Giải nghĩa dự ngôn của Lưu Bá Ôn triều Minh – «Kim Lăng tháp bi văn» – cảnh báo thế nhân khuyến thiện

[Chanhkien.org]

Thông tin thêm cho những độc giả không phải người Hoa:

Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1.400 SCN bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ (tức Lưu Bá Ôn). Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ 20 dưới mệnh lệnh của Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch, và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Những văn tự này được viết theo hình thức thơ Trung Hoa, với những câu nói bóng gió dự báo trước những sự kiện sẽ xảy đến trong 500-600 năm sau triều Minh.

Sau đây là phần giải nghĩa:

Chữ trong dấu ngoặc vuông [ ] là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ trong dấu ngoặc đơn ( ) là chú thích của người dịch sang tiếng Việt, chỉ có tác dụng tham khảo.

[Kim Lăng tháp, Kim Lăng tháp]
(Tháp Kim Lăng, Tháp Kim Lăng)

Giải: Tháp Kim Lăng ở Nam Kinh, Trung Quốc.

[Lưu Cơ kiến, Giới Thạch sách]
(Lưu Cơ xây, Giới Thạch phá)

Giải: Lưu Cơ tức là Lưu Bá Ôn, Giới Thạch là chỉ Tưởng Giới Thạch.

[Sách liễu Kim Lăng tháp, Quân dân tự kỷ sát]
(Tháp Kim Lăng phá rồi, Quân dân tự giết hại lẫn nhau)

Giải: Đến thời tháp bị hủy, nội chiến Quốc-Cộng gây ra họa binh đao.

[Thảo đầu tương đối thảo đầu nhân]
(Đầu cỏ đối đầu với người đầu cỏ)

Giải: “Thảo đầu” ở đây (草头) là chữ “cộng” (共), chỉ đảng cộng sản; “thảo đầu nhân” (草头人) là chữ “Tưởng” (蒋), chỉ Tưởng Giới Thạch.

[Đáo vĩ chỉ thị bán súc quy, Hồng thủy hoành lưu thành Trạch quốc, Lộ thượng hành nhân bối hướng Tây]
(Đến đuôi chỉ là rùa co lại một nửa, Dòng nước lớn chảy tràn thành ngập lụt, Người đi trên đường quay lưng về hướng Tây)

Giải: Chữ “quy” (龟) co đuôi rùa lại một nửa chính là chữ “Mao” (毛). Hai câu sau có chữ “Trạch” (泽) và chữ “Đông” (东), ghép lại thành Mao Trạch Đông.

[Nhật xuất Đông, Nhật một Tây]
(Mặt trời mọc phía Đông, Mặt trời lặn phía Tây)

Giải: Nhật Bản xâm lược Trung Quốc (ở phương Đông) và bị Anh-Mỹ đánh bại (quân Đồng Minh).

[Gia gia hộ hộ thụ thảm thê]
(Mỗi nhà mỗi hộ đều chịu thảm thương)

Giải: Bách tính Trung Quốc bị quân Nhật tàn hại.

[Đức tiêu diêu, Ý tiêu diêu, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu]
(“Đức” tiêu diêu’ , “Ý” tiêu diêu, Bao nhiêu phồn hoa như giấc mộng tiêu)

Giải: Phát xít Đức và Ý bị chiến bại và phải đầu hàng.

[Hồng đầu kỳ, Đại đầu tinh]
(Cờ màu đỏ, Ngôi sao lớn)

Giải: Lá cờ màu đỏ và ngôi sao năm cánh của Trung Cộng được giương lên.

[Gia gia hộ hộ điếu linh đình]
(Mỗi nhà mỗi hộ đều không nơi nương tựa)

Giải: Nhân dân Trung Quốc vẫn phải sống trong cảnh nghèo đói.

[Tam sơn nan lập túc, Ngũ tử tề vinh thăng]
(Ba ngọn núi khó đứng vững, Năm đứa con được vinh danh)

Giải: Văn hóa truyền thống bị phá bỏ và những kẻ có mối quan hệ được thăng tiến.

[Tâm mang mang, Ý mang mang, Thanh phong kiều sách tẩu như cuồng]
(Tâm bận rộn, ý bận rộn, Phong cách thanh liêm bị hủy đi như cuồng)

Giải: Những người được thăng tiến bận rộn vì tư lợi, ban đầu thì thanh liêm nhưng sau thì hủ hóa.

