Thức tỉnh (1): Chuyển động của vật chất

Tác giả: Trịnh Hợp

[ChanhKien.org]

“Thiện Ác hữu báo” là một tầng Pháp lý của Trời, cũng là quy luật vận động của vật chất ảnh hưởng đến xã hội nhân loại. Phật giáo trong quá khứ có đề cập đến rằng chúng ta tồn tại trong thiên thể này có [tồn tại] hiện tượng “Lục đạo luân hồi cùng nghiệp lực luân báo”, kỳ thực, điều này vẫn luôn tồn tại [một cách] chân thật đối với [các] sinh mệnh trong tầng thứ này, chỉ là con người không tin mà thôi. Từ trên căn bản mà giảng, vũ trụ là do Pháp (Thiên lý) cấu thành, mà con người là sản vật của vũ trụ, như vậy Pháp vũ trụ cũng có tính chế ước đối với nhân loại. Chỉ là, khi tiến nhập vào thời kỳ mạt Pháp, những điều mà con người hiện đại thực sự “tin tưởng” là dục vọng và quyền lực nhằm chi phối vật chất, trong đó bao gồm cả một số tôn giáo, con người biến đổi trở nên không còn tiếp tục tin vào yêu cầu của vũ trụ đối với sinh mệnh, con người không hề kiêng dè mà theo đuổi mọi truy cầu của bản thân họ. “Bản tính” của con người một khi bị mai một, thì sẽ tùy theo dục vọng của thân xác mà khống chế xã hội, từ đó xung đột sẽ nảy sinh, người người xem nhau như kẻ thù; đồng thời, con người dưới sự chi phối của tâm tham, sẽ thổi phồng ảo tưởng cho rằng [thông qua việc] khống chế kỹ thuật sẽ có thể thay đổi được môi trường sinh tồn của tự nhiên và bản thân mình; như vậy sẽ cắt đứt mối liên hệ đạo nghĩa giữa người với người và con người với tự nhiên; mâu thuẫn xã hội sẽ ngày càng sâu sắc, trong khi các bên làm tổn hại lẫn nhau mà tích lũy “nghiệp lực” càng lúc càng lớn, khi những “Tội nghiệp” này từ trong vi quan tiến nhập vào bề mặt môi trường vật chất đã bại hoại, biểu hiện của nó chính là các loại thiên tai nhân họa, chính là kết cấu vốn có của vật chất sắp bị giải thể. Bởi vì sinh mệnh là đang tự lựa chọn, trong quá trình biểu hiện tự ngã mà hoàn toàn rời xa khỏi Pháp (Thiên Lý), con người nếu không tự biết, con người nếu không [tự] trị thì Trời sẽ trị! Đây cũng là trạng thái biểu hiện ra của xã hội nhân loại trước mỗi lần vận động vật chất tiến vào thời kỳ cuối cần phải giải thể. Bản chất của Vật cực tất phản thực ra chính là chuyển biến thay đổi tính chất bên trong của vật chất, còn đối với nhân loại mà nói thì chính là biểu hiện [đi từ] “Tôn sùng điều thiện, hướng thiện, hành thiện” cho đến “Thiện ác, chính tà bất phân, bất cố”, biểu hiện của xã hội chính là từ “Hài hòa, trật tự, đồng tồn” cho đến “Hỗn loạn, vô trật tự, đấu tranh thịnh hành”, đi kèm theo đó là môi trường sống của con người ngày càng suy thoái, v.v. Cho nên những sự việc trên thế gian liền biểu hiện ra quá trình “Thành, trụ, hoại, diệt”. Nói về sự thay đổi giữa [các] kỷ nguyên [của] nhân loại, kỳ thực chính là quá trình “đào thải” và “tân sinh” của sinh mệnh và vật chất, nhân loại chính là từng đợt từng đợt [những] quần thể sinh mệnh luân phiên [thay nhau] tuần hoàn.

Quy luật biến hoá của vận động vật chất là do sự dẫn dắt của “Tính chất”, mà cái gọi là “tính chất” của vật chất chính là biểu hiện của nhân tâm. Vào thời kỳ viễn cổ, nội hàm tinh thần của con người vốn được tạo nên bởi nhận thức của văn hoá truyền thống cổ xưa đối với thiên thể hồng đại và thiên lý chính là nguyên nhân thực sự duy trì sự tồn tại “Đạo Nghĩa” trong xã hội. Kỳ thực, nội hàm đạo đức của con người truyền thống chính là văn minh mà sinh mệnh cao tầng (Thần) trong vũ trụ truyền cấp cho con người một cách hệ thống, những tiêu chuẩn đạo đức được đặt định nên cũng chính là yêu cầu của vũ trụ đối với sinh mệnh nơi đây. Chính tín đối với “Thần” và sự truy cầu phẩm chất tinh thần cao thượng trong kết cấu tư duy của con người vẫn luôn là chủ tuyến (vai trò chủ đạo) quán xuyến thế giới con người, trong quá trình nền văn hóa “Đạo Đức” mà nó mang đến được phổ biến trong xã hội, thì “Đạo Nghĩa” tại thế gian cũng có được sự tồn tại ổn định. Như vậy, nhân loại trong quá trình “Thành, Trụ”, đạo đức có thể được duy trì ở một mức độ tương đối cao. Ở thời kỳ này, bất luận là ở phương tây hay phương đông, con người đều ở trong trạng thái “bán tu hành”, con người dành sự quan tâm vào việc truy cầu những điều cao nhã tiết tháo và thiện dụng trí huệ của tự nhiên, truy cầu sự cộng hưởng về tinh thần giữa con người với nhau cho đến việc cùng nhau sinh sống hoà hợp, biết tiết chế tính lười biếng và tham lam, cũng có thể chịu khổ, con người như vậy có thể tiêu trừ được rất nhiều “Nghiệp lực”, dục vọng về vật chất của họ xác thực ít hơn nhiều so với người hiện đại. Người “thực tu” đề cao phẩm chất của tự thân trên [phương diện] tinh thần, sẽ dần dần có thể thể hội và câu thông với vật chất và tinh thần, có nhận thức rộng lớn hơn về tự nhiên và vũ trụ, từ đó càng thêm kiên định vào chính tín của mình. Những hiểu biết và hiện tượng siêu vượt con người trong văn hóa tu luyện tại thế gian, sự chân thành và quyết tâm của người tu hành đối với “Đạo Nghĩa”, những hành động thực tế xả thân vì nghĩa biểu hiện ra hành vi cao thượng, là những yếu tố có thể cảm hoá được người thường, trở thành trụ cột và hình mẫu tinh thần tốt đẹp cho những người bình thường hướng đến, duy trì thiện niệm của con người và niềm tin chân chính giúp xã hội an định ngay chính.

