Thiên cổ anh hùng Hàn Tín (3): Trong tuyệt vọng tìm thấy lối thoát

[ChanhKien.org]

Tranh “Tiêu Hà đuổi theo Hàn Tín” của hoạ sĩ Nhật Bản ở thời kỳ Edo Yosa Buson”, thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Nomura, Kyoto(Ảnh: Phạm vi công cộng)

Vào những năm cuối thời nhà Tần, cục diện hỗn loạn, quần hùng khắp nơi tranh giành thiên hạ. Đúng lúc ấy Hàn Tín bước lên vũ đài, chỉ trong vòng 5 năm đã bình định sơn hà, một lần nữa thống nhất Trung Nguyên. Nhà Hán có thể làm chủ giang sơn, công lao đều thuộc về Hàn Tín. 

1. Bỏ Sở theo Hán

Sau Hồng Môn Yến, Hạng Vũ dẫn chư hầu tiến vào Hàm Dương. Tần vương Tử Anh tuy là quân vương của nước bại trận, nhưng dù sao thân vẫn là bậc đế vương, Hạng Vũ không những không trọng đãi Tử Anh đúng mực, ngược lại còn cho giết chết Tử Anh và tất cả vương tộc, tôn thất cùng đại thần của nước Tần. Đồng thời, còn đại hỏa thiêu lăng Tần Thủy Hoàng và cung Hàm Dương, lửa cháy suốt ba tháng chưa tắt.

Trận đại hỏa này đã gây tổn hại vô cùng to lớn cho văn hóa Trung Quốc. Trong chốc lát, toàn bộ tài liệu mà Tần Thủy Hoàng dày công gây dựng sau khi thống nhất thiên hạ và vô số điển tịch văn hóa của thời đại Tiên Tần đã bị hủy hoại. Hầu hết các ghi chép hàng nghìn năm về nền văn minh Hoa Hạ từ nhà Tần trở về trước đều bị thiêu sạch trong một mồi lửa.

Một sai lầm vô cùng to lớn khác của Hạng Vũ là đẩy đất nước Trung Quốc đã thống nhất lùi trở lại cục diện chư hầu cát cứ một lần nữa. Vào thời điểm đó, rất nhiều kẻ sĩ đã khuyên ông nên xưng đế và đóng đô tại Hàm Dương, bởi Quang Trung được chặn bởi núi, được bao bởi sông, địa thể dễ thủ khó công, và là một vùng đất màu mỡ phì nhiêu, quả là một địa điểm lý tưởng để dựng đô xưng bá. Nhưng Hạng Vũ lại một mực muốn đông quy (hướng về quê nhà), ông nghĩ: “Phú quý không về quê, khác nào áo gấm đi đêm”. Cuối cùng, Hạng Vũ khăng khăng phân đất phong hầu, bãi bỏ hoàn toàn chế độ quản lý và trung ương tập quyền của nhà Tần, lập ra 18 vương chư hầu, bản thân ông cũng là Sở Bá Vương, có quyền lực tương đương với hoàng đế, lúc này, Hạng Vũ đang ở đỉnh cao huy hoàng. (Ghi chú: Từ “Bá” ngày xưa thường hiểu với nghĩa bá trong “bá trọng quý thúc” (thứ tự anh em trai: cả, hai, ba, tư), ý chỉ người anh cả hay “lão đại” trong các vương, cũng tức là vương trong các vương).

Về phần Hàn Tín, thân là cận vệ của Hạng Vũ, đã nhiều lần bày hiến kế, nhưng Hạng Vũ khá tự phụ và tự cho mình là bất khả chiến bại trong thiên hạ, nên không để mắt tới kiến nghị của một cận vệ sĩ nhỏ bé. Chỉ riêng việc cho thiêu rụi Hàm Dương và phân đất phong hầu đã đủ thấy Hạng Vũ là người thiển cận, hành động cảm tính. Hàn Tín nhận thấy nếu đi theo Hạng Vũ, ông sẽ không thể thực hiện được hoài bão lớn lao của mình. Bởi vậy, sau khi phân tích lần lượt 18 chư hầu, cuối cùng ông đã hướng mắt vào Hán Trung Vương Lưu Bang.

