Trang chủ Right arrow Văn hóa Right arrow Văn hóa truyền thống

Loạt bài về nghĩa gốc của chữ Hán (Phần 1): Khai thiên tịch địa nói về trời đất

12-09-2025

Tác giả: Huệ Kiếm

[ChanhKien.org]

Chào mọi người! Bắt đầu từ loạt bài này, người viết sẽ cùng các bạn thảo luận và đánh giá những ảo diệu của chữ Hán trong loạt bài viết với chủ đề là nghĩa gốc của chữ Hán.

Do tài năng và kiến thức có hạn, nếu trong bài viết có chỗ nào sai sót, mong được độc giả đóng góp ý kiến.

Hy vọng chúng ta sẽ cùng nhau hợp lực, loại bỏ những điều hư giả, giữ lại điều chân thật, để mỗi chữ Hán sớm được làm sáng tỏ, tỏa sáng với vẻ đẹp kỳ diệu vốn có. Cũng qua đây, xin được tôn vinh trí tuệ rộng lớn và công sức tinh tế của những người sáng tạo ra chữ Hán.

Một, khai thiên tịch địa nói về trời đất.

Các bộ chữ “一 (nhất)、大 (đại)、天 (thiên)、央 (ương)、夾 (giáp) 、匧 (kiếp)、土 (thổ)、也 (dã)”.

Đầu tiên, cho phép tôi giải thích sơ lược một chút về phương thức cấu tạo của chữ Hán. Sau khi tiến hành nghiên cứu cơ chế tạo chữ, người viết vô tình có được sở đắc, nhận ra rằng chữ Hán là do một số bộ phận hữu cơ tạm gọi là “bộ chữ” cấu thành. Những bộ chữ mang theo ý nghĩa này vừa bao gồm cả những bộ chữ độc lập không thể tinh giản thêm, và cũng bao gồm cả những bộ chữ phức hợp do những ký tự đơn nguyên tổ hợp tạo thành. Đối với những chữ có cùng bộ chữ, nó có một hàm nghĩa mang tính khái quát chung từ đầu đến cuối khi tham gia và cấu tạo chữ Hán trong toàn bộ thể hệ chữ Hán, được gọi là ý nghĩa khái quát của bộ chữ.

Trời lớn đất rộng lớn bao la, vạn vật tất thảy đều nằm trong đó. Cổ nhân đã vận dụng trí huệ như thế nào để sử dụng văn tự nhằm diễn đạt hai sự vật dường như không thể tưởng tượng và hình dung ra được.

Chữ thiên (天) là do chữ nhất (一) và chữ đại (大) tổ hợp thành. Nghĩa tiếng Việt: Trời. Chúng ta trước tiên hãy nói về chữ nhất (一).

Chữ nhất (一) (giáp cốt văn viết là): Giáp cốt văn là đường ngang ngắn. Nghĩa tiếng Việt là số một. Biểu thị một cách rất hình tượng về con số. Ngoài ra nó còn có thể đánh dấu vị trí hoặc giới hạn hình tượng.

“一”, với tư cách là một bộ chữ, sau khi tham gia tạo chữ thì hàm nghĩa vô cùng rộng, ý nghĩa khái quát cơ bản của nó như sau:

Bộ chữ nhất (一): nghĩa là số một, tượng hình chỉ ranh giới mặt phẳng (như trời cao, đất bằng phẳng, nước phẳng, phân chia ranh giới mặt phẳng) hoặc trạng thái vật thể nằm ngang, hoặc đánh dấu vị trí…

Chữ nhị (二) (giáp cốt văn viết là), được tạo ra từ hai chữ nhất. Nghĩa tiếng Việt là số hai. Hai biên giới tách biệt nhau, tồn tại độc lập với nhau. Nhấn mạnh rằng nằm ngoài biên giới ở phía xa có một ranh giới mặt phẳng khác.