Sau khi sự tham lam và dục vọng cùng với mong muốn kiểm soát vật chất dần dần tiến nhập vào con người sẽ khiến tính chất của họ dần phát sinh biến hoá. Những gì mà “khoa học thực chứng” đưa vào thế giới nhân loại thực chất chính là kỹ thuật và sự cạnh tranh, mục đích căn bản là để trục lợi, không có nền tảng và chế ước của văn hoá hay phẩm hạnh đạo đức, dần dần thay đổi thế giới tinh thần của con người từ một khía cạnh khác, mà là nhận thức của nội tâm càng ngày càng [trở nên] “vật chất hoá”, khiến con người ngày càng lún sâu vào sự chấp trước đối với thể nghiệm và cảm giác của ngũ quan. Con người nhất mực truy cầu kỹ thuật bề mặt của thế giới bên ngoài, sùng bái vật chất và sự hưởng thụ, kỳ thực chính là buông bỏ đi sự tìm tòi và yêu cầu đối với bí ẩn của tự thân (thế giới vật chất và tinh thần). Như vậy, con người chỉ là bò lết trên sự phát triển kỹ thuật mà hình thành nên một chút nhận thức ít ỏi về mặt tinh thần đối với biểu tướng trên bề mặt của vật chất, đây chính là toàn bộ tinh thần mà con người hiện đại có được từ “khoa học thực chứng”. Trong quá trình thúc giục con người cầu danh trục lợi, con người càng ngày càng không thể khống chế được dục vọng của chính mình, quan niệm hành ác và những xung động nguyên thủy của cơ thể, tư duy biến đổi thấp kém tựa như một loài “thú” đang suy nghĩ và xử lý các vấn đề xung quanh nó, tính chất đấu tranh đủ cả mười phần. Bản tính của con người khi bị mê mất, thì cũng cắt đứt đi con đường giúp con người đề cao phẩm chất sinh mệnh từ “Pháp” và dựa vào bản tính mà nhận thức và liên hệ với vũ trụ. Kỳ thực, vũ trụ quá lớn, từ nhận thức của người hiện đại về “vật chất tối” ([phần] vũ trụ chưa biết đến) mà nói, vũ trụ mà con người đã khám phá thông qua mọi mặt của công nghệ cũng chưa đến 10%, hơn 90% còn lại của vũ trụ chỉ có thể thông qua lý luận và tính đoán để suy đoán ra sự tồn tại của nó. Mắt của con người, tai của con người cộng thêm cơ quan xúc giác của con người có thể thăm dò biết được các loại “ánh sáng, âm thanh” với bước sóng khác nhau, nhưng nếu đứng tại [tầm vóc] vũ trụ mà nhìn chỉ là những điều cực kỳ hạn chế, người ta không phải nói rằng “vật chất có khả năng phân chia vô hạn” hay sao? Vậy thì còn có bao nhiêu “âm thanh, ánh sáng” [ở mức] vi quan hơn, hồng quan hơn? Trong các trường thời gian nhanh, chậm khác nhau, khác biệt rất lớn và vô cùng vô tận, có lẽ dùng hết khả năng cả một đời người cũng không cách nào có thể nhận thức hết được một phần “nội dung” thực chất của “ánh sáng”, mà có những loại ánh sáng là mắt người và kỹ thuật công nghệ hiện có căn bản [cũng] không thể thu nhận được, làm thế nào có thể nhận thức được toàn bộ biểu hiện của vật chất trong vũ trụ đây? Vì vậy những thứ “vật chất tối” đối với con người mà nói có lẽ nó bao hàm cả một số chân tướng mà con người mong muốn được hiểu rõ.

Kỳ thực, nhìn một cách lý tính, cũng không khó để chúng ta phát hiện ra, nhận thức của khoa học thời kỳ này của con người về vật chất và sinh mệnh đều là rất hạn chế.

