Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn



Tác giả: Mộc Tử

[Chanhkien.org] “Nhị tứ bát, tam thất cửu”. Tháng 8 năm Dân Quốc thứ 24, ĐCSTQ ra “Tuyên ngôn Bát Nhất”, bắt đầu lợi dụng chiêu bài “kháng Nhật” để lừa dối tiến hành thống nhất chiến tuyến. Tháng 9 năm Dân Quốc thứ 37, ĐCSTQ phát động “chiến dịch Liêu Thẩm”, bắt đầu nội chiến toàn diện đại quy mô.

Giới thiệu: Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ 20 dưới mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh Tưởng Giới Thạch, và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Những văn tự này được viết theo hình thức thơ Trung Hoa, với những câu nói bóng gió dự báo trước những sự kiện sẽ xảy đến trong 500-600 năm sau triều Minh.

*  *  *

Sau đây là phần giải nghĩa:

Chú thích của người dịch: Chữ in đậm trong dấu ngoặc kép “” là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ in nghiêng trong dấu ngoặc đơn ( ) là diễn nghĩa của người dịch, chỉ có tác dụng tham khảo.

“Kim Lăng tháp, Kim Lăng tháp”
(Tháp Kim Lăng, Tháp Kim Lăng)

“Lưu Cơ kiến, Giới Thạch sách”
(Lưu Cơ xây, Giới Thạch phá)

Lưu Bá Ôn xây, Tưởng Giới Thạch phá.

“Sách liễu Kim Lăng tháp, Quân dân tự kỷ sát”
(Tháp Kim Lăng phá rồi, Quân dân tự giết hại lẫn nhau)

Khi tháp Kim Lăng bị phá là bắt đầu nội chiến Quốc-cộng.

“Thảo đầu tương đối thảo đầu nhân”
(Đầu cỏ đối đầu với người đầu cỏ)

“Thảo đầu” ở đây (草头) là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản; “thảo đầu nhân” (草头人) là chữ “Tưởng” (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch.

“Đáo vĩ chỉ thị bán súc quy”
(Đến đuôi chỉ là rùa co lại một nửa)

Chữ “quy” (龟) co đuôi rùa lại một nửa chính là chữ “Mao” (毛).

“Hồng thủy hoành lưu thành trạch quốc”
(Dòng nước lớn chảy tràn thành ngập lụt)

Ở đây có chữ “Trạch” (泽).

“Lộ thượng hành nhân bối hướng Tây”
(Người đi trên đường quay lưng về hướng Tây)

Chính là chữ “Đông” (东).

“Nhật xuất Đông, Nhật một Tây”
(Mặt trời mọc phía Đông, Mặt trời lặn phía Tây)

Nhật Bản xâm lược Trung Quốc.

“Gia gia hộ hộ thụ thảm thê”
(Mỗi nhà mỗi hộ đều chịu thảm thương)

“Đức tiêu diêu, Ý tiêu diêu”

Đức và Ý chiến bại đầu hàng trong chiến tranh thế giới thứ II.

“Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu”
(Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

“Hồng đầu kỳ, Đại đầu tinh”
(Cờ màu đỏ, Ngôi sao lớn)

Cờ đỏ và sao năm cánh của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

“Gia gia hộ hộ điếu linh đình”
(Mỗi nhà mỗi hộ đều không nơi nương tựa)

“Tam sơn lập túc, Ngũ tử tề vinh thăng”
(Ba ngọn núi khó đứng vững, Năm đứa con đều hưng thịnh)

Văn hóa truyền thống (Nho, Thích, Đạo) bị lật nhào, thay vào đó là cung phụng chủ nghĩa Mác-Lê (Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao).

“Tâm mang mang, Ý mang mang”
(Tâm bận rộn, Ý bận rộn)

“Thanh phong kiều sách tẩu như cuồng”
(Phong cách thanh nhã bị hủy đi như cuồng)

“Nhĩ nhất đảng thời ngã nhất đảng”
(Ngươi có đảng thì ta cũng có đảng)

Chỉ Quốc Dân Đảng và đảng cộng sản.

