghi lại thành phim tài liệu. Ngày 19/7/1969, tàu Apollo 11 mang theo ba phi hành gia, những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Khi trên đường tới mặt trăng, các phi hành gia đã nhìn thấy một vật thể lạ thường trước mặt họ. Nhìn từ khoảng cách 6.000 dặm, họ ban đầu nghĩ rằng đó phải là cánh quạt tên lửa từ Apollo 4. Nhưng khi nhìn qua ống nhòm, họ phát hiện rằng vật thể này có hình chữ L. “Nó trông như một cái va-li được mở”, Armstrong nói. Khi nhìn xa hơn bằng một kính lục phân, họ phát hiện vật thể trông như một hình trụ. Một phi hành gia khác, Aldrin, cho biết: “Chúng tôi cũng thấy vài vật thể nhỏ hơn đi ngang qua, gây náo loạn tàu chúng tôi, rồi chúng tôi thấy vật thể sáng màu hơn này bay ngang qua”. Ngày 21/7, khi Aldrin đi vào Landing Capsule để kiểm tra lần cuối, anh đột nhiên nhìn thấy hai vật thể đang bay lượn. Một trong số chúng lớn hơn và sáng hơn, bay với vận tốc cao hướng song song với mặt trước phi thuyền, rồi biến mất ngay sau đó. Nó lại xuất hiện mấy giây sau. Vào thời điểm ấy, hai vật thể phát ra những luồng sáng hợp vào nhau. Rồi chúng thình lình tách nhau ra, thăng lên nhanh chóng rồi biến mất.

Ngày 19/11/1969, tàu Apollo mang hai phi hành gia lên mặt trăng chấp hành nhiệm vụ. (Ảnh: AFP/NASA)

Khi các phi hành gia đang chuẩn bị đáp xuống mặt trăng, họ nghe một tiếng nói từ Trung tâm Điều khiển: “Trung tâm Điều khiển gọi Apollo 11, điều gì đang xảy ra ở đó?” Apollo 11 trả lời: “Những đứa trẻ nghịch ngợm, Sir… rất nhiều họ… Oh, my God, ngài sẽ không tin nó. Tôi nói rằng có các phi thuyền khác ở đó… trên bờ các hố tròn, và chúng được đỗ ngay ngắn… và chúng đang nhìn chúng tôi từ mặt trăng…” Nhà khoa học người Nga, Tiến sĩ Arched nói: “Theo những tín hiệu đứt quãng của chúng tôi, vụ chạm trán với các vật thể bay khi tàu Apollo 11 đáp xuống đã được báo cáo ngay lập tức.” Ngày 20/11/1969, hai phi hành gia Conrad và Brian của tàu Apollo 12 đã quan sát thấy các vật thể bay khi họ đáp xuống mặt trăng. Các phi hành gia đáp xuống mặt trăng từ tàu Apollo 15 vào tháng 8/1971, Apollo 16 vào tháng 4/1972, và Apollo 17 vào tháng 12/1972 cũng đã chạm trán các vật thể bay.

Gary, một nhà khoa học, từng nói: “Gần như tất cả các phi hành gia đều đã nhìn thấy những vật thể bay không xác định”. Edwards, phi hành gia thứ sáu đáp xuống mặt trăng, nói: “Câu hỏi duy nhất là họ đến từ đâu?” John Younger, phi hành gia thứ chín đáp xuống mặt trăng, nói: “Nếu bạn không tin điều đó, cũng bằng bạn không tin một điều chắc chắn”. Năm 1979, nguyên giám đốc truyền thông NASA Molly Chertlin tuyên bố rằng “chạm trán các vật thể bay” là hết sức phổ biến. Bà tiếp tục: “Tất cả các phi thuyền đều đã bị đi theo bởi một số vật thể bay, hoặc ở xa hoặc ở gần. Cho dù điều gì xảy ra, các phi hành gia sẽ liên lạc với trung tâm chúng tôi”.

Nhiều năm sau, Armstrong tiết lộ: “Thật không thể tin được… Chúng tôi đều được cảnh báo có những thành phố hay phi thuyền trên mặt trăng… Tôi chỉ có thể nói rằng phi thuyền của họ cực kỳ siêu đẳng và chúng rất lớn…” Hàng ngàn hiện tượng bí ẩn trên mặt trăng, như ánh chớp kỳ bí, những đám mây đen trắng, các cấu trúc, những vật thể bay và nhiều nữa, đều là sự thật và đã được quan sát bởi các phi hành gia và nhà khoa học. Thật khó để giải thích chúng là gì.

Mặt trăng là một phi thuyền rỗng

Năm 1970, các nhà khoa học Nga Alexander Scherbakov và Mihkai Vasin đã đưa ra giả thuyết “Phi thuyền Mặt trăng” gây sốc để giải thích nguồn gốc mặt trăng. Họ tin rằng mặt trăng thực tế không phải một vệ tinh tự nhiên của trái đất, mà là một phi thuyền được tạo ra bởi các sinh mệnh có trí tuệ, và được thiết kế và tạo hình như một hành tinh. Có rất nhiều tài liệu về nền văn minh của họ được lưu giữ bên trong mặt trăng, và được cố ý đặt trên trái đất. Tất cả các khám phá về mặt trăng thực ra là công trình xuất chúng của các sinh mệnh có trí tuệ sống bên trong đó. Tất nhiên, giới khoa học khinh miệt lý thuyết này. Tuy nhiên, không thể chối cãi được rằng mặt trăng dường như còn được chúng ta biết quá ít.

Thí nghiệm về làn sóng rung chứng minh mặt trăng là rỗng.

Điều khiến các nhà khoa học bối rối nhất chính là dữ liệu thu thập được từ các thiết bị để lại trên mặt trăng, thứ đo được các hoạt động rung trên lớp vỏ mặt trăng. Các dữ liệu chỉ ra rằng các làn sóng rung chỉ lan ra từ tâm chấn dọc theo bề mặt mặt trăng, chứ không đi vào trung tâm mặt trăng. Điều này cho thấy mặt trăng là rỗng và nó không có gì khác ngoài cái vỏ. Nếu nó là một hành tinh đặc, thì các làn sóng rung lẽ ra phải truyền vào trung tâm. Làm sao chúng chỉ chạy dọc theo bề mặt?

Xây dựng lại mới các lý thuyết về mặt trăng

Hãy thử xây dựng một lý thuyết mới về mặt trăng. Nó là rỗng và có hai lớp vỏ. Lớp vỏ ngoài cùng bao gồm đá và các quặng khoáng. Thiên thạch chỉ có thể đâm xuyên qua lớp vỏ này. Các hố thiên thạch được biết không sâu quá 4 dặm. Như vậy lớp vỏ ngoài cùng này dày gần 5 dặm. Lớp vỏ bên trong thì cứng, bao bọc bởi thứ hợp kim nhân tạo và không rõ dày bao nhiêu – có lẽ là vài dặm. Các nguyên tố kim loại của nó, bao gồm sắt, titanium, chromium, v.v. có tính chống nhiệt, áp suất và ăn mòn cao. Đây là một hợp kim chưa được biết đến trên trái đất.

Dữ liệu về rung lắc trên mặt trăng chỉ ra rằng các làn sóng rung truyền dọc theo bề mặt chứ không đi vào trung tâm. Điều này có nghĩa là mặt trăng chỉ có hai lớp vỏ nói trên. Do đó mặt trăng phải là nhân tạo, thay vì được hình thành tự nhiên. Các sinh mệnh có trí tuệ đã tiến hành những tính toán chính xác để phóng mặt trăng từ trái đất vào thời xa xưa và đặt nó tại vị trí có thể chiếu sáng trái đất vào ban đêm. Tóm lại, không có giả thuyết nào trong ba giả thuyết về nguồn gốc mặt trăng là đúng.

Quả cầu triển lãm tại Đài Bắc khiến người ta liên tưởng đến mặt trăng là vệ tinh nhân tạo thời tiền sử. (Ảnh: Tịch Thượng Trân)

Các sinh mệnh đã xây dựng mặt trăng chỉ cho phép một mặt của nó quay về trái đất, bởi vì có nhiều thiết bị quan sát trên trái đất. Phía này được mài nhẵn để phản chiếu ánh sáng mặt trời, còn họ sinh sống ở bên trong mặt trăng, gần phía sau. Bởi vì nhiệt độ bề mặt mặt trăng thay đổi từ 127º C vào buổi trưa đến -183º C vào ban đêm, nên các cư dân đó phải sống bên trong mặt trăng.

Các sinh mệnh tạo ra mặt trăng đã sáng chế ra các đĩa bay và họ thường bay ra để nghiên cứu, duy trì thiết bị bề mặt, hoặc theo dõi các hoạt động của con người trên trái đất. Họ đôi khi bị bắt gặp bởi các phi hành gia từ trái đất hay bị quan sát bởi các kính thiên văn trên trái đất. Chúng ta không biết họ là sinh vật ngoài hành tinh đến, hay là cư dân đã ở đó từ lâu. Có lẽ không lâu nữa, con người trên trái đất sẽ tìm ra sự thật về mặt trăng.

Chúng ta đã xây dựng lý thuyết này để giải thích nguồn gốc và kết cấu mặt trăng bằng cách sử dụng các hiện tượng không thể giải thích bằng khoa học truyền thống. Lý thuyết này giải quyết hoàn hảo và từng bí ẩn bao quanh mặt trăng. Ai có thể bảo cách tiếp cận này là không khoa học?

Câu chuyện có thật về mặt trăng

Trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Thuỵ Sỹ [1998]”, ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Công đã nói như sau về nguồn gốc của mặt trăng:

Trong lịch sử không hề có trạng thái khoa học giống như ngày nay, tuy nhiên nhân loại các thời kỳ khác nhau có phương thức phát triển của các thời kỳ khác nhau. Vào thời bấy giờ, con người nhận thấy đêm tối gây ra rất nhiều phiền phức cho con người, do đó [họ] đã tạo ra mặt trăng và phóng lên, [để] nó có thể đem đến ánh sáng cho địa cầu vào ban đêm.” (bản dịch chưa chính thức)

Ông Lý Hồng Chí còn giải thích cặn kẽ hơn trong “Chuyển Pháp Luân (quyển II)”:

Thời tiền sử có những lúc, văn minh nhân loại duy trì được lâu hơn, có lúc ngắn hơn; có văn minh nhân loại duy trì được khá lâu. Mỗi thời kỳ nhân loại có con đường phát triển khoa học đều không giống nhau. Con người hiện nay đứng trong cái khung phát triển của khoa học hiện nay, họ nhận thức không nổi rằng còn có tuyến đường khoa học khác nữa. Trên thực tế khoa học của Trung Quốc cổ đại so với khoa học hiện nay có được truyền từ Âu Châu là hoàn toàn khác hẳn. Trung Quốc cổ đại là họ nhắm thẳng vào nhân thể, sinh mệnh, và vũ trụ mà nghiên cứu trực tiếp. [Những gì] sờ không thấy, nhìn không ra, thì người cổ [đại] đều dám động chạm đến, họ chính là có thể chứng thực sự tồn tại của chúng. Cảm giác của người khi đả toạ luyện công, thăng hoa đến cảm giác mạnh mẽ hơn nữa, cuối cùng không chỉ cảm giác rất mạnh, mà còn có thể động chạm đến chúng, thấy được chúng. Đó chính là khiến những thứ vô hình thăng hoa đến thành hữu hình rồi. Cổ nhân đã đi theo con đường khác, tìm tòi những áo bí của sinh mệnh, quan hệ giữa con người và vũ trụ; là hoàn toàn khác với con đường mà khoa học thực chứng hiện nay đi theo.

Thực ra, mặt trăng là người tiền sử tạo ra, bên trong nó rỗng. Nhân loại tiền sử rất phát triển.”

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/976

The post Mặt trăng, ngươi đến từ đâu? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/11/mat-trang-nguoi-den-tu-dau.html/feed0
Brazil nghi có xác chết người ngoài hành tinhhttps://chanhkien.org/2011/10/brazil-nghi-co-xac-chet-nguoi-ngoai-hanh-tinh.htmlhttps://chanhkien.org/2011/10/brazil-nghi-co-xac-chet-nguoi-ngoai-hanh-tinh.html#respondThu, 06 Oct 2011 19:40:39 +0000http://chanhkien.org/?p=13272Brazil nghi có xác chết người ngoài hành tinh

The post Brazil nghi có xác chết người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

[Chanhkien.org] Theo hãng tin Trung ương xã Đài Bắc ngày 4/10, điều kỳ lạ trên trái đất đã xuất hiện. Người ta đã đưa tin về người ngoài hành tinh và UFO. Một người Brazil mới đây đã chụp được một bức ảnh gây tranh cãi về xác chết khô của người ngoài hành tinh.

Tờ Triều Tiên Nhật báo của Hàn Quốc đưa tin hôm 4/10, một người Brazil đã chụp được một bức ảnh và đưa lên một trang video nổi tiếng, ảnh ghi “Xác người ngoài hành tinh, chụp ngày 26 tại Itajuba, Brazil.”

Cư dân mạng này cho biết tối hôm trước, anh nghe thấy tiếng chó sủa liên tục; sớm hôm sau anh ra sân sau thì nhìn thấy bộ thi thể này.

Theo bức ảnh, thi thể người ngoài hành tinh dường như đã bị khô héo do để quá lâu. Thi thể dài 45 cm, tay có 3 ngón, chân có 2 ngón, đầu lớn không cân xứng, toàn thân trông rất giống một người ngoài hành tinh điển hình.

Cũng theo lời cư dân mạng này, khi anh chạy ra sân sau xem lại thì đã không thấy xác đâu nữa, dưới đất chỉ lưu lại một chút dịch lỏng màu đen bốc mùi kỳ lạ.

Cũng giống đa số tranh ảnh về chứng kiến người ngoài hành tinh, thực hư về sự kiện thi thể người ngoài hành tinh gây nghi hoặc này thật khó mà xác minh được.

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9129

The post Brazil nghi có xác chết người ngoài hành tinh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/10/brazil-nghi-co-xac-chet-nguoi-ngoai-hanh-tinh.html/feed0
Phát hiện vi mạch của người ngoài hành tinh trong sọ Napoleon?https://chanhkien.org/2011/10/phat-hien-vi-mach-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh-trong-so-napoleon.htmlhttps://chanhkien.org/2011/10/phat-hien-vi-mach-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh-trong-so-napoleon.html#respondThu, 06 Oct 2011 19:32:56 +0000http://chanhkien.org/?p=13264[Chanhkien.org] PARIS – Thông qua khám nghiệm di thể của Napoleon Bonaparte, các nhà khoa học thừa nhận rằng họ đã “cực kỳ bối rối” trước phát hiện về một vi mạch (microchip) dài nửa inch được gắn trong hộp sọ của ông. Họ cho biết vật thể kỳ bí này có thể là một […]

The post Phát hiện vi mạch của người ngoài hành tinh trong sọ Napoleon? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org]

PARIS – Thông qua khám nghiệm di thể của Napoleon Bonaparte, các nhà khoa học thừa nhận rằng họ đã “cực kỳ bối rối” trước phát hiện về một vi mạch (microchip) dài nửa inch được gắn trong hộp sọ của ông.

Họ cho biết vật thể kỳ bí này có thể là một vật cấy của người ngoài hành tinh – chứng tỏ vị Hoàng đế Pháp từng bị bắt cóc bởi UFO!

“Nhánh rẽ từ khám phá này gần như là không thể hiểu nổi”, tuyên bố của Tiến sĩ Andre Dubois, người đã đưa ra tiết lộ chấn động này cho một tạp chí y học của Pháp.

“Cho tới nay, mỗi dấu vết đều chứng tỏ rằng nạn nhân của những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh đều là người thường và không đóng vai trò nào trong các sự kiện trên thế giới.

“Nhưng giờ đây, chúng ta đã có bằng chứng thuyết phục rằng trong quá khứ, người ngoài hành tinh từng hành động để ảnh hưởng lịch sử nhân loại – và có thể vẫn đang tiếp tục!”

Tiến sĩ Dubois đã có phát hiện kinh ngạc này khi nghiên cứu hộp sọ được khai quật của Napoleon với số tiền chuyển nhượng 140.000 đô-la từ chính phủ Pháp.

“Tôi đang hy vọng được biết liệu có phải Napoleon đã chịu một cơn rối loạn tuyến yên dẫn tới hình hài thấp bé của mình hay không”, ông giải thích.

Nhưng thay vào đó, nhà nghiên cứu đã tìm thấy điều gì đó còn kinh người hơn: “Khi tôi khám nghiệm bên trong hộp sọ, bàn chải trên tay tôi quệt qua một cái mấu nhỏ.

“Rồi tôi nhìn vào khu vực ấy với một chiếc kính lúp – và thật kinh ngạc, vật thể đó là một loại vi mạch siêu tiên tiến.”

Từ mức độ sinh trưởng của vùng xương quanh vi mạch, vị chuyên gia tin rằng nó đã được cấy vào khi Bonaparte vẫn còn trẻ.

“Napoleon đã mất tích mấy ngày trong tháng 7 năm 1794, khi ông 25 tuổi. Sau đó ông tuyên bố mình đã bị cầm tù trong thời chính biến của Thermidor – nhưng không tồn tại ghi chép nào về vụ bắt giữ cả. Tôi tin rằng đây là thời gian vụ bắt cóc diễn ra.”

Kể từ đó, sự trỗi dậy của Napoleon giống như diều gặp gió. Ngay trong năm sau, ông đã được sắp xếp phụ trách quân đội của Pháp tại Italy.

Điều kỳ lạ là, ông đã có thể chuyển một đội quân thiếu đói và ô hợp thành một lực lượng chiến đấu đỉnh cao và đánh bại người Italy.

Nguồn: http://lifesgreatclues.com/alien-chip-found-in-the-skull-of-napoleon-bonaparte/

Dịch từ:

http://news.zhengjian.org/node/9157

The post Phát hiện vi mạch của người ngoài hành tinh trong sọ Napoleon? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/10/phat-hien-vi-mach-cua-nguoi-ngoai-hanh-tinh-trong-so-napoleon.html/feed0
Tam giác Bermudahttps://chanhkien.org/2011/05/tam-giac-bermuda.htmlhttps://chanhkien.org/2011/05/tam-giac-bermuda.html#respondMon, 23 May 2011 07:41:18 +0000https://chanhkien.org/?p=12130Tác giả: Một học viên tại Nga [Chanhkien.org] Chỉ cần đề cập đến địa danh này thôi là đã đủ gợi lên cho người ta một loạt các cảm xúc và hình ảnh: liên hệ với điều gì đó kỳ bí, những con tàu bị chìm và những chiếc máy bay biến mất tăm, sự […]

The post Tam giác Bermuda first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một học viên tại Nga

[Chanhkien.org] Chỉ cần đề cập đến địa danh này thôi là đã đủ gợi lên cho người ta một loạt các cảm xúc và hình ảnh: liên hệ với điều gì đó kỳ bí, những con tàu bị chìm và những chiếc máy bay biến mất tăm, sự biến dạng trong thời-không, sự hồ nghi, sợ hãi và một ham muốn tìm kiếm sự thật ẩn đằng sau những hiện tượng bí ẩn này.

Tam giác Bermuda là một khu vực trên Đại Tây Dương, nơi mà những vụ mất tích dường như rất kỳ lạ xảy ra trên biển và tại không trung. Khu vực này được đánh dấu bởi những đường ranh giới từ Florida tới Bermudas, qua phía Nam Puerto Rico và trở lại Florida qua Bahamas. Có một “tam giác” tương tự trên Thái Bình Dương gọi là “devilish”. Nhiều giả thuyết khác nhau đã được đưa ra để giải thích những vụ mất tích, bao gồm các hiện tượng thời tiết bất thường và sự bắt cóc của người ngoài hành tinh.

Lịch sử

“Những vụ mất tích bí ẩn” đầu tiên trên tam giác Bermuda được đã đề cập bởi một phóng viên của Associated Press, Edward Van Winkle Jones. Năm 1950, trong bài báo của mình, ông đặt tên khu vực này là “vùng biển của quỷ”. Tác giả của cụm từ “tam giác Bermuda” được cho là Vincent Gaddis, người từng đăng một bài viết vào năm 1964 trên một tạp chí ủng hộ thuyết duy linh, “Tam giác chết Bermuda.”

Cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, vô số ấn phẩm về các bí mật của tam giác Bermuda đã bắt đầu xuất hiện.

Năm 1974, Charles Berlitz đã xuất bản cuốn sách “Tam giác Bermuda”, một bộ sưu tập các vụ mất tích kỳ bí trong khu vực này. Cuốn sách trở thành sách bán chạy nhất (best-seller), và sau khi xuất bản, các lý thuyết về những đặc điểm bất thường của tam giác Bermuda đã trở nên đặc biệt phổ biến. Tuy nhiên, sau đó, người ta phát hiện thấy một số sự thật được trình bày trong cuốn sách là không chính xác.

Năm 1975, Lawrence David Kusche đã cho xuất bản một cuốn sách có tên “Bí ẩn tam giác Bermuda: Giải mã”, trong đó ông cố gắng lập luận rằng không có điều siêu nhiên hay thần bí nào từng xảy ra trong khu vực này. Cuốn sách dựa trên nghiên cứu dài hạn về các tài liệu và lời kể của các nhân chứng. Nhưng những người ủng hộ sự tồn tại của tam giác Bermuda đã phát hiện rất nhiều lỗi và mâu thuẫn trong cuốn sách này.

Tuy nhiên, những vụ việc kỳ bí xung quanh khu vực tam giác Bermuda không thể bị bỏ qua. Những vụ mất tích bí ẩn trong khu vực này đã kích thích tâm lý của nhiều người bắt đầu từ những năm 1960. Trường hợp bí ẩn và được biết đến nhiều nhất là vụ mất tích cả một đội bay của không quân Hoa Kỳ. Năm chiếc máy bay ném bom với 14 phi công đột nhiên biến mất trên màn hình ra-đa ở vùng tam giác Bermuda trong một đợt huấn luyện bay. Một chiếc máy bay với phi hành đoàn 13 người đã có một cuộc tìm kiếm nhưng cũng biến mất theo. Không chiếc máy bay hay mảnh vỡ máy bay nào được tìm thấy cho đến ngày hôm nay.

Sau 25 năm im lặng, vào năm 2003, một cuốn sách được viết bởi Gian J. Quasar: “Vào trong tam giác Bermuda: Truy tìm sự thật đằng sau bí ẩn lớn nhất thế giới” đã được xuất bản. Tác giả đã khái quát 13 năm nghiên cứu từ các nguồn chính thức, chẳng hạn tư liệu của NTSB, đội lính gác bờ biển, không quân và hải quân cùng nhiều nguồn lưu trữ nước ngoài. Danh sách những chiếc máy bay mất tích trong tam giác Bermuda có thể được tìm thấy tại: http://www.bermuda-triangle.org/html/lost_aircraft.html

Những biến cố xảy ra trong tam giác Bermuda

Những người ủng hộ thuyết tam giác Bermuda đã đề cập tới những vụ mất tích của khoảng 100 tàu thuyền và máy bay trong hơn 100 năm qua. Ngoài những vụ mất tích, cũng có báo cáo về các trường hợp tàu thuyền đang hoạt động hoàn hảo bị bỏ rơi bởi thủy thủ đoàn và các hiện tượng bất thường khác, chẳng hạn vận chuyển tức thời, sự dị thường của thời gian, v.v. David Kusche và các nhà nghiên cứu khác đã chứng tỏ có một số trường hợp đã diễn ra ngoài tam giác Bermuda. Thông tin chính thức về một số biến cố là rất khó tìm thấy. Tuy nhiên, hoạt động bất thường của la bàn trong khu vực tam giác Bermuda thậm chí đã được đề cập từ thời Christopher Columbus trong cuốn nhật ký hải trình của ông. Nhiều nhân chứng đã chia sẻ kinh nghiệm của họ khi ở trong tam giác Bermuda, bao gồm hoạt động bất thường của la bàn, đi vào những đường hầm, các đám mây kỳ lạ, đi vào trong những vật chất kỳ bí xoay chuyển tương tự như đánh trứng và thoát khỏi chúng thông qua một thứ tương tự tấm rèm, sự phát quang bất thường, ánh lửa, và nhiều điều khác.

Mô tả cảnh máy bay thoát ra khỏi đường hầm. Ảnh do Bruce Gernon cung cấp. (Nguồn: www.bermuda-triangle.org)

Các nhà khoa học nổi tiếng như Michio Kaku và Albert Einstein đã đưa ra những lý thuyết về sự khúc xạ thời gian. Einstein từng nói về “sông thời gian”. Michio Kaku, một nhà vật lý học hiện đại nổi tiếng, đã đưa ra một lý thuyết cho rằng “sông thời gian” có thể tự xoắn, rồi tạo thành “xoáy nước thời gian” mà qua đó người ta có thể đi vào các thời-không khác và “sông thời gian” này có thể tách ra. Michio Kaku cũng tuyên bố rằng có nhiều thế giới song song (các thời-không) khác nhau tồn tại ở cùng một chỗ.

Sư phụ Lý Hồng Chí, nhà sáng lập môn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp đã đưa ra một giải thích tương tự về những hiện tượng tại tam giác Bermuda trong cuốn sách «Pháp Luân Công» của ông như sau:

“Có một số điều, ngay cả nếu quý vị không chấp nhận sự hiện hữu của chúng, nhưng chúng vẫn được phản ánh một cách trung thực trong không gian của chúng ta. Chẳng hạn như có một nơi gọi là quần đảo Bermuda, hay còn được mệnh danh là “vùng tam giác quỷ”, một số tàu bè đã biến mất trong vùng này, một số máy bay cũng mất tích luôn, và sau đó lại xuất hiện trở lại vài năm sau đó. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân, không ai đi quá giới hạn của các tiến trình suy nghĩ và lý luận của con người. Thật ra, nó là một đường đi vào một không gian khác. Không giống như cánh cửa bình thường của chúng ta với một vị trí cố định, nó ở một trạng thái không ổn định. Nếu chiếc tàu nào tình cờ đi vào khi cánh cửa được mở, nó có thể đi vào cõi không gian khác rất dễ dàng. Con người không thể cảm nhận được sự khác biệt giữa các không gian, và họ đi vào trong một không gian khác trong nháy mắt. Khoảng cách giữa các không gian không thể nào được diễn đạt bằng dặm, như là cách xa hàng ngàn dặm. Mọi thứ đều hội tụ vào một điểm nơi đây. Các không gian khác nhau thật sự xảy ra cùng nơi chốn và cùng thời gian. Chiếc tàu nhảy vào trong một chốc lát và trở ra lại do sự tình cờ thôi. Tuy vậy, nhiều năm đã trôi qua trong thế giới này vì thời gian khác nhau ở hai cõi không gian này. Có nhiều thế giới đồng nhất hiện hữu trong mỗi không gian, tương tự như mô hình của các cấu trúc nguyên tử, một quả cầu được nối liền với quả cầu khác bằng một đoạn thẳng và rất nhiều quả cầu lẫn nhiều đoạn thẳng liên kết với nhau như vậy, nó quả thật là phức tạp.

Bốn năm trước chiến tranh thế giới lần thứ II, một phi công người Anh đang thi hành một công tác. Khi đang bay giữa chừng, anh ta đụng phải một cơn bão táp rất lớn. Dựa theo kinh nghiệm, anh ta tìm gặp một phi trường bỏ hoang. Vừa lúc phi trường xuất hiện trước mắt anh ta, một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn đến trong tầm nhìn của anh ta, nó bỗng nhiên nắng chói và không có chút mây nào như thể anh ta vừa mới hiện ra từ một thế giới khác. Các máy bay đậu ở phi trường này sơn màu vàng, và người ta đang bận rộn làm việc trên mặt đất, anh ta có cảm giác rất lạ! Sau khi hạ cánh, không ai nhận ra anh ta. Ngay cả đài kiểm soát không lưu cũng không có liên lạc với anh ta. Người phi công quyết định rời khỏi nơi đó vì trời đã tạnh bão. Anh ta bay trở lại, và lúc tới cùng khoảng cách mà anh ta thấy phi trường này phút chốc trước đó, anh ta lại đâm đầu vào cơn bão táp một lần nữa. Cuối cùng anh ta xoay trở để ra khỏi nơi đó. Khi anh ta báo cáo tình trạng này và anh ta cũng ghi xuống trong sổ phi hành, cấp trên của anh ta không tin chuyện đó. Bốn năm sau đó, thế chiến thứ hai bùng nổ. Anh ta được thuyên chuyển đến cái phi trường bỏ hoang đó. Anh ta lập tức nhớ lại cảnh tượng xảy ra giống hệt như điều mà anh ta đã thấy bốn năm về trước. Các thầy khí công của chúng ta tất cả đều biết những thứ đó là gì. Anh ta đã làm cùng việc đó bốn năm sớm hơn là anh ta phải làm sau đó. Trước khi bắt đầu hành động, anh ta đã đến đó và diễn xuất vai trò của mình trước, và xong rồi trở lại làm đúng theo thứ tự.” («Pháp Luân Công», Chương I, (4) Các cõi không gian)

Phần còn lại là dành cho quý độc giả tự suy ngẫm về chủ đề này và đưa ra kết luận của riêng mình.

