Nguyên lý 80/20: Ý nghĩa và nguồn gốc (Phần 3)

Tác giả: Tiểu Nham

[Chanhkien.org]

2. Lịch sử phát triển của nguyên lý 80/20

Như vậy nguyên lý 80/20 vì sao có nhiều tên gọi và nhiều cách biểu đạt khác nhau? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta nhất định phải nói về ngọn nguồn phát hiện ra nguyên lý 80/20.

Thực ra nguyên lý 80/20 không phải do một cá nhân phát hiện trong một lần, mà do nhiều cá nhân phát hiện trong nhiều lần, hoặc phát hiện lại. Lần phát hiện đầu tiên của nguyên lý 80/20 là vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 bởi nhà kinh tế học kiêm xã hội học người Ý Vilfredo Pareto. Pareto phát hiện thấy 80% số của cải ở Ý là do 20% số người sở hữu, hơn nữa đây là xu thế kinh tế tồn tại mang tính phổ biến. Do đó Pareto cho rằng trong một quần thể đặc định nào đó, các nhân tố trọng yếu thông thường chiếm thiểu số, còn nhân tố không trọng yếu lại chiếm đa số. Bởi vậy căn cứ phát hiện này trong nguyên lý 80/20, chúng ta chỉ cần khống chế các nhân tố thiểu số trọng yếu này là có thể khống chế được toàn cục.

Nhưng đáng tiếc là mặc dù Pareto đã nhận thức được tính trọng yếu và ứng dụng rộng rãi của nguyên lý 80/20, ông không hề có giải thích thuyết phục nào về nguyên lý này. Thay vào đó, Pareto tiến tới một loạt nghiên cứu lý luận xã hội học khá thu hút nhưng rất lộn xộn. Những lý luận này lấy nghiên cứu tinh anh trong xã hội làm trung tâm. Điều đáng tiếc hơn nữa chính là vào những năm cuối đời, Pareto đã từ bỏ những lý luận xã hội học này để chuyển sang gia nhập chủ nghĩa phát-xít của Mussolini. Do đó ý nghĩa trọng yếu của nguyên lý 80/20 đã bặt vô âm tín trong một thời gian dài. Mặc dù rất nhiều nhà kinh tế học, đặc biệt các nhà kinh tế học người Mỹ đã nhận thức được tính trọng yếu của nguyên lý 80/20, mãi cho tới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai mới xuất hiện hai lý luận kế thừa và phát triển nguyên lý 80/20. Một là “nguyên tắc tiết kiệm công” mà chúng ta đã đề cập ở trước do George K.Zipf, Giáo sư ngôn ngữ Đại học Harvard, phát hiện. Năm 1949, Zipf đã phát hiện ra “nguyên tắc tiết kiệm công”, trên thực tế là phát hiện lại và trình bày tường tận nguyên lý Pareto.

Còn có một người tiên phong đẩy mạnh sự phát triển nguyên lý 80/20, đó chính là chuyên gia quản lý chất lượng người Mỹ gốc Rumani sinh năm 1904, công trình sư Joseph Moses Juran. Juran là người có công đằng sau cuộc cách mạng về chất lượng từ những năm 50-90 thế kỷ 20. Năm 1924, Juran gia nhập công ty điện khí Western Electric, chi nhánh công ty sản xuất điện thoại Bell Telephone System, và bắt đầu sự nghiệp kỹ sư công nghiệp của mình. Sau đó, Juran trở thành một nhà tư vấn về quản lý chất lượng trong ngành công nghiệp. Thành tựu vĩ đại của Juran là ông đã kết hợp các phương pháp thống kê học khác nhau và vận dụng nguyên lý 80/20 để tìm ra nguyên nhân thiếu sót của sản phẩm, từ đó cải thiện chất lượng sản phẩm. “Sổ tay kiểm soát chất lượng” của Juran được xuất bản năm 1951. Đây là một tác phẩm đánh dấu thời đại mới, trong sách tán dương cao độ nguyên lý 80/20. Tuy nhiên thời bấy giờ nó không thu hút được hứng thú của doanh nghiệp lớn nào tại Mỹ. Năm 1953, Juran nhận lời mời đến Nhật Bản dạy học và tại Nhật, ông gây ra tiếng vang lớn. Từ đó, Juran ở lại giúp một số công ty Nhật Bản cải tiến chất lượng và phẩm chất sản phẩm. Cho đến những năm 1970, khi sự phát triển công nghiệp của Nhật Bản đã trở thành mối đe dọa ngày càng rõ ràng với nước Mỹ thì các nước Tây phương mới bắt đầu coi trọng lý luận của Juran. Sau đó, Juran trở về Mỹ và bắt đầu thúc đẩy giới công nghiệp Mỹ triển khai cải cách giống như tại Nhật Bản. Dưới sự khởi xướng và thực hành của Juran, nguyên lý 80/20 đã trở thành hòn đá tảng trong cuộc cách mạng về quản lý chất lượng trên toàn cầu.

Tóm lại, cho dù là Pareto người Ý hay là người Mỹ gốc Rumani Juran, nguyên lý 80/20 đã trải qua lịch trình không hề thuận buồm xuôi gió. Không biết liệu có phải bởi vì nguyên lý 80/20 tiết lộ một số thiên cơ ở không gian cao tầng? Hay là một số sinh mệnh cao tầng không muốn để nhân loại biết được nguyên lý 80/20?

Dịch từ:

http://www.zhengjian.org/zj/book/html/shan/x077.htm