Tam Tự Kinh – Đọc sách luận bút (22)

Tác giả: Lưu Như

[ChanhKien.org]

Nguyên văn

自(1)羲(2)農(3),至(4)黃帝(5),

號(6)三皇(7),居(8)上世(9)。

唐(10)有虞(11),號二帝(12),

相揖(13)遜(14),稱盛世(15)。

Bính âm

自(zì) 羲(xī) 農(nóng), 至(zhì) 黄(huáng) 帝(dì),

號(hào) 三(sān) 皇(huáng), 居(jū) 上(shàng) 世(shì)。

唐(táng) 有(yǒu) 虞(yú), 号(hào) 二(èr) 帝(dì),

相(xiāng) 揖(yī) 逊(xùn), 称(chēng) 盛(shèng) 世(shì)。

Chú âm

自(ㄗ`) 羲(ㄒ一) 农(ㄋㄨㄥ),

至(ㄓ`) 黄(ㄏㄨㄤ) 帝(ㄉ一`),

号(ㄏㄠ`) 三(ㄙㄢ) 皇(ㄏㄨㄤ),

居(ㄐㄩ) 上(ㄕㄤ`) 世(ㄕ`)。

唐(ㄊㄤ) 有(一ㄡˇ) 虞(ㄩ),

号(ㄏㄠ`) 二(ㄦ`) 帝(ㄉ一`),

相(ㄒ一ㄤ) 揖(一) 逊(ㄒㄩㄣ`),

称(ㄔㄥ) 盛(ㄕㄥ`) 世(ㄕ`)。

Âm Hán Việt

Tự Hy Nông, Chí Hoàng Đế,
Hiệu Tam Hoàng, Cư thượng thế.
Đường hữu Ngu, Hiệu Nhị Đế,
Tương ấp tốn, Xưng thịnh thế.

Tạm dịch:

Từ Phục Hy, Thần Nông, cho đến Hoàng Đế,
Gọi là “Tam Hoàng” ở thời thượng cổ.
Đường Nghiêu, Ngu Thuấn gọi là “Nhị Đế”,
Nhường ngôi người tài, gọi là thời thịnh thế.

Từ vựng

(1)Tự (自): từ, do.

(2)Hy (羲): chỉ Phục Hy thị, là một vị Hoàng trong truyền thuyết “Tam Hoàng”. Phục Hy dựa vào Hà Đồ vẽ ra hình 8 quẻ Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn; hậu nhân gọi là Bát quái Phục Hy. Phục Hy dạy cho dân kết lưới, từ việc đánh cá săn bắt chăn nuôi, đến kết hôn, chế bát quái, tạo chữ viết, để thay cho việc thắt nút dây để ghi nhớ.

(3)Nông (農/农): chỉ Thần Nông thị, tức Viêm Đế, là một vị Hoàng trong truyền thuyết “Tam Hoàng”. Ông là Thần nông nghiệp, dạy dân làm ruộng, Trung Quốc từ đó tiến nhập vào xã hội canh nông. Ông còn là Thần y dược, tương truyền “Thần Nông thưởng bách thảo” (Thần Nông nếm trăm loại thảo mộc), lưu lại Thần Nông Bổn Thảo Kinh sáng lập nên y dược Trung Hoa.

(4)Chí (至): đến, tới.

(5)Hoàng Đế (黄帝): danh xưng của đế vương Hiên Viên thời thượng cổ. Ông mang họ Công Tôn, sinh ra ở gò Hiên Viên cho nên gọi là “Hiên Viên thị”. Thời lập quốc có gấu, nên còn gọi là “Hữu hùng thị”. Lúc ấy Xi Vưu bạo ngược vô đạo, thôn tính chư hầu, Hoàng Đế và Xi Vưu đánh nhau ở Trác Lộc, sau đó Hoàng Đế đánh bại Xi Vưu, chư hầu tôn Hoàng Đế lên làm Thiên tử, sau khi kế tục Thần Nông thị, thì trở thành vị chủ chung của thiên hạ. Thời gian Hoàng Đế tại vị rất lâu, quốc thế cường thịnh, chính trị an định, văn hóa tiến bộ, có rất nhiều phát minh và chế tác, như văn tự, âm nhạc, lịch số, cung điện, thuyền xe, quần áo và xe chỉ nam v.v… Tương truyền Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang đều là hậu duệ của ông, do đó Hoàng Đế được tôn sùng là thủy tổ chung của dân tộc Trung Hoa.

(6)Hiệu (號/号): xưng, gọi, gọi là.

(7)Tam Hoàng (三皇): ba vị đế vương trong truyền thuyết cổ đại, gồm Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế.