Dịch từ:

http://pureinsight.org/node/5998

The post Tam giác Bermuda first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/05/tam-giac-bermuda.html/feed0
Tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát sau sóng thầnhttps://chanhkien.org/2011/04/tuong-phat-dung-vung-giua-dong-do-nat-sau-song-than.htmlhttps://chanhkien.org/2011/04/tuong-phat-dung-vung-giua-dong-do-nat-sau-song-than.html#respondSun, 10 Apr 2011 10:45:48 +0000https://chanhkien.org/?p=11409Tuần này, chúng ta lại bắt gặp những bức ảnh sau sóng thần ở Nhật Bản hồi tháng trước và ở Sri Lanka vào tháng 12 năm 2004.

The post Tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát sau sóng thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Liệu các bức tượng Phật không chỉ đơn thuần là những tác phẩm điêu khắc?

Tác giả: Stephanie Lam

Tuần trước, chúng ta đã phát hiện được hiện tượng kỳ lạ về các bức tượng Phật di chuyển và tỏa sáng ở Malaysia. Tuần này, chúng ta lại bắt gặp những bức ảnh sau sóng thần ở Nhật Bản hồi tháng trước và ở Sri Lanka vào tháng 12 năm 2004. Những bức ảnh này cho thấy các bức tượng Phật, dù bị sóng đánh rất mạnh, vẫn đứng vững giữa đống đổ nát của các tòa nhà bị phá hủy. Liệu có phải là ngẫu nhiên khi các bức tượng Phật không hề bị hư hại?

“Người ta không nghĩ rằng đây chỉ là một thảm họa, mà là Thần đang nói với họ rằng họ cần cải thiện hành vi của bản thân”, một người dân địa phương Sri Lanka bình luận vào tháng 1 năm 2005, như được tường trình bởi Đại Kỷ Nguyên. “Người dân Sri Lanka đang trở thành những người tốt hơn sau sóng thần.”

ĐỨNG THẲNG: Một bức tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát trong một khu vực bị sóng thần tàn phá gần bờ biển, ở Natori, quận Miyagi, Nhật Bản, ngày 14 tháng 3 năm 2011, sau trận sóng thần và động đất ngày 11 tháng 3. (Ảnh: Toru Yamanaka/AFP/Getty Images)

CAO HƠN VÀ XA HƠN: Một bức tượng Phật ngồi giữa đống gạch vụn với những chiếc sọ người bị trận sóng thần ngày 26 tháng 12 cuốn trôi đi từ nghĩa địa gần đó, tại thị trấn duyên hải miền Tây Nam Kahawa, Sri Lanka, ngày 2 tháng 1 năm 2005. (Ảnh: Raveendran/AFP/Getty Images)

BẤT ĐỘNG NHƯ THƯỜNG LỆ: Một bức tượng Phật nguyên vẹn ngồi trên tầng lầu của một tòa nhà bị phá hủy tại Sri Lanka, vùng ngoại ô Hikkaduwa, bên ngoài Galle ngày 12 tháng 1 năm 2005. Các ngôi chùa, giáo đường Hồi giáo và nhà thờ đã phải chống chọi lại những cơn sóng lớn. (Ảnh: Indranil Mukherjee/AFP/Getty Images)

(Theo The Epoch Times)

The post Tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát sau sóng thần first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/04/tuong-phat-dung-vung-giua-dong-do-nat-sau-song-than.html/feed0
Mặt trăng và cơ thể ngườihttps://chanhkien.org/2011/01/mat-trang-va-co-the-nguoi.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/mat-trang-va-co-the-nguoi.html#respondTue, 11 Jan 2011 14:14:01 +0000https://chanhkien.org/?p=10384Nhiều người tin rằng sự thay đổi theo chu kỳ của mặt trăng có ảnh hưởng tới con người. Ví dụ rõ ràng nhất là chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.

The post Mặt trăng và cơ thể người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Cheng Lu

[ChanhKien.org]

Nhiều người tin rằng sự thay đổi theo chu kỳ của mặt trăng có ảnh hưởng tới con người. Ví dụ rõ ràng nhất là chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Dưới những điều kiện bình thường, mỗi chu kỳ của một người phụ nữ xảy ra trong 28 ngày, chính xác trong khoảng giữa tháng thiên văn (thời gian giữa độ cao lớn nhất của một định tinh được nhìn từ mặt trăng, xấp xỉ 27 ngày) và tháng mặt trăng (29 ngày).

Theo Shi Yukun, một bác sĩ Trung Y, chu kỳ mặt trăng cũng liên quan tới thời điểm con người sinh ra. Hầu hết trẻ em được sinh ra ngay sau khi trăng tròn.

Các tuần trăng đóng một vai trò trong trạng thái tinh thần của con người. Người Babylon cổ đại gọi chứng rối loạn tâm thần ở bệnh nhân là chứng “lunatic” (mộng du đêm trăng tròn), có nghĩa là căn bệnh bị ảnh hưởng bởi mặt trăng. Ngày nay, các nghiên cứu cho thấy người bệnh tâm thần có xu hướng rối loạn tâm thần cao hơn vào lúc trăng tròn.

Mặt trăng cũng ảnh hưởng đến tâm trạng của con người. Trăng tròn có thể khiến người ta lo âu, bồn chồn, khó chịu, và phát triển ảo giác. Ngoài ra, trong lúc trăng tròn, người ta có xu hướng hồi tưởng lại những ký ức đã qua nhiều hơn, khiến họ cảm thấy buồn và trầm cảm. Nhiều nhà thơ đã sáng tác những áng thơ bất hủ của họ vào lúc trăng tròn.

Cuốn sách cổ Trung Quốc “Câu hỏi thường gặp: Thuyết tám sự thần thánh” viết: “Khi trăng lưỡi liềm, khí huyết [sinh lực cấu thành cơ thể người và duy trì sự sống] bắt đầu tăng cường, và an khí bắt đầu lưu chuyển. Khi trăng tròn, khí huyết đầy đủ, các cơ bắp khỏe mạnh. Khi trăng khuyết, các kênh năng lượng yếu đi, an khí ra đi, và chỉ còn lại hình thù.” Đó là để nói, khí huyết cơ thể người, cơ bắp, và sức mạnh của các dòng năng lượng là có liên quan tới các giai đoạn của mặt trăng.

Nhìn hiện tượng này từ một quan điểm khác, người ta có thể cho rằng có lẽ cơ thể người đơn giản là có liên kết với vũ trụ, không phải vì mặt trăng, vì mặt trăng chỉ là một vật thể phản ứng lại theo giai điệu của vũ trụ.

(Theo The Epoch Times)

The post Mặt trăng và cơ thể người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/mat-trang-va-co-the-nguoi.html/feed0
Thần trên Trái đất: Khi đá mang hình dạng con ngườihttps://chanhkien.org/2011/01/than-tren-trai-dat-khi-da-mang-hinh-dang-con-nguoi.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/than-tren-trai-dat-khi-da-mang-hinh-dang-con-nguoi.html#respondSat, 08 Jan 2011 08:43:17 +0000https://chanhkien.org/?p=10332Theo truyền thống Trung Quốc cổ đại, Thần trên thiên thượng không hoàn toàn tồn tại ở một không gian riêng biệt, họ cũng có liên hệ vật chất với trần gian.

The post Thần trên Trái đất: Khi đá mang hình dạng con người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Leonardo Vintiñi

Từ “Người vợ lạc” cho tới “Nhà sư đang cầu nguyện,” nhiều hình dạng tự nhiên mang dáng dấp giống con người một cách đáng tò mò

BÀ LÃO: 'Người canh gác vùng đất cằn cỗi' ở Alberta, Canada.

“Người ta thường treo biển để quảng cáo việc làm ăn buôn bán; người đóng giày treo một chiếc giày khổng lồ; thợ kim hoàn treo một chiếc đồng hồ lớn và nha sĩ treo một chiếc răng vàng; nhưng ở rặng núi New Hampshire, Thượng đế đã treo một tấm biển để cho thấy rằng Ngài đã tạo ra con người.”, lời Daniel Webster (1782–1852), một chính trị gia người Mỹ đầy tài năng.

Theo truyền thống Trung Quốc cổ đại, Thần trên thiên thượng không hoàn toàn tồn tại ở một không gian riêng biệt, họ cũng có liên hệ vật chất với trần gian. Người xưa tin rằng những tảng đá, ngọn núi lớn, hay những nơi địa hình không bằng phẳng là một phần của vòng tuần hoàn mà các vị Thần sống và được nuôi dưỡng. Chính vì vậy, mỗi lần một hình tượng này sụp đổ, điều đó có nghĩa là vòng đời của vị Thần đó đã kết thúc.

Đằng sau sự thật và huyền thoại về định mệnh của vũ trụ, những kỳ quan thiên nhiên này có thể được tìm thấy trên khắp hành tinh và thậm chí còn xa hơn nữa. Trong khi văn hóa hiện tại của chúng ta không đưa ra được những lý giải hợp lý cho những cấu trúc đá tự nhiên, thì những hình thể bất thường này vẫn luôn thu hút trí tưởng tượng của chúng ta, và thường trở thành những điểm nhấn quý báu trong các công viên và khu bảo tồn tự nhiên.

Người canh gác vùng đất cằn cỗi

Nằm ở phía đông nam Alberta, Canada, kỳ quan địa chất vĩ đại này chỉ có thể được quan sát từ trên cao. Tuy nhiên, những chi tiết mang dáng dấp con người này quả là vô cùng kỳ diệu khi người ta cân nhắc rằng bàn tay con người không thể tham gia vào quá trình tạo thành của khối đá khổng lồ này. Được nhiều người miêu tả giống như một đầu người trùm khăn và đeo iPod, khuôn mặt nhìn nghiêng này được tạo ra bởi sự xói mòn của nước mưa trên những tầng địa chất giàu đất sét.

Dây tai nghe được tạo thành bởi một con đường bụi, và phần tai nghe được tạo thành bởi một giếng dầu nơi con đường kết thúc. Tuy nhiên, những chi tiết do con người tạo ra này chỉ tăng thêm phần thú vị; chúng không hoàn toàn đưa ra nhận dạng của hình thù.

Trên thực tế, chúng chỉ tô điểm thêm nét hiện đại vào khuôn mặt này khiến nó không còn phù hợp với kiểu dáng ban đầu. Những cái tên khác được đặt cho “Người canh gác” trong thời gian nó được nhiều người biết đến là “Bà lão”, “Vách đá,” “Cái đầu của Hickox,” “Nhìn ra đồng bằng,” “Hòn đá nghe,” và “Napi.”

Ông lão trên núi

ÔNG LÃO: Chân dung bằng đá với vẻ rất riêng của New Hampshire đã tan vỡ vào năm 2003, và bức hình này cho thấy khuôn mặt nhìn nghiêng cao quý đã từng tồn tại ở đó như thế nào. (Ảnh: Rob Gallagher)

Chân dung đá tại New Hampshire đã từng là một cảnh quan kỳ vĩ để thưởng ngoạn. Từ cằm tới trán, nó được coi như nét mặt nhìn nghiêng của “Ông lão trên núi” cao 12 mét, rộng 7,6 mét.

Người ta tin rằng các dòng sông băng và một chuỗi những hiện tượng địa chất xảy ra 200 triệu năm trước đã bắt đầu hình thành hình dạng giống như điêu khắc này một cách tự nhiên. Nó đã được các du khách ngưỡng mộ như một biểu tượng cao quý của New Hampshire.

Mặc dù những huyền thoại do người dân bản địa kể về việc xuôi theo dòng chảy của con sông Merrimack sẽ cho thấy con đường dẫn tới ngọn núi có khuôn mặt trên đá, nhưng những ghi chép đầu tiên về chi tiết của “Ông lão trên núi” chỉ bắt đầu từ năm 1805.

Hơn một trăm năm qua, đã có nhiều thiết bị được sử dụng vào việc ngăn không cho tượng đài bằng đá granit này sụp đổ. Chỉ vài năm trước khi nó tan vỡ, dây cáp và keo đã được sử dụng, nhưng cuối cùng cái đầu đầy bí ẩn này đã khuất phục trước sức mạnh của tự nhiên đã tạo ra nó. Gió to cùng mưa lớn và sự đóng băng liên tục đã khiến khuôn mặt khổng lồ sụp đổ vào sáng sớm ngày 3 tháng 5 năm 2003.

Khuôn mặt trên sao Hỏa

BỀ MẶT SAO HỎA: ‘Khuôn mặt trên sao Hỏa’ nổi tiếng nằm tại Khu Cydonia trên hành tinh này. (NASA/JPL)

Bên cạnh “Ông lão trên núi” và “Bà lão” nổi tiếng thế giới, còn có rất nhiều nơi hoang vu trên Trái đất cũng kiêu hãnh với những bức điêu khắc tự nhiên của chúng. “Bảy chị em gái,” “Nhà sư đang cầu nguyện,” hay “Nhân sư” của Ru-ma-ni chỉ là một vài trong số hằng ngàn những tảng đá nguyên khối bị bào mòn tự nhiên được tìm thấy ở gần như mọi quốc gia trên thế giới. Có thể cho rằng, còn rất nhiều những bức điêu khắc tự nhiên vẫn đang âm thầm chờ đợi để được khám phá ra.

Tuy nhiên, Trái đất không phải là hành tinh duy nhất có bề mặt không đồng đều.

Khi những bức ảnh của thành trì Sao Hỏa nổi tiếng Cydonia Mensae được công bố vào năm 1975, nó đã gây nhiều tranh cãi. Những bức ảnh của các dạng hình thể này đã kích thích trí tưởng tượng của hàng ngàn người với hy vọng rằng sinh vật thông minh với khoa học kĩ thuật tiên tiến có thể đang sống trên hành tinh Đỏ.

Trong khi các nhân viên NASA quả quyết rằng những bức ảnh đầu tiên của “Khuôn mặt trên sao Hỏa” (cũng là một phần của Cydonia) chủ yếu được tạo ra bởi ảo ảnh do ánh sáng và bóng tối, thì những người khác bị thuyết phục rằng những bức ảnh này tiết lộ lịch sử sửng sốt chưa được biết đến về người hàng xóm ‘đỏ’ của chúng ta.

Có lẽ người thẳng thắn nhất trong những cá nhân này là nhà nghiên cứu gây nhiều tranh cãi Richard C. Hoagland. Do vị trí của những cấu trúc trên sao Hỏa đáng tò mò này rất giống với các kim tự tháp Ai Cập trên Trái đất, Hoagland đã đặt ra giả thuyết về việc tìm kiếm mối quan hệ giữa những người tạo ra tượng nhân sư Ai Cập nổi tiếng với khuôn mặt sao Hỏa bí ẩn này.

Đối với nhiều người, những bức ảnh chụp vệ tinh gần đây của «Khuôn mặt trên sao Hỏa» được chụp năm 2006 đã làm giảm bớt danh tiếng của khuôn mặt như một kỳ quan kỹ thuật hay một kỳ tích của tạo hóa. Tuy nhiên, vào năm 2008, bề mặt sao Hỏa đã tiết lộ một bí ẩn nhiếp ảnh nữa : sự xuất hiện của một vật thể ngồi giữa đá. Bức ảnh được phi thuyền thám hiểm sao Hỏa không người lái Spirit chụp lại và cũng giống như «Khuôn mặt trên sao Hỏa, » bức ảnh này cũng thuyết phục nhiều nhà nghiên cứu rằng sao Hỏa có thể không phải là không thể sinh sống được. (Xem clip YouTube: http://www.youtube.com/watch?v=-t4KfMok4U0)

Dù văn hóa hay công nghệ có tồn tại trên sao Hỏa hay không, không ai có thể phủ nhận rằng những cấu trúc này, giống như những thứ được phát hiện ra trên Trái đất, đã thành công trong việc thu hút trí tưởng tượng của chúng ta. Nhân loại đã cảm động khi chứng kiến hình dạng của riêng mình được tạc vào đá. Tuy nhiên, khi những bức điêu khắc được tìm thấy do bàn tay của chính Mẹ Thiên Nhiên tạc lại, những tảng đá chứa đầy dáng vẻ huyền bí.

Vào những thời điểm này, tự nhiên đang cho chúng ta thấy sự phản chiếu của bản thân chúng ta. Thế giới tự nhiên đã tạo ra một khuôn mặt mà chúng ta có thể dễ dàng liên tưởng.

(Theo The Epoch Times)

The post Thần trên Trái đất: Khi đá mang hình dạng con người first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/than-tren-trai-dat-khi-da-mang-hinh-dang-con-nguoi.html/feed0
Bom nguyên tử thời cổ đạihttps://chanhkien.org/2011/01/bom-nguyen-tu-thoi-co-dai.htmlhttps://chanhkien.org/2011/01/bom-nguyen-tu-thoi-co-dai.html#respondWed, 05 Jan 2011 08:29:29 +0000https://chanhkien.org/?p=10316“Giờ đây ta trở thành Thần chết, kẻ hủy diệt các thế giới” – Kinh Bhagavad Gita của Ấn Độ.

The post Bom nguyên tử thời cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Leonardo Vintiñi

Đụn cát trong sa mạc Ai Cập. Hiện tượng nào có thể làm tăng nhiệt độ của cát sa mạc lên ít nhất 3.300 độ F, đúc nó thành những tấm thủy tinh đặc lớn màu vàng-xanh? (Wael Abed/AFP/Getty Images)

“Giờ đây ta trở thành Thần chết, kẻ hủy diệt các thế giới” – Kinh Bhagavad Gita của Ấn Độ.

7 năm sau những vụ thử nghiệm hạt nhân ở thành phố Alamogordo, tiểu bang New Mexico, tiến sĩ J. Robert Oppenheimer, cha đẻ của bom nguyên tử, lúc đó đang giảng dạy tại một trường cao đẳng. Khi một sinh viên hỏi liệu đã từng có vụ thử nghiệm nguyên tử nào ở Hoa Kỳ trước sự kiện Alamogordo hay chưa, ông trả lời:

“Có, trong thời hiện đại.”

Câu nói này, đầy bí ẩn và không thể hiểu nổi tại thời điểm đó, thực ra là ám chỉ những văn bản Hindu cổ đại mô tả một thảm họa tận thế nhưng không có liên quan tới các hiện tượng phun trào núi lửa hay những hiện tượng đã biết nào khác. Oppenheimer, người đã từng say sưa nghiên cứu tiếng Phạn cổ, lúc đó chắc chắn đang đề cập đến một đoạn trong kinh “Bhagavad Gita” mô tả một thảm họa toàn cầu gây ra bởi “một vũ khí bí ẩn, một tia sắt”.

Trong khi nó có thể là sự cảnh báo cho giới khoa học về sự tồn tại của vũ khí nguyên tử trước chu kỳ văn minh hiện tại, bằng chứng của hiện tượng này dường như thì thầm những câu thơ trong kinh “Bhagavad Gita”  ở khắp nơi trên Trái đất.

Thủy tinh trong sa mạc

Bằng chứng này không chỉ đến từ những vần thơ Hindu mà còn đến từ rất nhiều mảnh vỡ của thủy tinh nóng chảy nằm rải rác ở nhiều sa mạc trên thế giới. Các tinh thể Silicon, những vật đúc kỳ lạ, cực kỳ giống với những mảnh vỡ được tìm thấy sau những vụ nổ hạt nhân ở khu vực thử bom nguyên tử Cát Trắng tại Alamogordo.

Vào tháng 12 năm 1932, Patrick Clayton, một giám định viên từ Cơ quan Khảo sát Địa chất Ai Cập, đã lái xe giữa các cồn cát của sa mạc Biển cát lớn (Great Sand Sea), gần cao nguyên Saad ở Ai Cập, khi ông nghe những tiếng răng rắc dưới bánh xe. Khi kiểm tra điều gì đã gây ra âm thanh đó, ông đã tìm thấy những miếng thủy tinh lớn nằm trong cát.

Khám phá này đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà địa chất trên khắp thế giới và đã đặt ra một trong những điều bí ẩn lớn nhất của khoa học hiện đại. Hiện tượng gì có thể làm tăng nhiệt độ của cát sa mạc lên ít nhất 3.300 độ F, đúc nó thành những tấm thủy tinh đặc lớn màu vàng-xanh?

Trong khi vượt qua tầm tên lửa sa mạc Cát Trắng (White Sands) Alamogordo, Albion W. Hart, một trong những kỹ sư đầu tiên tốt nghiệp Viện Công nghệ Massachusetts, đã quan sát thấy rằng những miếng thuỷ tinh mà những vụ thử hạt nhân để lại giống y hệt với những miếng thủy tinh ông quan sát thấy ở sa mạc châu Phi 50 năm trước. Tuy nhiên, kích thước của vật đúc trong sa mạc này đòi hỏi vụ nổ đó phải mạnh hơn 10.000 lần so với vụ nổ được quan sát thấy ở New Mexico.

Nhiều nhà khoa học đã tìm cách giải thích sự rải rác của các tảng thuỷ tinh lớn ở sa mạc Libya, sa mạc Sahara, Mojave, và nhiều nơi khác trên thế giới, như là các sản phẩm của các vụ va chạm thiên thạch khổng lồ. Tuy nhiên, do sự thiếu vắng của các hố thiên thạch trong sa mạc, giả thuyết này không đứng vững được. Dữ liệu hình ảnh vệ tinh cũng như các ra-đa siêu âm cũng không thể tìm thấy bất kỳ hố thiên thạch nào cả.

Hơn nữa, các tảng đá thuỷ tinh được tìm thấy ở sa mạc Libya cho thấy độ trong suốt và độ tinh khiết (99%) vốn không phải là đặc trưng của việc thiên thạch tan chảy, trong đó sắt và các chất liệu khác bị trộn lẫn với thủy tinh nóng chảy sau vụ va chạm.

Mặc dù vậy, các nhà khoa học đã đề xuất rằng các thiên thạch đã tạo ra các tảng đá thuỷ tinh có thể đã nổ tung ở độ cao vài dặm cách mặt đất, tương tự như sự kiện Tunguska, hoặc đơn giản là thiên thạch đã nảy lên theo cách mà chúng mang theo cả bằng chứng của sự va chạm, nhưng để lại nhiệt từ sự ma sát.

Tuy nhiên, điều này không giải thích được bằng cách nào 2 trong số các khu vực được tìm thấy ở rất gần nhau trong sa mạc Libya, cho thấy cùng một kiểu mẫu – xác suất của hai vụ va chạm thiên thạch ở rất gần như thế là rất thấp. Nó cũng không giải thích được sự thiếu vắng của nước trong các mẫu đá tektite (đá thủy tinh sậm màu được cho là kết quả của việc thiên thạch va chạm với vỏ trái đất) khi các khu vực va chạm được cho là đã từng tràn ngập nước vào khoảng 14.000 năm trước đây.

Thảm hoạ Mohenjo Daro thời cổ đại

Thành phố nơi nền văn hóa đã sinh ra mà ngày nay là thung lũng Indus là một bí ẩn lớn. Các tảng đá của phế tích đã kết tinh một phần, cùng với những cư dân của nó. Hơn nữa, những văn bản bí ẩn địa phương nói về một khoảng thời gian bảy ngày biết ơn đối với những chiếc xe bay. Những chiếc ‘xe bay’ ấy được gọi là Vimana, đã cứu sống 30.000 cư dân khỏi một sự kiện khủng khiếp.

Năm 1927, nhiều năm sau khi khám phá ra tàn tích Mohenjo Daro, 44 bộ xương người đã được tìm thấy ở vùng ngoại ô của thành phố. Đa số đã được tìm thấy trong tư thế úp mặt xuống, nằm trên đường phố và nắm tay như thể một thảm họa nghiêm trọng đã bất ngờ ập xuống thành phố. Ngoài ra, một số bộ xương cho thấy những dấu hiệu của bức xạ không thể giải thích được. Nhiều chuyên gia tin rằng Mohenjo Daro là một dấu hiệu rõ ràng của thảm họa hạt nhân 2 thiên niên kỷ trước công nguyên.

Tuy nhiên, thành phố là không phải là thành phố cổ duy nhất được cho là đã từng trải qua thảm họa hạt nhân. Hàng chục tòa nhà thế giới cổ đại cho thấy gạch và đá nóng chảy, như cuộc thử nghiệm nhiệt mà các nhà khoa học hiện đại không thể giải thích nổi:

Pháo đài và tháp cổ ở Scotland, Ireland, và Anh

Thành phố Catal Huyuk ở Thổ Nhĩ Kỳ

Alalakh ở miền bắc Syria

Phế tích của 7 thành phố (Seven Cities), gần Ecuador

Những thành phố nằm giữa sông Hằng ở Ấn Độ và những quả đồi Rajmahal

Các khu vực của sa mạc Mojave ở Hoa Kỳ

Ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, sự hiện diện của một nhiệt độ cực cao và những mô tả sinh động về một thảm họa khủng khiếp cho thấy rằng có lẽ trước đây đã từng có một thời đại mà người ta đã biết đến công nghệ hạt nhân – một thời đại mà trong đó công nghệ nguyên tử đã quay sang chống lại loài người.

Tham khảo:

http://www.bibliotecapleyades.net/arqueologia/esp_mohenjo_daro_1.htm

http://skepticreport.com/sr/?p=288

http://forteanswest.com/wordpress-mu/nevadalowfi/tag/robert-oppenheimer/

http://www.marmet-meteorites.com/id37.html

(Theo The Epoch Times)

The post Bom nguyên tử thời cổ đại first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2011/01/bom-nguyen-tu-thoi-co-dai.html/feed0
Hành trình xuyên thời gian?https://chanhkien.org/2010/12/hanh-trinh-xuyen-thoi-gian.htmlhttps://chanhkien.org/2010/12/hanh-trinh-xuyen-thoi-gian.html#respondWed, 01 Dec 2010 14:08:10 +0000https://chanhkien.org/?p=9866Khám phá của các nhà nghiên cứu về một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ ở Trung Quốc trong khi đang quay một bộ phim tài liệu vào năm 2008 quả là một bất ngờ lớn.

The post Hành trình xuyên thời gian? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Leonardo Vintiñi & Stephanie Lam

Đồng hồ Thụy Sĩ được tìm thấy trong ngôi mộ cổ thời nhà Minh

Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)

Khám phá của các nhà nghiên cứu về một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ ở Trung Quốc trong khi đang quay một bộ phim tài liệu vào năm 2008 quả là một bất ngờ lớn. Nó không chỉ bé như một chiếc nhẫn mà còn nằm trong một ngôi mộ từ thời nhà Minh (1368 – 1644)

“Khi chúng tôi cố loại bỏ đất bám xung quanh chiếc quan tài, đột nhiên một mẩu đá rơi xuống đất với âm thanh của kim loại”, ông Jiang Yanyu, từng là phụ trách của Bảo tàng Quảng Tây nói, theo tờ Daily Mail. “Sau khi loại bỏ hết đất bao phủ và xem xét kỹ hơn, chúng tôi bị sốc khi thấy nó là một chiếc đồng hồ”.

Mặc dù chiếc đồng hồ trông có vẻ không được thực dụng cho lắm bởi kích thước nhỏ bé của nó, nhưng nó được chia vạch giờ giống hệt một chiếc đồng hồ hiện đại với kích thước thông thường.  Nó chỏ thời gian 10:06 và có chữ “Swiss” (Thụy Sĩ) được khắc ở mặt sau đã hoen gỉ.

“Vào thời Minh chưa hề có đồng hồ và thời đó thậm chí còn chưa có nước Thụy Sĩ”, một nhà khảo cổ cho biết trong một bài bào trên tờ Austrian Times.

Ngôi mộ mà bên trong nó chiếc đồng hồ được tìm thấy nằm tại Shangsi, phía Nam Trung Quốc, được cho là đã đóng kín hơn 400 năm về trước và không hề được thăm viếng kể từ sau đám tang của chủ nhân vào thời Minh, nhưng các nhà nghiên cứu ước tính rằng chiếc đồng hồ mới chỉ 100 năm tuổi.

Trong khi chiếc đồng hồ có thể được xếp vào loại Đồ vật bị lạc chỗ (Oopart), trông nó có vẻ khác biệt và nguyên bản. Một đồ vật bị lạc chỗ (Oopart) là một vật từ thời cổ đại với những đặc điểm không thể có được vào thời kỳ đó, ví dụ như trình độ công nghệ chẳng hạn. Trong khi những Đồ vật bị lạc chỗ thông thường dường như là những vật được chế tác bằng công nghệ của con người thời cổ đại, chiếc đồng hồ Thụy Sĩ này đưa đến một suy đoán rằng đã có sự liên lạc giữa một người du hành thời gian đến từ thế kỷ trước và những người trong thời Minh.

Việc thiếu sự giải thích đã khiến nhiều người suy tưởng rằng một người du hành thời gian hiện đại đã để lại tặng phẩm này cho một người thời Minh, có thể là người ông ta yêu mến trong chuyến lưu lại của mình ngày trước. Hoặc có thể là ông ta đã ném vật kỷ niệm này từ tương lai vào trong đống bùn khi nó dừng chạy vào lúc 10:06, đúng thời điểm mà chiếc kim đồng hồ chỉ vào bốn thế kỷ sau đó.

