Tam Tự Kinh – Đọc sách luận bút (33)

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nguyên văn

昔(1)仲尼(2),師(3)項橐(4),

古聖賢,尚(5)勤學。

趙中令(6),讀魯論(7),

彼既(8)仕(9),學且勤。

Bính âm

昔(xí) 仲(zhòng) 尼(ní), 師(shī) 項(xiàng) 橐(tuó),

古(gǔ) 聖(shèng) 賢(xián), 尚(shàng) 勤(qín) 學(xué)。

趙(zhào) 中(zhōng) 令(lìng), 讀(dú) 魯(lǔ) 論(lún),

彼(bǐ) 既(jì) 仕(shì), 學(xué) 且(qiě) 勤(qín)。

Chú âm

昔(ㄒ一ˊ) 仲(ㄓㄨㄥˋ) 尼(ㄋ一ˊ),

師(ㄕ) 項(ㄒ一ㄤˋ) 橐(ㄊㄨㄛˊ),

古(ㄍㄨˇ) 聖(ㄕㄥˋ) 賢(ㄒ一ㄢˊ),

尚(ㄕㄤˋ) 勤(ㄑ一ㄣˊ) 學(ㄒㄩㄝˊ)。

趙(ㄓㄠˋ) 中(ㄓㄨㄥ) 令(ㄌ一ㄥˋ),

讀(ㄉㄨˊ) 魯(ㄌㄨˇ) 論(ㄌㄨㄣˊ),

彼(ㄅ一ˇ) 既(ㄐ一ˋ) 仕(ㄕˋ),

學(ㄒㄩㄝˊ) 且(ㄑ一ㄝˇ) 勤(ㄑ一ㄣˊ)。

Âm Hán Việt

Tích Trọng Ni, Sư Hạng Thác,

Cổ thánh hiền, Thượng cần học.

Triệu trung lệnh, Độc Lỗ Luận,

Bỉ kí sĩ, Học thả cần.

Tạm dịch

Trước kia Trọng Ni, hướng học Hạng Thác,

Thánh hiền xa xưa vẫn còn chăm học.

Trung lệnh Triệu Phổ, mãi đọc Luận Ngữ,

Người đã làm quan, vẫn học chuyên cần.

Từ vựng

(1) tích (昔): trước kia, trước đây, ngày trước.

(2) Trọng Ni (仲尼): Khổng Tử tên tự là Trọng Ni.

(3) sư (師): học tập hoặc thỉnh giáo ai đó.

(4) Hạng Thác (項橐): thần đồng thời Xuân Thu ở nước Lỗ.

(5) thượng (尚): còn, vẫn còn.

(6) Triệu trung lệnh (趙中令): Triệu Phổ của triều Tống, đảm nhiệm chức Trung thư lệnh, chuyên môn quản lý việc văn thư của vua.

(7) Lỗ Luận (魯論): chính là “Luận Ngữ”. Có một lần, Tống Thái Tổ ở trong nhà Triệu Phổ, nhìn thấy Triệu Phổ đang đọc “Luận Ngữ”, Thái Tổ ngạc nhiên hỏi: “Luận Ngữ” từ nhỏ khanh đã đọc rồi, sao hiện tại vẫn còn đọc vậy? Triệu Phổ trả lời: “Trong “Luận Ngữ” có đạo lý ‘tu thân’, ‘tề gia’, ‘trị quốc’, ‘bình thiên hạ’, cần không ngừng đọc thuộc lòng, mới có thể dựa vào đây mà xử sự làm người”.

(8) ký (既): đã, vừa, rồi.

(9) sĩ (仕): làm quan.

