Bầu trời của lịch sử: Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

Tác giả: Thiện Dũng

[ChanhKien.org]

Lời dẫn

Bài viết này do một đồng tu nhờ tôi viết và chỉnh lý, kể lại quá trình tu luyện mà đồng tu đó đã trải qua trong đời trước. Vào thời Trung Quốc cổ đại, người tu luyện phải trải qua rất nhiều gian khổ. Chúng ta, những người tu luyện Đại Pháp của vũ trụ, được Sư tôn từ bi chăm sóc, chỉ trong vòng mấy chục năm tu luyện ngắn ngủi có thể có hi vọng tu thành đạo, so với họ thì chúng ta quả là vô cùng may mắn.

Tu luyện Đông Chu Đại Đạo

Phần thứ nhất

Vào những năm cuối thời Đông Chu, vua quan vô đạo, chư hầu cát cứ, quần hùng tranh giành Trung Nguyên. Thiên tai, nhân họa hoành hành, dân chúng thống khổ, lầm than.

Tôi chuyển sinh vào một gia đình nô lệ ở vùng núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khi mới lớn lên, 12 tuổi tôi phải chăn dê cho nhà chủ. Vào mùa hè trong một trận mưa bão, số lượng đàn dê bị thất lạc quá nửa, vì sợ bị đánh phạt nên tôi không dám về nhà chủ nữa. Khi lên núi tìm đàn dê, tôi bị lạc trong rừng sâu, đi bộ ba ngày, vừa đói vừa giá rét, tôi ngã gục dưới một gốc cây cổ thụ. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng động lạ trong bụi rậm, ngoảnh đầu lại thấy một con mãnh hổ trắng đang tiến lại gần. Nó chuẩn bị nhe nanh cắn tôi, bỗng nhiên có một người quát: “Lục Nhi, dừng lại”, con hổ trắng ngoan ngoãn chạy về nơi phát ra tiếng nói và nằm phủ phục ở đó.

Một kỳ nhân mặc trang phục kỳ dị từ trong bụi rậm đi ra. Nhìn thấy tôi nằm dưới gốc cây, người đó hỏi: “Cậu bé, tại sao lại ở đây?” Tôi đáp: “Cháu làm mất đàn dê của ông chủ nên phải vào rừng tìm dê, cháu bị lạc trong rừng đã ba ngày rồi”. Vị kỳ nhân búi tóc cao trên đỉnh đầu và cài một cái trâm bằng trúc, ông nói: “Hãy theo ta”. Thế là tôi đi theo ông ấy vào rừng, con hổ trắng cũng đi theo hai người chúng tôi. Đi được nửa ngày, chúng tôi đến một căn nhà cỏ tranh ở giữa rừng, căn nhà có hai phòng. Kỳ nhân lấy nước cho tôi, rồi sắp xếp chỗ ngủ cho tôi. Con hổ trắng đứng ở ngoài cửa không vào trong, nó cứ nhìn tôi tỏ vẻ hiếu kỳ. Một lúc lâu sau, nó vẫn nằm ở cửa và quan sát tôi. Kỳ nhân bước vào trong phòng, rồi hỏi tôi: “Cháu bé, cháu tên gì?” Tôi đáp: “Cháu không có tên”. Kỳ nhân trầm mặc suy nghĩ, ánh mắt lóe lên, nói: “Ta là Thần tiên, con và ta có duyên. Con có thể ở lại đây để tu luyện thành tiên, nếu con không muốn, ta có thể đưa con trở về nhà”. Tôi nghĩ: “Mình làm mất của chủ nhân 74 con dê non, nếu quay về thì thể nào cũng bị chủ nhân trách phạt, sống chết thế nào còn chưa biết, mình quyết sẽ không quay về”. Tôi đứng dậy hành lễ với kỳ nhân, tôi quỳ xuống nói: “Thưa Thần tiên, con quyết không trở về, xin ngài thu nhận con làm đồ đệ, con nguyện đi theo Thần tiên”. Kỳ nhân vuốt râu, mỉm cười nói: “Được, ngày mai ta sẽ thu con làm đồ đệ. Con không phải sợ con hổ này, con hổ này tên là Lục Nhi, nó cũng là Thần thú”. Kỳ nhân vẫy tay với Lục Nhi, con hổ đi vào phòng và bước đến trước mặt ông, ông chỉ tay vào tôi và nói với con hổ rằng: “Đây là đồ đệ của ta, ngươi hãy chăm sóc cho cậu ấy”. Con hổ như hiểu tiếng người, quay người bước đến dựa vào tôi biểu thị sự thân thiết, tôi rất vui mừng, lấy tay vuốt lưng nó, nó cũng dịu dàng dụi đầu vào tôi.