(Theo The Epoch Times)

The post Hành trình xuyên thời gian? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/12/hanh-trinh-xuyen-thoi-gian.html/feed0
Thân thể bất hoại của các tu sĩ phương Tâyhttps://chanhkien.org/2010/11/than-the-bat-hoai-cua-cac-tu-si-phuong-tay.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/than-the-bat-hoai-cua-cac-tu-si-phuong-tay.html#respondMon, 22 Nov 2010 18:11:57 +0000https://chanhkien.org/?p=7835Tác giả: Tong Yun Thi hài của Thánh Bernadette ở thành phố Lourdes, được phủ sáp trên gương mặt và bàn tay. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đã phát hiện ra rằng thân thể của bà vẫn không bị hủy hoại sau khi bà qua đời. (Ảnh: Wikimedia Commons)[ChanhKien.org] Nhiều người có thể đã nghe […]

The post Thân thể bất hoại của các tu sĩ phương Tây first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Tong Yun

Thi hài của Thánh Bernadette ở thành phố Lourdes, được phủ sáp trên gương mặt và bàn tay. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đã phát hiện ra rằng thân thể của bà vẫn không bị hủy hoại sau khi bà qua đời. (Ảnh: Wikimedia Commons)[ChanhKien.org] Nhiều người có thể đã nghe qua các câu chuyện về thân thể bất hoại trong giới tu luyện ở Trung Quốc. Chẳng hạn như, có thân thể trần thế của một vị thần tại núi Cửu Hoa, thân thể của Từ Minh hòa thượng tại chùa Địa Tạng, và nhiều trường hợp khác nữa. Tuy vậy, hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc; nó cũng tồn tại trong thế giới phương Tây.

Vị Thánh Thiên Chúa giáo Bernadette Brown từ trần năm 1879. Vào năm 1909, thi hài của bà được đào lên để chôn cất lại tại nơi khác. Hai bác sĩ đã chứng kiến cảnh khai quật. Họ nhìn thấy thi hài vẫn còn trong trạng thái rất tốt. Cách duy nhất mà một nữ tu đã chứng kiến việc chôn cất 30 năm về trước có thể nói sau nhiều năm trôi qua là nhờ vào chiếc quan tài tốt.

Vào tháng 3 năm 2001, thi hài của đức Giáo hoàng John XXIII đã được đào lên vì đức Giáo hoàng tại vị đã quyết định rằng vị Giáo hoàng tiền nhiệm của ông cần một nơi an nghỉ mới để có đủ chỗ cho rất đông người tới viếng mộ của ngài tại khu hầm mộ của Nhà thờ Thánh Peter (St. Peter’s Basilica) ở Rome. Thật đáng kinh ngạc là, mặc dù đức Giáo hoàng John XXIII đã qua đời từ 37 năm về trước, thân thể của ngài vẫn còn trong tình trạng rất tốt.

Đã có nhiều ví dụ trong lịch sử về việc thi thể được đào lên rồi đem chôn lại. Người ta không thể phủ định việc các tài liệu xác nhận rằng có nhiều thân thể bất hoại. Có nhiều ghi chép về những người đã được phong thánh vào thời Trung cổ tại Anh, thi hài của họ không bị mục nát bất chấp nhiệt độ và sự ẩm ướt, trong đó bao gồm Thánh Cuthbert, Werburgh, Waltheof, và Guthlac.

Gần đây cũng có rất nhiều ví dụ. Bà Joan Carroll Cruz, tác giả và cũng là người ở cấp bậc 3 trong Thứ bậc Trần tục của dòng Tu kín (Secular Order of Discalced Carmelites), đã ghi lại chi tiết nhiều trường hợp thân thể bất hoại trong cuốn sách của bà “The Incorruptibles” (Các thân thể bất hoại), được xuất bản năm 1997. Những trường hợp đó bao gồm Thánh Teresa vùng Avila, mà thân thể của bà không hề phân hủy mặc dù bị chôn trong vùng bùn lầy ẩm ướt.

Có thể có người nghĩ rằng sự thật về những ghi chép này khó mà kiểm chứng được. Trên thực tế, hồ sơ ghi chép các sự kiện này là rất đầy đủ và được bảo quản kỹ càng. Nhiều thân thể vẫn còn có thể thấy được ngày nay. Hơn nữa, nhiều nhân viên và người thân đã chứng kiến tận mắt các cuộc khai quật. Loại sự kiện như thế này đã xảy ra trong suốt lịch sử của Cơ Đốc giáo.

Tại sao thân thể của nhiều tu sĩ trong Phật giáo và Cơ Đốc giáo không bị hủy hoại sau khi họ từ trần? Hiện tượng này làm cho khoa học hiện đại đau đầu, nhưng nó lại xảy ra thường xuyên trong giới tu luyện. Theo sự hiểu biết thông thường [trong giới tu luyện], thì khi người tu luyện tinh thần thanh lọc tư tưởng, đề cao đạo đức, và trở về bản tính nguyên thủy của họ, thì thân thể vật chất của họ cũng sẽ chuyển hóa theo.

Tham khảo:

1. http://search.zhengjian.org/zj/articles/2002/6/27/16597.html
2. http://www.forteantimes.com/articles/159_saintspreserved.shtml

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/1399

The post Thân thể bất hoại của các tu sĩ phương Tây first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/than-the-bat-hoai-cua-cac-tu-si-phuong-tay.html/feed0
10 hiện tượng mà giới khoa học không thể giải thíchhttps://chanhkien.org/2010/11/10-hien-tuong-ma-gioi-khoa-hoc-khong-the-giai-thich.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/10-hien-tuong-ma-gioi-khoa-hoc-khong-the-giai-thich.html#respondSat, 20 Nov 2010 14:19:22 +0000https://chanhkien.org/?p=7813Qua sự phát triển và những thành tựu của khoa học hiện đại, nhân loại đã ngày càng tiến tới tin rằng khoa học có khả năng đưa ra giải thích cho mọi thứ tồn tại trên hành tinh và trong vũ trụ của chúng ta. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại rằng mặc dù […]

The post 10 hiện tượng mà giới khoa học không thể giải thích first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>

Nhiều người suýt chết đã kể về những trải nghiệm đi qua một đường hầm vào một nơi có ánh sáng chói lòa. (Ảnh Photos.com)

Qua sự phát triển và những thành tựu của khoa học hiện đại, nhân loại đã ngày càng tiến tới tin rằng khoa học có khả năng đưa ra giải thích cho mọi thứ tồn tại trên hành tinh và trong vũ trụ của chúng ta.

Nhưng chúng ta hãy nhớ lại rằng mặc dù nhiều hiện tượng trên thế giới thực sự có những giải thích khoa học, nhưng không phải tất cả đều có thể được giải thích bằng kiến thức khoa học hiện nay.

Ví dụ, khoa học vẫn chưa thể đưa ra câu trả lời rõ ràng về quá trình mà vũ trụ được hình thành.  Khoa học cũng không thể giải thích được sự hình thành của các tín ngưỡng tôn giáo.  Khi bước vào lĩnh vực siêu tự nhiên, có những hiển hiện bí ẩn vẫn chưa có những giải thích khoa học có vẻ hợp lý bởi vì không thể áp dụng phương pháp khoa học để đo lường hay nghiên cứu những hiện tượng đó.

Chúng ta hãy thử xem xét một số hiện tượng không thể giải thích này và tự nhắc nhở mình rằng bản thân tự nhiên là một kỳ quan và rằng nhiều thứ vẫn còn là những điều bí ẩn.

1. Liệu pháp tinh thần (Placebo Effect)

Liệu pháp tinh thần từ lâu vẫn là một ẩn đố y học động chạm đến ảnh hưởng của tinh thần đối với sức khỏe của thân thể và tác dụng chữa bệnh.  Người ta đã phát hiện ra rằng những bệnh nhân tin là đã được điều trị bằng một loại thuốc có hiệu lực có thể khỏi bệnh ngay cả khi họ chỉ được cho uống các viên thuốc giả bằng đường.  Phát hiện này đã dẫn đến việc nghiên cứu sử dụng việc thử nghiệm ‘mù kép’ để tránh việc sự dự tính của cả những người làm thí nghiệm và những người tham gia ảnh hưởng đến kết quả.

Không may là, qua nhiều năm, hiệu lực và khả năng đo lường được của liệu pháp tinh thần đã bị khoa học coi là không đáng tin cậy.  Điều này có thể là do những hạn chế của phương pháp khoa học.  Tuy nhiên, đã có nhiều trường hợp những người tự khỏi bệnh, nhiều khi thậm chí còn vượt quá cả các phương cách y học hiện có để chữa trị cho thân thể vật lý.

2. Giác quan thứ 6

Năm giác quan nhìn, nghe, nếm, sờ, và ngửi giúp chúng ta khám phá thế giới vật chất của chúng ta.  Còn có giác quan thứ 6, một khả năng cảm nhận nội tại còn được gọi là trực giác.  Từ ‘trực giác’ có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “intueri”, có nghĩa là ‘nhìn vào bên trong.’  Trực giác là khả năng nhận biết và hiểu được mà không cần phải dùng sự suy luận hay phân tích lô-gíc, và tất cả mọi người đều có nó ở các mức độ nhạy bén khác nhau.

Trực giác còn được gọi một cách phổ biến là “linh cảm” hay “trực cảm” (gut feeling), một sự hiểu biết nội tại về một điều gì đó hay một tình huống nào đó mà không cần có sẵn kiến thức về nó.  Theo Cuộc điều tra của PRWeek/Burson-Marsteller CEO năm 2006, 62% các tổng giám đốc (CEO) thường ra các quyết định kinh doanh dựa trên trực giác của mình thay vì dựa vào việc phân tích dữ kiện.

Một nghiên cứu năm 2007 được đăng trên tạp chí Current Biology (Sinh học hiện nay) cũng phát hiện ra rằng những người tham gia, không có thời gian để nhìn mà phải dựa vào trực giác, nhặt ra một hình tượng khác lạ trong số hơn 650 hình tượng giống hệt nhau một cách chính xác hơn so với khi có 1,5 giây để nhìn các hình tượng.

Triết gia Trung Quốc thời cổ Lão Tử đã từng nói rằng, “Sức mạnh của việc hiểu biết theo trực giác sẽ bảo vệ chư vị khỏi bị hại cho đến cuối đời.”  Albert Einstein cũng đã từng nói, “Thứ duy nhất có giá trị thực sự là trực giác.”

Thế nhưng trực giác đến từ đâu?  Các nghiên cứu về bộ não người lưu ý đến tuyến quả thông như là một câu trả lời khả dĩ cho bí ẩn này.  René Descartes (1596–1650), cha đẻ của triết học hiện đại, đã gọi tuyến quả thông là “chỗ ngồi của tâm hồn”.  Tư tưởng phương Đông cổ xưa coi trực giác nằm ở trong khu vực tuyến quả thông và tin rằng nó có thể tiếp nhận sự chiếu sáng từ tâm hồn với hình thức kiến thức hoặc ý tưởng.

3. Trải nghiệm cận tử

Đã có nhiều báo cáo về các trải nghiệm kỳ lạ khác nhau đến với những người gần chết, như đi qua một đường hầm vào một nơi có ánh sáng chói lòa, gặp những người thân yêu, và có một cảm giác êm đềm, thanh thản.

Đáng chú ý nhất là trải nghiệm của Bác sĩ George Rodonaia, mà “trải nghiệm cận tử lâm sàng” của ông năm 1976 là trường hợp được ghi chép đầy đủ nhất từ trước đến nay.  Trải nghiệm này đã biến đổi George Rodonaia, là một người vô thần trước đó và sau đó đã trở thành một linh mục được phong chức trong Nhà thờ Chính thống giáo phương Đông.  Trải nghiệm của ông gợi ý cho chúng ta rằng có một thế giới khác ở phía bên kia thế giới vật chất này của con người.

Mặc dù nhiều người đã thực sự đi qua những trải nghiệm này, khoa học vẫn chưa thể đưa ra một lời giải thích cho hiện tượng trải nghiệm cận tử này.  Một số nhà khoa học cố nói rằng những trải nghiệm cận tử này có thể được giải thích là kết qủa của ảo giác của một bộ não bị thương.  Nhưng không phải trường hợp nào cũng là bị thương não, vì vậy không có giả thuyết khoa học cụ thể nào có thể đưa ra hoặc là các lời giải thích hoặc là lý do tại sao nhiều người lại có những trải nghiệm này và tại sao những trải nghiệm đó lại thường mang tính thay đổi cả cuộc đời của họ.

4. Vật thể bay không xác định

Vật thể bay không xác định (UFO) là một thuật ngữ do Không quân Mỹ đặt ra năm 1952 để phân loại những vật thể mà các chuyên gia không thể xác định được sau khi điều tra.  Trong văn hóa thường thức, khái niệm UFO thường được dùng để nói đến tàu vũ trụ mà những người ngoài hành tinh dùng để bay.

Người ta đã nhìn thấy và ghi chép lại về các UFO ngay từ khi triều đại nhà Tống ở Trung Quốc.  Vào thế kỷ thứ 11, học giả và võ tướng Thẩm Quát (1031-1095) đã viết trong cuốn sách “Mộng khê bút đàm” (The Dream Pool Essays) của mình (1088) về một vật thể bay hình viên ngọc trai có ánh sáng chói lòa ở bên trong và có thể di chuyển với tốc độ đáng kinh ngạc.

Kenneth Arnold, một doanh nhân người Mỹ, báo cáo lại là đã nhìn thấy 9 vật thể phát ra ánh sáng chói đang bay gần Núi Rainier ở bang Washington năm 1947.  Arnold mô tả các vật thể đó có hình đĩa “dẹt như một cái chảo rán bánh”.  Mô tả của ông đã nhận được rất nhiều sự quan tâm chú ý từ phía các phương tiện truyền thông và công chúng.

Kể từ đó trở đi, việc nhìn thấy UFO đã tăng lên theo cấp số nhân. Hiện tượng UFO này đã được cả chính phủ và những điều tra viên độc lập trên toàn thế giới nghiên cứu.  Tiến sĩ Josef Allen Hynek (1910–1986) trước kia làm việc cho Không quân Mỹ để điều tra việc nhìn thấy UFO.  Đầu tiên, Hynek rất phê phán [vấn đề này], nhưng sau khi nghiên cứu hàng trăm báo cáo về UFO trong 3 thập kỷ, ông đã thay đổi quan điểm.

Trong những năm sau đó trong sự nghiệp của mình, Hynek đã trở nên lớn tiếng bày tỏ sự thất vọng của mình với cách quá đơn giản mà theo đó hầu hết các nhà khoa học cân nhắc về UFO – không muốn và không chịu nhượng bộ để thừa nhận điều không thể giải thích được này.

5. Ký ức ảo giác (Déjà Vu)

Déjà Vu, tiếng Pháp có nghĩa là “đã từng nhìn thấy”, một cảm giác thân quen kỳ lạ là đã từng có mặt ở một nơi hay sự kiện nào đó trước kia, khi nó được gặp lần đầu tiên.  Mọi người có thể có cảm giác thân quen rất kỳ lạ về một hình ảnh ở trước mặt cứ như là nó đã từng xảy ra trước kia rồi, nhưng họ vẫn biết rằng đó là lần đầu tiên họ gặp những sự việc đó.  Nghiên cứu sinh lý học thần kinh đã cố gắng giải thích những trải nghiệm đó là sự dị thường của trí nhớ hay một căn bệnh về não, hay là do các hiệu ứng phụ của thuốc.

Một nghiên cứu năm 2008 của nhà tâm lý học Anne Cleary (có tại http://cdp.sagepub.com/content/17/5/353.full) đã tìm hiểu rằng ký ức ảo giác có thể liên quan tới ký ức nhận thức.  Các cách giải thích khác liên hệ ký ức ảo giác với sự tiên tri, ký ức về một đời trước, khả năng nhìn xa, hay dấu hiệu thần bí biểu thị sự hoàn thành một điều kiện đã được định trước trên đường đời.  Bất kể là giải thích như thế nào thì ký ức ảo giác chắc chắn cũng là một hiện tượng phổ biến đối với con người, và nguyên nhân căn bản của nó vẫn là một điều bí ẩn.

6. Ma quỷ

Việc nhắc đến ma quỷ trong các tác phẩm văn học kinh điển của các tác giả như Homer và Dante gợi ý rằng sự trải nghiệm của con người với những hiện tượng dị thường là chuyện thường thấy và đã xảy ra từ lâu đến bây giờ.  Hiện nay, những nơi có ma như ngôi nhà Whaley House ở San Diego đã được liệt kê như những địa điểm thu hút khách du lịch, và những tuyên bố đã nhìn thấy ma quỷ không phải là điều gì bất thường cả.

Văn hóa thường thức đầy rẫy những phim ảnh về ma quỷ, thế nhưng khoa học truyền thống lại lánh xa khỏi việc giải thích các hiện tượng đó.  Chỉ những nhà điều tra được đặt ở rìa của giới khoa học mới nỗ lực đo lường tính xác thực của những hiện tượng đó.

Sự tồn tại của ma quỷ có sự liên hệ mật thiết với các không gian ở phía bên kia thế giới vật chất của chúng ta và sự tiếp tục của phần hồn con người sau khi chết.  Các nhà điều tra nghiên cứu về chủ đề này hy vọng rằng một ngày nào đó điều bí ẩn này sẽ được giải quyết.

7. Những vụ mất tích không giải thích được

Có rất nhiều trường hợp kỳ lạ trong đó có những người đã mất tích không còn một dấu vết nào.

Ví dụ như, vào năm 1937, phi công Amelia Earhart và hoa tiêu Frederick Noonan đã biến mất cùng với chiếc máy bay Lockheed mà họ đang điều khiển.  Họ đang tiến đến gần Đảo Howland ở Thái Bình Dương khi chiếc xuồng ca-nô Itasca của lực lượng phòng vệ bờ biển Mỹ nhận được thông điệp của họ rằng họ đang sắp hết nhiên liệu.  Nhưng việc liên lạc tiếp theo đó đã gặp khó khăn, và xuồng Itasca đã không thể xác định được vị trí của chiếc máy bay Lockheed đó.

Không lâu sau khi Earhart và Noonan gửi đi thông điệp rằng họ chỉ còn lại nhiên liệu đủ cho một nửa giờ bay mà vẫn chưa thể nhìn thấy đất liền, thì việc liên lạc đã bị mất.  Họ chỉ có thể là đã hạ cánh xuống mặt biển, nhưng sau nhiều năm tìm kiếm, người ta vẫn chưa tìm thấy cả hai người bay lẫn chiếc Lockheed trong đại dương.

Trong những trường hợp như thế này, bất chấp nhiều nỗ lực của các cơ quan điều tra khác nhau sử dụng các kỹ thuật khoa học hiện đại nhất của họ, chúng ta vẫn thất bại không thể tìm ra các câu trả lời cụ thể cho việc điều gì đã xảy ra với những người đã biến mất một cách bí ẩn như vậy.

8. Tam giác quỷ Bermuda

Tam giác quỷ Bermuda – một khu vực trên Đại Tây Dương giữa Bermuda, Miami, và San Juan, Puerto Rico, nơi các tàu thuyền và máy bay vẫn tiếp tục biến mất – là một trong những điều bí ẩn nhất hiện nay trên hành tinh của chúng ta.

Những người sống sót đã kể lại các câu chuyện về sự thay đổi thời gian, các thiết bị định hướng không hoạt động, các quả cầu ánh sáng đến từ trên trời, sự thay đổi lớn và đột ngột về thời tiết, và những bức tường sương mù không thể lý giải được xuất hiện như Frank Flynn đã mô tả năm 1956.  Ông mô tả sương mù đó như một “khối chưa từng biết đến”, rút mất lực của động cơ sau khi tàu của ông xuyên qua nó.

Bruce Gernon Jr. đã gặp phải một loại sương mù năm 1970 bao bọc máy bay của ông và biến thành một thứ gì đó như là của thế giới bên kia.  Sau nhiều năm, các nhà khoa học đã cố gắng lật tẩy điều bí ẩn của tam giác quỷ Bermuda bằng cách nói rằng không có điều bí ẩn nào cả.  Nhưng những người đã trực tiếp trải qua những hiện tượng kỳ lạ đó và vẫn còn sống để kể về nó đã tuyên bố nhấn mạnh rằng có những điều xảy ra trên biển trời tam giác quỷ Bermuda vượt quá khả năng hiểu được theo lô-gíc thông thường.

9. Bàn chân khổng lồ (Bigfoot)

Bàn chân khổng lồ (Bigfoot) là một trong những sinh vật huyền thoại nhất trong nghiên cứu các động vật bí ẩn.  Bigfoot, hay Sasquatch như được gọi ở miền Tây-bắc Thái Bình Dương thuộc khu vực Bắc Mỹ, cũng được biết đến với cái tên Yeti hay Người tuyết rất xấu ở khu vực dãy núi Himalaya của Nepal và Tây Tạng, và với cái tên Yowie ở Australia.

Vào năm 1951, người leo núi có tên là Eric Shipton đã chụp được ảnh của một dấu chân khổng lồ trên dãy núi Himalaya.  Bức ảnh đã làm chấn động thế giới và khiến câu chuyện về Bigfoot trở nên phổ biến.  Vào năm 1967, Roger Patterson và Robert Gimlin đã quay được một đoạn phim về cái mà họ nói là Bigfoot.  Đoạn phim nổi tiếng thế giới của họ đã trở thành đối tượng của nhiều nỗ lực nhằm xác thực cũng như lật tẩy nó.

Nhà nhân chủng học Grover Krantz đã xem xét kỹ đoạn phim của Patterson và Gimlin và kết luận rằng đó là một đoạn phim chân chính về một sinh vật hai chân rất to lớn chưa được biết đến.  Tuy nhiên, do thiếu các bằng chứng vật lý đủ mạnh về Bigfoot, khoa học truyền thống vẫn không chấp nhận sự tuyên bố tồn tại của nó.  Nhưng điều thần bí này vẫn tiếp tục tồn tại vì vẫn có những báo cáo về việc nhìn thấy chúng ở trên toàn thế giới.

10. Tiếng kêu rền (The Hum)

Hiện tượng tiếng ồn kêu rền liên tục có tần số thấp đã được báo cáo ở nhiều nơi trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, Anh, và Bắc Âu.  Âm thanh này, mà không phải tất cả mọi người đều có thể nghe thấy, được đơn thuần biết đến như “The Hum” hay với những cái tên địa phương nơi người ta nghe thấy nó, như Taos Hum (New Mexico), Kokomo Hum (Indiana), Bristol Hum (Anh), và Largs Hum (Canada).

Đối với những người có thể nhận thức được nó, âm thanh này thường được mô tả như tiếng kêu ầm ầm của một động cơ diesel ở xa.  Nó đã làm cho một số người cực kỳ khó chịu, với những hiệu ứng phụ có hại cho thân thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ.

Các cơ quan chính phủ trên toàn thế giới đã điều tra về nguồn gốc của những tiếng kêu rền này.  Ở Mỹ, những cuộc điều tra sớm nhất bắt đầu vào những năm 1960.  Vào năm 2003, Bộ Môi trường, Lương thực và Nông thôn của Anh đã xuất bản một báo cáo phân tích những tiếng ồn có tần số thấp này và ảnh hưởng của nó đối với những người phàn nàn về hiện tượng này.  Tuy nhiên, các kết quả cuối cùng chỉ ra nguồn gốc của những tiếng ồn đó mang tính lảng tránh, và hiện tượng những tiếng ồn này vẫn còn là một điều bí ẩn.

(Theo The Epoch Times)

The post 10 hiện tượng mà giới khoa học không thể giải thích first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/10-hien-tuong-ma-gioi-khoa-hoc-khong-the-giai-thich.html/feed0
Bí ẩn về loài rồnghttps://chanhkien.org/2010/11/bi-an-ve-loai-rong.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/bi-an-ve-loai-rong.html#respondFri, 12 Nov 2010 15:51:35 +0000https://chanhkien.org/?p=7752[ChanhKien.org] Rồng đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của văn hoá cổ truyền Trung Hoa, và đã trở thành biểu tượng tinh thần mạnh mẽ cho người Trung Quốc. Rồng có thực sự tồn tại không? Các sách lịch sử của Trung Quốc đã ghi chép nhiều trường hợp tận mắt chứng kiến sự […]

The post Bí ẩn về loài rồng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[ChanhKien.org]

Rồng đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của văn hoá cổ truyền Trung Hoa, và đã trở thành biểu tượng tinh thần mạnh mẽ cho người Trung Quốc. Rồng có thực sự tồn tại không? Các sách lịch sử của Trung Quốc đã ghi chép nhiều trường hợp tận mắt chứng kiến sự xuất hiện của rồng, điều đó thật hấp dẫn để kiểm tra lại xem rồng có thực sự tồn tại hay không.

Phần tạp ký của “Ký sự về Huyện Nghĩa” từ triều đại nhà Thanh viết như sau: “Vào năm 1503 sau Công Nguyên [Triều Minh, năm Hồng Di thứ 16], 5 con rồng đã bay lượn trên không trung khoảng 10 lý [3 dặm] phía bắc cổng thành của huyện Nghĩa, tỉnh Hà Nam. Sau một lúc lâu ở trên cao, chúng rơi xuống đất, và không thể bay lên lại được nữa.

“Mây kéo đến đầy trời và biển bắt đầu nổi sóng. Một vị Thần trong trang phục màu xanh lá cây từ trên trời đáp xuống và ngay lập tức được vây quanh bởi những con rồng đã rớt xuống. Một lúc sau, mây tản hết và biển trở nên yên tĩnh. Năm con rồng vẫn chưa thể bay đi. Bấy giờ, một vị thần màu xanh lá cây khác hạ xuống, và những con rồng bò quanh ông ta. Đột nhiên bầu trời trở nên tối mịt. Những đám mây lớn và sương mù dày đặc xuất hiện trở lại. Cuối cùng khi bầu trời sáng trở lại, các vị thần và năm con rồng đã bay đi mất.

Phần Những hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy trong “Ký sự về thiên triều Gia Tĩnh”, cũng kể một câu chuyện tương tự: “Vào tháng 9 năm 1588 sau Công nguyên, một con rồng trắng đã được phát hiện trên hồ Bình thuộc huyện Bình Hồ, tỉnh Triết Giang. Nó đã bay lượn trên mặt hồ, chiếu sáng một nửa bầu trời với ánh sáng đỏ.

“Người chứng kiến là Shen Maoxiao, một vị quan chép sử cho triều đình, đã nhìn thấy một vị Thần với trang phục màu tím và một vương miện bằng vàng, cao hơn 30 mét, đứng giữa những cái sừng của con rồng. Vị thần này cầm một vật có hình cây kiếm. Một quả cầu ánh sáng to cỡ một cái đấu [một dụng cụ đo lường hình thang ở Trung Quốc] xuất hiện bên dưới đầu của con rồng.”

Phần Những hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy trong “Ký sự về thiên triều Tống Giang” đã ghi chép một sự việc được chứng kiến xảy ra 20 năm sau sự kiện con rồng trắng được trông thấy ở huyện Bình Hồ. Vào tháng 7 năm 1608 sau Công nguyên, một con rồng trắng giống như con rồng xuất hiện trên hồ Bình đã được nhìn thấy trên sông Hoàng Phố ở huyện Tống Giang, Thượng Hải. Cũng có môt vị Thần đứng trên đầu con rồng.

Phần Ngũ Hành trong “Ký sự về triều Hậu Hán” sau này được trích dẫn trong phần Hiện tượng Kỳ lạ của ‘Ký sự về huyện Lạc Dương”, đã ghi chép một trường hợp nhìn thấy rồng trong hoàng cung. Lưu Hồng, Hoàng đế của triều Đông Hán, có kinh thành nằm gần thành phố Lạc Dương ngày nay thuộc tỉnh Hà Nam; cung điện Văn Minh có thể là nơi ông đã cư ngụ.

Vào ngày 1 tháng 7 năm 178 sau Công nguyên, một vật đen khổng lồ rơi từ trên trời xuống sân phía đông của cung điện Văn Minh. Vật thể có hình tròn và giống như mái che của xe ngựa ngày xưa. Nó dài 20 mét, và lướt đi nhanh chóng, phát ra ánh sáng nhiều màu sắc. Vật thể này có một cái đầu, nhưng không có chân và đuôi, Nó trông giống một con rồng, nhưng có thể là không phải.

Phần Ngũ Hành trong “Biên sử của triều Nguyên” viết như sau: “Vào tháng 7 năm Chí Nguyên thứ 27 [tháng 8 năm 1290 sau Công nguyên], có một con rồng xuất hiện gần núi Long Sơn ở huyện Lâm Tùng, tỉnh Sơn Đông. Con rồng có khả năng làm cho một tảng đá lớn nặng nửa tấn lơ lửng trên không trung.”

Vào năm Cát An thứ 24 thuộc triều Đông Hán (219 sau Công nguyên), một con rồng vàng xuất hiện trên sông Trì Thủy thuộc thành phố Vũ Dương, và ở đó trong suốt 9 ngày trước khi rời đi. Một đền thờ được xây dựng và một bia đá được dựng lên trong đền thờ để ghi danh sự xuất hiện của con rồng.

Vào tháng 4, năm Vĩnh Hà thứ nhất, triều Đông Tấn (345 sau Công nguyên), hai con rồng, một trắng và một đen, xuất hiện ở núi Long Sơn (dịch theo nghĩa đen là “núi Rồng”). Mộ Dung, Hoàng đế nước Yên, đã dẫn các quan trong triều lên ngọn núi này và tổ chức một lễ tế cách chỗ hai con rồng 200 thước.

Các sách lịch sử địa phương từ triều Minh và triều Thanh cũng có chép những trường hợp nhìn thấy rồng. Theo “Ký sự về thiên triều Lâm An”, năm Sùng Trinh thứ 4 (1631 sau Công nguyên), một con rồng lớn đã được nhìn thấy trên hồ Kỳ Long (nghĩa là “hồ Rồng kỳ lạ”), phía đông nam huyện Thạch Bình, tỉnh Vân Nam.

Bản ghi chép đã viết: “Râu, chân, và vảy của con rồng nổi trên mặt nước, và con rồng dài khoảng vài chục mét”. Con rồng này có thể đã xuất hiện nhiều hơn một lần ở núi Long Sơn (núi Rồng) và hồ Kỳ Long (hồ Rồng kỳ lạ), do đó điều này giải thích cho việc đặt tên cho những địa danh này.

