Ấu Học Quỳnh Lâm bút đàm (13): Minh Hoàng du ngoạn cung trăng

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nguyên văn chữ Hán và chú âm

中(ㄓㄨㄥ) 秋(ㄑㄧㄡ) 月(ㄩㄝˋ) 朗(ㄌㄤˇ),

明(ㄇㄧㄥˊ) 皇(ㄏㄨㄤˊ) 親(ㄑㄧㄣ) 游(ㄧㄡˊ) 於(ㄩˊ) 月(ㄩㄝˋ) 殿(ㄉㄧㄢˋ);

九(ㄐㄧㄡˇ) 月(ㄩㄝˋ) 風(ㄈㄥ) 高(ㄍㄠ),

孟(ㄇㄥˋ) 嘉(ㄐㄧㄚ) 落(ㄌㄨㄛˋ) 帽(ㄇㄠˋ) 於(ㄩˊ) 龍(ㄌㄨㄥˊ) 山(ㄕㄢ)。

Bính âm

中(Zhōng) 秋(Qiū) 月(yuè) 朗(lǎng),

明(Míng) 皇(Huáng) 亲(qīn) 游(yóu) 于(yú) 月(Yuè) 殿(Diàn);

九(jiǔ) 月(yuè) 风(fēng) 高(gāo),

孟(Mèng) 嘉(Jiā) 落(luò) 帽(mào) 于(yú) 龙(Lóng) 山(Shān)。

Âm Hán Việt

Trung Thu nguyệt lãng, Minh Hoàng thân du ư Nguyệt Điện; cửu nguyệt phong cao, Mạnh Gia lạc mạo ư Long Sơn.

Giải nghĩa từ ngữ

(1) 明皇 (Minh Hoàng): Đường Huyền Tông.

(2) 月殿 (Nguyệt Điện): Nguyệt cung, cung trăng.

(3) 孟嘉 (Mạnh Gia): Tên người, danh sĩ thời Tấn.

(4) 龍山 (Long Sơn): Tên một ngọn núi.

Bản dịch tham khảo

Ánh trăng sáng vào đêm Trung Thu, Đường Minh Hoàng đến cung trăng du ngoạn. Vào Tết Trùng Dương ngày 9 tháng 9, nơi cao gió lớn, Mạnh Gia lên núi Long Sơn bị gió núi thổi rơi mũ.

Đọc sách luận bút

Nội dung bài học này rất đơn giản, chủ yếu nói về những điển tích liên quan đến hai lễ hội truyền thống là Tết Trung Thu và Tết Trùng Dương. Một là kể về chuyến du hành của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đến cung trăng và ông đã sáng tác ra ca khúc “Nghê Thường vũ y khúc” (vũ điệu Nghê Thường). Câu chuyện này có thể xem trong phần Kể chuyện của bài học này. Ở đây chỉ nói về tại sao Đường Huyền Tông còn được gọi là Đường Minh Hoàng, kỳ thực Đường Minh Hoàng được gọi vào thời nhà Thanh, Huyền Tông là miếu hiệu của Lý Long Cơ, còn “Minh Hoàng” được cho là có nguồn gốc từ thụy hiệu của ông là “Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu Hoàng Đế”, nhà Thanh vì tránh phạm huý chữ Huyền Diệp trong tên của Hoàng đế Khang Hy, nên đã tránh cách nói Đường Huyền Tông, mà thường gọi là ông Đường Minh Hoàng.

Vậy, miếu hiệu là gì? Có nghĩa là sau khi hoàng đế thời cổ đại qua đời, phải lập thái miếu để thờ phụng trong hoàng thất, họ đặt một danh hiệu, gọi là miếu hiệu. Đó không chỉ có lòng thành kính tưởng niệm các hoàng đế tổ tiên, mà còn có dụng ý tưởng nhớ công lao to lớn hay lòng nhân đức kiệt xuất của hoàng đế, vì vậy từ nhà Hán trở về trước chỉ các hoàng đế có cống hiến kiệt xuất và thành tích xuất sắc mới xứng đáng có miếu hiệu.