Trong cốt lõi của văn hóa truyền thống có bao hàm nội hàm của “tu luyện”, có một bộ phận vẫn luôn nói về vũ trụ, chỉ là những nhận thức này đứng tại tầng thức cao hơn, xa hơn, [khiến] con người cảm thấy không thể hình dung nổi, đó chính là vì con người không hiểu biết đối với “Chủ” của bản thân và cảnh giới tu luyện, không có tín tâm mà tạo thành như vậy, mà đây lại là những nội dung không thể thiếu trong văn hoá truyền thống. Dưới đây, chúng ta hãy thay đổi góc độ mà nhìn nhận lại mới về vũ trụ. Vũ trụ mà chúng ta tồn tại, chiểu theo nhận thức hiện có, đại khái đã trải qua 13,7 tỷ năm lịch sử, lần văn minh lần này của nhân loại đến nay mới khoảng năm ngàn năm, đoạn lịch sử mà nhân loại đi qua ấy, đứng tại vũ trụ mà nhìn rốt cuộc là khái niệm gì? Nếu như ví một đời người (60 năm) như số tuổi của vũ trụ, thì lịch sử phát triển của nhân loại (10.000 năm) so với số tuổi của vũ trụ (13,7 tỷ năm), chính là giống như hài nhi vừa mới ra đời, đến thế giới này chỉ mới có 23 phút mà thôi, từ vũ trụ mà nhìn chẳng qua chỉ là như thế mà thôi. Đó mới chỉ là chúng ta đứng trên phạm vi nhỏ của vũ trụ để nhìn nhận con người. Kỳ thực, từ không gian mà nhìn cũng giống vậy, lấy hệ ngân hà làm ví dụ, đối với chúng ta mà nói đã là rất to lớn rồi (đường kính của Dải Ngân hà là khoảng 100.000 năm ánh sáng ≈ khoảng cách ánh sáng đi qua 100.000 năm ≈ chiều dài của 100 triệu km được trải dài ra 9,4 tỷ lần). Khoa học kỹ thuật hiện đại đã phát hiện, Trái Đất thực ra nằm ở lớp ngoài cùng của hệ ngân hà, cũng chính là biên duyên, nếu như dùng kỹ thuật nhanh nhất hiện nay của nhân loại (Vận tốc vũ trụ cấp ba), rời khỏi vùng biên duyên này cũng cần hơn 200 triệu năm thời gian, hệ ngân hà đối với nhân loại mà nói là một khái niệm như vậy. Nếu như đem cơ thể người (160cm) ví như kích thước hệ ngân hà của chúng ta, kích thước của hệ mặt trời (Đường kính ≈ 2 năm ánh sáng) cũng giống như phạm vi của một tế bào trong cơ thể con người (30µm), mà Trái Đất (12.000 km) trong hệ ngân hà chính là tựa như lớn bằng 1/50 triệu của một vi khuẩn nhỏ (1µm) trong cơ thể người, nó giống như một “hạt” giữa nguyên tử và điện tử. Đây chính là toàn bộ những gì con người chúng ta đã trải qua: tồn tại trong [hơn] 20 phút và dựa trên nền tảng cơ sở của một hạt “lạp tử” mà nhận thức bản thân và vũ trụ. Mà hệ ngân hà chúng ta đang ở kỳ thực cũng là một “lạp tử” tinh hệ rất nhỏ trong vũ trụ, chính là khoa học nhân loại hiện nay đã phát hiện ra vẫn còn rất nhiều thiên hà có đường kính hơn 100 triệu năm ánh sáng (Khoảng cách ánh sáng từ 100 triệu đến 1 tỷ năm), tình huống chân thật chính là, nếu như đem hệ ngân hà mà chúng ta đang ở đặt vào trong đó chính là giống như một hạt cát giữa dòng sông “Nile”, mà đây vẫn không phải là thiên thể lớn nhất mà con người phát hiện được, đường kính của thiên thể lớn nhất vượt quá 10 tỷ năm ánh sáng (Khoảng cách ánh sáng đi qua trong 10 tỷ năm). Vì vậy, đối với đại não bị phong bế trí huệ mà nói, sự phát triển trong 20 phút và nhận thức đối với vũ trụ đã lớn đến mức con người không cách nào tưởng tượng được, to lớn đến nỗi khiến chúng ta hoài nghi nhận thức nông cạn của khoa học hiện đại đối với sinh mệnh, vũ trụ kỳ thực là rộng lớn mênh mông như vậy……. Từ hồng quan mà nhìn, số lượng những thiên thể giống với thiên thể như hệ ngân hà chúng ta (nhìn từ xa cũng giống như một hạt lạp tử) mà các kính viễn vọng thiên văn ước tính và nhận thức đến được có khoảng gần 200 tỷ, nếu đem so sánh, khoảng cách giữa các hệ ngân hà (lạp tử) so với kích thước lớn nhỏ của chính nó thì vẫn còn là rất xa, nếu đem những hạt “lạp tử” trên khắp vũ trụ như vậy tập hợp lại thì bề mặt vật chất cấu thành của chúng sẽ là gì? Thiên thể bên ngoài những “lạp tử” mà chúng ta nhận thức đến được này thì chúng lại là như thế nào? Có lẽ, người ta chỉ có thể tưởng tượng thôi ……;

Ngược lại, từ vi quan mà nhìn tế bào thân thể người, người ta cho rằng chúng đang “Sống”, có khoảng hơn 40 ngàn tỷ cấu trúc tế bào dạng hạt trong cơ thể con người (40 ngàn tỷ hệ mặt trời giống như tế bào thì sẽ tạo thành những gì?), như vậy, một tế bào lại là do bao nhiêu hạt “lạp tử” tạo thành? Có người nói có khoảng 1 ngàn đến 10 ngàn tỷ hạt “lạp tử” cấp nguyên tử cấu thành một tế bào. Chúng ta biết rằng, nguyên tử là do hạt nhân nguyên tử và điện tử cấu thành, như vậy, trong các “lạp tử” cấu thành nguyên tử giống như “lạp tử trái đất (hạt electron)” lại có bao nhiêu hạt? Trên bề mặt của “hạt lạp tử giống với hạt lạp tử trái đất” (hạt electron) sẽ có gì? Lại hướng đến càng vi quan hơn nữa sẽ có gì?…….. Đối với chúng ta mà nói đó là vô cùng vô tận! Lúc đó bộ não cấu tạo bởi các phân tử sẽ giống như bị đứt đi một sợi dây thần kinh, tưởng tượng không được cũng không thể hiểu nổi, tư duy dường như bị đứt đoạn, đây là bởi vì nhận thức tại vi quan vẫn chưa được mở ra, cảnh giới khác nhau có các sinh mệnh khác nhau và nhận thức của cảnh giới đó.