“Ký sự bổ sung của triều Đường” đã ghi chép rằng vào một ngày trong năm trị vì cuối cùng của Hoàng đế Hàm Thông, một con rồng đen đã rơi xuống mặt đất trong vùng lãnh thổ của huyện Thông Thành, và chết ở đó vì một vết thương trên cổ. Chiều dài đầy đủ của con rồng đo được là 30 mét, một nửa số đó là đuôi.

Cái đuôi có hình phẳng. Vảy của nó như vảy cá. Trên đầu có 2 cái sừng. Râu của nó mọc bên cạnh miệng dài khoảng 6m. Chân của nó, mọc ra từ dưới bụng, có một lớp màng màu đỏ che phủ.

“Thất Kinh Thư” của Long Anh chép rằng vào một ngày trong năm trị vì cuối cùng của hoàng đế Thành Hóa, triều Minh, một con rồng đã rơi xuống trên bãi biển huyện Tân Thủy, tỉnh Quảng Đông. Nó đã bị những người dân chài địa phương đánh chết. Con rồng cao như một người lớn, và dài hàng chục mét. Nó trông rất giống con rồng trong những bức tranh cổ chỉ trừ cái bụng của nó màu đỏ.

Một con rồng đã chết được tìm thấy bên bờ hồ Thái Bạch vào năm Thiếu Hưng thứ 32, triều Nam Tống (1162 sau Công nguyên). Nó có râu dài và những cái vảy rất lớn. Cái lưng màu đen và cái bụng màu trắng. Những cái vây mọc ra từ lưng, và hai cái sừng thò ra từ đầu. Nó bốc mùi xa hàng dặm.

Những người địa phương đã phủ nó lại bằng một tấm chiếu. Quan lại đã cho người đến làm lễ cúng tế tại đó. Tuy nhiên, sau một đêm sấm sét dữ dội, con rồng đã biến mất. Chỉ còn lại một cái mương nơi nó đã nằm.

“Biên sử về Thiên triều Vĩnh Bình” chép rằng, vào mùa hè năm Đạo Quang thứ 19 (1839 sau Công nguyên), một con rồng đã rớt từ trên trời xuống vùng hạ lưu sông Luân Hà, ở huyện Lao Đình. Con rồng nằm quay đơ, ruồi bọ vây quanh. Người dân địa phương làm một cái mái che để bảo vệ nó khỏi nắng, và phun nước lên người nó. Ba ngày sau, sau một đêm giông bão, con rồng đã bay đi.

Những trường hợp chứng kiến thời hiện đại

Nhiều sự kiện trong thế kỷ trước cũng được cho là những trường hợp nhìn thấy rồng.

Vào tháng 8 năm 1944, hàng trăm người từ làng Chenjiayuanzi, huyện Phù Du, phía bắc của sông Tùng Hòa Giang đã vây quanh một con vật màu đen nằm trên bờ sông. Yen Dianyuan, một nhân chứng, đã kể rằng con rồng dài chừng 7 mét và trông giống một con thằn lằn. Mặt của nó giống hệt như mặt của con rồng được vẽ trong các bức tranh cổ, với bảy hoặc tám cái râu dày và cứng. Thân trên có đường kính khoảng một phần ba mét. Bốn cái chân của nó bị lún sâu vào cát. Lớp vảy như vảy cá sấu phủ đầy thân nó.

Vào mùa hè năm 1953, một con vật chưa được xác định đã rớt từ trên trời xuống một nơi gần phía nam tỉnh Hà Nam. Theo miêu tả của một số nhân chứng, con vật trông giống một con cá mập khổng lồ. Mùi thối rữa của nó thu hút vô số ruồi nhặng. Nếu nó là một con cá mập, nó phải sống dưới vùng biển sâu. Tại sao nó lại rớt từ trên trời xuống? Trường hợp này có thể liên quan đến những con rồng rơi xuống từ bầu trời được ghi chép trong lịch sử.

Vào ngày 4 tháng 8 năm 2000, một trận mưa như trút nước xuống làng Hắc Sơn Tử, Trung Quốc, và sau đó ngôi làng được bao phủ bởi một làn hơi nước nóng. Đột nhiên, những đám mây dày từ bầu trời sà xuống và cuộn dọc trên mặt đất. Người dân trong làng vô cùng hoảng sợ, vì họ chưa bao giờ thấy một loại thời tiết như vậy trước đó. Họ ở yên trong nhà và tất cửa ra vào và cửa sổ đều đóng kín.

Có một chàng trai trẻ đã bước ra ngoài xem chuyện gì đang xảy ra. Chẳng mấy chốc anh ta đã ở ngoài rìa làng, và đột nhiên anh ta kinh ngạc vì nhìn thấy cảnh tượng hai con vật trông giống rồng, một con màu đen và một con màu trắng, nằm trên mặt đất trước mặt anh ta. Anh thấy rằng, những cái sừng, những cái vảy, những cái chân, và đuôi của hai con vật giống hệt với những con rồng trong các bức tranh truyền thống ngoại trừ râu của nó ngắn hơn. Anh ta quay đầu chạy về làng nhanh hết mức có thể, và la lên: “Đi xem rồng bà con ơi, đi xem những con rồng từ trên trời rơi xuống!”

Tin tức nhanh chóng lan rộng khắp vùng. Cảnh sát, các quan chức, các vị học giả đều đến ngôi làng Hắc Sơn Tử để điều tra. Cảnh sát bắt đầu giải tán đám đông, để lại một vài người canh chừng hai con rồng.

Sau đó, một trận gió mạnh cuốn những đám mây đen cuộn lên cuộn xuống. Khi nó đi qua, con rồng màu trắng đã biến mất khỏi những đôi mắt chăm chú nhìn của mấy người bảo vệ. Các quan chức không thể giải thích sự biến mất đó, và họ đều thấy chán nản về con rồng màu đen vẫn nằm ở trên mặt đất.

Một nông dân nói: “Tôi từng nghe điều tương tự thế này đã xảy ra nhiều năm trước, và người ta tưới nước cho con rồng để cho nó về nhà.” Ông đã sai một vài người trẻ tuổi trong làng lấy chiếu và dựng một mái che cho con vật đó. Rồi họ chở nước bằng xe cút kit, phun nước lên chiếu để nước có thể chảy xuống lưng nó. Cho đến tháng 12 năm 2000, con vật vẫn còn sống.

Khi trời bắt đầu tối vào lúc 6 giờ chiều ngày 18 tháng 9 năm 2000, ở thành phố Vụ Tùng, tỉnh Cát Lâm, một chùm ánh sáng kỳ lạ đã phóng ra từ vùng trời phía tây bắc của thành phố, và nó trở nên sáng hơn và nhiều màu sắc. Sau đó, một sinh vật trông giống rồng đã xuất hiện. Miệng, râu, chân, và vảy của nó đều có thể được nhìn thấy rõ ràng. Con rồng hiện hình khoảng 20 phút. Cuối cùng, ánh sáng mờ dần thành đỏ thẫm trước khi nó từ từ biến mất.

Rồng có phải chỉ là những điều tưởng tượng trong thế giới tâm linh, hay chúng thực sự hiện hữu vật chất? Đó vẫn là một điều bí ẩn đối với chúng ta ngày nay.

(Theo The Epoch Times)

The post Bí ẩn về loài rồng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/bi-an-ve-loai-rong.html/feed0
Tỷ lệ thần thánh: Mật mã chưa có lời giảihttps://chanhkien.org/2010/11/ty-le-than-thanh-mat-ma-chua-co-loi-giai.htmlhttps://chanhkien.org/2010/11/ty-le-than-thanh-mat-ma-chua-co-loi-giai.html#respondTue, 09 Nov 2010 16:47:36 +0000https://chanhkien.org/?p=7738Tác giả: Leonardo Vintiñi Vạn vật muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ dường như không tuân theo một trật tự nào; nhưng đằng sau sự phong phú đa dạng đó vẫn tồn tại một nguyên tắc chung cho tất cả. “Hai phát hiện vĩ đại nhất của hình học, một là định lý Py-ta-go, […]

The post Tỷ lệ thần thánh: Mật mã chưa có lời giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Leonardo Vintiñi

Tỉ lệ vàng (Nguồn hình: Chánh Kiến sưu tầm và thiết kế)

Vạn vật muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ dường như không tuân theo một trật tự nào; nhưng đằng sau sự phong phú đa dạng đó vẫn tồn tại một nguyên tắc chung cho tất cả.

TỶ LỆ VÀNG : Tỷ lệ vàng là chuẩn mực cho mọi thiết kế hoàn hảo nhất, từ đền Panthenon, Hy Lạp tới hình dáng vỏ ốc Anh Vũ, song các nhà khoa học vẫn chưa hiểu tại sao tỷ lệ này đều xuất hiện ở hầu như khắp thế giới tự nhiên. (Ảnh: Photos.com)

“Hai phát hiện vĩ đại nhất của hình học, một là định lý Py-ta-go, và hai là tỷ lệ vàng – một thứ có thể so sánh là quý như vàng, còn thứ kia có giá trị như một viên ngọc quý” – Kepler.

Tờ báo mà bạn đang đọc, màn hình vi tính, thẻ tín dụng, cánh hoa, lá cây, toà nhà cao ốc – tất cả mọi thứ đều được tạo lập dựa trên một nguyên tắc, một tỷ lệ, một giá trị cân đối. Dường như vũ trụ đang tiết lộ với chúng ta về một mật mã ẩn chứa trong mọi khía cạnh của tự nhiên –  một mật mã độc đáo và mang đầy tính nghệ thuật: đó là con số vàng – một tỉ lệ hoàn hảo.

Vạn vật muôn hình muôn vẻ trong vũ trụ dường như không tuân theo một trật tự nào; nhưng ẩn giấu đằng sau sự phong phú đa dạng đó, vẫn tồn tại một nguyên tắc chung cho tất cả. Từ thời của Py-ta-go, điểm mấu chốt của trật tự này đã thu hút rất nhiều nhà toán học và nhiều học giả ở các lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên cho đến nay chưa một ai hiểu một cách toàn diện về vấn đề này.

Trong một cuộc thực nghiệm gần đây nghiên cứu một số cá thể từ các dân tộc khác nhau đã cho thấy rằng: trong số những số đo khác nhau của hình chữ nhật, thì hầu hết mọi người đều đồng ý với một con số cân đối nhất. Con số hoàn hảo nhất được hình thành khi tỷ lệ giữa cạnh lớn hơn với cạnh nhỏ hơn xấp xỉ 1,618 – trong toán học con số này được gọi là “vàng”. Tỷ lệ các cạnh hình chữ nhật này có mặt trong hàng ngàn công trình kiến trúc trên khắp thế giới, cũng như là trong các hộp diêm, danh thiếp, những cuốn sách, và hàng trăm vật dụng hàng ngày khác, đơn giản bởi vì con người cảm thấy nó phù hợp. Kim tự tháp Giza, kim tự tháp Cheops, trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York, và nhà thờ Đức Bà là những dẫn chứng điển hình cho việc ứng dụng tỷ lệ vàng. Trên thực tế, đền thờ Panthenon có rất nhiều chi tiết ứng dụng tỷ lệ này.

Qua nhiều thế kỷ, cái đẹp tuyệt đối của nghệ thuật và trí thông minh con người (ngoại trừ một số xu hướng đương đại) chưa bao giờ chệch quá xa khỏi tỷ lệ này.

Rất nhiều hoạ sĩ thời kỳ Phục Hưng đã ứng dụng một cách hợp lý tỷ lệ này trong các tác phẩm của mình, đặc biệt là Leonardo da Vinci, ông đã ứng dụng tỷ lệ này trong những tác phẩm trứ danh của mình, như là “Bữa tiệc cuối cùng”, hay “ Người xứ Vitruvian”.

Cả âm nhạc cũng không phải ngoại lệ của mật mã bí ẩn này. Nhà soạn nhạc người Mexico Silvestre Revueltas đã sử dụng tỷ lệ này để sắp xếp các phần trong tác phẩm Alcancías.

Nhà soạn nhạc Béla Bartók và Olivier Messiaen cũng đã lưu ý đến dãy số Fibonacci (dãy số tuân theo tỷ lệ vàng) trong một số tác phẩm của họ để quyết định xem nốt nhạc nên ngân dài trong bao lâu.

Vì kiến trúc, nghệ thuật, âm nhạc, và một số phát minh khác đều là những nỗ lực phi thường của con người, nên một số người kết luận rằng tỷ lệ vàng cũng chỉ là một ý kiến chung ngẫu nhiên của con người mà thôi. Nhưng nếu thế thì vẫn không thể giải thích được tại sao vô số những thực thể hữu cơ lẫn vô cơ tìm thấy trong tự nhiên lặp đi lặp lại cái tỷ lệ đặc biệt trên.

Các thí dụ từ hình chữ nhật cho tới hình xoắn ốc tuân theo tỷ lệ vàng (hình tạo thành bằng cách nối các đỉnh của các hình chữ nhật vẽ theo tỷ lệ vàng đặt chồng lên nhau) có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi: sừng của con cừu, khoáng vật, xoáy nước, cơn lốc, vân tay, cánh hoa hồng, những đài hoa đồng tâm của cây súp-lơ hay hoa hướng dương, chim muông, côn trùng, cá, dải ngân hà, hay một số dải thiên hà khác như dải M51 ngay cạnh dải ngân hà của chúng ta… thậm chí cả con ốc sên. Một con ốc thật đẹp và thật hoàn hảo như ốc Anh Vũ chắc chắn phải có sự kết hợp thật tài tình với tỷ lệ vàng. Rất nhiều loài cây cũng thể hiện mối liên hệ với tỷ lệ vàng trong độ dày giữa giữa cành thấp với cành cao.

Vẻ đẹp của cơ thể con người cũng có liên quan tới số Phi (con số vàng). Thương của phép chia chiều cao từ đầu tới chân với khoảng cách từ rốn tới chân gần bằng 1.618, thể hiện sự hài hoà cân đối của cơ thể. Chúng ta cũng có thể tìm ra kết quả tương tự trong tỷ lệ của chiều dài cái đầu với khoảng cách từ mắt tới cằm; hay tỷ lệ của khoảng cách từ mũi tới cằm trên khoảng cách từ môi tới cằm. Những tỷ lệ của gương mặt càng tiến gần tới tỷ lệ này thì gương mặt càng hài hoà cân đối. Mặc dù có một vài ý kiến trái ngược nhưng rõ ràng là sở thích của chúng ta dường như đã được định sẵn.

Con số Phi cũng rắc rối phức tạp giống như người anh em của nó – số Pi (tỷ lệ giữa chu vi đường tròn và bán kính của nó). Hiện nay, nó đã được tính chính xác tới hơn một nghìn tỷ chữ số thập phân, nhưng vẫn còn có thể tiếp tục tính được nhiều hơn thế.

Nguyên nhân tiềm ẩn đằng sau con số chi phối sự cân đối hài hoà và vẻ đẹp này là gì, điều này đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học trong hàng thế kỷ qua. Cho đến ngày nay nó vẫn tiếp tục là một điều bí ẩn.

Làm thế nào mà một cái hình xoắn ốc lại có thể là một yếu tố phổ biến trong cơ thể sinh vật, vốn được cho là phát triển một cách hoàn toàn không thể đoán trước và không xác định? Trên một số phương diện nào đó thì liệu nó có liên quan gì đến chuỗi DNA? Hơn nữa, trong một chu kỳ hoàn chỉnh của chuỗi xoắn kép, mối liên hệ giữa hai chuỗi đơn này không gì khác hơn chính là tỷ lệ Phi sao?

Bởi đó chính là yếu tố tồn tại phổ biến ở các dạng sinh vật sống – tựa như nốt nhạc ngân nga của vũ trụ – nên cũng không mấy bất ngờ nếu tỷ lệ tuyệt diệu này cũng phù hợp và cân đối với chúng ta, vì chúng ta cũng có nguồn gốc từ vũ trụ.

(Theo The Epoch Times)

The post Tỷ lệ thần thánh: Mật mã chưa có lời giải first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/11/ty-le-than-thanh-mat-ma-chua-co-loi-giai.html/feed0
‘Tri giác nguyên sinh’- Đời sống bí mật của cây cối (Phần 2)https://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-2.htmlhttps://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-2.html#respondSat, 30 Oct 2010 13:27:40 +0000https://chanhkien.org/?p=7498Tác giả: Ben Bendig Cuộc phỏng vấn Cleve Backster và xem xét công trình khai thủy của ông về tri giác nguyên sinh Cleve Backster đã cho xuất bản một cuốn sách mang tên “Tri giác nguyên sinh: Giao tiếp sinh học với cây cối, thức ăn tươi sống và tế bào con người” vào […]

The post ‘Tri giác nguyên sinh’- Đời sống bí mật của cây cối (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ben Bendig

Cuộc phỏng vấn Cleve Backster và xem xét công trình khai thủy của ông về tri giác nguyên sinh

Cleve Backster tại phòng thí nghiệm của ông ở San Diego, nơi ông nghiên cứu về tri giác nguyên sinh. (Ảnh do Cleve Backster cung cấp)

Cleve Backster đã cho xuất bản một cuốn sách mang tên “Tri giác nguyên sinh: Giao tiếp sinh học với cây cối, thức ăn tươi sống và tế bào con người” vào năm 2003, tổng hợp nghiên cứu đầu tiên mà ông tự mình biên soạn. Trong đó, ông miêu tả chi tiết tất cả những thứ mà ông quan sát, từ cây cối, vi khuẩn, trứng, cho tới các tế bào động vật như máu từ thịt bò, đến các tế bào cơ thể người.

“Có rất nhiều mối liên hệ ở đây, nó khiến tôi ngạc nhiên rằng người ta không nổi điên lên trong giới khoa học,” ông vừa nói vừa cười.

Ông đã đối mặt với hàng thập kỷ của những phản ứng lạnh nhạt từ giới học thuật, bất chấp việc diễn thuyết những bằng chứng của mình tại rất nhiều hội thảo và rất nhiều nhà khoa học trên thế giới đã kiểm nghiệm lại kết quả của ông. Ông vẫn không bị mất tinh thần, ông là một người đàn ông đã bị thuyết phục rằng ông đã tìm ra một điều gì đó rất quan trọng, và sẽ không để sự yếu kém trong khả năng tiếp thu những điều mới của con người khiến ông trở nên ngớ ngẩn trước mọi người.

“Tất cả những điều tôi nói trong cuốn sách đều là sự thật,” ông cười khúc khích. “Tôi đã rất cẩn thận về điều đó, rằng bất kỳ thứ gì trong cuốn sách đó đều dựa trên thực tế. Tôi không muốn người ta phát hiện một chút chi tiết nào không chính xác và sau đó nói rằng, phần còn lại trong công trình của ông là không chính xác.”

Ông cũng dùng phương pháp tương tự khi nói đến những lý do vì sao hiện tượng này tồn tại. Không đưa ra lý thuyết có thể bị sai, ông hy vọng tránh được cảnh tượng người ta sẽ từ chối những số liệu và nghiên cứu của ông.

Giải thích về điện thế trong vật lý

Mặc dù Backster không xuất bản những nghiên cứu liên quan tới lời giải thích cho tri giác nguyên sinh, một trong những manh mối đầy hứa hẹn để hiểu được sự nhận thức sơ cấp dựa trên những thuyết đã có sẵn liên quan một hiện tượng trong vật lý lượng tử gọi là ‘bất định vị’.

Hiện tượng bất định vị được vật lý lượng tử dự đoán và Anh-xtanh gọi là “một hành động ma quỷ ở một khoảng cách”, một khái niệm rằng các hạt bằng cách nào đó có thể liên kết với nhau qua không gian.

Các thí nghiệm đã chứng tỏ rằng khi một cặp photon (lượng tử ánh sáng) thoát ra khỏi một nguyên tử bị kích thích, khi các nhà thí nghiệm thay đổi cực của một photon (bằng cách cho nó đi qua một tấm lọc), cực của photon kia cũng bị ảnh hưởng, và sự thay đổi diễn ra trong khoảng thời gian ngắn hơn khoảng thời gian để ánh sáng truyền từ hạt này sang hạt kia.

Khi các photon cho thấy mối liên hệ này, chúng được cho là bị vướng vào nhau. Vì thế, người ta đặt ra câu hỏi liệu hiện tượng bất định vị này truyền được bao xa? Liệu có phải nó chỉ xuất hiện ở các hạt nhỏ, hay các hệ thống lớn hơn cũng có thể bị vướng vào nhau như thế? Và nếu các dạng sống bị vướng vào nhau, chúng sẽ như thế nào?

Nếu hiện tượng bất định vị vươn tới tầng của sự sống và tinh thần, vậy thì cái được gọi là ‘tri giác nguyên sinh’ có thể là minh chứng cho chính điều này: những phát hiện của Backster cho thấy một dấu hiệu có thể xuất hiện mà không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách hay vật liệu chắn các sóng điện từ.

Sự đón nhận

Mặc dù có một sự hứng thú rất phổ biến với những kết quả nghiên cứu của Backster trong những năm 1970, cộng đồng khoa học vẫn không mặn mà lắm với ý tưởng này. Một lý do bề ngoài là nỗ lực bất thành nhằm tái hiện thí nghiệm được công bố lần đầu tiên của Backster bởi một nhóm các nhà khoa học khác, điều sau đó được xuất bản trong tạp chí nổi tiếng Science vào năm 1975.

Tuy nhiên, theo những gì Backster viết trong sách của ông, các nhà khoa học (và những người khác đã thử nghiệm nhưng thất bại) đã không quan sát hết tất cả các điều kiện khoa học thích hợp.

Một điều kiện đặc biệt quan trọng rất cần thiết mà Backster đã phát hiện ra là người ta không thể thấy được kết quả từ thực vật (hay bất cứ thứ gì khác người ta đang quan sát) khi nó đang xảy ra, có nghĩa là quan sát nó trong quá trình sẽ cản trở các phản ứng.

Với một hiện tượng bất thường như tri giác nguyên sinh, không quan sát hết tất cả cá điều kiện mà người thí nghiệm ban đầu đặt ra là bắt buộc để suy luận ra ảnh hưởng của sự cẩu thả trong khoa học.

Tuy nhiên, khả năng nhìn vào kết quả có thể ảnh hưởng tới kết quả không có lý trong khuôn mẫu khoa học hiện đại, vì thế những người thực hiện thí nghiệm tương tự không nghĩ rằng những điều kiện như vậy sẽ tạo ra sự khác biệt.

Người ta nói rằng các nhà thực vật học thường đặc biệt bảo thủ, và một số nhà khoa học nổi tiếng hiện nay bác bỏ khả năng thực vật có thể biểu lộ bất kỳ hoạt động điện tích nào, chưa nói đến khả năng nhận thức.

“Khi bạn nói chuyện với những cá nhân ấy [những người còn hoài nghi], ẩn ý ở đây rất sâu sắc và nó thực sự kiểm nghiệm xem liệu họ có muốn trở thành những nhà khoa học chân chính và muốn khám phá nó hay không, hay họ chỉ muốn tránh xa nó,” Backster nói.

“Bạn không gặp vấn đề này [sự hoài nghi quyết liệt] với những người không ở vị trí phải bảo vệ khối lượng tri thức khoa học,” Backster nói.

Tuy nhiên, ngày nay, sự hiện diện của hoạt động điện tích trong cây cối ngày càng được công nhận nhiều hơn. Các nhà khoa học trong lĩnh vực thần kinh sinh học thực vật đã phát hiện ra rằng thực vật có các biểu hiện trông giống như hoạt động thần kinh ở động vật. Tuy nhiên, chúng không phải là những biểu hiện giống như Backster đã nghiên cứu.

Mặc dù Backster không sở hữu bằng tiến sĩ, nhưng thái độ và những nghiên cứu của ông đã cho thấy ông có tình thần khoa học chân chính hơn những người đã bác bỏ công trình của ông.

Những phát hiện này đã được các nhà khoa học khác lặp lại, trong đó có nhà khoa học người Nga Alexander Dubrov và Marcel Vogel, lúc bấy giờ đang làm việc cho IBM trong thời gian nghiên cứu, và đã được công bố trong “Đời sống bí mật của cây cối.” Tác giả của bài báo này cũng đã hoàn thành luận án cử nhân về đề tài này, cho thấy kết quả rất đáng chú ý về sự nhạy cảm của cây cối đối với sự giao tiếp của con người.

Khuyến khích những người khác làm thí nghiệm

Trong suốt thời gian qua, Backster rất thoáng trong việc giúp đỡ người khác tự nghiên cứu. Và chỉ cần các điều kiện được quan sát, các dấu hiệu này sẽ xảy ra, tác giả này đã quan sát chúng từ đầu, trong phòng thí nghiệm của Backster tại San Diego và trong những thí nghiệm riêng của ông, cũng như các băng hình thí nghiệm của Backster.

“Đối với những người muốn tham gia vào hoặc làm quen với khả năng tồn tại của hiện tượng này, họ phải làm một cách bất ngờ,” ông giải thích.

Backster khuyên rằng nên quay lại những gì xảy ra trong phòng với một máy quay, và với một chiếc máy quay khác thu lại kết quả từ thiết bị đo.

“Và rồi sau đó, bật lại băng thu hình, và họ sẽ ngạc nhiên khi nhìn vào sự nhất quán của những thứ xảy ra- với điều kiện bạn làm việc này một cách tự phát.”

Sau khi ông miêu tả tri giác nguyên sinh, Backster hy vọng rằng sự tò mò của con người sẽ khiến họ nghiên cứu nó một cách trung thực.

“Điều này nên là một manh mối tốt cho thấy có cái gì đó đang ở đó; sau đó tùy thuộc vào họ có muốn xây dựng một số kiểu thí nghiệm lặp lại hay không,” ông nói.

“Có một mâu thuẫn lớn giữa sự tự phát và sự lặp lại,” ông giải thích.

Phần lớn khoa học khẳng định lại sự tồn tại của một hiện tượng bằng cách cố gắng suy luận ra nó một cách lặp đi lặp lại trong những điều kiện nhất định nhiều lần. Nhưng những thứ liên quan tới sự nhận thức và hiện tượng tinh thần có thể không phù hợp với phương pháp này. Ví dụ, nếu ai đó không cười trước một trò đùa trong lần thứ tư họ nghe về nó không có nghĩa là trò đùa ấy không buồn cười. Vì thế hiện tượng này không thể áp dụng với một kiểu lặp đi lặp lại riêng biệt được.

“Do đó, bằng cách này hay cách kia, họ cần làm việc về vấn đề này, nhưng không được dùng nó để biện hộ cho những cái không thể chứng minh được,” ông nói.

Tương lai

Hiện nay, Backster đang tìm một người tiếp tục ngọn lửa nghiên cứu tri giác nguyên sinh, hoặc ít ra là giúp ông trong những nghiên cứu sâu hơn.

“Đến thời điểm hiện nay, tôi đã ủng hộ cơ sở nghiên cứu tại đây trong khoảng 27 năm,” ông nói, “nhưng đã đến lúc tôi không thể tự mình làm mọi việc được rồi.”

“Tôi đã phải cố gắng để có đủ kinh phí cho ít nhất một người có thể phụ tá, bởi vì tôi phải nghĩ về những việc này và tìm cách chi trả cho chúng,” ông cười, “và thực hiện thí nghiệm và trải qua tất cả những việc này, quả là quá nhiều cho một người.”

Sau 40 năm không có sự ủng hộ vững chắc nào cho các cố gắng nghiên cứu của ông, Backster nói rằng “đôi khi bạn có cảm giác rằng rất nhiều nhóm khoa học được thành lập chỉ hy vọng rằng bạn hụt hơi, khiến bạn rất mệt mỏi, và hết tiền hay cái gì đó và biến mất.” Nhưng tôi không có ý định làm như vậy,” ông cười và nói.

“Tôi không muốn biến mất. Tôi rất bực mình với ý nghĩ rằng có một cái gì đó rất hiển nhiên và quá dễ quan sát như việc này, lại bị bỏ qua một cách cố ý bởi những người tự xưng là các nhà khoa học, điều đó không phù hợp với định nghĩa một nhà khoa học là gì.”

Backster đã gây dựng Quỹ nghiên cứu Backster vào năm 1965, là một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận để giúp ông tài trợ cho các công trình của mình. Nó hoạt động tốt và các tiền tài trợ được miễn thuế. Tuy nhiên, tiền tài cũng không còn nhiều qua những thập kỷ qua.

“Đây là một việc mang tính cạnh tranh cao, bởi nó có liên quan đến tiền bạc,” ông giải thích. “Tôi đã đến diễn thuyết cho nhiều nhóm khoa học; [điều quan trọng của việc này] rõ ràng là người ta ít nhất sẽ hỏi rằng bạn có cần sự giúp đỡ hay không

“Tôi đoán rằng tôi bắt đầu nghĩ việc này thật ngây thơ, bởi nếu bạn không đi xin tài trợ, bạn sẽ không có được nó,” ông nói. Backster và nhà xuất bản của ông đã xem xét việc xin tài trợ, nhưng việc này trở nên khó khăn khi không có quan hệ với một Viện hàn lâm nào.

Backster cũng hy vọng rằng ông cũng cố thể giúp đỡ sản xuất một thiết bị cầm tay giá thành thấp có thể phát hiện những tín hiệu để nhiều người hơn có thể tự mình làm nghiên cứu. Ông đặc biệt hy vọng rằng các học sinh và thanh niên sẽ có trên tay một chiếc.