Người ta thường tin rằng, miếu hiệu có nguồn gốc từ thời nhà Thương, chẳng hạn như Thái Giáp là Thái Tông, Thái Mậu là Trung Tông, Vũ Đinh là Cao Tông. Miếu hiệu ban đầu chiểu theo tiêu chuẩn “tổ hữu công nhi tông hữu đức” (tổ tiên có công mà tổ tông có đức) vô cùng nghiêm ngặt, các vị vua khai quốc thường là tổ, ví như Thái Tổ, Cao Tổ khai quốc lập nghiệp để tỏ rõ công lao, bậc quân chủ kế vị có tài năng trị quốc là người hiền minh gọi là tông. Ví dụ như Thái Tông làm rạng rỡ truyền thống, Thế Tông, Cao Tông… đều là bậc quân chủ không dám buông lơi, cẩn thận giữ vững thành quả của người đi trước, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiếu Tông, Duệ Tông… đều có ý nghĩa là minh quân hiền chủ.

Từ nhà Hán về sau đã kế thừa hệ thống miếu hiệu. Và điều này cực kỳ thận trọng đối với việc thêm miếu hiệu, vì vậy rất nhiều vị hoàng đế không có miếu hiệu, chỉ có thụy hiệu. Hoàng đế có miếu hiệu cực ít. Từ khi nhà Hán trị vì thiên hạ bằng chữ hiếu, cho nên thụy hiệu của hoàng đế kế vị đều có chữ “hiếu”. Nói cách khác, các vị hoàng đế của Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) đều có thụy hiệu, nhưng rất ít người có được miếu hiệu. Lưu Bang là bậc quân chủ khai quốc, miếu hiệu là Thái Tổ (nhưng sử sách gọi ông là Cao Tổ, hậu thế đa phần dùng theo), Lưu Hằng là Thái Tông, Lưu Triệt là Thế Tông, Lưu Tú là Thế Tổ của nhà Đông Hán, cũng có nghĩa là người khai sáng ra vương triều Đông Hán, công đức to lớn, bởi vậy được gọi là tổ.

Từ nhà Đường trở về sau kế thừa tập quán nhà Hán, nhưng có thêm rất nhiều các vị hoàng đế có miếu hiệu. Mà thụy hiệu có nguồn gốc từ thời nhà Chu, cũng là danh hiệu sau khi chết, nhưng không giới hạn đối với hoàng đế, nó có thể được sử dụng cho các hoàng đế cổ xưa, cũng có thể được sử dụng cho các chư hầu, các khanh đại phu cũng như các quan đại thần, thụy hiệu là một loại danh hiệu do triều đình ban tặng căn cứ vào hành vi trong đời của họ, mục đích là để khen chê thiện ác. Do đó so với miếu hiệu, nó là cái để đánh giá thiện ác của con người, giống như một lời bình luận cô đọng, điều này sau thời nhà Đường đã được lưu truyền rộng rãi.

Khi xưng hoàng đế, miếu hiệu thường được đặt trước thụy hiệu và cùng với thụy hiệu tạo thành tên đầy đủ của vị hoàng đế đã khuất. Theo tập quán, trước thời nhà Đường thông thường sẽ gọi các vị hoàng đế đã qua đời theo thụy hiệu, chẳng hạn như Hán Vũ Đế và Tùy Dương Đế, mà không xưng miếu hiệu. Từ thời nhà Đường về sau, do văn tự của các thụy hiệu quá dài, nên đổi sang gọi miếu hiệu, chẳng hạn như Đường Thái Tông và Tống Thái Tổ.

Ngoài ra một điển tích khác kể về đại tài tử Mạnh Gia nổi tiếng thiên hạ ở triều Tấn vào ngày Trùng Dương lên núi cao, bị gió thổi rơi mũ, đã để lại câu chuyện phong nhã thiên cổ (xem phần dưới).