“Khoa học thực chứng” kỳ thực là có khiếm khuyết. Sở dĩ nói nó cản trở nhân loại là bởi vì định hướng tinh thần của nó là chú trọng vào khoa học “công nghệ sản xuất và đời sống vật chất”, nó không nâng cao nội hàm phẩm chất tinh thần của con người và cũng không yêu cầu điều đó, cũng chính là không cách nào thay đổi tầng thứ của sinh mệnh. Nhận thức sâu hơn một chút của “Khoa học thực chứng” là đến từ những khám phá đối với vi mô và vĩ mô của nó, tuy nhiên nó cũng chỉ là nhận thức của “ánh sáng và âm thanh” thăm dò được trong hơn 20 phút đó đối với một bộ phận rất nông, thậm chí chỉ là rất nhỏ của thế giới phân tử bề mặt, đối với nghiên cứu vi quan [thì] chỉ giới hạn tại một “điểm” (hạt), đối với việc khám phá “Lĩnh vực ý thức, tinh thần” của con người hầu như không có gì cả. “Khoa học thực chứng” không phải vì nó quá cao, mà chính là ngược lại bởi vì “phương hướng tinh thần” của nó quá thấp mới nên mới phong kín nhận thức của con người về vũ trụ, cũng chính là nói, cảnh giới không đề cao lên được, thì không cách khai khởi được bộ phận vi quan của con người. Nếu như trong đầu tràn ngập những hưởng thụ vật chất, và các dạng quan hệ mâu thuẫn như vui và buồn, và khi những vật chất và tinh thần ở tầng diện phân tử chiếm cứ toàn bộ não bộ, thì nhận thức của họ sẽ bị phong bế bởi những thứ đó, đối với vũ trụ bên ngoài nó thì sẽ không cách nào cảm thụ và nhận thức đến được. Khi đứng trước những tai nạn bất ngờ, trong khoảnh khắc đó, khi mà tất cả các chấp trước không thể khống chế não bộ, con người giống như [vừa] tỉnh dậy, các bộ phận [vốn] bị phong bế được mở ra, sẽ biểu hiện ra nhận thức tại những tầng thứ thâm sâu, cảm thụ được tự nhiên. Khi cảnh giới con người đề thăng lên trên, thì những sự vật được quan tâm đến sẽ càng ngày càng lớn, tư duy, tâm trí, hoài bão, tầm nhìn cũng sẽ thay đổi, những điều này lại giống như dung lượng của bộ não đang được mở ra, như chiếc chìa khóa mở ra những lĩnh vực mới, nhận thức vượt qua khỏi cảnh giới phân tử càng nhiều, thì những khu vực vẫn chưa được mở ra trong đầu não sẽ có cơ hội được khai mở. Cũng là nói, “nhận thức” chính là chìa khóa khai mở đại não và câu thông với tự nhiên và vũ trụ. Vì vậy, mức độ khai mở não bộ của người “Tu Đạo” và người bình thường là không giống nhau, khu vực được mở ra trong não bộ của người bình thường chính là cấp cho con người sinh sống, mà ở tầng thứ thâm sâu hơn xa hơn lại có ý nghĩa đặc thù, tại vi quan sẽ đem đến nhận thức mới cho con người. Vì vậy, khoa học cao cấp thực sự chính là chú trọng vào việc tìm tòi học vấn về “sinh mệnh và tinh thần”, đây vừa khớp là nội hàm trung tâm của văn minh truyền thống, mà những nội hàm này ngược lại có tác dụng trong việc duy trì đạo đức và sự phát triển ổn định vật chất của xã hội.

Trên nhận thức đối với sinh mệnh, nhận thức mà con người có được từ khoa học hiện có cũng rất hạn chế. Người ta cho rằng [đầu tiên] những lạp tử vi quan “không có sinh mệnh” tổ hợp lại với nhau, [sau đó] có được kết cấu tế bào [ở phần] bề mặt, xuất hiện tân trần đại tạ, thì mới có sinh mệnh. Vì sao những vật chất tựa như không có sinh mệnh lại có thể hình thành sinh mệnh “sống”? Con người dùng khoa học hiện đại thì không thấy được, nhưng khi tôn giáo giảng ra thì lại không thừa nhận, cho rằng bản thân là sinh mệnh duy nhất trong vũ trụ. Vũ trụ khai thiên tịch đưa đến nay dùng 13,7 tỷ năm lịch sử lẽ nào chỉ vì để sáng tạo ra một tầng “người”? Chỉ có con người với “văn minh [trong] hai mươi mấy phút”? Trên thực tế, nhận thức của người hiện đại về sinh mệnh đã lệch dời rất xa so với chân tướng chân thực. Biểu hiện của “sinh mệnh” trong vũ trụ có rất nhiều, cơ sở cấu thành nên “ngoại hình” của sinh mệnh cũng không đều giống như hình dáng của nhân loại, do các sinh mệnh được tổ thành từ các hạt lạp tử năng lượng thấp như “cacbon, hydro, oxy và nitơ”. Lấy một ví dụ đơn giản, “lạp tử” trong vũ trụ là không tính đếm được, theo như hiểu biết của khoa học hiện nay thì các ngôi sao (cũng là các hạt lạp tử) với các kích thước năng lượng lớn nhỏ khác nhau cũng nhiều vô số kể, như vậy quan hệ kết cấu giữa các ngôi sao này với nhau cũng là do “Pháp” tạo thành, điều này là khẳng định. Nếu như thay thế hết những lạp tử cơ sở cấu thành nên con người đều bằng các hạt lạp tử có năng lượng như các ngôi sao, thì đó có còn giống như con người không? Vì vậy, các chủng loại sinh mệnh cũng không chỉ là con người và những sinh mệnh có năng lực giống như con người, quý vị chẳng qua chỉ là đang [sinh] sống trong thân thể của người khác mà thôi. Sinh mệnh còn có rất nhiều hình thức biểu hiện, “lạp tử” trong vũ trụ cũng là sinh mệnh, chúng tuyệt đối không phải là những hiện tượng hoá học và vật lý mà con người nhận thức, từ xa mà nhìn thì Trái Đất cũng chỉ là một hạt “lạp tử”, tuy nhiên nước trên bề mặt Trái Đất giống như máu lưu thông trong cơ thể người, tự bản thân nó cũng [đang tân trần] đại tạ (trao đổi chất), tự chuyển đổi và xoay vòng theo chu kỳ, [vậy thì] ai đang duy trì những biểu hiện này? Kỳ thực nguyên tử, điện tử cũng là đang có sự “trao đổi chất”, chúng cũng là đang “sống”, chỉ là con người nhận thức không được biểu hiện tinh thần của chúng, mà văn hoá truyền thống đều có luận thuật về những điều này. Những gì mà khoa học thực chứng nhận thức không được thì con người liền cho rằng chúng là mê tín. Trong vũ trụ, những kết cấu to lớn được tạo thành nên từ các ngôi sao và tinh hệ cũng có sinh mệnh như thế. Thuyết tiến hoá là không tồn tại, có vô lượng vô số “lạp tử” và tổ hợp hình thành từ “lạp tử”, chúng bao hàm vô số kết cấu và các loại quan hệ khác nhau, và cả những kết cấu to lớn hơn được tổ hợp thành, kết cấu to lớn hơn nữa hơn nữa, lớn đến cỡ nghìn tỷ [đương nhiên] không phải hình thành theo thuyết tiến hoá, nó cũng không phải “vô ý thức” mà tổ hợp ngẫu nhiên, vũ trụ và vật chất đều là “Pháp” tạo thành. Vì vậy, Pháp bao hàm lực ước thúc và yêu cầu đối với vật chất và sinh mệnh, mà những biểu hiện và năng lực to lớn của “Pháp” tại các tầng thứ khác nhau [là] vượt xa khỏi cái gọi là nhận thức của con người về chân tướng của vũ trụ, “Pháp” tựa như là sự thể hiện của trí huệ và năng lực của sinh mệnh cao tầng. Khỉ cũng không phải là tổ tiên của con người, chúng chỉ là một chủng động vật được vũ trụ sáng tạo nên mà thôi. Trong tương lai, đối với những ai có thể trải qua giai đoạn này, và lắng nghe được chân tướng của Phật Pháp, thì khái niệm về sinh mệnh của họ sẽ có được nhận thức và phát triển mới từ đầu.