“Tôi nghĩ rất nhiều về những thứ mà khi được khám phá ra, họ sẽ thấy nó thật tuyệt,” ông nói.

“Tất cả những vật thể sống đều có những biểu hiện rất tinh tế, chúng là những dấu hiệu mi-crô-vôn. Và bằng cách khuếch tán rồi so sánh chúng, ghi lại các dấu hiệu này trên máy tính và những gì xảy ra trong môi trường, tôi nghĩ rằng người ta sẽ thấy nó cực kỳ thú vị.

“Đáng ngạc nhiên là có vô số điều thuộc về lý do và hệ quả của tình huống; đó là nơi bạn quan sát thấy những phản ứng lớn và khi bạn có thể thấy cái gì đã tạo ra nó, bạn sẽ bị bất ngờ.”

Thông tin về Cleve Backster và Quỹ nghiên cứu Backster có thể tìm thấy tại www.primaryperception.com.

(Theo The Epoch Times)

The post ‘Tri giác nguyên sinh’- Đời sống bí mật của cây cối (Phần 2) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-2.html/feed0
`Tri giác nguyên sinh’ – Đời sống bí mật của cây cối (Phần 1)https://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-1.htmlhttps://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-1.html#respondSat, 30 Oct 2010 13:23:37 +0000https://chanhkien.org/?p=7495Tác giả: Ben Bendig Cuộc phỏng vấn Cleve Backster và xem xét công trình khai thủy của ông về tri giác nguyên sinh Có tồn tại một công trình nghiên cứu có tiềm năng phá vỡ các mô hình hiện đại của chúng ta – hé lộ về ý thức ở những nơi mà chúng […]

The post `Tri giác nguyên sinh’ – Đời sống bí mật của cây cối (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ben Bendig

Cuộc phỏng vấn Cleve Backster và xem xét công trình khai thủy của ông về tri giác nguyên sinh

Có tồn tại một công trình nghiên cứu có tiềm năng phá vỡ các mô hình hiện đại của chúng ta – hé lộ về ý thức ở những nơi mà chúng ta có thể không ngờ tới, và các mối liên hệ giữa các dạng sống gây sửng sốt và dường như không thể tồn tại.

Hãy tưởng tượng bạn đi vào một phòng thí nghiệm cùng với một người bạn, và người làm thí nghiệm nói với bạn là hãy đơn giản bắt đầu một cuộc đối thoại. Một lúc sau, người làm thí nghiệm dừng bạn lại và cho bạn xem một cuộn băng ghi âm cuộc đối thoại. Đoạn băng ghi âm là về cuộc đối thoại, nhưng đoạn băng ghi hình lại là một đường trông giống như địa chấn kế – thực sự là một mẫu ghi lại hoạt động điện đang diễn ra ở một cái cây để ở góc phòng.

Bạn thấy đấy, có lẽ nó sẽ làm bạn sửng sốt, rằng với mỗi cảm xúc giữa bạn và người bạn của bạn, cái cây cho thấy một phản ứng tương ứng với sự xung kích của, lấy ví dụ, ngạc nhiên, phẫn nộ hay bối rối.

Và phản ứng xảy ra trông rất giống với phản ứng của một con người với cùng một loại sự kiện.

Đây là một chuỗi các thí nghiệm khác nhau minh chứng hiện tượng được gọi là “tri giác nguyên sinh” bởi Cleve Backster, người làm nên khám phá này vào năm 1966, trong một loạt các thí nghiệm với cây cối và các dạng sống khác. Nghiên cứu của ông đề xuất rằng một hình thức giao tiếp cơ bản là có tồn tại trong tất cả các dạng sống, cho tới tận vi khuẩn và những tế bào cấu thành các sinh vật lớn hơn, và do đó có thể là “nguyên sinh”, so với những hình thức tri giác được công nhận rộng rãi như hình ảnh hay xúc giác.

Ông Backster, một người đàn ông 85 tuổi, vui vẻ và đầy nhiệt huyết, là một cựu chuyên gia phát hiện nói dối của CIA, có tham gia sâu vào việc nghiên cứu khoa học trong cộng đồng chế tạo máy ghi, nơi ông được đánh giá cao. Ông đã phát triển thí nghiệm So sánh Vùng Backster (Backster Zone Comparison) vào cuối những năm 1950, một kỹ thuật vẫn còn được sử dụng rộng rãi trong các cơ quan chính phủ và quân đội để đọc máy ghi, và ông đã điều hành Trường phát hiện nói dối Backster (Backster School of Lie Detection) ở khu trung tâm San Diego, California trong 30 năm qua.

Backster cho phổ biến công trình của mình trong cuốn sách “Đời sống bí mật của cây cối” (The Secret Life of Plants), xuất bản năm 1973, mặc dù ông đã xuất bản những phát hiện của mình lần đầu tiên năm 1968. Sau khi cuốn “Đời sống bí mật của cây cối” được phát hành, Backster đã xuất hiện trong một vài buổi nói chuyện trực tiếp trên truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, về những nhận thức của ông về cây cối. Nhưng ông cũng đã giảng dạy rộng rãi tại các hội nghị khoa học. Nghiên cứu của ông khiến người ta `nói chuyện’ với những cái cây của họ, và khuấy động hiện tượng “cây trồng trong nhà.”

Không chỉ là cây cối

Cửa sổ nhìn vào tri giác nguyên sinh: Cleve Backster bắt đầu những thí nghiệm của mình với cây huyết dụ. (Ảnh tặng của Cleve Backster/The Epoch Times)

“Phần thú vị nhất của tất cả những điều này”, ông nói với tôi, “nó có thể bắt đầu với cây cối, nhưng kết thúc với các tế bào của con người. Bằng cách lấy một mẫu tế bào người trong một ống nghiệm và kiểm tra nó từ xa, các tế bào này hòa hợp với người hiến [tế bào], và điều này thật kinh ngạc đối với tôi; tôi muốn nói, điều này có đủ các loại hàm ý ở trong đó.”

Thực sự là – Backster đã phát hiện ra rằng các tế bào của chúng ta đáp lại những cảm xúc của chúng ta khi chúng nằm bên ngoài cơ thể chúng ta, thậm chí cách xa đến hơn 100 dặm. Khi người hiến [tế bào] trải nghiệm một thay đổi cảm xúc, thì sẽ xuất hiện một phản ứng tương ứng trong các tế bào, và biểu hiện ra thành xung điện.

“Cây cối thực sự chỉ là một điều tình cờ cho phép tôi phát hiện ra hiện tượng này, và rồi tôi tiếp tục theo đuổi điều này trong mọi thứ mà dường như gây ra một phản ứng đối với cây cối, cho dù đó là vi khuẩn trong sữa chua, trứng, v.v…”

Backster đã phát hiện ra rằng đập vỡ một quả trứng, hay bỏ nó vào nước sôi sẽ gây ra một phản ứng đối với cây cối – như thể chúng nhạy cảm khi các sinh vật gần đó phải chịu đựng sự tổn hại. Khi mà người ta có thể không nghĩ rằng những quả trứng có sự sống, dường như chúng có một loại hoạt động sinh học nào đó.

Backster chuyển sang theo dõi vi khuẩn, và tìm thấy các phản ứng tương tự như trên cây cối. Ông cũng đã đo đạc hoạt động điện trong những quả trứng, và thấy rằng chúng dường như cũng phản ứng với môi trường xung quanh. Cuối cùng, ông đo đạc hoạt động trong các tế bào người, chẳng hạn như các tế bào bạch cầu.

(Theo The Epoch Times)

The post `Tri giác nguyên sinh’ – Đời sống bí mật của cây cối (Phần 1) first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/10/tri-giac-nguyen-sinh-doi-song-bi-mat-cua-cay-coi-phan-1.html/feed0
Miếng đá tại Nga có nguồn gốc từ ngoài không gianhttps://chanhkien.org/2010/10/mieng-da-tai-nga-co-nguon-goc-tu-ngoai-khong-gian.htmlhttps://chanhkien.org/2010/10/mieng-da-tai-nga-co-nguon-goc-tu-ngoai-khong-gian.html#respondTue, 19 Oct 2010 15:30:47 +0000https://chanhkien.org/?p=6937Vài năm trước đây, một viên đá kì lạ đã được tìm thấy tại ngoại ô Moscow, Nga.

The post Miếng đá tại Nga có nguồn gốc từ ngoài không gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Leonardo Vintiñi

Oopart (Out Of Place ARTifact – Đồ vật ngoài không gian) là một thuật ngữ được dùng để chỉ hàng chục đồ vật tiền sử được tìm thấy ở những địa điểm khác nhau trên thế giới, mà dựa vào mức độ công nghệ của chúng, thì hoàn toàn là điều kì lạ so với tuổi được xác định của chúng dựa trên các bằng chứng vật lý, hoá học và hay địa lý. Oopart đang phản bác lại các nhà khoa học hiện nay và làm say mê các nhà điều tra phiêu lưu và những cá nhân quan tâm đến các lý thuyết khoa học mới.

Vài năm trước đây, một viên đá kỳ lạ đã được tìm thấy tại ngoại ô Moscow, Nga. Nó được các nhà nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành khác nhau đến kiểm tra, nhưng với các đặc tính bất thường của mình, nó đã thách thức hệ thống phân loại hiện nay. Nó có thể thậm chí mâu thuẫn với hiểu biết hiện nay về quá khứ xa xưa.

Trong khi các cuộc tìm kiếm đã phát hiện mẫu vật đó có niên đại hàng nghìn năm trước khi có sự xuất hiện của loài người, thì nó dường như giữ hai đồ vật giống như cái ốc vít. Kỳ lạ là, một số nhà nghiên cứu đồng ý rằng những đồ vật này không có vẻ có các đặc điểm xuất hiện tự nhiên mà thay vào đó chúng thể hiện các đặc tính của đồ vật được chế tạo.

Ngày 13 tháng 8 năm 2003, tạp chí Cuộc sống (Life) của Nga đã đăng một bài báo về mẫu vật này.

Báo này đã nêu lên rằng miếng đá được xác định là đã có hàng triệu năm tuổi, nhưng nó lại chứa những thứ mà một số nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh là chúng chỉ có thể là sản phẩm của một công nghệ tiên tiến.

Báo cáo mô tả các đồ vật này, giống như đồ ốc vít được tìm thấy khi đang nằm trong một miếng đá. Nếu như mẫu vật này chưa đủ kì lạ, thì bằng chứng khác tìm được đã cho thấy miếng đá này có thể không phải có nguồn gốc từ Trái đất chút nào, mà là một sản phẩm ngoài không gian.

Thêm những ẩn đố về các tảng đá tiền sử

Không lâu trước đây, một miếng đá có các đặc điểm tương tự đã được tìm thấy tại Nga. Rất giống với miếng đá được mô tả ở trên, phát hiện này được tìm thấy ở tỉnh Galus cũng chứa đựng các điều ngạc nhiên không ngờ. Khi mẫu vật này được phân tích qua chiếu xạ X-quang, nó phơi bầy một hình ảnh gây kinh ngạc về tám cái ốc vít nằm trong đó.

Một phát hiện khác kiểu này được tìm thấy vài năm trước đó tại vùng núi Mazong của Trung Quốc. Trong một cuộc tìm kiếm khoa học, nhà sưu tầm đá Zhilin Wang đã đào được một miếng đá đen hình quả lê mà cũng chứa một vật nhìn cũng tương tự như một cái ốc vít kim loại.

Các nhà vật lý và các nhà sưu tập từ khắp nơi trên thế giới đã ngay lập tức bị cuốn hút bởi phát hiện của ông Wang. Tin tức về phát hiện này đã tập trung hơn 10 nhà địa lý và vật lý toàn cầu từ các viện nghiên cứu khác nhau ở Trung Quốc đến kiểm tra mẫu vật bí ẩn này.

Miếng đá đen bất thường này xuất hiện một thanh kim loại hình ốc vít mà không nghi ngờ gì nữa là do con người chế tạo. Nhưng thanh kim loại này dường như được bao bọc trong một miếng đá cổ mà được cho rằng có tuổi hàng triệu năm. Các nhà khoa học mà tham gia kiểm tra viên đá này đều đồng ý rằng mẫu vật này là một trong những phát hiện khảo cổ quý giá nhất được phát hiện gần đây ở Trung Quốc.

Bởi vì tất cả các đồ vật được tìm thấy này đều nằm trong lòng các miếng đá, nó thể hiện rằng chúng phải tồn tại trước khi hình thành miếng đá chứa chúng. Nhưng các miếng đá ở xung quanh, trong một số trường hợp có niên đại ở Kỷ Paleozoic, lúc mà các loài như khủng long và bọ ba thuỳ sinh sống trên trái đất này.

Trong khi các đồ vật tuyệt vời này chắc chắn là bất thường, nhưng chúng lại không phải là hiếm. Được phát hiện trên thế giới trong thế kỷ trước, các khám phá đã cho rằng các di tích của một nền văn hoá cao cấp từ niên đại xa xưa đã được tìm thấy bị đóng băng trong đá.

Mỗi phát hiện đã gây chấn động cho giới khoa học chủ yếu là “sự không thể” của sự tồn tại của chúng. Đa số trường hợp, các ví dụ này ít được quan tâm; chúng thường được viết như là các bất thường về công nghệ hay sự đột biến của tự nhiên bởi vì các giả thiết nhân loại học hiện đại đều mâu thuẫn với các chứng cớ có được.

Liệu có phải là những miếng đá này đã đưa ra các chứng cứ thực sự làm thách thức các khái niệm được chấp nhận hiện nay về thời điểm nguồn gốc của con người? Hay chúng đơn giản chỉ là các đặc điểm tự nhiên kỳ lạ không bình thường được lưu lại trong các viên đá tiền sử?

Nếu chúng ta thử một khả năng khác, như một số nhà khoa học đã giả thuyết, là liệu có thể các mẫu vật cổ này thậm chí có nguồn gốc từ hành tinh này? Nếu như vậy, nó dẫn đến là liệu có các sinh mệnh có công nghệ rất tiên tiến đã từng sống hàng triệu năm về trước? Liệu các sinh mệnh đó vẫn còn sống ở đó, và làm sao vật chất từ hành tinh của họ có thể đến được thế giới của chúng ta.

Do các mẫu vật kiểu này vẫn còn tiếp tục được tìm thấy và được kiểm tra ngày càng cẩn thận và đúng đắn, nên có thể một bức tranh mới về lịch sử chúng ta sẽ được hé mở – một lịch sử hiện nay còn rất mơ hồ, đã làm hạn chế hiểu biết hiện nay của chúng ta.

(Theo The Epoch Times)

The post Miếng đá tại Nga có nguồn gốc từ ngoài không gian first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/10/mieng-da-tai-nga-co-nguon-goc-tu-ngoai-khong-gian.html/feed0
Thuyết tiến hóa: Sự thật hay sản phẩm của con người?https://chanhkien.org/2010/10/thuyet-tien-hoa-su-that-hay-san-pham-cua-con-nguoi.htmlhttps://chanhkien.org/2010/10/thuyet-tien-hoa-su-that-hay-san-pham-cua-con-nguoi.html#respondSat, 16 Oct 2010 09:41:43 +0000https://chanhkien.org/?p=6896Chúng ta từ đâu đến? Do Tiến hóa? Được Thiên Chúa sáng tạo ra?

The post Thuyết tiến hóa: Sự thật hay sản phẩm của con người? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Thuyết tiến hóa: Sự thật hay sản phẩm của con người?

Mô hình của chim thủy tổ này có vảy trên đầu, mặc dù các nhà khoa học chưa bao giờ tìm thấy vảy trong hóa thạch của loài này. (Ảnh do Tiến sĩ Carl Werner cung cấp)

Mô hình của chim thủy tổ này có vảy trên đầu, mặc dù các nhà khoa học chưa bao giờ tìm thấy vảy trong hóa thạch của loài này. (Ảnh do Tiến sĩ Carl Werner cung cấp)

Chúng ta từ đâu đến? Do Tiến hóa? Được Thiên Chúa sáng tạo ra? Trong nhiều năm, các nhà khoa học đã tuyên bố rằng họ có bằng chứng hóa thạch về thuyết tiến hóa, nhưng nhà sinh vật học kiêm bác sĩ, và là nhà sản xuất truyền hình ở thành phố Missouri, Tiến sĩ Carl Werner, đã dám đặt ra câu hỏi này.

Cùng với lễ kỷ niệm lần thứ 150 cuốn sách của Charles Darwin “Nguồn gốc các loài” (On the Origin of Species – ngày 24 Tháng 11 năm 1859), Tiến sĩ Werner mới đây đã phát hành 2 tập sách đầu và một bộ phim tài liệu từ một chuỗi chương trình truyền hình thách thức Darwin – “Thuyết tiến hóa: Thử nghiệm vĩ đại”.

Nhiều năm tìm kiếm sự thật về thuyết tiến hóa bắt đầu bằng một vụ đánh cuộc ở trường cao đẳng.

“Lúc đó tôi đang học cao đẳng y tế, và một người bạn đã thách thức tôi về thuyết tiến hóa. Tôi lúc đó vẫn tin vào thuyết tiến hóa”, Tiến sĩ Werner nói.

“Anh ấy nói rằng những quy luật hóa học sẽ ngăn cản sự sống tự hình thành, và anh ấy đã thách thức tôi về cơ bản: ‘Làm sao điều này có thể xảy ra nếu quá trình tiến hóa vi phạm các nguyên tắc khoa học thông thường của chúng ta’. Và tôi thực sự đã phải suy nghĩ rất kỹ về điều đó, và tôi nhận ra rằng anh ấy đã chính xác về các quy luật hóa học”.

Kể từ đó, Werner đã tiếp tục điều mà ông gọi là “một chuyến phiêu lưu suốt đời”. Ông đọc và nghiên cứu tất cả các chủ đề ông có thể tìm thấy về sự tiến hóa, bao gồm địa chất, sinh học, cổ sinh vật học, sinh hóa, và vũ trụ học. Sau 18 năm nghiên cứu, ông tin rằng mình và vợ đã sẵn sàng để bắt đầu một loạt các thử nghiệm để kiểm tra học thuyết đã được chấp nhận rộng rãi của Darwin.

Trong 10 năm tiếp theo, từ 1997 tới 2007, họ đã đến các viện bảo tàng tốt nhất và các địa điểm khai quật trên toàn cầu, đã phỏng vấn các nhà khoa học hàng đầu thế giới, và chụp ảnh hàng chục nghìn hóa thạch gốc và các địa tầng hóa thạch nơi chúng được tìm thấy.

“Lúc đầu, tôi đã rất bối rối về chủ đề này. Điều gì đã là thật? Liệu thuyết tiến hóa có đúng hay không? Nhưng cuối cùng, giờ đây tôi đã rất hài lòng khi hiểu được những vấn đề trong thuyết tiến hóa là gì và chúng đã được phát triển ra sao”, Werner nói.

Bằng chứng giá trị hơn quan điểm

Thay vì trả lời liệu sự tiến hóa là đúng hay sai trong bộ phim tài liệu của mình, Werner trình bày các vấn đề và cho phép khán giả quyết định.

Các nhà khoa học đã từng xem một hóa thạch của Rodhocetus, một động vật bốn chân với cái đuôi của một con cá voi, như là bằng chứng tốt nhất của thuyết tiến hóa.

Tuy nhiên, khi Werner đến xem hóa thạch này, ông đã không thấy bất kỳ hóa thạch nào của cái đuôi con Rodhocetus. Khi được hỏi, nhà khoa học mà đã thêm cái đuôi cho con Rodhocetus trong các biểu đồ của bảo tàng đã thừa nhận rằng Rodhocetus không có đuôi hoặc chân chèo của cá voi.

Các vấn đề khác mà Werner chỉ ra bao gồm việc một nhà khoa học gắn đuôi của một con khủng long cho một con chim, và các viện bảo tàng gắn lông vũ cho một con khủng long, gắn thêm các vảy trên đầu của một con chim, và gắn những bàn tay và bàn chân con người cho Lucy, một hóa thạch được khắp nơi tin rằng là của một con vượn người.

Tóm lại, ông nói rằng mặc dù các biểu đồ tiến hóa tại các viện bảo tàng cho rằng sự tiến hóa là sự thật, nhưng các biểu đồ này không có bằng chứng chứng minh.

“Về cơ bản những gì tôi đọc trong sách giáo khoa đại học mâu thuẫn với những gì tôi đã khám phá ở chính nơi chúng tôi thực hiện các cuộc phỏng vấn với các nhà khoa học đó. Như vậy, có sự khác biệt rất lớn giữa những gì đã được viết so với thực tế”, Werner nói.

“Có một sự thiếu trung thực về chủ đề này ở các trường đại học. Đây là loại chủ đề bị đóng kín. Các nhà khoa học không muốn thảo luận về nó một cách công khai vì sợ hậu quả”.

Để mua các cuốn sách của Tiến sĩ Werner và có thêm thông tin, xin vui lòng truy cập trang web: www.TheGrandExperiment.com

(Theo The Epoch Times)

The post Thuyết tiến hóa: Sự thật hay sản phẩm của con người? first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2010/10/thuyet-tien-hoa-su-that-hay-san-pham-cua-con-nguoi.html/feed0
Nghiên cứu về tinh thể nước minh chứng tác dụng của thiện niệmhttps://chanhkien.org/2009/12/nghien-cuu-ve-tinh-the-nuoc-minh-chung-tac-dung-cua-thien-niem.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/nghien-cuu-ve-tinh-the-nuoc-minh-chung-tac-dung-cua-thien-niem.html#respondTue, 15 Dec 2009 20:06:34 +0000https://chanhkien.org/?p=4325Tác giả: Ngọc Lâm [Chanhkien.org] Vào ngày 17 tháng 4 [năm 2004], tiến sĩ Masaru Emoto, một nhà nghiên cứu người Nhật Bản và là tác giả cuốn sách Thông điệp của nước đã có một bài phát biểu về tinh thể nước tại Cao đẳng Cộng đồng Hiểu Lan tại Seattle, tiểu bang Washington. […]

The post Nghiên cứu về tinh thể nước minh chứng tác dụng của thiện niệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Lâm

[Chanhkien.org] Vào ngày 17 tháng 4 [năm 2004], tiến sĩ Masaru Emoto, một nhà nghiên cứu người Nhật Bản và là tác giả cuốn sách Thông điệp của nước đã có một bài phát biểu về tinh thể nước tại Cao đẳng Cộng đồng Hiểu Lan tại Seattle, tiểu bang Washington.

Tiến sĩ Emoto đã cho mọi người xem một bức ảnh về “lời cầu nguyện” của tinh thể nước. Nó được đặt tên như vậy vì nó tạo thành hình giống hai tay của một người đưa lên khi cầu nguyện (hợp thập). Tiến sĩ Emoto đã hỏi khán giả tại sao người ta lại chắp tay vào nhau khi cầu nguyện. Tại sao động tác này lại rất phổ thông, và tại sao nó đã được truyền qua các thế hệ? Không ai đưa ra được câu trả lời.

Tiến sĩ Emoto nói: “Tôi đã hiểu được tại sao người ta không thể cầu nguyện chỉ bằng một tay. Bây giờ tôi đã hiểu được tổ tiên của chúng ta. Có lẽ khi họ nhận được những món quà từ bi từ Đấng Tạo Hóa, họ đã đưa cả hay tay lên để nhận lấy, cám ơn và cầu nguyện.”

Khám phá đáng chú ý trong sự nghiên cứu về tinh thể nước, điều được mô tả trong cuốn sách của tiến sĩ Emoto đã thu hút sự chú ý từ khắp thế giới, và cuốn sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Các kết quả nghiên cứu của tiến sĩ Emoto đã cho thấy rằng thiện niệm của con người có thể tịnh hóa nước và tạo nên các tinh thể tuyệt đẹp. Khám phá của ông đã cho con người hy vọng trong thời đại hỗn loạn và với ô nhiễm môi trường ngày nay.

Sự hình thành tinh thể nước xảy ra ở nhiệt độ dưới –25º C và cần khoảng ba giờ đồng hồ. Tiến sĩ Emoto nhấn mạnh rằng trạng thái tâm lý – sự trong sáng và chân thành – của người tiến hành thí nghiệm có thể quyết định kết quả của thí nghiệm. Ông đã cho khán giả xem một tinh thể nước tuyệt đẹp trong hình dạng một con rồng. Ông giải thích rằng người Nhật tin rằng rồng là một vị Thần và rằng rồng sống trong nước. Đây chính là Thần nước.

Một phóng viên đã hỏi về sự khác biệt được tìm thấy trong hình dạng các tinh thể, những tinh thể được hình thành từ chữ giản thể và chữ phồn thể. Tiến sĩ Emoto nói rằng sự so sánh về kết quả của thí nghiệm đã cho thấy rằng ký tự phồn thể mang theo những thông điệp rất tốt. Lấy thí dụ, ký tự phồn thể của chữ “Ái” 愛(tình yêu) có một chữ “Tâm” 心(trái tim) ở trong nó; còn chữ “Ái” 爱 giản thể có một chữ “Hữu” 友(bè bạn) ở trong nó. Nếu không có trái tim trong tình yêu, nội hàm nguyên gốc của chữ “Ái” đã bị mất đi. Có người đã hỏi tại sao 40 trong tổng số 50 học sinh trong lớp học dường như có triệu chứng cảm lạnh, trong khi 10 học sinh còn lại không có triệu chứng gì. Tiến sĩ Emoto đáp rằng ông nghĩ 10 học sinh kia đều có những ý niệm tốt, thiện và tích cực.

Nghiên cứu của tiến sĩ Emoto đã minh chứng rằng nước có sự sống và có cảm xúc. Những chữ sau đây được lấy trên bìa cuốn sách của ông, Thông điệp của nước: “…Ngôn ngữ đẹp sáng tạo ra tự nhiên đẹp; ngôn ngữ xấu sáng tạo ra tự nhiên xấu; đây chính là pháp tắc của vũ trụ.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2004/4/19/26763.html
http://www.pureinsight.org/node/2240

The post Nghiên cứu về tinh thể nước minh chứng tác dụng của thiện niệm first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/nghien-cuu-ve-tinh-the-nuoc-minh-chung-tac-dung-cua-thien-niem.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 6) Nước chảy và nước tĩnhhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-6-nuoc-chay-va-nuoc-tinh.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-6-nuoc-chay-va-nuoc-tinh.html#respondThu, 10 Dec 2009 20:52:36 +0000https://chanhkien.org/?p=4292Tác giả: Ngọc Mính [Chanhkien.org] Đặc tính của nước phụ thuộc vào nguồn nước. Người ta biết rất rõ về nước vào thời Trung Quốc cổ đại. Một thành ngữ thường được sử dụng là “Kính Vị phân minh” (nước sông Kính và sông Vị là hoàn toàn khác nhau). Người ta cũng nói rằng […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 6) Nước chảy và nước tĩnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Ngọc Mính

[Chanhkien.org] Đặc tính của nước phụ thuộc vào nguồn nước. Người ta biết rất rõ về nước vào thời Trung Quốc cổ đại. Một thành ngữ thường được sử dụng là “Kính Vị phân minh” (nước sông Kính và sông Vị là hoàn toàn khác nhau). Người ta cũng nói rằng rất dễ để xác định nguồn nước tại ngã ba sông Kính và sông Vị. Nước từ sông Kính thì nhiều bùn, trong khi nước từ sông Vị thì rất trong. Mặc dù nước của hai con sông bị trộn lẫn vào nhau, ranh giới giữa chúng lại thật rõ ràng.

Những người lữ hành trên sông Dương Tử  (Trường Giang) sẽ thấy sự phân biệt trong màu nước tại một số nơi mà nước hồ hòa vào nước sông Dương Tử. Nước khác nhau không dễ trộn lẫn với nhau.

Cuốn sách Cảnh Thế Thông Ngôn có kể lại cố sự về hai nhà văn nổi tiếng, Vương An Thạch [1] và Tô Đông Pha [2]. Vương An Thạch bị chứng sổ mũi, và uống trà được pha với nước sông Trường Giang tại vùng Trung Hiệp sẽ rất tốt cho sức khỏe của ông. Khi Vương An Thạch nghe nói rằng Tô Đông Pha sẽ trở về Tứ Xuyên để thăm gia đình, ông đã nhờ Tô Đông Pha mang về một ít nước ở đó. Khi Tô Đông Pha trở lại, ông đã mang về cho Vương An Thạch một chút nước. Vương An Thạch ngay lập tức đun sôi nước này và đem pha trà. Mất một lúc trà mới ngấm vào nước.

Vương An Thạch hỏi Tô Đông Pha: “Đây có phải nước từ Trung Hiệp hay không?” Tô Đông Pha trả lời: “Sao thế, à. Tất nhiên là như vậy rồi.” Vương An Thạch cười nói: “Ông nói dối. Rõ ràng nó là nước từ Hạ Hiệp.”

Tô Đông Pha sững sờ và phải thú nhận ngay. “Tôi đã tận hưởng phong cảnh tại Tam Hiệp nhiều đến mức quên mất lời nhờ vả của ông. Đến khi tới Hạ Hiệp thì tôi mới nhớ ra.” Ông đã quyết định lấy một ít nước ở đó và nghĩ rằng sẽ không có sự khác biệt nào.