Dịch nghĩa tham khảo

Khổng Tử là một người hiếu học, hễ có gì không hiểu, ông đều khiêm tốn thỉnh giáo người khác. Lúc ấy ở nước Lỗ có một vị thần đồng mới bảy tuổi tên là Hạng Thác, Khổng Tử đã từng xin thỉnh giáo Thác. Một bậc thánh nhân vĩ đại như Khổng Tử còn có thể không ngừng học tập, không ngại học hỏi kẻ dưới, điều này khiến chúng ta càng phải nghiêm túc suy nghĩ về tấm gương của hiền nhân!

Triệu Phổ triều Tống đã làm Trung thư lệnh, còn không ngừng đọc “Luận Ngữ”, không vì mình đã làm quan lớn mà quên chuyên cần đọc sách.

Đọc sách luận bút

Bài học này có thể nói là lời dạy về thái độ học tập và làm người, khuyên bảo học trò cho dù học vấn cao bao nhiêu cũng không thể tự cao tự đại, từ đầu đến cuối luôn phải giữ thái độ khiêm tốn và kính trọng người khác.

Khổng Tử là bậc thánh hiền thời cổ đại, là nhà giáo dục được muôn đời kính ngưỡng, ông không chỉ ham học hỏi, khiêm tốn hữu lễ, điều khó làm được nhất là ông không ngại học hỏi kẻ dưới, ông tôn trọng tất cả mọi người, không lấy thân phận địa vị tuổi tác mà luận bàn cao thấp, đối xử với mọi người bình dị gần gũi, có thể khiêm tốn hạ mình xin thỉnh giáo cả đứa trẻ, câu chuyện sau đây chính là câu chuyện nổi tiếng Khổng Tử khiêm tốn xin thỉnh giáo và học tập đứa trẻ bảy tuổi Hạng Thác.

Khi Khổng Tử bị đứa trẻ không chút nể mặt chỉ ra sai lầm, ông không vì giữ thể diện mà tức giận, ngược lại thản nhiên thừa nhận mình không bằng đứa trẻ, chính như lời ông nói: (1) “Biết thì là biết, không biết thì là không biết, ấy cũng là biết!”; (2) “Ba người cùng đi tất có người là thầy ta”. Ông còn từng nói, nếu như chỉ lấy một chữ để dạy bảo đệ tử làm người như thế nào thì chữ “Thứ 恕” là cần nhất (3) Điều gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Đây là đức của quân tử, trong câu chuyện bên dưới Khổng Tử đều làm được ba phương diện này. Lời nói của ông đi đôi với việc làm, đây là quân tử chân chính. Không dối trá, không che đậy, có thể trước mặt học trò mà tán dương đứa trẻ hiểu biết nhiều hơn mình, chính là làm được “không biết thì là không biết”; phải học tập đứa trẻ, coi đứa trẻ làm thầy, kỳ thật chính là lấy bản thân để dạy học trò, làm người không thể kiêu ngạo, cho dù mình có học thức cao bao nhiêu cũng không thể biết hết mọi chuyện, cũng không thể tinh thông mọi thứ, mỗi người đều có kiến thức độc đáo của mình, đều đáng để thỉnh giáo và học tập, đây chính là làm được “ba người cùng đi tất có người là thầy ta”. Ông không trách cứ đứa trẻ không để ý tới thể diện của ông, chính là tấm lòng khoan dung, làm được ‘thứ nhân’ (người có lòng “Thứ”), không so đo thiệt hơn. Khổng Tử không chỉ thản đãng (trong sáng vô tư) với mọi người, ông còn có thể thừa nhận người khác có điểm mạnh hơn mình, thỉnh giáo học tập tất cả mọi người. Trong thiên đầu tiên của sách “Luận Ngữ” ông cũng đã nói: “Vô hữu bất như kỷ giả (Không có người bạn nào không bằng mình)”, mọi người cho rằng Khổng Tử nói vậy ý là không nên kết giao với những người không bằng mình, kỳ thực là đã hiểu sai hoặc bẻ cong ý tứ, câu nói này kỳ thật chính là để dạy bảo đệ tử, bất cứ người bạn nào cũng đều có tài năng của bản thân họ, đều có điểm mạnh hơn mình, đáng để mình học tập, cho nên cần phải khiêm tốn. Nếu giảng giải đúng, thì chính là người bạn nào cũng tài giỏi bằng mình. Cho nên, Khổng Tử muốn đệ tử của mình nhìn thấy điểm tốt của người khác, thấy được cái sai của mình để sửa, bởi vì câu tiếp theo ông nói “Quá tắc vật đạn cải (người có lỗi thì chớ sợ đổi)”. Câu chuyện này chính là ông lấy bản thân mình ra để dạy học trò, điều mà ông giảng trong sách “Luận Ngữ” thì tự bản thân ông có thể làm được, ông cho rằng đứa trẻ có hiểu biết nhiều và kiến thức cao hơn mình, nên nguyện ý nhận chỉ bảo.

