Bài viết kỷ niệm 20 năm Chánh Kiến Net: Từ lịch sử thấy vòng tuần hoàn nhân quả là chân thực chuẩn xác

Tác giả: Phục Gián

[ChanhKien.org]

Đời người gắn liền với sự ảnh hưởng của hai điều, một là số phận và hai là nhân quả. Trong cuộc sống, mỗi người đều mong muốn có được phúc lành, thịnh vượng và trường thọ, ai cũng muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đều đang nỗ lực, nhưng tại sao kết quả sau khi nỗ lực của từng người lại khác biệt đến như vậy? Kỳ thực, nó liên quan trực tiếp tới số phận khác nhau của mỗi người. Có thể do ảnh hưởng của chủ nghĩa vô thần nên một số người sẽ cho rằng đấy là mê tín, vậy hôm nay chúng ta sẽ xem xét một số sự kiện quan trọng đã xảy ra trong lịch sử, để xem vòng nhân quả là cái gọi là mê tín hay là quy luật có thật.

Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên có câu: “Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”, nghĩa là họa và phúc đều không tự nhiên tới, đều do con người tự làm mà ra, làm ác thì gặp họa, làm thiện thì được phúc, sự báo ứng gắn với nhau như hình với bóng, không sai một điểm. Đầu năm 1127 xảy ra sự biến Tĩnh Khang, đây là một biến cố đáng xấu hổ nhất trong lịch sử Trung Quốc, không dưới 10 vạn người trong đó gồm cả hai Hoàng đế Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông, hoàng thất họ Triệu, các phi tần trong hậu cung, phụ nữ triều Tống, cung nữ, thái giám, thợ thủ công, cùng các loại lễ phẩm, cổ vật, v.v., tất cả đều bị áp giải đến nước Kim cách đó năm nghìn dặm, kho tàng của vương triều Bắc Tống bị vơ vét đến trống rỗng. Quân Kim đi đến đâu đều gây ra cảnh sinh linh đồ thán đến đó, lần tai họa thảm khốc này đã để lại trong lòng người Tống vết thương rất khó chữa lành. Về phần hoàng thất nhà Tống, đàn ông thì bị giết, phụ nữ thì bị lăng nhục và không được đối xử như con người.

Sự đời vật đổi sao dời, bi kịch diệt vong của triều Bắc Tống còn rành rành ở đó thì chớp mắt đã đến 100 năm sau, tức năm 1233, quân Mông Cổ bao vây thành Biện Kinh. Kim sử ghi lại rằng: “Nhiều tấn thân, sĩ nữ [1] đi ăn xin ở chợ, thậm chí có người ăn thịt cả vợ mình, vật dụng bằng da đều bị đem đi đun lên để thỏa mãn cơn đói, phủ đệ của quý tộc, nhà lầu, hàng quán, v.v. đều bị đập phá làm củi đốt”. Đại tướng Thôi Lập của thành Biện Kinh đã phát động cuộc binh biến và giành quyền kiểm soát kinh thành. Thôi Lập dùng 37 cỗ xe chuyên dụng của hoàng tộc nước Kim để áp giải hơn 500 người trong đó có Thái hậu, Hoàng hậu, phi tần và các thành viên quan trọng của hoàng thất đến Mông Cổ. Theo sau là hơn 20 chiếc xe không mui chật kín người, mỗi chiếc chở hàng mấy chục thành viên tông thất còn lại của triều Kim. Tiếp theo sau là một nhóm người khá đông đúc gồm các chưởng môn của ba tôn giáo Nho, Thích, Đạo, còn có các quan thái y, thầy chiêm tinh, thợ thủ công, tú nữ, v.v.. Khi đoàn người này đến Thanh Thành, Tốc Bất Đài – viên thống soái chỉ huy quân Mông Cổ tấn công vào Biện Kinh – đã lệnh cho quân lính kéo Lương vương Hoàn Nhan Tùng Kha và tất cả những người đàn ông khác trong hoàng tộc nhà Kim ra khỏi xe, rồi hạ sát ngay bên lề đường, không chừa một ai sống sót. Những người phụ nữ của hoàng thất từ đầu đã sợ đến tái xanh cả mặt, giờ đây lại bị các tướng lĩnh Mông Cổ xem là phần thưởng sau chiến thắng vây thành, và bắt đầu bị cưỡng đoạt một cách vô cùng tàn nhẫn. Đây chính là trận “họa Thanh Thành” nổi tiếng trong lịch sử. Năm sau, Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự bị liên quân Nam Tống và Mông Cổ bao vây ở thành Thái Châu, sau khi nhường ngôi cho nguyên soái Hoàn Nhan Thừa Lân thì treo cổ tuẫn quốc. Tiếp đến thi thể của Hoàn Nhan Thủ Tự đã bị liên quân Mông – Tống chia làm hai, một nửa thuộc về Nam Tống và nửa còn lại thuộc về Mông Cổ. Đại hãn Mông Cổ còn hạ lệnh chém đầu toàn bộ gia tộc họ Hoàn Nhan, những người khác có thể được ân xá, kể từ đó những ai mang họ Hoàn Nhan phải mai danh ẩn tích, sống phiêu bạt xa xôi nơi góc bể chân trời.