Vương An Thạch nói: “Trong cuốn Sơn Thủy Kinh Chú có ghi chép những quan sát kỹ lưỡng về đặc điểm của nước sông Trường Giang. Nước tại Thượng Hiệp chảy quá nhanh, còn nước tại Hạ Hiệp lại chảy quá chậm. Nước tại Trung Hiệp chảy vừa phải. Bệnh của tôi là do ‘trung tiêu’, và do đó cần nước sông tại Trung Hiệp để mở kinh mạch. Nước sông Dương Tử  mà pha trà thì nước ở Thượng Hiệp làm trà bị nồng, nước ở Hạ Hiệp làm trà bị nhạt, nước ở Trung Hiệp là vừa phải. Hôm nay trà ngấm vào nước rất chậm, cho nên tôi biết đây là nước từ Hạ Hiệp.”

Tô Đông Pha bèn tạ tội.

Nói về cách pha trà, người xưa hiểu rõ về sự khác nhau giữa nước chảy và nước tĩnh. Trong cuốn sách Trà Kinh, tác giả cho rằng nước pha trà phải lấy từ “sơn thủy thượng, giang thủy trung, tỉnh thủy hạ” (trên núi cao, khúc giữa sông và dưới đáy giếng). Ngoài ra, cuốn sách cũng nói rằng nước lấy từ trên núi phải chảy chậm, và nước chảy xiết không thể sử dụng được. Nói cách khác, nước chảy chậm sẽ cho thứ trà ngon.

Lại nói về nước chảy và nước tĩnh, Tôn Tư Mạc [3] trong cuốn sách Thiên Kim Phương cho rằng nước chảy nên được dùng để hấp nhân sâm, trong khi nước tĩnh không thể được dùng với mục đích này.

Dùng đúng thuốc là một vấn đề then chốt vì nó liên quan đến tính mệnh; và đôi khi, những thứ tưởng chừng vặt vãnh như chất lượng nước lại có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Nước chảy và nước tĩnh do vậy nên được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Trong cuốn sách Mộng Khê Bút Đàm, tác giả cho rằng một số loài cá chỉ có thể sống trong nước tĩnh và chúng sẽ chết nếu bị thả ra sông. Sách này cũng nói rằng một loại cá chép có thể sống cả trong nước chảy và nước tĩnh, nhưng những con sống nơi nước chảy mang dấu trắng trên lưng và có mùi vị thơm ngon; còn những con sống nơi nước tĩnh mang dấu đen trên lưng và mùi vị rất chán.

Ghi chú của người dịch:

[1] Vương An Thạch (王安石; 18/12/1021 – 21/5/1086), tự Giới Phủ (介甫), hiệu Bán Sơn Lão Nhân (半山老人), người ở Phủ Châu – Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.

[2] Tô Thức (苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.

[3] Tôn Tư Mạc: (孙思邈, 581-682) Một danh y đời nhà Đường, là người tu Đạo nên thường được gọi là Tôn chân nhân. Người đời sau tôn ông là Dược Vương.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/2/25/20537.html
http://www.pureinsight.org/node/1564

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 6) Nước chảy và nước tĩnh first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-6-nuoc-chay-va-nuoc-tinh.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 5) Ấn tượng từ nước suốihttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-5-an-tuong-tu-nuoc-suoi.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-5-an-tuong-tu-nuoc-suoi.html#respondTue, 08 Dec 2009 19:38:46 +0000https://chanhkien.org/?p=4240Tác giả: Lạc Già [Chanhkien.org] Ngày càng có nhiều người đã từng nghe nói đến thí nghiệm về sự kết tinh của nước được tiến hành tại Nhật Bản. Trong cuốn sách Thông điệp của nước, bộ sưu tập hai phần về các bức ảnh từ cuộc thí nghiệm, một số bức ảnh về [tinh […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 5) Ấn tượng từ nước suối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lạc Già

[Chanhkien.org] Ngày càng có nhiều người đã từng nghe nói đến thí nghiệm về sự kết tinh của nước được tiến hành tại Nhật Bản. Trong cuốn sách Thông điệp của nước, bộ sưu tập hai phần về các bức ảnh từ cuộc thí nghiệm, một số bức ảnh về [tinh thể] nước suối đã thu hút sự chú ý của tôi.

Hình 1: Tinh thể nước được lấy từ suối Tam Phân.

Bức ảnh trên cho thấy một tinh thể nước suối Tam Phân (Hình 1). Suối Tam Phân nằm tại quận Kita Mikoma, tỉnh Yamanashi ở Nhật Bản. Suối này phân thành ba nhánh tại một điểm, và do đó được gọi là suối ‘Tam Phân’. Cũng có ba nhánh tại mỗi cánh của tinh thể nước.

Hình 2: Tinh thể nước suối Dingdong tại một cái hang ở thôn Tenkawa, quận Yoshino, tỉnh Nara.

Hình 2 minh họa tinh thể nước của suối Dingdong tại một cái hang ở thôn Tenkawa, quận Yoshino, tỉnh Nara. Con suối nổi tiếng này chảy ra từ miệng của một cái hang trên núi và tạo thành tiếng “Ding Dong Ding Dong” nghe giống như âm thanh của một chiếc chuông. Từ hình dạng tinh thể nước, chúng ta có thể hình dung được hang động bí ẩn và âm thanh trong trẻo của chiếc chuông.

Hình 3: Tinh thể nước được lấy từ một con suối nằm trên núi ở độ cao 500-700 mét tại Hiroshima.

Bức hình trên mô tả nước của một con suối nằm trên núi ở độ cao 500-700 mét tại Hiroshima. Chúng ta có thể thấy được nguồn nước và môi trường hình thành nên tinh thể mà không cần phải biết con suối thực sự nằm tại đâu.

Hình 4                                       Hình 5

Hình 4: Tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Kanagawa.
Hình 5: Tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Hiroshima.

Ở trên là hình ảnh tinh thể nước từ suối Hoằng Pháp tại Kanagawa và suối Hoằng Pháp tại Hiroshima theo thứ tự. Mặc dù hai thành phố này cách nhau khá xa, tinh thể nước từ hai con suối này lại giống nhau một cách đáng kinh ngạc. Liệu chúng có sự tương thông với nhau bằng cách nào đó? Truyền thuyết kể rằng vào 1.200 năm trước đây, một hòa thượng Phật giáo, Hoằng Pháp đại sư tại Nhật Bản đã đi vân du khắp nơi để dạy cách tu luyện. Tại một nơi, nhiều người phải chịu một căn bệnh lạ. Hoằng Pháp đại sư đã phá vỡ một hòn đá và một con suối đã chảy ra từ đó. Nước con suối này có khả năng trị bệnh. Sau đó, cùng với chuyến hành trình đi khắp nơi của ông, nhiều con suối đã được đả khai. Chúng đều được đặt theo tên của ông.

Từ những hình ảnh này, chúng ta có thể thấy rằng tinh thể của một giọt nước phản ánh toàn bộ hình thể của con suối, nguồn nước và hoàn cảnh xung quanh nó. Nước cũng giống như một hình chiếu ba chiều. Những người có hiểu biết về hình ảnh laser biết rằng bất cứ phần nhỏ nào của hình chiếu ba chiều cũng đều phản ánh chỉnh thể của hình ảnh ấy. Điều này dường như cũng đúng với những tinh thể nước ở trên.

Những thông điệp như vậy có thể được lưu giữ trong bao lâu? Liệu nó có thay đổi theo thời gian hay sự biến đổi của môi trường? Những câu hỏi này đáng để chúng ta tìm hiểu thêm trong tương lai.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/2/24/20536.html
http://www.pureinsight.org/node/1521

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 5) Ấn tượng từ nước suối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-5-an-tuong-tu-nuoc-suoi.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 4) Những hình ảnh mỹ lệ và bí ẩnhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-4-nhung-hinh-anh-my-le-va-bi-an.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-4-nhung-hinh-anh-my-le-va-bi-an.html#respondSun, 06 Dec 2009 21:20:58 +0000https://chanhkien.org/?p=4219Tác giả: Lâm Hiểu Húc [Chanhkien.org] Khi tình cờ xem qua cuốn sách Thông điệp của nước, tôi đã bị chấn động bởi những bức ảnh tuyệt đẹp của các tinh thể hình lục giác. Một số tinh thể rất sáng sủa và một số thì mờ mờ, một số thì phức tạp và một […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 4) Những hình ảnh mỹ lệ và bí ẩn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Lâm Hiểu Húc

[Chanhkien.org] Khi tình cờ xem qua cuốn sách Thông điệp của nước, tôi đã bị chấn động bởi những bức ảnh tuyệt đẹp của các tinh thể hình lục giác. Một số tinh thể rất sáng sủa và một số thì mờ mờ, một số thì phức tạp và một số lại rất đơn giản. Các bức ảnh hầu như xuất hiện dưới dạng ba chiều, mới và khác biệt, và rất thỏa con mắt.

Khi nhìn qua lần đầu tiên, các bức ảnh trông như các tác phẩm kiệt tác của một nhiếp ảnh gia xuất chúng. Tuy nhiên, khi nhìn kỹ hơn những chú thích cho hình ảnh, người ta sẽ thấy rằng những bức ảnh này là kết quả của một thí nghiệm khoa học. Chúng là những bức hình chụp nhanh của sự kết tinh nước, được chụp bởi một kính hiển vi của tác giả và tiến sĩ Masaru Emoto, Viện trưởng Học viện Hado (công ty IHM) tại Tokyo cùng nhóm nghiên cứu của ông.

Theo lời mô tả của trưởng nhóm nghiên cứu thí nghiệm, sau đây là quy trình đã được sử dụng: Khi ở trong một phòng thí nghiệm C, một nhà thí nghiệm lấy ra một bình chứa thủy tinh từ một tủ lạnh ở nhiệt độ -5 độ C và nhanh chóng đặt nó dưới một kính hiển vi được gắn một camera. Một giọt nước được phơi sáng  (tiếp xúc) với một ý niệm, ngôn ngữ, âm nhạc, chữ viết hay một nhân tố vật chất được đặt vào trong bình chứa, khi ấy đã trở nên đông cứng và hình thành một mảnh băng nhỏ. Khi ánh sáng từ kính hiển vi chiếu vào nó, nó sẽ làm băng tan ra. Ở trên đỉnh của mảnh băng, một tinh thể nước nhanh chóng được hình thành và có thể tồn tại trong một vài giây. Thách thức lớn nhất đối với các nhà thí nghiệm là tập trung máy ảnh thật nhanh để bắt được hình ảnh tuyệt đẹp đó.

Như chúng ta có thể thấy, cách tiếp cận được sử dụng là khá minh bạch. Đối với môi trường làm thí nghiệm, các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành những thí nghiệm tương tự cho khoảng 10-100 mẫu nước khác nhau và rồi thực hiện phân tích thống kê với chúng. Các bức ảnh về tinh thể nước trong cuốn sách là tiêu biểu nhất cho kết quả thu được. Trong các thí nghiệm, câu trả lời của nước khi biểu thị các ý niệm, ngôn ngữ, âm nhạc, chữ viết, nhân tố vật lý (chẳng hạn như độ rung, sóng siêu âm, sóng điện từ,…) và nhiều nhân tố khác mà đã được quan sát có hệ thống. Chúng thật đa dạng và rực rỡ. Kết quả thật đáng kinh ngạc và kỳ lạ. Lấy thí dụ, các mẫu nước được lấy từ một hồ nước sau khi trận động đất xảy ra hoàn toàn không thể hình thành các tinh thể. Tuy nhiên, sau khi một vài người cầu nguyện, các mẫu nước lại có thể tạo thành các tinh thể. Trong một thí nghiệm khác, khi cùng một chữ viết, chẳng hạn “Trí tuệ” được viết bằng các thứ tiếng khác nhau rồi được dán nhãn lên các bình chứa mẫu nước khác nhau, tinh thể nước hình thành các hình thù và cấu trúc giống nhau. Nước được lấy từ các bình chứa mà có dán những chữ mang nghĩa tốt, chẳng hạn như “Yêu thương” và “Cám ơn” hình thành nên những tinh thể lấp lánh vô cùng mỹ diệu, trong khi nước được lấy từ những bình chứa có dán chữ mang nghĩa xấu, chẳng hạn “Thù hận” và “Ma quỷ” thì chúng tạo nên những tinh thể nước cực kỳ xấu xí và ghê sợ.

Một khám phá đáng ngạc nhiên khác, đó là khi một mẩu băng đang chuẩn bị tan chảy, tinh thể được hình thành trông giống như ký tự Trung Quốc, chữ “Thủy”.

Các thí nghiệm đã là đủ để khiến chúng ta cảm thấy băn khoăn và tự hỏi rằng chúng ta đã biết quá ít về nước. Bằng cách nào nước có thể đáp lại các cảm xúc và tình cảm khác nhau của con người? Liệu nước có các chức năng cảm giác và khả năng thay đổi tùy theo môi trường? Liệu nước có thể phân biệt thiện và ác, đẹp và xấu? Nếu nó có thể, nó làm điều đó bằng cách nào? Nguồn gốc thực sự của nước là gì? Liệu có những thông điệp vũ trụ mà vượt khỏi ngôn ngữ của con người? Sự sống không thể tồn tại mà không có nước. Nếu nước có thể cảm nhận mọi thứ, liệu chúng ta có cần xem xét lại hiểu biết của chúng ta về sự sống hay không? Chúng ta nên vận dụng kiến thức này để cải thiện chất lượng cuộc sống của chúng ta ra sao?

Những câu hỏi này dường như vượt ra khỏi cái gọi là ‘khoa học chủ lưu đương đại’ để có thể tìm câu trả lời. Với quan niệm hiện tại về khoa học, rất khó để giải thích cách mà cảm xúc, từ ngữ, lời cầu nguyện…có thể ảnh hưởng đến sự kết tinh nước.

Dường như có những cách để cải thiện thí nghiệm. Quá trình kết tinh là ở mức vi quan và biến mất chỉ trong nháy mắt. Nếu toàn bộ quá trình kết tinh được chụp lại bằng một máy quay phim thay vì chỉ một vài bức hình được chụp bởi một máy ảnh, kết quả có thể còn thuyết phục hơn. Ngoài ra, các nhà khoa học có thể bắt đầu đưa ra những câu hỏi khác. Một câu hỏi là hình thức chuyển hóa nào đang diễn ra ở góc độ vật lý và hóa học mà tình cảm, từ ngữ, ý niệm,…có thể tác động đến sự kết tinh của nước. Có lẽ nghiên cứu thêm về các lĩnh vực này sẽ cho phép chúng ta hiểu rõ hơn các thí nghiệm về tinh thể nước. Đến lượt nó, nó có thể đột phá một số cách nghĩ cứng nhắc và lỗi thời của các nhà khoa học hiện nay.

Tuy nhiên, tiến sĩ Masaru Emoto không có hứng thú để cố gắng giành thêm sự chấp nhận từ giới khoa học chủ lưu khi mà điều ông tìm ra từ các thí nghiệm đã mở rộng tầm nhìn của chính ông. Ông viết trên trang bìa của cuốn sách Thông điệp của nước:

“ Hado (sóng) sáng tạo ra ngôn ngữ chữ viết
Ngôn ngữ chữ viết là sự rung động của tự nhiên
Ngôn ngữ đẹp sáng tạo ra tự nhiên đẹp
Ngôn ngữ xấu sáng tạo ra tự nhiên xấu
Đây chính là pháp tắc của vũ trụ”

Rõ ràng là ông đã nâng tầm quan trọng của chuỗi thí nghiệm lên một mức độ rất cao. Khi tôi gặp tiến sĩ Masaru Emoto tại Boston vào năm ngoái, ông đã tuyên bố rõ ràng rằng ông không có ý định bước vào một cuộc tranh luận với giới khoa học chủ lưu. Thay vào đó, ông muốn đưa những kiến thức này vào phổ cập giáo dục trong xã hội để công chúng và các thế hệ trẻ nhận ra rằng thiện niệm, chẳng hạn tình thương yêu và lời cám ơn có thể tạo nên sự thay đổi của nước và môi trường xung quanh chúng ta.

Tiến sĩ Masaru Emoto đã được mời tới nhiều nước để trình bày khám phá và ý nghĩa triết học trong các nghiên cứu của ông. Ông đóng vai trò một sứ giả, người sử dụng cái nhìn độc nhất của ông để mang đến tình yêu thương cho loài người. Ông đã phát động một hoạt động toàn cầu mang tên “Bày tỏ tình thương và lòng biết ơn của chúng ta với nước”. Ông hy vọng sẽ thay đổi chất lượng của nước và tịnh hóa nguồn nước trên trái đất bằng thiện niệm của con người. Sau khi tham khảo bộ lịch và những lời tiên tri huyền bí của người Mayan, ông đã công bố ngày 25 tháng 7 năm 2003 là ngày kỷ niệm toàn cầu cho hoạt động này.

Thực ra, khi con người có thể đối xử với nước, nguồn gốc của sự sống, bằng tình thương và sự biết ơn, chẳng phải là cả nước và con người đều thăng hoa hay sao? Ý nghĩa của thí nghiệm về tinh thể nước là siêu việt khỏi sự tưởng tượng của bất cứ ai.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/2/23/20531.html
http://www.pureinsight.org/node/1519

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 4) Những hình ảnh mỹ lệ và bí ẩn first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-4-nhung-hinh-anh-my-le-va-bi-an.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể nước phản ánh tư tưởnghttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-3-loi-binh-luan-cua-nha-vat-ly-ve-kham-pha-tinh-the-nuoc-phan-anh-tu-tuong.htmlhttps://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-3-loi-binh-luan-cua-nha-vat-ly-ve-kham-pha-tinh-the-nuoc-phan-anh-tu-tuong.html#respondWed, 02 Dec 2009 21:06:56 +0000https://chanhkien.org/?p=4180Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến (Xin lưu ý: Những bức ảnh sau đây được lấy từ các cuốn sách của tiến sĩ Masuru Emotos, Thông điệp của nước và còn hơn thông điệp của nước, được xuất bản bởi nhà xuất bản Hado.) [Chanhkien.org] Thí nghiệm về sự kết tinh của nước được […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể nước phản ánh tư tưởng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến

(Xin lưu ý: Những bức ảnh sau đây được lấy từ các cuốn sách của tiến sĩ Masuru Emotos, Thông điệp của nướccòn hơn thông điệp của nước, được xuất bản bởi nhà xuất bản Hado.)

[Chanhkien.org] Thí nghiệm về sự kết tinh của nước được tiến hành bởi tiến sĩ Masaru Emoto tại Nhật Bản đã nhận được những phản ứng nhiệt tình từ độc giả. Sau đó, chúng tôi đã tiếp tục phỏng vấn một vài người trong giới khoa học và mời họ nói về ý nghĩa của các thí nghiệm. Dưới đây là cuộc phỏng vấn với bác sĩ Lý Xuân Băng. Chúng tôi hoan nghênh tất cả mọi người tham gia cùng chúng tôi để khám phá thí nghiệm thú vị này.

PV: Phóng viên Chánh Kiến

BS: Bác sĩ Lý Xuân Băng

PV: Thưa bác sĩ Lý, điều gì mà ông nghĩ là thông điệp quan trọng nhất từ thí nghiệm “thông điệp của nước”?

BS: Phần ngoạn mục nhất là một tinh thể nước có thể phản ánh “tư tưởng” qua hình thù của nó. Đó là, một cụm từ, một hình ảnh hay một đoạn âm nhạc có thể dẫn tới việc hình thành những hình thù đặc định của tinh thể nước. Nói cách khác, nước đáp lại những từ ngữ, hình ảnh hay âm thanh bằng các hình dạng khác nhau của tinh thể nước. Từ những hình ảnh về sự kết tinh của nước, chúng ta có thể dễ dàng thấy được vật chất và tinh thần là có tương thông với nhau. Mỗi một chủng tư tưởng đối ứng với một chủng vật chất. Lấy thí dụ, một từ ngữ mang theo một tư tưởng, và tự biểu hiện trong hình dạng tinh thể nước trong thí nghiệm về kết tinh nước. Điều này chứng minh rằng mỗi vật chất đều có sinh mệnh và tư tưởng riêng, và mỗi tư tưởng đều có hình thái vật chất tương ứng. Vật chất và tinh thần là nhất thể, với hai loại biểu hiện của cùng một sự vật.

Hình 1:
Trái: Tinh thể nước khi được cho xem chữ “thiên thần”
Phải: Tinh thể nước khi được cho xem chữ “ác quỷ”

Hình 2:
Trái: Tinh thể nước khi được nghe bản nhạc “Đêm bình yên”
Phải: Tinh thể nước khi được nghe nhạc [Rock] Heavy Metal

Trong mỗi thí nghiệm, nước đều bày tỏ những loại thông điệp khác nhau. Mặc dù mỗi tinh thể nước vẫn có cùng kết cấu hóa học, chúng thực sự khác nhau về tư tưởng và linh hồn. Những thí nghiệm này đã chứng minh rằng nước là một loại hình sự sống, và nó cũng áp dụng với mọi từ ngữ, mọi hình thù của vật thể và mọi thanh âm, đồng thời mỗi thứ trong số chúng đều có tư tưởng. Có lẽ một ngày nào đó thậm chí chúng ta sẽ có thể “chào” chúng khi chúng ta có khả năng quan sát tiến bộ hơn.

PV: Rất nhiều bức ảnh chụp hình tinh thể nước đã được công bố. Ông thích bức nào nhất ạ?

Hình 3:
Trái: Bức hình chụp hoa cam cúc (Chamomile)
Phải: Tinh thể nước sau khi được xem hình hoa cam cúc

Hình 4:

Trái: Bức hình chụp hoa cây thì là (Fennel)
Phải: Tinh thể nước sau khi được xem hình hoa cây thì là

BS: Những bức hình chụp hoa thật là lý thú. Bạn có thể thấy rằng sau khi được xem hình hoa cam cúc (Chamomile) và hoa cây thì là (Fennel), hình dạng tinh thể nước hoàn toàn tương đồng với hình dạng của hai loại hoa. Đó là tinh thể nước mô phỏng theo hình dạng mà nó được xem. Điều này là một bằng chứng vững chắc rằng mỗi vi lạp đều mang theo một chỉnh thể hình tượng và tín tức.

Hình ảnh ba chiều này có thể được trông thấy ở mức vi quan. Chúng ta không thể nhìn thấy “tư tưởng” bằng cặp mắt thịt của chúng ta, bởi vì “tư tưởng” hiển hiện ở các không gian vi quan mà mắt thường không nhìn thấy được. Nếu chúng ta có cách nhìn thấy các thứ ở vi quan thì chúng ta sẽ có thể thấy được “tư tưởng”.

PV: Thí nghiệm này khác với các thí nghiệm khoa học phức tạp khác ở chỗ rất ít chuyên gia tham dự nhưng lại được đại đa số công chúng chú ý tới. Ông nghĩ rằng kết quả thí nghiệm sẽ mang lại những ảnh hưởng gì trong công chúng ạ?

BS: Chúng ta có thể thấy rõ ràng từ thí nghiệm về tinh thể nước rằng thiện niệm làm mọi thứ đẹp lên và ác niệm làm mọi thứ xấu đi. Hầu hết cơ thể người và mọi thứ khác trên thế giới này đều được cấu thành từ nước. Chính vì vậy thiện niệm của chúng ta sẽ cải biến ngoại cảnh và chính bản thân chúng ta. Nếu chúng ta bảo trì được thiện niệm, chúng ta sẽ tịnh hóa cơ thể chính mình, trở nên mỹ lệ và kiện khang. Nếu chúng ta bảo trì được thiện niệm, chúng ta sẽ tịnh hóa môi trường và những người xung quanh chúng ta. Thiện niệm của chúng ta có thể cải biến cả thế giới này. Thật sửng sốt khi triết lý ấy thể hiện rất rõ ràng trong thí nghiệm về tinh thể nước này. Cách trực tiếp nhất để tịnh hóa thế giới này là bảo trì thiện niệm của chính chúng ta. Nếu công chúng có thể nhận thức được điểm này thì nó sẽ tạo ra một tác động rất lớn.

PV: Tiến sĩ Masaru Emoto đã thực hiện một thí nghiệm, trong đó một nhóm người phát ra thiện niệm, chẳng hạn như “Cám ơn” và “Tình thương” vào một cái chai đựng đầy thứ nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước này đã được tịnh hóa nhanh chóng. Ngoài ra, tiến sĩ Emoto mới đây cũng đã thỉnh nguyện cả thế giới thường xuyên đồng phát thiện niệm cho nước trên trái đất vào các thời điểm xác định. Ông có cảm tưởng gì về những thí nghiệm này ạ?

BS: Thực ra, tiến sĩ Emoto cũng đã từng tiến hành nhiều hoạt động phát thiện niệm tập thể.

Hình 5:
Trái: Nước máy tại Tokyo
Phải: Nước máy tại Tokyo sau khi được một nhóm phát thiện niệm

Vào lúc 2 giờ ngày 02 tháng 02 năm 1997, 500 người từ khắp Nhật Bản đã hưởng ứng lời kêu gọi của tiến sĩ Emoto và phát thiện niệm vào một chai đựng nước máy được đặt trên bàn làm việc của tiến sĩ Emoto tại Tokyo. Mỗi người được yêu cầu nghĩ như sau: “Nước hãy biến thành kiền tịnh. Cám ơn.” Thông điệp trìu mến này đã được phát ra cùng lúc bởi 500 người trên khắp Nhật Bản. Bức ảnh bên tay phải được chụp ngay sau đó. Không có quá trình xử lý nhân tạo nào đối với bức ảnh trên. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã kỳ vọng kết quả này, tất cả họ đều đã òa khóc khi trông thấy bức ảnh trên.

Hình 6:
Trái: Tinh thể nước tại Kobe, Nhật Bản sau trận động đất

Phải: Tinh thể nước sau khi được phát thiện niệm

Bức ảnh bên tay trái được chụp ba ngày sau khi một trận động đất xảy ra tại Kobe, Nhật Bản. Nó là tinh thể nước bị biến dạng của nước máy tại Kobe. Nước dường như biểu lộ cảm giác hoang mang, đau buồn và sợ hãi mà người dân địa phương đã phải trải qua trong trận động đất. Tất cả mọi người đều bị sốc sau khi xem bức ảnh thể hiện cảm xúc của nước. Nhưng sau đó người dân Kobe đã nhận được sự quan tâm và viện trợ từ nhân dân khắp thế giới. Ba tháng sau trận động đất, nhóm nghiên cứu đã chụp một bức ảnh khác với cùng chai nước đó (hình bên tay phải), trong đó biểu lộ vẻ đẹp của sự quan tâm và chúc nguyện mà nhân dân thế giới dành người dân Kobe, Nhật Bản.

Tiến sĩ Emota thường kể một câu chuyện về một nhóm người phát thiện niệm cùng nhau. Khi con tàu Apollo 13 đáp xuống mặt trăng, phi hành đoàn đã gặp phải một số sự cố kỹ thuật gây ra sự phá hủy bình dưỡng khí. Họ không còn hy vọng sống sót và trở về trái đất dưới tình trạng như vậy. Tuy nhiên, toàn thế giới đã theo dõi cuộc thám hiểm và cầu nguyện cho họ. Cuối cùng, phi hành đoàn đã trở về trái đất an toàn. Tiến sĩ Emoto tin rằng đây là [hiệu quả của] sự đồng phát thiện niệm. Tiến sĩ Emoto coi đây là một hoạt động toàn cầu mà cả thế giới, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng và quốc tịch, phát thiện niệm tập thể cùng nhau.

Nó cho thấy rằng sức mạnh thiện niệm của tập thể là rất vĩ đại. Nếu chúng ta sử dụng thiện niệm tập thể để chống chọi với một tai nạn, thì tai nạn đó sẽ bị hóa giải. Đặc biệt, khi sự hủy diệt, bạo lực và tàn sát lan tràn trên thế giới này, chúng ta có thể ngăn chặn chúng nếu chúng ta đồng phát thiện niệm để tiêu hủy chúng.

PV: Ông thấy còn phương diện tiềm năng nào chưa được khai thác không ạ?

BS: Mặc dù không có cái nhìn của một người trong cuộc trong những thí nghiệm này, tôi nghĩ rằng các hoạt động tinh thần của nhóm nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến kết quả của mỗi thí nghiệm. Vì nước được khám phá là nhạy cảm với các tư tưởng, nó đương nhiên cũng nhạy cảm với tư tưởng của các nhà nghiên cứu. Tôi tin rằng các nhà nghiên cứu cần giữ một tư tưởng tĩnh lặng để tránh ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm theo mong muốn của họ.

Mặt khác, nếu chúng ta giữ được tâm trí tĩnh lặng, tôi tin rằng nước xung quanh chúng ta sẽ trở nên rất thuần tịnh. Tôi nghĩ rằng sự thuần tịnh của nước phản ánh sự thuần tịnh của tâm linh chúng ta. Nếu chúng ta thiền định và đạt đến được trạng thái “nhập tĩnh”, chúng ta sẽ có sức mạnh tịnh hóa nước mạnh mẽ hơn nữa. Ở đây tôi muốn giải thích qua về sự khác biệt trong các cảnh giới của “tĩnh”. Quá trình loại trừ tạp niệm và đạt một cảnh giới “tĩnh” cao về cơ bản chính là quá trình tu luyện. Tôi dám đánh cược rằng kết quả thí nghiệm sẽ thật đáng kinh ngạc nếu một người tu luyện chân chính ngồi đả tọa bên cạnh một dòng suối.