Ông cũng có thể cho phép học trò hỏi mình bất kỳ vấn đề nghi hoặc nào, ông đều kiên nhẫn giải đáp, dĩ lý phục nhân (dùng đạo lý thuyết phục người khác), không áp đặt người khác. Đúng là ông đã lưu lại quan điểm giáo dục rất phù hợp với nhân tính: hữu giáo vô loại (giáo dục đại trà không phân hình thức), nhân tài thi giáo (tùy theo tài năng của học trò mà dạy). Điều ông thể hiện là sự tôn trọng và lý tính, là sự thẳng thắn chân thành, nhân ái thiện lương. Chính vì vậy, không kể giàu nghèo quý tiện, ông đều đối đãi bình đẳng, khiến cho 3000 đệ tử bên dưới hoàn toàn khâm phục địa vị làm thầy của ông. Mà chỉ có người học thức uyên bác mới nhận được sự kính ngưỡng của người đời.

Cho nên đệ tử của ông mới nói, một người chỉ cần hành vi phù hợp với đạo nhân nghĩa, thì cho dù anh ta không có đọc sách cũng là người có học vấn. Ngược lại người đọc rất nhiều sách, lại khoe khoang học vấn thì đã vi phạm lời dạy bảo của Khổng Tử. Khổng Tử xưng mình là tiểu nhân. Người đọc sách lại rất dễ dàng quên mất điểm này.

Còn như Triệu Phổ, là vị quan mẫu mực triều Tống, cả đời lấy lời dạy bảo của Khổng Tử làm thầy, khi trị quốc gặp việc khó ông thường đối chiếu với sách “Luận Ngữ”, trí huệ liên tục bồi đắp, là vị tể tướng danh tiếng thực hành đạo lý của Khổng Tử để trị quốc.

Câu chuyện thiên địa: Cuộc biện luận giữa Hạng Thác và Khổng Tử

Thời Xuân Thu có một thần đồng tên là Hạng Thác. Có một ngày, Hạng Thác cùng chúng bạn chơi trò xây thành trên đường, dùng bùn đắp lên một tòa thành đất. Vừa lúc Khổng Tử dẫn học trò ngồi xe ngựa chu du liệt quốc đi ngang qua, bọn trẻ khác thấy xe ngựa đều nhao nhao tránh đi, chỉ có Hạng Thác ngồi y nguyên trong thành đất nhỏ ở giữa đường.

Thế là Khổng Tử liền xuống xe hỏi cậu bé: “Xe ngựa đi tới, vì sao cháu không tránh ra vậy?” Hạng Thác ngẩng đầu lên nhìn Khổng Tử, thẳng thắn hùng hồn nói: “Thánh nhân nói rằng, làm người trên phải thông thiên văn, dưới phải tường địa lý, giữa phải tỏ lòng người. Từ xưa đến nay chỉ nghe xe ngựa có thể đi quanh thành, chứ chưa từng nghe phải dọn thành để nhường cho xe đi”. Khổng Tử cảm thấy Hạng Thác nói rất có đạo lý, không bác lời của cậu, liền nói học trò cưỡi xe ngựa nhường đường vòng qua mà đi, cũng nói với Hạng Thác: “Tuổi cháu mới chút thôi, lại hiểu được không ít đạo lý”.