Những chữ được tạo bởi chữ nhất có rất nhiều ví dụ “天 (thiên)、云 (vân)、帝 (đế) 、辛 (tân)、兀 (ngột)”,… Nhưng theo nguyên tắc “giải thích hàm nghĩa từ những thứ phức tạp để dễ dàng suy luận” thì những chữ có thể được xếp vào bộ chữ nhất (一) lại rất ít, trên đây chỉ liệt kê bộ nhị (二).

Lại xem tiếp chữ đại “大” và bộ chữ đại “大”.

Chữ đại (大) (giáp cốt văn): Hình dáng lấy từ nghĩa của chữ, giáp cốt kim văn tiểu triện giống như hình người ở phía chính diện với tứ chi dang rộng. Nghĩa tiếng Việt là to, rộng, lớn. Dùng nó để biểu đạt sự khuếch trương, bao la không bị hạn chế.

Bộ chữ đại (大): đồng nghĩa với chữ, mang nghĩa mở rộng, khuếch trương, tham khảo nghĩa của từ này ở trên.

Chữ thiên (天) (giáp cốt văn): Chữ giáp cốt kim văn tiểu triện ghép từ chữ đại và chữ nhất, nhất ở trên đại. Nghĩa tiếng Việt là trời. Có một ký tự ngang được thêm vào bên trên càng biểu hiện rõ ràng ý nghĩa. Tức là ngoài phương thức đánh dấu vị trí, ý chỉ (trời) ở phía trên trải rộng trên không trung, rộng lớn vô biên, bao trùm thương khung vạn vật ở bên dưới.

Chữ phu (夫) (giáp cốt văn): Chữ giáp cốt kim văn tiểu triện ghép từ chữ đại và chữ nhất, chữ nhất chạy ngang trên đỉnh đầu. Nghĩa tiếng Việt là chồng, đàn ông, con trai đã thành niên. Chỉ một người đàn ông cổ đại thành gia lập nghiệp đã trưởng thành với biểu tượng là buộc tóc và có cây trâm cài ngang. Mượn đó để thể hiện tình thế có thể độc lập tự chủ, có thể tin cậy giao phó và dựa vào.

Chữ giáp (phổn thể: 夾 giản thể: 夹) (giáp cốt văn): Chữ giáp cốt kim văn tiểu triện ghép từ chữ đại, hai bên dưới nách mỗi bên kẹp một chữ nhân (人). Nghĩa tiếng Việt là kẹp, cắp. Biểu thị từ hai bên kẹp chặt một vật thể ở giữa, kìm chế. Tức là chữ gốc của chữ hiệp (挟).

Chữ thái (太) (chữ triện:): Chữ tiểu triện ghép từ chữ đại và chữ nhất. Nghĩa tiếng Việt là: cao, lớn, to lớn. Quảng đại mà nhất thống. Chỉ tình thế không chỉ phạm vi mở rộng khuếch đại mà còn bao hàm ý nghĩa lực lượng lớn mạnh. Sau khi chữ “天” ở trên được giải nghĩa, có thể khái quát ý nghĩa một cách sinh động bộ chữ 天.

Bộ chữ thiên (天) có nghĩa là bao phủ tất cả, một cái mái che bao chứa tất cả, tham khảo nghĩa của từ này ở trên.

Chữ ương (央) (giáp cốt văn:): Chữ giáp cốt ghép từ chữ thiên, bên trên có một đường ngang, hai bên dựng đứng, không nối với nhau ở giữa. Nghĩa tiếng Việt: cầu khẩn, van nài. Biểu thị giống với thiên, bốn phía không dựa vào, nằm ở vòng tròn hoặc trung tâm.

(央求 ương cầu: Có nghĩa là đang trong tình trạng cầu xin).

Ngoài ra, còn có những từ như “忝” (thiểm), “吞” (thôn),… có ý nghĩa theo bộ thiên, cũng theo nguyên tắc “giải thích hàm nghĩa từ bộ phận phức tạp” nên sẽ được giải thích theo bộ chữ khác.