Con người mong muốn dựa vào “Khoa học kỹ thuật” để đột phá cảnh giới sở tại của bản thân, hoặc là đi nhận thức biểu hiện hồng quan và vi quan của “lạp tử”, đều rất khó. Ngay cả khoa học công nghệ của người ngoài hành tinh [cũng] chỉ là nhận thức đến những gì mà chúng được phép nhận thức, điều này có quan hệ với tầng thứ sở tại của sinh mệnh. Đối với con người mà nói, thực ra con người là sinh mệnh siêu việt khỏi khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh, bởi vì con người có một điểm đặc thù đó là con người có tồn tại một “bản tính” có thể nhận thức và câu thông với tất cả [những điều] từ hồng quan đến vi quan trong vũ trụ, chính là [nói] con người có thể lựa chọn một con đường khoa học kỹ thuật khác. Trung Quốc cổ đại, có một tư tưởng gọi là “Thiên Nhân hợp nhất”, Đạo gia cho rằng cơ thể con người chính là một vũ trụ, cũng giống như vũ trụ bên ngoài vậy, chúng câu thông với nhau, mà bản tính làm chủ thể cơ thể con người chịu trách nhiệm tất cả mọi thứ. Người Trung Quốc cổ đại gọi phương thức nhận thức vũ trụ bằng cách giác ngộ “bản tính” là “tu luyện”, người hiện đại gọi là khí công, người trong xã hội quốc tế gọi những người như vậy là “tu đạo sỹ – người tu đạo”. Đạo gia “tu luyện” giảng phản bổn quy chân, quay trở về bản tính của chính mình, chính là mở ra một cánh cửa để đột phá nhận thức các thứ vi quan ở các tầng thứ khác nhau. Có rất nhiều sinh mệnh mà con người không thể nhận biết được, đối với nhận thức về chân lý và chân tướng trong vũ trụ cũng giống như vậy, cũng sẽ không bởi vì khoa học nhân loại nhận thức chưa đến thì [có nghĩa là] chúng không tồn tại. “Thần (Giác Giả)” chỉ là [có sự] khác biệt quá lớn đối với nội hàm của con người, năng lực lớn hơn mà thôi nhưng cũng tuân thủ theo thiên lý mà hành sự. Các quần thể sinh mệnh khác nhau [thì] nhận thức và chân tướng Phật Pháp mà họ tiếp xúc cũng khác nhau.

Trong xã hội nhân loại, có một số người có thể biết được về sự tồn tại của khoa học kỹ thuật của người ngoài hành tinh, những khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh này có thể siêu việt không gian, nó cũng có thể tạo ra một thành trì to lớn như một thành phố trên không trung, những ai biết được một số tình huống này vẫn luôn nghi hoặc khó hiểu rằng vì sao khoa học kỹ thuật ngoài hành tinh vượt xa khỏi con người lại luôn phải lén lút như vậy, chiểu theo nhận thức của con người, ai có kỹ thuật quân sự mạnh, thì người đó có thể cai trị và lãnh đạo người khác, tại sao họ không đường hoàng hiện ra mà làm chủ hết thảy mọi thứ nơi đây? Đó là bởi vì, trong vũ trụ còn có tồn tại nhân tố chế ước chúng. Công nghệ mà con người tôn sùng lại không thực sự mạnh mẽ, điều lớn mạnh chân chính là “Pháp” bất biến đang đo lường và ước chế tất cả mọi sinh mệnh và vật chất nhưng con người không nhìn thấy, không tin tưởng, mà yêu cầu của “Pháp” đối với sinh mệnh là quyết định tương lai căn bản của sinh mệnh và sự hưng suy của vận động vật chất. Chỉ là Pháp cấp cho sinh mệnh sự “tự do” lựa chọn, con người chính là ở trong quá trình này mà biểu hiện ra định hướng tinh thần của mình và những hành động sự việc đã làm, cuối cùng [sẽ] đối diện với một lần “Thẩm phán”. “Thần” mà con người lý giải là sự lý giải của văn hoá biến dị, đặc biệt là Trung Quốc đến thời kỳ cận đại, người ta cho rằng Thần (Giác Giả) là thay con người “Tiêu tai, giải nạn”, cho rằng chỉ cần thành kính “cầu” xin là có thể cảm động đến Thần (Giác Giả), từ đó mà được như ý nguyện. Người Trung Quốc đi chùa phần nhiều đều là vì “phát tài”, người hiện đại cho rằng con người thời cổ xưa cũng là như vậy, kỳ thực sự khác biệt là rất lớn. Con người cổ đại không có quá nhiều “tư dục” như vậy, nhưng lại có truy cầu đối với “cảnh giới” của tự thân, khi nhắc đến [hai chữ] “tu hành” liền khởi lên tinh thần tràn đầy sự trang nghiêm chính giác, cảm thấy rất thần thánh. “Tu hành” là biểu hiện của người có huệ căn, ngộ tính và ý chí kiên cường. Chỉ là đã đến thời cận đại, lễ giáo thay thế cho truyền thống, những nhân tâm ẩn tàng trong chùa miếu thay thế cho chính niệm tu hành, văn hoá điện ảnh mang đến cho con người rất nhiều nhận thức sai lầm. Kỳ thực, nếu suy nghĩ cẩn thận thì “Tiêu tai, giải nạn, phát tài” căn bản không phải là văn hoá mà “Thần (Giác Giả)” truyền cấp cho con người, lật hết tất cả các kinh điển tôn giáo chính thống căn bản là không có loại hàm nghĩa này! Vì vậy đây chỉ là vọng niệm của con người mà thôi! “Chính Thần” trong tôn giáo căn bản không quản những thứ này. Tuy nhiên, trong không gian có một số thứ linh tinh hỗn tạp đang quản, vì vậy con người đang bái lạy những thứ này, nó chỉ là loại “dịch vụ có trả phí”, trong quan hệ một mất một được thì điều thực sự đánh mất lại có thể là những thứ còn trân quý hơn, kết cục có thể sẽ càng thảm hại. Từ bi của Thần (Giác Giả) là cấp cho bản tính con người một con đường quay trở về, giúp con người hiểu rõ những nghi hoặc về căn nguyên của “khổ”, khiến con người giác ngộ, người tu luyện xác thực là có Thần đang quản, đây là tình huống thực tế mà người hiện đại không biết. Một phương diện khác, Thần (Giác Giả) từ hồng quan đang chế ước quan hệ giữa sinh mệnh với nhau, bảo hộ nhân loại, ổn định hoàn cảnh sinh sống của các loài, nếu không, có nhiều sinh mệnh như vậy, thì sớm đã bị rối tung lên rồi.