Tôi cũng muốn nói thêm một chút về hoạt động phát thiện niệm tập thể. Những hoạt động như vậy có tính chất ngắn hạn và chỉ mang lại kết quả tạm thời. Điều quan trọng hơn là chúng ta phải bảo trì thiện niệm vào mọi lúc bởi vì mỗi niệm đều ảnh hưởng đến cơ thể và mọi thứ xung quanh chúng ta. Chỉ khi chúng ta không ngừng loại trừ những tư tưởng bất lương, nghiêm khắc yêu cầu chính mình, sống thiện lương thì chúng ta mới có thể tịnh hóa cơ thể và môi trường, cũng như bảo trì một thế giới hòa bình. Đây chính là đạo làm người được giáo hóa bởi các bậc thánh nhân.

Có một câu ngạn ngữ Trung Quốc rằng: “Thủy vi tâm chi kính” (Nước chính là tấm kính phản chiếu tâm chúng ta). Từ các thí nghiệm của tiến sĩ Emoto, giờ chúng ta đã có một hiểu biết rõ ràng rằng nước thuần tịnh là một sản phẩm của tâm thuần tịnh. Nếu như nhân tâm không cải biến thì không có cách nào cải biến nước được. Cũng như vậy, hoạt động phát thiện niệm tập thể chỉ có thể cải biến môi trường trên diện hẹp – một cách tạm thời. Muốn cải biến toàn bộ cục diện hoàn cảnh thì chỉ có cách làm cho nhân tâm hướng thiện, đạo đức thăng hoa. Giờ chúng ta đã thấy một thiện niệm có khả năng tịnh hóa nước như thế nào. Chủ đề thảo luận tiếp theo của chúng ta sẽ là cách thức tịnh hóa tâm trí.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2003/1/2/19875.html
http://www.pureinsight.org/node/1405

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 3) Lời bình luận của nhà vật lý về khám phá tinh thể nước phản ánh tư tưởng first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/12/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-3-loi-binh-luan-cua-nha-vat-ly-ve-kham-pha-tinh-the-nuoc-phan-anh-tu-tuong.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sốnghttps://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-2-nuoc-nguon-goc-cua-su-song.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-2-nuoc-nguon-goc-cua-su-song.html#respondSat, 28 Nov 2009 21:57:33 +0000https://chanhkien.org/?p=4136—Pháp môn tu luyện cổ Pháp Luân Đại Pháp làm sáng tỏ những bí ẩn của khoa học hiện đại Tác giả: Zhao Yihong [ChanhKien.org] Tôi tên là Zhao Yihong ở Tokyo, Nhật bản. Tôi sẽ chia sẻ với tất cả mọi người ở đây một số hình ảnh cho thấy vẻ đẹp và sự […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
—Pháp môn tu luyện cổ Pháp Luân Đại Pháp làm sáng tỏ những bí ẩn của khoa học hiện đại

Tác giả: Zhao Yihong

[ChanhKien.org]

Tôi tên là Zhao Yihong ở Tokyo, Nhật bản. Tôi sẽ chia sẻ với tất cả mọi người ở đây một số hình ảnh cho thấy vẻ đẹp và sự bí ẩn của các tinh thể nước và nói với mọi người rằng “Pháp Luân Đại Pháp thực sự là khoa học”. Những hình ảnh và giải thích được trích dẫn từ các quyển sách [The Messages from Water 1, 2- Những thông điệp từ nước 1, 2] và [Water Knows the Answer- Nước biết câu trả lời] với sự giúp đỡ của Tác giả/Biên tập viên Tiến sĩ Masaru Emoto, Chủ tịch của Hội Hado Quốc tế – International Hado Membership gọi tắt là IHM.

A-1A-2A-3
A-4A-5、A-6

Liên quan đến tinh thể nước, IHM đã làm một vài thí nghiệm thú vị. Tiến trình thí nghiệm (Ảnh A-3 và A-4) như sau. Nước dùng để thí nghiệm được nhỏ vào 100 chiếc đĩa và để vào một máy ướp lạnh (Ảnh A-1) trong 2 giờ đồng hồ. Sau đó các tinh thể nước đóng băng được đặt dưới một kính hiển vi để chụp ảnh chóp của nước đá với độ phóng đại từ 200 đến 500 lần (Ảnh A-5 và A-6). Từ đây về sau tinh thể nước đóng băng được gọi tắt là tinh thể.


A-7: Từ “thuỷ” trong tiếng Hán

Trong báo cáo bên cạnh hình ảnh này Tiến sĩ Emoto giải thích rằng trong khi chụp ảnh tinh thể nước bất kỳ cục nước đá nào tan thành nước cũng phải trải qua trạng thái như trong hình này. Khi nước đóng băng nó trở thành tinh thể. Vào lúc ngay trước khi nó tan trở lại thành nước (do tăng nhiệt độ giữa -5°C và 0°C) nó tạo thành một hình y hệt như chữ “Nước” trong tiếng Hán. Có thể là con người thời cổ đại đã biết điều này và tạo ra chữ “Nước” trong tiếng Hán dựa trên thông tin này? Điều này rất đáng để cho chúng ta nghiên cứu lại nguyên từ học của chữ Hán.

A-8: Thí nghiệm cho nước nghe nhạc

A-9

A-10

Tinh thể đóng băng sau khi được nghe bản Pastorale – khúc nhạc đồng quê, một trong những bản nhạc giao hưởng nổi tiếng nhất của Beethoven (hình A-9). Trông nó sáng chói, mới mẻ và vui tươi. Tinh thể tuyệt đẹp này chứng tỏ rằng bản nhạc hay có ảnh hưởng tích cực đến nước. Tinh thể đóng băng sau khi nghe bản “Farewell Song” – “Bài hát chia tay” của Chopin (hình A-10). Tiến sĩ Emoto bình luận trong bản báo cáo của ông: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy kinh ngạc như vậy khi tôi nhìn thấy tinh thể này”. Chẳng nhẽ nó có hình như vậy bởi vì nó bị ảnh hưởng của “Farewell Song” – “Bài hát chia tay”? Hình dạng tinh thể cơ bản của nó gần như được chia đều thành các phần nhỏ tách rời nhau ra. Độ phóng đại của kính hiển vi trong các ảnh là như nhau.

Có rất nhiều hình ảnh tinh thể nước đa dạng sau khi nước được nghe nhạc nhưng chúng ta hãy dừng lại ở những thí dụ này. Tôi chắc rằng bất kỳ ai lần đầu tiên nhìn thấy những hình ảnh này đều kinh sợ trước những hiển thị kỳ lạ của nước. Làm sao chúng ta có thể hiểu được việc các bản nhạc khác nhau tạo nên tinh thể có hình dạng khác nhau? Câu trả lời rõ ràng có thể được tìm thấy trong quyển sách Chuyển Pháp Luân.

“Lịch sử xưa nay trong giới tư tưởng học vẫn luôn có vấn đề rằng vật chất là đệ nhất tính hay tinh thần là đệ nhất tính; nghị luận mãi, tranh luận mãi về vấn đề ấy. Kỳ thực tôi nói với mọi người rằng, vật chất và tinh thần chúng là nhất tính.”(Chuyển Pháp Luân)

Những hình ảnh tinh thể ở trên đã gợi cho chúng ta ý nghĩ rằng vật chất và tinh thần là một.


B-1: Một người nghiệp dư thực hiện một thí nghiệm thú vị
là nói “Cảm ơn” và “Đồ ngu” với cơm hàng ngày.

Trong thí nghiệm này cơm được để trong hai lọ thủy tinh giống hệt nhau. Hai học sinh cấp một nói với cơm trong lọ hàng ngày trong một tháng liền ngay sau khi trở về nhà từ trường học. Kết quả là cơm trong lọ được trẻ em nói “Cảm ơn” gần như được lên men và có mùi thơm của lúa mạch nha chín. Còn lọ cơm bị trẻ em bảo là “Đồ ngu” chuyển sang màu đen và bị thiu thối. Họ nói rằng mùi thối của nó rất ghê tởm không thể tả được. Báo cáo nói, “Đây không phải là thí nghiệm của viện nghiên cứu làm, nên kết quả có thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên nhiều người đã cùng làm thí nghiệm đó và thấy kết quả giống hệt nhau. Thí nghiệm này không chỉ liên quan đến nước mà còn các vi khuẩn. Vi khuẩn cũng như chúng ta làm việc chăm chỉ khi được khen và trở nên lười nhác khi bị lợi dụng. Dường như là bằng việc nói “Cảm ơn” và “Đồ ngu” vi khuẩn đã kết hợp nhau lại để trở thành có ích hoặc có hại.

Tiếp theo đây chúng ta sẽ xem một số hình ảnh chụp được sau khi cho nước xem chữ.


B-2: Thí nghiệm cho nước xem chữ


B-3

Ảnh này được chụp sau khi cho nước xem chữ “Tình yêu/Biết ơn”. Tác giả nói trong bản báo cáo của mình rằng “chúng tôi chụp ảnh của rất nhiều tinh thể từ mẫu nước này nhưng đây là tinh thể tuyệt đẹp đầu tiên mà chúng tôi nhìn thấy. Thực sự là không có gì quan trọng hơn tình yêu và lòng biết ơn trên thế giới này. Bằng cách biểu lộ tình yêu và lòng biết ơn nước ở quanh chúng ta và trong cơ thể chúng ta thay đổi rất đẹp. Chúng ta muốn áp dụng điều này trong cuộc sống hàng ngày, có phải vậy không?”


B-4

Những chữ được dùng để cho nước xem là: “Mày làm tao phát ốm. Tao sẽ giết mày.” Báo cáo có đoạn “đây là những từ mà thanh niên ngày nay hay dùng. Kết quả là hình dạng của [tinh thể] nước trở nên xấu như chúng tôi đã dự đoán sau khi chúng tôi cho mẫu nước xem những từ này. Tinh thể bị méo mó và phân tán. Nó thực sự là hình ảnh của những chữ “Mày làm tao phát ốm” và “Tao sẽ giết mày.” Thật là đáng sợ khi chúng ta sống trong một thế giới mà những từ như thế này được sử dụng tràn lan. Đã đến lúc chúng ta phải làm một cái gì đó”


B-5: Nước nhận sóng điện từ của TV (trong vòng 4 giờ)


B-6: Nước cất được dán chữ “Tình yêu/
Sự biết ơn” dưới tác dụng của sóng điện từ

B-7: Nước cất không dán chữ
dưới tác dụng của sóng điện từ.

B-8

B-9

Nước cất được cho xem phim “Cuộc sống” của NHK (như trên ảnh B-9). Tác giả nói trong báo cáo, “Chúng tôi đã thử làm một thí nghiệm dựa trên một ý tưởng là thậm chí với cùng một chiếc TV, các chương trình khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Khi làm như vậy thậm chí nước cất không dán chữ “Tình yêu/Sự biết ơn” cũng cho ra tinh thể đẹp như thế này. Sau khi xem những bức ảnh này, chúng ta dễ có một ấn tượng là: dù được cho xem chữ, nghe nhạc hay xem TV, nước cho chúng ta thấy một khả năng kỳ lạ là có thể nắm bắt được thông điệp chung ẩn giấu dưới hình dạng bên ngoài và thậm chí có thể phân biệt được mức độ đạo đức của nó.” Làm sao chúng ta có thể hiểu được nhiệm vụ tinh thần bí ẩn mà nước thực hiện ở đây? Một lần nữa, một lời giảng trong quyển sách Chuyển Pháp Luân cho chúng ta một đầu mối:

“Bất kể vật chất nào trong vũ trụ, bao gồm tất cả toàn thể những vật chất tràn đầy trong toàn vũ trụ, chúng đều là những linh thể, chúng đều có tư tưởng; chúng đều là những hình thái tồn tại của Pháp vũ trụ tại các tầng khác nhau.”(Chuyển Pháp Luân)

Chẳng phải kết quả của các thí nghiệm ở đây cho chúng ta thấy rõ ràng rằng nước có sinh mệnh và có thể phân biệt tốt xấu? Sự duy linh này không chỉ giới hạn ở nước mà còn có thể được tìm thấy ở các vật chất khác nữa.

Một lời giảng khác trong quyển Chuyển Pháp Luân sẽ giúp chúng ta hiểu nguyên tắc chung đằng sau những dạng vật chất khác nhau này.

“Vậy Phật Pháp là gì? Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản. Phật Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các tầng khác nhau có các tác dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện càng phức tạp. Vi lạp không khí, đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật chất đều có tồn tại trong nó cái chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy;”

“Chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn để nhận định tốt và xấu trong vũ trụ.”

“Dẫu tiêu chuẩn đạo đức của nhân loại có thay đổi thế nào đi nữa, đặc tính của vũ trụ không hề thay đổi; Nó chính là tiêu chuẩn duy nhất để xác định người tốt xấu.”

(Chuyển Pháp Luân)

Các thí nghiệm trên đã chứng tỏ cho chúng ta một cách sống động rằng tất cả các vật chất bao gồm cả tinh thể nước đều có thể phân biệt tốt xấu và đều là các thực thể sống.

IHM cũng đã tiến hành một loạt các thí nghiệm cho thấy rằng nước có khả năng phản ánh ý thức của con người và có thể bị thay đổi bởi ý thức của con người. Tiến sĩ Emoto viết trong báo cáo thí nghiệm của mình rằng, “Cho đến nay, chúng ta đã có những kinh nghiệm rất thú vị về việc cho nước nghe nhạc, xem chữ và tên. Và việc chúng tôi thử cho nước xem chữ cho kết quả hơn cả chúng tôi mong đợi. Với kết quả của những thí nghiệm này, chúng tôi có thể đi đến một giả thuyết rằng các thông điệp có thể được truyền qua “hình dạng” như chữ viết và hình ảnh. Tuy nhiên chúng tôi đã không dám mong đợi rằng tinh thể sẽ cho thấy những thay đổi rõ ràng sâu sắc như vậy. Chúng tôi đã nhận ra rằng nước lưu giữ và truyền thông điệp. Vì vậy chúng tôi đã không thể cưỡng lại việc bước vào lĩnh vực ý thức của con người. Chúng tôi muốn tìm ra những thay đổi mà suy nghĩ có thể gây ra.”

Bây giờ hãy để tôi giới thiệu kết quả của những thí nghiệm về ý thức của nước.


C-1: Đây là nước máy được láy từ Kobe ngay
sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra

C-2: Đây là nước được lấy
cùng một chỗ ba tháng sau

Trong báo cáo của mình Tiến sĩ Emoto mô tả: “Vào ngày 17/01/1995, ba ngày sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra ở khu vực Kobe, chúng tôi chụp ảnh của tinh thể nước máy lấy ở Kobe (có thể được tìm thấy lúc đó). Cứ như là nước đã nắm bắt được sự sợ hãi, hoảng hốt và đau buồn sâu sắc của con người ngay sau khi trận động đất xảy ra. Các tinh thể bị phá hủy hoàn toàn. Nó là hình ảnh làm mọi người rùng mình. Chúng tôi thậm chí còn cảm thấy rằng chúng tôi không thể công bố hình ảnh này vì sự đau khổ tột bực của nó. Tuy nhiên, ba tháng sau đó…Sự giúp đỡ và thông cảm từ trên khắp thế giới được gửi đến nhân dân Kobe. Tinh thể này dường như đã bày tỏ những cảm giác của quan tâm và mong ước.”

Một thí nghiệm về ý thức khác được thực hiện với nước máy lấy từ Shinagawa, Tokyo.


C-3: Nước máy nguyên mẫu lấy
trước ngày thí nghiệm “Khí,
Tâm hồn và Tinh thần của Tình yêu”
 
C-4: Cùng mẫu nước sau khi nhận được ý
thức “Khí, Tâm hồn và Tinh thần
của Tình yêu” từ 500 người.

Trong thí nghiệm này, người làm thí nghiệm gửi thư đến 500 giảng viên HADO trên toàn nước Nhật (những người tốt nghiệp nghiên cứu HADO) để đề nghị họ hợp tác. Anh ta yêu cầu những người này “Vào 2:00 ngày 2 tháng Hai năm 1997, tôi sẽ để một cốc chứa nước máy lấy từ Shinagawa-ku trên bàn làm việc của tôi. Hãy truyền cảm giác của mình đến mẫu nước đó cùng một lúc từ khắp nước Nhật. Tất nhiên, để nước này trở thành nước sạch, hãy gửi “Khí, Tâm hồn và Tinh thần của Tình yêu” và điều mong ước rằng nước sẽ trở nên sạch. Xin cảm ơn rất nhiều.”

Tiến sĩ Emoto báo cáo, “Tất nhiên, không có sự thay đổi vật lý nào. Chúng tôi đã không chờ đợi nhưng đã có thể đạt được một sự thay đổi rõ ràng về điều kiện của nước. Tất cả nhân viên đều xúc động đến nỗi họ gần như trực khóc. Chúng tôi cảm ơn sâu sắc tất cả những người đã hợp tác với chúng tôi trên toàn bộ nước Nhật. Chúng tôi đã bắt đầu cảm thấy rằng ý nghĩ của mọi người có thể được tập hợp lại bất kể họ ở bao xa.” Bằng cách này, tinh thể nước đã chứng tỏ với chúng tôi rõ ràng là ý thức của con người thực sự là một vật chất có tồn tại, và vật chất này thậm chí có thể làm thay đổi môi trường của chúng ta.

Mặc dù thí nghiệm ý thức này rất mới và mang tính cách mạng, tuy nhiên kết luận thu được thì tuyệt đối không phải như vậy. Trong quyển sách Chuyển Pháp Luân, Ông Lý Hồng Chí đã mô tả bản chất của ý thức như sau:

“Hiện nay những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đã phát hiện rằng, ý niệm của con người chúng ta, tư duy trong đại não con người có thể sinh ra một loại vật chất. Chúng tôi ở tầng rất cao nhìn thấy nó thật sự là một loại vật chất; tuy nhiên loại vật chất ấy không giống như hình thức sóng điện não mà hiện nay chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là một loại hình thức đại não hoàn chỉnh.”(Chuyển Pháp Luân)

Chúng tôi không thể đi lạc đề về một lời giảng khác của Ông Lý, rằng:

“Là một cá nhân, nếu thuận với đặc tính Chân Thiện Nhẫn này của vũ trụ, thì mới là một người tốt; còn người hành xử trái biệt với đặc tính này, thì đúng là một người xấu.”(Chuyển Pháp Luân)

Phương châm đạo lý này nghe đơn giản nhưng rõ ràng và không nên bị coi nhẹ như những ảnh tinh thể nước ở đây nữa.

Chữ Thiện có thể sinh ra tình yêu, cái đẹp, sự biết ơn, sự thông cảm, sự rộng lượng, sự giúp đỡ, sự đồng cảm, và những điều tương tự. Chẳng phải những tinh thể cho chúng ta thấy rằng nếu chúng ta đồng hóa với nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ, chúng ta sẽ có sự hòa hợp và hạnh phúc cao nhất, nếu không chúng ta sẽ có những biểu hiện tiêu cực như sự khổ cực và xấu xa.

Trong vài phút còn lại, hãy để chúng ta đi vào thế giới kỳ diệu mà tinh thể có thể đưa chúng ta đến bằng cách nhìn qua những thí nghiệm này.

Trong những thí nghiệm này, nước được cho xem những từ “Thông thái”, “Vũ trụ” và “Tình yêu/Cảm ơn” bằng các thứ tiếng: Nhật, Anh và Đức. Nước ban đầu được sử dụng là nước lọc cùng tiêu chuẩn. Kết quả là các tinh thể được hình thành có hình dạng tương tụ bất chấp sự khác biệt về ngôn ngữ.

Thông thái (Nhật/Anh/Đức):

D-1: Tinh thể sau khi
đọc “Thông thái”
bằng tiếng Nhật
D-2: Tinh thể sau khi
đọc “Thông thái”
bằng tiếng Anh
D-3: Tinh thể sau khi
đọc “Thông thái”
bằng tiếng Đức

Trông chúng khá giống nhau. Khoảng trống tối ở giữa giống hệt nhau.

Vũ trụ (Nhật/Anh/Hy lạp):

D-4: Tinh thể sau khi
đọc “Vũ trụ”
bằng tiếng Nhật
D-5: Tinh thể sau khi
đọc “Vũ trụ”
bằng tiếng Anh
D-6: Tinh thể sau khi
đọc “Vũ trụ”
bằng tiếng Hy lạp

Tình yêu/Cảm ơn (Anh/Nhật/Đức):

D-7: Tinh thể sau khi
đọc “Tình yêu/Cảm ơn”
bằng tiếng Anh
D-8: Tinh thể sau khi
đọc “Tình yêu/Cảm ơn”
bằng tiếng Nhật
D-9: Tinh thể sau khi
đọc “Tình yêu/Cảm ơn”
bằng tiếng Đức

Lý Sư phụ đã giảng trong quyển Chuyển Pháp Luân:

“tư duy xuất phát từ đại não chính là vật chất.” (Chuyển Pháp Luân)

Ông chỉ ra rõ ràng rằng:

“tín tức chân chính phát xuất ra trong đại não người không phải là bản thân đại não người ta phát huy tác dụng, không phải bản thân đại não phát xuất ra, mà là nguyên thần của người ta phát xuất ra.”

“Thân thể người ta nếu không có nguyên thần của mình, không có tính khí tính cách, đặc tính, không có những thứ ấy, thì chính là một tảng thịt; nó không thể là một con người hoàn chỉnh, có mang theo cá tính tự ngã độc lập. Như vậy đại não của con người khởi tác dụng gì? Nếu yêu cầu tôi giảng, thì đại não con người với hình thức trong không gian vật chất này của chúng ta, nó chỉ là một [nhà máy] công xưởng gia công. Tín tức thật sự là do nguyên thần phát xuất ra; nhưng thứ mà nó phát xuất ra không phải là ngôn ngữ; nó phát xuất ra một chủng tín tức vũ trụ, đại biểu cho một ý nghĩa nào đó. Đại não của chúng ta sau khi tiếp thụ chỉ lệnh ấy, liền biến đổi nó thành ngôn ngữ hiện nay, hình thức biểu đạt như thế. Chúng ta thông qua tư thế tay, ánh mắt, hay các động tác đủ loại để biểu đạt nó ra; đại não là có tác dụng ấy. [Còn] chỉ lệnh chân chính, tư duy thật sự là do nguyên thần của con người phát xuất ra.”

(Chuyển Pháp Luân)

Tinh thể nước cho chúng ta thấy rõ ràng là mặc dù một từ có cùng nghĩa được viết một cách khác nhau bằng các ngôn ngữ khác nhau, cái mà nước nhìn thấy chính xác là bản chất của từ đó mà cũng là một thực thể sống và do đó có thể phản ánh một cách tự nhiên từ đó trong các hình dạng tương tự.

Tiến sĩ Emoto viết trong đoạn kết luận của báo cáo của mình, “Đánh giá nước bằng cách chụp ảnh tinh thể nước là một cách tiếp cận mới xuất phát từ một quan điểm hoàn toàn khác so với các phương pháp đánh giá và phân tích khoa học truyền thống bình thường. Cái mà chúng tôi học được từ những thí nghiệm này là chúng ta không biết gì về nước cả. Các câu hỏi và vấn đề mới chồng chất lên nhau.”

Do đó, ông đặt câu hỏi một cách sắc sảo, “Có phải nước đến từ vũ trụ?” Sau đó ông tự trả lời mình một cách quả quyết, “Hãy bắt đầu với những câu hỏi về nước tồn tại trên mặt đất. Tại sao nước lại tồn tại? Nguồn gốc của nước trước kia được bao bọc trong sự bí ẩn. Khi các cuộc thăm dò vũ trụ tiến bộ, nó đã được xác nhận rằng nước cũng tồn tại trên Sao Hỏa. Chúng ta bắt đầu hiểu rằng nước không chỉ có trên trái đất mà trong tất cả các nơi trong vũ trụ.” “Tất cả chúng ta đều biết rằng không có nước thì sự sống không thể được sinh ra. Nếu như nguồn gốc của sự sống, có nghĩa là nước bắt nguồn từ vũ trụ, thì chúng ta có thể giả sử là loài người có thể có nguồn gốc ngoài trái đất.” “ Nếu thực tế này được công nhận, thì nguồn gốc của loài người, thuyết tiến hóa của Darwin, và các giả thuyết khác về lịch sử của trái đất và sự sống sẽ bị thay đổi hoàn toàn.” “Vũ trụ quá rộng lớn đối với con người và nó là một thực thể không thể tưởng tượng được. Sự thực của vấn đề là bằng cách nghiên cứu nước sâu hơn nữa, chúng ta có thể hiểu biết hơn về vũ trụ. Chỉ ý nghĩ đó thôi đã quá là hứng thú.”

Trong một bài giảng của Ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Ông Lý đã trả lời một trong những câu hỏi của một học trò của mình về nguồn gốc của sự sống như sau:

“Thế nhưng, tôi có thể giảng cho chư vị bản nguyên của vật chất và sinh mệnh tồn tại trong các cảnh giới khác nhau trong thiên thể của chúng ta là gì. Kỳ thực, bản nguyên của vật chất chính là nước. Nước —bản nguyên của vũ trụ— không phải nước trên Trái Đất người thường.”

“trong các tầng thứ khác nhau tồn tại các bản nguyên vật chất khác nhau, nghĩa tồn tại bản nguyên vật chất là nước khác nhau. Càng lên cao, mật độ của nước kia càng lớn. Nó có thể tổ thành lạp tử khác nhau, nước khác nhau, sinh mệnh khác nhau của các không gian khác nhau.”

“toàn bộ vũ trụ mà chúng ta có thể nhận thức được này, chính là do nước cấu thành”

(Pháp Luân Đại Pháp • Giảng Pháp Tại Pháp Hội Mỹ Quốc [1997])

Nước, sự sống, vũ trụ và đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn: quan hệ thực sự giữa chúng là gì? Để tìm một câu trả lời tốt hơn cho chính mình, tôi chân thành mời quý vị đọc bộ sưu tập các bài viết của Pháp Luân Đại Pháp.

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/3/27/14147.html

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-2-nuoc-nguon-goc-cua-su-song.html/feed0
Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emotohttps://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-1-cuoc-phong-van-voi-tien-si-masaru-emoto.htmlhttps://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-1-cuoc-phong-van-voi-tien-si-masaru-emoto.html#respondThu, 26 Nov 2009 21:11:18 +0000https://chanhkien.org/?p=4091Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến [Chanhkien.org] Vào tháng 5 năm 2002, một phóng viên của Zhengjian.net (Chánh Kiến Net) đã phỏng vấn tiến sĩ Masaru Emoto, chủ tịch Học viện Hội Hado Quốc tế (IHM) và là tác giả cuốn sách “Thông điệp của nước”. Con trai của tiến sĩ Emoto là người […]

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emoto first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
Tác giả: Một phóng viên Chánh Kiến

[Chanhkien.org] Vào tháng 5 năm 2002, một phóng viên của Zhengjian.net (Chánh Kiến Net) đã phỏng vấn tiến sĩ Masaru Emoto, chủ tịch Học viện Hội Hado Quốc tế (IHM) và là tác giả cuốn sách “Thông điệp của nước”. Con trai của tiến sĩ Emoto là người đã hiệp trợ phiên dịch.

PV: Phóng viên Chánh Kiến

TS: Tiến sĩ Masaru Emoto

PV: Tiến sĩ Emoto, tôi đã đọc cuốn sách “Thông điệp của nước”. Tôi cảm thấy nó thật độc đáo. Ông đã nêu ra một số chủ đề thật ý nghĩa. Cuối cuối sách, ông viết: “Nếu sự tồn tại nguyên thủy của nước không ở tại Trái đất mà đến từ không gian bên ngoài, nó có nghĩa rằng sự tồn tại của chúng ta cũng bắt nguồn từ không gian vũ trụ.” Ông có thể giải thích rõ hơn được không ạ?

TS: Năm năm trước, một tiểu hành tinh mang theo băng đã rơi xuống Trái đất. Các nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Hawaii đã đo đạc và khám phá ra rằng nó nặng 100 tons (101,6 tấn). Mỗi năm có hàng chục triệu mảnh băng lớn rơi xuống Trái đất từ ngoài không gian. Nếu chúng ta tính toán khối lượng nước mà chúng mang theo, người ta sẽ thấy rằng rất có thể nước nguyên thủy trên Trái đất có nguồn gốc từ không gian. Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại Học Hawaii cho rằng có thể ban đầu không có nước trên Trái đất và nước ở Trái đất đến từ ngoài không gian. Nhiều nhà khoa học và nhà nghiên cứu không đồng ý với lý thuyết này, nhưng tôi tin rằng nó là đúng.

PV: Vì nước đến từ ngoài không gian, nên sinh mệnh cũng đến từ ngoài không gian. Đây là điều ông nghĩ tới phải không ạ?

TS: Vâng, tất nhiên rồi.

PV: Cuối cuốn sách, ông viết: “Đích đến cuối cùng của thế giới hỗn loạn này là nơi đâu? Con người đã xuất sinh như thế nào? Lịch sử nhân loại là gì? Tương lai rồi sẽ ra sao?”

TS: Tôi nghĩ rằng con người cũng chính là nước. Cơ thể người là chiếc áo mà chúng ta khoác lên khi ở tại hành tinh này, và ở hành tinh khác, chiếc áo có thể là hoàn toàn khác. Nước rải rác khắp mọi nơi trong toàn vũ trụ. Tôi tin rằng Trái đất giống như quả thận của vũ trụ. Rất nhiều nước của vũ trụ đã đến hành tinh này. Nó phải được tịnh hóa và trở lại những hành tinh khác để tịnh hóa những nơi đó. Những hành tinh này cần nước đã được tịnh hóa.