Ở đây xin giải thích ngắn gọn một chút về nguyên tắc phân chia bộ chữ. Các chữ do rất nhiều bộ chữ tổ hợp thành, hiển nhiên không thể giải thích lặp đi lặp lại trong một bộ chữ, như vậy nó sẽ được giải thích theo bộ chữ nào? Thông thường có hai loại lựa chọn, một là giải thích theo bộ chữ đơn giản, hai là theo bộ chữ phức tạp. Nếu như giải thích theo nguyên tắc dựa trên bộ chữ đơn giản thông thường vậy thì những từ như “衢 (đường cái)、癯 (gầy ốm)、氍 (thảm len)、矍 (dáo dác)、懼 (sợ hãi) sẽ lần lượt được phân vào các bộ là “行 (hành)、疒 (nạch)、毛 (mao)、又 (hựu)、心 (tâm)”, sẽ khiến nguyên nghĩa của những từ này có thể dễ dàng hiểu được, và sẽ mất đi cơ hội để giải thích các chữ trên có sự tương đồng thông qua việc giải thích bộ chữ cù 瞿 (tất cả các chữ trên đều có bộ chữ cù này). Do vậy bài viết này sẽ sử dụng nguyên tắc là “khi giải thích bộ chữ sẽ dựa trên bộ chữ phức tạp”.

Ở trên đã giải thích chữ ương (央), như vậy, chúng ta sẽ thuận theo bộ chữ ương này để giải thích các chữ được tạo thành, từ đó tổng kết lại mạch của chữ này.

Bộ chữ ương (央), có nghĩa là đứng ở trung tâm, hoàn cảnh xung quanh không có chỗ để nương tựa, tham khảo nghĩa của từ này ở trên.

Chữ ương (秧) ghép từ chữ hòa (禾) và chữ ương (央). Nghĩa tiếng Việt là cây non, cây giống. (Trải qua ươm trồng sau đó đến một hoàn cảnh khác, thoát ly khỏi trạng thái tập trung tự nhiên trước đó). Cây nông nghiệp tương đối cô lập, bốn phía không có chỗ dựa vào.

Chữ ánh (映) ghép từ chữ nhật (日) và chữ ương (央). Nghĩa tiếng Việt là ánh, chiếu. Quang ảnh (phản chiếu vào một vật thể khác) trong tình huống được một vật thể khác bao chứa (màu sắc hoặc hình tượng của nó thể hiện rõ ràng bên ngoài). (Tức là khi xảy ra hiện tượng phản xạ từ gương ảo ảnh được tạo thành ở trong gương giống với vật thể, ở trung tâm của vật thể hiện ra hiện tượng quang học của cảnh tượng lập thể).

Những chữ ghép thành từ bộ ương như “泱 (mênh mông mặt nước)、英 (anh, tinh anh)、殃 (tai ương)、怏 (bất mãn)、鸯 (uyên ương)、盎 (cái ang, chum)” lần lượt được quy vào các bộ “水 (thủy)、艸 (thảo)、歺 (ngạt)、心 (tâm)、鸟 (điểu)、皿 (mãnh)”.

Dưới đây là tổng kết lại mạch của bộ chữ giáp (夹).

Chữ hiệp (挟): tiểu triện ghép từ bộ thủ (扌) và chữ giáp (夹). Nghĩa tiếng Việt là kẹp, cắp. Có nghĩa là cánh tay dùng lực hướng về một bên của vật thể, ép vật thể ở giữa.

Chữ hiệp (侠) tiểu triện ghép từ bộ nhân (亻) và chữ giáp (夹). Nghĩa tiếng Việt là hiệp nghĩa, hiệp khách. Có nghĩa là người hiệp nghĩa, làm việc trượng nghĩa. Viết tắt của từ “hiệp nghĩa”.

Chữ kiếp (匧) tiểu triện ghép từ chữ giáp (夾 ) với bộ phương (匚). Nghĩa tiếng Việt là tráp, hộp nhỏ. Có nghĩa là bao bọc vào trong một khu riêng biệt được phân hoạch ra.

Chữ hạp (峡) ghép từ bộ sơn (山) và chữ giáp (夹). Nghĩa tiếng Việt là eo, eo sông, hẻm. Có nghĩa là hai bên có núi cao tạo thành một vùng bị kẹp vào giữa. Thường dùng biểu hiện những tình thế tương tự. (Ví dụ 海峡: hải hạp, eo biển, vùng biển hẹp có hai bên bờ lục địa ép vào).

Chữ hiệp (狭) ghép từ bộ khuyển (犭) và chữ giáp (夹) ý chỉ tình thế bị ép buộc một cách lỗ mãng một cách vô lý. Nghĩa tiếng Việt là hẹp, chật hẹp. Nghĩa hiện tại là giản lược của từ ghép chật hẹp (狭窄), từ ghép này có nghĩa là khiến cho chỉ có thể di chuyển trong một cái lỗ không thể giãn ra. Mượn nghĩa này để biểu thị tấm lòng hẹp hòi, không rộng mở, ít dùng.

Bộ chữ kiếp (匧) đồng nghĩa với chữ kiếp (匧), có nghĩa là bị nhốt trong một không gian riêng ở một khu vực riêng, tham khảo nghĩa của từ này ở trên.

Chữ khiếp (箧): tiểu triện ghép từ bộ trúc (竹) và chữ kiếp (匧). Nghĩa tiếng Việt là tráp, cái rương nhỏ. (Dùng để cho vật phẩm không bị xê dịch) chỉ chiếc hộp làm bằng trúc có thiết kế kết cấu giữ chặt.

Chữ thiếp (惬): tiểu triện ghép từ bộ tâm (忄) và chữ kiếp (匧). Nghĩa tiếng Việt là hài lòng, vừa ý, hả dạ. Chỉ trạng thái tâm lý khi ở trong hoàn cảnh hài lòng, vừa ý, thoải mái, cảm thấy thư thái và sẵn sàng tận hưởng ở trong đó.

So với các bộ chữ độc thể yêu cầu sử dụng hình ảnh nguyên gốc của từ để dễ dàng giải thích ý nghĩa, còn các bộ chữ phức hợp đều được tổ hợp từ các bộ chữ độc lập nên đã dễ dàng giải thích, nên không cần phải có ảnh đính kèm.

Các chữ, bộ chữ liên quan tới chữ thiên (天) đã nói xong, dưới đây bắt đầu nói về chữ địa. Địa (地), thổ dã (土、也) (dịch nghĩa: địa cũng là thổ), tại sao lại như vậy?

Chữ thổ (土) (giáp cốt văn): Chữ giáp cốt dùng chữ nhất ở dưới, phía trên thêm một vòng. Biểu thị là hỗn hợp các hạt, bột,… đất, có thể nặn thành một thứ có tính dẻo (dùng để xây nhà hoặc chế tác đồ dùng).

Bộ chữ thổ (土), chỉ những thứ liên quan tới đất, mặt đất.

Vì bộ thổ nét bút quá đơn giản, nên tạm thời không quy về chữ nào. Ngoài ra khi giải thích từ sẽ có những từ được giải thích “không theo khuôn mẫu nhất định”, bởi vì những tự hình của các chữ này hoặc là không sử dụng lặp lại, như hình đi kèm chữ thổ ở trên, hoặc là không sử dụng độc lập, như ảnh đi kèm chữ vân “云”, trùng “虫” ở dưới, nên rất khó để đặt vào bộ khác.

Chữ dã (也, chữ triện) tiểu triện lấy chữ xà 它 (chữ gốc của “蛇” rắn) biểu nghĩa, bỏ đầu lưu lại đuôi. Nghĩa tiếng Việt là cũng, cũng như. Mượn đặc trưng của con rắn khi hành động thì phần dưới thân của nó thuận theo phần phía trên mà chuyển động, biểu thị tình thế tuân theo mà hòa hoãn. Cũng có nghĩa là bắt chước.