[Nhĩ nhất đảng thờì ngã nhất đảng]
(Ngươi có đảng thì ta cũng có đảng)

Giải: Nội bộ kết bè kết đảng vì tư lợi.

[Tọa cao đường, Thực cao lương,Toàn bất kế cập tha nhân tang]
(Ngồi nơi hội trường lớn, Ăn thức ăn cao cấp, Hoàn toàn không màng tới tính mạng người khác)

Giải: Thực ra chỉ quan tâm cho quyền lực ích kỷ mà không màng tới xã hội.

[Niệm bát nhân, Phu chúng vọng, Cư nhiên ương châm thắng đao thương]
(Hai mươi tám người, Được quần chúng tín nhiệm, Mặc nhiên gieo mầm mống thắng cả vũ khí)

[Tiểu tinh quang, Tế tinh quang, Niệm tướng nhị nhân tẩu Bắc phương]
(Sao nhỏ tỏa sáng, Che lấp ánh sao, Hai mươi tướng và hai người đi về phương Bắc)

Giải: Trong tiếng Trung, “niệm” (廿) và “bát” (八) hợp thành chữ “cộng” (共), Đảng Cộng sản đoạt chính quyền bằng cách lừa gạt và lợi dụng tín tâm của nhân dân, từ một nhóm nhỏ trở thành một băng đảng lớn, rồi thâu đoạt chính quyền.

[Khứ gia Mộc, Lộ bàng hoàng, Đáo xứ bôn ba nhân giai báng]
(Rời nhà gỗ, Đường bàng hoàng, Bôn ba khắp nơi đều bị người phỉ báng)

Giải: Một Giác Giả (thuộc Mộc) độ nhân và đệ tử của Ngài bị phỉ báng, khứ quốc (rời bỏ nước) ly gia (bỏ nhà). Sư Phụ phải bôn ba, đệ tử của Ngài trở nên khốn khổ và lưu lạc không nhà cửa.

[Đại hải lạc môn soan, Hà quảng vị vi quảng]
(Biển lớn bị chặn bởi then cửa, Sông rộng mà lại không thành rộng)

Giải: Quốc gia của Trung Cộng ở trong trạng thái bị phong bế.

[Lương điền vạn khoảnh vô nam canh, Đại hảo tàm ti vô nữ phưởng]
(Ruộng tốt hàng vạn không có đàn ông canh tác, tơ tằm rất tốt không có đàn bà xe sợi)

Giải: Những cuộc vận động chính trị của Trung Cộng làm nền kinh tế tiêu điều.

[Lệ nhân thiên ái tương, Nhĩ ngã hỗ tương bang]
(Phụ nữ đẹp thì được thiên vị, ngươi và ta cùng bang trợ lẫn nhau)

[Tứ thủy hạnh mộc nhật, Tam hổ sính hào cường]
(Bốn Thủy hạnh phúc ngày Mộc, Ba hổ khoe khoang ngang tàng)

Giải: Chữ “hạnh” (幸) ghép với bộ Thủy (氵) thành chữ “Trạch” (泽), chữ “nhật” (日) ghép với bộ “Mộc” (木) thành chữ “Đông” (东); “tam hổ” (三虎) là chữ “Bưu” (彪). Đây là chỉ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu.

[Bạch nhân thành uy vũ, Nhân tâm hoa điểu hoảng, Trục thủy khứ nam hãn, Ngoại nhân quy mẫu bang]
(Người da trắng thành lực lượng lớn, Nhân tâm hoảng sợ như tranh hoa và chim, Đuổi nước về đất phía Nam, Con ở ngoài quy về mẫu quốc)

Giải: Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc.

[Doanh hư nguyên hữu số, Thịnh suy dã hữu vô]
(Đầy hay trống nguyên đã có số phận, Thịnh suy cũng như là có hay không)

Giải: “Doanh” chỉ đầy đủ, phong phú, “hư” chỉ  ‘trống rỗng, thiếu, suy nhược’, “thịnh suy”, “hữu vô” đều ám chỉ rằng đã có số phận, đã định.