“Tọa cao đường, Thực cao lương”
(Ngồi nơi hội trường lớn, Ăn thức ăn cao cấp)

“Toàn bất kế cập tha nhân tang”
(Hoàn toàn không màng tới tính mạng người khác)

“Niệm bát nhân, Phù chúng vọng”
(Hai mươi tám người, Được quần chúng tín nhiệm)

“Cư nhiên ương châm thắng đao thương”
(Mặc nhiên gieo mầm mống thắng cả vũ khí)

ĐCSTQ lừa dối giành tín nhiệm của nhân dân, mặc nhiên phát triển từ nhỏ thành lớn, cuối cùng đoạt chính quyền. “Niệm” (廿) và “bát” (八) hợp thành chữ “cộng” (共).

“Tiểu tinh quang, Tế tinh quang”
(Sao nhỏ tỏa sáng, Che lấp ánh sao)

“Niệm tướng nhị nhân tẩu Bắc phương”
(Hai mươi tướng và hai người đi về phương Bắc)

ĐCSTQ thắng thế, quân Quốc Dân Đảng bại trận chạy về Đông Bắc (“Niệm” (廿) và “nhân” (人) hợp thành chữ “cộng” (共)). Chữ “tướng” (将) [jiàng] là hài âm của chữ “Tưởng” (蒋) [jiǎng].

“Khứ gia mộc, Lộ bàng hoàng”
(Rời nhà gỗ, Đường bàng hoàng)

“Đáo xứ bôn ba nhân giai báng”
(Bôn ba khắp nơi đều bị người phỉ báng)

Tưởng Giới Thạch bôn ba khắp nơi cứu nước nhưng bị ĐCSTQ gièm pha bôi nhọ.

“Đại hải lạc môn soan, Hà quảng vị vi quảng”
(Biển lớn bị chặn bởi then cửa, Sông rộng mà lại không thành rộng)

Đây là ĐCSTQ bao vây eo biển Đài Loan.

“Lương điền vạn khoảnh vô nam canh, Đại hảo tàm ti vô nữ phưởng”
(Ruộng tốt vạn khoảnh không có đàn ông canh tác, Tơ tằm rất tốt không có đàn bà xe sợi)

“Lệ nhân thiên ái tương, Nhĩ ngã hỗ tương bang”
(Phụ nữ đẹp thì được thiên vị, Ngươi và ta cùng bang trợ lẫn nhau)

Nước Mỹ trợ giúp Tưởng Giới Thạch. “Đẹp” chính là “Mỹ”.

“Tứ thủy hạnh Mộc nhật, Tam hổ sính hào cường”
(Bốn Thủy hạnh phúc ngày Mộc, Ba hổ khoe khoang ngang tàng)

Chữ “hạnh” (幸) ghép với bộ Thủy (氵) thành chữ “Trạch” (泽), chữ “nhật” (日) ghép với bộ “Mộc” (木) thành chữ “Đông” (东); “tam hổ” (三虎) là chữ “Bưu” (彪). Đây là chỉ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu.

“Bạch nhân thành uy vũ, Nhân tâm hoa điểu hoảng”
(Người da trắng thành lực lượng lớn, Nhân tâm hoảng sợ như tranh hoa và chim)

Nước Mỹ đứng ra điều đình.

“Trục thủy khứ Nam hãn, Ngoại nhi quy mẫu bang”
(Đuổi nước về đất phía Nam, Con ở ngoài quy về mẫu quốc)

Dân Quốc rút về phương Nam, trấn thủ Đài Loan (nguyên là Nhật chiếm giữ).

“Doanh hư nguyên hữu số, Thịnh suy dã hữu vô”
(Đầy hay trống nguyên đã có số phận, Thịnh suy cũng như là có hay không)

“Linh Sơn tao hạo kiếp, Liệt hỏa đảo phù đào”
(Linh Sơn gặp nạn lớn, Lửa cháy như sóng gầm)

Văn hóa Thần truyền, truyền thống Trung Hoa bắt đầu bị thuyết vô thần phá hoại.

“Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm đào bất thoát”
(Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm chạy không thoát)

“Đông phong xuy tống thảo mộc ai”
(Gió Đông thổi đi cây cỏ bi ai)

Mao Trạch Đông phát động cuộc vận động cộng sản tại Trung Quốc.