Con người ai ai cũng có mặt “bản tính”, có thể từ trên biểu hiện mà biết được cái gì là đúng, cái gì là sai, nhưng cũng chỉ là như vậy mà thôi. “Bản tính” bị chôn vùi trong “phi bản tính” cần phải thông qua khải ngộ mới có thể giải phóng ra được, nhưng con đường để giác ngộ bản tính là khó khăn trùng trùng. Đứng trước dụ hoặc, người ta thường khó mà tìm ra được căn nguyên để giữ vững chính niệm, nguyên nhân là vì nhận thức (chân tướng) đối với “ma tính tư tưởng” của cảm xúc nhục thân không thể thăng hoa lên được, cũng không biết Pháp môn để đề cao. Không có kết cấu tư duy “Tâm pháp” của thế giới truyền thống và quá trình ma luyện, thì không cách nào nhìn thấy hoặc nhận thức đến thể hiện của chân tướng tại tầng thứ càng cao, quan niệm không thay đổi thì không cách nào giác ngộ trong cảnh giới “mê” này. Một số người trải qua ma nạn, đau đớn thống khổ, có thể bình tĩnh mà suy ngẫm về nhân sinh, đã từng cảm thán sự vô thường của con người và sự tang thương (đổi thay như bãi bể nương dâu) của thế giới, có thể đã từng vật lộn, thất vọng, từng cố gắng loại bỏ những thứ quấy nhiễu trong tâm v.v… , cũng có thể đã từng một phen nỗ lực, muốn duy trì bản tính, chỉ là không biết làm như thế nào, đây là những gì mà tu luyện cấp cho con người. Sở dĩ Xã hội nhân loại có thể tu luyện là vì, ngoài “bản tính” ra thì nguyên nhân cấu thành nên con người hoàn chỉnh còn có tồn tại “ý thức cơ thể”, đây cũng là biểu hiện nhân tố chính phụ đồng tại của con người. Con người vẫn luôn vật lộn trong mâu thuẫn giữa bản tính và dục vọng của cơ thể, vì vậy nói cảnh giới [sở tại] của con người là “mê”, chính là chỉ việc con người sẽ nhận chịu loại mê hoặc này. Tuy nhiên, [trong khi] mâu thuẫn hình thành giữa con người với nhau, sẽ có thể nhìn thấy lựa chọn từ trong tâm của họ, đối đãi với mâu thuẫn như thế nào, có thể giác ngộ hay không .v.v…. Quá khứ Cơ đốc giáo giảng “Khi ai tát má bên phải của con, hãy đưa cả má bên trái cho họ đánh”, cũng chính là trong mâu thuẫn cần xem “tâm” của người này muốn gì, “Ý niệm” khởi lên như thế nào? Cảnh giới ở đâu? Có thể đạt đến yêu cầu và mức độ thuần khiết của thế giới thiên quốc hay không? Đứng từ góc độ này mà nhìn, xã hội nhân loại cung cấp cho con người một hoàn cảnh tu luyện, từ trong trở lực của nhân tố phụ diện mà đánh thức mặt chính diện của mình.