[Linh Sơn tao hạo kiếp, Liệt hỏa đảo phù đào]
(Linh Sơn gặp nạn lớn, Lửa cháy như sóng gầm)

[Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm đào bất thoát]
(Kiếp kiếp kiếp, Tiên phàm chạy không thoát)

Giải: “Linh Sơn” là danh từ trong Phật giáo dùng để chỉ một ngọn núi lớn trong vũ trụ, là nơi mà các chư Phật, Đạo và Thần tụ hội. Chính Pháp trong vũ trụ vô cùng mạnh mẽ để thanh lý, đồng hóa và trùng tân vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Nó bao gồm cả ngọn núi “Linh Sơn”, thần tiên trên thiên thượng và người phàm đều không thể trốn thoát.

[Đông phong xuy tống thảo mộc ai]
(Gió Đông thổi đi thảo mộc bi ai)

Giải: Đảng Cộng sản (Trung Quốc) thường tự ví mình là “Đông phong” (ngọn gió Đông). Trong quá trình Chính Pháp, cựu thế lực đã sử dụng Đảng Cộng sản để bức hại Đại Pháp và thế nhân. Đảng Cộng sản coi người như cỏ rác (thảo “mộc”). Đồng thời, chữ “Mộc” còn dùng để chỉ người thuộc Mộc (Sư phụ của Pháp Luân Công). Trong cuộc bức hại tà ác, Trung Cộng đã sử dụng những thủ đoạn lừa dối để dân chúng phạm tội với Phật Pháp. Thật là bi ai! Giác Giả độ nhân thuộc Mộc cảm thấy bi ai khi nhìn thế nhân và chúng sinh các giới phạm tội với Đại Pháp.

[Hồng thủy thao thiên trục nhật lai]
(Dòng nước lớn cuộn trời hàng ngày tới)

Giải: Tà ác bức hại Đại Pháp tựa như hồng thủy mãnh thú, phô thiên cái địa hòng trấn áp những người tu luyện Pháp Luân Công. Chúng rất hung dữ và tàn bạo, nhưng vẫn không thể che khuất bầu trời và mặt trời.

[Lục căn vị tịnh tùy ba khứ]
(Sáu căn không tịnh thì tùy theo sóng mà cuốn trôi)

Giải: Những học viên với tâm chấp trước mạnh mẽ hay không tinh tấn học Pháp sẽ không được coi là người tu luyện chân chính; họ chỉ có thể bị cuốn đi trong khảo nghiệm.

[Chính quả năng tu vãng thiên đài]
(Có thể tu thành chính quả thì lên đài trên trời)

Giải: Chỉ những đệ tử Đại Pháp kiên định mới có thể thượng thiên, đạt viên mãn và đắc chính quả.

[Nhị tứ bát, Tam thất cửu]
(248, 379)

Giải: “2” cộng với “4” chỉ  “6”, theo Âm Lịch là chỉ ngày Mùng 8 tháng 6. Cuộc bức hại bắt đầu vào ngày 20/7/1999 (Ngày Mùng 8 tháng 6 năm 1999 Âm Lịch) cho tới mùa xuân của một năm nào đó. “397” có khả năng chỉ ngày 16 tháng 3 Âm Lịch.

[Họa nguyên chủng kỷ cửu]
(Căn nguyên của thảm họa là từ vạn cổ)

Giải: Điều này có thể chỉ: (1) quy luật vũ trụ “thành-trụ-hoại-diệt”; (2) nhân loại đã bị bại hoại theo thời gian và mất đi tiêu chuẩn đạo đức. Từ quan điểm này, ta thấy Đại Pháp vũ trụ bị can nhiễu, bức hại và chúng sinh đối mặt với nguy cơ bị đào thải.

[Dân tam dân thập dân tam thất, Cẩm tú hà sơn hoán nhất sắc]
(Dân ba dân mười dân ba bảy, Giang sơn gấm vóc đổi một màu)

Giải: Chỉ người tốt, người xấu và người được tiến nhập vị lai; Đại Pháp sẽ cấp cho nhân loại một nền văn hóa chân chính.

[Mã bất điểm đầu thạch trầm để, Hồng hoa khai tận bạch (hoàng) hoa khai, Tử kim sơn thượng mỹ nhân lai]
(Ngựa không gật đầu đá chìm xuống tận đáy, Hoa đỏ nở hết thì hoa vàng nở, Mỹ nhân đến nơi ngọn núi tía)

Giải: Nếu cuộc bức hại Pháp Luân Công không kết thúc vào năm Ngựa, hòn đá màu đỏ sẽ trầm xuống. ‘Hồng hoa khai tận’ chỉ Đảng Cộng sản sẽ chết mà không thể hồi sinh. “Hoàng hoa khai” chỉ các học viên Pháp Luân Công thường mặc bộ quần áo sắc vàng của Phật gia. Pháp Luân Đại Pháp sẽ mang đến cho nhân loại sự phồn vinh và nền văn hóa mới. “Tử kim sơn” là chỉ Bắc Kinh và “mỹ nhân lai” có nghĩa ai đó đến từ Mỹ quốc.

[Nhất tai hoán nhất tai, Nhất hại hoán nhất hại]
(Hết tai họa này đến tai họa khác, hết bất hạnh này đến bất hạnh khác)

Giải: Đảng Cộng sản sẽ phải nhận quả báo, cái này nối tiếp cái khác để trả giá cho tất cả các cuộc vận động chính trị từ trước đến nay, bao gồm cả cuộc bức hại Pháp Luân Công.

[Thập cửu giai nhân ngũ ngũ tuế, Địa linh nhân kiệt sản tân quý]
(19 giai nhân tuổi 55, đất linh sinh hào kiệt mới)

[Anh hùng bạt tận thạch trung mao, Huyết lưu tiêu can vạn nhân hào]
(Anh hùng nhổ sạch lông trong đá, Máu chảy cọc tiêu vạn người gào)

[Đầu sinh giác, nhãn sinh quang. Thứ dân bất dụng hoảng]
(Đầu mọc sừng, mắt phóng quang; Dân đen không cần hoảng sợ)

[Quốc vận hưng long thời nhật đáo, Tứ thời hạ chủng thái bình lương]
(Ngày mà vận nước hưng vượng đã tới, Bốn mùa gieo hạt lương thực thái bình)

Giải: Những sự tình sẽ phát sinh trong tương lai.

[Nhất khí sát nhân thiên thiên vạn, Đại dương tàn bạo quá sài lang]
(Một khí giết người nghìn nghìn vạn, Dê lớn tàn bạo hơn lang sói)

Giải: “Đại dương” là chỉ năm 2003 (năm con dê). “Nhất khí” là chỉ một bệnh dịch, không nhìn thấy nhưng liên quan đến đường hô hấp. Bệnh dịch có thể cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người (dịch bệnh SARS năm 2003).

[Khinh khí động sơn nhạc, Nhất tuyến thiết nan đương]
(Khí nhẹ chấn động cả núi cao, Một sợi dây sắt cũng khó mà chịu nổi)

Giải: Bệnh dịch di chuyển trong không khí, làm Trung Quốc (và cả thế giới) rung chuyển và khiếp hãi, tình hình dịch bệnh là rất nghiêm trọng. ‘Nhất tuyến thiết nan đương’, không có cách nào để phòng ngừa.

[Nhân phùng mãnh hổ nan huýnh tị, Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang]
(Người gặp hổ dữ thì khó mà tránh được, Người có phúc phận thì sống ở sơn trang)

[Phồn hoa thị, Biến uông dương]
(Đô thị phồn hoa chìm trong biển nước mênh mông)

[Cao lâu các, Biến nê cương]
(Nhà lầu cao trở thành đống đổ nát trong bùn lầy)

Giải: “Mãnh hổ” ở đây là để chỉ Giang Trạch Dân, người sinh năm Hổ, với bản tính tàn bạo và trí trá. Cuộc bức hại Pháp Luân Công của Giang gây ra tai ương và thảm họa cho con người. Sự bạo ngược cũng như con hổ, quan chức không hành thiện và nhân dân chịu khổ. “Hữu phúc chi nhân trụ sơn trang” ám chỉ những người lương thiện, chính trực sẽ không chịu hùa vào với chế độ của Giang.

“Phồn hoa thị”, “cao lâu các” tượng trưng cho đất nước Trung Quốc hiện đại bao phủ bởi cái vỏ phồn vinh giả tạo. “Biến uông dương”, “biến nê cương” làm chúng ta nhớ lại điều được mô tả trong sách Khải Huyền của Thánh Kinh về sự sụp đổ của thành Babylon lớn. “Thành Babylon lớn” ám chỉ Bắc Kinh với vẻ phồn vinh hư giả.

[Phụ mẫu tử, Nan mai táng]
(Phụ mẫu chết, khó mai táng)

[Đa nương tử, Nhân tôn giang]
(Cha mẹ chết, con cháu khiêng)

[Vạn vật đồng tao kiếp, Trùng nghĩ diệc tao ương]
(Vạn vật cùng chịu kiếp, Sâu kiến cũng tai ương)

Giải: Khi Pháp Chính Nhân Gian, những kẻ tội lỗi sẽ bị hủy diệt bởi ôn dịch, lũ lụt, lửa và nhiều tai ương khác. Đó sẽ là một cảnh tượng vô cùng đau khổ.

[Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ, Điểu phi dương tẩu phản gia bang]
(May được hai cành gỗ lớn chống đỡ cho lâu đài, Dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà)

[Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, Trạch cập quần sinh lạc thả khang]
(May gặp Mộc Thỏ thì được thọ, Chúng sinh vui mừng mà khỏe mạnh)

[Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, Phú quý vinh hoa bách thế xương]
(Ai biết được ý tứ ở trong đó thì phú quý vinh hoa thịnh vượng trăm đời)

Giải: “Đại mộc lưỡng điều” hợp thành một chữ “lâm” (林), đồng thời có xuất hiện “Mộc” (木), tức “Mộc” trong Ngũ Hành; mà “Mộc Thỏ”, cũng thuộc Ngũ Hành. “Mộc”, chỉ năm Thỏ xuất sinh Đại Giác Giả độ nhân. Điểm này nhiều dự ngôn đã có đề cập rồi. Như dự ngôn của Bộ Hư Đại Sư tiên tri về vị Thánh nhân giáng thế thời mạt pháp là “Tương tương Ngọc Thỏ tiệm Đông thăng” (Thỏ Ngọc dần dần thăng lên từ phương Đông); trong dự ngôn “Cách Am Di Lục” của Hàn Quốc nói: “Thế mạt Thánh quân Mộc nhân”  (Thánh nhân thuộc Mộc thời mạt thế), “Hà Mộc thượng cú mưu kiến tự” (Nhìn thấy chữ ‘Mộc’ ở câu trên hãy lo tính), “Dục tri sinh mệnh xứ tâm giác” (Muốn hiểu biết về sinh mệnh hãy lo tỉnh giác), “Kim cưu Mộc Thỏ ” (Chim cưu vàng Thỏ Mộc); trong “Trịnh Giám Lục” (một cuốn sách tiên tri nổi tiếng khác của Hàn Quốc) xác minh: “Ký ngữ thế gian Độc Giác sĩ, Tu tùng bạch Thỏ tẩu thanh lâm” (Lời nhắn để lại cho thế gian bởi Giác Giả tự ngộ, bám theo Thỏ trắng mà bước vào rừng xanh); “thanh lâm”, đối ứng “đại Mộc lưỡng điều” ở trên, ở đây chỉ tu luyện. Tất cả những điều này đều tiên tri về ông Lý Hồng Chí truyền xuất Pháp Luân Đại Pháp, Đại Pháp Đại Đạo cứu độ chúng sinh. Người thường không tu luyện, nếu thiện đãi với Đại Pháp và đệ tử Đại Pháp, cũng sẽ được phúc báo.

[Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, Xa thủy mã long cánh tịch hiêu]
(Nhà lầu chọc trời lớp lớp tới tận mây xanh, Giao thông nhộn nhịp càng ầm ĩ về đêm)

[Thiển thủy lý ngư chung hữu nạn, Bách tải phồn hoa nhất mộng tiêu]
(Như cá mắc nạn trong ao nước cạn, Trăm năm phồn hoa tiêu như giấc mộng)

Giải: Chỉ sự phồn hoa bề ngoài của Trung Cộng thực ra chỉ là giả tạo và không thể trường cửu. Một khi phán xét cuối cùng ập tới, tất cả lừa dối và giả tượng sẽ bị quét sạch. Những người thiện lương sẽ tiến nhập vào thời đại mới.

Xem thêm:

>> Phá giải mới nhất «Kim Lăng tháp bi văn» của Lưu Bá Ôn

Dịch từ:

http://zhengjian.org/zj/articles/2003/6/19/22142.html
http://www.pureinsight.org/node/1764