Nước chính là chúng ta. Chúng ta, con người cần phải tự mình tịnh hóa. Lý do chúng ta tới đây từ không gian vũ trụ là để được tịnh hóa. Rồi chúng ta phải trở về với vũ trụ. Những hành tinh khác đang chờ đợi chúng ta. Họ đang nói: “Hãy trở về! Hãy trở về! Nhanh lên và hãy trở về! Nhanh lên!” Nhưng chúng ta vẫn còn ở trên Trái đất này và bị luân hồi. Chúng ta không thể tiếp tục bị luân hồi như thế này được. Chúng ta phải tốt nghiệp và phải trở về. Chúng ta, con người cũng giống như nước. Chúng ta cần trở về những hành tinh khác.

PV: Nhưng thực tế là thế giới này đang ngày càng dơ bẩn hơn.

TS: Nếu chúng ta tiếp tục sống như thế này, hành tinh Trái đất có thể phải đối mặt với những thảm họa và có thể đi đến kết thúc. Nếu chúng ta không thay đối cách sống của chúng ta, chúng ta có thể sẽ bị nạn hồng thủy, như những gì đã xảy ra với con thuyền Noah.

PV: Vậy chúng ta có thể tránh những thảm họa như vậy bằng cách nào ạ?

TS: Nó rất dễ. Sự yêu thương và lòng biết ơn, với mọi người và với mọi vật. Nếu 10% những người trong chúng ta có thể làm được điều đó thì thảm họa sẽ không thể xảy ra.

PV: Tại sao lại là 10% ạ?

TS: Các thí nghiệm đã cho thấy nếu 10% ổ vi khuẩn chứa các vi khuẩn tốt, 10% chứa các vi khuẩn xấu, 80% là trung tính thì cả ổ vi khuẩn sẽ trở thành tốt, và vi khuẩn tốt sẽ chiến thắng.

Con trai của tiến sĩ Emoto nói thêm: “Tiến sĩ Emoto đã làm thí nghiệm với nước bằng cách đặt hai mẩu giấy lên một chai nước. Một ghi: “Cám ơn!” còn cái kia ghi: “Ngớ ngẩn!” Nước đã hình thành nên các tinh thể tuyệt đẹp, cho thấy rằng “Cám ơn” đã chiến thắng “Ngớ ngẩn”. Đó là tại sao tiến sĩ Emoto đang cố gắng tìm ra 10% số người trên Trái đất còn chính niệm (ý niệm chân chính). Sẽ có hòa bình trên Trái đất chừng nào còn có 10% những người đó.”

TS: Người Trung Quốc là rất quan trọng. Có rất nhiều người Trung Quốc. Tôi không hiểu tại sao chính phủ Trung Quốc lại cải biến ký tự Trung văn [thành giản thể] (Ông nhìn vào tờ báo Hoa ngữ mà phóng viên Chánh Kiến đang cầm trong tay). Chữ này còn được. Nó là ký tự phồn thể.

PV: Tại sao ông nghĩ có sự khác biệt giữa chữ giản thể và chữ phồn thể ạ?

TS: Dựa trên cách mà nước kết tinh, chữ phồn thể là tốt. Tôi đã sử dụng chữ phồn thể để làm thí nghiệm của mình. Các tinh thể được hình thành trông rất đẹp.

PV: Tại sao ông lại so sánh chữ phồn thể và chữ giản thể trong thí nghiệm của mình ạ?

TS: Chưa đâu. Tôi chỉ mới thử chút thôi. Văn tự cũng là sinh mệnh, và một sinh mệnh có nghĩa là nó đang sống. Đây chính là đặc tính tối quan trọng của nhân loại. Tôi là người Nhật, và tôi thực sự yêu thích văn tự Nhật Bản. Nếu ai đó buộc tôi thôi sử dụng văn tự Nhật Bản, tôi sẽ không thể sống được. Tôi thực sự không hiểu nổi chính phủ Trung Quốc.

PV: Sau khi thực hiện các thí nghiệm với nước, ông đã có suy nghĩ gì khác về nhân loại ạ?

TS: Chúng ta đến từ đâu, tại sao chúng ta lại ở đây, và chúng ta đang đi tới đâu là bí ẩn quan trọng, bí ẩn nên được hé lộ. Các thí nghiệm với nước có thể cho phép chúng ta vén lên bức màn bí mật này.

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2002/12/27/19760.html
http://www.pureinsight.org/node/1404

The post Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 1) Cuộc phỏng vấn với tiến sĩ Masaru Emoto first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/11/the-gioi-khac-trong-mot-giot-nuoc-phan-1-cuoc-phong-van-voi-tien-si-masaru-emoto.html/feed0
Đời sống bí mật của cây cốihttps://chanhkien.org/2009/07/doi-song-bi-mat-cua-cay-coi.htmlhttps://chanhkien.org/2009/07/doi-song-bi-mat-cua-cay-coi.html#respondMon, 06 Jul 2009 08:19:53 +0000https://chanhkien.org/?p=2131[Chanhkien.org] Cleve Backster là một chuyên gia người Mỹ về phát hiện nói dối. Vào năm 1966, bằng cách sử dụng một máy dò nói dối, ông đã tình cờ khám phá ra rằng thực vật cũng có những hoạt động cảm xúc ở cấp cao và khá tương đồng với cảm tình ở con […]

The post Đời sống bí mật của cây cối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Cleve Backster là một chuyên gia người Mỹ về phát hiện nói dối. Vào năm 1966, bằng cách sử dụng một máy dò nói dối, ông đã tình cờ khám phá ra rằng thực vật cũng có những hoạt động cảm xúc ở cấp cao và khá tương đồng với cảm tình ở con người. Ông đã thực hiện một chuỗi các nghiên cứu làm chấn động cả thế giới.

Thực vật cũng có cảm tình

Một ngày, Backster nối một máy dò nói dối với những chiếc lá của cây huyết dụ, thường được biết với cái tên “cây rồng”. Ông muốn biết sau bao lâu thì những chiếc lá phản ứng khi ông tưới nước vào rễ của cây. Trên lý thuyết, một cái cây sẽ gia tăng tính dẫn và giảm sự kháng cự khi nó hấp thụ nước, và đường cong được ghi lại trên biểu đồ sẽ có hình hướng lên. Nhưng sự thật là, đường vẽ lại cong xuống dưới. Khi một máy dò nói dối được nối vào cơ thể người, bút vẽ sẽ ghi lại những đường cong khác nhau phụ thuộc vào sự thay đổi trong tâm trạng con người. Sự phản ứng của cây huyết dụ cũng lên xuống như là tâm trạng con người. Dường như nó rất hạnh phúc khi được uống nước.

Thực vật có tri giác ngoại cảm

Backster muốn biết liệu thực vật có thể có phản ứng nào khác không. Theo kinh nghiệm của ông, Backster biết rằng có một cách tốt để gây ra phản ứng mạnh mẽ đó là lấy người này để đe dọa người kia. Vì vậy, Backster nhúng lá cây vào nước cà phê nóng. Không có phản ứng nào xảy ra. Ông bèn nghĩ ra một điều đáng sợ hơn: đốt chiếc lá mà được nối với máy dò nói dối. Với ý nghĩ này, thậm chí trước khi ông làm thí nghiệm, một đường cong lập tức được vẽ lên giấy. Khi ông trở lại với một bao diêm, ông thấy một đường cong khác xuất hiện. Dường như khi cái cây thấy ông quyết tâm đốt nó, nó đã rất sợ sệt. Nếu ông do dự hay ngập ngừng khi muốn đốt cái cây, phản ứng được ghi lại bởi máy dò nói dối là không rõ ràng. Và khi ông giả vờ đốt chiếc lá, cái cây hầu như không có phản ứng gì. Cái cây thậm chí còn có thể phân biệt được ý định thực sự hay là sự giả vờ. Backster gần như đã chạy ra ngoài phố và hét lên rằng: “Thực vật cũng có cảm tình! Thực vật cũng có cảm tình!” Với khám phá đáng kinh ngạc này, cuộc sống của ông đã thay đổi mãi mãi.

Sau này, khi Backster và đồng nghiệp làm các thí nghiệm khắp đất nước với các dụng cụ khác nhau và các loại cây khác nhau, họ đã quan sát được những kết quả tương tự. Họ khám phá ra rằng thậm chí nếu lá cây bị bứt ra hay bị cắt thành từng mảnh, phản ứng tương tự cũng xảy ra với những mảnh lá này khi chúng được đặt gần điện cực của máy dò nói dối. Khi một con chó hay một người thiếu thân thiện thình lình bước vào, cái cây cũng lại có phản ứng.

Thực vật là chuyên gia về phát hiện nói dối

Nhìn chung, khi tiến hành thí nghiệm với máy dò nói dối, các cực được nối vào người bị tình nghi và người bị tình nghi được hỏi các câu hỏi đã được thiết kế tỉ mỉ. Ai cũng có một phần minh bạch của mình, thường được gọi là “lương tri.” Vì vậy, không kể là bao nhiêu lý do và cớ mà một người viện vào, thì khi nói dối hay thực hiện một hành vi xấu, người đó biết rõ rằng đó là một sự lừa dối, hay một hành vi xấu. Do đó, trường điện của thân thể người đó thay đổi, và sự thay đổi này có thể được ghi lại bởi các thiết bị.

Backster đã làm một thí nghiệm, trong đó ông nối máy dò nói dối vào một cái cây và rồi hỏi một người vài câu hỏi. Kết quả là, Backster đã khám phá ra rằng cái cây có thể nói được người ấy có nói dối hay không. Ông hỏi người đó năm sinh, đưa cho anh ta bảy sự lựa chọn và hướng dẫn anh ta trả lời “không” với tất cả số đó, trong đó có một câu trả lời đúng. Khi người đó trả lời “không” với năm sinh chính xác, cái cây có phản ứng và một hình chóp nhọn trên giấy được vẽ ra.

Tiến sĩ Aristide Esser, trưởng nhóm nghiên cứu y tế thuộc Bệnh viện bang Rockland tại New York, đã làm lại thí nghiệm này bằng cách hỏi một người đàn ông một câu hỏi mà có câu trả lời không chính xác ở phía trước một cái cây mà anh ta đã chăm sóc nó từ khi nó mới nảy mầm. Cái cây không che dấu cho người chủ của nó chút nào. Câu trả lời không chính xác được phản ánh ở biểu đồ được vẽ trên giấy. Ông Esser, người không tin Backster, đã tận mắt chứng kiến rằng lý thuyết của Backster là hoàn toàn đúng đắn.

Thực vật có thể nhận ra con người

Để kiểm tra xem liệu một cái cây có thể nhận ra các đồ vật hay không, Backster đã gọi tới sáu sinh viên, bịt mắt họ, và yêu cầu họ rút thăm từ một chiếc mũ. Một trong số các sự lựa chọn có hướng dẫn về việc nhổ rễ hai cái cây trong phòng và phá hoại nó bằng cách dẫm chân lên. “Kẻ sát nhân” phải làm điều đó một mình, và không ai biết được danh tính của thủ phạm, bao gồm cả Backster. Bằng cách đó, cái cây còn lại không thể cảm nhận được ai là “kẻ giết người” từ ý nghĩ của mọi người. Thí nghiệm được thiết kế để cái cây sẽ là nhân chứng duy nhất.

Khi cái cây còn lại được nối vào một máy dò nói dối, mỗi sinh viên được yêu cầu phải đi qua nó. Cái cây không có phản ứng gì với năm sinh viên. Khi người sinh viên đã thực hiện hành vi ‘tội ác’ đi ngang qua, bút điện tử bắt đầu vẽ một cách điên cuồng. Phản ứng này chỉ ra cho Backster rằng những cái cây có khả năng ghi nhớ và nhận diện con người hay đồ vật mà làm hại chúng.

Xúc cảm từ cự ly xa

Cây cối có một mối liên hệ mật thiết với chủ sở hữu chúng. Lấy ví dụ, khi Backster trở về New York từ New Jersey, ông thấy trên biểu đồ ghi lại rằng tất cả những cái cây của ông đều đã có phản ứng. Ông tự hỏi liệu những cái cây có chỉ ra rằng chúng cảm thấy “nhẹ nhõm” hay “chào đón” khi ông trở về hay không. Ông để ý rằng thời gian mà những cái cây phản ứng là thời điểm mà ông đã quyết định trở về nhà từ New York.

Xúc cảm với đời sống ở mức vi quan

Backster đã khám phá ra rằng đường cong cố định tương tự sẽ được vẽ trên biểu đồ khi cây cối dường như cảm giác được cái chết của bất kỳ một mô sống nào, thậm chí ở mức tế bào. Ông tình cờ chú ý đến điều này khi ông trộn mứt vào sữa chua mà ông định ăn. Dường như, chất bảo quản có trong mứt đã giết chết một vài vi khuẩn gây men trong sữa chua, và những cái cây có thể cảm thụ được điều này. Backster cũng đã khám phá ra rằng cây cối có phản ứng khi ông đổ nước nóng vào bồn. Dường như chúng cảm thụ được cái chết của những vi khuẩn ở trong đường ống nước. Để kiểm nghiệm giả thuyết này, Backster làm một thí nghiệm và thấy rằng khi tôm biển được cho vào nước sôi thông qua một cỗ máy tự động và không cần con người tham gia, cây cối có một phản ứng rất mạnh mẽ.

Nhịp đập tim của một quả trứng

Lại trong một lần tình cờ, Backster để ý đến các phản ứng của cây cối khi ông đập một quả trứng. Ông quyết định theo đuổi thí nghiệm này và nối quả trứng với thiết bị của ông. Sau chín giờ đồng hồ, biểu đồ ghi lại được nhịp đập tim của một bào thai gà con – từ 160 đến 170 nhịp đập trong một phút – tương đương với bào thai gà con ở trong lò ấp trứng từ ba đến bốn ngày. Tuy nhiên, quả trứng này là một quả trứng chưa được thụ tinh mà ông mua trong cửa hàng. Cũng không có hệ thống tuần hoàn máu ở bên trong quả trứng đó. Backster liệu có thể giải thích như thế nào về xung động [nhịp tim] của quả trứng này?

Trong các thí nghiệm được tiến hành bởi Trường Y của Đại học Yale trong những năm 1930 và 1940, người mà sau này là giáo sư Harold Saxton Burr đã khám phá ra rằng có tồn tại trường năng lượng xung quanh thực vật, cây cối, con người, và các tế bào. Backster nghĩ rằng các thí nghiệm của Burr có thể đưa ra câu trả lời cho quả trứng của ông. Ông đã quyết định đặt qua một bên các thí nghiệm với cây cối của ông trong một khoảng thời gian và thay vào đó bằng các thí nghiệm với trứng, qua đó tìm hiểu các vấn đề liên quan đến nguồn gốc của sự sống.

Tham khảo:

“Đời sống bí mật của cây cối” của tác giả Peter Tompkins và Christopher Bird

Bài viết trên được tổng kết từ bốn bài viết dưới đây trên Zhengjian Net (Hán ngữ):

“Thực vật có thể suy nghĩ” – Khám phá đời sống bí mật của cây cối (I) http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/3/9/9143.html

“Thực vật có thể là chuyên gia về phát hiện nói dối” – Khám phá đời sống bí mật của cây cối (II) http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/3/10/9196.html

“Nhận diện kẻ sát nhân và xúc cảm từ cự ly xa” – Khám phá đời sống bí mật của cây cối (III) http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/3/11/9197.html

“Không có sự khác biệt giữa đời sống lớn hay nhỏ” – Khám phá đời sống bí mật của cây cối (IV) http://www.zhengjian.org/zj/articles/2001/3/12/9198.html

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/node/1496

The post Đời sống bí mật của cây cối first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2009/07/doi-song-bi-mat-cua-cay-coi.html/feed0
Chiếc máy điện toán 2.000 năm tuổihttps://chanhkien.org/2007/01/chiec-may-dien-toan-2000-nam-tuoi.htmlhttps://chanhkien.org/2007/01/chiec-may-dien-toan-2000-nam-tuoi.html#respondTue, 09 Jan 2007 11:43:00 +0000Các chuyên gia tại Đại học Cardiff đã dẫn đầu phái đoàn quốc tế trong trong việc tìm ra manh mối các bí mật của một chiếc máy điện toán 2.000 năm tuổi.

The post Chiếc máy điện toán 2.000 năm tuổi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Đại Học Cardiff – Các chuyên gia tại Đại học Cardiff đã dẫn đầu phái đoàn quốc tế trong trong việc tìm ra manh mối các bí mật của một chiếc máy điện toán 2.000 năm tuổi mà có thể làm thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta về thế giới cổ xưa.

Giáo sư Mike Edmunds của ngành Vật lý và Thiên văn học, và Tiến sĩ Toán học Tony Freeth, cách đây vài năm lần đầu tiên nghe nói về máy Antikythera, một máy tính thiên văn giống như một cái đồng hồ, có tuổi từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Bây giờ họ tin rằng họ đã khám phá ra một điều huyền bí của kỷ nguyên cổ xưa về cách thức nó thực sự hoạt động như thế nào.

Những dấu vết còn lại của một một chiếc hộp vỡ bằng gỗ và đồng, trong đó chứa hơn 30 phụ tùng đã được tìm thấy bởi các thợ lặn đang thám hiểm một chiếc tàu đắm chìm dưới biển thuộc vùng đảo Antikythera vào lúc chuyển sang thể kỷ 20. Từ đó đến nay các khoa học gia đã cố gắng phục chế lại nó. Các nghiên cứu mới đề xuất rằng nó còn tinh vi hơn là những gì người ta đã từng nghĩ trước đây.

Công việc tỉ mỉ tiến hành trên các phụ tùng cơ khí đã cho thấy nó có thể dò những sự thay đổi thiên văn với độ chính xác phi thường. Máy tính này đã có thể theo dõi những sự thay đổi của mặt trăng và mặt trời qua hoàng đạo, tiên đoán các thiên thực (nguyệt thực, nhật thực) và ngay cả giải lý quỹ đạo bất thường của mặt trăng. Nhóm này đã tin rằng nó có lẽ cũng tiên đoán được vị trí của các hành tinh.

Các phát hiện đã cho thấy kỹ thuật của người Hy Lạp vượt xa những gì mà chúng ta đã từng nghĩ trước đây. Không có nền văn minh nào được biết là đã có thể chế tạo ra một đồ vật mà phức tạp như thế trong hơn một ngàn năm qua.

Giáo sư Edmunds nói: “Loại vật dụng này thật là phi thường. Thiết kế thật tuyệt đẹp, tính thiên văn thật chính xác. Cách mà đồ cơ khí này được chế tạo khiến tôi thật kinh ngạc. Người đã tạo ra nó thật sự đã làm việc một cách hết sức cẩn thận. ”

Đội nghiên cứu được thành lập từ Cardiff, viện Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia của Athens và các trường đại học của Athens và Thessaloniki, đã được tài trợ tối đa từ nguồn viện trợ Leverhulme. Các nhà nghiên cứu được sự giúp đỡ bởi hãng Hertfordshire X-Tek, nơi đã phát triển kỹ thuật vi tính X-quang, giúp đỡ với việc nghiên cứu những mảnh đã bị mòn của cỗ máy. Hãng máy vi tính lớn Hewlett-Packard đã cung cấp kỹ thuật hình để làm nổi bật các chi tiết bề mặt của cỗ máy. Các cơ chế nằm trong 70 miếng và được sắp đặt dưới những điều kiện kiểm tra chính xác tại Athens, nơi mà nó không thể được đụng đến. Khám phá các hoạt động của nó là một điều khó khăn, một quá trình chăm chú tỉ mỉ, với sự tham gia của các nhà thiên văn, toán học, chuyên gia điện toán, các nhà phân tích nguyên bản và các chuyên gia bảo trì.

Sau khi tiết lộ tất cả những gì họ tìm thấy tại một cuộc hội nghị quốc tế 2 ngày và trong tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu hiện nay đang hy vọng chế tạo ra một mẫu máy điện toán mà có thể hoạt động như một mô hình hoạt động có đầy đủ chức năng như vậy. Điều này vẫn còn chưa biết chắc được là người Hy Lạp cổ xưa đã sử dụng cơ khí này để làm gì, hoặc tính phổ biến của loại kỹ thuật này ra làm sao.

Giáo sư Edmunds nói:“Điều này đã đặt ra câu hỏi rằng họ còn chế tạo ra những gì nữa vào thời đó. Nói về lịch sử và giá trị hiếm có, tôi phải coi kỹ thuật chế tạo này là một vật còn giá trị hơn Mona Lisa.”

Tài liệu tham khảo:

http://www.Cardiff.ac.uk/newsevents/22801.html

http://www.antikythera-mechanism. gr

Dịch từ:

http://www.pureinsight.org/pi/index.php?news=4330

The post Chiếc máy điện toán 2.000 năm tuổi first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2007/01/chiec-may-dien-toan-2000-nam-tuoi.html/feed0
Sự liên hệ giữa con người và thiên nhiên: (I) Những hình dạng đa diện của sự sốnghttps://chanhkien.org/2006/12/su-lien-he-giua-con-nguoi-va-thien-nhien-i-nhung-hinh-dang-da-dien-cua-su-song.htmlhttps://chanhkien.org/2006/12/su-lien-he-giua-con-nguoi-va-thien-nhien-i-nhung-hinh-dang-da-dien-cua-su-song.html#respondMon, 11 Dec 2006 23:49:00 +0000Trên thực tế, sự sống trong thế giới này có thể tồn tại trong nhiều phạm vi mà chúng ta không thể thấy hay tưởng tượng được.

The post Sự liên hệ giữa con người và thiên nhiên: (I) Những hình dạng đa diện của sự sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
[Chanhkien.org] Khi chúng ta nói về sinh vật, chúng ta thường nghĩ về con người, thú vật, bông hoa, cây cối, v. v. Trên thực tế, sự sống trong thế giới này có thể tồn tại trong nhiều phạm vi mà chúng ta không thể thấy hay tưởng tượng được. Dưới đây là một vài thí dụ:

Sinh vật khác thường dưới biển sâu

Theo bản tin phát hành ngày 20 tháng 10 năm 2006, những nhà nghiên cứu ở Đại Học Princeton đã khám phá ra một vài vi khuẩn dị thường khoảng hai dặm sâu dưới mặt biển. Những con vi khuẩn này không sống bằng năng lượng mặt trời, nhưng sống bằng sự phân rã phóng xạ trong đá [1, 2]. Dựa vào những sự nghiên cứu như vậy, những nhà khoa học suy đoán rằng cuộc sống có thể tồn tại trong nhiều nơi bất ngờ, kể cả dưới những hoàn cảnh khắc nghiệt.

Vị trí được khám phá là gần một mỏ vàng ở Nam Phi Châu. Người ta nghĩ rằng sinh vật ở đó đã bị cô lập khỏi hệ thống sinh thái của chúng ta trong nhiều triệu năm. Năng lượng trao đổi là hoàn toàn từ những tảng đá chung quanh. Sự khám phá này được đăng trong báo Khoa Học ngày 20 tháng 10. Những nhà nghiên cứu từ chín cơ quan khác nhau, và họ thu mẫu dưới nước sâu khoảng 2800 mét. Từ khám phá này, người ta có thể suy đoán rằng sự sống có thể tồn tại ở nhiều nơi khác thường, như ở hành tinh khác, trong hệ mặt trời và ngay cả ngoài hệ mặt trời. Rất có thể là sự sinh tồn của chúng nó không liên hệ gì với hệ thống sinh thái của chúng ta.

Những khám phá tương tự đã xảy ra trong quá khứ. Dựa trên tin tức của báo có tên “Khoa học hằng ngày”, ngày 18 tháng 12 năm 2002, [3] các nhà khoa học đã thu thập mẫu nhỏ ở những nơi cao 20-41 ki lô mét trên mặt đất. Sự phân tích đã tìm thấy vi sinh vật trong những mẫu thu thập được ở những nơi cao 41 ki lô mét. Mặt khác, khoa học gia cũng tìm được vi khuẩn ở hồ Vida, một hồ “băng đá” ở Nam Cực. Hồ này bị nước đá và băng tuyết phủ kín quanh năm, với nước chứa đựng chất lượng muối cao, nhiều lần cao hơn nước biển. Khoa học gia nghĩ là hoàn cảnh khắc nghiệt này tương đương với Hỏa Tinh. Đối với sự tồn tại của sự sống, chúng ta biết chính xác nhiều tới đâu?

Những con trùng trong thạch đá

Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 3 tháng 10 năm 2006, một người tên họ là Li đang làm việc ở mỏ khai thác đá gần làng Chí Hòa, thị xã Bảo Quan trong thành phố An Giang của tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ông ấy tìm được một tảng đá màu tím khoảng một thước Anh mỗi bên. Tảng đá rất cứng. Ông ấy mất một thời gian lâu mới cắt nó ra làm hai. Khi ông Li tiếp tục cắt mảnh nhỏ hơn, ông rất ngạc nhiên khi tìm ra một lỗ nhỏ trong cục đá với hai con trùng nhỏ. [4]

Sau sự khám xét kỹ của những nhà y học chuyên môn trong vùng, loại trùng này được nhận ra là trùng Shixia, đó là loại trùng rất hiếm và được ghi chép trong sách y khoa cổ điển của Trung Quốc. Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân trong triều đại nhà Minh.

Năm năm về trước, một dân cư của làng Xingshan thị Xã Bảo Quang cũng tìm được trùng Shixia trong mỏ khai thác đá, và hình như nó có hiệu lực để trị bệnh mắt.

Nó là một sự huyền bí, làm thế nào mà con trùng có thể sống trong hoàn cảnh khó khăn và cô lập như vậy.

“Con chim khủng bố” cao 3 thước

Khi nói đến sinh vật tiền sử, người ta thường nghĩ đến những con khủng long. Trên thực tế, trong thời gian đó có nhiều thú vật khổng lồ khác bên cạnh khủng long.

Ngày 26 tháng 10 năm 2006, sự khám phá ra “Con chim khủng bố” được đăng trên báo Thiên Nhiên. Sinh vật này cao 3 mét, với đầu lớn bằng đầu ngựa. Trang nhà Địa lý Quốc gia cũng đã đăng sự khám phá này trong ngày 25 tháng 10. Là những con chim lớn nhất mà người ta biết được hiện nay, chúng có thể nuốt trọn một con chó. Xương hóa thạch đã được khai quật trong thế kỷ thứ 19 và người ta tin rằng nó có một lịch sử khoảng 15 triệu năm. [5, 6]

Khủng long và “Chim khủng bố” không chỉ là loài vật tồn tại thời xưa thôi. Khoa học gia đã khám phá ra nhiều loại sinh vật khổng lồ khác, như ngỗng ở Úc Châu, con lười ở Bắc Mỹ, và cá sấu ở Brazil và Phi Châu.

Sinh vật khổng lồ và tí hon sống chung với chúng ta

Chúng tôi đã vắng tắt nói về những sinh vật khác thường, những con trùng và thú vật. Trên thực tế, ngay cả về con người cũng có nhiều huyền bí.

Một thí dụ, khoa học gia đã khám phá ra những con voi lùn trên đảo Flores ở Mã Lai Á, với chiều cao chỉ có 90 centimet. Trên cùng hòn đảo mà người ta khám phá ra những con voi lùn, người ta cũng tìm ra xương hóa thạch rất giống của những người lùn đã bị tuyệt chủng. [7]Ngày nay nhiều người cho rằng những người lùn này là một loại người khác với chúng ta. Năm 2004, nhiều dụng cụ nhỏ cũng đã được khám phá nơi những người lùn này. Những dụng cụ tinh vi này có thể so sánh với những cái chúng ta đã dùng.

Nhiều mảnh chứng cớ cũng chỉ về sự hiện hữu của sinh vật khổng lồ. Trong Thạch Tàng Viện Ica ở Nazca, Peru, có trên 10.000 tảng đá với chữ điêu khắc. Những bài điêu khắc này đầy sự lạ lùng vì chúng diễn tả thời tiền sử với kỹ thuật tiến bộ, kể cả một số diễn tả loài người sống chung với khủng long. Từ những chữ điêu khắc này, con người to lớn tương đương với khủng long, giống như chúng ta đứng gần với những súc vật hiện nay. Có thể nào có những con khủng long là súc vật của những người khổng lồ đó?

Tóm lược

Đối với những phức tạp và kỳ lạ trong thế giới của chúng ta, những gì chúng ta biết hiện nay rất là hạn hẹp. Có bao nhiêu hình thức của sự sống tồn tại?Đây có lẽ sẽ là một điều bí ẩn cho chúng ta mãi mãi.

Tóm lại, vì chúng ta có cơ hội để sống trong thế giới này với nhiều sinh mạng, chúng ta cần phải yêu thương chúng.

Tham khảo:

1. Ở độ sâu 2 dặm, vi khuẩn lạ vẫn sinh sôi:
http://www.eurekalert.org/pub_releases/2006-10/pu-tmu102006.php
2. http://epochtimes.com/gb/6/10/20/n1493496.htm
3. http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/2/3/20297.html
4. http://epochtimes.com/gb/6/10/25/n1497831.htm
5. http://www.nature. com
6. Hóa thạch “Chim khủng bố” lớn nhất được tìm thấy tại Argentina: http://news. nationalgeographic.com/news/2006/10/061025-terror-birds.html
7. http://zhengjian.org/zj/articles/2006/10/28/40679.html

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2006/10/29/40689.html

The post Sự liên hệ giữa con người và thiên nhiên: (I) Những hình dạng đa diện của sự sống first appeared on Chánh Kiến Net.

]]>
https://chanhkien.org/2006/12/su-lien-he-giua-con-nguoi-va-thien-nhien-i-nhung-hinh-dang-da-dien-cua-su-song.html/feed0