Vào năm đầu Hán Cao Đế, tháng 4 (năm 206 TCN), các vương chư hầu sau khi nhận phân đất phong hầu đều thi nhau bãi binh dựng nước. Hạng Vũ cũng “áo gấm hồi hương”, vui mừng trở về Bành Thành làm Tây Sở Bá Vương. Nhưng Hạng Vũ vẫn không yên tâm về Lưu Bang, nên đã không phong Lưu Bang làm Quan Trung Vương theo đúng giao ước, mà lại kìm hãm ông ở Hán Trung, Ba Thục, nhằm hạn chế ông phát triển lực lượng.

Vào thời nhà Tần, vùng đất Ba Thục vẫn còn chưa khai phá, là nơi rừng thiêng nước độc, nghèo khó hoang tàn, “tội nhân thời Tần đều bị lưu đày đến đó” (“Tư Trị Thông Giám”, quyển 9), nhưng nó vẫn thuộc về “đất Quan Trung”. Bởi vậy, việc phong đất Ba Thục cho Lưu Bang cũng có thể coi là Hạng Vũ không làm trái giao ước. Còn những vùng đất màu mỡ của Quan Trung được phân cho ba vị tướng Tần là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Tiễn, hình thành thế bao vây đối với Lưu Bang, chặn đứng con đường Lưu Bang tiến quân vào Trung Nguyên.

Lưu Bang vô cùng căm phẫn nhưng lực bất tòng tâm. Hạng Vũ chỉ cho phép ông dẫn theo ba vạn binh mã, đại thần dưới trướng chỉ có Tiêu Hà được tính là hiền tài trị quốc. Mưu sĩ Trương Lương (vốn là người nước Hàn) lúc đó đã đang phò tá Hàn Vương Thành, còn những võ tướng khác như Tào Tham, Chu Bột, Phàn Khoái, Hạ Hầu Anh, Quán Anh đều không phải là những nhân vật xuất chúng, căn bản không phải là đối thủ của Hạng Vũ. Bởi vậy nếu như đối chọi, nhất định là trăm chiến trăm bại. Lưu Bang chỉ có thể bấm bụng nhẫn chịu, dẫn quân tây tiến vào Hán Trung.

Đúng lúc này, Hàn Tín lặng lẽ rời khỏi Hạng Vũ, gia nhập đoàn người của Lưu Bang tiến vào Hán Trung. Từ đây, vận mệnh của hai nhân vật lịch sử Lưu Bang và Hạng Vũ này đã thay đổi, và cũng chính là thay đổi chiều hướng phát triển của lịch sử.

2. Liễu ám hoa minh

Sạn đạo Tần Lĩnh (đường làm bằng cọc gỗ lát ván, chạy men theo những vách núi và bờ vực chênh vênh) là độc đạo dẫn từ Quan Trung đến Hán Trung. Trước khi chia tay thấy Lưu Bang đang lâm vào tình cảnh bất lợi, Trương Lương đã đề nghị ông hãy thiêu hủy toàn bộ những sạn đạo mà họ đã đi qua. Một mặt là để phòng ngừa những chư hầu như Chương Hàm tiến công vào Hán Trung, và điều quan trọng hơn nữa là khiến Hạng Vũ lơ là, tin rằng Lưu Bang không có dã tâm đoạt tranh đoạt thiên hạ. Nhưng mặt khác, điều đó cũng khiến bản thân Lưu Bang bị phong bế hoàn toàn ở đất Thục, nếu không có kỳ mưu diệu kế gì thì có khả năng sẽ già ở Hán Trung. Lưu Bang không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể trước hết giữ cho bản thân bình an, rồi mới tính đến những phương kế khác.

Khi mới đến doanh trại quân Hán, Hàn Tín vừa không có công trạng vừa không có thế lực, chỉ được làm chức “liên ngao” nhỏ nhoi, và sử sách cũng không có ghi chép rõ ràng về công việc cụ thể của chức quan này. Với chức vị thấp kém như vậy làm sao Hàn Tín có thể có cơ hội để thực hiện hoài bão to lớn của mình đây! Đã vậy, ngay vào lúc Hàn Tín đang cảm thấy vô cùng chán nản, thì lại vi phạm quân pháp mà sắp bị xử tử. Tận mắt chứng kiến 13 người khác cùng vi phạm đều đã bị xử trảm, thấy sắp đến phiên mình, Hàn Tín ngửa mặt nhìn trời, vừa hay trông thấy Hạ Hầu Anh đi ngang qua, bèn lớn tiếng nói: “Hán Vương chẳng phải phải muốn có được thiên hạ ư? Sao lại muốn xử tử tráng sĩ thế?” (Sử Ký – Hoài  Âm Hầu liệt truyện).