Nhà Nguyên không tiêu diệt tận gốc các hoàng tộc Nam Tống đầu hàng, ngoại trừ Tống Mạt Đế chủ động tìm cái chết trong trận hải chiến ở Nhai Sơn ra, thì những thành viên hoàng tộc khác của Nam Tống đều được đối đãi tốt. Tống Cung Đế Triệu Hiển sau khi đầu hàng đã được đưa đến kinh đô Đại Đô của nhà Nguyên, và được phong tước Doanh Quốc công. Hoàng hậu của Tống Lý Tông là Tạ Hoàng hậu, Hoàng hậu của Tống Độ Tông là Toàn Hoàng hậu cùng nhiều người khác khi bị đưa đến Đại Đô đều được đối xử ân cần, tử tế.

Về việc vì sao Hốt Tất Liệt thiện đãi hoàng tộc Nam Tống, hậu thế đã liệt kê ra rất nhiều nguyên nhân, mà những nhân tố và hoàn cảnh để Hốt Tất Liệt thực thi có phải đã được trời cao lặng lẽ sắp đặt? Chúng ta hãy cùng đi ngược dòng lịch sử quay về đầu thời kỳ Bắc Tống. Các Hoàng đế Bắc Tống từ sau Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa trở đi, thì đều là hậu duệ của Triệu Quang Nghĩa, các Hoàng đế Nam Tống từ sau Tống Cao Tông Triệu Cấu trở đi, thì đều là hậu duệ của Triệu Khuông Dận. Triệu Khuông Dận sau chính biến thành công lên ngôi Hoàng đế, đã dùng chiêu “Chén rượu tước binh quyền” [2] chứ không giết công thần để giải quyết các mối uy hiếp chính trị tiềm tàng, đồng thời còn ban hành một sắc lệnh hành chính bảo vệ gia tộc họ Sài của Hoàng đế tiền triều, và trong suốt thời gian trị vì, ông cũng thiện đãi những vị Vua mất nước khác, đặc biệt là đối với Vua Tiền Thục của nước Ngô Việt, người đã cùng ông liên minh chống lại nước Nam Đường.

Sau khi Nam Đường diệt vong, Nam Đường hậu chủ Lý Dục bị giải đến Biện Kinh và được Triệu Khuông Dận phong làm Vi Mệnh Hầu. Triệu Khuông Dận cũng từng mời Vua Tiền Thục nước Ngô Việt đến Biện Lương dự yến tiệc. Tiền Thục đến Biện Lương, Triệu Khuông Dận phái trưởng tử Triệu Đức Chiêu đến đón và nhiệt tình tiếp đãi Tiền Thục, suốt nhiều ngày liền đều là rượu ngon thịt quý. Tiền Thục cũng bị tấm thịnh tình của Triệu Khuông Dận làm cảm động khôn nguôi. Trước khi Tiền Thục trở về nước, Hoàng đế Triệu Khuông Dận đã có một cuộc trò chuyện với ông. Triệu Khuông Dận nói: “Nam Bắc khác biệt, trời sắp nóng lên rồi, sống ở đây không quen, hay là ông nên sớm trở về đi”. Tiền Thục xin phép được ba năm đến triều bái một lần. Triệu Khuông Dận từ chối, nói: “Đường sá xa xôi, núi non hiểm trở, đợi khi nào ta cho tìm ông thì ông hãy đến”. Lúc sắp lên đường, Triệu Khuông Dận đưa cho ông ấy một chiếc túi nhỏ màu vàng, căn dặn tạm thời không được mở ra. Sau khi về đến nhà, Tiền Thục mở chiếc túi mà Triệu Khuông Dận đưa cho, thấy bên trong chứa đầy tấu chương của các quan đại thần yêu cầu giam Tiền Thục lại. Đại khái là nếu Tiền Thục bị giam giữ, nước Ngô Việt sẽ không có chủ và sẽ bị bình định dễ dàng. Tiền Thục xem xong đã cảm động đến rơi nước mắt.