Kể chuyện

Đường Minh Hoàng du ngoạn cung trăng

Tương truyền La Công Viễn người ở Ngạc Châu biết Đạo thuật, có một năm vào đêm Trung Thu, ông hầu hạ Đường Minh Hoàng thưởng nguyệt ở trong cung. La Công Viễn thấy Đường Huyền Tông chăm chú nhìn trăng sáng, ông liền mời Huyền Tông đi du ngoạn cung trăng.

Ông lấy một chiếc gậy ném lên không trung, biến nó thành một cây cầu lớn màu bạc, ông mời Huyền Tông cùng bước lên cầu. Đi được xa gần mấy chục dặm, cảm thấy ánh vàng chói mắt, khí lạnh tràn ngập, mới phát hiện đã đến trước một tòa cung điện lớn. Phía trước có cổng vòm tứ trụ lung linh, bên trên có một tấm biển lớn có viết sáu chữ vàng lớn “Quảng Hàn Thanh Hư chi phủ”. La Công Viễn nói: “Đây chính là cung trăng!”

Khi Huyền Tông nhìn thấy một cung điện rộng lớn trong đó có hàng trăm Tiên nữ mặc áo lụa trắng đang nhảy múa, tiếng hát lảnh lót, âm điệu rất hay, ông liền hỏi: “Đây là khúc hát gì vậy?” La Công Viễn đáp: “Chính là Nghê Thường vũ y khúc”. Huyền Tông vốn am hiểu về âm luật vũ đạo, ông dùng hai tay bấm theo âm tiết, ghi nhớ kỹ thanh điệu của khúc nhạc đó, về đến hoàng cung, ông liền ra lệnh cho người dựa vào thanh điệu mà ông đã nhớ để soạn thành một bản “Nghê Thường vũ y khúc”.

Mạnh Gia rơi mũ, ca tụng nho nhã thiên cổ

Mạnh Gia rơi mũ vừa là điển cố, vừa là thành ngữ, mô tả sự nho nhã và tự nhiên thoải mái của một người quân tử hoạt bát.

Mạnh Gia là người Giang Hạ. Ông là một danh sĩ nho nhã thời Đông Tấn và là ông ngoại của nhà thơ điền viên nổi tiếng Đào Uyên Minh (Đào Tiềm). Ông vừa tài giỏi vừa hiếu thảo trung hậu, rất độ lượng, không chút kiêu ngạo, có thái độ khiêm tốn nhã nhặn, có thể nói ông là hình mẫu của người quân tử hào hoa phong nhã. Danh tiếng của ông lan đến kinh thành, được Trung thư lệnh Dữu Lượng, Thái phó Trữ Bầu, Đại tướng quân Hoàn Ôn và những người khác coi trọng và tán thưởng, ngay cả hoàng đế Tấn Mục Đế đương thời cũng vô cùng ngưỡng mộ và đích thân đón tiếp ông. Cuộc đời và điển cố của ông được ghi chép trong Tấn Thư – Hoàn Ôn Truyện và cuốn Tấn cố chinh tây đại tướng quân trưởng sử Mạnh Phủ Quân truyện của tác giả Đào Uyên Minh.

Mạnh Gia mồ côi cha từ khi còn nhỏ, nhưng ông rất hiếu thảo với mẹ, rất thân thiện và hòa thuận với hai em trai. Ông được dân làng khen ngợi. Mạnh Gia chẳng những ở nhà hiếu thuận, mà còn có tấm lòng rộng lớn, không màng danh lợi, lúc 20 tuổi đã được bạn bè đồng lứa kính phục. Dù là danh sĩ nổi tiếng tài giỏi đến đâu cũng đều ca tụng sự lịch sự nho nhã và bình dị khoáng đạt của Mạnh Gia, vì vậy Mạnh Gia nổi tiếng ở Quan Châu, tiếng tăm truyền đến kinh đô.