Hạ Hầu Anh cùng Lưu Bang vốn thân nhau từ thuở nhỏ, và là một trong những người thân tín nhất của Lưu Bang, đã nam chinh bắc chiến, vô cùng trung thành. Hạ Hầu Anh là một trong bốn vị tướng sĩ có mặt tại Hồng Môn yến, bởi vậy khi nghe Hàn Tín nói ông không khỏi giật mình. Việc Lưu Bang muốn tranh thiên hạ vốn là bí mật trong những bí mật, quân sĩ nhỏ bé này sao có thể biết được chứ? Ông nhìn kỹ Hàn Tín một lượt, thấy Hàn Tín tướng mạo anh tuấn uy vũ, khí phách hơn người, liền cởi trói và kéo Hàn Tín đến một bên gặng hỏi cặn kẽ. Sau một hồi nói chuyện, ông nhanh chóng bị kiến giải và tài trí của Hàn Tín chinh phục, lập tức tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang.

Sau khi tiến vào Hán Trung, Lưu Bang cứ mãi sầu não, cũng không để tâm đến lời tiến cử của Hạ Hầu Anh, không buồn gặp mặt Hàn Tín, chẳng qua vì nể mặt của bộ hạ cũ mà thăng Hàn Tín lên chức trị lật đô úy quản lý lương thảo. Chức trị lật đô úy này đã cho Hàn Tín có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với tướng quốc Tiêu Hà của nhà Hán. Tiêu Hà rất kinh ngạc khi thấy Hàn Tín sáng suốt và gan dạ hơn người, trí tuệ xuất chúng, hiểu sâu binh pháp, và khẳng định đây chính là tướng tài mà quân Hán đang cần, liền vội vàng tiến cử với Lưu Bang.

Tiêu Hà với Lưu Bang vừa là đồng hương, vừa là bạn tri kỷ từ thuở hàn vi, thế nhưng sự tiến cử của Tiêu Hà vẫn là chưa đủ để Lưu Bang thực sự coi trọng Hàn Tín. Sau một thời gian chờ đợi, Hàn Tín trong lòng thất vọng, dự tính đi tìm con đường khác.

Quân Hán đều là người Quan Đông và người nhà đều ở lại cố hương, Lưu Bang cũng không ngoại lệ. Quân sĩ chỉ mong Lưu Bang mau chóng có thể đánh về quê nhà để được đoàn tụ với người nhà. Sau khi Lưu Bang thiêu hủy sạn đạo, không có bất kỳ biện pháp thực tế nào để có thể đánh về Quan Trung, thất vọng xen lẫn nỗi nhớ quê nhà bao trùm khắp quân doanh. Lâu dần rất nhiều binh sĩ đã mất kiên nhẫn, thi nhau đào binh, ngay cả tướng lĩnh cũng đã có đến mấy chục người bỏ trốn. Cuối cùng đến một ngày, Hàn Tín cũng lặng lẽ rời khỏi doanh trại quân Hán.

Việc Hàn Tín bỏ đi đã kinh động đến Tiêu Hà. Trong mắt Tiêu Hà, Hàn Tín có sức nặng vượt xa hết thảy các đại tướng mà quân Hán đang có. Tiêu Hà lòng như lửa đốt, không kịp bẩm báo Lưu Bang đã gấp gáp lên đường đuổi theo Hàn Tín. Lúc đó, khi trời đã tối, dưới ánh trăng non, Tiêu Hà vung roi thúc ngựa phi như bay mất hút trong màn đêm. Đó chính là giai thoại thiên cổ “Tiêu Hà nguyệt hạ truy Hàn Tín” (Dưới  ánh trăng, Tiêu Hà thúc ngựa đuổi theo Hàn Tín).