Hạng Thác không phục Khổng Tử nói cậu nhỏ tuổi cho lắm, nên nói với Khổng Tử: “Cháu nghe nói cá con sinh ra sau ba ngày, liền có thể tự do tự tại bơi lội trong sông nước; thỏ con sinh ra được ba ngày cũng biết chạy chạy nhảy nhảy một đoạn; con người sinh ra sau ba tháng thì có thể nhận biết được cha mẹ. Đây là bản năng bẩm sinh, có quan hệ gì đến tuổi tác lớn nhỏ đâu?”

Khổng Tử cảm thấy đứa nhỏ này rất có ý tứ, muốn thử xem tài năng và kiến thức của cậu ta, lại hỏi Hạng Thác: “Cháu đã nói như vậy, ta cũng muốn hỏi cháu một chút, xem cháu biết hay không: Núi nào không có đá? Nước nào không có cá? Môn (cửa) nào không cần đóng? Xe nào không có bánh? Trâu nào không sinh trâu con? Ngựa nào không sinh ngựa con? Dao nào không có vòng [1]? Lửa nào không có khói? Cây nào không có nhánh?” Hạng Thác không chút suy tư trả lời ngay: “Núi đất không có đá. Nước giếng không có cá. Không môn (cửa trống) không cần đóng. Xe kiệu không có bánh xe. Trâu đất không sinh trâu con. Ngựa gỗ không thể sinh ngựa con. Chước đao (dao chẻ củi) không có vòng. Huỳnh hỏa (đom đóm) không có khói. Cây khô không có nhánh”.

Khổng Tử nghe Hạng Thác trả lời, vô cùng vui sướng, liên tục tán thưởng nói: “Đáp thật hay! Đáp thật hay!” Hạng Thác nghe rất đắc ý, cũng đưa ra một vấn đề hỏi Khổng Tử: “Lão tiên sinh, vậy ông có biết hay không, ngỗng và vịt tại sao có thể nổi trên mặt nước mà bơi lội? Nhạn (ngỗng trời) và hạc tại sao có thể phát ra tiếng kêu to? Tùng và bách tại sao một năm bốn mùa đều xanh tốt?” Khổng Tử trả lời rằng: “Ngỗng và vịt có thể nổi trên mặt nước bơi lội là vì do chân có màng. Nhạn và hạc có thể kêu to là vì cổ chúng dài. Tùng và bách một năm bốn mùa đều xanh tốt là vì lõi của chúng rất rắn chắc.” Hạng Thác không cho là đúng, lắc cái đầu nhỏ nói: “Không đúng rồi! Cóc nhái cũng kêu to, chẳng lẽ là bởi vì bọn chúng cổ dài sao? Con rùa, ba ba biết bơi lội, chẳng lẽ là vì chân bọn chúng có màng sao? Cây trúc một năm bốn mùa đều xanh tốt, chẳng lẽ do lõi của nó đặc sao?”

Bị Hạng Thác phản bác, Khổng Tử nhất thời không trả lời được, không khỏi cảm thán mà đến bên học trò của mình nói: “Thật không đơn giản nha! Thật sự là ‘hậu sinh khả úy’! Xem ra ta còn phải học tập cậu bé mới được!” (Trích “Khổng Tử, Hạng Thác Tương Vấn Thư”)

Video: http://www.youtube.com/watch?v=1Rnv91OTbxw&list=PLnr5-kA_zchCVCD35ZUFQ3SFrrj5JmYeY&index=34

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/246065

Chú thích của người dịch:

[1] Dao thời nhà Chu người ta thường gắn một cái vòng nhỏ ở cuối chuôi dao. (tham khảo hình sau