(8)Cư (居): nơi chốn, chỗ ở, cư ngụ, nằm ở.

(9)Thượng thế (上世): thời đại thượng cổ.

(10)Đường (唐): quốc hiệu của Nghiêu đế.

(11)Hữu Ngu (有虞): quốc hiệu của Thuấn đế.

(12)Nhị Đế (二帝): chỉ Nghiêu đế, Thuấn đế.

(13)Ấp (揖): chỉ việc thiện nhượng, đem đế vị của mình mà nhường cho người tài đức.

(14)Tốn (遜/逊): nhường ngôi, ý là từ bỏ ngai vàng, thoái vị.

(15)Thịnh thế (盛世): thời đại thiên hạ thái bình.

Dịch nghĩa tham khảo

Từ Phục Hy thị, Thần Nông thị đến Hoàng Đế, người đời sau tôn vinh họ là “Tam Hoàng”. Họ đều là ba vị đế vương của thời thượng cổ.

Đường Nghiêu và Ngu Thuấn được gọi là “Nhị Đế”, hai người họ không có tư tâm, “truyền hiền bất truyền tử” đều lấy đế vị nhường cho người hiền tài chứ không truyền cho con ruột, tạo nên thời thái bình thịnh thế.

Đọc sách luận bút

Từ bài học này trở đi bắt đầu bước vào tìm hiểu lịch sử, ngoài việc hiểu rõ lai lịch tổ tiên và cội nguồn văn hóa, chúng ta còn hiểu được quy luật thịnh suy của lịch sử, từ đó rút ra bài học giáo huấn, đối nhân xử thế một cách trí tuệ và nhân đức. Đây vốn là mục đích để người xưa tiếp thu giáo dục và học tập lịch sử.

Trong lịch sử Trung Quốc có thuyết “Tam Hoàng Ngũ Đế”, tìm tòi nghiên cứu các sách cổ và nguyên nghĩa của chữ “Hoàng” và chữ “Đế”, ta sẽ phát hiện ý nghĩa danh xưng của hai từ này là khác nhau, biểu lộ hai tiến trình văn hóa quan trọng.

Cách viết của chữ Hoàng (皇) trong Kim văn là:


Chữ ‘Hoàng’ Kim văn

Đây là một chữ tượng hình, là một người đang đứng có cái đầu đặc biệt lớn và trên đỉnh còn có dấu hiệu phát ra hào quang. Trong sách xưa đề cập đến chữ “Hoàng” (皇) cũng nhấn mạnh ý “Quang mang” (hào quang). Chẳng hạn như: sách Phong Tục Thông có ghi rằng: “Hoàng giả, trung dã, quang dã, hoằng dã” (Chữ Hoàng, là ở giữa, là ánh sáng, là to lớn). Rõ ràng người được gọi là “Hoàng” đại biểu cho ánh hào quang rực rỡ làm cho người ta khâm phục tôn kính. Trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thời Đông Hán có viết: “Hoàng, đại dã. Tòng tự. Tự, thủy dã” (Hoàng (皇), nghĩa là to lớn. Cấu thành từ chữ Tự (自). Tự (自), nghĩa là bắt đầu). Ở đây ý nói rằng, Hoàng là người khai sáng văn hóa nhân loại, là người có đủ năng lực sáng tạo.

“Tam Hoàng” là những ai, có nhiều ý kiến khác nhau, song cách gọi Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế là xuất phát từ sách Thượng Thư – TựĐế Vương Thế Kỷ.

Phục Hy và Thần Nông là 2 vị thường được chọn trong nhiều nhóm ý kiến khác nhau, hai ông đại diện cho thời kỳ khai sáng văn minh: đánh cá, săn bắt và canh nông. Về vị Hoàng thứ ba trong “Tam Hoàng” có bốn ý kiến khác nhau, bao gồm: Nữ Oa (女娲), Toại Nhân (燧人), Chúc Dung (祝融) và Hoàng Đế (黄帝); Hoàng Đế thường được xếp vào trong Ngũ Đế.

Trong lòng người cổ đại, Tam Hoàng tồn tại như những vị Thần vậy. Thông thường có thêm chữ “thị” (氏) phía sau, cùng đồng nghĩa chỉ Thần, biểu thị Thần. Ví dụ, Phục Hy thị, Thần Nông thị. Các tài liệu cổ mô tả rằng Phục Hy, Nữ Oa và Thần Nông tướng mạo khác với người bình thường: Phục Hy và Nữ Oa là đầu người thân rồng, Thần Nông là đầu trâu thân người. Sự ra đời của họ cũng khác với người thường: Phục Hy thì do mẹ ông “ướm chân vào dấu chân khổng lồ bên cạnh đầm lầy” mà sinh ra, Thần Nông là “cảm [ứng] Thần, long mà sinh ra”. Trong thần thoại, thậm chí Nữ Oa còn sáng tạo ra nhân loại, những điều này cho thấy rõ người xưa tin rằng họ là Thần.