Tất cả văn minh truyền thống cổ xưa, cho dù là phương đông hay phương tây, điều đầu tiên [cần] cấp cho con người đều là những kết cấu chính diện như chân lý, chân tướng “tòng Thiện tồn Chân” (bảo tồn sự chân thật [chân tướng] đi theo sự thiện lương), bởi vì đây chính là những nguồn gốc để giác ngộ bản tính. Thông qua học tập phía chính diện, con người dần dần minh bạch ra mặt phụ diện trong cảm xúc [của] thân thể là gì, nguyên nhân chân chính khiến tính chất của con người xuất hiện biến hoá, hiểu rõ những nhân quả này, trong tu luyện dần dần buông bỏ những thứ bất hảo, có thể hội và cảm ngộ thì [sẽ] giúp con người có những lý giải thâm sâu hơn đối với “Pháp”. “Chính tín” tồn tại ổn định, nhận thức của con người đề cao lên rồi, thì sẽ có sức mạnh lực lượng bất phá để hoá giải các loại ma tính và cảm xúc không tốt trong ý thức cơ thể. Nếu như con người biết nương theo truyền thống mà không ngừng đề cao bản thân, như vậy là đã ở trong tu luyện rồi. Nền văn minh cổ xưa của Trung Hoa có nguồn gốc uyên nguyên rất thâm sâu về [vấn đề] “tu luyện”, văn hóa Thần truyền tại đây đã lưu lại rất nhiều những đạo lý mà năng lực bộ não của con người không với tới được như các “kinh điển về đạo đức” và câu chuyện tu luyện, còn có “Thái cực, hà đồ, lạc thư, chu dịch, bát quái” v.v, chỉ đạo nhận thức của con người đối với vật chất và tinh thần, vũ trụ cho đến thời không. Vì vậy, vào thời cổ đại khi mà văn hoá tu luyện vẫn còn thịnh hành, người Trung Quốc thường gọi nghề nghiệp của mình là “Đạo”, mỗi một nghề đều có một bộ “phẩm hạnh tu tập” của chính nó, [điều này] được gọi là văn hoá ngành nghề, thực ra chính là những gì mà con người giảng về “xả thân vì nghĩa, những gì nên làm, những gì không nên làm”, trên biểu hiện chính là con người khi đứng trước lợi ích có thể giữ được giới hạn của mình hay không, đây chính là “Đạo đức” mà mọi người nói đến, thậm chí ngay cả tên trộm cũng có yêu cầu đối với chính mình, trong lịch sử từng xuất hiện “Hiệp đạo” (đạo tặc hào hiệp) có lẽ chính là tình huống này. Con người luôn ở trong loại trạng thái thế này, khi làm việc đều chú ý đến việc buông bỏ tạp niệm, tĩnh tâm và điều tức, con người bình thường sau một ngày làm việc sẽ dành cho bản thân một khoảng thời gian ở một mình, hoặc đả toạ hoặc học thuộc lòng giáo huấn của thánh hiền, làm dịu lại sự nóng nảy [trong ngày]; cũng sẽ tự suy ngẫm lại bản thân, đối chiếu những khiếm khuyết của bản thân với những bậc tiền bối, con người [khi đó chính là] đang gìn giữ vinh diệu và đạo nghĩa của bản thân và nghề nghiệp của mình. Nói chung, người ta tin rằng thông qua việc đề cao phẩm chất đạo đức [sẽ] có thể giác ngộ được nhận thức về nhân sinh, sinh mệnh và vũ trụ, trong thế giới con người thì họ coi những điều này là ý nghĩa tìm cầu của sinh mệnh và nội hàm chân chính làm người. Con người nhìn nhận phẩm chất tinh thần quan trọng hơn vật chất, đây là điều mà con người hiện đại khi đã tiến vào thời kỳ mạt Pháp khó mà lý giải được. Kỳ thực, sự thăng hoa phẩm chất tinh thần cũng sẽ đem đến cho nhân loại nhận thức khoa học mới, tạo nên trạng thái phát triển khác trong xã hội. Xét về mặt thời gian, người Trung Quốc cổ đại đã có thể hiểu rõ nắm vững được tình huống “Phương sinh phương diệt” (Có sinh có diệt), nhìn nhận sự tồn tại của sinh mệnh trong [một trường] thời gian lớn hơn; về không gian, Phật giáo nói cho con người biết rằng “một bông hoa là một thế giới”, “trong một hạt cát có tồn tại tam thiên đại thiên thế giới”. Con người là ở trong nhận thức to lớn này mà nhìn nhận tiến trình sinh mệnh và ý nghĩa [sự tồn tại] của thế giới vật chất đối với nhân loại, vì vậy con người mới có thể cảm thán [về] sự nhỏ bé tầm thường của tự thân, duy trì bản tính khiêm tốn cho chính mình, nhìn thấu sự phù phiếm, mới có tâm đi tìm kiếm một cuộc sống rộng lớn hơn và bản tính thiện lương, mới có thể xem nhẹ ảnh hưởng thực sự của danh lợi đến những thứ vận động của vật chất tại tầng thứ xã hội nhân loại này. Vì vậy, cho dù là ở phương đông hay phương tây, một số khoa học gia tư tưởng cởi mở và có thành tựu đã lần lượt bước vào tôn giáo, cũng bởi vì họ phát hiện ra rằng, nhận thức của tôn giáo đối với hồng quan và vi quan, vật chất và sinh mệnh, có thể là một cánh cửa dẫn đến nhận thức chân tướng của vũ trụ, khi con người ở trong “chính tín” và thân thể nỗ lực thực hành “tu luyện”, thì mới có thể mở ra cánh cửa đó. Một khi họ tiến vào họ sẽ làm như vậy, không ngừng đề cao chính mình, khi bản tính quy vị thì điều được giải phóng ra là nhận thức đối với vật chất và tinh thần ở tầng thứ cao hơn, đây là đứng từ góc độ người tu luyện mà giảng.

Văn minh 5000 năm của Trung Quốc đã mang đến cho nhân loại nền văn hoá rộng lớn của thiên thể, đồng thời cũng đặt định thế giới tinh thần cao thượng và tiêu chuẩn đạo đức phổ quát cho con người. Trên biểu hiện, kỳ thực chính là [tam giáo] “Thích, Đạo, Nho”. Thích giáo (Phật giáo) giúp con người nhận biết về các vị Thần và thế giới của họ, về biểu hiện và cảnh giới của người tu luyện, về tầng Thiên lý đang chế ước nhân loại này, sinh mệnh trong [tầng] Thiên lý này sẽ tuần hoàn và luân hồi ra sao; Đạo gia đem đến cho con người nhận thức đối với “Thái cực, âm dương, tu chân, vô vi, thiên địa nhân”; Nho giáo thì dạy con người “Nhân lễ nghĩa trí tín” (Ngũ thường), dạy con người biết “Lễ nhạc xạ ngự thư số” (Lục nghệ). Sự phát triển của vật chất đều được chứa đựng trong hai chữ “Đạo Nghĩa”, người ta đều tuân theo nó, những quần thể sinh mệnh khác nhau tuân theo những “Thiên lý” khác nhau, chân tướng mà họ nhận thức đến được cũng khác nhau, nhưng tất cả đều bị Đạo Nghĩa chế ước, sự phát triển rời xa Đạo Nghĩa chính là làm rối loạn chuyển động vật chất, khiến chúng hủ hoá và tất yếu sẽ giải thể. Vì vậy, đối với nhân loại mà giảng, nếu muốn biết được những điều vượt qua khỏi tầng thứ và cảnh giới của nhân loại, nhận thức đến chân tướng của vật chất, hiểu rõ biểu hiện hai mặt chính phụ của vật chất, thì giác ngộ “bản tính” mới là phương pháp câu thông và nhận biết trực tiếp nhất về bí ẩn của vũ trụ. Trong quá trình tìm về truyền thống, không ngừng đề cao bản thân, thản nhiên buông bỏ những điều bất hảo, thì ước thúc đối với đại não sẽ được giảm bớt, [con người khi đó] sẽ thể ngộ và phát hiện ra được [những] nhận thức cao hơn, nếu như có thể từ trên phẩm chất đạo đức không ngừng siêu việt khỏi [sự chế ước của] thuộc tính của sinh mệnh, thì có thể quay về và phù hợp với quần thể sinh mệnh cao hơn, nhận thức được vũ trụ to lớn hơn.