Tranh “Tiêu Hà đuổi theo Hàn Tín” của hoạ sĩ Nhật Bản ở thời kỳ Edo Yosa Buson”, thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Nomura, Kyoto(Ảnh: Phạm vi công cộng)

Biết tin Tiêu Hà ra khỏi quân doanh, Lưu Bang không khỏi sửng sốt, sốt ruột đến mất bình tĩnh, đứng ngồi không yên, như thể mất đi thủ túc. Về phần Tiêu Hà, ông cũng sốt ruột không kém, bởi ông biết rằng Hàn Tín là cứu tinh duy nhất của quân Hán, nếu mất đi Hàn Tín, quân Hán chẳng khác gì một đạo quân ô hợp. Nếu như Hàn Tín đầu quân dưới trướng kẻ khác mà đối phó lại quân Hán, thì hậu quả càng không thể tưởng tượng nổi.

Hàn Tín vẫn chưa nghĩ thông sẽ đi đâu, lại thêm tâm trạng sầu não, vậy nên cũng không đi được nhanh. Đến nửa đêm, khi Hàn Tín tới bờ sông Hàn Khê, nước sông dâng cao, không cách nào vượt sông. Tiêu Hà một mạch vừa hỏi han tin tức vừa đuổi theo Hàn Tín, từ xa xa trông thấy thấp thoáng dưới ánh trăng bên cạnh sông Hàn Khê có kẻ đơn thân độc mã đang men theo bờ tìm cách vượt sông, và người đó không phải ai khác chính là Hàn Tín.

Lưu Bang vì chuyện Tiêu Hà đột ngột bỏ đi mà bất an mấy ngày đêm, dó đó, khi Tiêu Hà đưa Hàn Tín về lại doanh trại, lúc phảng phất thấy mất bóng dáng Tiêu Hà, Lưu Bang còn ngỡ mình đang nằm mơ. Lưu Bang vừa kinh ngạc, vừa vui mừng lại vừa phẫn nộ, không kìm nổi cơn giận đã trách hỏi Tiêu Hà cớ sao lại bỏ đi. Lưu Bang không tin rằng Tiêu Hà vì đuổi theo Hàn Tín mà vội đi không nói lời từ biệt, vặn hỏi tại sao mỗi ngày ở đây đều có vài chục hoặc cả trăm binh sĩ bỏ trốn, chỉ tính riêng tướng lĩnh trốn đi cũng đã hơn mấy chục người, hà cớ gì người khác bỏ trốn thì không đuổi theo, mà lại cứ đuổi theo Hàn Tín?

Lúc này Tiêu Hà nói rằng các quân nhân khác đều thuộc hạng người bình thường, họ đi hay ở cũng không quan trọng; còn Hàn Tín lại khác, là kỳ tài thiên hạ vô song. Nếu Lưu Bang muốn cả đời an phận làm vương ở Hán Trung, [thì chẳng cần Hàn Tín làm gì], nhưng nếu muốn xây dựng nghiệp đế vương, không có Hàn Tín phò tá thì không được.

Nghe đến đây, Lưu Bang không thể không nhìn kỹ Hàn Tín lại lần nữa. Sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, Lưu Bang đồng ý đề bạt Hàn Tín làm tướng quân. Tiêu Hà quả quyết rằng chức vị tướng quân vẫn là thiệt thòi cho bậc kỳ tài như Hàn Tín. Cuối cùng Lưu Bang bất đắc dĩ để Hàn Tín làm đại tướng quân và cho triệu kiến Hàn Tín, xem xem người này rốt cuộc tài giỏi đến mức độ nào. Tuy nhiên, Tiêu Hà lại không đồng ý, nói rằng bậc đại tướng quân mà hô tới quát lui như vậy thì thật thiếu tôn trọng, cần phải dựa theo khuôn phép chọn ra ngày lành hoàng đạo, trai giới tắm gội, lập đàn sắc phong mới tỏ rõ được thành ý.

(Đón xem Phần 4: Hàn Tín – Một tay gây dựng cơ đồ nhà Hán)

Bản gốc: http://www.epochtimes.com/gb/16/4/12/n7547714.htm

Tổ nghiên cứu Nhân vật thiên cổ anh hùng của Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm