Văn minh 5000 năm: Diện mạo chân thực của lịch sử – Nhà Đường: Một trong ba đại thịnh thế thiên triều (14)
(Từ năm 618 đến năm 907)
Tác giả: Tâm Duyên
[ChanhKien.org]
Âm nhạc
Sự phóng khoáng và gom trọn trong văn hóa nghệ thuật thời kỳ sơ Đường đã khiến lượng lớn nhạc cụ và nghệ thuật ca vũ của các dân tộc thiểu số vùng biên giới và các nước láng giềng du nhập vào Trung Nguyên, nhờ đó những thành tựu ca vũ thời nhà Đường đã đạt đến đỉnh cao chưa từng có. “Thanh Thương nhạc”, “Quy Từ nhạc” và “Tây Lương nhạc” tạo thành trào lưu âm nhạc phổ biến trong thời kỳ nhà Đường.
“Thanh Thương nhạc” hình thành từ thời kỳ Ngụy Tấn, là âm nhạc dân gian của người Hán ở Trung Nguyên, nó sử dụng các loại nhạc cụ truyền thống như cổ cầm, đàn sắt, đàn trúc, đàn tỳ bà, khèn, tiêu, sáo, đàn tranh, đàn hạc nằm, chuông nhạc, khánh, v.v. Âm thanh tao nhã êm dịu, đa số các tọa kỹ đều ngồi biểu diễn trên sân khấu, tổng số người múa và hát tối đa là bốn người, kỹ thuật biểu diễn tinh tế.
“Tây Lương nhạc” có nguồn gốc từ Hậu Lương (386-399), nó thường kết hợp sử dụng các nhạc cụ của người Hán như chuông, khánh, khèn, đàn tranh, đàn hạc nằm, đàn hạc đứng, đàn tỳ bà cổ cong của Tây Vực. Vậy nên, trong “Tùy thư – Âm nhạc chí hạ” gọi nó là “Âm nhạc thanh điệu khác biệt với sách sử”, là sự kết hợp giữa đặc điểm âm nhạc của người Hồ và người Hán.
“Quy Từ nhạc” đến từ vùng biên ải hẻo lánh Tây Bắc xa xôi thời kỳ Tiền Tần (năm 382), trên cơ sở nhạc cụ của Tây Lương nó còn có thêm các loại nhạc cụ khác như hichiriki (một loại sáo hơi của Nhật Bản), đàn tỳ bà năm dây, vỏ sò, chũm chọe, phách, trống lớn, v.v. Phần lớn do các lập kỹ đứng biểu diễn trên sân khấu, số lượng người ca múa có thể từ 64 người cho đến 180 người, khí thế hùng tráng, vũ điệu dứt khoát mạnh mẽ, mang đến một phong cách nghệ thuật cởi mở rung động lòng người.
Đại khúc ca vũ thời thịnh Đường
Âm nhạc thời Đường được phân thành đại khúc và tiểu khúc. Đại khúc khoáng đạt hoành tráng, tiểu khúc nhẹ nhàng sống động. Trong đại khúc có một phần gọi là pháp khúc, có nguồn gốc từ tôn giáo, vì vậy thường được trộn lẫn với âm nhạc của Đạo giáo.
“Tần Vương phá trận nhạc” (còn gọi là Thất Đức) do Thái Tông sáng tác, thuộc thể loại võ vũ. Lời bài hát do Lữ Tài, Lý Bách Dược, Ngu Thế Nam, Chử Lượng và Ngụy Trưng sáng tác. Trong bữa tiệc có 120 người mặc giáp, cầm kích nhảy múa, nhà vua lánh đi để mọi người trong yến tiệc đều vui vẻ. Nhạc khúc này “tiếng trống vang dội, xen lẫn với Quy Từ nhạc, âm thanh vọng xa trăm dặm, rung chuyển cả núi rừng”.
“Khánh Thiện nhạc” (còn gọi là Cửu Công) cũng do Thái Tông sáng tác, thuộc thể loại văn vũ. Nhạc khúc này chỉ dùng nhạc Tây Lương, rất thanh nhã, gồm có 64 vũ công múa, mặc áo tím, tay áo rộng, vạt áo ngắn, đội búi tóc giả, đi ủng da. Vũ điệu nhẹ nhàng khoan thai, tượng trưng cho đạo đức nhân văn và thiên hạ thái bình an lạc.
“Nghê Thường Vũ Y” là nhạc khúc nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Bạch Cư Dị có bài thơ viết: “Thiên ca bách vũ bất khả số, tựu trung tối ái vũ y vũ” (Tạm dịch: Trăm ngàn điệu múa bài ca, Được lòng nhất ấy vẫn là Vũ Y). Tương truyền vào một đêm rằm Trung Thu năm Khai Nguyên, Đạo sỹ Diệp Pháp Thiện đã mời Huyền Tông cùng du ngoạn cung trăng, lắng nghe khúc nhạc tiên “Tử Vân khúc”. Huyền Tông thông hiểu âm luật, đã lén ghi nhớ lại, sau khi quay về đã đích thân phổ nhạc và dạy cho các nhạc kỹ của Lê Viên đàn tấu. Đây chính là nguồn gốc của nhạc khúc “Nghê Thường Vũ Y” tuyệt đẹp. Trong nhạc có nhiều tiếng đàn sáo, thanh nhã uyển chuyển; các vũ công mặc áo khổng tước xanh cùng với chiếc váy tươi sáng như cầu vồng, uyển chuyển như tiên nữ phiêu diêu thoát tục, trông giống như cảnh tượng mọc cánh thành Tiên bay lên của Đạo gia vậy.
“Cửu bộ nhạc” kết hợp âm nhạc và vũ đạo trong và ngoài nước thời nhà Tùy đã tăng lên thành thập bộ vào thời nhà Đường, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của ca vũ. Dưới ảnh hưởng của nghệ thuật dân gian, ca vũ đã tiến gần hơn một bước tới hí kịch. Vào thời điểm này, có một loại hình nghệ thuật gọi là “đại diện”, tức là loại kịch đeo mặt nạ khi diễn xuất. Vở kịch nổi tiếng có tên “Lan Lăng vương nhập trận khúc”. Tương truyền rằng Lan Lăng vương Cao Trường Cung của Bắc Tề anh dũng ba quân, nhưng tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Ông cảm thấy điều ấy không thể chấn nhiếp kẻ địch, bèn đeo mặt nạ bằng gỗ mỗi khi ra trận. Vở hí kịch này đã từng được truyền đến Nhật Bản. Ngoài ra, còn có ba vở hí kịch nổi tiếng thời Đường khác là “Lan Lăng vương”, “Bát đầu”, “Đạp dao nương” đều có cốt truyện, nhân vật và xung đột riêng tuy ngắn gọn mà hoàn chỉnh. Sự phát triển của tình tiết, hướng đến kết cục được định sẵn.
Những bậc thầy âm nhạc
Trong thời đại trăm hoa đua nở thời kỳ nhà Đường, ngoài sự xuất hiện không ngừng một lượng lớn những bậc thầy diễn tấu âm nhạc nổi danh thiên hạ như là Lý Quy Niên, gia tộc Tào Thị, An Vạn Thiện, Đổng Đình Lan, Lý Bằng, v.v. còn có sự xuất hiện của vô số các bậc biểu diễn vũ đạo nữa.
Thơ Đường có câu: “Liêu Đông tiểu phụ niên thập ngũ, Quán đàn tỳ bà giải ca vũ. Kim vi Khương địch xuất tái thanh, Sử ngã tam quân lệ như vũ” của Lý Kỳ, (tạm dịch: Tiểu nữ Liêu Đông tuổi mười lăm, Thạo gảy tỳ bà giỏi múa ca. Nay thổi sáo Khương khúc biên ải, Cảm thấu ba quân lệ tuôn trào). “Tào tào thiết thiết thác tạp đàn, Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn” của Bạch Cư Dị, (tạm dịch: Tiếng đàn cao thấp lẫn chen, Khác nào mâm ngọc nảy hòn châu sa). Qua đó có thể thấy trong thời nhà Đường, đến cả những phụ nữ người Hồ ở biên ải, hay cả những phụ nữ làm ăn buôn bán trên phố phường cũng đều thông hiểu âm nhạc như vậy, thế thì kỹ năng của các bậc thầy diễn tấu không nói cũng biết là thế nào rồi.
Trong số rất nhiều bậc thầy biểu diễn vũ đạo, danh tiếng nổi trội nhất là Công Tôn đại nương, kỹ năng múa kiếm của bà thuần thục điêu luyện, đạt đến cảnh giới “Quan giả như sơn sắc trở táng, Thiên địa vi chi cửu đê ngang” (Tạm dịch: Người xem như núi kinh thất sắc, Trời đất theo đó cũng nhấp nhô).
Còn dân chúng bình thường cũng yêu thích ca vũ đến mức đáng kinh ngạc. Vào mỗi dịp lễ tết, từ cung đình cho đến dân dã, nam nữ người người tay trong tay xoay vòng, vừa múa vừa hát suốt đêm ngày, cũng được gọi là “đạp ca”. Chỉ riêng ngày Tết Thượng Nguyên năm 713, số lượng cung nữ trong cung tham gia đạp ca suốt đêm đã hơn 3.000 người; Đường Huyền Tông trong những năm Thiên Bảo đã dựng lều ngoài cung, dựng gác đèn cao hơn 20 trượng, treo đèn lồng năm vạn chiếc, chiếu sáng cả trăm dặm. Người dân ùa ra khỏi thành, dưới ánh đèn vừa hát vừa nhảy múa liên tục đạp ca suốt ba ngày ba đêm, vui chưa từng thấy.
Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/29331