Từ góc độ xã hội nhân loại mà giảng, đối với một người không tu luyện, thì cách gốc rễ để duy trì đạo đức của họ, chính là cần giải quyết những [điều] mê [hoặc] của họ. Khiến cho họ hiểu rõ [quan hệ] giữa “được và mất” và sự tồn tại của “nhân quả”, chính là cần giải đáp cho được ý nghĩa của đạo đức đối với con người và phương thức tồn tại chân thực của nó trong vũ trụ. Khi con người tin chắc vào “tiền nhân hậu quả” (nguyên nhân phía trước [dẫn tới] hậu quả phía sau) và tiêu chuẩn đo lường tốt xấu, thì trong mâu thuẫn mới có thể thản nhiên đối mặt với hết thảy, nội tâm cân bằng và bình tĩnh. Đạo đức của con người là mong manh yếu nhược, bởi vì xã hội nhân loại rất “mê”, “mê” ở chỗ con người không cách nào thông qua khoa học kỹ thuật mà nhìn thấy và nhận thức được thế giới thiên thể hồng đại, “mê” ở chỗ ý thức thân thể chấp trước và tham lam đối với “vật [chất]”, mê ở chỗ con người không biết thông qua tu hành gian khổ liệu có thực sự đạt được sự đề cao bản thân và tầng thứ sinh mệnh hay không? Vì vậy, bản tính không có cách nào giải phóng ra được, nên sẽ không nhìn thấy được nhân tố chế ước sinh mệnh và cái “Lý” chân chính đang quyết định sự vận động của vật chất, mà quan hệ xã hội hình thành trong sự phát triển của vật chất xác thực có thể làm hủ hoá và ăn mòn con người, cho nên nhân tâm mới lúc sáng lúc tối. Như vậy nhìn lại, sự phát triển quá độ của vật chất, hay tốc độ phát triển quá nhanh của nó đối với con người không nhất định là một việc tốt, đạo đức không theo kịp, trong sự dao động đó [luôn] tồn tại vấn đề tin hay không tin đối với văn minh cổ xưa, [khi đó] nhân loại sẽ đối mặt với nguy hiểm của sự hủ hóa. Đối với con người trong các thời kỳ khác nhau mà nói thì [cần] có văn hoá có thể duy trì được đạo đức của họ, người càng ở trung tâm của vật chất thì yêu cầu [đối với họ] lại càng cao, vì vậy, trong xã hội truyền thống, thiên tử có văn hóa kế thừa của thiên tử, thần dân có văn hoá của thần dân, các hoàn cảnh văn hóa tại các tầng thứ khác nhau do truyền thống sáng tạo nên đã trở nên vô cùng quan trọng đối với con người.

Mặc dù vậy, khi Thích giáo truyền xuất vào 2500 năm trước, đã nói cho con người biết rằng khi đó đã là [thời kỳ] “Ngũ độc ác thế” rồi. Đạo đức của con người vẫn là không tránh khỏi việc trượt xuống dốc, nhân tâm của con người hôm nay so với con người vào thời đó đã khác biệt lớn như thế nào rồi. Biến dị của nhân tâm bắt đầu từ trung tâm quyền lực thượng tầng bên trên tiếp tục đi xuống các tầng diện khác nhau đồng thời biểu hiện nó ra bề mặt, thúc đẩy mỗi một tầng, đều không ngừng xuất hiện những biến dị về văn hoá, những thứ rác rưởi như: tham lam, giảo hoạt xảo quyệt, ngụy thiện đạo đức giả, tham nhũng hủ bại, kết bè đảng mưu lợi riêng, kẻ lừa người dối, khát máu, bạo lực và đấu tranh .v.v…. những thứ cặn bã này thuận theo lịch sử mà tiếp diễn, thì chỉ khác nhau ở mức độ và phạm vi mà thôi. Những gì cuối cùng hình thành nên thượng tầng bên trên chính là “quyền thuật (thủ đoạn quyền lực)”, con người rơi vào một loại đấu tranh chính trị “ngươi chết ta sống”, ảnh hưởng của nó đến con người chính là khiến cho con người triệt để mất đi tín tâm vào Đạo Nghĩa, từng tầng từng tầng mà hủy hoại những điều này của con người, không ngừng mở rộng đến bề mặt của xã hội. Khi Đạo Nghĩa không còn tồn tại, thì “người không vì mình trời tru đất diệt” đã trở thành biểu hiện cuối cùng của trạng thái tinh thần phổ biến của nhân loại và sự vận động của vật chất. Con người không thể hiểu được những thứ thiên tai nhân họa liên tiếp [là đang] tấn công vào điều gì mà đến? Thực ra, vật chất đã bại hoại rồi, điều mà nó đối mặt chính là giải thể, là đào thải đối với sinh mệnh. Thời kỳ khác nhau, ở những nơi khác nhau trên thế giới, đều có các Giác Giả khác nhau đến thế gian, hồng truyền thiên lý và Phật Pháp, Phật Pháp có thể cứu độ con người, đồng thời đem tâm Pháp lưu lại cho thế giới, cứu vãn đạo đức của nhân loại và tiêu trừ đi một bộ phận nghiệp lực của con người. Từ góc độ xã hội nhân loại mà giảng, phá hoại Phật Pháp chính là phá hoại đạo đức của con người, sẽ khiến cho con người bởi bại hoại nhanh chóng mà gánh chịu lượng nghiệp lực cự đại, điều họ đối mặt là sự bại hoại và đào thải toàn diện. Vì vậy, đối với những sinh mệnh tà ác vu cáo cho chân lý của Phật Pháp và bức bại Phật Pháp hồng truyền mà nói chính là đã tạo nên tội ác to lớn cực đại, trở thành “trọng tội”, cuối cùng họ phải đối mặt với sự sự tiêu hủy triệt để từ “hình thể” đến “thần thức”, “hình Thần toàn diệt” mà tôn giáo giảng, đây mới chính là sự thống khổ của sinh mệnh và là kết thúc vĩnh viễn cho thế giới tinh thần [của họ].

Thánh giả giảng: “Người vô đức, thiên tai nhân họa. Đất vô đức, vạn vật điêu tàn. Trời vô Đạo, đất nứt trời sập, thương khung trống rỗng. Pháp Chính, càn khôn chính, sinh cơ bừng bừng, trời đất ổn, Pháp trường tồn.” (Trích từ “Tinh Tấn Yếu Chỉ – Pháp Chính”)

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/261039