Ngày hôm sau, sư phụ chính thức thu nhận tôi làm đồ đệ, sau khi tôi bái tổ sư của các thời đại, hành đại lễ với sư phụ, sư phụ nói: “Pháp môn tu luyện của chúng ta là pháp môn Vô Cực của Tiên Thiên Đại Đạo. Vũ trụ bản nguyên hỗn độn gọi là vô cực; sau đó sinh ra vân khí gọi là hữu cực; thanh khí (khí tốt) thăng lên, trọc khí (khí xấu) hạ xuống gọi là thái cực, thái cực sinh ra vạn vật… Ta là chưởng môn đời thứ 374 của pháp môn Vô Cực, pháp hiệu là “Tịnh Huyền”, con là đệ tử đời thứ 375, pháp hiệu là “Đạo Minh”, hãy nhớ kỹ!” Sư phụ lấy ra một thanh kiếm màu đen đưa cho tôi và nói: “Kiếm này có tên là ‘Tịch Thiên Kiếm’, có nghĩa là khai thiên tịch địa. Kiếm mà ta sử dụng mang tên ‘Thánh Thiên Kiếm’, có nghĩa là thánh kiếm mà thánh nhân sử dụng để thay trời hành đạo”. Sư phụ nói tiếp: “Pháp môn chúng là pháp môn tính mệnh song tu thượng thừa của Đạo gia. Trước tiên con phải tu luyện ngoại công bổ trợ cho nội lực. Ta sẽ truyền cho con Ngũ Hành quyền”. Sư phụ lấy một viên đan màu đỏ đưa cho tôi uống và nói: “Sau này cứ một tháng uống một viên. Đan dược này ta đã dùng các dược liệu quý của thiên hạ, mất gần 100 năm mới luyện thành, nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, nâng cao tố chất thân thể. Người thường dùng ba viên có thể sống thọ đến trăm tuổi. Sau khi uống vào, tôi cảm thấy bụng ấm nóng, rồi dần dần lan ra khắp tứ chi, không còn cảm thấy buồn ngủ và đói nữa.

Ngày tiếp theo, sư phụ dạy tôi Ngũ Hành quyền. Buổi chiều, Lục Nhi bắt được hai con thỏ rừng, tôi nhặt một ít củi khô, hầm chín thịt thỏ và mời sư phụ cùng ăn, sư phụ nói: “Ta không ăn”. Ông lấy một viên đan dược hòa với nước uống, sau đó vào trong phòng ngồi đả tọa không nói gì. Tôi lại mang một ít thịt ra ăn cùng với Lục Nhi, nhưng nó cũng không ăn, ăn xong tôi đi ngủ. Cứ như thế, tôi luyện quyền và luyện trạm trang hơn 100 ngày, sư phụ lại dạy tôi một số phương pháp đả tọa điều tức. Vài ngày sau, sư phụ dựng một cây cọc gỗ lớn trước nhà cỏ, sau đó gọi tôi đến và nói: “Con cần luyện thông kinh điều tức, không được để bị can nhiễu, cũng không được cử động, nên ta phải trói con lên cây cọc gỗ này để phòng bất trắc. Tôi đặt chân song bàn, lấy vải buộc lại, hai tay kết ấn, thân trên buộc chặt vào cọc gỗ. Sư phụ nói: “Ta đi vào núi sâu tìm thuốc, ba ngày sau sẽ về”, nói xong nhẹ nhàng bay đi. Chỉ còn Lục Nhi ở lại nằm ngủ say bên cạnh.

Cứ cách năm ngày tôi lại phải luyện song bàn thông kinh ba ngày như thế. Lúc đầu không đủ sức duy trì được, sau đó có thể duy trì được, cuối cùng không còn cảm thấy khổ nữa. Ban ngày thì luyện tập ngoại công trạm trang, đến chiều và tối cũng không ngơi nghỉ, lại ngồi đả tọa điều tức, tuy không ngủ nhưng tinh thần lại rất phấn chấn.

Năm thứ hai tôi đã luyện tập thành thục Ngũ Hành quyền, sư phụ lại dạy tôi thương pháp 13 đường.