Vào những năm đầu nhà Đông Tấn, Mạnh Gia được Trung thư lệnh Dữu Lượng coi trọng vì tài năng và nhân phẩm của ông. Khi Dữu Lượng rời Trấn Giang Châu (nay là Cửu Giang), ông được đảm trách giúp việc quân. Một lần Thái phó Trữ Bầu đến thăm Giang Châu, Dữu Lượng đã tổ chức một bữa tiệc thết đãi ông và mời các quan viên lớn nhỏ và các nhân vật nổi tiếng của Giang Châu cùng tiếp khách. Trữ Bầu đã nghe đến tên Mạnh Gia từ lâu, nhưng chưa từng gặp mặt, thế mà ông lại có thể lập tức nhận ra Mạnh Gia trong một góc kín đáo có rất nhiều khách và bạn bè. Sau khi Dữu Lượng qua đời, Chinh Tây Đại tướng quân Hoàn Ôn lên kế vị làm thứ sử Giang Châu, thấy Mạnh Gia cư xử với mọi người khiêm tốn và ngay thẳng, nên rất quý trọng ông, đã bổ nhiệm ông làm Tham quân. Thế là có câu chuyện Mạnh Gia rơi mũ.

Năm đó vào Tết Trùng Dương mùng 9 tháng 9, Hoàn Ôn đưa các quan viên văn võ thuộc hạ của mình đi du ngoạn Long Sơn, lên núi ngắm hoa cúc, bày tiệc uống rượu vui trên núi, bốn người em và hai cháu trai của Hoàn Ôn đều có mặt. Vào thời điểm đó các quan viên lớn nhỏ đều mặc quan phục. Gió thu mát mẻ, hương hoa thấm vào lòng người. Đột nhiên một cơn gió không biết từ đâu thổi về phía mặt Mạnh Gia, thổi bay chiếc mũ của ông xuống đất, nhưng ông vẫn nâng chén uống cạn. Hoàn Ôn nhìn thấy, thầm thắc mắc, và dùng ánh mắt ra hiệu bảo mọi người hãy im lặng xem Mạnh Gia sẽ có những hành động gì. Mạnh Gia vẫn nói chuyện vui cười, hoàn toàn không hay biết.

Một lúc lâu sau, Mạnh Gia đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi để đi vệ sinh. Hoàn Ôn nhân cơ hội cầm mũ của Mạnh Gia lên, đặt lên chỗ của mình. Hoàn Ôn còn ra lệnh cho mọi người lấy giấy và bút, và viết một mẩu giấy, đùa Mạnh Gia rơi mũ mà không biết, thật mất thể diện. Hoàn Ôn cảm thấy thật thú vị, cũng muốn nhân lúc tửu hứng trêu chọc Mạnh Gia, bèn ấn tờ giấy dưới chiếc mũ. Khi Mạnh Gia quay trở lại chỗ ngồi của mình mới nhận ra mình rớt mũ, thất lễ. Nhưng ông không hoảng sợ chút nào, thuận tay cầm mũ lên đội lại ngay ngắn. Ông cầm tờ giấy đó lên xem qua một lượt, không những không tức giận mà còn lập tức mời người lấy giấy bút, không cần suy nghĩ, ông liền múa bút thành văn viết một câu trả lời dí dỏm, biện hộ cho việc rơi mũ thất lễ. Hoàn Ôn và khách khứa tranh nhau truyền tay đọc, ai nấy đều thán phục.

Mạnh Gia rơi mũ trong bữa tiệc tụ hội các quan viên vẫn giữ được phong thái nhẹ nhàng, khi bị chế giễu vẫn có thể ung dung đối đáp, hỏi mấy ai có thể độ lượng được như vậy? Mọi người cảm kích tưởng nhớ tài năng xuất chúng và phong thái quân tử của ông nên đã dùng tập hợp từ “Mạnh Gia rơi mũ” để ca tụng sự nho nhã và tài hoa tự nhiên phóng khoáng của người quân tử.

Ghi chú: Phỏng theo sách giáo khoa Ấu Học Quỳnh Lâm của zhengjian.org

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/247820