Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp – Đệ tử quy (10)

Ban biên tập tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

[ChanhKien.org]

Nguyên văn:

路遇長, 疾(1)趨(2)揖(3); 長無言, 退恭立(4)。

騎下馬, 乘下車; 過猶(5)待(6), 百步余(7)。

長者立, 幼勿坐; 長者坐, 命(8)乃(9)坐。

Bính âm:

路(lù) 遇(yù) 長(zhǎng), 疾(jí) 趨(qū) 揖(yī);

長(zhǎng) 無(wú) 言(yán), 退(tuì) 恭(gōng) 立(lì)。

騎(qí) 下(xià) 馬(mǎ), 乘(chéng) 下(xià) 車(chē);

過(guò) 猶(yóu) 待(dài), 百(bǎi) 步(bù) 余(yú)。

長(zhǎng) 者(zhě) 立(lì), 幼(yòu) 勿(wù) 坐(zuò);

長(zhǎng) 者(zhě) 坐(zuò), 命(mìng) 乃(nǎi) 坐(zuò)。

Chú âm:

路(ㄌㄨˋ) 遇(ㄩˋ) 長(ㄓㄤˇ), 疾(ㄐㄧˊ) 趨(ㄑㄩ) 揖(ㄧ);

長(ㄓㄤˇ) 無(ㄨˊ) 言(ㄧㄢˊ), 退(ㄊㄨㄟˋ) 恭(ㄍㄨㄥ) 立(ㄌㄧˋ)。

騎(ㄑㄧˊ) 下(ㄒㄧㄚˋ) 馬(ㄇㄚˇ), 乘(ㄔㄥˊ) 下(ㄒㄧㄚˋ) 車(ㄔㄜ);

過(ㄍㄨㄛˋ) 猶(ㄧㄡˊ) 待(ㄉㄞˋ), 百(ㄅㄞˇ) 步(ㄅㄨˋ) 余(ㄩˊ)。

長(ㄓㄤˇ) 者(ㄓㄜˇ) 立(ㄌㄧˋ), 幼(ㄧㄡˋ) 勿(ㄨˋ) 坐(ㄗㄨㄛˋ);

長(ㄓㄤˇ) 者(ㄓㄜˇ) 坐(ㄗㄨㄛˋ), 命(ㄇㄧㄥˋ) 乃(ㄋㄞˇ) 坐(ㄗㄨㄛˋ)。

Âm Hán Việt:

Lộ ngộ trưởng, tật xu ấp; trưởng vô ngôn, thoái cung lập.

Kỵ hạ mã, thừa hạ xa; quá do đãi, bách bộ dư.

Trưởng giả lập, ấu vật tọa; trưởng giả tọa, mệnh nãi tọa.

Lời dịch:

Gặp trên đường, nhanh đến chào; người không nói, kính lui đứng.

Phải xuống ngựa, phải xuống xe; đợi người đi, hơn trăm bước.

Người lớn đứng, nhỏ chớ ngồi; người lớn ngồi, cho phép ngồi.

Từ vựng:

(1) tật (疾): nhanh chóng.

(2) xu (趨): bước nhanh về phía trước.

(3) ấp (揖): khoanh tay chào hỏi, chắp tay hành lễ.

(4) cung lập (恭立): đứng một cách cung kính. Lập: đứng thẳng.

(5) do (猶): vẫn, vẫn còn.

(6) đãi (待): đợi, chờ, chờ đợi.

(7) dư (余): thêm ra, nhiều ra, nhiều hơn.

(8) mệnh (命): mệnh lệnh.

(9) nãi (乃): mới.

Lời giải thích:

Khi gặp người lớn đang đi trên đường, phải nhanh chóng bước đến khoanh tay chào hỏi (hành lễ thỉnh an); khi người lớn không nói chuyện, phải lùi sang một bên và đứng cung kính.

Khi cưỡi ngựa gặp được người lớn phải lập tức xuống ngựa, khi ngồi xe gặp được người lớn phải lập tức xuống xe. Khi người lớn đi ngang qua, phải chờ một chút, chờ đến khi người lớn rời đi hơn một trăm bước rồi thì bản thân mới có thể đi.

Người lớn đang đứng thì người trẻ không nên ngồi. Người lớn đang ngồi, bảo bạn ngồi thì mới có thể ngồi xuống.