Năm thứ ba Sư phụ bắt đầu dạy tôi luyện tập kiếm pháp, kiếm pháp này có tên là “Ngự kiếm thuật”, phân thành hai bộ là “Thủ kiếm thuật” và “Thần kiếm thuật”. Thần kiếm thuật tức là dùng thần thông để điều khiển kiếm từ khoảng cách xa diệt trừ yêu quái.

Hàng ngày, ngoài việc dạy ngoại công và điều tức, sư phụ còn giảng pháp lý tu Đạo về vận hành kinh mạch trên thân thể, sự chuyển vận của các ngôi sao, những bí mật về các hành tinh, mối liên hệ giữa thân thể người và tự nhiên, các quan hệ đối ứng giữa chúng; làm thế nào để đồng hóa, thuận theo tự nhiên.

Tám, chín năm sau, tôi luyện ngoại công ngày càng thành thục, pháp lực thần thông cũng dần dần triển hiện.

Một ngày nọ, sư phụ nói: “Con vào núi theo ta tu Đạo đã được gần 10 năm, ngoại công đã bắt đầu có thành tựu, từ hôm nay cần phải trú trọng vào điều tức định lực. Sinh mệnh vạn vật vì Đạo mà sinh, không có Đạo sẽ vong. Nhân pháp địa, trầm trầm bất động, vi địa tiên; nhân pháp thiên, lãng lãng không minh, vi thiên tiên; nhân pháp đạo, nhất thiết tẫn vô, tắc vi thần tiên (Người thuận theo pháp của đất, thâm trầm ổn định, chính là địa tiên, người thuận theo pháp của trời, sáng sủa minh không, chính là thiên tiên, người thuận theo đạo, hết thảy vô vi, thì chính là thần tiên).

Thuận theo định lực tăng trưởng, mỗi lần tôi có thể ngồi đả tọa liền mấy ngày không ăn không uống, thân thể và tinh thần vẫn an định, khỏe khoắn. Một vài năm sau, vào mùa đông, tôi cùng Lục Nhi mang da lông động vật và các loại thảo mộc xuống chợ dưới chân núi để đổi lấy lương thực và dầu. Khi quay về, đi qua một làng ở trên núi, Lục Nhi có biểu hiện bồn chồn khác thường, tôi nghĩ ở làng này chắc chắn có yêu quái. Đi vào làng, tôi được biết gần một năm nay trong làng bị hồ tinh quấy nhiễu, đã có bảy nam thanh niên bị hồ tinh hại chết. Nhớ đạo pháp mà sư phụ dạy phải thay trời hành đạo, diệt trừ tà yêu, duy trì đạo lý của con người, tôi cùng Lục Nhi yên lặng chờ đợi trong núi. Nửa đêm canh ba, từ phía tây nam có một làn yêu khí màu xanh bay vào trong làng, đến trước cửa một ngôi nhà trong làng, làn yêu khí tụ lại thành hình một thiếu phụ, xuyên qua tường đi vào trong nhà. Tôi và Lục Nhi nhanh chóng tiến đến trước cửa và quát lớn: “Yêu nghiệt dám gây họa loạn nhân gian, còn không mau ra chịu chết”. Một lúc sau, nghe thấy tiếng đẩy cửa, một mỹ nhân mặc y phục màu trắng đứng trước cửa, một tay chống nạnh, một tay cầm một cây trùy gỗ, định nói gì đó. Đột nhiên, Lục Nhi gầm lên một tiếng rồi lao lên phía trước, người phụ nữ áo trắng nhìn thấy tình hình bất ổn, quay đầu lập tức hóa thành một làn khí xanh, bỏ chạy về phía tây nam. Tôi rút Tịch Thiên kiếm phóng lên không trung, rồi vận pháp lực điều khiển Tịch Thiên kiếm bay nhanh đuổi theo, tôi nghe thấy trong không trung một tiếng kêu bi thương, lần theo âm thanh, tôi thấy Lục Nhi đang đi quanh con hồ ly lông màu bạc bị thương, liên tục gầm gào. Con hồ ly bị trọng thương chỉ còn thoi thóp. Tôi thu lại Tịch Thiên kiếm, bỏ con hồ ly vào túi, mang về cho sư phụ xử lý.

Sư phụ nhìn nó rồi nói: “Thật tội nghiệp, con yêu hồ ly này đã tu luyện 1300 năm, cũng là linh vật. Chỉ tiếc là không đi theo chính đạo, lại hấp thu tinh huyết của con người, làm hại chết bảy người, gây tội nghiệp”. Sư phụ thở dài, giao cho tôi mang con yêu hồ đã chết này đi chôn phía sau núi. Ngày hôm đó, Lục Nhi hưng phấn lạ thường như được ban cho chức tướng quân vậy, nó lắc đầu vẫy đuôi, đi qua đi lại trước mặt tôi.