Năm 976, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận băng hà một cách bí ẩn, Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa đăng cơ với nghi án “bóng nến kèm tiếng búa” [3]. Triệu Quang Nghĩa từ lâu đã thèm muốn Tiểu Chu hậu của Nam Đường hậu chủ Lý Dục, sau khi đăng cơ, ông ta lợi dụng cơ hội các mệnh phụ thỉnh thoảng vẫn vào hoàng cung triều bái để cưỡng đoạt Tiểu Chu hậu, mỗi lần đều bắt giữ nàng ở trong cung mấy ngày mới thả ra. Mỗi lần trở về, Tiểu Chu hậu đều khóc lóc và mắng trách hậu chủ. Là một vị Vua mất nước, Lý Dục sống phải dựa vào sắc mặt người khác, tính mệnh vốn khó bảo toàn nên giờ đây chỉ có thể gửi gắm nỗi bi phẫn của mình vào thi từ. Ngay cả như vậy, vào dịp sinh nhật lần thứ 42 của mình, Lý Dục viết xong câu thơ “Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu?” (Xuân hoa thu nguyệt bao giờ hết?) trong bài từ Ngu Mỹ Nhân, thì bị Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ban cho rượu độc và qua đời. Đến khi hết thời gian chịu tang, Tiểu Chu hậu vì không chịu được nỗi sầu khổ, tuyệt vọng và sợ hãi liền tự tìm cái chết.

Năm 988, Vua Tiền Thục nước Ngô Việt mừng đại thọ 60 tuổi. Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa phái sứ giả đến chúc mừng, và trong đêm đó Tiền Thục đột ngột mất đi. Chỉ mấy năm sau khi Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa lên ngôi cửu ngũ chí tôn, thì hai con trai của Triệu Khuông Dận là Triệu Đức Chiêu và Triệu Đức Phương cùng với Hoàng đệ Triệu Đình Mỹ đều lần lượt qua đời. Có rất nhiều lời đồn đoán về cái chết của họ. Dưới đây, một cách đơn giản tôi sẽ chỉ ra ba khía cạnh để chứng minh cái chết của họ có chắc chắn có liên hệ tới Triệu Quang Nghĩa.

Một là, những người có thể đe dọa quyền lực của ông ta lần lượt chết đi, hầu hết đều trong độ tuổi tráng niên, và nhiều người qua đời một cách không minh bạch, thật miễn cưỡng nếu nói đó đều là sự trùng hợp; thứ hai là, sau khi Triệu Quang Nghĩa chết, Tống sử ghi lại rằng con trai thứ ba của ông ta là Tống Chân Tông Triệu Hằng vừa kế vị đã lập tức lật lại vụ án mưu phản và minh oan cho Triệu Đình Mỹ, còn truy phong cho chú mình. Riêng con trai trưởng của Triệu Quang Nghĩa là Triệu Nguyên Tá trong sự kiện “Triệu Đình Mỹ mưu phản”, dưới tình huống quần thần trên dưới không ai dám nói một lời, đã một mình đứng ra thay cho thúc thúc cầu xin tha thứ. Hai năm sau, khi hay tin Triệu Đình Mỹ qua đời, Triệu Nguyên Tá đã phát điên (có lẽ ông ấy giả vờ điên, vì sau khi Triệu Quang Nghĩa chết thì ông ấy trở lại bình thường). Hai anh em Triệu Nguyên Tá và Triệu Hằng là những người gần gũi với Triệu Quang Nghĩa nhất nên hiểu rõ nội tình nhất, là chính phụ hoàng của họ đã vu khống cho người chú Triệu Đình Mỹ, nên họ mới có những hành động như vậy. Thứ ba là, sau khi Triệu Quang Nghĩa đăng cơ thì càng ngày càng giảm bớt đãi ngộ đối với chị dâu là Tống Hoàng hậu, rồi dần dần biến thành giam lỏng và giám sát. Vào tháng 04 năm 995, trải qua 20 năm cô đơn và đau khổ, Tống Hoàng hậu đã qua đời ở tuổi 44. Triệu Quang Nghĩa không phát tang cho bà, không cho hợp táng cùng Tống Thái Tổ, cũng không cho quần thần đến viếng tang. Hàn lâm học sỹ Vương Vũ Xưng tự có bình luận rằng: “Hoàng hậu là mẫu nghi thiên hạ, nên dùng lễ nghi ngày trước mà đối đãi”. Khi Triệu Quang Nghĩa biết được đã vô cùng tức giận và cho giáng chức Vương Vũ Xương vì tội phỉ báng.