Câu chuyện tham khảo:

Dương Thời, Du Tạc với giai thoại “Trình Môn Lập Tuyết”

Vào thời nhà Tống, Dương Thời và Du Tạc là hai vị Tiến sĩ trong tứ đại đệ tử của Trình Môn (1), họ từ Phúc Kiến xa xôi đến Hà Nam bái sư học đạo, lưu lại giai thoại thiên cổ “Trình Môn Lập Tuyết”.

Dương Thời khi nhỏ là một thần đồng, rất giỏi văn chương, hai mươi mấy tuổi ông đã thi đỗ Tiến sĩ. Nhưng ông đã từ bỏ quan to bổng lộc, bái Trình Hạo làm thầy. Lúc tiễn ông trở về, thầy Trình Hạo của ông từng cảm thán rằng: “Đạo ta sắp truyền xuống phương Nam rồi!”.

Du Tạc từ nhỏ đã rất thông minh, đọc qua là nhớ. Trình Di vừa gặp ông liền khen ngợi tư chất của ông có thể truyền thừa Nho đạo chính thống. Dương Thời và Du Tạc trước đó đã theo học thầy Trình Hạo, khi Trình Hạo mất thì họ đã bốn mươi tuổi, sớm đã đỗ Tiến sĩ (2), song họ vẫn theo thầy Trình Di để tiếp tục xin chỉ dạy.

Lần đầu khi Dương Thời và Du Tạc bái kiến thầy Trình Di, lúc đó ngài đang nhắm mắt tĩnh tọa, hai người cung kính đứng chờ ở bên ngoài. Lúc sau thầy Trình Di phát hiện, nhìn họ nói: “Các con còn ở đây à? Trời tối rồi, đi về nghỉ ngơi đi!”. Vừa bước ra cửa, thầy Trình Di mới phát hiện bên ngoài tuyết đã phủ dày gần một xích (3). Người đời sau lấy “Trình Môn Lập Tuyết” làm câu chuyện điển hình về tôn sư trọng đạo, thành khẩn cầu học. (Trích từ Nhị Trình Ngữ Lục thời nhà Tống).

Hai người sau đó đều có thành tựu. Dương Thời làm quan đến học sĩ Long Đồ các (thư viện hoàng gia). Ông cũng đem hết sở học truyền vào Phúc Kiến, là người sáng lập ra “Mân học” (Phúc Kiến học). Còn Du Tạc làm qua các chức quan như: Thái học Tiến sĩ, Giáo sư, Giám sát ngự sử, Tri châu, v.v. Vì Du Tạc có đức hạnh thuần chính, làm việc phúc hậu, nên tất cả những nơi ông đến làm quan thì nhân dân ở đó đều yêu quý ông như cha mẹ.

Chú thích:

(1) Trình Môn: ý chỉ anh em Lý học gia Trình Hạo, Trình Di thời Bắc Tống, họ cho rằng vạn sự vạn vật do “Đạo” sinh ra, làm vua trị quốc nhất định phải “Hành dĩ thuận Đạo”, lấy đức làm chủ, chú trọng pháp chế. Trình Môn xưa nay dạy học rất nghiêm khắc và kham khổ, tuy vậy số người đến bái sư vẫn nườm nượp không dứt. Truyền đến Chu Hi thì có thành tựu to lớn, Tứ Thư tuyển tập của ông (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung) được dùng làm căn cứ chủ yếu cho kỳ thi Tam đại khoa cử (3 cuộc thi: hương, hội, đình) thời nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh, cho nên “Trình Chu lý học” còn được gọi là “Quan học”.

(2) Tiến sĩ: Các kỳ thi khoa cử thời cổ xưa lấy thành tích kỳ thi để tuyển chọn quan viên, người thi đỗ cuộc thi đình (cuộc thi cấp cao nhất do đích thân Hoàng đế tới đại điện chủ trì) sẽ được gọi là Tiến sĩ.

(3) Xích: đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc, tương đương 33cm.

Bản ghi âm tiếng Trung:

http://media.zhengjian.org/media/2008/11/12/dizigui-10.mp3

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/44847

http://www.epochtimes.com/b5/10/5/3/n2895655.htm