Bộ chữ dã (也), cũng có nghĩa là sự kế thừa, thuận theo đó mà đi.

Chữ di 匜, tiểu triện ghép từ chữ dã (也) và bộ phương (匚). Nghĩa tiếng Việt là cái gáo nước hình phễu, thời cổ đại thường được làm bằng đồng. (Chỉ đồ dùng để rửa mặt thời cổ đại có thiết kế đường nước chảy ra dạng dòng chảy, khi sử dụng, dần dần nghiêng để nước chảy ra) có nghĩa là từ trong đó một dòng nước chầm chậm chảy ra. (nghĩa tiếng Việt hiểu nôm na là gáo nước hình phễu, thời cổ đại thường được làm bằng đồng).

Chữ tha (扡), tiểu triện ghép từ bộ thủ (扌) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là kéo (theo). Dùng tay thuận thế quán triệt kéo xuống. Tiến hành thuận theo thời thế, thuận theo dòng nước đẩy thuyền. (Thi Kinh, Tiểu Nhã có câu: tích tân tha hĩ, có nghĩa là chẻ củi theo những vết nứt tự nhiên của gỗ).

Chữ trì (驰), tiểu triện ghép từ bộ mã (马) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là phi, chạy băng băng. Chỉ ngựa khi chạy nhanh như nước cuốn, trong trạng thái một đường tiến về phía trước.

Chữ trì (池), tiểu triện ghép từ bộ thủy (氵) và chữ dã (也), giống với trì (匜). Nghĩa tiếng Việt là cái ao, hồ. Chỉ mương máng; ngòi lạch; cống rãnh; kênh rạch để cho nước chảy ra.

Chữ địa (地), tiểu triện ghép từ bộ thổ (土) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là đất. Thổ nhưỡng có hình thái bằng phẳng, chỉ loại đất bằng phẳng chân có thể bước lên, và to lớn hơn núi sông.

Chữ thỉ (弛) tiểu triện ghép từ bộ cung (弓) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là chùng, lơi lỏng. Chỉ vật thể sau khi căng lên, có tính đàn hồi (trạng thái thư giãn sau khi thả lỏng) thẩm thấu, đồng hóa và lưu thông đến từng bộ phận của vật thể. Giải phóng độ căng thẳng.

Chữ tha (他), tiểu triển ghép từ bộ nhân (亻) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là anh ấy, cậu ấy, nó,… (Dùng để chỉ xưng hô ngoài tôi và bạn) chỉ ngôi thứ ba là nam giới.

Chữ tha (她), tiểu triển ghép từ bộ nữ (女) và chữ dã (也). Nghĩa tiếng Việt là cô ấy, chị ấy,… (Dùng để chỉ xưng hô ngoài tôi và bạn) chỉ ngôi thứ ba là nữ giới.

Hoàng thiên hậu thổ, bãi bể nương dâu, đã cung cấp cho chúng sinh ở thế gian một vũ đài sinh sống rộng lớn. Chính là bởi vì có thể thuận theo trời đất, vạn vật mới được thể hiện ra trăm loại trạng thái. Mà nhân loại được trời ưu ái, lẽ nào lại không biết khai mở trí huệ của bản thân mà trời ban tặng, để truy cầu chân lý, cảm hoài hồng ân, đi trên con đường thăng hoa giác ngộ, tự giác ngộ và giác ngộ người khác?

Chú thích của người dịch:

Trong loạt bài này có giải thích nhiều từ chữ Hán, nếu chỉ dịch nguyên nghĩa Hán Việt sẽ gây khó hiểu cho người đọc, vì vậy ngoài dịch nguyên nghĩa Hán Việt dịch giả sẽ thêm phần nghĩa tiếng Việt tương đồng.

Dịch từ: https://www.zhengjian.org/node/144795

 

Ban Biên Tập Chánh Kiến

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.

Loạt bài