Những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong núi thấm thoắt lại qua bốn năm nữa. Một hôm, sư phụ gọi tôi vào trong nhà cỏ, thần sắc nghiêm trang nói với tôi: “Đồ nhi, con theo sư phụ tu Đạo đã được 20 năm, đã có một chút thành tựu, đã đến trạng thái bách mạch giai thông. Nếu muốn trường sinh bất tử, tiêu diêu trong vũ trụ thì còn phải đi vân du thế gian, nếm trải đủ mọi nỗi khổ trên thế gian, ma luyện tâm tính, thì mới của thể có thành tựu Đại Đạo”. Tôi hợp thập đáp: “Con xin tuân theo mệnh lệnh của sư phụ”. Sư phụ nói tiếp: “Đi vân du thế gian không thể đi một cách bình thường. Thứ nhất là phải đi xin ăn, không được xin nhiều, mỗi ngày chỉ ăn một bữa; thứ hai là không được thuê nhà trọ, không được ở nhà người thường và đền miếu; thứ ba là thời gian đi vân du là 81 năm. Đồ nhi, con có yêu cầu gì không?” Tôi đáp: “Con không”. Sư phụ nói: “Con về chuẩn bị lên đường đi”. Tôi đáp: “Vâng”.

Thế là tôi bắt đầu 81 năm vân du khổ tu.

Phần thứ hai

Từ biệt ân sư, tôi xuống núi đi vân du. Từ xa xa tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng gầm kéo dài của Lục Nhi, phảng phất nhìn thấy hình ảnh của Lục Nhi lưu luyến lúc chia tay.

Ngày thứ hai đi vân du, tôi vào một thôn sơn. Ngôi làng đổ nát thê lương, những người dân bị thổ phỉ cướp hết sạch của cải trong cảnh chiến tranh loạn lạc, xác chết đầy đường. Con người nơi nhân thế làm nhiều việc ác, nghiệp lực luân báo không bao giờ kết thúc. Điều này càng khiến tôi thêm kiên định tu Đạo. Không có gì ăn, tôi đành phải vào rừng tìm quả dại và rau dại ăn tạm. Ăn xong, tôi tìm một nơi kín gió ngồi đả tọa nhập định. Ngày hôm sau, trời đổ mưa, gió lạnh thấu xương, quần áo tôi ướt hết, tôi vẫn bất động, ba ngày sau tôi xuất định tiếp tục lên đường. Thời tiết dần dần trở nên mát mẻ, thu qua đông tới, những ngày mùa đông ở phương bắc lạnh lẽo khác thường, nước đóng thành băng. Từ sáng đến tối, gió tuyết ngày càng mạnh hơn, tôi nhìn xung quanh mờ mịt, không một bóng người, tôi ngồi trong tuyết tu luyện thiền định. Quần áo mỏng manh, phải chịu đựng đói rét. Tôi vận công điều hòa mạch lạc vài lần, rồi tiến nhập vào trạng thái nhập định thâm sâu, trong thân có đạo pháp, cái lạnh không thể cản trở nổi tôi. Mười mấy ngày sau tôi xuất định. Sau nhiều ngày bão tuyết, tuyết đã cao đến ngực tôi, chỉ có đầu ở trên mặt tuyết, sau này may mắn được người có duyên tặng cho cái áo bông, chịu khổ cực đợi đến mùa xuân. Lời ân sư dạy bảo luôn khắc ghi trong tâm tôi, tôi chưa bao giờ gián đoạn việc tập luyện công pháp, ngày qua ngày tiến bộ không ngừng.

Chớp mắt 20 năm vân du nơi nhân thế qua đi như cơn gió thổi. Tôi đi vân du tới cao nguyên Quý Châu, tại đây tôi gặp những người nước ngoài, xin ăn không được bao nhiêu lại còn chịu nhiều lời nhục mạ. Tôi tự nhủ trong tâm rằng: “Ta là người tu Đạo, một nửa là thần, không thể giống như người phàm tục được, nếu ta tranh cãi với họ thì chẳng khác chi người phàm tục, đạo pháp sẽ mất hết”. Nghĩ vậy tôi không để tâm đến họ nữa.

Đến tam phục (thời kì nóng nhất trong năm), tôi ở trong rừng trúc hóng mát. Một cô gái người nước ngoài đi qua mỉm cười hỏi thăm tôi, tôi đứng dậy hành lễ. Trước khi đi, tôi tìm một nơi yên tĩnh, luyện một lượt Ngũ Hành quyền và kiếm pháp, ngồi đả tọa điều tức đến chiều tối, rồi đi vào trong làng xin ăn. Nhìn thấy một ngôi lầu trúc, tôi đến gõ cửa, vừa hay là cô gái người nước ngoài gặp buổi sáng. Nhận ra tôi, cô ấy cho tôi rất nhiều đồ ăn, còn giới thiệu tôi với lão phu nhân và rất nhiều người. Sau khi ăn xong tôi lập tức rời đi, trở lại rừng trúc đả tọa nhập định tu luyện. Buổi trưa hôm sau, cô gái người nước ngoài đến trước mặt tôi, dùng hán ngữ nói với tôi: “Tôi là giáo chủ Thần Nữ giáo, anh có thể ở lại bản giáo làm rể không? Giáo chúng của Thần Nữ giáo của tôi cũng nguyện cung phụng tiên nhân”. Nghe cô gái nói những lời ấy, tôi lập tức nói: “Tôi là người tu đạo khổ tu, phải giới sắc, cảm ơn ý tốt của giáo chủ”. Giáo chủ Thần Nữ vẫn không đi, kiên trì ở lại thuyết phục, tôi không nói gì và cũng không cử động, đột nhiên cô ấy lấy từ trong túi ra một nắm thuốc bột ném lên không trung, tôi vội nín thở, ra tay điểm huyệt vào lưng cô ấy, tôi đứng dậy mang cô ấy về lầu trúc, hành lễ rồi rời đi.

Vì chiến tranh loạn lạc khắp nơi nên thiếu rất nhiều con trai để kế tục hương hỏa, nên tình huống này cũng hay xảy ra.

Người tu luyện phải giữ nghiêm giới luật, bài trừ sắc tâm. Nếu ở lại nhân gian sống cuộc sống của con người thì chính là người thường trong nhân gian, khí huyết khô kiệt thì phải chết, phải luân hồi trong tam giới, ở trong biển khổ vô tận, không thể giải thoát bản thân.

Hoa nở hoa tàn, năm này qua năm khác, mọi thứ đều hóa thành tro bụi. Đạo pháp của tôi ngày một tinh thâm, đã hiểu thấu nhân duyên của vạn sự trên thế gian. Một lần nhập định thâm sâu có thể nhập định vài năm, vài năm ngồi bất động như núi. Thời gian trôi qua như chớp, đông qua hè tới, vân du thế gian đã bình yên qua 20 năm.

Một hôm, tôi đi vân du đến vùng duyên hải Triết Giang. Vùng đất này sản vật phong phú, dân chúng an cư lạc nghiệp, ít xảy ra chiến tranh loạn lạc, trong chợ người người mua bán tấp nập. Tôi nghe thấy tiếng một người phụ nữ kêu khóc. Mọi người bàn tán: “Con của chị ta chơi trên bãi biển, đột nhiên bị một cơn sóng lớn cuốn đi, chị ta vì mong mỏi nhớ con mà trở nên điên điên rồ rồ như vậy”. Người ta lại nói: “Ở bờ biển dạo này có nhiều trẻ con bị bắt cóc, không biết vì sao”. Nghe mọi người nói, tôi nhìn về phía biển, vận dụng pháp nhãn thông trông thấy khí đen đầy trời, thấy một con giao long (là loài lai giữa hải long và giao long ở sông) chuyên ăn thịt trẻ con. Vào lúc nửa đêm, tôi đến bờ biển, dùng thần thông bắt con giao long ra khỏi mặt nước. Con giao long phủ phục dưới mặt đất, tôi hỏi nó: “Tại sao ngươi lại bắt trẻ con ăn thịt? Gây tội họa loạn nhân thế tất sẽ bị trời phạt!” Con giao long khẽ đáp: “Chân nhân có thể không biết đó, ngư dân vùng này gây tổn hại nghiêm trọng cho thủy tộc của tôi, lần này tôi đến đây chính là để đòi nợ”. “Nhân quả có quy luật, thiên lý rõ ràng, ngươi cũng không nên làm như thế. Nếu bắt trẻ con như thế, tất sẽ bị trừng phạt”. Giao long trả lời: “Tôi sẽ làm theo chỉ dạy của chân nhân”. Giao long chầm chậm lặn xuống nước. Ba ngày sau, nó hóa thành một đạo sĩ đi tới bờ sông, nói dối mọi người rằng: “Ba năm hạn hán ở đây là do ngư dân vùng này đã giết hại rất nhiều thủy tộc nên bị trời trách phạt. Phải cúng một đôi đồng nam đồng nữ cho Long vương thì mới có thể thoát tội”…