Kinh Dịch viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích ác chi gia, tất hữu dư ương” (nhà tích điều thiện ắt có thừa niềm vui; nhà tích điều ác ắt có thừa tai ương). Số phận và đãi ngộ khác nhau mà các vị Vua mất nước của hai triều Bắc Tống và Nam Tống gặp phải chẳng đúng là phản ánh những việc mà các Hoàng đế khai quốc của họ đã làm sao? Sau này người Kim đến tiêu diệt đất nước của họ, tàn sát hoàng thất, ngược đãi tông nữ, còn gây họa cho các đời sau. Vòng luân hồi nhân quả làm sao khiến người ta không khỏi cảm thán!

Có thể có người sẽ cho rằng câu chuyện trên chỉ là ngẫu nhiên, vậy thì chúng ta hãy cùng xem xét những nhân vật tiêu biểu của hai phái Nho gia và Pháp gia trong lịch sử. Pháp gia cho rằng bản tính con người là ác, nên Pháp gia hay sử dụng mưu lược quyền lực và hình phạt tàn khốc, theo đuổi chế độ bá quyền trị quốc. Các nhân vật tiêu biểu của Pháp gia thường không có kết cục tốt, như Thương Ưởng, Ngô Khởi, Hàn Phi Tử, Lý Tư, v.v.. Nho gia cho rằng bản tính con người là thiện, tư tưởng của Nho gia tôn sùng nhân, nghĩa, lễ, trí, hiếu, đễ, trung, tín, đề xướng chế độ vương đạo trị quốc. Hầu hết các nhân vật tiêu biểu của Nho gia không chỉ bản thân có kết cục tốt, mà con cháu cũng được hưng thịnh. Ví dụ như hậu duệ của Tăng Tử đến nay đã qua bảy mươi mấy đời với rất nhiều thế hệ nhân tài xuất sắc, trong đó Tăng Quốc Phiên, một trong “tứ đại danh thần” của triều Thanh mạt, là người rất nổi tiếng và cuốn Tăng Quốc Phiên gia thư của ông cũng được tôn sùng và có ảnh hưởng sâu rộng. Cả Nho gia và Pháp gia đều đóng vai trò trọng yếu trong nền văn minh 5000 năm của Trung Hoa, không phải là chúng ta đang bài xích gia phái nào, mà là đang giải thích quy luật nhân quả tuần hoàn chân thực chuẩn xác, rằng những hành động của chính mình thực sự đang ảnh hưởng đến bản thân và con cháu đời sau.

Thực ra, nếu phân tích sâu hơn thì vận mệnh cũng là nhân quả, cuộc đời của mỗi người đều chịu sự ảnh hưởng của quy luật nhân quả. Xét nhân quả không chỉ nhìn vào một thời điểm hay một kiếp sống, có những thứ báo ứng ngay trong kiếp này (hiện thế hiện báo) nhưng cũng có những thứ báo ứng xảy ra ở kiếp sau hoặc trong thời gian lâu hơn nữa. Vận mệnh trong kiếp này có mối quan hệ trực tiếp với những hành động ở hiện kiếp và tiền kiếp.

Nếu phân tách hai chữ “命运” (mệnh vận) ra chúng ta sẽ hiểu được rõ ràng hơn. “命” (mệnh) là bản ngã, chân ngã, còn “运” (vận) là quỹ đạo vận hành của chân ngã trong thời-không này. Con người được cấu thành từ ba phần thống nhất là thể xác, tư tưởng và chân ngã, gọi là tam vị nhất thể. Chân ngã còn được gọi là nguyên thần, khi con người chết đi sẽ mang theo tư tưởng rời khỏi thể xác và tiến nhập vào không gian khác hoặc chuyển sinh. Con người thường nói về linh hồn bất tử, Đạo gia giảng phản bổn quy chân, Phật gia nói đến lục đạo luân hồi, v.v., kỳ thực đều là nói về chân ngã, tức bản thể này. Việc nghiên cứu và ghi chép về linh hồn không chỉ có ở thời cổ đại hay trong các tôn giáo, mà ngày nay các giới khoa học, giới y học cũng đang nghiên cứu và đã đạt được nhiều thành tựu lớn.