“Hồng thủy thao thiên trục nhật lai”
(Dòng nước lớn cuộn trời hàng ngày tới)

Các phong trào vận động chính trị tại Trung Quốc.

“Lục căn vị tịnh tùy ba khứ”
(Sáu căn không tịnh thì tùy theo sóng cuốn trôi)

“Chính quả năng tu vãng thiên đài”
(Có thể tu thành chính quả thì lên đài trên trời)

“Nhị tứ bát, Tam thất cửu”
(Hai bốn tám, Ba bảy chín)

Tháng 8 năm Dân Quốc thứ 24 (1935), ĐCSTQ ra “Tuyên ngôn Bát Nhất”, bắt đầu lợi dụng chiêu bài “kháng Nhật” để lừa dối tiến hành thống nhất chiến tuyến. Tháng 9 năm Dân Quốc thứ 37 (1948), ĐCSTQ phát động “chiến dịch Liêu Thẩm”, bắt đầu nội chiến toàn diện đại quy mô.

“Họa nguyên chủng kỷ cửu”
(Căn nguyên của tai họa là từ xa xưa)

“Dân tam dân thập dân tam thất”
(Dân ba dân mười dân ba bảy)

Năm Dân Quốc thứ 3 (1914), Viên Thế Khải nhậm chức; năm Dân Quốc thứ 10 (1921), ĐCSTQ thành lập; năm Dân Quốc thứ 37 (1948), Dân Quốc di tản sang Đài Loan.

“Cẩm tú hà sơn hoán nhất sắc”
(Giang sơn gấm vóc đổi một màu)

Trung Quốc biến thành một màu đỏ.

“Mã bất điểm đầu thạch trầm để”
(Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy)

“Mã” (马) ở đây là chỉ “Mã Khắc Tư”, tức Marx; “thạch” (石) là chỉ “Thạch Đạt Lâm”, Trung Quốc Đại Lục phiên thành “Tư Đại Lâm”, tức Stalin. Tranh luận học thuyết Marx khiến ĐCSTQ và Stalin bằng mặt mà không bằng lòng.

“Hồng hoa khai tận hoàng hoa khai”
(Hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở)

Sau khi Stalin chết, thế lực cộng sản quốc tế giảm dần, còn ĐCSTQ dần ngẩng mặt lên.

“Tử Kim Sơn thượng mỹ nhân lai”
(Mỹ nhân đến nơi ngọn núi tía {Tử Kim Sơn là ngọn núi nổi tiếng ở Nam Kinh})

Mao Trạch Đông và nước Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao (“Mỹ nhân” ở đây chỉ người Mỹ).

“Nhất tai hoán nhất tai, Nhất hại hoán nhất hại”
(Tai họa này thay tai họa khác, Tai hại này thay tai hại khác)

ĐCSTQ hại nước hại dân.

“Thập cửu giai nhân ngũ ngũ tuế, Địa linh nhân kiệt sản tân quý”
(19 giai nhân 55 tuổi, Đất linh sinh hào kiệt mới)

“Ngũ ngũ tuế” (五五岁) ẩn chữ “Hồ” (胡), “thập cửu giai nhân” (十九佳人) ẩn chữ “Diệu” (耀), ám chỉ Hồ Diệu Bang 74 tuổi thì được giải oan.

“Anh hùng bạt tận thạch trung mao, Huyết lưu tiêu can vạn nhân hào”
(Anh hùng nhổ sạch lông trong đá, Máu chảy cọc tiêu vạn người gào)

Vạn Lý và Kiều Thạch thay nhau nhượng quyền, Giang Trạch Dân dẫm lên hài cốt sinh viên trong cuộc thảm sát Thiên An Môn để lên ngôi.

“Đầu sinh giác, Nhãn sinh quang; Thứ dân bất dụng hoảng”
(Đầu mọc sừng, mắt phóng quang; Dân đen không cần hoảng sợ)

Đây là chỉ con “thú” bảy đầu mười sừng đi lên từ biển (Thượng Hải) trong «Khải Huyền», tức Giang Trạch Dân.

“Quốc vận hưng long thời nhật đáo, Tứ thời hạ chủng thái bình lương”
(Ngày mà vận nước hưng vượng đã tới, Bốn mùa gieo hạt lương thực thái bình)

Năm 1998 là năm Hổ, sản lượng lương thực Trung Quốc đạt mức cao nhất trong lịch sử, cũng như dự ngôn «Thối Bối Đồ» nói: “Hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, Bạch mễ doanh thương bất trị tiền” (Người đầu hổ gặp năm đầu hổ, Kho dư gạo trắng chẳng đáng tiền) {Giang Trạch Dân cũng sinh năm Hổ}.

“Nhất khí sát nhân thiên thiên vạn, Đại dương tàn bạo quá sài lang”
(Một khí giết người nghìn nghìn vạn, Dê lớn tàn bạo hơn lang sói)

Năm 2003 là năm con Dê, dịch bệnh SARS hoành hành khắp Trung Quốc.

“Khinh khí động sơn nhạc, Nhất tuyến thiết nan đương”
(Khí nhẹ chấn động cả núi cao, Một sợi dây sắt cũng khó mà chịu nổi)

“Nhân phùng mãnh hổ nan hồi tị, Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang”
(Người gặp hổ dữ thì khó mà tránh được, Người có phúc phận thì sống ở sơn trang)

Đây là miêu tả tập đoàn Giang Trạch Dân (thuộc Hổ) mang đến bao tai nạn cho nhân dân.

“Phồn hoa thị, Biến uông dương”
(Đô thị phồn hoa chìm trong biển nước mênh mông)

“Cao lâu các, Biến nê cương”
(Nhà lầu cao trở thành đống đổ nát trong bùn lầy)

“Phụ mẫu tử, Nan mai táng”
(Phụ mẫu chết, Khó mai táng)

“Đa nương tử, Nhân tôn giang”
(Cha mẹ chết, Con cháu vác)

“Vạn vật đồng tao kiếp, Trùng nghĩ diệc tao ương”
(Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương)

“Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ, Điểu phi dương tẩu phản gia bang”
(May được hai cành gỗ lớn chống đỡ cho lâu đài, Dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà)

“Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, Trạch cập quần sinh lạc thả khang”
(May gặp Mộc Thỏ thì được thọ, Chúng sinh vui mừng mà khỏe mạnh)

Đây là chỉ Thánh nhân xuất sinh vào năm Thỏ – Đại sư Lý Hồng Chí mang đến phúc âm cho chúng sinh (*).

“Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, Phú quý vinh hoa bách thế xương”
(Ai biết được ý tứ ở trong đó thì phú quý vinh hoa thịnh vượng trăm đời)

“Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, Xa thủy mã long cánh tịch hiêu”
(Nhà lầu chọc trời lớp lớp tới tận mây xanh, Giao thông nhộn nhịp càng ầm ĩ về đêm)

“Thiển thủy lý ngư chung hữu nạn, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu”
(Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

Dân Quốc thành lập năm 1912, đến năm 2012 là tròn 100 năm. Đây là hồi kết.

Ghi chú:

(*) Trong thơ dự ngôn của Bộ Hư Đại sư triều Tùy tiên tri về Thánh nhân giáng thế thời mạt thế rằng: “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng“, còn dự ngôn «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc nói: “Mạt thế Thánh quân Mộc nhân, Hà Mộc thượng cú mưu kiến tự; Dục tri sinh mệnh xứ tâm giác, Kim cưu Mộc thỏ“. Ngoài ra, dự ngôn «Trịnh Giám Lục» của Hàn Quốc còn giảng minh xác hơn nữa: “Ký ngữ thế gian độc giác sĩ, Tu tùng bạch Thỏ tẩu thanh lâm“. “Thanh lâm” (rừng xanh) ở đây chính là đối ứng với “hai cành gỗ lớn” ở bên trên”; chữ “lâm” (林) do hai chữ “Mộc” (木) ghép thành, đều chỉ Đại Thánh nhân thuộc Mộc.

Xem thêm:

>> Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiện

Dịch từ:

http://www.epochtimes.com/gb/11/2/16/n3171712.htm



Ngày đăng: 22-04-2012

Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên ChanhKien.org đều thuộc bản quyền của trang Chánh Kiến. Vui lòng chỉ sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, và cần ghi lại tiêu đề gốc, đường link URL, cũng như dẫn nguồn ChanhKien.org.