“Hoàng” không chỉ là cách gọi khác của quyền lực và địa vị, mà trong thần thoại và lịch sử, nó kể về một thời kỳ nhân – Thần đồng tại, trong thời gian này, Thần đã tự mình hạ thế truyền lại văn hóa. Giai đoạn này kéo dài đến khi Xi Vưu làm loạn trong thời Hoàng Đế, thời Đế Chuyên Húc tuyệt địa thiên thông (cắt đứt con đường lên trời).

Chữ “Đế” trong giáp cốt văn là một chữ “Thiên” (天) hoặc “Đại” (大) với một con mắt lớn ở giữa.Thuyết Văn Giải Tự có ghi chép: “Đế (帝), cũng có nghĩa là Đế (諦)”. Mà chữ “Đế” (諦) trong Thuyết Văn thì được giải thích là “Thẩm dã”, nghĩa là “Thị” (視) (nhìn, coi xét), “Quan” (觀) (nhìn, xem), “Tường thẩm” (詳審) (xem xét kỹ càng).

Bài thơ “Hoàng hĩ” trong Kinh Thi miêu tả dân tộc Chu trở thành nước được Thần chọn, trong đó viết: “Hoàng hĩ thượng đế, lâm hạ hữu hách. Giam quan tứ phương, cầu dân chi mạc”. Ý tứ là “Vị Thượng đế đang phát ra ánh sáng, là vị vua uy nghiêm vô biên xuống trần gian. Xem xét kỹ tứ phương, để tìm ra khốn khổ khó khăn của dân gian”. Điều đó đã chứng minh nghĩa “Quang mang” (hào quang) của chữ “Hoàng”, còn nói rõ nội hàm “Động triệt” (thấu suốt) của chữ “Đế”.

“Đế” có nghĩa là “Động triệt” (thấu suốt), “Tường thẩm” (xem xét kỹ càng), hơn nữa là ánh mắt từ Trời mà đến; một người được gọi là “Đế”, thì cách gọi đó đại biểu rằng người này có năng lực thấu suốt chân tướng của thiên địa.

Tuy nhiên “Hoàng” và “Đế” đều không phải là người thường, nhưng năng lực và trình độ cao thấp khác nhau. “Hoàng” chính là giống như Trời, là Thần nhân hào quang sáng chói vô biên, trực tiếp lấy hình tượng của Thần để dẫn đường và khai sáng văn minh nhân loại, và “Đế” là người tiếp nhận năng lực từ thiên thượng mà có thể nhìn thấu bốn phương, là người có năng lực đặc thù.

Sau thời đại của “Tam Hoàng”, gọi là “Đế” chứ không gọi là “Hoàng” nữa, điều này chứng tỏ nền văn hóa do Thần trị dần dần bắt đầu chuyển sang nhân trị, sau khi Thần khai sáng văn minh trong thế giới con người, họ rất nhanh rời khỏi vũ đài nhân loại, sau đó Ngũ Đế đã để cho con người tiến nhập vào lịch sử thực sự của nhân loại.

Ngũ Đế cũng có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng người có ảnh hưởng lớn nhất đến đế vương và bách tính đời sau là Nghiêu Đế và Thuấn Đế, việc nhường ngôi vị của họ là tấm gương cho bậc đế vương các triều đại sau này quy chính lại đạo đức bản thân, khiến cho quan niệm hoàng quyền vô tư (không cầu hoàng quyền cho con cháu mình) được truyền thừa. Và hơn nữa Thuấn Đế đã lưu lại truyền thống hiếu đạo trị quốc. Cho nên, trong Ngũ Đế người ta đặc biệt nhắc đến hai vị ấy. Sau đó, thì thực sự chuyển sang giai đoạn lịch sử thay đổi các triều đại của con người.

Câu chuyện: Hoàng Đế mộng du Hoa Tư quốc

Vào năm thứ mười lăm sau khi Hoàng Đế lên ngôi, vì được thiên hạ ủng hộ và yêu mến mình nên rất vui mừng, thế là bắt đầu cho thân thể được nghỉ dưỡng, dùng ca vũ để tai mắt tiêu khiển vui vẻ, dùng món ăn ngon để thỏa mãn mũi miệng, kết quả là thấy sắc mặt mình khô héo sạm đen dần, đầu não trống rỗng, tâm tư mê loạn.