Năm 1975 tiến sĩ Raymond Moody lần đầu tiên đưa ra khái niệm “trải nghiệm cận tử” và xuất bản cuốn sách Life after life (Kiếp sau) ghi lại 150 trường hợp linh hồn quay trở lại sau khi chết. Sau đó, nhiều nhà khoa học và chuyên gia y học ở nhiều quốc gia đã tiến hành nghiên cứu rộng rãi về chủ đề này. Ở Trung Quốc cũng đã thực hiện các cuộc khảo sát liên quan. Vào năm 1987, các bác sĩ tại bệnh viện An Định, thành phố Thiên Tân đã chọn ra 100 trường hợp sống sót sau trận động đất lớn ở Đường Sơn để tiến hành khảo sát. Vào năm 1992, luận văn của họ đã được đăng trên Tạp chí Thần kinh và Tâm thần Trung Quốc. Trong cuộc khảo sát, nhiều người đã đề cập đến việc sau khi chết, họ thấy mình rời khỏi cơ thể và bay lên, có người đi qua một đường hầm tối, có người thấy ánh sáng, có người gặp lại người thân đã khuất hoặc những sinh mệnh phát sáng, v.v.. Ngoài ra, cũng có người trong quá trình hôn mê trong thời gian ngắn đã hồi tưởng lại toàn bộ cuộc đời mình, mọi việc hiện lên rõ ràng như vừa mới xảy ra. Điều làm các nhà nghiên cứu ngạc nhiên là kết quả nghiên cứu của họ rất giống với những mô tả về trải nghiệm cận tử của các nhà nghiên cứu phương Tây trước đó.

Những năm gần đây, nghiên cứu về cơ học lượng tử của giới khoa học đã khiến nhiều người tin vào sự tồn tại của các sinh mệnh ở vi quan. Trên thực tế, có rất nhiều thứ chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thịt nhưng chúng vẫn tồn tại. Chúng ta vẫn hít thở mỗi ngày dù không nhìn thấy không khí, chúng ta vẫn sử dụng tín hiệu điện thoại dù không nhìn thấy tín hiệu điện thoại. Thế nên chúng ta không thể phủ nhận những hiện tượng mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc tiếp xúc đến, nhưng lại tồn tại và thậm chí tồn tại với số lượng lớn. Thay vào đó, con người cần nhận thức, khám phá chúng theo hướng chính diện. Sinh mệnh là có luân hồi và quy luật nhân quả xác thực ảnh hưởng đến cuộc đời của chúng ta. Các nhà khoa học hiện nay đã phát hiện ra nhiều hiện tượng khó giải thích nhưng lại thực sự tồn tại. Do đó, họ đề xuất kết luận rằng, vũ trụ tồn tại một lượng lớn vật chất tối và năng lượng tối. Loại hiện tượng này thực ra đã được nhắc đến từ hàng nghìn năm trước trong văn hóa Đạo gia, những khái niệm như “Vô cực sinh Thái cực” hay “hữu vô tương sinh” [4] đều là những lý luận quan trọng của Đạo gia thời bấy giờ.

Văn hóa truyền thống Trung Hoa là bác đại tinh thâm, chứa đựng nguồn trí huệ vô tận. Chúng ta nên tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa truyền thống cũng như quy luật nhân quả, để từ đó gieo mầm cho một cuộc sống hạnh phúc cho bản thân và thế hệ mai sau.

Chú thích của người dịch:

[1] Tấn thân: chỉ các quan lại, sĩ phu trong xã hội phong kiến Trung Quốc; sĩ nữ: chỉ nam nhân, nữ nhân thuộc tầng lớp trí thức, quý tộc trong xã hội phong kiến Trung Quốc.

[2] Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu thêm về câu chuyện “Chén rượu tước binh quyền” ở đây.

[3] Độc giả quan tâm có thể tìm hiểu thêm về câu chuyện Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa đăng cơ với nghi án “bóng nến kèm tiếng búa” ở ba đường liên kết dưới đây: Link 1; Link 2; Link 3.

[4] “Hữu vô tương sinh” trích trong chương Dưỡng thân – Đạo Đức Kinh của Lão Tử, có ý tứ rằng cái có và không nương tựa nhau mà sinh ra, mà tồn tại.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/272422