Tôi tu luyện thiền định trong núi, nhìn thấy con giao long  tính ác không hối cải, liền cầm Tịch Thiên kiếm định truy sát nó. Nhưng nhớ tới lời ân sư từng nói: “Yêu tà gây họa loạn nhân thế thì phải giết. Nhưng đối với long tộc thì khác, phải giao cho Thiên đình xử lý, vì đa phần chúng được Thần bảo hộ”. Tôi bèn dùng pháp lực bắt lấy nó, giao cho thiên thần trên Thiên đình thẩm tra xử lý. Nhờ vậy mà Thiên đình biết rõ căn nguyên và cử thiên nhân hỗ trợ.

Vài chục năm sau, tôi vẫn chuyên cần tu Đạo, Đạo pháp phát triển không ngừng. Có người ở Sắc Giới Thiên đến cầu pháp, tôi đã giảng Đạo pháp cho chúng tiên ở Sắc Giới Thiên một thời gian. Lại có rất nhiều thiên nhân đến cầu pháp, đáp ứng không xuể. Chúng tiên có ý muốn tôi lưu lại ở Thiên cung cùng chúng tiên hưởng thiên phúc. Tôi nghĩ trong tâm rằng Sắc Giới Thiên vẫn ở trong tam giới, vẫn phải nhập lục đạo luân hồi, không phải là vĩnh cửu, chỉ là tạm hưởng thiên phúc, khi thiên phúc hưởng hết thì vẫn phải xuống địa ngục, cũng không thể vĩnh viễn bất tử, vẫn nên rời đi. Tôi từ biệt chúng tiên trở về nhân thế, tiếp tục đi vân du khổ tu. Năm này qua năm khác, thời gian như thoi đưa, tính ra đi vân du cũng đã nhiều năm, cũng sắp đến thời hạn mà ân sư định ra rồi. Tôi lại đi vân du đến Hoa Sơn, tìm một động tiên để nhập định thâm sâu. Trong định, thân và tâm của tôi đều biến mất, tất cả mọi thứ hữu hình, vô hình trên thế giới đều biến thành hỗn độn, chỉ còn là hỗn độn vô tận.

Mấy năm sau, đã đến thời hạn, tôi xuất định chuẩn bị trở về theo ý lệnh của sư phụ. Bỗng nhiên nghe thấy ngoài động có tiếng của sư phụ: “Đồ nhi, sư phụ đến rồi”. Tôi vội ra ngoài động hành lễ với sư phụ. Sư phụ nói: “Đồ nhi, con đã vất vả rồi. Vô Cực pháp môn của chúng ta là tu luyện Đại Đạo. Tổ sư di huấn rằng: thế gian mỗi 800 năm mới xuất hiện một người đại đức có thể truyền thừa pháp môn đạo pháp của ta, cần phải khổ tu trăm năm mới có thể thành đạo. Tương lai, đệ tử của con 800 năm sau sẽ giáng sinh ở Hoa Sơn, hãy nhớ kỹ! Thời hạn ta định đã đến”. Nói xong sư phụ đơn thủ lập chưởng hành lễ với tôi nói: “Chúc mừng chân nhân thành đạo”. Trong nháy mắt, tôi cảm giác mình biết được mọi điều về quá khứ và tương lai, lên trời xuống đất không nơi nào không thể đi… Đây thực sự là đắc đạo rồi. Tôi thấy trên không trung mây trắng bồng bềnh, hương thơm lan tỏa khắp nơi, những cảnh tượng kỳ diệu chốn thần tiên hiện rõ ràng trước mắt. Có câu thơ rằng:

Chứng quả thánh nhân

Khán thế gian phong khởi vân dũng, tuế nguyệt thương tang,

Ngộ thiên cơ thần hành tự tại, vạn cổ trường tồn.

Tạm dịch:

Nhìn thế gian gió mưa vần vũ, trải qua năm tháng tang thương

Ngộ ra thiên cơ, tự tại trên con đường thành Thần, vạn cổ trường tồn.


Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/55568