Qua 15 năm kế tiếp, vì lo lắng không thể trị vì thiên hạ, Hoàng Đế dốc hết thông minh tài trí để cai quản bách tính, sắc mặt khô héo sạm đen vẫn vậy, đầu não trống rỗng, tâm tư vẫn mê loạn.

Hoàng Đế thở dài nói: “Sai lầm của ta quá sâu rồi. Kết quả của việc chỉ chăm chút cho bản thân là thế này đây, kết quả cai quản vạn vật cũng kém như thế!” Thế là ông gác lại công việc nặng nề bận rộn thường ngày, loại bớt người hầu, loại bỏ nhạc tiệc, giảm bớt đầu bếp và ăn uống, rời khỏi cung điện, sống nhàn cư ở căn nhà bên ngoài cung. Ông gạt trừ dục vọng trong tâm, ba tháng không để ý đến chính sự.

Một ngày nọ, khi đang ngủ trưa ông mơ thấy mình du ngoạn đến Hoa Tư quốc. Hoa Tư quốc ở phía tây Yểm Châu, phía bắc Đài Châu, cách Trung Quốc mấy ngàn vạn dặm, đây là nơi có thể đến được bằng cách đi thuyền, ngồi xe hay đi bộ. Hoa Tư quốc không có người dạy học và quan lại, hết thảy đều để tự nhiên. Người dân ở đây không có ham mê và dục vọng, hết thảy đều thuận theo tự nhiên.

Họ không biết coi việc đang sống là vui sướng, cũng không biết sợ chết, cho nên không cảm thấy buồn khi người ta chết đi; họ không biết yêu thương bản thân, cũng không biết xa lánh các vật ngoài thân, vì vậy đối với việc của con người họ không có yêu ghét khác nhau; họ không biết phản đối và phản bội, cũng không biết tán thành và thuận theo, cho nên không có xung đột thiệt hơn.

Họ không có thứ gì đáng để hào phóng hay dè xẻn hơn, cũng như không có gì đáng để e ngại và kiêng kỵ. Họ không chìm khi rơi xuống nước, và họ không thấy nóng khi đi vào lửa. Đao chặt roi quất sẽ không thấy đau, ngứa cũng không cần gãi. Đi trên không trung như đi trên mặt đất, nằm ngủ trên không giống như ngủ yên trên giường. Mây mù không thể ngăn cản thị giác của họ, sấm sét không thể ảnh hưởng thính giác của họ, đẹp xấu không làm nhiễu loạn tâm trí của họ, núi non không thể ngăn bước họ, hết thảy đều là những việc thần kỳ.

Sau khi Hoàng Đế tỉnh dậy, ông rất vui mừng đắc ý nên đã triệu tập ba vị đại thần là Thiên Lão, Lực Mục và Thái Sơn Kê, và nói với họ rằng: “Ta đã nhàn cư ba tháng, gạt bỏ dục vọng trong tâm, suy nghĩ về đạo dưỡng thân trị vật, nhưng không nắm được yếu lĩnh. Sau đó ta mệt rã rời mà ngủ thiếp đi và có một giấc mơ, mới hiểu được rằng Đạo là điều không thể dùng dục vọng để truy cầu. Ta đã minh bạch! Ta đã hiểu rồi! Nhưng lại không thể dùng ngôn ngữ để nói cho các ngươi hiểu”.

Hai mươi tám năm sau, thiên hạ đạt được đại trị (lập lại được an ninh trật tự), cơ hồ cũng giống như Hoa Tư quốc, và Hoàng Đế lại đắc Đạo thăng thiên. Dân chúng đau buồn khóc thương, hơn 200 năm sau vẫn chưa dứt.

Người Trung Quốc từ xưa đã cho rằng mình là con cháu Viêm Hoàng, chính là hậu nhân của Thần Nông và Hoàng Đế. Thần Nông là Thần, đã lưu lại câu chuyện “Thần Nông thưởng bách thảo” (Thần Nông nếm trăm loại thảo dược) và cuốn Thần Nông Bản Thảo Kinh, Hoàng Đế là bán Thần, câu chuyện này nói với mọi người rằng Hoàng Đế là người tu Đạo, ngộ tính cực cao, có thể tiếp thu rất nhanh gợi mở của Thiên ý, mấu chốt trị quốc chính là ở tu Đạo, cuối cùng đắc Đạo thăng thiên mà rời đi, cho nên Trung Quốc được gọi là Thần Châu, văn hóa của họ được gọi là văn hóa Thần truyền. Và Nho gia chỉ là chỉnh lý và kế thừa một bộ phận trong văn hóa tu Đạo cổ xưa để thể hiện tại tầng thứ con người này.

Video:

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/246054